Lời Chúa: Is 50,5-9a; Gc 2,14-18; Mc 8,27-35
MỤC LỤC
Tin trước tiên là tin ở một con người. Không chỉ là biết con người đó là ai, biết một cách chung chung, khách quan theo lý lịch hay qua một sự điều tra có tính cách khoa học, mà chính là biết được người đó là gì đối với chính bản thân và cuộc đời của mình. Như thế, tin đích thực không chỉ là thái độ của trí óc mà còn là thái độ của con tim.
Trong lòng tin của người Kitô hữu, con người đó chính là Chúa Giêsu. Vì thế, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không hỏi các tông đồ phải bình luận những điều Ngài giảng dạy đúng hay sai, cũng như nói lại những gì các ông đã thu hoạch được trong giáo huấn của Ngài. Nhưng chúng ta thấy Ngài yêu cầu các ông nói lên chính Ngài là ai. Các ông đã lặp lại ý kiến của các người khác về Ngài, nhưng Chúa Giêsu chưa cho thế là đủ, Ngài còn đòi các ông phải tự mình trả lời câu hỏi Ngài là ai.
Tin đối với người Kitô hữu, chính là tự đặt mình vào trong mối quan hệ với Đức Kitô và hành động theo những đòi hỏi của mối quan hệ này. Lòng tin của người Kitô hữu bao hàm một sự gắn bó với Đức Kitô như con đường của sự thật, của sự sống, bao hàm việc đi theo Ngài, dù phải ngang qua đau khổ và thập giá. Con đường Chúa Giêsu đã đi vốn là con đường thập giá. Như thế, chưa có thể gọi được là tin đích thực nếu như chưa có một sự biến đổi trong cuộc sống, chưa có những hành động kèm theo điều chúng ta tuyên xưng.
Phêrô đã bị quở trách một cách nặng nề, bởi vì, mặc dầu ông đã tuyên xưng đúng Thầy của mình là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, nhưng chẳng những đã không đi theo Thầy, mà còn muốn ngăn cản Thầy đi con đường của Thầy. Chỉ có thái độ sống hay hành động mới chứng thực cho sự chân thật của lòng tin.
Miệng nói mà chân tay không làm theo thì đúng là kẻ giả hình. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa khi Ngài gọi họ là những mả tô vôi. Nói một đàng, làm một nẻo, thì đúng là kẻ gian dối. Có những người rao giảng sự ưu tiên cho người nghèo, nhưng trong thái độ thì lại trọng người giàu, đi với người giàu, làm theo người giàu, và coi nhẹ người nghèo. Có kẻ lập luận thì xem ra tiến bộ lắm, nhưng hành động thì lại đầy tính cách bảo thủ, cha chú, độc đoán.
Những trường hợp như thế là một kinh nghiệm thường ngày của chúng ta và phải là một lời cảnh cáo đối với mọi người. Một Phêrô cản ngăn Thầy mình đi Giêrusalem ngay sau khi tuyên xưng lòng tin nơi Thầy như đang còn tiềm ẩn trong thẳm sâu cõi lòng của mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Kể từ khi xuất hiện trong cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã trở nên một vấn đề thời sự nóng bỏng, làm cho người ta phải bàn tán xôn xao.
Dân làng Nadarét đã thầm nghĩ: Ngài chẳng phải là con bác phó mộc, Mẹ Ngài và anh em Ngài chẳng phải là những người đang sống giữa chúng ta đó sao? Bởi đâu mà Ngài lại làm được những việc lạ lùng như vậy? Hêrôđê cũng đã thắc mắc: Gioan thì trẫm đã chém đầu, còn người này là ai mà lại thực hiện được những việc kỳ diệu đến thế? Còn dân chúng, người thì bảo Ngài là tiên tri Elia, hay một tiên tri nào đó. Kẻ thì nói Ngài là Gioan Tiền Hô.
Trước những luồng dư luận khác biệt như vậy, Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ phải xác định lập trường của mình, nên đã lên tiếng hỏi: Còn các con, các con bảo Ta là ai? Phêrô thay mặt cho nhóm 12 đã tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Và như thế, Phêrô đã tuyên xưng đức tin bằng lời nói.
Liền sau đó, Chúa Giêsu tiên báo cho các ông về cuộc tử nạn của Ngài. Và lần này, Phêrô đã lên tiếng can ngăn và đã bị Chúa quở trách nặng lời: Hỡi Satan, hãy xéo đi, vì tư tưởng của ngươi chỉ là tư tưởng của loài người, chứ không phải là của Chúa. Và như vậy, mặc dù ông đã tuyên xưng đức tin bằng lời nói, nhưng rốt cuộc ông đã không tuyên xưng bằng việc làm, bằng chính cuộc sống của mình.
Với chúng ta cũng vậy, hằng ngày chúng ta vốn thường làm dấu thánh giá, đọc kinh Tín Kính và kinh Sáng Danh, chúng ta tuyên xưng những mầu nhiệm chính trong đạo. Tuy nhiên, đó mới chỉ là tuyên xưng bằng lời nói mà thôi. Còn việc làm và cuộc sống của chúng ta thì sao? Rất có thể lúc này chúng ta mới chỉ tuyên xưng đức tin bằng lời nói, bằng miệng lưỡi, chứ chưa hề tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống. Bởi vì bản thân chúng ta còn chìm trong tội lỗi, con người chúng ta còn đang chối từ thập giá để chạy theo ý riêng.
Do đó, cần phải kiểm điểm lại cuộc sống xem chúng ta đã tuyên xưng đức tin của mình như thế nào? Để giúp chúng ta trở nên môn đệ của Chúa cũng như tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống, Chúa Giêsu đã đưa ra hai điểm chính yếu:
Điểm thứ nhất, đó là hãy từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ tất cả những tư tưởng, lời nói và việc làm đi ngược với thánh ý Chúa, từ bỏ con người cũ với những tội lỗi để mặc lấy con người mới với tinh thần của Chúa.
Điểm thứ hai đó là hãy vác lấy thập giá mình. Nghĩa là hãy chấp nhận những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải, bởi vì chính những hy sinh gian khổ này, tuy âm thầm và nhỏ bé, sẽ kết thành cây thập giá đời thường, Chúa muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, “Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” (Mc 8, 27-28)
Như thế, người Do-thái đồng thời với Chúa Giêsu không biết đích xác Người là ai. Họ tưởng Người chính là Gio-an Tẩy Giả bị Hê-rô-đê trảm quyết nay sống lại. Có kẻ thì tưởng lầm Người là ngôn sứ Êlia xưa kia được đưa lên trời nay lại giáng lâm. Kẻ khác thì cho rằng Người là một ngôn sứ nào đó.
Sau khi nghe các môn đệ cho biết dư luận quần chúng về mình, Chúa Giêsu quay sang hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.” (Mc 8, 29)
Thế là ngoài Phêrô, dường như chẳng ai biết được chân tướng của Chúa Giêsu. Phêrô quả có phúc lớn vì được biết căn tính của Thầy mình.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đặt lại câu hỏi nầy với mỗi người chúng ta. Người muốn chúng ta bày tỏ nhận định ta có về Người: “Về phần con, Thầy là ai đối với con?”
Khi câu hỏi nầy được đặt ra với một nhóm thanh niên đang ngồi tận ngoài cổng nhà thờ sáng chúa nhật, vừa hút thuốc vừa dự lễ, thì họ trả lời qua khói thuốc: “Đối với chúng tôi, Chúa Giêsu là một vị Thẩm Phán khắt khe, hay bắt bẻ những người phạm luật. Dù chẳng yêu mến gì Chúa Giêsu, nhưng vì sợ bị khép vào tội bỏ lễ chúa nhật, nên chúng tôi miễn cưỡng đến ngồi đây dự lễ.”
Khi câu hỏi nầy được nêu ra với một số doanh nhân tất bật với việc làm ăn buôn bán, thì họ trả lời rằng: “Đối với chúng tôi, Chúa Giêsu là một ông Thần Tài. Dù chẳng yêu mến gì ổng, nhưng chúng tôi biết đối xử sòng phẳng với ổng. Nếu ổng phù hộ chúng tôi ăn nên làm ra, thì chúng tôi còn đặt ổng lên bàn thờ, có nhang đèn hẳn hoi. Nếu ổng không giúp chúng tôi phát đạt, chúng tôi mời ổng đi chỗ khác.”
Khi câu hỏi nầy được nêu lên với một nhóm người khác đang theo đuổi lạc thú, họ đáp: “Chúa Giêsu là ai ư? Thật tình chẳng mấy khi chúng tôi nghĩ đến. Điều đó chẳng đáng quan tâm. Có lẽ khi nào chúng tôi già yếu, lâm bệnh nguy kịch, hoặc gặp gian nan khốn đốn trong cuộc đời, chúng tôi sẽ tìm đến với Người… Vâng, lúc đó, chúng tôi sẽ thành khẩn kêu cầu Người như những người đi biển gặp nạn cần đến tấm phao cứu sinh!”
Thế là đối với nhiều người, Thiên Chúa chỉ là vị Thẩm Phán khắt khe, một Thần Tài xa lạ hay đơn giản chỉ là một tấm phao cứu sinh hay là một nô bộc phục dịch con người. Đúng như lời Chúa Giêsu: “dân nầy tôn kính Ta ngoài môi miệng còn lòng chúng thì quá xa cách Ta.” (Mc 7,6)
Thiên Chúa đau buồn biết bao khi đoàn con yêu dấu của Người nhận định về Người như thế.
Khi thấy dân chúng chẳng hiểu căn tính của mình, ngay cả các môn đệ cũng chẳng biết Đấng Kitô là ai, Chúa Giêsu liền bày tỏ cho họ biết Người chính là Đức Kitô, nhưng không phải là một “Đức Kitô vinh thắng” chinh phục các lân bang và báo thù cho dân riêng của Chúa như người Do-thái mong đợi, nhưng là một “Đức Kitô nhẫn nhục” hiến mạng sống mình chết thay cho muôn dân. Người tỏ cho môn đệ biết: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại.” (Mc 8,31)
Thế đó, Đức Kitô là Đấng yêu thương chúng ta hết lòng hết sức trên hết mọi sự, yêu đến nỗi đã hiến mạng vì ta. “Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của Người chết vì bạn hữu mình.”
Vậy mà tiếc thay, nhiều người không nhận ra tình yêu vô biên của Chúa nên xem Người như kẻ xa lạ, không dành cho Người một chỗ đứng trong trái tim mình, trong cuộc đời mình. Đối với một số người, có Chúa cũng như không.
Dostoievsky, văn hào vĩ đại nhất của nước Nga vào thế kỷ 19, đã tôn Đức Giêsu làm Thần Tượng của mình và đã tuyên xưng:
“Đối với tôi, không có gì đẹp đẽ, sâu xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Kitô, và hơn thế nữa, dù có ai chứng minh với tôi rằng Đức Kitô ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn ở lại với Đức Kitô hơn là chiều theo chân lý”. (Thư gửi bà Von Vizine)
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu hôm nay Chúa đến và hỏi: Về phần con, con bảo Thầy là ai, thì con xin thưa:
Chúa là Đấng đã nộp mình chịu chết để đền tội cho con. Chúa đã hy sinh đời mình cho con được sống. Chúa là Đấng yêu thương con hết lòng hết sức trên hết mọi sự.
Vì thế, con xin chọn Chúa làm Thần Tượng của đời con. Con xin dành chỗ nhất cho Chúa trong trái tim con.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một thời người ta đổ xô nhau đi tìm đọc quyển sách “Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu”. Nhiều người cho rằng quyển sách này đã viết đúng tâm lý của con người, vì tác giả đã mô tả Chúa Giêsu như một con người thực sự, có khác chăng là người đã vượt thắng được cám dỗ cho tới giờ phút cuối cùng.
Quyển sách “cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu” mô tả về một chàng trai Giêsu đầy sức sống. Đẹp trai và nhiều tài năng. Có một thiếu nữ rất xinh đẹp đã đem lòng yêu mến chàng, tên là Madalêna. Thế nhưng, tình yêu đã không đem lại cho chàng hạnh phúc. Chàng luôn bị thôi thúc bởi một tiếng gọi cao siêu, vượt trên cuộc sống tầm thường như bao bao người khác. Chàng quyết định từ bỏ người yêu và ra đi rao giảng về một Tin mừng có thể đem lại cho con người hạnh phúc đời này và đời sau. Mađalêna thất tình đã buông trôi cuộc đời trong chốn lầu xanh tội lỗi. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng cao siêu. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng cao siêu, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Và sau đó gục đầu tắt thở.
Tác giả đã dựa vào tâm lý chung của con người để viết về nhân tính của Chúa Giêsu. Một con người bình thường, sinh ra, lớn lên, rung cảm với tình yêu đầu đời, nhưng ở chàng thanh niên Giêsu đã từ khước tiếng nói của con tim để theo đuổi một lý tưởng cao siêu. Điều này đáng được con người kính trọng. Nhưng đáng tiếc, lý tưởng đó bị người đời khước từ vì không thực tế, và cho dù cuộc sống của Ngài được nhiều người kính trọng nhưng người ta lại không muốn sống theo lối sống của Ngài.
Thực vậy, con người ngày hôm qua cũng như hôm nay, luôn cần tiền, cần tiện nghi, cần địa vị và cần cuộc sống bất tử để hưởng thụ mãi hạnh phúc ở chốn gian trần. Vì thế, người ta không chấp nhận đường lối của Chúa Giêsu, vì phương thế này không thoả mãn nhu cầu vật chất của con người. Có chăng, họ chỉ kính trọng một Giêsu thánh thiện, một vĩ nhân của nhân loại, nhưng đạo của Ngài thiết lập chẳng giúp ích gì cho cuộc sống thường ngày của họ. Đôi khi còn trở thành gánh nặng khiến họ không thể tuân giữ giới răn của Người. Đôi khi họ còn coi Chúa Giêsu là nguyên nhân gây nên phiền toái cho họ.
Có người nói rằng theo đạo làm chi, phải đi lễ hằng ngày, hằng tuần, ngủ cho sướng.
Có người nói rằng theo đạo làm chi để bị ràng buộc bởi quá nhiều lề luật.
Có người cho rằng theo đạo phải giữ luật công bằng thì làm sao làm ăn có lời, có lãi.
Có những bà mẹ cho rằng nếu giữ đúng luật Chúa thì gia đình sẽ mất hạnh phúc, con cái sinh ra ai sẽ nuôi cho nổi.
Có biết bao cuộc đời là có bấy nhiêu khó khăn. Càng khó khăn người ta lại đổ tội cho Chúa. Vì Chúa mà họ thiệt thòi. Vì Chúa mà họ phải sống nghèo đói. Vì Chúa mà họ phải thua kém bạn bè. Xem ra phần đông nhân loại nhìn Chúa như một quan toà, một cảnh sát chỉ để ngăn cấm và xét đoán. Và rồi, họ nhìn biết bao nhiêu người không có đạo vẫn sống hạnh phúc, đôi khi lại giầu có hơn mình, có địa vị hơn mình…
Phải, phần đông nhân loại đã nhìn Chúa Giêsu như vậy. Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Chúa Giêsu vẫn tôn trọng tự do của các môn đệ. Ngài vẫn hằng tôn trọng tự do của chúng ta hôm nay. Ngài vẫn đòi hòi triệt để những kẻ tin theo Ngài phải từ bỏ, phải hy sinh vác thập giá, phải đi qua cửa hẹp và phải sống thanh thoát với của cải trần gian. Nghĩa là Ngài vẫn đòi hỏi chúng ta phải sống vượt lên trên nhu cầu thể xác tầm thường, phải sống làm chủ bản năng của mình bằng hy sinh, khổ chế để sống như những con người tự do đích thực. Không bị những đam mê danh lợi thú ràng buộc. Không bị những cám dỗ tội lỗi làm mất lương tri, mất phẩm giá cao qúy của con người.
Với những đòi hỏi đó, phải có cái nhìn đức tin như Phêrô mới có thể bỏ mọi sự mà theo Thầy, mới có thể tuân giữ lời Thầy và sống gắn gó mật thiết với Thầy. Phêrô và các môn đệ đã nhìn thấy Thầy là Chúa, là Đấng hằng sống và các ông còn hiểu rằng: ai bước đi theo Ngài sẽ không phải chết đời đời. Các ông đã dám đánh đổi cuộc đời này để đổi lấy hạnh phúc bất diệt đời sau. Các ông đã dám khước từ vinh hoa phú qúy đời này để lãnh triều thiên vinh hiển ngày mai.
Vâng cuộc đời này sẽ đi qua. Tiền tài, danh vọng, lạc thú tất cả chỉ là phù vân. Cái chết sẽ làm chúng ta đoạn tuyệt tất cả. Nếu cuộc đời chết là hết thì chẳng có gì đáng nói. Nếu chết là hết thì cuộc đời là một thảm hoạ đối với bản thân và đồng loại. Người ta đâu cần rèn luyện tài đức. Người ta chỉ cần hơn thiên hạ. Người ta chỉ cần vun quén cho bản thân, và mặc xác đồng loại. Cuộc sống sẽ là một bãi chiến trường mà con người là nguyên nhân và cũng là hậu quả của tất cả khổ đau. Nhưng cuộc đời không dừng lại ở cái chết. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra sự sống vĩnh cửu. Và ở cõi đời đời con người đau khổ hay hạnh phúc lại tuỳ thuộc ở cuộc đời hôm nay. Vì thế, nếu bạn chọn sự sống đời đời phải từ bỏ tham sân si, từ bỏ mọi đam mê bất chính. Từ bỏ đòi hy sinh, đòi khổ chế để vượt thắng cám dỗ. Các tông đồ đã vượt thắng tất cả vì tin rằng Chúa là Đường là sự thật, là sự sống. Các Ngài đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, còn chúng ta có dám vì sự sống bất diệt ngày mai bên Chúa để can đảm từ khước những đam mê bất chính, những bon chen danh lợi thú để sống theo giáo huấn của Chúa hay không? Hạnh phúc hay đau khổ còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của chúng ta hôm nay?
Ước gì chúng ta có cái nhìn đức tin như Phêrô để làm chứng cho thế giới hưởng thụ hôm nay về một cuộc sống hạnh phúc trường sinh mai sau. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Thành ngữ Việt Nam có câu: “Giàu vì bạn, sang vì vợ”. Lời nói của người xưa đã thành một chân lý. Con người ai cũng cần một người bạn tri kỷ để có thể chia sẻ vui buồn có nhau, và nhất là để giúp nhau vượt qua khó khăn. Một người bạn chân thành không chỉ đến bên ta khi vui, khi thành công mà còn là người không rời bỏ ta khi buồn, lúc lâm nguy hay khi thất bại, khi những người xung quanh đã rời bỏ ta mà đi. Và ta gọi đó là một người bạn- một người bạn thân, một người bạn thật sự. Và ta tin rằng: “Bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”.
Ở xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang, ai cũng biết câu chuyện cảm động về em Đoàn Trường Sinh 10 năm cõng bạn đến trường. Quãng đường tư nhà Sinh đến trường dài hơn 4 ki-lô-mét, qua đèo, vượt suối, khúc khuỷu, ghập ghềnh. Thế mà Sinh không quản khó khăn ngày ngày cõng bạn Hanh bị liệt cả hai chân đi về. Nhờ bạn giúp đỡ, lại có chí học hành, nhiều năm liền, Hanh là học sinh tiên tiến, có năm còn tham gia đội tuyển học sinh giỏi cấp huyện.
Tình bạn chân thật thì luôn có nhau trong lúc khó khăn, gian nguy. Vui sướng, giầu sang ở bên nhau thì dễ. Hoạn nạn ở bên nhau mới là tình bạn đáng quý. Cuộc đời có vay có trả. Bạn đã cho ta niềm vui thì khi bạn gặp khó khăn ta hoàn trả cho bạn là lẽ công bằng. Bởi vì, như ai đó đã nói:
“Lẽ nào vay mà không trả?
Sống là cho, đâu chỉ nhận cho riêng mình.”
Các môn đệ năm xưa đi theo Chúa. Chắc chắn các ngài đã được Chúa yêu thương đùm bọc. Chúa Giê-su còn coi các môn đệ là bạn hữu chứ không phải là tôi tớ. Các môn đệ đã được cùng chia sẻ niềm vui hạnh phúc với Chúa trong những lúc thành công trên đường truyền giáo.
Hôm nay, Chúa đòi các ông thể hiện tình bạn với Chúa không phải lúc Chúa được tung hô khi hóa bánh ra nhiều, hay khi cỡi lừa tiến vào thành Giê-ru-sa-lem. Chúa đòi các môn đệ thể hiện tình bạn trên chặng đường thập giá để tới Núi Sọ. Chúa bảo rằng: “Ai muốn theo Thầy, thì phải vác thập giá hằng ngày mà theo Thầy”. Khi dám theo Chúa trên con đường thập giá thì Chúa sẽ ban phần thưởng sự sống đời đời cho họ. “Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống”.
Nhưng xem ra tình bạn chân thành với Chúa chẳng mấy ai! Khi Chúa đi vào vườn cây Dầu đã chịu cảnh cô đơn một mình. Các bạn bè Chúa vẫn ngủ mê. Khi Chúa bị bắt trói thì các môn đệ mạnh ai nấy chạy. Khi Chúa bị dẫn vào dinh Cai-pha thì Phê-rô trối Chúa 3 lần. Khi Chúa vác thập giá lên Núi Sọ chỉ còn một mình Gioan bước theo xa xa.
Xem ra tình bạn với Chúa chỉ có khi nhận được ân huệ của Ngài. Tình người thật hay thay trắng đổi đen. Thế nên, cuộc đời vẫn còn đó những người tôn thờ Chúa khi giầu sang, khi làm ăn thịnh vượng nhưng rồi họ bỏ Chúa khi làm ăn thất bại nợ nần. Cuộc đời vẫn còn đó những người theo Chúa chỉ để mong được sống sung sướng, và rời xa Chúa khi mộng ước của họ không thành.
Xem ra Chúa Giê-su vẫn cô đơn trong dòng đời hôm nay. Ngài rất cần một người bạn tri kỷ như Gioan để đứng bên Chúa khi khó khăn. Ngài vẫn cần sự đồng cảm như Madalena để đi theo Chúa trên đường thập giá.
Ước mong mỗi người chúng ta hãy chỉnh đốn lại cách sống, cách nghĩ của mình với Chúa. Hãy đến với Chúa không phải vì bổng lộc mà vì tin tưởng vào quyền năng của Chúa để phó thác cho Chúa. Hãy ở lại bên Chúa dầu cuộc sống còn nhiều những khó khăn. Hãy vác thập giá theo Chúa dầu thiệt thòi đời nay nhưng Chúa sẽ ban thưởng cho ta bằng nhiều cách khác nhau, nhất là hạnh phúc thiên đường. Amen.
Người ta bảo Thầy là ai? Qua câu hỏi này, phải chăng Chúa Giêsu đã khởi sự quan tâm tới dư luận của quần chúng về Ngài? Hay Ngài muốn làm một cuộc thăm dò ý kiến về kết quả công việc Ngài đã làm? Không phải là như vậy. Ở đây, Chúa Giêsu muốn chuẩn bị các môn đệ của Ngài đón nhận những điều Ngài sắp nói với các ông về điểm then chốt của sứ mạng Ngài và cũng là điểm khó nuốt đối với mọi người.
Dư luận, như các môn đệ ghi nhận được, tuy chưa rõ đích xác Ngài là ai nhưng cũng tỏ ra đã thấy được những điểm khác người trong giáo huấn và trong hành động của Ngài. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu muốn nhắm tới ở đây chính là việc các môn đệ bày tỏ ý kiến của mình về Ngài. Do dó mà Ngài mới đạt thêm câu hỏi thứ hai: Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Tin không phải là lặp lại ý kiến, lập trường của kẻ khác mà là biểu lộ chính ý kiến, chính lập trường của mình. Phêrô đã trả lời đúng câu hỏi Chúa Giêsu đã đặt ra: Thầy là Đức Kitô. Qua câu trả lời, Phêrô đã tuyên xưng lòng tin của ông nơi Thầy mình. Ông đã nhận ra được Thầy mình là ai.
Nhưng sự việc diễn ra sau đó lại chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng lòng tin của Phêrô chưa trọn vẹn. Ông mới chỉ có những hiểu biết đúng về Thầy. Thực ra, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định, chẳng phải tự ông đã biết được Ngài là Đức Kitô, mà là do Chúa Cha mà ông biết được điều đó. Lòng tin ấy, sự hiểu biết ấy chỉ trọn vẹn khi ông chấp nhận đi con đường Chúa Giêsu đang chuẩn bị đi tức là con đường cứu độ, con đường thập giá.
Và ở điểm này, Phêrô đã vấp ngã thật nặng nề, bởi vì ông đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, không phải bằng cái nhìn của Thiên Chúa, hay đúng hơn, theo như Ngài hoạch định, mà là bằng chính cái nhìn của ông, theo cách tính toán của ông. Lời can ngăn của Phêrô đã trở thành việc cản trở chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện. Phêrô không muốn Thầy mình bị bắt, bị giết đi trong khi chính Chúa Giêsu lại thấy rằng đó là con đường Ngài phải đi. Đó là con đường của Ngài và đó cũng là con đường của những ai muốn theo Ngài, muốn trở nên môn đệ của Ngài.
Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Câu hỏi này vẫn tiếp tục được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay. Và chúng ta có thể như Phêrô, đã trả lời đúng câu hỏi của Ngài với tất cả vốn liếng về Thánh Kinh và thần học, về giáo lý của chúng ta. Thế nhưng trong hành động thì sao? Phải chăng trong hành động chúng ta đã là những người ngăn cản việc thực hiện chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa bằng thái độ khước từ đau khổ, khước từ thập giá mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày.
Môn đệ theo Chúa Giêsu được tuyển chọn đặc biệt, được yêu thương cách riêng. Các ông đã đi theo Chúa Giêsu nên đã từng nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến nhiều phép lạ… Vì thế, hôm nay Chúa Giêsu cho các ông làm bài kiểm tra, để tỏ ra lòng tin, mến mức độ nào đối với Chúa Giêsu.
Thoạt tiên, Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc thăm dò xem người khác nói về Ngài như thế nào? Ngài hỏi họ “người ta bảo Con Người là ai?”. Nhiều ý kiến khác nhau: “Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8, 28). Như thế, dân chúng đã thấy được một số nét căn bản nơi Con Người Giêsu. Nơi giáo huấn của Ngài người ta thấy được sức sống và sự siêu thoát khỏi những ràng buộc vô lý của lề luật. Thế nhưng điều quan trọng không chỉ biết đúng mà còn phải biết đủ về Chúa Giêsu nữa: “Ngài chính là Con Thiên Chúa thật làm người thật”.
Dân chúng đã nhận định về Chúa Giêsu như thế. Bây giờ đến lượt các tông đồ, Chúa Giêsu muốn các ông trả lời cách xác tín về Ngài và về sứ vụ của Ngài nên Ngài hỏi: “Các con nói Thầy là ai?”. Đứng trước câu hỏi này, các ông không ngỡ ngàng lắm vì họ đã sống với Ngài lâu rồi, thấy nhiều phép lạ rồi, nghe giảng nhiều rồi. Đây là dịp để các ông bày tỏ niềm tin vào Ngài thôi. Vì thế, Phêrô thay mặt anh em trả lời với Chúa Giêsu: “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa Hằng Sống” (Mc 8, 29). Câu trả lời này của Phêrô làm cho Chúa Giêsu rất hài lòng. Phải, Thầy là Đức Kitô, chính là Đấng Thiên Sai mà các tiên tri đã loan báo, mà muôn dân đợi trông. Thật thế, chính những người bệnh tật được Ngài chữa lành, người chết được ngài cho sống lại, kẻ tôi lỗi được ngài tha thứ và ban bình an, niềm hạnh phúc thật sự, hết mọi người được nghe loan báo…Tất cả những dữ kiện đó há chẳng phải của Đấng Thiên Sai, chẳng phải được ban trong thời Thiên Chúa cứu độ mà các tiên tri loan báo (x. Lc 4, 18 – 24). Không những Ngài trao ban cho họ sự sống thể lý, vật chất mà Ngài còn trao ban cho họ chính sự sống của Ngài, sự sống thần linh, sự sống đời đời, sự sống mà chỉ có Thiên chúa là chủ tể sự sống mới có và trao ban được mà thôi. Quả thật người Do Thái thời Chúa Giêsu quá hạnh phúc vì chứng kiến và thừa hưởng tình thương, ân sủng và ơn cứu độ của Thiên Chúa một cách tỏ tường. Chính vì thế mà Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa Hằng Sống”
Đến lượt chúng ta, ngày nay Chúa Giêsu đang cần chúng ta trả lời, trả lời Ngài là ai trong đời sống hằng ngày sống giữa anh chị em chúng ta? Hẳn thật đây là câu hỏi giúp chúng ta kiểm điểm niềm tin và thái độ sống của mình. Có thật chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường sống không? Và chúng ta đáp trả lại như thế nào?. Hơn nữa, cách sống của chúng ta có làm người ta nhận ra chúng ta là người Kitô không? Chúng ta đã thật sự sống vai trò của người môn đệ, của người thụ ơn Thiên Chúa. Chúng ta có dám rao giảng và can đảm làm chứng có Thiên Chúa hiện diện trong thế giới này, trong bản thân mỗi người chúng ta chưa? Chúng ta có thật sự sống trao ban tình thương mà chúng ta đã nhận lãnh hết từ ơn này đến ơn khác của Thiên Chúa chưa? Thật thế, sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào, gặp gỡ bất cứ ai, chúng ta hãy thể hiện cho người ta nhận ra chúng ta là người Kitô không, là người được Thiên Chúa yêu thương. Chúng ta hãy can dảm và sẵn sàng yêu thương như Chúa yêu bởi vì chúng ta nhìn nhận rằng: tất cả những gì tôi có đều nhờ bởi ơn Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tin mạnh mẽ vào Ngài và can đảm sống chứng nhân về tình yêu thương của Ngài giữa đời trong cuộc sống chúng con đang hiện diện với mọi người. Amen.
Kinh nghiệm cho thấy: Đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người. Giáo lý nhà Phật thì cho rằng: Đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Tuy nhiên, đau khổ không phải chỉ là một cái gì đáng nguyền rủa và lẩn tránh, trái lại nó còn có một giá trị tích cực, đem lại nhiều lợi ích cho chúng ta như tục ngữ đã bảo: Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Hay như Khổng Tử cũng đã bảo: Ngọc không dũa không sáng, người không bị gian nan thử thách, thì cũng khó mà trở nên hoàn thiện.
Cũng trong chiều hướng ấy mà Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Sau đây tôi xin đưa ra một vài trường hợp cụ thể để nói lên sự thật ấy.
Trường hợp thứ nhất là của O’Neill. Mãi đến năm 23 tuổi, ông vẫn còn là một kẻ thất bại, sống không mục đích, không định hướng, không kỷ luật. Thế rồi ông bị đau và chính nhờ thời gian nằm điều trị tại bệnh viện, ông mới có được dịp may để suy nghĩ và định hướng cho cuộc đời mình. Ông đã khám phá ra tài năng soạn kịch của ông, để rồi ông đã trở thành một người nổi tiếng.
Trường hợp thứ hai là của bà Golda Meir. Lúc ban đầu bà rất thất vọng vì mình chỉ là một cô gái trời bắt xấu. Thế nhưng về sau, bà mới nhận ra rằng: không được đẹp đối với bà lại là một may mắn, bởi vì điều đó đòi buộc bà phải phát triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng bà hiểu ra rằng phụ nữ không được ỷ lại vào sắc đẹp của mình, nhưng trái lại phải làm việc chăm chỉ, nhờ đó mang lại lợi ích cho bản thân. Nói cách khác, bà đã biết chấp nhận thập giá của mình, can đảm vác nó lên vai để rồi cuối cùng bà đã trở thành vị nữ thủ tướng đầu tiên của người Do Thái.
Một tác giả nổi tiếng, Oscar Wilde đã viết: Đau khổ chính là mảnh đất thánh. Đức Kitô không thể đi vào tâm hồn chúng ta bằng nẻo đường nào khác ngoài trái tim đã tan nát.
Từ những kinh nghiệm trên, chúng ta đi tới kết luận: Cuộc đời không phải lúc nào cũng chỉ là một mầu hồng, trái lại rất nhiều khi nó bị nhuộm bởi một màu đen với những đau khổ và cay đắng.
Tuy nhiên, dưới ánh sáng Phúc âm, thì đau khổ không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc và hủy diệt, bởi vì nó có thể trở nên một nguồn sống. Thiên Chúa thường dùng khổ đau để biến đổi chúng ta thành người tốt lành hơn, thánh thiện hơn, khiêm nhường hơn, cảm thông hơn. Đau khổ có thể mở mắt cho chúng ta thấy được cuộc đời tốt đẹp hơn là chúng ta đã từng mơ ước.
Ngoài ra, đau khổ sẽ giúp chúng ta nhận ra bàn tay yêu thương của Thiên Chúa bởi vì giữa ánh nắng chói chang của mặt trời, chúng ta không thể nào nhìn thấy những vì sao. Trái lại, vào những đêm khuya tăm tối chúng ta sẽ dễ dàng thấy được những ánh sao trên bầu trời. Cũng vậy, nhiều người trong chúng ta đã tìm thấy Chúa giữa những đêm đen của khổ đau, mà trong những lúc hạnh phúc chói chang họ đã quên lãng Ngài. Hãy biết đón nhận thập giá cuộc đời, bởi vì mọi sự đều là hồng ân.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Trong bài Tin mừng này, thánh Marcô trình bày cho ta thấy có ba mức độ nhận biết về Đức Giêsu.
Dân chúng coi Đức Giêsu là một tiên tri, nên họ đến với Người để cầu khấn hơn là tin lời Người. Họ xin chữa bệnh, trừ quỷ, cứu đói, cho kẻ chết sống lại, như vậy, họ đến với Đức Giêsu vì ích lợi cho họ, không vì theo Chúa. Họ ích kỷ, vị kỷ, không có lòng vị tha, xả kỷ. Họ giống như kẻ theo đạo kiếm gạo mà ăn, cầu lợi, cầu phúc. Không được lợi, được phúc là chán, rồi bỏ đạo.
Những kẻ như thế, không thể nhận ra Người là Đấng Kitô.
Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Môisen, như Đavít. Như Môisen, Đức Kitô sẽ giải thoát họ khỏi nô lệ đế quốc La mã. Như Đavít, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời vua Salomon. Cho nên, Đức Kitô được tôn vinh là Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thuở, Hoàng tử hòa bình, danh Người siêu việt, sự việc Người đã lừng vang trên toàn cõi đất, Người là Đấng Thánh của Israel và nước Người tồn tại đến vô cùng tận (Tv. 11 và 12).
Phêrô và các môn đệ đã nhiễm lây quan niệm về một Đức Kitô vinh quang như thế, nên khi thấy Đức Giêsu lên Giêrusalem, bà mẹ hai môn đệ Gioan và Giacôbê đến xin cho con mình: “Một ngồi bên hữu, một ngồi bên tả trong nước Người”. Còn Phêrô, khi nghe Thầy báo sẽ phải bị bắt, bị giết, ông đã kéo Người ra và can ngăn Người đừng dại dột thế. Đức Giêsu đã trách mắng Phêrô: “Satan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của Anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt. 16, 22-23).
Đó là sứ mệnh cốt yếu của Đức Kitô: Hy sinh khiến mạng sống mình chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập nước trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào nước Trời muôn thuở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế nhân đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào” (Ga. 3, 16-18. 15, 13).
Chỉ có con đường hy sinh như thế mới chứng tỏ tình yêu vô cùng quảng đại và vị tha, mới cho ta thấy được Đức Kitô là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu độ trần gian. Còn những con đường cầu lợi, cầu danh, cầu vinh trần gian chỉ là giả dối, ích kỷ, hẹp hòi. Cho nên, không lạ gì, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta phải tin vào con đường tình yêu hy sinh xả thân đó: “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai hiến mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin mừng, thì sẽ được mạng sống ấy”.
Đó là thứ “lửa thử vàng, gian nan thử đức”. “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Không một thánh nhân nào mà không để cho Thánh Thần nung nấu. Không một vĩ nhân nào mà không trải qua gian nan.
Phêrô và các môn đệ đã cảm nghiệm thấm thía thánh giá của Đức Kitô trên đỉnh đồi Canvê, nhờ thế các ông đã vác thập giá của mình cho đến hơi thở cuối cùng trên đỉnh đồi Vatican.
Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa đã trả lời cho con biết: Người là Đức Kitô đã hy sinh chịu đau khổ, chịu chết vì con. Xin cho con biết trả lời cho Chúa: Con là Kitô hữu đang vác thập giá mình mà theo Chúa, chứ không phải là thứ môn đệ chỉ xin ngồi bên tả, bên hữu, chỉ đòi vinh quang cầu lợi, cầu phúc, cầu cứu mạng sống mình mà chẳng biết hy sinh chút nào! Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhận biết Người là ngôn sứ để con lắng nghe lời Chúa, chứ không phải để cầu lợi, cầu phúc. Người là vua để cai trị lòng con, chứ không để xin địa vị danh vọng. Người là Đức Kitô chịu chết trên thánh giá, để con được vác thập giá theo Chúa, chứ không để cứu mạng con ở đời này.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Đã đến lúc Chúa Giêsu cần làm một cuộc thăm dò dư luận (kiểu mini bỏ túi) để biết quan điểm của dân chúng và đặc biệt là của các môn đệ thân tín về căn tính đích thực của Ngài. Dân chúng xem ra còn hoài nghi nên có nhiều ý kiến trái ngược.
Một số người cho rằng Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả. Dựa vào đâu mà họ quả quyết như thế? Họ dựa vào sự kiện Chúa Giêsu cũng làm phép rửa và cũng kêu gọi người ta sám hối như Gioan. Câu trả lời của họ đúng hay sai? Chỉ đúng 1/4.
Một số khác lại nghĩ rằng Chúa Giêsu là Êlia. Tại sao lại là Êlia? Chúa Giêsu có điểm nào giống Êlia? Vì Chúa Giêsu cũng là người hay làm phép lạ như Êlia đã từng làm. Lời khẳng định của họ đúng hay sai? Đúng nhưng cũng chỉ mới đúng 1/4.
Một số khác nữa lại khẳng định Chúa Giêsu là một ngôn sứ đại loại như bất kỳ một ngôn sứ nào khác. Vì sao? Vì họ thấy Chúa Giêsu cũng nói lời của Thiên Chúa, nói nhân danh Giavê Thiên Chúa mà thôi. Khẳng định này cũng chỉ đúng có 1/4.
Đến đây thì Chúa Giêsu muốn nghe một ý kiến khác, ý kiến của chính các môn đệ là những mgười đã từng sống gần gũi thân mật với Ngài. Phêrô đại diện các Tông đồ tuyên xưng cách mạnh mẽ và dứt khoát rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Đây là câu trả lời mà Chúa Giêsu chờ đợi từ lâu, và cũng là câu trả lời làm hài lòng Ngài nhất.
Tuy nhiên xét cho cùng thì câu trả lời này cũng chỉ đúng 1/2, tức là mới chỉ đúng một nửa. Đúng về mặt danh xưng, tức là tước hiệu của Đức Giêsu: Đấng Kitô nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đấng Kitô nghĩa là Đấng thiên sai đến để hoàn tất lịch sử mà mọi người trông đợi. Nếu chỉ dựa vào khía cạnh này mà cho điểm, có lẽ Phêrô sẽ được điểm tuyệt đối, điểm 10/10.
Còn hiểu về sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu thì Phêrô bị lãnh điểm zêrô. Vì ông đã hiểu sai hoàn toàn về cách thức cứu thế, về phương thế cứu độ mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện. Trong tâm thức của Phêrô và của đại đa số dân chúng thì họ vẫn mong đợi một Đấng Cứu Thế uy nghi ngự giá mây trời mà đến như sứ ngôn Đaniel đã loan báo. Họ vẫn trông chờ một Đấng Thiên Sai Vua theo kiểu trần thế, đấng đến làm cách mạng lật đổ ách thống trị của Rôma và tái lập một Israael hùng cường. Nói khác đi, họ vẫn còn quan niệm một Đấng Mêsia đến để thống trị hơn là để phục vụ.
Đâu là lý chứng khẳng định Phêrô đã sai về sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu? Lý chứng đó là Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở trách khi ông căn ngăn Chúa về con đường cứu thế mà Ngài sẽ đi. Chúa Giêsu quở trách ông là Satan. Ngài cũng điểm chỉ cho Phêrô thấy rằng tư tưởng của ông là tư tưởng của người trần mắt thịt chứ không phải là của Thiên Chúa.
Thế thì con đường cứu thế mà Chúa Giêsu sẽ đi là con đường nào? Đó là con đường đau khổ, con đường thập giá: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại”. Đó là con đường của người tôi trung mà ngôn sứ Isaia đã loan báo như chúng ta vừa nghe trong bài đọc I. Đó là con đường phục vụ, con đường hiến dâng: “Ta đến không phải để được phục vụ nhưng đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhiều người”. Con đường đó cũng là con đường mà tất cả những ai muốn theo Ngài sẽ phải đi: “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”…
Hôm nay Đức Kitô đối với tôi là ai? Phải chăng Ngài chỉ là một thần tượng như bao thần tượng khác, hay khá hơn Ngài chỉ là một siêu nhân? Nếu tôi tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất đã đi con đường thập giá tử nạn, con đường hi sinh phục vụ, thì tôi cũng phải đi con đường ấy. Vậy tôi đã chọn lựa con đường mà Chúa Giêsu đã đi hay chưa? Và nếu tôi đã dứt khoát lựa chọn rồi, thế thì tôi đã can đảm bước theo Ngài chưa hay còn chần chừ e sợ?
Một câu chuyện xem ra bi hài sau ít phút.
Thoạt đầu, trên đường đi, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Thầy là ai?” Nghe câu hỏi của Thầy, các môn đệ liền đáp: “Thưa là Gioan Tẩy Giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri”.
Đó là câu hỏi cũng như câu trả lời của đám đông môn đệ. Với những môn đệ thân tín thì lại khác: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?”
Nghe câu hỏi thật thân thương của Thầy, Phêrô lên tiếng đáp: “Thầy là Ðấng Kitô”.
Nghe lời đáp rất chính xác của Phêrô, Chúa đã nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả.
Sau đó, còn riêng với các ông thì phải, Chúa Giêsu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó.
Nghe xong những lời xem ra chói tai và khó chịu, vốn cộc tính và thẳng tính, Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Tưởng chừng được khen, được tôn minh nhưng nào ngời Chúa đã quay lại nhìn các môn đệ và chỉ thẳng mặt Phêrô trách rằng: “Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”.
Giận lắm nhưng rồi cũng cho qua bởi lẽ Chúa nói như thế hy vọng Phêrô sẽ hiểu căn tính, mục đích của Thầy khi Thầy đến thế gian. Và sau đó, Chúa Giêsu tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình”.
Không biết phản ứng của Phêrô lúc này như thế nào nhưng quả thật là quá sốc! Sốc bởi vì cứ tưởng rằng đi theo Chúa sẽ được điều này điều kia như lối nghĩ bình thường của đời con ngường nhưng hóa ra rằng theo Chúa thì phải từ bỏ chính mình và phải vác thập giá!
Thập giá là gì? Chắc có lẽ không cần phải nói nhiều thì ai ai cũng hiệu đó chính là dụng cụ, là cái để người ta treo người phạm án tử lên trên đó. Trước khi bước lên cây thập giá để chịu án tử thì người thi hành án phải vác thập giá của mình đến nơi thi hành án như ta đã thấy trong vụ án của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ cũng như thân tín của Ngài về cuộc đời, về số phận của Ngài đó là Ngài đến trong trần gian, sống trong trần gian, sống cho trần gian nhưng cuối cùng trần gian đã đưa Ngài lên trên cây thập giá để treo nhưng không treo theo tư cách, kiểu cách bình thường mà là theo cung cách của một tên trộm cướp.
Chúa Giêsu hoàn toàn vô tội bị treo giữa 2 tên trộm cướp đó mới là điều để chúng ta suy nghĩ. Và, đau khổ, bi đát hơn nữa đó chính là những con người có tội lại cam tâm để treo con người vô tội lên trên cây thập giá và con người vô tội đã xin vâng cho đến tận cùng.
Thánh Phaolô tông đồ trong thư gửi giáo đoàn Philipphê đã nói về thân phận của người Chúa Giêsu:
Ngài, phận là phận của một vì Thiên Chúa,
nhưng Ngài đã không nghĩ phải giằng cho được
chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa.
Song Ngài đã hủy mình ra không,
là lĩnh lấy thân phận tôi đòi,
trở thành giống hẳn người ta;
đem thân đội lốt người phàm,
Ngài đã hạ mình thấp hèn,
trở thành vâng phục cho đến chết,
và là cái chết thập giá! (Pl 2, 6-8)
Ngôn sứ Isaia cũng đã nói lên hình ảnh của Chúa Giêsu từ thuở trước: Thiên Chúa đã mở tai tôi mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không che mặt giấu mày, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi.
Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Ðấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh tụng với tôi được? Chúng ta hầu toà, ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây! Này đây Chúa là Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?
Cuộc đời của chúng ta, như Chúa nói là những môn đệ của Chúa, ta cũng được mời gọi để vác thập giá bước theo chân Chúa. Ai vác thập giá theo chân Ta mới xứng đáng là môn đệ của Ta.
Chúa đã khẳng định điều này không phải là một lần nhưng nhiều làn khi Chúa nói về con đường thập giá, thánh giá mà Chúa đã vác.
Thật sự trong cuộc sống, chẳng ai mong muốn mình phải vác thập giá cả vì nghe đến thập giá thì ai ai cũng cảm thấy đó là điều bi đát đến tột cùng. Thế nhưng, để trở thành người môn đệ của Chúa, khong có còn cách nào khác là ta được mời gọi để vác thập giá theo Chúa mỗi ngày.
Một câu chuyện hết sức dễ thương mà tôi được mẹ tôi kể lại ngày còn bé.
Chuyện là có người kia đến với Chúa và than thở với Chúa là không biết tại sao mà Chúa lại gửi thánh giá cho người đó nặng như thế. Nghe nói thế, Chúa cho người đó vào vườn thánh giá và tha hồ lựa chọn cũng như đổi. Đi một vòng thật lâu qua tất cả các thánh giá, người đó reo lên rằng đã tìm dược cây thánh giá phù hợp với mình. Khi nghe nói thế, Chúa Giêsu đơn giản nói với người đó rằng cây thánh giá đó chính là cây thánh giá ban đầu, thánh giá mà Chúa trao ban cho người đó.
Nói như thế, câu chuyện kể như vậy để nhắc nhớ ta về thập gái đời mình. Chúa không bao giờ để ch ta vác thập giá nặng quá sức của chúng ta.
Và rồi, chỉ có cách duy nhất là ta hãy đến với Chúa và nhìn lên thập giá Chúa cũng như xin Chúa thêm ơn để ta ngày mỗi ngày đủ sức để vác thập giá đời mình theo Chúa cho đến giây phút cuối cuộc đời. Hẳn nhiên là mình ta và khả năng của ta thì không thể nào ta có đủ khả năng để vác thập giá nhưng với ơn Chúa, nhờ ơn Chúa và trong ơn Chúa ta sẽ đủ sức để theo Chúa đến cùng trên con đường thập giá mà Chúa trao ban cho chúng ta.
Anh chị em thân mến
Có một đoàn lữ hành đặt biệt, đang vượt chặng đường dài với hành trang trên vai. Nhưng hành trang không phải bình thường, mà là, mỗi người mang một cây Thánh Giá. Địa hình của chặng đường khi thì bằng phẵng, khi thì rất khó khăn, nên mọi người đều thấm mệt. Trong số đó, có một người bổng có một suy nghĩ rất hay. Anh ta cắt bớt đi một phần của cây Thánh Giá. Cũng từ đó anh ta bước đi nhẹ nhàn thoải mái hơn bao nhiêu người khác. Anh ta rất hài lòng về sáng kiến của mình. Nhưng rồi, khi đến một con suối, không có phương tiện gì để vượt qua, mỗi người chỉ còn cách dùng cây Thánh Gia làm chiếc cầu để vượt qua, sau đó, vát Thánh Giá và tiếp tục lên đường. Còn cây Thánh Giá đã mất đi một phần, giờ đây không còn xử dụng được trong trường hợp nầy, nên chủ nhân của nó đành phải ngồi lại bên bờ vực, một mình, cô đơn mà nhìn mọi người từ từ rời xa mình.
“Mọi người chung quanh bảo Thầy là ai?” Tất cả mọi câu trả lời đều không được Chúa Giêsu chấp nhận. “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” — “Thầy là Đức Kitô”. Một câu trả lời được Chúa Giêsu chấp nhận. Nhưng rồi khi nghe Ngài nói về cuộc khổ nạn, thì cũng chính môi miệng đó, cũng chính con người đó, lại bị khiển trách nặng nề. Ngài gọi là satan có nghĩa là kẻ thù, vì đã ngăn cản việc làm của Thiên Chúa.
Phêrô đã theo Chúa Giêsu, nhìn thấy và biết những việc làm của Ngài. Oâng cũng mới vừa được khen, ông ngở rằng những gì ông suy tính đều tốt đẹp, nên ông muốn hướng dẫn Đấng ông vừa tuyên xưng là Đức Kitô đi theo con đường của ông. Oâng theo Chúa nhưng sợ con đường mà Ngài dẫn đi, sợ những hành trang mà Ngài trao cho. Theo Chúa nhưng ông muốn mang những hành trang của chính mình, đi trên con đường của riêng mình và ông đòi Chúa phải ở bên ông. May thay, lời quở trách đã làm ông thức tỉnh, bài học tiếp theo đã hướng dẫn và giúp ông đi đến nơi đến chốn bình an. “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”.
Tâm trạng của Phêrô, cũng là tâm trạng cuả mỗi ngưới chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng muốn tìm cho mình sự thoải mái, sung sướng cho thân xác. Chúng ta vẫn tự hào là người Công giáo. Chúng ta vẫn biết vác thập giá hàng ngày theo Chúa. Chúng ta biết rất rỏ những gì Thiên Chúa muốn nơi con người chúng ta. Đôi khi chúng ta còn tự hào vì mình luôn vác Thánh giá hằng ngày theo Chúa. Chính những lúc tự hào như thế, là những lúc chúng ta có hành động như Phêrô: kéo Ngài ra để khuyên can.
Cũng nhiều lần trong cuộc sống, Chúa Giêsu khiển trách chúng ta như đã khiển trách Phêrô ngày xưa. Phêrô biết lắng nghe, còn ngày nay, chúng ta vẫn phớt lờ, vẫn sống với niềm tự hào của chính mình và bước đi trong niềm tự hào đó.
Chúng ta vẫn sống, vẫn giữ đạo, hay nói cách khác là đang vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa. Nhưng coi chừng cây Thánh đã bị mất đi một phần. Bao nhiêu lần nó đã bị cắt mất đi vì những luồn lách của cuộc sống. Những lần thân xác được dung dưỡng để nó được thoải mái trong những cuộc vui không chính đáng. Những lần thân xác cảm thấy thỏa mản khi đạt được mục đích lợi nhuận mà bất cần đến sự chính đáng hay không chính đáng. Những lần chúng ta không chu toàn trách nhiệm chính đáng của một người trong xã hội, trách nhiệm của một người công giáo, trách nhiệm của mình trong gia đình, và với bao nhiêu người chung quanh. Đôi lúc chúng ta cũng mĩm cười mãn nguyện, vì cảm thấy mình khôn ngoan hơn bao nhiêu người khác vì những trò vặt như thế. Đó là những lần chúng ta đã cắt bớt đi Thánh giá cuộc đời của mình, để nó được nhẹ nhàn hơn. Chính những lúc thất bại, bị người đời chỉ trích, những lúc đó nếu biết lắng nghe, đó là lúc Chúa khiển trách và bảo chúng ta vác Thánh Giá hằng ngày theo Chú; những lúc đó Chúa cũng nói với chúng ta: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”. Nếu chúng ta không biết lặng thinh khiêm nhường cuối đầu nhận tội như Phêrô, thì chúng ta cũng sẽ không có được cuộc sống tốt đẹp như Ông.
Xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa, xin cho chúng ta biết chấp nhận cuộc sống để biết vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa cho đến cùng.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Đây là một điều kiện Chúa Giêsu đưa ra cho những ai muốn theo Chúa. Và ai muốn theo Chúa thì phải chấp nhận điều kiện của Chúa. Điều kiện đó là vác thập giá. Vác thập giá nghĩa là thế nào?
Thời Chúa Giêsu, vác thập giá là một cực hình khổ nhất, nhưng thông dụng nhất mà người Rôma đế quốc đã đem áp dụng ở Do thái. Vậy nói tới thập giá, đối với thời Chúa Giêsu, là một khổ hình và chắc chắn chết nhục nhã. Người nào vác thập giá là người bị đưa tới pháp trường để chịu đóng đinh mình vào thập giá đó. Vác thập giá lên vai có nghĩa là bắt đầu đi đến chỗ chết. Vác thập giá cũng có nghĩa là bắt đầu đau khổ thực sự. Vì thế, những đau khổ trong cuộc đời chính là thập giá Chúa bảo chúng ta phải vác mà đi theo Ngài. Đây chính là vấn đề chúng ta muốn hiểu biết: vấn đề đau khổ trong cuộc đời.
Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Cho nên, Kinh Thánh nói: “Đời là thung lũng nước mắt”. Đã là thung lũng nước mắt thì cũng là bể khổ, vì sao vậy? Xưa nay các nhà hiền triết đã nát óc đi tìm một câu trả lời thỏa đáng. Đức Phật Thích ca đi tu cũng vì muốn tìm một câu trả lời cho câu hỏi gai góc ấy.
Không hiểu lý do sự đau khổ, người ta tìm cách hủy diệt người đau khổ mà họ cho là chiếc gai phản tiến hóa. Đã có một thời chính phủ Nhật Bản ra lệnh tập trung tất cả những người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo nằm ở giữa biển Thái Bình Dương và tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo chứa đầy bệnh nhân ấy. Họ mắc bệnh nan y, họ không có quyền sống. Trong thế chiến thứ hai, nhà độc tài Hít-le đã ra lệnh cho giám đốc bệnh viện Bê-then thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh tâm thần, vì họ là thành phần vô dụng, ăn hại xã hội và quốc gia.
Không tin ở Thiên Chúa thì người ta không làm sao hiểu nổi vấn đề đau khổ. Và người ta có thể tuyệt vọng khi không làm sao tránh được đau khổ và bệnh tật. Văn hào vô thần Hen-ri đờ Mông-thơ-lan, thuộc hàn lâm viện Pháp, lúc về già, bị mù. Vì không chịu được sự đau khổ ấy, ông đã dùng súng lục bắn vào họng tự sát.
Vấn đề đau khổ, ai sẻ đem lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng? Chỉ có một Đấng là Chúa Giêsu mới có thể trả lời cho chúng ta. Và nhờ ánh sáng Tin Mừng của Chúa chúng ta mới hiểu được nguyên do của đau khổ, đó chính là tội lỗi. Đau khổ đã xuất hiện từ khi loài người bắt đầu phạm tội và sẽ còn mãi cho đến tận thế. Mở trang đầu của Kinh Thánh, chúng ta thấy Chúa dựng nên vạn vật, chim trời, cá biển, cầm thú và con người, rồi Kinh Thánh kết luận: “Mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, rất tốt đẹp”. Nhưng rồi chương trình tốt đẹp ấy đã bị đổ vỡ. Tội lỗi đã len vào thế gian. Và vì tội thì có sự chết nữa. Nghĩa là từ ngày nguyên tổ phạm tội thì đau khổ báo trước sự chết và sự chết đã ngự trị trên trần gian. Mỗi ngày có biết bao nhiêu tiếng khóc, có biết bao nhiêu dòng nước mắt. Mỗi ngày có hàng vạn ngườichết. Bản án còn vang lên: “Vì ngươi đã phạm tội thì trái đất sẽ sinh gai góc, ngươi phải làm ăn vất vả, đổ mồ hôi trán mới có ăn và ngươi là tro bụi thì sẽ hoàn về tro bụi”. Từ đó, đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt. Đau khổ là do tội lỗi phát sinh.
Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Nhờ sự chết và sống lại, Ngài đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Nhưng Ngài không cất đi hình phạt của tội lỗi là gian nan đau khổ. Hơn nữa, Ngài dùng đau khổ làm giá cứu chuộc chúng ta. Vì thế, đời sống Chúa Giêsu là một đời đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận. Ngài mong chờ nữa, vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.
Chúa đã chịu đau khổ để đền tội chúng ta, thì Ngài cũng thánh hóa sự đau khổ để nêu gương sáng cho chúng ta. Hơn nữa, Ngài lấy sự nhẫn nại chịu đau khổ như là một điều kiện để theo Ngài, để làm môn đệ của Ngài: ” Ai muốn theo tôi, hãy vác thập giá mình mà theo”. Từ đây không ai có thể tự hào là môn đệ Chúa mà không tham gia vào cuộc thương khó của Chúa, không vui lòng lãnh nhận phần đau khổ riêng tư của mình. Vì thế, khi gặp đau khổ, Chúa dạy chúng ta đừng buông xuôi, đừng thất vọng, đừng lồng lộn rủa trời, chửi đất mà hãy đến cầu xin với Chúa: “Hãy đến với tôi, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Nhóm 12, tức là các tông đồ, sau một thời gian dài được ở bên Chúa, được nghe những lời Chúa giảng dạy, và được chứng kiến những việc Chúa làm, nay đến lúc Chúa muốn các ông phải dứt khoát lập trường, phải bày tỏ lòng tin của các ông. Nhưng đây cũng là khúc quanh quan trọng: Chúa bắt đầu tỏ ra cho các môn đệ biết con đường đau khổ Ngài phải đi để hoàn thành sứ mạng. Bởi vậy việc ông Phê-rô tuyên xưng lòng tin và việc Chúa Giêsu báo trước con đường đau khổ của Ngài là một biến cố bản lề trong quá trình thi hành sứ mạng của Chúa cũng như trong quá trình huấn luyện các môn đệ, vì khi nói về con đường đau khổ của Ngài thì Chúa cũng nói về con đường mà những ai tin Ngài phải đi. Đó là nội dung bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ba điều rõ ràng: Thư nhất, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: dân chúng nói Ngài là ai và chính các ông nói Ngài là ai? Thứ hai, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết về con đường đau khổ của Ngài. Thứ ba, Chúa Giêsu cho biết đây cũng là con đường của các môn đệ và của mọi người khi đi theo Ngài. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu điều thứ nhất thôi.
Dân chúng nói Chúa Giêsu là ai và các môn đệ nói Chúa là ai? Từ hai câu hỏi của Chúa chúng ta có thể đặt ra hai câu hỏi cho chúng ta: chúng ta tự hỏi và tự trả lời: đối với tôi, Đức Kitô là ai? và đối với mọi người, tôi là ai? Trước hết, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Đây là một câu hỏi quan trọng, câu hỏi này dẫn chúng ta vào việc kiểm điểm niềm tin và cách sống của mình: có thật chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường sống không? Nếu tin như thế thì cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp, hay chúng ta vẫn tin một đàng, sống một nẻo, xem ra niềm tin và cuộc sống là hai thực thể tách rời nhau, không ăn nhập gì với nhau.
Có thể nói, đối với một số không nhỏ người Công giáo, thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung, mờ nhạt thuộc niềm tin. Vì thế, trả lời được câu hỏi: đối với tôi, Đức Kitô là ai? không phải chỉ là chuyện kiến thức, sách vở, lặp lại những gì đã đọc được trong sách báo hay nghe được qua các bài giảng, nhưng trả lời được câu hỏi ấy chính là chuyện của cuộc sống, của chọn lựa cá nhân thâm tín và dấn thân.
Chúng ta hãy nhìn vào ông Nây Am-troong, ông là một phi hành gia đầu tiên của Mỹ đã đặt chân lên mặt trăng ngày 20/07/1969. Khi còn là một sinh viên, ông đã ghi trong cuốn sổ tay câu hỏi của Chúa Giêsu: “Anh em bảo Thầy là ai?”, và ông đã trả lời: “Ngài là người không hề phạm tội, là người vị tha, là người biết quan tâm săn sóc kẻ khác, là người gần gũi Thiên Chúa”. Như vậy, ông Am-troong đã không trả lời theo thần học hay giáo lý cho câu hỏi “Anh em bảo thầy là ai?”, nhưng ông đã đưa ra câu trả lời của riêng mình, ông đã nhìn sâu vào tâm hồn mình và nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong cuộc sống riêng tư của ông.
Mỗi người chúng ta cũng phải làm giống như ông Am-troong, chúng ta cũng phải nhìn sâu trong tâm hồn mình để nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong chính cuộc sống của mình, và cảm nghiệm này mang tính riêng tư không ai giống ai. Vậy, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Nói chính xác hơn, mỗi người chúng ta hãy hỏi: “Hôm nay, đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi?”. Phải thêm hai chữ “hôm nay” và chữ “rồi” vào câu hỏi, bởi vì “hôm nay” chứ không phải hôm qua hay hôm nào khác, và chữ “rồi” cũng thật quan trọng, bởi vì có thể trong quá khứ, chúng ta đã gặp Ngài, đã yêu Ngài hết mình, nhưng rồi hôm nay, Ngài thì không thay đổi, nhưng tình chúng ta yêu Ngài có đổi thay chăng? Thế nên, mỗi ngày chúng ta phải tự hỏi để đừng bao giờ Đức Kitô trở thành kỷ niệm, chỉ còn là một niềm tin trong qua khứ, để đừng bao giờ bỏ Ngài lủi thủi bước bên cạnh đời chúng ta.
Câu hỏi thứ hai, đối mọi người, tôi là ai? Trong những dòng cuối của sứ điệp “Hòa bình dưới thế”, Đức cố Giáo hoàng Gio-an XXIII, được mệnh danh là vị Giáo hoàng nhân từ, dễ thương, đã đưa ra cho chúng ta một định nghĩa: thế nào là một người Kitô hữu chân chính như sau: “Mỗi người tín hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, là một tụ điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Nếu người tín hữu đóng trọn vai trò ấy, họ sẽ là người Kitô hữu chân chính”.
Sống trọn những cam kết trên quả thật người Kitô luôn là một thách thức, một câu hỏi, một sự hiện diện quấy rầy đối với mọi người. Thực vậy, một mảnh sao băng khi chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó. Một hạt men bé nhỏ, mất hút trong khối bột, nhưng cũng đủ sức làm dậy lên cả khối bột. Một thể hiện yêu thương, dù nhẹ nhàng đơn giản cũng đủ sưởi ấm cõi lòng, đủ sức chinh phục hay cảm hóa bất cứ người nào. Như thế đó, sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo được ảnh hưởng tốt cho người khác, với điều kiện họ phải sống đúng danh nghĩa người Kitô. Và như thế, qua cuộc sống của mình, sự hiện diện của chúng ta cũng luôn là một câu hỏi cho những người chung quanh, nghĩa là nhìn vào đời sống chúng ta, họ bảo chúng ta là ai?
Tóm lại, người ta có nhận ra tôi là người Kitô không? nghĩa là sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào, gặp gỡ với bất cứ ai, người ta có nhận ra chúng ta là người Kitô không? Không phải chúng ta tự xưng, tự giới thiệu mà cách sống của chúng ta khiến người khác phải đặt câu hỏi hoặc phải cảm phục đời sống tốt đẹp của chúng ta. Và như thế chúng ta đã trả lời được câu hỏi: đối với mọi người, tôi là ai? Tôi là một người Kitô hữu, đơn giản thế thôi.
“Một tháng sau, tôi bị gọi ra Viện Kiểm Sát Nhân Dân làm việc. Viện Kiểm Sát có chức năng điều tra xác minh dữ kiện để đưa ra Toà án. Lần đầu tiên và cả đời tôi chỉ có lần này mới biết Viện Kiểm Sát…. Chung quanh tôi độ ba chục giáo gian, tôi quen mặt một số vẫn đến nhà xứ đấu tranh. Ông Viện Trưởng cất tiếng hỏi:
– Ông có làm phép đạo cho anh này không (tôi không nhớ tên)?
– Tôi thưa: Có.
– Khi làm phép thì ông đã nói thế nào?
– Điều này luật đạo chúng tôi không được phép nói.
– Ông phải nói, vì đây là pháp luật đòi hỏi.
– Tôi không được phép nói, vì luật chúng tôi dạy rằng: khi giải tội thì không bao giờ được nói điều người ta nói với tôi, dù có phải chết cũng không được nói: đó là bí mật toà giải tội, chúng tôi phải giữ với giá mạng sống chúng tôi.
Họ cứ hỏi đi hỏi lại mãi, tôi vẫn chỉ thưa có một câu:
– Tôi không được phép nói.
Rồi họ hỏi hàng mấy chục câu hỏi vu vơ, trong đó có một câu quan trọng:
– Ông có tôn trọng chính quyền không?
– Có – luật đạo chúng tôi dạy điều ấy.
Cả một ngày thẩm vấn, chỉ có lời hỏi đáp đó là đàng hoàng.
Ông Viện Trưởng đọc lại biên bản để tôi ký. Khi đọc đến câu: ông có tôn trọng “chính quyền” không? thì ông ta lại hỏi: ông có tôn trọng luật pháp nhà nước không? Tôi ngắt lời ông ngay và nói: Ông không hỏi tôi thế. Nếu ông hỏi tôi ‘có tôn trọng luật pháp không’, thì tôi thưa khác”.
– Ông thưa khác thế nào?
– Nếu ông hỏi có tôn trọng chính quyền thì tôi thưa có và không điều kiện. Vì luật đạo dạy dù chính quyền là thế nào đi nữa, cũng phải tôn trọng. Còn nếu hỏi: Có tôn trọng luật pháp nhà nước không, thì tôi thưa khác.
– Thưa thế nào? Rồi ông ta giơ cao cuốn Hiến pháp lên:
– Đây luật pháp nhà nước, dù là Tổng thống, dù là Chủ tịch nước cũng phải tuân theo. Và ông ta trịnh trọng hơn nữa, hỏi khi dằn từng tiếng:
– Ông có tuân theo pháp luật nhà nước không?
Tôi cũng trịnh trọng và dằn từng tiếng:
– Tôi tôn trọng luật pháp nhà nước, khi luật pháp đó không ngược đạo lý chúng tôi.
Ông ta lại nói to hơn và dằn từng tiếng:
– Đây! Pháp luật nhà nước! Ông có tôn trọng không?
Tôi cũng dằn từng tiếng:
– Tôi tôn trọng khi luật pháp đó không có gì đi ngược với đạo lý chúng tôi. Còn nếu có điều gì ngược với đạo lý chúng tôi, lương tâm tôi không buộc phải theo.
– Thế nào là không hợp với lương tâm?
Tôi ví dụ:
– Ngày xưa vua chúa ra luật cấm đạo, thì dù có chết cũng không tuân luật vua chúa. Đó là cái chết của các Thánh Tử Đạo chúng tôi đó.
Ông Viện trưởng không còn gì mà nói. Tôi cũng thế…” (trích Hồi Ký của Cố Giám Mục Phaolô Lê Đắc Trọng, Phần Ba)
Tin Mừng Chúa Nhật 24 TN hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi: “”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.” Theo nhà chú giải Kinh Thánh, William Barclay, thì nguyên cụm chữ “từ bỏ mình” có thể được hiểu đơn giản theo nghĩa đen trong nguyên văn là “hãy nói không với chính mình.” Nếu ai muốn theo Chúa Giêsu thì luôn luôn phải trả lời “không” với chính mình và đáp “vâng” với Chúa. Đức cố Giám mục Phaolô Lê Đắc Trọng đã can đảm, khẳng khái nói không với chính ngài, để bảo vệ Tin Mừng được nguyên vẹn và thánh thiện tinh tuyền.
Nói không với bản thân
Kẻ nội thù trong mỗi người mới chính là kẻ thù dữ dội, khắc nghiệt nhất, hung hăng, ngoan cố nhất. Người ta có thể dễ dàng đánh thắng kẻ thù bên ngoài, nhưng lại dễ dàng chịu thua kẻ nội thù, đặc công ẩn náu ngay trong tâm can, suy nghĩ, lời nói và hành động của chính mình.
Bản năng sinh tồn chính là một kẻ nội thù, dễ dàng nghiễm nhiên trở thành ông chủ thân xác, chi phối hoàn toàn mọi hoạt động tinh thần, tình cảm lẫn hành vi ứng xử, giao tiếp thường nhật. Nếu không bị hạn chế quyền lực, thì kẻ nội thù này luôn tăng trưởng ngày thêm mạnh mẽ, hung bạo. Được voi đòi tiên. Chẳng bao giờ ngừng đòi hỏi được phục vụ. Bản năng bất chấp đạo lý, luật lệ. Vị kỷ, vị lợi, vô cảm với tha nhân đau khổ, đói khát, bệnh hoạn, cùng cực. Ăn no rồi đòi ăn ngon, có áo mặc rồi đòi mặc đẹp. Có nhà rồi đòi biệt thự xa hoa. Dứt khoát nói không với thân xác hưởng thụ, cũng như nói không với những dục vọng thấp hèn.
Đức Giêsu khuyên đừng quá nặng lòng với nhu cầu căn bản, mà hãy phó thác vào Chúa Quan Phòng, để sống công chính, tìm đến Nước Chúa: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6, 31-33)
Nói không với cám dỗ
Hai cám dỗ thông thường và phổ biến nhất trong cuộc đời mỗi người là tiền và tình, đã khiến bao người khốn đốn, lao đao quỵ ngã. Đức Giêsu đã ân cần cảnh báo và khuyên nhủ mọi người hãy dứt khoát nói không với đam mê tiền của: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì người sắm sẵn đó, sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.” (Lc 12, 20-21)
Người cũng thật gay gắt nói không với tình: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hỏa ngục. “ (Mt 5, 29-30)
Nói không với đời
Với đời, ai cũng muốn tìm kiếm danh phận, chức tước, bổng lộc, quyền hành. Nhưng Đức Giêsu khuyên ai muốn theo Người, thì hãy nói không với những phù vân nhất thời chóng qua, như bóng câu qua cửa sổ, như bóng mây qua thềm. Với Người, quyền hành lãnh đạo không phải để lạm dụng, vụ lợi cho mình, cho gia đình, thân nhân mình, mà để phục vụ mọi người:”Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”.(Mc 9, 35)
Nói không với đời là không bon chen, đua đòi, chạy theo những giá trị nhất thời của thế gian, mà dám lội ngược dòng, quyết vâng theo Bát Phúc của Đức Giêsu: “Nghèo khó, hiền lành, đau khổ, thiện tâm, bác ái, trong sạch, nhân hòa và chịu bách hại.”
“Chúa Giêsu rõ ràng quyết liệt:“Ai muốn theo Ta hãy…(Mt 10, 38) Đường lối sáng tỏ, tiếng gọi không úp mở.” (Đường Hy Vọng, số 63)
Lạy Chúa Giêsu, qua Bí tích Rửa tội, chúng con được trở thành con chiên của Chúa, được phúc nhận biết Chúa, được nghe Chúa dạy bảo và mời gọi qua Tin Mừng, nhưng chúng con còn quá nặng nề xác thịt, còn mãi vương vấn, đắm đuối theo thế gian. Xin ban cho chúng con yêu mến Chúa tha thiết nồng nàn hơn, để có thể từ bỏ mình, vác thập giá, mà quyết tâm theo Chúa đến cùng.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con can đảm, dám nói không với chính mình, để noi theo gương Mẹ, thân thưa hai chữ “Xin Vâng”, đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sau lời tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29) Phêrô cùng các môn đệ bị Thầy cấm không được nói với bất cứ ai về Thầy. Liền sau lời cấm là bài học về chính Thầy, Đấng Mêssia: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều…bị giết đi” (Mc 8, 31). Vì không chấp nhận nên Phêrô đã bị khiển trách nặng nề bởi ông đã bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế: “Satan, hãy lui đi, vì người không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người” (Mc 8, 33).
Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được Thiên Chúa. Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu, thực sự họ không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời hay là thần thánh gì hết, họ là những con người bằng xương bằng thịt với đức tính và khuyết điểm như chúng ta. Có thế họ mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.
Vậy, đâu là ý Thiên Chúa?
Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ hiểu rằng “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8, 31). Chương trình trên làm đảo lộn tâm hồn các môn đệ. Làm sao “Ðấng Kitô” (Mc 8,) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới: “Kéo Người lui ra mà can trách Người” (Mc 8, 32). Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận thập giá.
Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha. Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời trách đuổi Phêrô: “Satan, hãy lui đi ” (Mc 8, 33).
Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, lúc ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Người.
Theo Chúa phải từ bỏ
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: ” Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8, 34).
Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?
Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu yêu cầu là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đi và sống trong hy vọng.
Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không đòi chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là“, nhưng điều “chúng ta đã trở nên“. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, bao phủ trên hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất“, ngược với “ảnh trên trời“, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta“, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.
Kierkegaard đã lấy một ví dụ: Hai người trẻ ngôn ngữ khác nhau yêu nhau. Muốn cho tình yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông kết luận, điều này chỉ xảy ra giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói thứ ngôn ngữ xác thịt, Chúa nói thứ ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình yêu.
Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao tiếp với Chúa. Chúng ta sẽ không có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không” với chúng ta.
Theo Chúa là chấp nhận thập giá
Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình“, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình“, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).
Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, “chịu mất mạng sống” (Mc 8,) là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận… chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo” (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Ðức Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại” (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).
Lạy Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã đến thế gian chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng con, chúng con xin theo Chúa, nhưng xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ chính mình và vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Xin gia tăng lòng tin yêu Chúa nơi chúng con, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Amen.
Cuộc sống chúng ta, nhất là giới trẻ, ngày hôm nay giới trẻ chạy theo một nền trào lưu, một nền văn hóa đó là văn hóa thần tượng.
Người thích đá banh thì chọn cho mình người nào mà mình thích làm thần tượng cho mình, người thích ca nhạc thì cũng sẽ tìm cho mình một ca sĩ để làm thần tượng, người thích xem phim thì sẽ chọn cho mình một diễn viên điện ảnh nào đó hot để làm thần tượng. Điều này, xem ra thì cũng có lý đó nhưng rồi những ngôi sao ca nhạc, ngôi sao đá banh, ngôi sao điện ảnh đến một lúc nào đó cũng sẽ chìm vào quên lãng để nhường ngôi cho người khác. Thế rồi những thần tượng mà xưa kia người ta tôn lên sẽ chợt tắt, và cứ như thế mãi, thần tượng cứ mãi vần xoay vì lẽ chẳng ai có thể tồn tại mãi trong cõi đời này.
Tất cả những ngôi sao mà người ta chọn đó vẫn chỉ là con người để rồi không thể tồn tại mãi, không bền vững như người ta tưởng.
Thần tượng, vẫn là sự tự do lựa chọn của mỗi người, chẳng ai có quyền ép người khác chọn cho mình thần tượng.
Ngày hôm nay, trong câu chuyện của thầy Giêsu với các môn đệ chúng ta cũng nghe Chúa Giêsu chất vấn các môn đệ của mình về Thầy: “Người ta nói Thầy là ai?”. Các môn đệ đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Và, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ thì Phêrô trả lời ngay: “Thầy là Đấng Kitô”.
Thế đấy! Đi theo Thầy, ở chung với Thầy, sống chung với Thầy nhưng người ta không nhận ra để rồi định nghĩa không đúng hay không dám định nghĩa hay không dám nói về Thầy của mình. Thật là chán! Chỉ có mình Phêrô can đảm nói về Chúa Giêsu.
Sau đó, Chúa bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại.
Nghe những lời đó xong thì ông Phêrô liền kéo riêng Chúa ra và bắt đầu trách Chúa thế nhưng Chúa lại trách ngược lại Phêrô: “Xatan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.
Như thế, thêm một chuyện nữa là xác nhận Chúa Giêsu là một chuyện nhưng Chúa Giêsu đó là ai trong cuộc đời là chuyện khác. Giêsu thật sự được Isaia vẽ lên trong trang sách mà chúng ta vừa nghe:
Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.
Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,
vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên.
Ai tranh tụng với tôi?
Cùng nhau ta hầu toà!
Ai muốn kiện cáo tôi?
Cứ thử đến đây coi! Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,
ai còn dám kết tội?
Một hình ảnh Giêsu, một hình ảnh thần tượng như thế nghe xong cũng sẽ phản ứng như Phêrô là kéo Thầy ra để bảo Thầy đừng làm như thế nghĩa là lên Giêrusalem chịu đau khổ. Nếu như phản ứng như thế cũng chỉ là phản ứng, suy nghĩ của thế gian. Phản ứng, suy nghĩ của những người có niềm tin vào Chúa sẽ là người đi theo con đường khổ nạn của Thầy Chí Thánh vì lẽ chỉ có con đường thập giá mới đạt đến vinh quang như Thầy của mình.
Ngày hôm nay, nếu có mặt ở đây, Chúa Giêsu cũng sẽ hỏi chúng ta rằng người ta bảo Chúa là ai và ta, ta sẽ trả lời với Chúa rằng Chúa là ai trong cuộc đời chúng ta. Ngày hôm nay, cũng có nhiều người tuyên tín vào Chúa Giêsu nhưng chỉ tuyên tín ngoài môi ngoài miệng. Niềm tin như Thánh Giacôbê trong trang thư của Ngài mà chúng ta vừa nghe không phải ở môi miệng nhưng ở hành động: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: “Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin.
Rõ ràng tin là hành động chứ không chỉ dừng lại ở lời tuyên tín.
Với khả năng hạn hẹp cũng như yếu đuối của mình, con người thường dừng lại ở lời tuyên tín hay chỉ ở trên môi miệng. Khoảng cách từ miệng đến bàn tay quả là xa. Nói yêu Chúa, tin Chúa thì dễ nhưng thực hành lời yêu thương không phải là chuyện giản đơn.
Những lời yêu thương, những lời trao nhau niềm tin chúng ta vẫn thường nghe hàng ngày, hàng giờ và thậm chí ngay bản thân chúng ta vẫn nói lời tin yêu đó nhưng lời nói đó thực hiện được như thế nào hay nó chỉ ở bờ môi chót lưỡi mà thôi. Điều nghịch lý là ai trong chúng ta cũng mong những lời nói thành hiện thực nhưng chúng ta lại không thực hiện.
Và với con người bất nhất đó, chúng ta cứ mãi tôn thờ và chạy theo thần tượng nào khác như thần tượng ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên để lấp vào thần tượng căn cốt trong đời chúng ta. Tệ hơn những thần tượng nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên… chúng ta chạy theo thần tượng là tiền, là danh, là vọng. Mà, thật sự chẳng cần phải nói nhiều ai ai trong chúng ta cũng biết những thần tượng đó chỉ là phù vân, bạc bẽo, mau qua chóng tàn…
Cứ nhìn kỹ lại, tất cả những thần tượng vật chất, con người ấy thật mau qua chóng tàn vô cùng. Mỗi người chúng ta, ngày mỗi ngày lại già thêm một tuổi, lại cứ phải gần đất xa trời thêm một tí và thử nhìn lại xem, tất cả chẳng là gì cả. Phù vân và tất cả cũng chỉ là phù vân thôi.
Xin cho chúng ta học nơi tấm gương của Thánh Phêrô là tuyên tín Thầy mình cũng như đã sống niềm tin ấy trọn vẹn. Vẫn mang trong mình phận người yếu đuối, Phêrô không chỉ dừng lại ở chỗ kéo Thầy mình không cho Thầy đi lên Giêrusalem chịu khổ nạn mà còn chối phăng Thầy mình. Thế nhưng đàng sau những vấp ngã của con người ấy Phêrô chợt giật mình tỉnh giấc để sống trọn vẹn niềm tin của mình.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta, qua lời chuyển cầu của Thánh Phêrô để chúng ta không chỉ tuyên tín nhưng còn sống lời tuyên tín về Thầy Chí Thánh trong cuộc đời của mình.
Nhiều người đã gặp Chúa, nghe Chúa giảng và chứng kiến các phép lạ Chúa đã thực hiện nhưng vẫn chưa biết Chúa là ai. Cho dù nhiều người đã được thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian (Ga 1, 29). Ngay cả những người thân tín nhất là các tông đồ, cũng không biết căn tính thật của Chúa. Người ta đi hết ngạc nhiên ngày tới ngạc nhiên khác, tò mò nhìn xem phép lạ, muốn thưởng thức bánh miễn phí và chứng kiến nhiều sự lạ nhưng nhiều người chỉ nghĩ Chúa Giêsu là một tiên tri nào đó. Hôm nay Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.” (Mc 8, 29).
Sau lời tuyên xưng của ông Phêrô: Thầy là Đấng Kitô, Chúa Giêsu đã hé mở về sứ mệnh của Ngài:Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại (Mc 8,31). Chúa Kitô chọn con đường khổ giá để tới vinh quang sống lại. Con đường Chúa đi là con đường hẹp, con đường thánh giá và đỉnh cao là núi Sọ. Lời tiên báo của Chúa Giêsu ứng nghiệm với những lời diễn tả của tiên tri Isaia về Người Tôi Tớ chịu nhạo báng trong đau khổ: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 5, 6).
Thầy là ai? Chúng ta thử tìm hiểu qua chính lời mạc khải của Chúa Giêsu.Chúa phán: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Ngài nói tiếp: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.”(Ga 8, 12). Chúa Giêsu là đường dẫn chúng ta đến sự sống muôn đời. Chúa chính là ánh sáng soi dẫn đưa chúng ta đến sự thật viên mãn. Ngài là nguồn và là trung gian ban phát sự sống. Có có uy quyền tạo dựng, biến đổi và thánh hóa cả hồn lẫn xác.
Thầy là ai? Chúa Giêsu giới thiệu: Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 11). Thầy đã hy sinh mạng sống để đền bù và chuộc tội cho nhân loại. Ngài là Đấng trung gian giao hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người. Ngài đã mang lại niềm hy vọng cho những ai đang trong cơn lầm than sầu khổ. Ngài phán: Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ (Ga 10. 9). Chúa Giêsu mở lối cho mọi người tìm đến ơn cứu độ. Muốn vào nước trời, chúng ta phải đi qua cửa chính là Chúa Kitô. Chịu Phép Rửa trong Chúa, tuyên xưng niềm tin, sống và thực hành lời Chúa. Chúng ta không chỉ nói: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào nước trời nhưng là thực hành ý Chúa.
Thầy là ai? Chúa Giêsu phán:”Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! (Ga 6, 35). Thầy là bánh từ trời ban xuống cho nhân loại: “Tôi là bánh từ trời xuống.” (Ga 6,41). Thầy là bánh có đủ mọi mùi thơm ngon và là bánh trường sinh. Hãy đến và đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, chúng ta sẽ được nuôi dưỡng thỏa thuê bằng chính nguồn ân sủng của Ngài. Lãnh nhận bánh hằng sống là nguồn sự sống và là sự sống viên mãn. Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống (Ga 11, 25). Niềm hy vọng tuyệt hảo của thân phận của con người là sự sống lại ngày sau để hưởng phúc thanh nhàn.
Thầy là ai? Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tin vào Ngài: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm (Ga 14, 11). Khi Chúa Giêsu biến hình trên núi đã có tiếng phán từ trời cao: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”(Mc 9, 7). Chúa Giêsu thuộc về thượng giới đã hạ sinh mang thân phận con nguời như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Chúa Giêsu bảo: “Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này (Ga 8, 23). Chúa Giêsu được Chúa Cha sai xuống thế gian và khi hoàn tất sứ mệnh Ngài trở về cùng với Cha của Ngài.
Đối với các Kitô hữu, chúng ta xưng tụng Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ. Chúng ta cần lắng nghe của lời Ngài chỉ dạy. Vâng nghe theo lời của Chúa Giêsu là bước theo con đường của Ngài đã đi qua.Đường của Chúa là con đường khiêm hạ, con đường sự thật và con đường khổ giá. Khổ giá sẽ tôi luyện niềm tin. Niềm tin vào Chúa Kitô không phải là học hiểu một số kiến thức, tỏ lòng sùng mộ hay việc cử hành một số nghi lễ, mà chính là sống niềm tin của mình trong cuộc lữ hành trần thế. Chúng ta phải sống đức tin trưởng thành mà chúng ta đã được lãnh nhận qua các Bí Tích trong Hội Thánh. Đức tin là ánh sáng soi đường dẫn chúng ta bước theo gót Chúa Kitô. Thánh Giacôbê tông đồ đã phát biểu rằng: Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết (Giac 2, 17). Lời nói đi đôi với việc làm. Người ta nói: Lời nói mây bay, gương bày lôi kéo. Đời sống đức tin được thể hiện qua cách sống đạo hằng ngày trong ý tưởng, lời nói và việc làm.
Chúa Giêsu mời gọi:Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28). Chúa Giêsu đầy lòng thương xót với những ai cậy trông vào Chúa. Chúng ta cũng biết rằng Chúa có quyền năng ban phát ân huệ cho mọi loài nhưng theo chương trình và sự quan phòng của Chúa. Chúa ban cho con người có tri thức, có khả năng, có thời giờ và có phương tiện để chế ngự những khó khăn bất thường. Chúng ta phải có gắng với hết sức mình trong mọi lãnh vực cuộc sống để tìm phương hướng giải quyết các vấn đề. Chúng ta đừng khi nào thất vọng, chán nản và bỏ cuộc. Chúa nói điều quan trọng là: Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 29). Lời của Chúa thật ngọt ngào, nhẹ nhàng và thấu đạt tâm hồn.
Lời tâm huyết nhất của Thầy Chí Thánh gởi gắm cho các môn đệ là: Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.”(Ga 13, 35). Dấu chỉ để nhận ra sự hiện diện của Chúa giữa anh chị em là chúng ta hãy yêu thương nhau. Yêu thương là cốt lõi của mọi sinh hoạt sống đạo và là giới răn trọng nhất. Thiếu sự yêu thương, cuộc sống trở thành trống rỗng và vô nghĩa. Không có tình yêu, ngôn từ trở thành sáo ngữ. Vắng bóng tình yêu, các công việc bác ái trở thành sự khoe khoang. Không có lòng yêu thương, mọi cách đối xử giao tế nhân sự trở thành hình thức và giả hình. Yêu thương là chất keo gắn kết tinh thần của mọi người chung hợp với nhau. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, muốn trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải yêu thương nhau.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa là Con Thiên Chúa, là Đức Kitô, là Thầy, là người chỉ đạo, là nguyên khởi và là cùng đích của cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết đặt niềm tin tưởng nơi Chúa và bước theo con đường Chúa đã đi xưa, để chúng con cùng được chia sẻ đau khổ thập giá và vinh quang sống lại. Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Chúa.
(Suy niệm của Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Con đường tiến lên phía trước
So với các tác giả Nhất Lãm khác, trình thuật về lời tuyên xưng đức tin của ông Phêrô tại Xê-da-rê do thánh Mác-cô biên soạn khá vắn gọn. Bản văn này có thể đuợc giải thích theo nhiều điểm khác nhau. Dưới đây là ba điểm.
* Con đường đức tin
Thánh Mác-cô kể lại câu chuyện xảy ra ở bên kia sông Gio-đan không nhằm xác định về nơi chốn cho bằng về ý nghĩa thần học. Đây là một “nơi khác” ngoài môi trường Giu-đa giáo, và tại đây, lần đầu tiên, Đức Giêsu được nhìn nhận như Đấng Mêsia. Trong đất Do thái, việc mặc khải này chỉ xảy ra vào giai đoạn cuối đời của Đức Giêsu: trước tòa Cai-pha (x.Mc 14,61-62).
Câu hỏi về lai lịch của Đức Giêsu không do thiên hạ hay các môn đệ nêu ra, nhưng do chính Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ như một con đường dọn sẵn: khởi đầu từ những ý kiến của dân chúng và cuối cùng là câu trả lời của các môn đệ.
Đến cuối bản văn, Đức Giêsu phác họa hình ảnh người môn đệ như một người luôn tiến bước, một người đi theo Đức Kitô.
Quả vậy người ta không thể diễn tả lòng tin của mình, không thể nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nếu như người ta cứ ở một chỗ, cứ yên vị trong sự an toàn chắc chắn với những ý tưởng có sẵn của mình.
Đức Kitô chỉ đến với những người “ đang tiến bước ”, và người Kitô hữu được mời gọi “ đi theo ” Đức Kitô đang bước đi, Đức Kitô sống động chứ không ở yên một chỗ.
* “Thầy là Đấng Mêsia”
Lòng tin vào Đức Kitô không phải là một thứ chủ nghĩa thủ cựu. Các môn đệ không được lấy điều người ta nói làm đủ, chính Đức Kitô cũng không muốn như thế; các môn đệ của Đức Kitô phải có một xác tín riêng về Thầy mình. Một tổng hợp những kiến thức về Đức Giêsu không bao giờ có thể thay được sự hiểu biết cá nhân về Người, bởi vì hiểu biết cũng là không ngừng chia sẻ thân phận của Người, tức là từ bỏ sự sống mình và đi theo Người đến tận thập giá.
Đàng khác, nhận định của dân chúng về Đức Giêsu không hoàn toàn sai, nhưng không đầy đủ. Nhận định này không diễn tả tính cách siêu việt của con người Đức Giêsu. Các quan niệm Cựu Ước không trình bày đủ về lai lịch của Đức Giêsu. Người vượt lên trên tất cả những điều đó.
Chính vì vậy, Đức Giêsu đã đặt câu hỏi với các môn đệ: “còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Đức Giêsu đòi hỏi một quan niệm đúng đắn, một sự chuyển hóa chứ không phải chỉ là lặp lại một hiểu biết hay một cái gì có sẵn.
Ông Phêrô đã làm điều ấy. Điều ông nói, nhân danh các môn đệ, vượt hẳn quan niệm của quần chúng, và cả chính ông cũng chưa hiểu được toàn bộ ý nghĩa. Đối với một người Do thái như ông, Đấng Mêsia hằng được trông đợi không hề có chút nào như Đức Giêsu. “Đấng tái lập vương quốc Ít-ra-en” sẽ không thể là con người bị loại bỏ này, sẽ không thể là con người lúc nào cũng lang thang trên các nẻo đường.
Dù vậy, ông Phêrô đã tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Nhờ đức tin, ông chấp nhận sự sai biệt giữa ý tưởng ông đang có và thực tại đang diễn ra.
* “Xa-tan, lui lại đàng sau”
Cũng với tư cách phát ngôn viên của các môn đệ, ông Phêrô đã phản ứng trước những lời Đức Giêsu loan báo cuộc Thương khó. Ông kéo Đức Giêsu ra một nơi như muốn che chở cho Người. Với vẻ trịch thượng, ông trách Thầy, coi Thầy như yếu hơn ông, và muốn cất khỏi đầu óc Thầy tư tuởng cuồng điên về cuộc khổ nạn.
Trong câu chuyện này, người ta nhận ra một trong những cám dỗ cơ bản thường thấy nơi con người: hành quyền trên Thiên Chúa. Đức Giêsu vừa mô tả con đường duy nhất dẫn đến sự sống, ông Phêrô đã trách Người … đã ngăn cản con đường Người phải đi.
Làm như thế, ông đã tự cho mình có quyền trên Đức Giêsu, ông vượt lên trước Người để chỉ cho Người thấy theo ý ông, đâu là con đường tốt nhất.
Thế nhưng, trên con đường tiến đến Nước Trời, người ta “ không đi trước ” Đức Kitô, người ta “đi theo” Người. Do đó, Đức Giêsu quay về phía các môn đệ và tái lập vị thế. Không phải Thầy đi theo các môn đệ, nhưng môn đệ phải theo Thầy. Đức Giêsu không chấp nhận một điều đình nào cả. Con đường thập giá là con đường duy nhất dẫn đến sự sống, con đường Chúa Chúa đã định. Ngăn cản Đức Kitô, không cho Người đi con đường đó tức là xúi giục Người bất phục thánh ý Chúa Cha: công việc này chỉ có thể là của Xa-tan, tên đã muốn lôi kéo Đức Giêsu ra khỏi con đường đó khi Người bắt đầu cuộc đời công khai (x. Mc 1,12-13).
Có lẽ ông Phêrô chỉ nghĩ Đức Giêsu là Đấng Mêsia theo quan điểm loài người nên đã trách Người. Ông chưa hiểu hết ý nghĩa của lời tuyên xưng ông vừa thốt lên, cũng như lời ngăn cản ông đưa ra. Dù vậy, Đức Giêsu cũng muốn cho thấy Thập giá là con đường cứu độ, Người sẽ đi, đi đến cùng, và bất cứ ai muốn làm môn đệ của Người, muốn đi theo Người, cũng phải buớc đi trên con đường ấy.
Đặt tên cho Người
Trở lại với lời tuyên xưng của ông Phêrô.
Khi một đứa trẻ sinh ra, cha mẹ của em sẽ đặt cho em một tên gọi. Một thời gian sau, chính em bé sẽ đặt cho cha mẹ em một tên gọi và tên gọi này sẽ thay thế mọi tên gọi khác. Tên gọi đó sẽ là “ ba ” là “ má ”.
Gọi như thế, em bé làm cho cha mẹ em thay đổi, đem lại cho cha mẹ em một chiều kích mới: là “ ba ”, là “ má ”.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cũng gần giống như thế.
Khởi đầu, ông Phêrô đem lại cho Đức Giêsu một tên gọi: “ Thầy là Đấng Kitô ”. Mặc dù ông chưa hiểu hết ý nghĩa của câu nói này, nhưng ít ra, cứ dựa theo truyền thống Do thái, tên gọi ông vừa đọc lên về Đức Giêsu cũng đã có một chiều kích quan trọng. Đặc biệt gọi tên cũng là làm cho hiện hữu.
Về phần mình, Đức Kitô đặt tên cho các môn đệ bằng cách mô tả điều sắp xảy ra để làm cho một người trở thành Con Thiên Chúa: trải qua cái chết và sinh ra trong một đời sống mới.
Điều này quả là có tính cốt yếu vì nó xác định rõ bản chất những tương quan Thiên Chúa muốn nối kết con người và con người phải có đối với Thiên Chúa.
Đức Giêsu có thể tự mình tuyên bố: Tôi là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Và ngược lại, Nhóm Mười Hai cũng có thể nói: Chúng tôi làm điều này điều nọ, chúng tôi tin, vì vậy chúng tôi là những môn đệ. Mỗi bên tự đặt tên cho mình và buộc người khác phải tôn trọng.
Đức Giêsu đã không xử sự như thế. Người dần dần nêu ra các câu hỏi để rồi chính các môn đệ nói lên mặc khải sâu xa nhất về Người. Tuy vậy, Người vẫn phải giải thích cho các ông nội dung của mặc khải ấy, hay là con đường Đức Kitô sẽ trải qua để đem lại ơn cứu độ cho Ít-ra-en và mọi người.
Như vậy, chính Đức Giêsu có sáng kiến, nhưng Người không áp đặt. Người đưa các môn đệ qua con đường của sự thông tri, nhìn nhận trong tình yêu. Nhờ được Thần Khí soi sáng, con người đặt cho Thiên Chúa tên gọi, một tên gọi chính xác. Thiên Chúa khiêm tốn biết bao!
Về phần chúng ta, mỗi người cũng phải đặt tên cho Đức Giêsu; mỗi người phải có ý kiến riêng của mình về Đức Giêsu Kitô. Thế nhưng, hình như chúng ta có khuynh hướng đặt cho Người một tên gọi giống như chúng ta. chúng ta vẫn muốn lặp lại “ điều thiên hạ nói về Đức Giêsu ”. Điều này có nghĩa là chúng ta muốn Người đi theo chúng ta hơn là chúng ta đi theo Người, hay ít ra, chúng ta không muốn chia sẻ cuộc sống của Người, không dám từ bỏ mình để đi trên con đường Người đã đi.
Và rồi, chúng ta có sẵn sàng để Người đặt tên cho chúng ta không? Chúng ta có dám chấp nhận đổi khác đi khi khám phá ra tên gọi đích thực của mình? Chúng ta có dám để Đức Kitô làm cho chúng ta sinh ra trong sự sống Người ban cho chúng ta, tức là trong sự sống của Người?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Vì chúng ta, Chúa Kitô đã chịu khổ hình thập giá. Chúa đón nhận thập giá là để nhân loại chúng ta được thứ tha tội lỗi, được giải hòa với Chúa Cha. Nói nôm na rằng Chúa vác thập giá là để nhân loại chúng ta được hạnh phúc. Vậy thì cớ sao Chúa Kitô lại khẳng định rằng ai muốn theo Ngài thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Người? (x.Mc 8,34). Vác thập giá là chấp nhận hy sinh, bỏ mình, chấp nhận cả những bất công, nhục hình. Những người Macxit cũng như một vài triết gia thế kỷ ánh sáng đã vin vào điều này để kết án Kitô giáo là một loại thuốc phiện ru ngủ đám đông dân cùng khổ cam chịu cảnh bất công đàn áp với niềm hy vọng sẽ được hưởng phần phúc sau này mà vô tình tạo cớ cho bất công ngự trị, tạo dịp cho kẻ thống trị bốc lột, đàn áp. Dù kết án Kitô giáo nhưng khi đã nắm được quyền thì người ta lại giương khẩu hiệu rằng nhân dân hãy hy sinh chịu khó, chịu khổ vì một tương lai tươi sáng sau này to đẹp gấp mười lần hôm nay, một tương lai mà nhiều người nhận định rằng chỉ là một viễn ảnh khó thành hiện thực, dĩ nhiên là đối với đám dông dân chúng bị trị. Phải chăng cái khẩu hiệu ấy cũng là một thứ thuốc an thần? Cái vòng lẩn quẩn và cũng là một nghịch lý xem ra khó có câu trả lời.
Không gì hơn là tập chú vào cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu để tìm lời giải đáp cho vấn nạn nêu trên, cho dù biết rằng trong kiếp lữ hành này chúng ta không thể nào đến với sự thật toàn vẹn, vì được mấy ai dám chắc chắn là mình đã mở hết lòng để đón nhận Thần Chân Lý. Trước hết cần khẳng định rằng khi mời gọi chúng ta, mời gọi dân chúng hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo, thì Chúa Giêsu không hề và không bao giờ muốn chúng ta cúi mình cam chịu cảnh khổ, cảnh bất công cách tiêu cực, làm cớ cho những người bóc lột những kẻ gian ác lợi dụng để vinh thân phì da và ngụp lặn trong tội ác của họ. Việc tìm sự sung sướng hay hạnh phúc trong chính sự đau khổ là điều lệch lạc mà ngày nay người ta gọi đó là một dạng tâm bệnh, bệnh khổ dâm. Một điều chắc chắn không kém, là người cha thực sự thì không bao giờ muốn con cái phải khổ đau. Chúa Giêsu đã từng nói rằng dù chỉ là người cha trần thế với nhiều khiếm khuyết thế mà sự thường khi con cái xin bánh thì chẳng ai lại ném cho chúng hòn đá, như thế người cha trên mọi người, là Đấng trọn hảo chỉ muốn và làm điều tốt lành cho con cái (x.Lc 11,9-13; 12,32). Vậy lý giải thế nào về sự hiện hữu của thập giá mà Chúa Giêsu đã gánh trên vai và Người đã minh nhiên mời gọi chúng ta vác lấy để đi theo Người?
Đường yêu thương, con đường làm người chính là chìa khóa giải đáp cho vấn nạn này. Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4,8). Đây không phải là một tình yêu quy ngã nhưng là tình yêu hướng tha từ trong bản thể của cộng đoàn Thiên Chúa Ba Ngôi và rồi được thông chia cho các loài thụ tạo, đặc biệt cho loài người. Yêu thương đích thực thì không sống cho chính mình mà sống cho ai đó và vì ai đó. Chính khi hướng đến tha thể là lúc ta mới thực sự là mình. Chúa Cha thực sự là mình trong tương quan với Chúa Con, trao ban tất cả cho Chúa Con. Ngược lại Chúa Con thực sự là mình khi luôn hướng về Chúa Cha, tìm kiếm và thực hiện ý Chúa Cha, trao ban lại tất cả cho Chúa Cha. Và Chúa Thánh Thần chỉ thực sự là Tình Yêu Ngôi Vị giữa Chúa Cha và Chúa Con khi luôn tìm vinh danh hai Ngôi cực trọng ấy.
Sống trong tương quan liên vị và ra khỏi chính mình là động thái từ bỏ mà Chúa Giêsu đã nhấn mạnh khi khẳng định: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Như thế thập giá hay những hy sinh, từ bỏ không phải là sự khổ đau ta đành phải trả giá theo nghĩa tiêu cực mà chính là dữ kiện hay điều kiện ta phải vượt qua trong tiến trình sống yêu thương, tiến trình thể hiện bản thân mình là hình ảnh và là họa ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu.
Hình ảnh con nhộng lột xác để hóa thành bướm, hình ảnh con rắn lột vỏ để lớn lên vẫn thường được gợi lên để minh họa cho ý tưởng này. Chúa Giêsu cũng đã đề cập đến hình ảnh hạt lúa mì chịu mục nát đi để nẩy mầm, thành cây, đơm bông, kết hạt, thì mới thực sự là chính nó khi thể hiện ý nghĩa hiện hữu của nó (x. Ga 12,24). Mọi so sánh dù cố nhắm làm rõ một khái niệm nào đó, nhưng vẫn là khập khiễng, nghĩa là còn hạn chế. Lột xác để thành bướm hay lột vỏ để lớn lên thì vẫn có cái gì đó vì chính mình. Trong khi đó chuyện vác thập giá là vì tha nhân. Chúa Giêsu vác thập giá là vì chúng ta. Người chịu khổ hình là để chúng ta được cứu độ. Người tự nguyện nên nghèo khó là để chúng ta nên sang giàu. Và khi sống vì chúng ta, thì Người thể hiện chính Người là Giêsu, Đấng Cứu Độ, là Kitô, Đấng được Thiên Chúa xức dầu, loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, giải thoát kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng (x. Lc 4,18-19).
“Đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17). Một trong những hành động để làm sống đức tin theo thánh Giacôbê đó là yêu thương tha nhân cách cụ thể và toàn diện, cả linh hồn lẫn thể xác. Để sống yêu thương thì chuyện vác thập giá là chuyện đương nhiên phải có. Tuy nhiên cần ý thức rằng chúng ta vác thập giá là vì tha nhân, nghĩa là để cho tha nhân được hạnh phúc, cho người nghèo khỏi cảnh khổ, cho người bị áp bức được tự do, cho người tội lỗi biết sám hối ăn năn, cho người gian ác biết quay gót trở về… Hiểu được điều này thì hy vọng chúng ta sẽ biết cách thế vác thập giá như thế nào để thực sự là theo Chúa Giêsu chứ không phải là làm cớ cho sự dữ thống trị, làm cớ cho kẻ gian ác thích chí, cười khì.
Văn hào Charles Lamb sống ở Anh Quốc 200 năm trước đây. Suốt 30 năm, ông chỉ là một viên thư ký tầm thường trong một xưởng đóng tầu. Thế mà ông đã trở nên một văn hào nổi tiếng vì những bài trào phúng thanh nhã, duyên dáng và nhất là ông có một tình yêu thương hiếm có đối với gia đình và bạn bè của ông. Một buổi chiều nọ, các bạn hữu hội họp tại nhà ông để thảo luận về văn chương. Một người trong nhóm đặt câu hỏi: “Chúng ta sẽ nghĩ sao, nếu Dant, tác giả của vở hài kịch Divine Comedy, sẽ bước vào phòng họp của chúng ta chiều này?” Một người khác lại tiếp lời: “Giả thử Shakespeare tới họp với chúng ta bây giờ thì sao?” Ông Charles Lamb vội vàng trả lời: “Tôi sẽ giang hai tay vui mừng nồng hậu đón tiếp vị “Vua” của các nhà tư tưởng danh tiếng đó”. Cuối cùng, một người khác đặt giả thiết: “Vậy giả như Chúa Kitô bước vào phòng họp này thì chúng ta có thái độ nào?” Văn Hào Charles Lamb nghe vậy, vội nghiêm nét mặt trả lời: “Dĩ nhiên, tất cả chúng ta đều cung kính quì xuống tôn thờ Ngài”.
Tại sao văn hào Charles Lamb lại phát biểu tư tưởng đặc biệt này? Tại vì giữa Chúa Kitô và các vĩ nhân của lịch sử nhân loại có sự khác biệt vô cùng: Chúa Kitô là Thiên Chúa đáng tôn kính sùng mộ, còn các vĩ nhân kia, dầu sao cũng chỉ là con người phàm như bất cứ ai trên trần gian này.
Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Sử Marcô tường thuật câu truyện trao đổi giữa Chúa Kitô và các môn đệ Ngài, đang trên đường tiến về miền Xêsarê Philipphê. Chúa hỏi các môn đệ cho biết, người ta đã nghĩ thế nào về Ngài.
Qua lời đối đáp của các môn đệ, cho chúng ta thấy quan niệm của người Do Thái đương thời, thì Ngài Chính là Gioan Tẩy Giả đã bị chém đầu nay sống lại. Có những người lại cho rằng, Ngài là tiên tri Elia đã xuất hiện; những kẻ khác lại cho rằng, cùng lắm thì Ngài cũng chỉ là một vị tiên tri như bất cứ tiên tri nào khác.
Với những quan niệm của người thời nay: Có những người tôn Ngài là một vị quân tử, một nhà hiền triết, giống như các triết gia Hy Lạp Aristote hay Socrate chẳng hạn. Có những người sùng mộ hơn thì lại cho Ngài là một vĩ nhân, một nhà lập đạo, một lãnh tụ tôn giáo như Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử hoặc như Thích Ca Mâu Ni, ông tổ Phật Giáo; Ngô Văn Chiêu, ông tổ Cao Đài Giáo; Huỳnh Phú Sổ, ông tổ Phật Giáo Hòa Hảo; Đỗ Hữu Thuần, ông tổ Pháp Lý Vô Vi hay ông Đạo Dừa chẳng hạn… Rồi có người lại coi Ngài là thần tượng của giới trẻ, ông tổ của giới Hippi; hoặc hơn nữa, Ngài là một siêu nhiên cao cả có quyền năng trong lời nói và trong hành động.
Sau khi nghe các môn đệ thuật lại ý kiến của các người Do Thái nghĩ về Chúa, Chúa mới hỏi lại các môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Thánh Phêrô đã lên tiếng đại diện cho các môn đệ tuyên xưng rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”.
Đức Kitô, chính là Đấng Thiên Sai, Đấng Messia Thiên Chúa sai đến trần gian, để truyền bá giáo thuyết và huấn lệnh của Thiên Chúa, như phương thế cứu độ trần gian. Nhưng Ngài không phải là Đấng Thiên Sai theo quan niệm sai lầm của người Do Thái, vì họ chỉ chấp nhận một Đấng Thiên Sai uy quyền về phương diện chính trị, đến để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách đô hộ đế quốc Roma, cũng giống như quan niệm tầm thường của các môn đệ của Ngài lúc ban đầu, họ đã thường tranh luận với nhau xem ai trong nhóm họ, sẽ làm lớn trong “Nội Các” tương lai của Thầy.
Thực ra, Đức Kitô là chính Đấng Thiên Sai được mệnh danh là Người Tôi Tớ Thống Khổ của Thiên Chúa, như bài sách tiên tri Isaia chúng ta vừa nghe đã tiên báo. Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa đã mặc hình tôi đòi giống như người phàm, Ngài đã hủy mình đi, lãnh nhận mọi án lệnh như một tội nhân, Ngài đã tự nguyện hiến dâng bản thân làm lễ vật hy sinh, chịu chết để đền tạ phép công bình Thiên Chúa, hầu cứu độ nhân loại.
Sau khi nghe Chúa nói về những thống khổ Ngài sẽ chịu, bị các trưởng tế, kỳ lão, luật sĩ chối bỏ và giết chết. Phêrô đã kéo Ngài lui ra và can ngăn Ngài, Ngài đã nặng lời quở trách ông: “Satan, hãy lui đi, con không biết việc của Thiên Chúa, mà chỉ biết việc của loài người”. Những lời đó đã đánh tan quan niệm sai lầm của các môn đệ, làm cho các ông được hiểu biết đúng về Ngài, để niềm tin của các ông thêm vững mạnh, thêm xác tín hơn. Do đó, Thánh Phêrô đã đại diện các môn đệ cao lời tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”.
III. CÒN CHÚNG CON, CHÚNG CON LÀ AI
Cùng với các Tông Đồ và toàn thể Giáo Hội, chúng ta tuyên xưng Chúa là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Đó là lời tuyên xưng đã được Chúa chấp nhận và hài lòng. Nhưng Chúa muốn chúng ta phải trở nên chứng nhân và sống niềm tin chúng ta vừa tuyên xưng, bằng cách chúng ta hãy chân thành đáp lại lời Chúa có thể hỏi chúng ta: “Còn chúng con, chúng con là ai?”
Chúng ta là Kitô Hữu, là người thuộc về Chúa Kitô, là môn đệ của Chúa, là con Thiên Chúa. Chúng ta tuyên xưng Chúa là Đức Kitô. Vậy chúng ta đã thực trở nên chứng nhân của Chúa bằng cuộc sống cho niềm tin đó, xứng với danh nghĩa diễm phúc chúng ta là Môn Đệ, là con Thiên Chúa chưa?
Để trở nên môn đệ đích thực của Chúa, nên con Thiên Chúa, Chúa đòi chúng ta phải nên giống Chúa: “Các con hãy học cùng Cha, vì Cha nhân từ và khiêm nhu”. Điều kiện để nên môn đệ của Chúa: “Ai muốn theo Cha, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Cha”. Và: “Ai không từ bỏ chính mình, không vác thập giá mình, không thể làm môn đệ Cha được”
Kết Luận
Với lòng tôn kính và sùng mộ, chúng ta tuyên xưng Chúa là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, là Thiên Chúa thật, chúng ta hết lòng tôn thờ, phụng sự và yêu mến Ngài. Nhưng để chứng minh lòng tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa xứng đáng, Chúa đòi chúng ta hãy sống xứng đáng với danh nghĩa diễm phúc là môn đệ, là con Thiên Chúa, bằng cách cố gắng mô phỏng đời sống thánh thiện của Chúa Kitô ngay trên trần gian này.
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)
Truyện Tây du ký kể lại cuộc ra đi đầy gian nan của thầy Tam Tạng. Những gian nan thử thách xảy đến cho vị thiền sư họ Đường không phải là những gai góc hiểm trở của một đoạn đường dài, mà chính là những tật xấu hiện thân nơi ba đệ tử của ông: Tôn Ngộ Không, Trư Bát giới và Sa Tăng. Ba người học trò này là biểu tượng của ba nết xấu mà vị thiền sư phải vượt qua để đạt đến chính quả. Đó là lòng kiêu căng, sự đam mê nhục dục và tính lười biếng.
Bài Tin mừng hôm nay cũng phác vẽ cuộc hành trình theo Đức Giêsu của các môn đệ. Trong cuộc hành trình này, điều kiện đầu tiên và cũng là điều kiện duy nhất Chúa Giêsu nêu ra như một thách đố: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Lời mời gọi ấy quả rất nhức nhối và mang tính quyết liệt gửi trao đến tất cả chúng ta.
Per Crucem (Qua Thập giá).
“Thập giá Đức Kitô là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta”. Đây là điều tâm niệm mà các nữ tu Mến Thánh giá vẫn lập đi lập lại mỗi ngày. Nhưng không phải chỉ các nữ tu, mà tất cả mọi Kitô hữu đều phải chọn và sống linh đạo Thập giá trong cuộc sống đức tin của mình. Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô cũng khẳng quyết với xác tín sâu xa: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại coi là sự điên rồ” (1 Cor 1, 22). Thánh Marcô kể lại, khi Đức Giêsu khải thị cho các học trò về viễn ảnh Thập giá, các tông đồ, đặc biệt Phêrô đã cản ngăn Ngài. Điều này dễ hiểu. Họ không thể chấp nhận một tương lai u ám như thế. Một con người mà họ mơ tưởng sẽ làm thủ lãnh một vương quốc đầy oai hùng, tại sao lại có thể bị giết chết và bị treo thân giống như một tên cướp? Phêrô can ngăn là điều rất hợp lý theo suy luận tự nhiên. Vì vậy, Đức Giêsu quay lại quở trách Phêrô: “Satan, lui lại đằng sau Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.
Trở lại với bối cảnh xã hội ngày xưa, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn điều Chúa muốn nói. Trong xã hội Do thái thời bấy giờ, dân chúng sống dưới chế độ đô hộ của đế quốc Rôma. Đế quốc dùng án tử hình thập giá đối với các tội phạm ghê tởm nhất. Đây là hình phạt man rợ và kinh hoàng mà đế quốc chỉ áp dụng cho cư dân ở các nước thuộc địa, còn công dân Rôma được miễn. Tên tử tội sẽ bị treo lên cao, tay chân bị đóng chặt, ngực dãn ra và rất khó thở. Phạm nhân vừa đau đớn, vừa phải chịu đói chịu khát, phơi nắng phơi sương cho đến chết. Người nào khỏe nhất cũng chỉ cầm cự được hai ngày. Sau khi chết, xác của họ không được chôn trong lòng đất, để mặt đất khỏi bị nhiễm uế do tội lỗi ghê tởm của họ. Chim trời sẽ đến rúc rỉa thân xác ấy cho đến khi không còn lại gì. Đối với người Do thái, đây là một sự xúc phạm, đồng thời hình phạt ấy cũng nói lên tính dã man và sự miệt thị của đế quốc đối với các nước nhược tiểu.
Cũng tương tự như thế, Hy Lạp ngày xưa có rất nhiều triết gia nổi tiếng như Socrates, Aristote, Diogène.. Người dân say mê triết học để tìm sự khôn ngoan cho cuộc sống mình. Họ chủ trương phải sống cho thật ý nghĩa và giá trị. Cái chết thập giá của những phạm nhân đối với họ quả là một sự điên rồ, vì nó kết thúc cuộc sống con người một cách vô nghĩa. Cuộc sống của họ coi như bị vất bỏ hoàn toàn.
Đây là não trạng của dân Do Thái và dân Hy Lạp thời Chúa Giêsu khi họ nhìn vào hình phạt khổ giá. Nhưng Đức Giêsu đã tự nguyện chấp nhận cái chết xem ra vô lý tột độ như thế. Ngài chết như một tên tử tội đốn mạt nhất bị xã hội ruồng bỏ và coi khinh. Ngài đã đi xuống tận đáy bùn đen của xã hội, đón nhận một cái chết man rợ nhất, nhục nhã nhất và cũng bi thương nhất.
Vì thế, chẳng lạ gì Phêrô đứng ra can ngăn Chúa ngay tức khắc theo phản xạ tự nhiên. Phêrô không hiểu, đúng hơn ông chưa hiểu thế nào là mầu nhiệm Thập giá. Lời gọi mời của Chúa Giêsu “Ai muốn theo tôi, phải bỏ mình vác Thập giá mình mà theo”, vừa mang tính thách đố quyết liệt, vừa gợi mở một cuộc hành trình theo Chúa trong niềm tin tuyệt đối, tức là “cuộc hành trình đi vào một vùng tối tăm đầy ánh sáng” (tư tưởng của Thánh Grêgoriô thành Nyssê).
Ad Lucem (Đến vinh quang)
Nhưng, cái chết trên Thập giá của Đức Giêsu không phải là một dấu chấm kết tận, kết thúc cuộc sống 33 năm dương thế của Ngài một cách vô nghĩa. Ngài là một con người rất con người, đã đi qua cái chết, nhưng Ngài vẫn là một Thiên Chúa rất Thiên Chúa, Đấng hằng sống và không bao giờ chết. Đức Giêsu đã chọn Thập giá để khai mở cho con người chân trời ơn cứu độ qua sự phục sinh vinh thắng. Không có cái chết nào nhục nhã cho bằng cái chết của một tên tử tội bị xã hội loại trừ. Không có cái chết nào bị thương và tức tưởi cho bằng cái chết của một đấng hay thi ân, lại bị con người phản bội và đối xử tàn khốc. Không có cái chết nào ai oán cho bằng cái chết của Đấng Công chính lại bị xét xử bất công và quá phũ phàng. Đức Giêsu đã chết trong cô đơn và bị ruồng bỏ hoàn toàn. Các học trò thân tín nhất cũng tháo chạy. Ngay cả Chúa Cha dường như cũng hắt hủi, đến độ Ngài phải não lòng thốt lên: “Cha ơi, sao Cha lại bỏ con?”
Nhưng Thập giá và mầu nhiệm tự hủy chính là con đường dẫn đến sự sống. Nghịch lý của Thập giá mà Chúa Giêsu gọi mời hôm nay được diễn bày nơi chính cái chết bi thương của Ngài: Qua sự chết đến sự sống, qua bóng tối của tử thần chúng ta mới có thể đi vào miền ánh sáng phục sinh vinh quang. Per crucem ad lucem.
Nghịch lý của Thập giá luôn là một mầu nhiệm khó hiểu. Chỉ khi Đức Giêsu từ cõi chết chỗi dậy, các học trò của Ngài mới dần hiểu ra và sẵn sàng lao vào con đường xem ra rất tối tăm ấy. Ánh vinh quang Phục sinh đã làm sáng lên chân trời đức tin mà trước kia vẫn còn mù tối nơi tâm hồn các tông đồ. Hai môn đệ trên đường đi Emmaus đã tiếp cận trực tiếp với Đấng sống lại và con mắt đức tin của họ đã mở toang. Ngay cả Tôma Dydimô vẫn bị mang tiếng oan uổng là cứng tin, cũng đã hoàn toàn quy thuận khi Đức Giêsu hiện đến. Ông không cần xỏ tay vào lỗ đinh, cũng chẳng cần sờ chạm đến vết đinh nơi thân thể Chúa. Chính cặp mắt Đức Giêsu đã xoáy sâu vào tận tâm hồn ông, đem đến cho ông một luồng sáng mới, thắp lên ngọn lửa đức tin nơi ông. Bấy giờ các tông đồ mới hiểu ra cách tường tận những điều Chúa nói trong Tin mừng hôm nay: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá mình mà theo tôi”.
In hoc signo (Cứ dấu này)
Vào năm 326, Vua Constantinô, hoàng đế Rôma đã có một thị kiến nhìn thấy hình Thập giá trên bầu trời với hàng chữ “In hoc signo vinceris” (cứ dấu này ngươi sẽ chiến thắng). Ông đã chiến thắng và đã tin. Vua Constantinô đã trở thành một tín hữu, bắt đầu giai đoạn hoàng kim của Kitô giáo ở Âu châu. Cũng vậy, Thánh giá chính là dấu hiệu để người ta có thể nhận ra những ai thuộc về Đức Giêsu. Người ta thấy hình tượng Thánh giá ở khắp nơi, trên nóc các nhà thờ, giữa gian cung thánh, trên bàn thờ mỗi gia đình, trên các phần mộ của người công giáo tại các nghĩa trang.., bởi vì cứ dấu này (in hoc signo), người ta nhận ra ai là môn đệ của Đức Giêsu một cách đích thật.
Tuy nhiên, khi nói về Thập giá, chúng ta thường nghĩ ngay đến những đau khổ. Không phải đơn thuần chỉ như thế. Thánh giá của Chúa Giêsu trước hết và trên hết là dấu chỉ của tình yêu. “In hoc signo”, cứ dấu này người ta sẽ khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa được biểu tỏ tuyệt vời như thế nào. Thập giá Đức Kitô chính là câu định nghĩa tròn đầy nhất về tình yêu Thiên Chúa dành trao cho con người. Qua Thập giá, chúng ta học được bài học rất căn bản về tình yêu Thiên Chúa ngỏ trao. Tình yêu ấy đến thật nhiều xuyên qua đau khổ. Thánh Têrêsa Hài đồng đã học được bài học căn bản này. Khi nằm trên giường bệnh, Chị thánh luôn mỉm cười, để qua những đau khổ nhỏ bé, chị dần tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu cao cả cùng với Chúa Giêsu. Một lần mẹ Agnès hỏi chị: “Sao sáng nay em vui vẻ thế?”. Têrêsa trả lời “Em rất vui vì hôm nay em được lãnh nhận 2 sự khó nho nhỏ để yêu Chúa Giêsu. Không có gì vui sướng cho bằng đón nhận những sự khó cỏn con như vậy”. Ngài nói tiếp: “Những khổ đau ấy chẳng dữ dằn gì đâu. Em chịu được tới mức nào, bạn tình Giêsu gởi đến cho em tới mức đó, em chẳng bao giờ lo lắng về điều ấy cả”. Cuộc đời của Chị thánh là cuộc đời chứa chan niềm vui và an bình, tựa như những cánh hồng lan tỏa mùi hương êm dịu, nhưng ẩn sâu bên dưới đầy những gai nhọn của Thập giá. Thập giá Chúa Giêsu chính là dấu chứng (signum) bày tỏ tình yêu và quyền lực vô song của Thiên Chúa. Vì thế, Thánh nữ đã tóm kết cuộc đời mình qua một định thức đơn giản: “Ơn gọi của tôi chính là tình yêu. Tình yêu là tất cả. Ơn gọi của tôi là sống sung mãn tình yêu nơi Chúa Giêsu và cho Chúa Giêsu”
Kết luận: Những con chim ẩn mình chờ chết
Đây là tên bộ phim được trình chiếu rộng rãi trên đài truyền hình thành phố vào những năm thập niên 90. Ở đây, chúng ta không đề cập đến nội dung hư cấu của bộ phim hay đích nhắm mà soạn giả muốn nói đến. Tôi chỉ vay mượn giai thoại về loài chim gai (thornbird), được bộ phim chọn làm tựa đề, để quy chiếu và tóm kết sứ điệp Lời Chúa hôm nay.
Có một loài chim hót rất hay và chỉ hót duy nhất một lần trong đời. Trước khi chết, theo bản năng, nó bay vút lên cao, lượn mình vi vu giữa bầu trời mênh mông rồi lao nhanh xuống đất, cắm đầu vào một bụi gai và giẫy chết ở đó. Gai nhọn đâm nát khiến máu chảy tung tóe, thân xác nó tả tơi và dập nát. Trong đau đớn, nó sẽ cất lên tiếng hót, một giọng hót vừa ai oán vừa hùng vĩ, vừa cao vút nhẹ nhàng, vừa trầm buồn đến não nuột. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời, nó hót vang. Giọng hót ấy thật tuyệt vời và thánh thót. Đó chính là tiếng hót của “những con chim ẩn mình chờ chết” (les oiseaux se cachent pour mourir). Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay: “Ai yêu sự sống mình sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống vì Thầy và vì Tin mừng sẽ cứu được mạng sống ấy”. Con đường theo Đức Kitô trên hành trình Thập giá cũng chính là con đường dẫn đến cái chết. Nhưng đây không phải là cái chết vô nghĩa, mà xuyên qua cái chết ấy chúng ta sẽ hát lên một bản hùng ca tuyệt vời, một bài ca chiến thắng khải hoàn vang dội. Đó chính là bài ca mà Đức Giêsu, thầy của chúng ta đã cất lên qua sự Phục sinh vinh thắng của Ngài. Có hát lên bài ca này, chúng ta mới cảm thấu được tình yêu Thiên Chúa, và tiếp tục dấn bước theo lời gọi mời của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
“Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,33)
Anh chị em thân mến
Ai mà không thích sung sướng và sợ đau khổ. Tuy nhiên có những thứ khổ rất đáng kính trọng, chẳng hạn cha mẹ chịu cực chịu khổ để nuôi dạy con cái. Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta biết chính Ðức Giêsu cũng chọn cách cứu chuộc loài người bằng con đường đau khổ của Thập Giá.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa những đau khổ của chúng ta và xin Ngài giúp chúng ta biết thánh hóa đau khổ, biến đau khổ thành nguồn ơn thánh cho chúng ta và cho mọi người.
Vì sợ khổ và muốn trốn tránh đau khổ bằng mọi giá, nhiều khi chúng ta không chu toàn bổn phận.
Vì chưa ý thức giá trị của đau khổ nên khi gặp khổ, chúng ta chán nản thất vọng, thậm chí còn kêu trách Chúa.
Chúng ta không vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa.
III. Lời Chúa
Trong phần II sách Isaia, còn gọi là Ðệ nhị Isaia (Is 40-55), có 4 bài ca viết về một nhân vật rất đặc biệt được gọi là Người Tôi Tớ của Giavê (Is 42,1-4 49,1-6 50,4-9 và 52,13-53,12). Bài ca được trích đọc hôm nay là bài thứ ba.
Người Tôi Tớ Giavê này bản thân vô tội nhưng phải chịu rất nhiều đau khổ vì tội loài người.
Người Tôi Tớ này là ai? Ý nghĩa đầu tiên của nó là nói về dân Israel, họ phải chịu bao đau khổ trong kiếp lưu đày để chuộc tội cho muôn dân. Về sau, hình ảnh này được hiểu về Ðấng Messia. Ðức Giêsu làm ứng nghiệm lời tiên tri này: Ngài chịu nạn, chịu chết trên Thập giá để cứu chuộc loài người.
Tâm tình của người tín hữu trung kiên: dù đang bị bủa vây giữa muôn vàn đau khổ nhưng vẫn một lòng tin tưởng Chúa và hy vọng Chúa sẽ giải thoát.
Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần:
a/ Ðức Giêsu dò hỏi các môn đệ xem dư luận nghĩ sao về Ngài. Các môn đệ phản ảnh: có nhiều dư luận hơi khác nhau, nhưng tựu trung mọi người đều nghĩ Ðức Giêsu là một ngôn sứ. Phần Phêrô thì lên tiếng nói thay cả Nhóm 12: “Thầy là Ðức Kitô”.
b/ Sau đó Ðức Giêsu tiên báo về cuộc chịu nạn của mình. Phêrô ngăn cản liền bị Chúa trách nặng nề là Xatan. Rồi Ngài cho biết ai muốn làm môn đệ Ngài thì cũng phải đi theo con đường Ngài đi, đó là con đường thập giá.
– Các câu 33-35 “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”
. “Ai muốn theo tôi” nghĩa là ai muốn làm môn đệ Ðức Giêsu (“đi theo” ai là làm môn đệ cho người đó)
. “Từ bỏ chính mình”: xem ra từ bỏ mình nghĩa là tha hoá, vong thân (aliénation), mình không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt: tuy ta không còn là mình nữa nhưng ta hóa nên giống Ðức Giêsu thì thật tuyệt vời. Lý tưởng mà thánh Phaolô luôn nhắm tới là được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Ðức Giêsu. Hơn nữa đây thực sự không phải là “tha hóa” mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người “giống hình ảnh” Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị “tha hóa”. Nay cố gắng trở nên giống Ðức Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu.
. “Vác thập giá mình”: Kiểu nói này có nhiều nghĩa: a/ Ðón nhận những khổ cực của mình, cũng như Ðức Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài; b/ Theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế, “vác thập giá mình” nghĩa là coi như mình đã bị kết án tử; c/ câu 35 giải thích câu 34: “Quả thật ai liều mất mạng sống mình vì tôi…”. Như thế “vác thập giá” có nghĩa là “liều mất mạng sống”, hay nói nôm na là “liều mạng” vì Chúa.
Thánh Giacôbê bàn về đức tin và hành động. Cả hai đều cần thiết và phải đi đôi với nhau: “Ðức tin mà không có hành động thì là đức tin chết”.
* 1. Giêsu là ai?
Ðức Giêsu là ai? Ðó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Ðức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ra ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.
Ngày xưa, nhiều người Do thái trả lời rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ, tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhưng nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống bình an của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết chết các tiên tri: họ đã lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan Tẩy Giả và họ cũng đã đóng đinh Giêsu.
Riêng Phêrô thì trả lời rằng Giêsu chính là Ðức Kitô, nghĩa là một người có thừa khả năng để cứu rỗi đời mình và đáng cho mình đi theo cho đến hơi thở cuối cùng. Chính vì thế mặc dù muốn theo Thầy thì phải bỏ mình vác Thập giá, nhưng Phêrô đã sẵn sàng trung thành với Thầy cho đến chết.
Giêsu là ai? Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo lôi theo một nếp sống khác nhau. Có hai câu trả lời tiêu biểu sau đây ở trong 2 quyển tiểu thuyết:
. Quyển “The last temptation” (Cơn cám dỗ cuối cùng) mô tả Giêsu như một chàng thanh niên khoẻ mạnh, đẹp trai, nhiều khả năng. Chàng có một người yêu tên là Mađalêna. Nhưng một ngày nào đó, Giêsu bỗng bị ám ảnh rằng mình không thể sống nếp sống tầm thường mà phải sống như siêu nhân. Vì thế chàng từ bỏ tình yêu của nàng Mađalêna và lên đường rao giảng một thứ giáo thuyết siêu nhiên. Mađalêna thất tình buông trôi cuộc đời trong nếp sống truỵ lạc, đĩ thoả. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng siêu nhiên. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng siêu nhiên, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Nhưng sau đó gục đầu tắt thở.
Ðó là một câu trả lời, rằng: Giêsu chỉ là một người phàm, tuy người phàm này theo đuổi một lý tưởng siêu nhiên và do đó cũng đáng được người khác kính trọng, nhưng cái lý tưởng đó không thể thực hiện được. Thành thử chúng ta dù kính trọng Ngài nhưng không thể sống theo Ngài được.
Có lẽ đó là câu trả lời của rất nhiều người thời nay. Họ nhìn nhận Giêsu là một vĩ nhân, họ nhìn nhận đạo Ðức Giêsu là đạo tốt. Nhưng cái đạo đó chẳng giúp ích gì cho cuộc sống. Cuộc sống của họ cần có vật chất, cần có tiền bạc, cần có sự nghiệp, công danh, chứ không cần đến lý tưởng tôn giáo bao nhiêu. Vì thế họ lao mình vào cuộc sống vật chất, để sang một bên những vấn đề lý tưởng tôn giáo cho hạng đàn bà, trẻ nít, hay có cho mình thì cũng là tới khi về già, gần đất xa trời.
. Câu trả lời thứ hai chúng ta gặp trong quyển “Quo vadis”: quyển truyện này lấy khung cảnh thời Hoàng Ðế Neron của đế quốc Lamã đang thịnh trị. Tất cả các nước chư hầu đều phải gửi một con tin sang thủ đô Rôma. Ðó là một cách để bảo đảm sự tùng phục của các chư hầu. Trong số các con tin ấy có một nàng con gái đẹp tuyệt vời làm cho người cháu của Hoàng Ðế Néron si mê. Chàng này vừa có địa vị, vừa có thế lực, vừa có bạc vàng. Chàng tin chắc mình sẽ chinh phục được con tim của người đẹp. Lúc đó bạo chúa Neron cũng đang thẳng tay bắt giết những người theo đạo Ðức Giêsu. Phêrô đã phải sợ hãi bỏ thành Rôma chạy trốn. Nhưng đang khi đi trên đường thì Phêrô gặp Ðức Giêsu từ ngoài thành vác thập giá đi vào. Phêrô hỏi “Quo vadis”, tiếng Latinh nghĩa là “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?” Ðức Giêsu trả lời: Ta vác thập giá vào Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa, vì con đã không dám chịu đóng đinh.” Phêrô nghe vậy vội trở vào Rôma và cùng với các tín hữu khác chịu đựng những cuộc bắt bớ, cho đến chết. Tấm gương anh dũng của các tín hữu Ðức Giêsu đã làm cho nàng con gái đang làm con tin ấy cảm phục và tìm ra được lý tưởng cho đời mình.
Ðó là câu trả lời: Thầy là Ðức Kitô con Thiên Chúa hằng sống. Con xin theo Thầy cho dù phải vác thập giá và phải bỏ mình vì Thầy!
Ðức Giêsu không phải chỉ là siêu nhân mà còn là Con Thiên Chúa. Và vì là Con Thiên Chúa cho nên lý tưởng Ngài đề ra cho ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viễn vong không thể thực hiện. Là Con Thiên Chúa, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực hiện được lý tưởng của Ngài cho dù có phải trải qua muôn ngàn gian truân khổ sợ. Mà chính cái lý tưởng ấy mới khiến chúng ta sống xứng đáng là người. Con người nếu chỉ biết mê ăn uống, có tiền bạc, có vật chất, sinh ra để ăn, ăn rồi đói, đói rồi phải kiếm ăn, cứ như vậy cho đến lúc chết thì chẳng khác gì hơn con vật. Ðức Giêsu muốn giúp chúng ta sống hơn con vật, cho nên Ngài đã chọn kiếp là người, sống cho chúng ta thấy và sống theo để chúng ta sống xứng đáng là người. Chẳng những là người mà còn là Con Thiên Chúa như Ngài. Mà muốn được như Ngài, chúng ta phải đi theo Ngài, phải bỏ mình đi, phải vác thập giá… Nghĩa là phải cố gắng vươn lên, vươn lên cao hơn những nhu cầu vật chất xác thịt tầm thường. Chúa Giêsu đã tiên phong sống được như thế và Ngài sẽ giúp chúng ta sống được như thế, nếu chúng ta nhớ làm theo Lời Ngài: ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ được sống đời đời”.
Trên đây là hai câu trả lời tiêu biểu cho câu hỏi “Giêsu là ai?” Còn câu trả lời của chúng ta là gì? Nếu chúng ta trả lời như Phêrô “Thầy là Ðức Kitô” thì chúng ta cũng hãy cam đảm bỏ mình và vác thập giá đi theo Thầy.
* 2. Từ bỏ chính mình
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc: “Họa Mi và Bông Hồng Ðỏ”. Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: “Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi”. Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nỗi dằn vật bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:
– Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?
– Họa mi ơi! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.
– Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ?
– Họa mi ơi! đời cần hoa chi cho thương đau?
– Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình.
– Ðược, nhưng phép màu cần phải có màu đỏ.
– Bằng mọi giá chị ạ.
– Bằng giá sinh mạng?
– Kể cả sinh mạng em.
– Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông bồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Ðiều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị… Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.
*
Câu chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Ðó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình” (Mc.8,34). Ðây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.
Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể “được cả” mà cũng có thể “ngã về không”. Chính cái bắp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.
Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.
Nhưng “Từ bỏ chính mình” không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
“Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống” (Mc.8,35). Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Ðấng Tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì “Ai biết chết thì sẽ biết sống”.
*
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng mang mầm ích kỷ; thích hưởng thụ hơn là hy sinh, thích thu tích hơn là cho đi, thích cai trị hơn là phục vụ.
Xin dạy chúng con biết chiến đấu mà không sợ thương tích, làm việc cực nhọc mà không tìm nghỉ ngơi, biết hy sinh mà không đòi phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng: chúng con đang thực thi thánh ý Chúa. Amen. (Ignatiô Loyola). (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Có hai loại đức tin: Loại thứ nhất là tin theo niềm tin của ông bà, cha mẹ, thầy cô… Có thể gọi đây là đức tin thừa hưởng; Loại thứ hai là tin vì mình đã suy nghĩ, cân nhắc rồi thấy đáng tin nên tin. Có thể gọi đây là đức tin cá nhân.
Người có đức tin thừa hưởng có được cái lợi này là không dễ bị cám dỗ làm lung lạc đức tin: cho dù gặp phải những lập luận ngược với điều anh vẫn tin thì anh cũng không nao núng, bởi vì anh được cả một truyền thống nhiều thế hệ nâng đỡ đức tin của anh. Tuy nhiên anh cũng có cái bất lợi là đức tin ấy không đủ vững để làm nền tảng cho cuộc sống của anh, và cũng không đủ mạnh để thôi thúc anh loan truyền đức tin cho người khác.
Người có đức tin cá nhân cũng có cái lợi là bởi vì đức tin ấy do chính anh nghiền ngẫm suy nghĩ mà tìm ra cho nên nó rất vững mạnh. Tuy nhiên cái bất lợi là nó khiến anh phải tiếp tục tra vấn và suy nghĩ. Có thể một lúc nào đó anh lại hồ nghi và cũng có thể anh sẽ bỏ đức tin. Bởi vì đức tin thực chất là một ơn ban miễn phí chứ không phải là kết quả tìm tòi của con người.
Người hạnh phúc nhất là người có đức tin thuộc cả hai loại: vừa do thừa hưởng từ những thế hệ trước, vừa được củng cố bởi những xác tín cá nhân.
Bởi thế, trong bài Tin Mừng này, trước hết Ðức Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nghĩ Thầy là ai?” Câu hỏi nhằm kiểm tra những gì các ông thu nhận được từ người khác. Nhưng Ðức Giêsu còn hỏi tiếp “Phần chúng con, chúng con nghĩ Thầy là ai?” Câu hỏi này nhằm khuyến khích các ông suy nghĩ và có lập trường cá nhân, để đạt tới một xác tín cá nhân.
Chúng ta cám ơn Chúa vì cho chúng ta thừa hưởng đức tin từ các thế hệ cha ông. Nhưng chúng ta cũng phải cố gắng suy nghĩ và đào sâu đức tin ấy để nó trở thành một niềm xác tín cá nhân. Và luôn luôn chúng ta hãy xin Chúa gìn giữ và củng cố ơn ban đức tin của chúng ta. (Viết theo Flor McCarthy)
Một chiếc đồng hồ bằng vàng mà không chỉ đúng giờ thì vô ích.
Một cây xum xuê cành lá mà không có trái thì cũng vô ích.
Một chiếc đèn cẩn đầy kim cương mà không cháy sáng được thì cũng vô ích.
Cho nên Thánh Giacôbê nói: “Ðức tin không có việc làm là đức tin chết”.
Hoa trái của cầu nguyện là đức tin
Hoa trái của đức tin là tình yêu
Hoa trái của tình yêu là phục vụ
Và hoa trái của phục vụ là bình an. (Viết theo Flor McCarthy)
Nhận ra Ðức Giêsu là Kitô
Trước khi Ðức Giêsu đặt câu hỏi: “Anh em bảo Thầy là ai?”, Ngài đã từng làm nhiều dấu lạ trước mặt các môn đệ. Tại Galilê, Ngài đã hai lần làm cho bánh hoá nhiều để nuôi đám đông dân chúng (Mc 6,30-44; 8,1-10). Ngài đã từng đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (6,45-52). Ngài cũng đã trừ quỷ cho một bé gái (7,24-30), chữa một người câm điếc (7,31-37), và một người mù (8,22-26). Tất cả những việc Ngài làm và những lời Ngài dậy đã từ từ vén mở cho họ thấy Ngài là ai, mặc dù họ thường bị Ngài chê là đần độn và chậm hiểu (7,18; 8,17.21). Ðức Giêsu không trực tiếp nói cho các môn đệ biết căn tính của mình. Ngài dẫn họ đi trên con đường để họ tự khám phá ra Ngài. Xê-da-rê Phi-lip-phê là nơi mà Ðức Giêsu thấy có thể đặt cho các môn đệ câu hỏi quan trọng này: “Anh em bảo Thầy là ai?” Người ngoài chỉ có một cái nhìn mơ hồ và thiếu sót về Ðức Giêsu. Họ coi Ngài là Gioan Tẩy Giả, là ngôn sứ Êlia hay một ngôn sứ nào đó. Ðức Giêsu chờ đợi một câu trả lời rõ ràng và đầy đủ hơn từ phía các môn đệ thân tín. Phêrô, đại diện cho cả nhóm, nói lên niềm xác tín của mình: “Thầy là Ðức Kitô.” Phêrô đã nói đúng, nhưng hình ảnh của Phêrô về Ðức Kitô vẫn không khác với quan niệm thông thường của đám đông dân chúng: một Ðức Kitô oai phong lẫm liệt, không hề biết đến thất bại. Ðức Kitô đó không phải là Ðức Kitô Giêsu.
Ðức Kitô: Con Người chịu đau khổ
Dù sao nhờ câu tuyên xưng của Phêrô mà Ðức Giêsu bắt đầu nói đến cuộc khổ nạn của Ngài và nói một cách không úp mở. Ðây là điều mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức trình bày. Ngài không dùng dụ ngôn nữa, nhưng nói thẳng về định mệnh đang chờ đợi mình. Có người cho rằng lời tiên báo của Ðức Giêsu về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh chỉ là lời được viết dựa trên các biến cố đã xảy ra. Thật ra, Ðức Giêsu đã thấy những phản ứng chống đối lời giảng dạy của Ngài, Ngài biết mình phải đương đầu với các nhà lãnh đạo Do Thái giáo, và Ngài thấy bóng dáng của cái chết đang rình rập mình. Nhưng Ðức Giêsu không thối lui, dù Ngài có thể thối lui. Ngài không đi tìm cái chết, nhưng Ngài muốn tiếp tục trung tín với Cha và phục vụ loài người, dù phải trả giá bằng mạng sống. Ðó là sự lựa chọn của Giêsu, lựa chọn của một người có lòng tin. Ðức Giêsu tin rằng dù kẻ thù có cướp được sinh mạng của Ngài ở đời này thì Cha cũng chẳng bao giờ bỏ rơi Ngài, chẳng “để cho Ngài phải thấy sự hư nát” (Tv 16,10 bản LXX). Ðức Giêsu mang tâm tình của một chứng nhân hiên ngang ra pháp trường. Cái chết là giá phải trả để trung tín về một tình yêu.
Lời tiên báo về cuộc Khổ Nạn và Tử Nạn của Ðức Giêsu làm cho Phêrô choáng váng. Ông không sao hiểu được những điều khủng khiếp như vậy, bởi ông còn mải mê với một Ðức Kitô vinh quang. Ông phản ứng ngay, ông kéo Ðức Giêsu lại mà trách Ngài. Chẳng rõ ông đã nói gì với Ngài, nhưng chắc chắn đó là những lời can ngăn đầy tình yêu thương chân thành. Một lời can ngăn như thế thật nguy hiểm. Ðức Giêsu nhận thấy đây là một cơn cám dỗ của Satan qua môn đệ Phêrô. Ngài bảo ông: “Satan, hãy lui lại sau Ta”. Ngay từ khi gọi Phêrô ở ven hồ Galilê, Ðức Giêsu đã cho ông thấy chỗ của ông: “Hãy đi sau Ta”. Chỗ đứng của môn đệ là ở sau Thầy. Ðức Giêsu muốn đưa Phêrô về đúng chỗ của ông, bởi ông muốn dẫn đường cho Ngài, muốn đi trước Ngài. “Vì anh không nghĩ những điều của Thiên Chúa, mà chỉ nghĩ những điều của loài người.” Ðức Giêsu thấy rõ đâu là con đường Thiên Chúa muốn mình đi, và đâu là con đường thế gian chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt trên những tính toán khôn ngoan nhân loại. “Bởi vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người.” (1C 1,25)
Thân phận của người môn đệ
Những câu cuối cùng của đoạn Tin Mừng trên đây nhắm vào cả dân chúng lẫn môn đệ. Nói cách khác, nhắm đến mọi Kitô hữu, không phân biệt bậc sống. “Nếu ai muốn đi sau Ta”. Ði sau Ðức Giêsu là mẫu số chung của mọi Kitô hữu. Từ Ðức Giáo Hoàng đến các giáo dân, tất cả đều là môn đệ đi sau Thầy Giêsu, với một lòng tự nguyện. Bất cứ ai muốn thì đều được mời gọi đi theo, mà theo là phải từ bỏ. Các môn đệ đầu tiên đã bỏ chài lưới, bỏ cả thân phụ cùng những người làm công để theo Ðức Giêsu. Còn bây giờ, điều Ðức Giêsu đòi hỏi thì tận căn hơn nhiều. Không phải chỉ bỏ một vật nào đó, mà là từ bỏ chính mình. Từ bỏ này là gốc rễ của mọi từ bỏ khác.
Từ bỏ chính mình là không còn sống cho chính mình nữa, là vác lấy thập giá của mình mà theo Ðức Giêsu. Như thế Ðức Giêsu cho chúng ta một hình ảnh về người Kitô hữu. Kitô hữu là người vác thập giá mình đi sau Ðức Giêsu vác thập giá. Vác thập giá là công việc dành cho chính tử tội trên đường đến nơi chịu đóng đinh. Có thể chúng ta không được phúc tử đạo, nhưng chắc chắn mỗi Kitô hữu đều được chịu cái chết thiêng liêng, chết cho chính mình để rồi sống cho Thiên Chúa. Con đường Khổ Nạn – Phục Sinh của Ðức Giêsu là con đường Phêrô không thể hiểu được và cũng không chấp nhận, nhưng rồi đó cũng sẽ là con đường của ông, và của tất cả chúng ta. “Khi đã về già, anh sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho anh và lôi anh đến nơi anh không muốn.” (Ga 21,18). Ðức Giêsu đã vác thập giá, cái dụng cụ giết người mà cả người Do Thái lẫn Hy Lạp đều coi là nhơ nhuốc. Thập giá của Ðức Giêsu là do Ngài gánh lấy tội lỗi của nhân loại. Còn thập giá của chúng ta là do chúng ta lãnh lấy sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Ðức Giêsu và muốn làm chứng cho Ngài. Chúng ta chấp nhận liều mất mạng sống mình vì Ðức Kitô và vì Tin Mừng (c.35).
Từ bỏ chính mình là điều kiện tiên quyết, nếu không thì việc gánh vác sứ mạng của Ðức Giêsu sẽ chỉ là một ảo tưởng chẳng đi tới đâu. Ngay cả người đã theo Chúa cũng bị cám dỗ vì chính lòng tận tụy trung tín của mình. Ðiều này đã xảy ra nơi các môn đệ. Sau khi họ đã bỏ cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, tài sản… để theo Chúa, họ chợt thấy mình trở nên quan trọng. Cái tôi có nguy cơ lớn lên song song với lòng quảng đại hiến thân của họ. Nhóm Mười Hai bắt đầu tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong Nhóm (Mc 9,33). Vậy trở ngại đầu tiên và cuối cùng vẫn là cái tôi. Từ bỏ cái tôi là nỗ lực liên tục của mọi Kitô hữu, dù là tu sĩ hay giáo dân, già hay trẻ, trí thức hay ít học.
Thanh tẩy tội lỗi của mình nhờ ơn Chúa giúp, là điều không khó lắm. Nhưng thật là khó khi phải thanh tẩy mình khỏi những nhân đức và biết bao công trạng mình đã lập được. Với ơn Chúa, chúng ta có thể làm được điều khó khăn này. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu Kitô đã cứu độ mọi người bằng đi qua đường thập giá để đem họ vào vinh quang Nước Trời; đó cũng là đường mà mọi người phải đi qua để có thể vào Nước Trời. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, xin cho Lời Chúa và Thánh Thể Chúa bồi dưỡng chúng con, để chúng con luôn sẵn sàng chia sẻ với cuộc khổ nạn của Chúa, và cũng được chia sẻ vinh quang thiên quốc với Chúa. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị.
– Trước kinh Lạy Cha: Thánh Kinh nói “Chúa luôn gần gũi những tấm lòng tan nát khiêm cung”. Mỗi người chúng ta đều mang cõi lòng tan nát vì bao nỗi khổ đau. Chúng ta hãy dâng hết lên Chúa cùng với Lời kinh Lạy Cha.
– Trước lúc rước lễ: Ðức Giêsu mà chúng ta sắp rước vào lòng chính là Con Chiên Thiên Chúa gánh lấy mọi đau khổ và mọi tội lỗi của loài người.
VII. Giải tán
Thánh lễ đã xong. Khi về nhà, anh chị em hãy ghi nhớ Lời Chúa dạy hôm nay: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác Thập giá mình mà theo”.
Phụng vụ Lời Chúa trước đây đã tường thuật những việc làm và lời giảng của Chúa. Hôm nay, các bài đọc hướng đến những người nghe Chúa và nói về đức tin của họ. Đức tin của người Tôi trung trong Cựu Ước và của ông Phêrô trong Tân Ước đều là những thí dụ điển hình để ta có những ý niệm phong phú về lòng tin ta. Tuy nhiên đức tin không phải là mớ lý thuyết suông, mà phải được thực hành trong cuộc sống. Đó cũng là điều thánh Giacôbê Tông đồ nhấn mạnh qua bài đọc hai.
Vì có lòng tin vững vàng vào Thiên Chúa nên người Tôi trung mới dám thách thức như vậy. Đây là bài thứ ba trong loạt bài ca người Tôi trung trong sách ngôn sứ I-sai-a. Gọi là người Tôi trung, vì người ấy luôn trung thành đặt tất cả niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin ấy giúp họ biết nhận ra những điều Thiên Chúa làm cho mình và sẵn sàng thi hành những gì Chúa muốn. Niềm tin cũng là sức mạnh để nhờ đó họ có thể đương đầu với tất cả những khó khăn, thậm chí những bách hại cũng không làm họ nao núng chút nào. Vậy Thiên Chúa đã làm gì cho người Tôi trung?
Trước hết, Thiên Chúa “mở tai” cho người Tôi trung. Mở tai là để họ có thể lắng nghe lệnh truyền của Thiên Chúa. Tuy nhiên người Tôi trung vẫn có tự do trước lệnh truyền của Người, hoặc đón nhận, hoặc cưỡng lại hay từ chối. Ở đây niềm tin vững mạnh khiến người Tôi trung đặt lệnh truyền của Chúa lên trên hết và quyết tâm thi hành.
Khi người Tôi trung bị thử thách và bách hại, niềm tin ấy là động lực giúp họ can đảm ứng phó với mọi hoàn cảnh. Cử chỉ “đưa lưng cho người ta đánh đòn”, “giơ má cho người ta giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” diễn tả thái độ bình tĩnh và tự chủ, là những đặc nét của niềm tin lớn lao nơi Thiên Chúa. Để làm vinh danh Chúa, người Tôi trung chấp nhận cả những điều bất công đáng lẽ họ có thể phản kháng. Đối với người Tôi trung, sự phù trợ của Thiên Chúa là một thực tại rõ ràng và tuyệt đối. Không gì có thể làm cho họ mất xác tín vào sự phù trợ ấy. Mối nguy hiểm lớn lao nhất của người Tôi trung là phải làm chứng cho công lý. Nhưng có Thiên Chúa là “Đấng tuyên bố rằng họ công chính và ở kề bên họ” nên họ không sợ bất cứ ai kết tội họ.
Nhưng người Tôi trung đó là ai? Chính là Chúa Giêsu Kitô. Trong suốt cuộc sống trên trần gian từ khi xuống thế làm người, thi hành sứ vụ cứu độ cho tới lúc chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn những gì ngôn sứ I-sai-a nói về Người. Người là mẫu gương đức tin vào Thiên Chúa. Người rao giảng và chữa lành trong sự trung thành với sứ mệnh Thiên Chúa đã trao phó. Đức tin của Người biểu lộ hùng hồn nhất vào những giờ phút bi thảm của cuộc Thương khó. Sự trung thành đã đem lại cho Người sự phục sinh và vinh quang vĩnh cửu bên hữu Thiên Chúa Cha.
Như Chúa Giêsu đã tin vào Chúa Cha thế nào, ta cũng phải tin vào Chúa Giêsu như vậy. Trong cuộc đào tạo môn đệ, Chúa Giêsu lúc nào cũng ưu tư về đức tin của các môn đệ vào Người. Người muốn mặc khải cho họ biết dần dần về Người. Sách Tin Mừng Mác-cô có lối trình bày rât độc đáo về chân tính của Chúa Giêsu. Người ta quen gọi đó là “bí mật Đấng Mê-si-a. Từ khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho đến lúc chết trên thập giá, Chúa Giêsu luôn luôn cấm người được chữa lành không được nói về Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng hôm nay, sau khi ông Phêrô tuyên xưng “Thầy là Đấng Kitô”, Chúa Giêsu cũng “cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người”. Chân tính của Chúa Kitô chỉ được tiết lộ khi “viên đại đội trưởng đứng đối diện với Chúa Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: ‘Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”.
Theo câu truyện Tin Mừng hôm nay về việc ông Phêrô tuyên xưng đức tin, ta có thể nhận ra một số nét chính về đức tin. Tin nghĩa là nhìn nhận phẩm giá của người mình muốn tin. Tin vào Chúa Giêsu có nghĩa là nhận biết Chúa là Đấng nào và sứ mệnh của Người là gì. Chính vì hai điểm này, đức tin mở đầu với câu hỏi “người ta nói Thầy là ai?” Trả lời cho câu hỏi trên, đức tin đòi hỏi việc nhìn nhận chân tính của Chúa Giêsu phải là nhìn nhận của riêng cá nhân, chứ không thể do những điều nghe người này người kia nói. Do đó, Chúa Giêsu mới hỏi môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Sự nhìn nhận này nảy sinh từ đáy tâm hồn của từng người. Đức tin không thể là điều vay mượn của người khác, nhưng là khởi đầu cho một mối quan hệ giữa ta với Chúa. Quan hệ này sẽ đưa ta đi khám phá thêm con người, đạo lý và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Đây chính là điều ông Phêrô và các bạn chưa biết hoặc không muốn biết. Nói khác đi, đức tin giúp ta tìm hiểu và nhìn nhận sứ mệnh của Chúa Giêsu. Để bổ túc cho thiếu sót rất lớn lao này, Chúa Giêsu “bắt đầu dạy cho các ông biết: Con Người phải chịu đau khổ nhiều…, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Vừa nghe vậy, ông Phêrô phản kháng, chẳng muốn nhìn nhận một thứ sứ mệnh không đáp ứng với mong mỏi của ông và các bạn. Đối lại, Chúa Giêsu còn phản kháng mạnh hơn, cốt để khắc phục các ông phải nhìn nhận cả điều đi ngược lại mong muốn của mình. Người mắng ông là thứ kỳ đà cản mũi, không muốn đi theo đường lối Thiên Chúa và bắt chước Người làm Tôi trung của Thiên Chúa. Như vậy, điều cốt yếu về đức tin là phải tùy thuộc vào phẩm giá của Chúa chứ không phải tùy thuộc vào điều ta mong mỏi, hoặc đức tin là ta tùy thuộc vào Chúa chứ không phải Chúa tùy thuộc vào ta.
Một điều nữa vô cùng quan trọng về đức tin, là đức tin không là điều nằm trong trí óc, nhưng được thể hiện bằng đời sống và việc làm. Nhận biết chân tính và sứ mệnh của Chúa chưa đủ, ta còn phải đi theo Chúa. Điều này Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết cái giá đắt khi ta theo Người. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8:34). Đức tin trở nên nguyên lý sự sống đời đời. Sự sống đời này và sự sống đời đời là hai thực tại khác nhau, nhưng lại liên hệ chặt chẽ với nhau. Đức tin trong sự sống đời này là điều kiện phải có để được sự sống đời đời. Mà trong cuộc sống đời này, đức tin sẽ gặp nhiều thử thách như vàng thử lửa, luôn đòi hỏi ta sẵn sàng “liều mất mạng sống mình vì Chúa và vì Tin Mừng”. Chúa Giêsu không ngại gọi việc liều mất mạng sống đời này như phương thức duy nhất để “cứu được mạng sống đời sau”. Ta mới chỉ liều mất mạng sống vì đức tin, còn Chúa Giêsu thì đã thực sự mất mạng sống vì lòng tin vào Thiên Chúa và nhân loại. Người đã trả giá đắt cho lòng tin vào tình yêu Chúa Cha và nhân loại. Vì mất mạng sống do tin yêu nên Người đã được phục sinh và đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.
Thánh Giacôbê đi vào thực tế khi ngài quả quyết: Đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết. Đức tin chết đâu có gây được tác động gì, khác chi cái xe hỏng máy nằm ụ một chỗ và không thể chuyên chở ta đi nơi này nơi kia. Ngài lập lại ý tưởng của Chúa Giêsu về chức năng của đức tin là “cứu mạng”. Thực tế hơn nữa, ngài dùng hình ảnh người anh chị em của ta sống trong hoàn cảnh thiếu thốn và cần đến sự giúp đỡ của ta để áp dụng vào việc sống đức tin. Hành động vì đức tin của ta trong hoàn cảnh này là quảng đại giúp đỡ người anh chị em ấy. Hành động là dấu chỉ nói lên đức tin sống động. Ta giúp đỡ anh chị em là vì ta tin lời Chúa dạy ta sống bác ái và thương yêu anh chị em như chính mình. Ta cho anh chị em túng đói cơm ăn áo mặc là vì ta thực hành điều Chúa dạy: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 26:40). Thánh Giacôbê quả quyết không thể chứng minh đức tin khi không được biểu lộ bằng hành động. Trái lại khi ta hành động thì hành động đó sẽ cho người khác thấy động lực khiến ta hành động là vì có đức tin. Một thí dụ cụ thể: hành động ta cho anh chị em túng thiếu ăn khi họ đói, áo mặc khi họ lạnh nói lên rằng ta tin có Chúa nơi anh chị em và họ cùng với ta đều là con cái Thiên Chúa.
Có lẽ việc tách rời đức tin với hành động là điều rất thường thấy nơi nhiều Kitô hữu. Chính vì họ tách rời như vậy nên đời sống của họ có hai phạm trù riêng biệt. Họ tưởng hành động của đức tin là đọc kinh cho to, xem lễ cho nhiều, rước sách cho linh đình… Nhưng ra khỏi nhà thờ, hết kinh hết lễ thì đời sống họ vẫn giậm chân tại chỗ, không thêm được một chút tình thương nào đối với những người đói khổ túng thiếu, trái tim họ không hề rung động trước cảnh khốn khó của anh chị em. Cây đức tin của họ khô cằn, thiếu sự sống, nên không sinh được hoa trái nào. Thánh Giacôbê mô tả đức tin hết sức đơn sơ, một đức tin sống hay là chết, nhưng lại là hình ảnh thực tế đòi hỏi mỗi người phải xét lại đức tin của họ.
Đề tài đức tin của Lời Chúa hôm nay không phải là một bài thần học hoặc giáo lý cao siêu, nhưng nằm ngay trong kinh nghiệm cuộc sống của người Tôi trung, của thánh Phêrô và thánh Giacôbê cũng như của mọi người muốn làm môn đệ Chúa Kitô. Đức tin hệ tại tâm hồn quyết tâm gắn bó với Chúa và sống theo điều Người dạy. Tin vào Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã suốt đời sống theo “tư tưởng” hoặc đường lối của Chúa Cha. Cũng vậy, nếu ta tin vào Chúa Giêsu, ta cũng phải uốn nắn đời sống ta theo khuôn mẫu đời sống của Người, sống vì Người và vì Tin Mừng.
Suy nghĩ: Thánh Giacôbê viết: “Tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin”. Vậy để chứng tỏ cho những người chung quanh thấy tôi là người có đức tin, tôi phải có những hành động nào? Đối với những người trong gia đình? Trong sở làm? Trong cộng đoàn? Những hành động ấy nói lên điều gì nơi tôi?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa hằng hữu là Cha chúng con, xin cho lòng chúng con luôn hướng về với Chúa Kitô, để khi quyết tâm làm môn đệ Người như việc quan hệ nhất trong đời, và lấy tình bác ái phục vụ anh chị em, chúng con hoàn toàn hiến thân phụng thờ Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CMC)
Trong một tuần lễ sinh hoạt học hỏi và huấn luyện của các anh chị Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể từ các Xứ Đoàn gửi về. Ngày cuối chúng tôi được tham dự một buổi viễn du ngoài xã hội: đi thăm một viện dưỡng lão người già tại thung lũng Valley d’Amoure. Trong viện có chừng 60 bệnh nhân đủ mọi hạng người: già khớ đến, mù, đui, điếc, què và những bệnh nhân ngồi xe lăn. Chúng tôi đến thăm viện từ sáng sớm, nhiều người còn đang ngủ, nên nhận xét được rất nhiều: Có bà già co quắp chân tay, nằm èo ẹt trên giường còn xông mùi nước tiểu nồng nặc. Có cụ già gù và điếc ngồi trên xe lăn, hướng mắt nhìn ra cửa chính. Cụ là người già nhất và cô đơn nhất, ngày ngày cụ ra ngồi chỗ cửa chính để ngóng con trai vào thăm nom. Trong gian nhà chơi trống rỗng vài ba ông bà già ngồi chụm quanh bàn chơi cờ tây, lâu lâu mới được nụ cười thích thú. Trong một căn phòng kê đủ 3 chỗ ngủ, một thiếu nữ trạc độ 20 tuổi, cụt hai chân, đang quấn trong chăn, miệng ngồm ngoàm nhai bữa điểm tâm sáng. Phòng bên cạnh là một bà già đứng tuổi đang dương đôi mắt mờ mờ nhìn sát màn ảnh Tivi mầu. Bà mở cho máy kêu oang oang phát ra cửa. Đi phòng nào cũng ngửi thấy mùi hôi ban sáng, khiến tôi bị nôn mữa, phải chạy ra ngoài để lấy không khí. Chúng tôi giúp đỡ họ làm sạch vệ sinh ban sáng rồi tụ họp họ lại nhà hội để làm văn nghệ mua vui cho họ. Một buổi sáng hôm đó, chúng tôi đã làm cho biết bao guôm mặt rạng rỡ nụ cười. Ngay chính chúng tôi cũng cảm thấy hạnh phúc và sung sướng.
Câu chuyện trên đây thật thích hơp với bài Tin Mừng hôm nay “Thầy còn phải khổ nhiều”. Chúa còn phải đau khổ nhiều khi nhìn đến nỗi khổ của dân chúng, đặc biệt là những kẻ khốn cùng. Trên thế giới này biết bao người tàn tật, bệnh hoạn về thể xác, già cả, khổ đau về tinh thần…. Cần được giúp đỡ, cần phải phục vụ . Làm cho họ chính là làm cho mình sung sướng vì họ là hình ảnh của Chúa hiện diện nơi đám dân nghèo. Chúa còn nói: “Những gì ngươi làm cho một anh em nghèo khổ là làm cho chính Ta” (Mt. 25:40).
Lạy Chúa, xin cho con thấu hiểu điều này là: Biết phục vụ người khác mới tìm được hạnh phúc thật.
Giả như có một ngày, chúng ta nhận được một cú điện thoại bảo chúng ta tới một địa điểm nào đó và gặp một người như mô tả qua điện thoại để nhận một món quà lớn. Luùc ñoù chúng ta sẽ suy nghĩ và đắn đo nhiều. Bởi lẽ, chỉ qua điện thoại làm sao sự tin tưởng của chúng ta trọn vẹn được.
Ðúng vậy, ông bà chúng ta có nói vô tri bất mộ nghĩa là không biết thì không thể tin được. Ðoạn tin mừng hôm nay cho thấy sau một thời gian Chúa Giêsu công khai ra đi rao giảng, hôm nay Người muốn xem dư luận biết mình là ai. “Người hỏi các môn đệ: Người ta nói Thầy là ai? Các ông đáp: Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” (Mc 8, 27b 28).
Ðó là cái nhìn của những người ngoài. Giờ đây Chúa Giêsu trắc nghiệm cái nhìn của các môn đệ thân tín của mình “Người lại hỏi các ông: Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Ông Phê-rô trả lời: Thầy là Ðấng Kitô.” (Mc 8, 29)
Chúa Giêsu chính là Ðấng Kitô của Thiên Chúa Giavê – một Ðấng Kitô tôi tớ. Chính tiên tri Isaia đã loan báo về Người trong bài đọc 1: ÐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ”. (Is 50, 6)
Chúa Giêsu đến trần gian hoàn toàn do ý định của Thiên Chúa Cha. Ý định hoàn tất tình thương của Thiên Chúa dành cho con người. Do đó, Chúa Giêsu một mực vâng theo thánh ý nhiệm mầu của Cha. Ðể từ đó con người được đón nhận trọn vẹn ơn cứu chuộc.
Thánh Phêrô cũng như các Tông đồ mặc dù tuyên xưng Chúa Giêsu đúng như Người là nhưng các ông chưa cảm nghiệm thật sự về Người. Chỉ sau biến cố Phục sinh của Chúa Giêsu các ông mới cảm nhận sâu sắc về Người. Cho nên, các ông dám liều mình vì Chúa và vì Tin mừng.
Có nhiều mức độ để biết về một ai đó. Trong đó cái biết trong tim là mức độ cao nhất. Cái biết đó sẽ làm thay đổi cách sống của con người ta. Cái biết đó sẽ làm cho người ta bạo dạn hơn. Cái biết đó sẽ là cho người ta tin tưởng và dấn thân trọn vẹn hơn. Có thể từ lâu chúng ta chưa thật sự biết Chúa Giêsu đến mức độ này nên cuộc sống của mình vẫn chưa được biến đổi nhiều. Hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta mỗi ngày được biết Người bằng chính con tim của mình. Nhờ đó, đời sống đức tin của chúng ta sẽ ngày càng tốt hơn.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc: “Họa Mi và Bông Hồng Đỏ”. Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: “Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi”. Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nỗi dằn vật bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:
– Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?
– Họa mi ơi! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.
– Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ?
– Họa mi ơi! đời cần hoa chi cho thương đau?
– Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình.
– Được, nhưng phép màu cần phải có màu đỏ.
– Bằng mọi giá chị ạ.
– Bằng giá sinh mạng?
– Kể cả sinh mạng em.
– Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông bồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị… Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.
***
Câu chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình” (Mc.8,34). Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.
Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể “được cả” mà cũng có thể “ngã về không”. Chính cái bắp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.
Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.
Nhưng “Từ bỏ chính mình” không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
“Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống” (Mc.8,35). Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Đấng Tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì “Ai biết chết thì sẽ biết sống”.
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng mang mầm ích kỷ; thích hưởng thụ hơn là hy sinh, thích thu tích hơn là cho đi, thích cai trị hơn là phục vụ.
Xin dạy chúng con biết chiến đấu mà không sợ thương tích, làm việc cực nhọc mà không tìm nghỉ ngơi, biết hy sinh mà không đòi phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng: chúng con đang thực thi thánh ý Chúa. Amen. (Ignatiô Loyola).
Truyện kể rằng vua Chosroes nước Ba Tư, trong một cơn bệnh trầm trọng, đã suy nghĩ về cuộc sống của mình. Sau khi bình phục, vua triệu tập các cận thần và hỏi họ: “Trẫm muốn biết những gì các khanh đang chờ đợi nơi trẫm. Các khanh có nghĩ rằng trẫm là một quân vương tốt không? Đừng sợ, cứ nói lên hết sự thật, trẫm sẽ thưởng cho mỗi người một viên ngọc quí”. Thế là các quan thay nhau lên tiếng ca ngợi vua. Người nào cũng tìm những lời tốt đẹp nhất khen lao tâng bốc vua. Khi đến lượt Elim, vốn là một người khôn ngoan và chính trực, ông tâu: “Thưa bệ hạ, thiết tưởng thần nên giữ thinh lặng thì hơn, vì sự thật không thể mua bằng tiền bạc”. Vua tuyên bố: “Được. Trẫm sẽ không thưởng cho ngươi vật gì cả. Nào, hãy nói những gì khanh đang suy nghĩ trong lòng”. Elim thưa: “Tâu bệ hạ, vì bệ hạ muốn biết những điều hạ thần đang nghĩ trong lòng. Hạ thần nghĩ rằng bệ hạ cũng chỉ là người như mọi người khác, cũng có những lầm lỗi và tật xấu. Nhưng những lầm lỗi và tật xấu ấy lại đè nặng trên dân chúng vì siêu cao thuế nặng… Thần nghĩ rằng bệ hạ đã tiêu xài quá nhiều để tổ chức tiệc tùng, để xây cất dinh thự, và nhất là để theo đuổi chiến tranh”.
Nghe những lời ấy, nét mặt vua bỗng trở nên trầm ngâm suy nghĩ. Rồi vua sai tặng cho các cận thần mỗi người một viên ngọc như đã hứa. Riêng Elim thì được bổ nhiệm lên chức tể tướng. Ngày hôm sau, các quan nịnh bợ trở lại triều đình tâu vua: “Tâu bệ hạ, kẻ nào bán ngọc qúi cho bệ hạ đáng phải treo cổ. Những viên ngọc ấy toàn là ngọc giả”. Bấy giờ vua lên tiếng: “Trẫm biết đó toàn là ngọc gỉả, cũng như những lời tâng bốc giả dối của các ngươi”.
Tin mừng theo Thánh Marcô cũng tường thuật Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là ai?” Các ông lần lượt thưa: “Kẻ thì bảo là Gioan Tẩy Gỉa, kẻ thì bảo là Elia, kẻ khác thì nói đó là một tiên tri” (27-28). Nhưng Chúa Giêsu chưa hài lòng về những câu trả lời đó, Ngài đã thấu rõ lòng các ông thế nào rồi chẳng cần phải nói ra, nhưng để các ông khám phá Ngài là ai trong cuộc sống các ông, nên Ngài hỏi tiếp: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Phêrô thưa: “Thầy là Đức Kitô” (29). Vì được trời cao mạc khải nên Phêrô đã trả lời đúng. Tuy nhiên trong thâm tâm của Phêrô và các môn đệ cũng như người Do thái thời đó đều mong ước một Đấng Kitô đến để giải phóng dân Israel khỏi ách thống trị của Rôma, làm cho nước Israel nên cường thịnh. Một Đức Kitô họ nặn ra theo ý họ hơn là một Đức Kitô do Thiên Chúa Cha sai đến. Vì thế khi Chúa hé mở cho các môn đệ thấy Ngài lên Giêrusalem và phải chịu đau khổ nhiều, phải chết đi rồi sống lại, Phêrô đã kéo Ngài ra ngoài can ngăn.
Câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ xưa, Ngài cũng muốn hỏi từng người chúng ta hôm nay. Chúng ta không thể chỉ trả lời theo như điều chúng ta học biết trong sách vở hay nghe người khác nói. Nếu như thế, chúng ta theo Chúa chỉ mới hời hợt mà thôi. Nhưng Chúa muốn chúng ta phải nhận thức Ngài là ai, trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Vậy để trả lời đúng, chúng ta phải sống như Ngài đã sống. Chúng ta phải Kitô hoá đời sống mình, nghĩa là phải cố gắng tập nhìn bằng mắt Chúa, nghe bằng tai Chúa, nói năng bằng miệng Chúa, hành động bằng tay Chúa, suy tưởng và phán đoán bằng tâm trí Chúa. Nói cách khác, phải xin Chúa cho tinh thần Ngài thấm nhập vào mọi hành vi cử chỉ của chúng ta. Thế nhưng để nên giống Chúa Kitô chúng ta phải siêng năng chiêm ngắm cuộc đời Chúa Kitô Đấng đã tận hiến mình trọn vẹn cho Cha, hoàn toàn vâng phục Cha đến nỗi sẵn sàng chết và chết trên thập gía để làm trọn ý Cha.
Lạy Cha, chúng con nài xin Cha, qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, xin ban tràn đầy Thánh Thần cho mỗi người chúng con, để soi sang và hướng dẫn lòng trí chúng con luôn theo sát gương Chúa Kitô Con Cha, để chúng con bắt chước Người mọi giây phút trong cuộc sống, hầu chúng con thực đáng gọi là Kitô hữu, là người bạn thân của Chúa Kitô Con Cha. Nếu không, chúng con cũng chỉ là những kẻ nịnh bợ gỉa dối. Rốt cuộc, có lẽ Chúa cũng chỉ thưởng cho chúng con những viên ngọc giả.
Đoạn 8:27-35 được đặt ở vị trí bước ngoặt trong tin mừng theo Marcô. Trong phần đầu của tin mừng nầy (1:14-8:26), Marcô đã trình bày Chúa Giêsu, Đấng đầy quyền năng trong giảng dạy và hành động. Điều nầy dẫn đến kết luận giữa dân chúng là Người được công nhận như là Đấng Kitô; và cũng chỉ từ lúc nầy Người mới cho biết sự thương khó của Người. Như thế, đoạn 8:27-35 có thể được xem như là kết luận của phần thứ nhất của tin mừng nầy, và cũng là dẫn nhập của phần thứ hai (8:27-16:80), nói đến hành trình lên Giêrusalem (8:27-10:52), những hoạt động ở đó (11:1; 13:37); và cuộc thương khó, cái chết và phục sinh tại Giêrusalem (14:1; 16:8).
Đoạn 8:27-35 được chia thành ba: 1- Câu hỏi của Chúa Giêsu về căn tính của Người (8:27-30); 2- Tiên báo lần thứ nhất về định mệnh của Chúa Giêsu (8:31-33); 3- Điều kiện và mục đích của việc theo Người (8:34-35; đúng hơn, phần nầy kéo dài đến câu 9:1). Sau đoạn tra hỏi và khẳng định về căn tính của Chúa Giêsu (8:27-30), đoạn 8:31-33 liên kết xét theo chủ đề rất chặt chẽ với đoạn 8:34-9:1và được trình bày cách đối xứng với đoạn ấy: định mệnh của Chúa Giêsu trong lời tiên báo của Người (8:31-32a) trở nên định mệnh tất yếu cho những ai muốn theo Người (8:34-37); trong khi, hành vi phản đối của Phêrô trước lời tiên báo ấy (8:32b-33) dẫn đến giáo huấn của Người cho những ai muốn chối bỏ Người (8:38-9:1).
Ngay khởi đầu tin mừng, Marcô đã giới thiệu Chúa Giêsu như là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (1:1). Tước hiệu “Đấng Kitô” nầy chỉ xuất hiện trong phần thứ hai của tin mừng (8:29; 9:41; 12:35; 13:21; 14:61; 15:32); trong khi, ở phần thứ nhất cũng có những cách gọi khác liên quan đến căn tính của Người như “Con Yêu Dấu” (1:11), “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (1:24), “Con Thiên Chúa” (3:11), “Con của Thiên Chúa tối cao” (5:7). Hơn nữa, cách nói “Ngài/Ông là”, ở ngôi thứ hai, trong câu hỏi hoặc câu khẳng định, chỉ được dùng để bàn đến căn tính của Người (1:11; 3:11; 8:29; 14:61; 15:2). “Đấng Kitô” (tiếng hy lạp, christos), hay “Đấng Messia” (tiếng do thái, mashiah) nghĩa là “Đấng được xức dầu”. Xức dầu là hành vi quyết định trong việc tôn vương (x. 1Sam 10:1; 1V 1:39). Do đó, Đấng Kitô là vua (15:32). Chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định địa vị và quyền năng của Người khi được hỏi về căn tính “Đấng Kitô” của Người (x. 14:61-62). Với dân chúng, Người được cho là một trong các ngôn sứ (8:28). Nhưng thật ra, Người là vị vua duy nhất (x. 12:1-12).
Sự phản đối của chính Phêrô (8:32), những thắc mắc và chế diễu của những người lãnh đạo của người do thái (14:61) và của Philatô (15:2.9.12.18) chứng tỏ tâm thức của họ lúc ấy không thể chấp nhận đấng được gọi là vua của họ có thể chịu số phận khổ đau theo như lời tiên báo của Chúa Giêsu (8:31). Điều đáng chú ý là Phêrô và Chúa Giêsu đã trách mắng lẫn nhau (8:32.33)! Động từ “trách mắng” (epitimaò), ngoài ý nghĩa “ra lệnh” (3:12; 8:30), được dùng trong lời Chúa Giêsu trách mắng các thần ô uế (1:25; 9:25), sóng gió đe dọa (4:39). Khi trách mắng, Người tự đặt mình như là đối thủ của những quyền lực xấu ấy. Lý do Phêrô trách mắng Chúa Giêsu là vì Người đã nói đến điều mà ông không từng nghĩ đến; trong khi Người trách mắng lại ông, cũng vì ông đã không nghĩ tưởng như Người (8:33). Hai bên đã trở thành đối thủ không mong muốn của nhau. Tuy nhiên, lời trách mắng của Chúa Giêsu sắc bén một cách riêng. Một đàng, Người ra lệnh Phêrô đi lui đàng sau Người; nghĩa là trở về lại vị trí của người môn đệ là đi theo sau Người (x. 1:17.20; 8:34), chứ không phải đứng trước để chỉ đường cho Thầy mình. Đàng khác, Người gọi ông là “Satan” nghĩa là “đối thủ” của Thiên Chúa (x. Dân số 22:22, 32; Zac 3:1–2; Gióp 1:6–9, 12; 2:1–7; 1 Niên sử 21:1), vì ông cản trở hành trình của Người. Như thế, Chúa Giêsu đã được công nhận là Đấng Kitô, nhưng theo cách nghĩ tưởng trần thế.
Làm môn đệ của Chúa Giêsu thì phải đi theo sau Người. Đi trước Người sẽ trở thành đối thủ và cản trở công việc của Người. Làm môn đệ của Người cần học và chấp nhận Người là Đấng Kitô chịu đóng đinh và phải chuẩn bị đối diện số phận như Người (x. 1Cr 1,23).
Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm, và họa sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một bức ảnh tựa đề: “Người bị khinh chê chối bỏ.” Họa sĩ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ chính tóa Thánh Phaolô, trong một khu phố đông đúc ở trung tâm Luân đôn, nhưng không một ai để ý tới Chúa. Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa. Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không nhìn lên Chúa. Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước, nhưng không thấy Đức Kitô. Có một nhà thần học đang hăng say thuyết minh về Đức Kitô mà không nhìn về Người. Duy chỉ có một nữ tu nhìn về Chúa, nhưng vẫn tiếp tục đi con đường của mình.
Ông Barclay (William Barclay), một học giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức họa: “Những hoàn cảnh này thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Kitô tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai chú ý tới. Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện cao sâu hơn là việc lưu tâm tới Chúa hoặc theo dõi Lời Chúa. Chuyện đó lạ đời, nhưng lại thực sự xảy ra ngay lần Chúa xuống trần gian hai ngàn năm trước. Sau một thời gian Chúa xuất hiện rao giảng Tin Mừng Cứu độ. Người đã làm bao phép lạ sôi nổi, gây chấn động trong dân chúng, rồi Chúa hỏi các môn đệ xem người ta bảo Chúa là ai, thì mỗi người lại nói mỗi khác. Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả Phục Sinh, người nói là Êli, người khác bảo là một ngôn sứ… Tất cả nói đúng nhưng chưa đủ. Chỉ có Phêrô mới có thể nói đúng và đầy đủ về Chúa: “Thầy là Đấng Cứu Thế.”
Lời tuyên bố của Phêrô là câu trả lời Chúa Giêsu muốn có. Nhưng Chúa cũng nói ngay đó là do Cha trên trời tỏ bày cho, chứ không phải nhờ học hỏi hay nghiên cứu. Phêrô và các Tông đồ được ơn soi sáng, được dạy dỗ và hướng dẫn để hiểu biết sự thật về Đức Kitô, vì các ông là môn đệ Chúa, sẽ tiếp tục sự nghiệp Chúa nơi trần thế. Lời tuyên bố này rõ ràng là một ơn mạc khải, vì chính Phêrô nói ra mà cũng không hiểu tường tận về lời mình nói. Ngay lúc đó Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ về số phận của Người. Chúa nói sẽ chịu đau khổ nhiều, bị bắt, bị hành hạ, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại. Nghe vậy, các môn đệ khó chịu, các ông đã không để ý tới việc Chúa sẽ sống lại, và cho là Chúa thất bại, thua kẻ thù. Vì thế, Phêrô kéo Chúa ra một chỗ và can ngăn Chúa đừng nói vậy, đừng để chuyện đó xảy ra. Vì thế, Chúa Giêsu nổi giận mắng ông: “Satan, hãy lui đi!”
Chúa Cứu Thế sẽ cứu chuộc trần gian bằng thập giá. Đó là điều quan trọng vì Chúa đòi buộc các môn đệ của Người cũng đi con đường này: “Ai muốn theo Thầy hãy bỏ mình đi, vác thập giá mà theo. Vì ai muốn cứu mạng mình thì sẽ mất. Còn ai sẵn sàng bỏ mạng sống vì Thầy và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được sự sống mình.”
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu biết Chúa hơn để chúng con biết vác thập giá đi theo Chúa và được vào hưởng vinh quang với Chúa.
MINH HỌA LỜI CHÚA – Nguyễn Hiếu
Có đôi vợ chồng sinh được cháu trai. Đây là con cầu con khẩn, vì hai vợ chồng sống với nhau từ lâu mà không có con. Họ rất sốt sắng thờ phượng Chúa, luôn cầu xin Chúa cho đứa con nối giòng. Chúa nhậm lời cho bà vợ mang thai. Họ ước mong sinh được đứa con trai khôi ngô tuấn tú.
Đến ngày sinh, rủi thay người vợ sinh ra đứa con trai có tật tay phải. Người cha ôm con mà khóc nức nở … Thân nhân bạn hữu đến thăm, thấy thế không biếtnói sao cho hợp tình hợp lý, phải chia vui hay chia buồn. Nhưng cha mẹ đứa bé khuyết tật đã làm cho họ bỡ ngỡ thán phục. Họ nói, “Vợ chồng chúng tôi đã xóa khỏi đầu óc điều chúng tôi hằng mong ước. Hiện chúng tôi đã có đứa con, công việc của chúng tôi bây giờ là thương yêu nuôi dưỡng nó, vì đã khuyết tật hay gì nữa, nó vẫn là con của chúng tôi.”
William Oscar Wilde kể huyền thoại “Họa mi và bông hồng đỏ.” Một hôm giữa mùa hè, con hoạ mi nghe lời chàng trai bên cửa sổ, “Nếu em không kiếm được mộ tbông hồng đỏ để anh cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ phải xa anh mãi mãi.”
Họa mi hiểu rõ lời của chàng trai, nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ giữa nắng cháy mùa hạ này? Nhưng nếu không tìm được thì người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không thể chịu nổ icảnh bi thương đó, nên đến nài nỉ cây bông hồng, “Chị hồng ơi, chị làm ơn giúp cho em một bông hồng đỏ.”
– Họa mi em, giữa nắng cháy mùa hạ này, làm sao chị có hoa hồng đỏ cho em?
– Chị có phép mầu nào chị cố gắng nở cho em mộ tbông thôi.
– Nhưng họa mi ơi, muốn có phép mầu, phải có máu đỏ và sinh mạng.
– Em sẵn long bằng mọi giá chị ạ.
– Vậy em hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ.
Họa mi đã đ ổđến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đóa hồng bí nhiệm đỏ thắm.
Khổng Tử nói, Ngọc không dũa không sáng, người không chịu thử thách không thể hoàn thiện.” Trong cuốn sách “Tôi tin” có câu chuyện sau đây đã xảy đến cho ông James du Pont lúc ông mới lên 7 tuổi. Một đêm đang khi ngủ say, bỗng James thức giấc. Cậu thấy mẹ đang ngồi khóc. Đây là lần đầu cậu thấy mẹ khóc. Và cha cậu ngồi bên an ủi. Cậu thuật lại
– Lúc đó cha mẹ tôi đau buồn quá nên quên tôi đang có mặt bên cạnh. Và khi mọi việc được giải quyết êm đẹp, biến cố đã xảy ra đêm đó vẫn lưu lại trong tâm trí tôi. Và tôi nhớ mãi lời cha tôi nói để an ủi mẹ tôi, “Cuộc đời không phải chỉ toàn là hoa hồng.”
Một ẩn sĩ trẻ được linh sư dẫn đến ngồi ở cổng làng, chào hỏi mọi người qua lại và mọi người cũng đáp trả niềm nở.
Ngày nọ có một người không để ý đến sự có mặt của thầy trò, mặc cho hai tu sĩ ngã đầu chào, người đó vẫn thinh lặng đi qua. Thấy thế, vị tu sĩ trẻ bực tức, nên linh sư giải thích:
– Con đừng thắc mắc làm chi. Có thể ông ta điếc hoặc quá bận việc.
Nhưng vị ẩn sĩ trẻ không bằng lòng vói lời giải thích đó. Thầy cả quyết người đó thiếu giáo dục, thiếu lễ độ.
Rồi một hôm người đàn ông đó cũng đi ngang qua trước mựt hai ẩn sĩ và cũng vẫn không đáp lại lời chào hỏi. Bỗng ông ta trợt chân té ngã, hai ẩn sĩ vội chạy đến đỡ dậy thì thấy hai túi áo rộng lớn của ông chứa đầy những viên đá cụi. Và hai thầy trò đã đưa ông về tận nhà thì được người vợ cho biết:
– Từ nhiều năm nay, ngày nào chồng tôi cũng đến bờ sông nhặt những viên đá cụi về xây đền thờ thần của chúng tôi, vì không muốn cho ai biết, nên chồng tôi cố giấu những viên đã đó trong người.
***
Câu chuyện trên có thể minh hoạ cho lời thánh Giacôbê trong bài đọc thứ hai hôm nay: “Đức tin không việc làm là đức tin chết”.
Và thánh nhân nói tiếp: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”. Nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích gì?” (Gc 2,15-16).
Phải chăng thánh Giacôbê muốn nói với chúng ta: “Một đức tin không có hành động cụ thể của bác ái là một đức tin chết” (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).
Trong tác phẩm: “Người nghèo của Chúa”, có câu chuyện về thánh Phanxicô Adxidi:
Tôi và bạn tôi đến một thành phố nhỏ. Bạn của tôi chính là bạn thân với thánh Phanxicô Axidi từ thuở nhỏ. Tình cờ gặp lại thánh nhân, anh ta mừng rỡ chạy đến ôm ngài và hỏi:
– Anh Phanxicô! Ai đã khiến anh ra nông nỗi này?
– Chúa đã làm giúp tôi.
Bạn tôi ngạc nhiên hỏi tiếp:
– Bao nhiêu đồ dùng sang trọng của anh, bao nhiêu áo quần đẹp đẽ của anh, cả cái lông chim đỏ gắn trên mũ của anh thở nào, sao mất hết cả rồi? Và mấy chiếc nhẫn vàng trên tay anh nữa?
– Satan đã cho tôi, Tôi trả lại cho nó.
Bạn tôi nhìn từ đầu đến chân vị thánh. Anh không thể tưởng tượng được người bạn hào hoa phong nhã ngày nào của anh, bây giờ mũ cũng không còn, giày dép cũng không. Cảm xúc đến rơi lệ, anh hỏi:
– Nầy anh Phanxicô, anh từ đâu đến?
– Từ một thế giới khác.
Chính thánh Phanxicô Axidi đã thực hiện Lời Chúa Giêsu trong Tin mừng Luca 14, 25-33 “bỏ hết mọi sự theo Thầy” làm môn đệ của Chúa.
***
Giai thoại trên đây gợi lên cho chúng ta suy nghĩ về hạnh phúc đích thật của con người. Xem ra con người dõi theo cái bóng hạnh phúc hơn là chính hạnh phúc. Có người không hạnh phúc nằm trong giàu sang; có người lấy danh vọng làm hạnh phúc; có người tìm kiếm hạnh phúc trong lạc thú. Nhưng kinh nghiệm cho thấy; tất cả chỉ là ảo ảnh. Tiền bạc, quyền bính, danh vọng, lạc thú, cuối cùng rồi chỉ làm cho con người thất vọng chán nản ê-chề.
Là Đấng đã đặt trong trái tim con người hạnh phúc, nên chỉ có Thiên Chúa mới chỉ cho con người biết đâu là hạnh phúc đích thực. Chính Chúa Giêsu là hiện thân của niềm hạnh phúc đích thực đó. Và Người chính là con người duy nhất trên trần gian đã đạt được nguồn hạnh phúc đích thực đó. Người dạy cho chúng ta biết: hạnh phúc đích thực không tìm được trong tiền tài, danh vọng, lạc thú, chức quyền, Sống hạnh phúc là sống như Chúa Giêsu, là sống một cuộc sống hy sinh bỏ mình, vác thập giá hàng ngày: là sống hoàn toàn cho Thiên Chúa và tha nhân”. (theo “Phút cầu nguyện cuối ngày” tập II)
6.Theo chúa là từ bỏ
Bức tranh “tiệc ly” của Chúa Giê su là một trong những tác phẩm danh tiếng của họa sĩ Leo Narđô de Vinci. Nhân vật chính là Đức Giê su và các tông đồ bao quanh.
Khi đem bức tranhnầy ra triển lãm, nhà danh họa đứng nép trong gốc phòng quan sát các người đến xem. Ông hết sức ngạc nhiên thấy điểm thu hút trong bức tranh không phải là gương mặt Đức Giêsu, mà là một cánh hoa nhỏ ông vẽ trong một gốc của bức tranh. Ông cảm thấy hối hận vì đã vẽ thêm cánh hoa đó, khiến mọingười không chú ý đến trọng tâm của bức tranh là gương mặt của Đức Giêsu. Ông liền dùng cọ bôi bỏ cánh hoa ấy. Ngay ngày hôm sau, mọi người đến xem tranh đều chăm chú dán mắt vào điểm trọng tâm của bức tranh là gương mặt của Đấng Cứu Thế.
***
Theo Chúa là đặt Người vào trọng tâm của cuộc sống, là nhìn thấy Người trong mọi sự.
Chúa Giêsu không chỉ là một bậc thầy vạch đường cho người khác đi, nhưng chính Người là con đường duy nhất. Mọi người phải đi theo Người đến cõi phúc bất diệt. Như thế có nghĩa là phải từ bỏ tất cả để đi theo Người. Với các môn đệ đầu tiên, Người chỉ bảo “hãy theo Ta” là họ bỏ mọi sự theo Người. Bỏ tất cả đi theo Chúa, đó là đòi hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho chúng ta trong Tin Mừng hôm nay.
Theo Chúa là tin rằng Người đang sống và sống thiết thực trong cuộc sống chúng ta. Do đó, kẻ theo Người phải luôn tỉnh thức nhận ra Người trong tất cả mọi sự và trong từng giây phút của cuộc sống. Và đi theo Chúa cũng có nghĩa là phải sống thế nào để mọi người nhìn vào đều nhận được gương mặt Cứu thế của Người. Một cuộc sống như thế chắc hẳn đòi hỏi nhiều hy sinh từ bỏ, như nhà danh hoạ Vinci phải xóa bỏ cánh hoa đẹp trong bức tranh để cho mọi người chú ý đến gương mặt Chúa Giêsu. Cũng thế, người môn đệ phải sẵn sàng tháo gỡ và vứt bỏ những gì còn vướng mắc, và phải vứt bỏ dứt khoát, để chỉ để cho Chúa và làm cho mọi người nhận ra gương mặt của Người qua chính cuộc sống của mình.
(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Sau khi Tổ Tông phạm tội, Thiên Chúa đã ra hình phạt cho hai ông bà (A-Dong và Evà); đó là tội Nguyên Tổ, nhưng Thiên Chúa cũng hứa sẽ sai một Đấng Cứu Độ đến để chuộc tội và ban ơn Cứu rỗi cho nhân loại (Sáng Thế 3: 15). Đấng được Thiên Chúa hứa sẽ sai đến người Do Thái gọi là “Messiah” (có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu), dịch sang tiếng Hy Lạp “Christos”, chuyển âm sang tiếng Anh và tiếng Pháp là “Christ’ và sang tiếng Việt Nam là “Kitô”. Chính Chúa Giêsu cũng tự nhận mình là Đấng Kitô (Matcô 14: 61-62).
Sở dĩ người Do Thái gọi “Đấng Chúa Hứa” là “Đấng Được Xức Dầu” là vì theo truyền thống Do Thái, các vua được xức dầu phong vương (1Samuel 10:1), các Thày Cả Thượng Phẩm cũng được xức dầu (Xuất Hành: 29:7). Người Do Thái quan niệm Đấng Kitô là vị “Vua” trong tương lai. Ngài sẽ đến trong uy quyền để đổi mới mọi sự, để phục hồi lại nước Israel (Daniel 9: 25-26), giải phóng dân tộc Do Thái khỏi mọi áp bức, và đưa dân Chúa tiến lên trong vinh quang.
Nhưng Đấng Kitô đã đến trần gian trong khó nghèo. Ngài đã sinh bởi lòng Đức Trinh Nữ Maria (Luca 2: 10-11), và Ngài được đặt tên là Giêsu như lời Sứ Thần nói với Đức Maria (Luca 1: 31) và Thánh Giuse (Matthêu 1:21). Như vậy, Đấng mà “muôn dân mong đợi” đã đến trong trần gian, tên Ngài được gọi là Giêsu, cùng với danh hiệu Kitô ghép lại thành Giêsu Kitô.
Qua Bài Phúc Âm hôm nay (Matcô 8: 27-35) chúng ta thấy người Do Thái thời Chúa Giêsu chưa nhận ra Ngài chính là “Đấng Kitô” Thiên Chúa sai đến, nên người thì bảo Ngài là Gioan Tẩy Giả, người thì bảo là Êli, người thì bảo là một trong các Tiên Tri…” Chính vua Herôđê cũng cho Ngài là “Gioan Tẩy Giả ta đã giết, nay đã sống lại (Matcô 6:16). Nhưng khi Chúa Giêsu hỏi các Tông đồ, thì Phêrô đã đại diện anh em xác quyết “Thày là Đấng Kitô!”. Xác quyết như vậy tỏ ra Phêrô và các Tông đồ đã nhận biết được Chúa Giêsu chính là Đấng Kitô “mà muôn dân mong đợi”. Tuy nhiên, Phêrô và các Tông đồ chưa hiểu được là “Đấng Kitô sẽ phải chịu nhiều đau khổ, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế và luật sĩ chối bỏ và giết đi, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại…” (Matcô 8:31) Chính tiên tri Isaia cũng đã tiên báo trước về những đau khổ Đấng Kitô sẽ phải chịu để cứu chuộc nhân loại như trong Bài Đọc I hôm nay (Isaia 50: 5-9). Vì chưa hiểu được quan niệm “Đấng Kitô Đau Khổ”, nên khi nghe Chúa Giêsu nói như vậy, Phêrô “đã can ngăn Chúa Giêsu” và Chúa Giêsu đã quở mắng ông: “vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là tư tưởng của loài người!” Tiếp theo, Chúa Giêsu đã dạy cho các Môn đệ bài học thực tế: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình đi, vác Thánh Giá hàng ngày mà theo Ta…”
Bài học “Đấng Kitô Đau Khổ” là bài học Chúa dạy các môn đệ, nhưng cũng là bài học Chúa dạy chúng ta nữa là các tín hữu muốn bước theo Thày Chí Thánh: “Đấng Kitô phải chịu nhiều đau khổ và chết đi rồi mới sống lại trong vinh quang.” Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống và thực hành đức tin của chúng ta như Thánh Giacôbê đã nhắn nhủ chúng ta trong Bài Đọc II hôm nay (Giacôbê 2: 14-18). Xin cho chúng ta biết can đảm chịu mọi đau khổ trong cuộc sống theo Thánh Ý Chúa, vì “chỉ khi chúng ta biết chịu đau khổ với Chúa Kitô, chúng ta mới được chung hưởng vinh quang với Ngài” (Rôma 8: 17). Mỗi khi phải chịu những đau khổ nặng nề xảy ra cho chúng ta hoặc gia đình chúng ta, chúng ta luôn biết nhìn lên Thánh Giá Chúa để thêm can đảm và sức mạnh hầu tiếp tục “vác thánh giá theo chân Chúa!” Đồng thời cũng biết nhận ra những đau khổ của bao người chung quanh chúng ta “không đủ cơm ăn áo mặc” để biết “chia sẻ cơm áo cho những người thiếu thốn” ấy.
Xin Mẹ Maria đã luôn sống trong cuộc đời đau khổ, nhất là giờ phút dưới chân Thánh Giá, an ủi, nâng đỡ chúng ta. Xin các Thánh, nhất là các Thánh tử Đạo Việt Nam, tất cả đều đã “can đảm vác Thánh Giá theo chân Chúa” cầu cùng Chúa cho chúng ta luôn sẵn sàng “can đảm chịu mọi đau khổ hàng ngày cho nên.” Trong “Năm Linh Mục” chúng ta cũng nhớ cầu nguyện nhiều cho các Linh Mục, các chủ chăn cũng luôn biết suy ngắm những sự đau khổ của Chúa Giêsu để can đảm âm thầm chịu mọi đau khổ hằng ngày trong cuộc đời tận hiến phục vụ Chúa và nhân loại.
(Suy niệm của Phêrô Trần Đình Phan Tiến – ‘Bước Theo’)
“Hành động của Thiên Chúa”, chủ đề CN 24 TN (B) (Mc 8, 27-35), thoạt nhìn ta thấy có hai chủ đề là “tuyên xưng niềm tin” (c 29) và “Mầu nhiệm Tử nạn” (c31), hay là Hành Động của Thiên Chúa.
Vâng! thật hợp lý với lời giảng giải của thánh Giacôbê ở đoạn(Gc 2, 14-18): “Đức tin và Hành Động”. Qủa thật, Đức tin không thôi chưa đủ, vì Chúa Giêsu kêu gọi phàm nhân “tin vào Người” (Ga 3,15) để đón nhận ơn cứu độ. Nhưng ơn Cứu Độ không phải là lời nói suông, mà là một hành động cụ thể, thật vậy, Thiên Chúa đã hành động.
Hành động của Thiên Chúa thì không phải hành động như phàm nhân. Hành động của Thiên Chúa là hành động yêu thương, hành động quên mình để hy sinh cho kẻ khác. Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ đáng bị tiêu diệt, Thiên Chúa không trừng phạt kẻ đáng bị trừng phạt. Vì Ngài là Thiên Chúa yêu thương, yêu thương là gánh lấy về mình tất cả. Như vậy, thoạt đầu đọc đoạn Tin Mừng (Mc 8,27-35) hôm nay, ta nghĩ rằng có sự mâu thuẫn, vì tại sao con người tuyên xưng niềm tin vào Chúa như Phêrô lại bị quở trách nặng nề.Nhưng suy niệm sâu xa ta thấy ý nghĩa của Lời Chúa hôm nay, không phải là lúc con người tuyên xưng đức tin, hay nói cách khác tuyên xưng niềm tin, nhưng chưa hiểu mầu nhiệm mà ta tuyên xưng. Như vậy vấn đề cho thấy, tin vào Chúa và tín thác vào Ngài, cần phải có hành động cụ thể là thực thi Ý Định của Thiên Chúa, tin vào Thiên Chúa đồng thời phải lắng nghe Lời của Thiên Chúa để thực thi Ý Ngài. Vì tin mà không hành động thì niềm tin ấy không sinh kết quả, như vậy niềm tin ấy không có lợi ích gì. Vì “…tin trong lòng thì được công chính, còn tuyên xưng ngoài miệng thì được ơn cứu độ” (Rm 10,10). Như vậy, muốn đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa cần phải có hai điều kiện là “Tin” và “thực thi” niềm tin vào Thiên Chúa. Vd: Thiên Chúa là tình yêu, khi ta tin vào Thiên Chúa, thì ta cũng phải hành động như Thiên Chúa là ta phải yêu tha nhân như Chúa đã yêu ta. Đó là nguyên lý của niềm tin, nhưng thực tế ta không thể yêu tha nhân như Thiên Chúa đã yêu ta, vì ta chưa trở nên như Thiên Chúa được.Nhưng ít ra ta cũng phải hành động theo ý định của Thiên Chúa, điều nầy phù hợp với chúng ta hơn, vì trong giới hạn của nhân trần. nhưng ta có thể chứng minh lòng tin của ta vào Thiên Chúa bằng nhiều cách, như vậy là niềm tin của ta được hành động. Thánh Giacôbê đã so sánh rất tuyệt vời về “Đức Tin và Hành động” như sau: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?… cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết”. (Gc 2,14.17).
Như vậy Chúa Giêsu không phải quở trách Phêrô vì ông tuyên xưng niềm tin vào Người, mà quở trách Phêrô vì ông đã can thiệp vào mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa cần phải hành động để minh chứng “Lời” của Thiên Chúa từ ngàn xưa. Khi Chúa Giêsu nói: “Ai tin vào tôi thì có sự sống muôn đời” (Ga 3,15), nhưng Người không phải là vị Vua của trần thế. Nếu chi ngồi đó mà nói như vậy, thì quả thật không đáng tin. Nhưng Đấng cứu thế là vị Vua đích thực của Nước Trời, vì vậy Người đã hành động như một vị cứu thế đúng nghĩa. Người đã trở nên con chiên hiền lành bị đem đi giết.
Vâng! Đấng Cứu Thế đã hành đông đúng như lời Isaia đã nói: “Ta đã trao thân cho kẻ đánh Ta, giơ má cho người ta vả; Ta đã chường mặt mình cho họ mắng, họ nhổ” (Is 50,6). Một Đấng cứu thế như vậy, đã được loan báo trong Cựu Ước, nhưng phàm nhân không đón nhận. Vì phàm nhân không thích Thập giá. Nhưng Thiên Chúa lại dùng chính sự từ chối của trần thế để cứu chuộc thế trần. Vì vậy, Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng nề: “Hỡi satan! hãy lui ra đằng sau, vì tư tưởng của ngươi không phải là tư tưởng của Thiên Chúa”. (Mc 8, 33b).
Niềm tin là biết có ánh sáng, nhưng hành động là phải tiếp nhận ánh sáng và chuyển giao ánh sáng cho người khác. Nếu hành động không có niềm tin thì hành động mù quáng, nếu chỉ có niềm tin mà không hành động thì niềm tin ấy không tỏa sáng, bị lu mờ và tắt đi vì thiếu thực tế.
Lời Chúa là ánh sáng, khi tin theo trong cuộc sống hằng ngày phải được chiếu soi cho hành động của con người. Niềm tin cần cho hành động và hành động cần cho niềm tin. Niềm tin có hành động là niềm tin sống. Hành động có niềm tin là hành động tuyệt vời.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã quở trách Thánh Phêrô vì niềm tin của ông chỉ suy nghĩ đơn thuần nông nổi. Niềm tin ấy chưa đủ yếu tố để mang ơn cứu độ đến cho người khác. Niềm tin xác đáng là niềm tin phải hành động, như Chúa đã hành động là chu toàn thánh Ý Chúa Cha một cách tron vẹn. Xin ban cho chúng con là những kẻ mỏng giòn ,yếu đuối cũng có được sức mạnh của lòng tin vào Chúa và những hành động của lòng tin vào Chúa, là những hành động cụ thể của chúng con, để trần gian nhìn thấy hành động của chúng con mà ngợi khen Cha trên trời. Amen.
KHÓ NHỌC THAY KHI LÀM CHO
NHỮNG KẺ CHÂN THÀNH VỠ MỘNG!
Khởi hành.
Một cô bé mười hai tuổi bơi lội rất giỏi, thầy giáo của cô nhận thấy cô có triển vọng rất lớn cho thế vận hội Montréal. Khi trở về nhà cô đã vội nói với mẹ dự tính của mình. Bà vạch ra cho cô một bức tranh rất thực tế, thậm chí rất u ám về những đòi hỏi vô cùng khắc nghiệt của việc chuẩn bị cho một cuộc thi đấu như thế. Ngoài việc học mà cô không thể lơ là được, cô phải tập dượt gắt gao sáu ngày mỗi tuần trong bốn năm, những giao tiếp xã hội hầu như không còn nữa, lại không chắc chắn thành công, thêm với những mệt nhọc… Mẹ cô để cô tự do quyết định, sau khi cố gắng vạch cho cô thấy những ảo tưởng của cô.
Dẹp đi những ảo tưởng của những người chân thành: đó là điều mà thánh Marcô muốn làm trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe, và trước hết ngài muốn nhắn nhủ các Kitô hữu thành Roma. Thánh Marcô cảm hứng từ lối ứng xử của Chúa Giêsu với các môn đệ.
Nhân dịp Phêrô tuyên xưng đức tin, một lời tuyên xưng hẳn là tuyệt vời, nhưng rõ ràng còn rất bất toàn, Chúa Giêsu đã nói thẳng với các môn đệ “Thầy là Đấng Mêsia”, nghĩa là: “Con đã theo Thầy từ một năm rưỡi nay, con đã nghe Thầy giảng dạy, con đã chứng kiến những phép lạ Thầy làm, con đã nhìn thấy cách Thầy sống, đối với con Thầy là chứng nhân của Thiên Chúa và của Nước Trời. Vì vậy con đã theo Thầy để Thầy dẫn con đến Thiên Chúa”. Phêrô thành thật bày tỏ kinh nghiệm của mình, và Chúa Giêsu không hề phản đối lời tuyên xưng đức tin của ông. Tuy nhiên Chúa tiếp lời ông ngày bằng việc loan báo cuộc tử nạn của Ngài và lần đầu tiên, Ngài dạy cho các ông hay rằng Con Người phải đau khổ nhiều… Lúc đó, Phêrô bị sốc đến nỗi ông tự cho phép mình trách móc Thầy. Nhưng Chúa Giêsu liền đưa ông lại đúng vị trí của ông: “Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy… con không hiểu gì về kế hoạch của Thiên Chúa”. Rồi Ngài thêm: “Ai muốn đi theo Thầy, thì hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Thầy. Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”
Vậy là Chúa Giêsu tìm cách dẹp đi ảo tưởng của những kẻ chân thành, nhưng Ngài không thành công. Chỉ đến ngày lễ Thánh Thần hiện xuống các tông đồ của Ngài mới sáng mắt ra.
Biết rằng các Kitô hữu thành Roma xao xuyến trước những cuộc bách hại nổi lên chống họ và “một số sẵn sàng chối rằng họ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô để khỏi chết”, thánh Marcô phản ứng cách mạnh mẽ. Ai muốn trở nên môn đệ Chúa Kitô thì phải giống như Ngài. Marcô muốn dẹp đi ảo tưởng của các Kitô hữu ngỡ ngàng vì thấy mình phải đương đầu với những cuộc bách hại.
Tháng ba năm 1980, chúng ta có một chứng tá lẫy lừng từ Châu Mỹ La Tinh. Bất chấp những nguy hiểm đến tính mạng, Đức tổng Giám mục San Salvador, Đức Cha Romero, đã dám nhân danh Tin Mừng tố cáo những bất công trong xứ sở của ngài. Sau đó ngài đã bị ám sát trong nhà thờ lúc đang cử hành Thánh lễ. Đó là một Kitô hữu không ảo tưởng.
Câu hỏi.
Chúng ta nghĩ gì về Chúa Giêsu? Chúng ta chẳng sống trong ảo tưởng khi cho rằng có được sự sống đời đời là điều dễ dàng ư?
Lời Chúa và Thánh Thể.
Khi cử hành Bí tích Thánh Thể vào chiều thứ năm tuần thánh. Thầy chí ái của chúng ta đã hiến dâng mạng sống cho Cha Ngài vì yêu mến Cha và vì ơn cứu độ của tất cả mọi người. Ta hãy cử hành Thánh lễ trong tinh thần phục vụ đó, và sẵn sàng chấp nhận hy sinh theo gương Ngài.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Một bé gái bảy tuổi đã lái một máy bay xuyên qua đất nước, đi theo có cha của bé và một người huấn luyện viên bay. Cuộc bay kết thúc bằng một tai nạn. Nhiều người trẻ đã quyết định trèo lên một ngọn núi cao nhất khi họ đi du lịch mặc dù họ không có kinh nghiệm. Một tảng đá bất chợt bị sút ra, một người đã bị trượt xuống và kéo tất cả cùng chết. Động cơ thúc đẩy người ta liều lĩnh đó là gì? Để lướt thắng sợ hãi, để vượt lên phía trước những nguy hiểm qua những cuộc phiêu lưu nguy hiểm? Đối với một đứa bé gái, Jessica Dubroff và cha của cô bé, họ đã làm như thế để nhận một phần thưởng. Đối với những người leo núi, điều đó là niềm tự hào của sự chinh phục. Đôi khi những người tìm kiếm cảm giác thì đổ cho định mệnh. Họ nói rằng cần có sự liều lĩnh bất cứ khi nào anh lái một chiếc xe hơi và như vậy chúng ta sẽ không phải lo lắng về sự may rủi, để sống một đời sống thật tràn đầy.
Chúa Giêsu không phải là một người tin vào định mệnh, nhưng Ngài biết cuộc sống của Ngài sẽ chấm dứt thế nào. Đó là kế hoạch của Cha Ngài muốn cho Ngài sẽ chết trên thánh giá, không phải để Ngài nhận một phần thưởng như ước ao nồng nhiệt của bố Jessica, nhưng là Người có thể mang lại cho chúng ta món quà sự sống đời đời. Người biết rằng sứ vụ của Người giống như các tiên tri có trước Người, sẽ phải chịu sự giận dữ của kẻ thù và những kẻ thù đó mạnh mẽ đủ để kết án tử Người, Người sẵn lòng trèo lên núi Calvario để giang cánh tay của mình trên thánh giá, để âu yếm tất cả chúng ta trong tình yêu thần linh của Người. Cái chết của Người không phải là một tai họa nhưng là hoàn thành sứ vụ của Ngài trên mặt đất này. Đó là một cuộc chinh phục vĩ đại trên tội lỗi và cái chết đời đời.
Không có sự liều lĩnh nơi Chúa Giêsu, liều lĩnh có nghĩa là một cơ hội của sự tổn hại hay sự chết. Chúa Giêsu đã chết là một điều chắc chắn. Khi thánh Phêrô với chủ ý tốt nhất đã cố gắng ngăn cản Người đừng theo con đường thánh giá, Chúa Giêsu đã đáp lời một cách mạnh mẽ: Người đã nói với Phêrô rằng ông không được xét đoán theo loài người nhưng là theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Trong mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa, cái chết của Con Người thì thật cần thiết cho sự cứu độ của chúng ta.
Chúng ta có thể cảm thấy rằng có một sự liều lĩnh khi theo Chúa Giêsu, nhưng không phải vậy. Đó là một sự chắc chắn. Nếu chúng ta theo Người cách trung thành, chúng ta sẽ nghe Người dạy: “Ai từ bỏ chính mình mang lấy thập giá của mình mà theo Ta”. Thánh giá của chúng ta không có nghĩa là hình khổ đóng đinh theo nghĩa chữ. Trong từ chuyên môn Công giáo, chúng ta nói về những người đặc biệt có những gánh nặng khó khăn phải chịu đựng trong cuộc sống thì người đó đang mang một thánh giá nặng. Chúng ta hiểu rằng thánh giá đối với chúng ta có nghĩa là mất môt công việc, hoặc là mắc một cơn bệnh nặng, hoặc cần thiết làm một hy sinh có ý nghĩa để chăm sóc gia đình hoặc những phần tử trong gia đình đang bị đau khổ hay bị sốc. Thánh giá dành cho cha mẹ có thể là nhìn thấy con cái của mình rời bỏ Giáo Hội hoặc sa vào rượu chè say sưa, hoặc trai gái. Thánh giá đối với con cái có thể là đau buồn trong cuộc sống, thấy cha mẹ say sưa hoặc đau buồn khi họ ly dị khiến cho gia đình tan tác. Thánh giá cho tất cả chúng ta là cái chết của một người thân yêu.
Thánh giá trong cuộc sống của chúng ta không thể trở thành một bi kịch. Điều đó sẽ không chinh phục được sự chú ý của cả nước như chuyến bay của Jessica Dubroff đã làm, nó có liên hệ đến việc thách đố, nó cũng không liên quan tới nỗi say mê của những người leo núi. Nhưng quan trọng hơn thánh giá không mang đến một bi kịch. Nó không có nghĩa là một tai họa. Thay vào đó, mang thánh giá đối với chúng ta là theo ý muốn của Thiên Chúa mà Ngài sẽ dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Thánh giá có nghĩa là sống trong sự hợp nhất với Chúa Giêsu, điều đó có nghĩa là chia sẻ những đau khổ của Chúa Giêsu và cái chết của Người, Đấng sẽ ban cho chúng ta những đặc ân của Cha, là hạnh phúc đời đời của Người và Thánh Thần trên thiên đàng. Chúng ta sẽ không sợ thánh giá. Thánh giá là ý muốn của Thiên Chúa dành cho chúng ta, đó là con đường thật sự để sống một đời sống viên mãn.
Trong đời sống có rất nhiều điều hiểu lầm. Chẳng hạn xưa kia khi thấy mặt trời cứ sáng mọc tối lặn, người ta tưởng rằng trái đất đứng yên và mặt trời di chuyển chung quanh trái đất. Nhưng khoa học tiến bộ đã minh chứng mặt trời đứng yên, chính trái đất mới xoay chung quanh mình và chung quanh mặt trời. Trong đời sống đạo cũng đã có những hiểu lầm như thế. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện đến. Không ngờ Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ Người lại sinh ra trong chuồng bò lừa. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải uy quyền lẫm liệt. Nhưng không ngờ Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do Thái lên địa vị bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế là một ông vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ.
Có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa, người ta cũng sai lầm về người môn đệ. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được chức cao quyền trọng trong Nước Chúa. Nên bà Giêbêđê mới xin Chúa cho hai người con là Gioan và Giacôbê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong Nước Chúa. Nhưng không ngờ Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống, nghĩa là phải chết. Người ta cứ tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được trọng vọng, được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai trong anh em muốn làm lớn thì phải phục vụ anh em”. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì Chúa sẽ cho mọi sự may mắn ở đời, được thành công. Được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo”.
Hôm nay, sau khi nghe các môn đệ báo cáo về dư luận quần chúng, Đức Giêsu thấy họ quá sai lầm về Người, về vai trò Cứu thế của Người, về con đường cứu chuộc. Nên Người đã dậy rõ ràng cho các môn đệ biết Đấng Cứu thế thực là Con Thiên Chúa. Nhưng con đường Người đi là con đường thập giá. Người phải chịu đau khổ, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, và phải chịu chết.
Người cũng cho các môn đệ biết ai muốn theo Người cũng sẽ phải đi vào con đường của Người. Phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người.
Phải chăng Thiên Chúa muốn hành hạ con người, muốn con người tàn lụi chứ không muốn con người phát triển, muốn con người phải chịu đau khổ chứ không muốn con người được hạnh phúc? Tại sao trên trần gian, người ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh phúc sung sướng mà Chúa thì làm ngược lại, chỉ hứa cho những người theo mình thánh giá và đau khổ?
Thưa, chắc chắn Chúa muốn cho con người được hạnh phúc. Chính vì muốn con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con người. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua. Chúa muốn cho con người được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Những vất vả đau đớn không phải là vì Chúa độc ác muốn hành hạ con người. Những đau đớn từ bỏ mình không phải là vì Chúa muốn con người đi vào tàn lụi diệt vong. Nhưng đó là qui luật, là điều kiện để được sự sống, được hạnh phúc đích thật.
Chính Đức Giêsu cũng phải đi qua con đường thập giá khổ nhục mới đến hạnh phúc. Chính Người phải kinh qua cái chết đau đớn mới tới ngày phục sinh vinh quang. Nên Chúa đã nói với các môn đệ: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Thành ra, đau khổ Chúa hứa không phải để hành hạ con người, nhưng là con đường dẫn con người đến hạnh phúc đích thực. Thập giá và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để con người được tái sinh và triển nở trong đời sống mới, đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc không bao giờ tàn.
Những lời Chúa nói hôm nay, tuy khó nghe và khó chấp nhận. Nhưng đó là sự thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu. Chúa đã không lừa mị ta, không hứa hẹn cho ta những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ cho ta đường ngay nẻo chính. Chúa mời gọi ta phải dũng mạnh, can đảm và quyết liệt trong cuộc chạy đua dành lấy hạnh phúc nước trời.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình, vác thập giá mình mà bước theo Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đâu là những hiểu sai lầm về Chúa?
2) Đâu là những hiểu sai lầm về người môn đệ của Chúa?
3) Có phải Chúa muốn ta khổ sở khi bảo ta phải từ bỏ mình không?
4) Tại sao Chúa phải chịu đau khổ?
Nhìn thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi:
– Liệu Ngài có phải là Đấng Cứu Thế hay không?
Nhất là trong hoàn cảnh họ đang phải sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã, họ trông chờ một Đấng Cứu Thế đến giải phóng họ và đem lại cho quê hương họ sự phồn thịnh.
Theo mong ước của nhiều người Do thái thì Đấng Cứu Thế là một vị anh hùng dân tộc, đến đánh đuổi quân ngoại xâm. Ngài sẽ là người dùng quyền lực thống trị các dân, trừng phạt những người tội lỗi và quân ngoại xâm. Đàng này, Đấng Cứu Thế Giêsu đến lại tỏ ra nhân từ với hết mọi người, kể cả người tội lỗi và dân ngoại. Tuy Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền và làm những dấu lạ chưa ai từng có. Tuy nhiên, Ngài lại không chấp nhận làm vua, làm Messia theo quan niệm của họ. Và họ bất đồng quan điểm khi nhận xét về sứ mạng của Chúa Giêsu. Người thì nói Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại, kẻ thì bảo là Elia, số khác cho là một trong số các tiên tri. Họ không nhận ra Đức Giêsu là Messia, Con Thiên Chúa làm người!
Bấy giờ, Đức Giêsu hỏi các môn đệ xem họ đã hiểu lời dạy, hiểu thân thế của Ngài đúng chưa. Thật không bỏ công khó nhọc của Đức Giêsu, Phêrô đã trả lời chính xác: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Các Tông đồ khác cũng đồng ý với câu trả lời của Phêrô như vậy. Tuy nhiên, các Tông đồ cũng chưa thật sự hiểu rõ bản tính và sứ mạng của Đức Giêsu. Có lẽ họ cũng chịu ảnh hưởng của quan niệm dân chúng bấy giờ: Messia là vị cứu tinh Dân tộc Do thái, họ nghĩ đơn giản như vậy, họ chưa nhận ra vai trò cứu chuộc nhân loại của Đức Giêsu và những đau khổ người phải chịu để đền thay vì tội lỗi nhân gian. Bằng chứng là sau đó, khi Đức Giêsu công bố về cuộc khổ nạn thì Phêrô liền can gián: Thầy không phải như vậy đâu! Nhưng Đức Giêsu quay lại quở trách Phêrô và các môn đệ: các con không biệt việc Thiên Chúa làm mà chỉ biết việc loài người. Đã theo Đức Giêsu thì không tìm lợi danh đời này. Ai theo ta thì hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta. Ai lo cho mạng sống đời này thì sẽ mất nó, nhưng ai biết hy sinh mạng sống vì Chúa thì Người sẽ ban cho hạnh phúc vĩnh cửu bên Ngài. Ai gắn mình với vật chất chóng qua thì sẽ tàn tạ như nó. Còn ai gắn bó với Đấng Vĩnh Cửu thì được Thiên Đường làm nơi cư ngụ.
Mỗi người chúng ta hôm nay hãy thử trả lời câu hỏi của Đức Giêsu: còn con, con bảo Thầy là ai? Đối với tôi, Đức Giêsu là ai? Hiện giờ tôi theo Chúa vì lý do nào? Tôi theo Chúa vì nhận ra Chúa là Thiên Chúa duy nhất, là Đấng hứa ban cho tôi sự sống đời đời hay tôi theo Chúa đề Ngài ban cho của cải, giàu sang, địa vị đời này? Tôi theo Chúa mà tôi có sống theo Tám Mối Phúc thật: phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, hiền lành, khóc lóc, khao khát nhân đức trọn lành, biết xót thương kẻ khác… tôi có coi Chúa trên của cải vật chất, coi Chúa hơn ý riêng của mình, hay có khi nào tôi coi trọng tiền bạc, của cải hơn Chúa không?
Nhiều khi chúng ta theo Chúa, nhận ra Chúa là Đấng Cứu Thế, nhưng cũng như Phêrô và các tông đồ trong Tin Mừng hôm nay: muốn can ngăn Chúa, không muốn Ngài vác thánh giá, không muốn Ngài đau khổ. Như vậy, khi đi theo Chúa, bắt chước Chúa, chúng ta cũng không phải vác thánh giá, không phải chịu đau khổ với Ngài. Chúng ta hãy xem Đức Giêsu có đồng ý với các Tông đồ như vậy không? Ngài chẳng những không đồng ý mà còn khiển trách Phêrô nữa: Satan, con hãy lui lại đàng sau Thầy. Đức Giêsu không đồng ý với các Tông đồ vốn muốn ngài làm một Messia an nhàn. Ngài cho biết đó là cám dỗ của Satan. Ngài cũng như những người đi theo ngài phải chọn con đường thập giá. Chính thánh giá mới đem lại bình an hạnh phúc. Ai không nép mình sống theo 10 Điều Răn mà tự mình sống buông thả theo ý riêng thì sẽ gặt hậu quả rất tệ: mất hạnh phúc đời đời, vì đã không đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.
Vậy, để hưởng ơn cứu chuộc của Đức Giêsu, chúng ta hãy tuyên xưng rõ trong lòng mình như thánh Phêrô hôm nay: Thầy Đấng Kitô, Đấng Cứu Độ đời con, con xin đi theo Ngài trên mọi nẻo đường dù là đường êm ả hay đường chông gai, để mai sau, Đức Giêsu ở đâu con cũng được ở nơi đó, Chúa được hạnh phúc nào thì con cũng được tham dự vào hạnh phúc đó với Chúa.
“Còn anh em, anh em gọi Thầy là ai”? (Mc 8, 29)
Thánh Phêrô đại diện trả lời: “Thầy là Đức Kitô”, câu trả lời mạnh mẽ và chính xác nhưng kết quả là một lời sửa dạy: tư tưởng của con người không phải là tư tưởng của Thiên Chúa và một bài học từ bỏ mình. Chúa Giêsu hỏi các môn đệ của Ngài cũng là hỏi chính bản thân mọi người theo Ngài và Ngài cần có câu trả lời. Không chỉ bản thân mình nhận ra và tuyên xưng Chúa Giêsu là ai mà còn phải trả lời cho người khác biết Ngài là ai.
Kitô hữu là người có Chúa Kitô, đương nhiên gọi Chúa là Chúa, là Thầy và là Đức Kitô; Đấng đã cứu chuộc, luôn ban ơn và yêu thương con người. Dù có gọi Chúa là ai đi nữa điều quan trọng là xác tín mạnh mẽ và sống điều mình tuyên xưng. Giữa biết và sống thường có một khoảng cách, có khi biết rất nông cạn và không rõ nên cần có ơn Chúa, nổ lực của bản thân học hỏi và gắn bó mật thiết với Chúa. Vì vậy làm sao cho hai điều này hoà hợp trở nên một thì mới có trở thành một người kitô hữu đích thực. Sống đời kitô hữu là một đòi hỏi, đó là “từ bỏ mình” để sống theo ý Chúa. Thái độ của thánh Phêrô là thái độ của nhiều người kitô hữu, tuyên xưng niềm tin của mình một cách rõ ràng và mạnh dạn nhưng khi biết được ý Chúa thì ngại ngùng, ngăn chặn và từ chối thánh ý của Thiên Chúa. Trong đời sống của người kitô hữu cũng vậy, gần Chúa hằng ngày như đọc kinh, xem lễ, làm việc bác ái….nhưng rồi có lúc lại là vật cản cho chương trình của Chúa muốn thực hiện cho bản thân mình và cho người khác. Tuyên xưng niềm tin thì dễ nhưng để sống niềm tin này đó là “thánh giá” hằng ngày.
Từ bỏ mình và vác thánh giá mình hằng ngày theo Chúa là sống ý Chúa, không phải để chịu đau khổ nhưng là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Điều còn lại là làm sao cho những người xung quanh nhận ra hạnh phúc đích thực này. Có thể nói đạo Công Giáo đã quen thuộc với thế giới và xã hội ngày hôm nay. Hạnh phúc đích thực của đời người là có Chúa nhưng còn rất nhiều người đứng bên ngoài nhìn vào, không muốn vào hay ngần ngại đón nhận hạnh phúc này. Có phải Chúa quá xa lạ hay cách sống của người kitô hữu xa lạ với ý của Chúa?
Lạy Chúa, xin cho mỗi người con của Chúa sống xứng đáng với Chúa khi mang danh Hữu Kitô. Can đảm từ bỏ mình, kiên trung vác thánh giá đời mình để được hạnh phúc đích thực của Chúa và cho những người khác cũng được hưởng hạnh phúc này.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Với đoạn phúc âm theo thánh Maccô này, chúng ta gặp một đường cao điểm, thật vậy, cho tới đây, thánh Marcô cho thấy Chúa Giêsu dần dần tỏ mình ra bằng lời giảng dạy và các phép lạ Người làm, nhưng Chúa để cho người ta ngạc nhiên, thắc mắc. Người ta như thể được dự một cảnh chờ đợi, hồi hộp và tự hỏi: Ông này là ai? Cả những môn đệ cũng thắc mắc, tuy nhiên thấy Chúa không phải là một thầy rabbi khác. Thầy sắp dẫn họ đến chỗ tuyên xưng đức tin bằng một câu do Phêrô thay mặt các môn đệ nói lên. Chúa hỏi: còn các ngươi, các ngươi nói Ta là ai? –kẻ sau này sẽ là thánh Phêrô, trả lời: Ngài là Đức Kitô, tức là Đấng cứu thế. Khi họ nhận ra Đấng cứu thế trong Đức Giêsu, các môn đệ vượt được chặng đầu có tính cách quyết định trong tiến trình đức tin của các ông.
Tuy nhiên, một câu hỏi khác rất nghiêm trọng được nêu lên: Chúa là vị Cứu-thế nào? Dân Do thái mong đợi một Đấng Cứu-thế có quyền uy trần tục. Thế mà Đức Giêsu là Đấng Cứu-thế dùng sự thống khổ và cái chết để cứu chuộc. Các môn đệ sẽ làm thế nào để có thể chấp nhận cái thực tại họ không thể nào quan niệm được. Lời đáp cho câu hỏi này nổi bật lên trong phần ký sự còn lại, và người ta sẽ thấy, chỉ mãi sau này Chúa sống lại rồi, các môn đệ mới thấu hiểu bản tính đích thật cứu thế của Chúa. Từ sự kiện đó chúng ta có thể rút ra vài suy niệm:
1) Chúa đưa ra một câu đáp rất cứng cỏi, cho Phêrô là kẻ không muốn chấp nhận lời Chúa tiên báo cuộc Thương khó của Người: ‘Xéo ra phía sau Ta, hỡi Satan; vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người’. Chúa phản ứng giống như trước đây Người phản ứng chống lại trước cám dỗ, với một phản xạ nóng nảy; quyền hành, cương quyết. Những ý tưởng theo thói thường của Phêrô mang theo một cám dỗ giống như cám dỗ đã đến với Chúa trong hoang địa, nó dự tính làm cho Chúa đi trật con đường sứ mạng của Người, nhưng ở đây nó cũng đụng phải bản tính thánh-thiện của Chúa trước sau vẫn thế.
Đàng khác, những lời tuyên bố của Chúa đẩy các môn đệ vào một thử thách ghê gớm. Chắc chắn là các ông đã phải cần có một sự trợ giúp nội tâm mãnh liệt để không bỏ Chúa vì Người làm đảo lộn ý niệm của họ về Đấng Cứu thế.
Hai câu hỏi: Ta phải nghĩ gì về những kẻ lợi dụng phúc âm làm mạch nuôi dưỡng một ý thức hệ của thế gian, một chuyền thuyết cứu nhân độ thế của trần tục? Phải chăng ngày nay đang có những môn đệ diễn lại, bên cạnh Đức Kitô của Giáo hội, thái độ của Phêrô?
2) Khi loan báo cuộc khổ nạn và sống lại của Người, Chúa đề nghị một thử thách đích thật cho đức tin. Niềm tin vào Chúa thật sự bắt đầu từ khoảnh khắc người ta nhận ra Con Thiên Chúa – Đấng cứu chuộc chết trên thập giá và sống lại.
Đó là niềm tin của các môn đệ, một niềm tin bỡ ngỡ như ta thấy trong ký sự của thánh Marcô -nhưng được củng cố sau ngày Chúa Giêsu sống lại và Chúa Thánh-Thần hiện xuống. Đó là niềm tin của chúng ta hôm nay. Trên bình diện tri thức, chúng ta không gặp khó khăn để có được niềm tin ấy. Chỉ gặp khó khăn khi Chúa mời chúng ta chia sẻ khổ nạn và Thập giá với Người. Chừng nào chúng ta phát hiện Đức Kitô chịu đóng đinh là ai, lúc đó chúng ta mới cảm thấy sự thử thách về đức tin, nhưng hạnh phúc thay, thử thách của chúng ta, đã chói loà bởi hào quang của sự sống lại vinh hiển. Điều mà các môn đệ lúc đó chưa có được, ngày nay chúng ta đã nắm vững rồi, đó là niềm hy vọng được dự vào sự sống lại của Chúa chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Sau khi đã thăm dò dư luận, Đức Giêsu trắc nghiệm các môn đệ: “Còn các con bảo Thầy là ai? Chúng ta đã có câu trả lời của Thánh Phêrô: “Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống”. Tôi nghĩ rằng nếu Chúa Giêsu có mặt một hôm nay, Người sẽ đặt thêm một câu hỏi nữa: “Đối với các bạn, người Kitô hữu là ai?”
Lời Chúa của Chúa Nhật này cho chúng ta câu trả lời chính xác về câu hỏi đó.
Đó là niềm xác tín nền tảng đức tin của chúng ta. Đức Kitô không chỉ là một con người bình thường, không chỉ là một tiên tri như mọi tiên tri mà Dân chúng đã quan niệm, nhưng Người là “Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống”, đúng như lời tuyên tín của Thánh Phêrô, nghĩa là Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát của nhân loại. Làm người kitô hữu trước hết là người TIN vào Đức Kitô đúng như Người “LÀ”, không được thêm, không được bớt mặc khải của Thiên Chúa. Và như thánh Phaolô nói: Ai tin thì được cứu độ.
Nhưng tin ở đây không chỉ là tuân giữ một số điều luật của Giáo hội, không có nghĩa là hiểu biết một số chân lý, lý thuyết và giáo lý về Chúa. Trái lại, tin có nghĩa là sống gần gủi, gặp gỡ, gắn bó mật thiết với Đức Kitô mỗi ngày, trong mỗi biến cố cuộc sống, như với một người bạn thân (Jesus is my best friend). Tôi sống là sống “với, vì và cho” Đức Kitô và Đức Kitô sống trong tôi. Đó là một đức tin trưởng thành và mang tính cá vị. Đó là một đức tin mà Chúa chờ đợi mỗi người kitô hữu.
“Ai muốn theo Ta, thì hãy từ bỏ chính mình, và vác thập giá mỗi ngày mà theo ta”. Đây là lời khẳng đình từ môi miệng Chúa. Lời này tóm tắt tất cả mọi điều kiện để làm người Kitô hữu. Chúng ta cần dừng lại để phân tích câu nói này: “Ai muốn theo Ta”: Đấy là một lời mời gọi Chúa ngõ với hết mọi người, từ già đến trẻ, từ giáo dân đến giáo hoàng. Điều kiện trước hết của việc “theo” đó là: “hãy bỏ mình”. Tại sao phải bỏ mình?
Bỏ mình ở đây không có nghĩa là bỏ hết những khả năng, tài cán, và nghị lực… của chúng ta. Nhưng là bỏ chính cái TÔI vị kỷ của ta. “Bỏ mình” là không còn quá chú trọng đến mình, không còn tập trung mọi sự về mình, không biến mình là trung tâm của vũ trụ và chú ý của người khác. Nhưng chỉ hướng “mình” về với Chúa, Chúa là trung tâm đời mình, không còn ai khác. Trong chiều hướng đó, Cái Tôi xuất hiện như “hòn đá vấp chân”, cản trở chúng ta. Kinh nghiệm cho thấy, thắng được “THẰNG TÔI” là thắng được kẻ thù lớn nhất. Chính vì thế, Chúa mời gọi là hãy bỏ mình, cũng như Đức Phật mời gọi môn sinh: muốn được giải thoát thì hãy diệt dục.
Thánh Giacôbê ở bài đọc II nói rất hay về tương quan giữ TIN và SỐNG đức tin: “Đức tin không việc làm là Đức tin chết tận gốc rễ”. Rõ ràng là Tin trong lòng và tuyên xưng ngoài miệng thôi chưa đủ: như Đọc kinh, đi lễ, rước lễ, chịu các bí tích.., nhưng phải thể hiện đức tin đó bằng việc làm. Chúng ta phải thể hiện như thế nào? Thánh Giacôbê cho chúng ta một hướng dẫn rất thích hợp: “Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh chị em lại bảo rằng: “chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm” mà anh chị em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gi?”. Việc làm đó chính là lòng bác ái, cảm thông, chia sẽ với tha nhân, và nhất là với người đau khổ. Đó là con đường từ nhà thờ về nhà mình, từ nhà mình tới công sở, con đường đó không có “đèn xanh đèn đỏ” để dừng lại, nhưng là liên tục và nối dài.
Như thế, làm người kitô hữu là người tin vào Đức Kitô và có Chúa Kitô trong đời, và cùng với Người hướng tới tha nhân. Đó là một cuộc sống phong phú và hạnh phúc khi được làm người kitô hữu!
Lạy Chúa, xin giúp con luôn ý thức được sự cao quí của người kitô hữu, xin Chúa giúp con Tin Chúa cách vững vàng, và cùng với Chúa vác thập giá mình mỗi ngày, cùng với Chúa con đến với tha nhân bằng một con tim rộng mở, chia sẻ và cảm thông.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một giai thoại kể lại rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò mạo hiểm để tìm cảm giác mạnh. Anh đem theo một chiếc dù đến bên bờ vực thẳm, định chơi cho thoả chí mạo hiểm. Không biết loay hoay thế nào, anh trượt chân. Đang trên đá lăn dài xuống vực sâu, may mắn được một cành cây mọc chìa ra. Thế là anh lơ lửng trên cành. Thật hú vía, tuy chưa qua hết nguy hiểm, nhưng thế này còn có hy vọng thoát được.
Ngước mắt lên bờ vực, anh không thấy bóng dáng một ai. Nhìn xuống, anh choáng váng vì vực quá sâu. Anh cũng biết không thể nào đu lơ lững mãi trên cành được, vì thế, cách cuối cùng là anh cầu nguyện. Thế là anh cầu nguyện: lậy Chúa, xin cứu con, con xin hứa làm bất cứ điều gì Chúa muốn.
Bỗng anh nghe như có tiếng Chúa nói: Được, Ta sẽ cứu con. Nhưng trước khi cứu, Ta muốn biết là con có thực sự tin rằng Ta làm được việc này không?
– Lạy Chúa, con tin chứ! Con tin chắc là Chúa cứu được con mà! Cứu ngay đi Chúa ơi, con mỏi tay lắm rồi!
– Được, nếu con tin Ta thì hãy buông tay ra.
Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào cành cây chứ không chịu buông. Rồi anh ngẩng lên bờ vực và la lớn: “Có ai trên đó không, cứu tôi với’.
Thưa anh chị em, giả sử chúng ta là chàng thanh niên đó, liệu chúng ta có dám buông tay ra không? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh đang xẩy ra trong đời, hay chúng ta sẽ tìm cách bám víu vào những thực tại khác?
Muốn đi theo ai, muốn ở với ai, thì phải biết rõ người ấy, biết người ấy xuất thân từ đâu và có đáng tin không. Muốn “đi theo Chúa Giêsu và ở với Chúa Giêsu” thì người Kitô hữu phải biết Chúa Giêsu là ai, đường lối của Ngài như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta hiểu về con người Giêsu ấy.
Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ câu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai?” trước khi đòi hỏi chính các môn đệ của mình phải bày tỏ ý kiến riêng, Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc thăm dò ngay trong nội bộ mình xem người khác nói về Ngài như thế nào? Có nhiều ý kiến, nhưng rõ ràng dân chúng đã thấy được một số nét căn bản nơi con người Giêsu. Nơi giáo huấn của Ngài, người ta thấy được sức sống và sự siêu thoát khỏi những ràng buộc vô lý của lề luật. Thế nhưng, điều quan trọng không phải chỉ biết đúng về Chúa Giêsu mà con phải biết đủ về Ngài nữa: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật.
Nhờ các phương tiện truyền thống và nhờ học hành, kiến thức của ta ngày càng gia tăng. Nhưng ta có một sự hiểu biết sâu xa về Chúa chưa? Cần phải xác tín như Thánh Phaolô: “Cái lợi tuyệt vời là được biết Chúa Giêsu kitô, Chúa của tôi” (Pl 3,8).
Các môn đệ là những người “ở với Chúa Giêsu”, cũng ăn cùng uống, gắn bó, gần gũi với Ngài và được Ngài dạy dỗ đặc biệt cùng chứng kiến nhiều phép lạ, giờ đây, các ông phải bày tỏ lập trường. Chắc hẳn giây phút thinh lặng nặng nề khi bị hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô thay mặt anh em tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Kitô”. Phêrô đã cứu nguy cho anh em! Thế nhưng sau đó ông lại can ngăn Thấy Giêsu. Ông đã cản Chúa Giêsu làm theo ý Chúa Cha. Và như vậy là đi theo đường lối của Satan. Rõ ràng ông chưa hiểu bao nhiêu về đường lối của Chúa. Thực ra, ông và các bạn đã hiểu Đấng Kitô theo nghĩa trần thế, một Đấng Cứu thế hiển hách, oai phong… thành ra ông không sao hiểu được việc “Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ và phải chết…”.
Thưa anh chị em,
Để biết Chúa Giêsu Kitô là ai và đâu là đường lối của Ngài, ta cần phải giũ bỏ những hình ảnh trần tục ta vẫn có về Chúa Kitô, những hình ảnh do con người tạo ra: một Đức Kitô của quyền lực, của thống trị… Nên nhớ bài học cùng Ngài: “Anh em hãy học cùng Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”.
Vậy thì, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là ai? Sau khi đã tin vào Chúa một thời gian, ta vẫn có thể đặt lại câu hỏi này: Bấy lâu nay, Đức Giêsu là ai đối với tôi? Đức Giêsu không thay đổi, “hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi” Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất. Nhưng mỗi ngày, sau mỗi biến cố, có khi ta lại khám phá ra những nét mới mẻ nơi sự phong phú của Ngài. Đời ta luôn là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Còn con, con bảo Thầy là ai?”. Và cuộc đời của ta sẽ chuyển biến tuỳ theo câu trả lời này của mình.
Trong đêm canh thức với hai triệu bạn trẻ từ các nước trên thế giới về Rôma tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 15 (15-20/8/2000) Đức Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II đã hỏi lại các bạn trẻ câu hỏi của Chúa Giêsu: “Các con nói Đức Giêsu là ai?” – Có khó tin trong thế giới hôm nay không? Có khó tin trong Ngàn Năm Thứ Ba này không? Vâng, khó đấy. Không cần phải dấu diếm điều này. Khó khăn, nhưng với sự trợ giúp của ơn thánh, điều đó vẫn có thể làm được, như Chúa Giêsu đã giả thích cho Phêrô: “Chẳng phải bởi xác thịt hay máu huyết đã mạc khải cho anh điều đó, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”(Mt 16,17).
“Ngày nay, để tin vào Chúa Giêsu, để theo Chúa như Phêrô, Tôma, các Tông Đồ tiền khởi và các chứng nhân, như trong quá khứ, đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn một lập trường, sự lựa chọn này nhiều khi gian nan đến độ là một cuộc tử đạo mới: cuộc tử đạo của những người, hiện tại cũng như quá khứ, được mời gọi lội ngược giòng chảy để đi theo Thầy Chí Thánh”… Hôm nay các bạn tụ họp nơi đây để tuyên xưng rằng trong thế kỷ này, chúng ta sẽ không để mình trở thành trong thế kỷ này, chúng ta sẽ không để mình trở thành dụng cụ của bạo lực và tàn phá. Chúng ta sẽ đấu tranh gìn giữ hoà bình dù có phải hy sinh tính mạng. Chúng ta sẽ không thối lui trước một thế giới mà người ta còn chết vì đói, thất học và không có việc làm. Chúng ta sẽ bảo vệ sự sống ở mỗi thời kỳ của nó. Chúng ta sẽ chiến đấu tới cùng để làm trái đất này dễ sống hơn cho mọi người”.
Các bạn trẻ thân mến của thế kỷ đang bắt đầu, khi nói “vâng” với Chúa Giêsu, các bạn có thể nói “vâng” với tất cả các lý tưởng cao đẹp của các bạn. Tôi cầu xin Chúa Giêsu thống trị trong lòng các bạn và trong tất cả nhân loại trong thế kỷ mới này cũng như trong ngàn năm mới này. Đừng sợ phó thác cho Ngài. Ngài sẽ dẫn dắt các bạn, sẽ ban cho các bạn sức mạnh để theo Ngài trong mọi ngày và trong mọi tình huống.
Cầu xin Đức Mẹ Rất Thánh, người Trinh Nữ nói “Xin vâng” với Thiên Chúa trong suốt cuộc đời Người, xin Thánh Phêrô và Phaolô và các Thánh đã thắp sáng cuộc hành trình của Giáo Hội qua mọi thế hệ, gìn giữ các bạn luôn trung tín với quyết tâm thánh thiện này (ĐGH Gioan Phaolô II 19/8/2000).
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Đây là câu hỏi đơn giản, nhưng là câu hỏi lớn cho mỗi kitô hữu. Câu hỏi ấy như là cửa ngõ dẫn vào đời sống đức tin. Đây là câu hỏi đang chờ đợi câu trả lời mang tính quyết định cho số phận đời đời. Chúa Giêsu đòi buộc đích thân các tông đồ phải xác định dứt khoát. Có lẽ trước đây có nhiều nhận định khiến Chúa Giêsu không hài lòng. Người làng Nagiaret chỉ xem Ngài là bác thợ mộc. Gioan Tẩy Giả giới thiệu Ngài như một Đấng Mêssia uy quyền đáng sợ. Ngài muốn mỗi người có cách trả lời như Phêrô: “Thầy là Đấng kitô?” Câu trả lời đúng đắn sẽ là định hướng chắc chắn níu kéo ta dấn bước theo Ngài.
Biết để đi theo Thầy
Sự hiểu biết đúng đắn đòi hỏi một sự dấn thân chia sẻ sứ mạng với Thầy. Chúa Giêsu tỏ ra rất vội vả muốn các tông đồ hiểu được sứ mạng của mình: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng Kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Chúa Giêsu mong muốn các ông chớ lầm tưởng về sứ mạng của Ngài sẽ đem đến vinh quang theo trần thế. Ngài không muốn con người khuất phục bằng chiến thắng vinh quang nhưng bằng tình yêu tận hiến.
Đi theo Thầy là bước theo lối mòn Chúa Giêsu đã qua. Lối mòn ấy được diễn tả là hy sinh, thập giá, khổ đau, cái chết. Mỗi người bước đi theo Chúa đã nhiều năm, chắc đã cảm nghiệm được bao sướng khổ của chặng đường. Ta biết rõ Ngài là Đấng kitô nhưng có khi ta cho Ngài là một quan toà quá nghiêm khắc khi phải đối diện. Có khi ta cho Ngài là một chướng ngại vật làm chậm bước tiến trên đường công danh sự nghiệp. Chúa Giêsu là Thiên Chúa còn dám từ bỏ vinh quang trời cao để sống với con người. Thế sao con người không dám từ bỏ trần đời để sống với Ngài trong tình mến?
Biết để ở lại với Thầy
Việc ở lại là hành động muốn gắn bó với Chúa lâu dài. Dẫu trời lúc nắng lúc mưa, dẫu đường đời vui buồn sướng khổ nhưng người môn đệ vẫn quyết tâm sống gắn bó với Thầy. Ta biết Chúa nhiều, được ban ơn nhiều, được tha thứ nhiều, ta không thể nào là thứ tông đồ hạng hai cứ đứng xa xa nhìn Chúa vác thập giá một mình. Ở lại với Thầy là biết trông cậy khi gặp khổ đau, biết quay về khi lầm đường lạc lối, biết làm hoà kịp lúc khi gặp oán trách buồn đau.
Trần gian có quá nhiều lời mời mộc để ở lại nó: ở lại trong tội lỗi, ở lại trong những đam mê chóng qua, ở lại trong hận thù. Người môn đệ cần nhớ về một lời mời gọi khác đáng tin tưởng hơn “Anh em sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian”.
Biết để được sống lại với Thầy
Sống lại với Thầy là cùng đích cho đời sống kitô hữu. Điều kiện để sống lại Chúa Giêsu đã nói rõ: Ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy. “Liều” được nói đến không phải nhắm mắt đưa chân cầu xin may rủi nhưng là sự quyết tâm dấn bước theo Ngà: dám sống niềm tin mạnh mẽ giữa hoàn cảnh còn nhiều cấm cách; dám sống thật giữa cuộc đời còn nhiều dối gian; dám sống theo lương tâm ngay lành giữa lúc con người chỉ biết đến “lương lẹo” và “lương tháng”.
Lời mời gọi đi theo Chúa phải vác thập giá, muốn cứu mạng sống phải liều mất nó, khó nghe nhưng rất chân thành. Muốn có hạnh phúc con người phải kinh qua đau khổ. Hạnh phúc càng lớn thì con người càng lắm gian nan. Chấp nhận thập giá khổ đau không phải Chúa muốn con người đi vào tàn lụi nhưng đó là điều kiện để con người khám phá ra hạnh phúc vững bền. Cái chết cho Tin Mừng không là sự tận diệt nhưng là điều kiện để con người được tái sinh và đi vào đời sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi vẫn cứ đặt ra và chờ đợi câu trả lời nơi từng người tín hữu. Mức độ dấn thân để chia sẻ thân phận với Thầy Giêsu sẽ là câu trả lời chính xác nhất. Bởi lẽ, câu trả lời không nằm nơi sự hiểu biết nhưng nơi cuộc sống của mỗi cá nhân.
Charles Lamb sống ở nước Anh hai trăm năm trước đây. Suốt 33 năm ông làm một công việc buồn tẻ là thơ ký trong một văn phòng công ty hàng hải. Tuy nhiên ông đã thành một nhà văn được tín nhiệm, đặc biệt ông nổi tiếng vì tính hài hước nhẹ nhàng, lòng thông cảm dịu dàng và lòng nhiệt thành hiếm có đối với gia đình và bạn hữu.
Một buổi chiều kia, dăm sáu người bạn tụ họp trong nhà ông Lamb để bàn luận vài đề tài văn chương như: “Chúng ta cảm thấy thế nào nếu chúng ta có thể nói tay đôi với một vài văn sĩ nổi tiếng trên thế giới, họ đã qua đời”. Vài người gợi ý: “Chúng ta sẽ cảm thấy thế nào nếu Dante bước vào trong phòng này. Dante đã viết cuốn “Hài kịch thánh” về thiên đàng, địa ngục và luyện ngục. Một người khác thêm: “Giả sử Shakespear tham dự với chúng ta đêm nay”. Lamb hô to: “Tôi sẽ giơ tay đầy niềm vui. Đón tiếp một vị vua của các nhà tư tưởng. Hân hạnh biết bao?”. Cuối cùng một người tuyên bố: “Giả sử Đức Kitô vào phòng này?”. Nét mặt Charles Lamb bỗng nghiêm nghị khi ông nói: “Dĩ nhiên, tất cả chúng ta sẽ quỳ xuống”. Đó là sự khác biệt giữa Đức Kitô và tất cả mọi người đàn ông khác trong lịch sử. Đức Kitô là Thiên Chúa. Mọi người khác chỉ là người.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu hỏi các Tông đồ “Người ta nói Ta là ai?”.
Chúa chúng ta hỏi chúng ta cùng một câu hỏi ấy: “Con nghĩ Ta là ai?”. Mỗi người chúng ta phải trả lời câu hỏi quan trọng của mọi thời đại ấy.
Chúng ta cân nhắc những câu trả lời của những người nghĩ Đức Kitô chỉ là một người. Có người diễn tả Đức Kitô như một người chữa bệnh bằng niềm tin, Người chữa mọi thứ bệnh tật, yếu đau. Họ không nói làm sao Chúa chữa được. Chỉ có cách phải nhận Người đã làm được vì Người là Thiên Chúa. Có người nói Đức Kitô là một người phù thủy. Người khác lại bảo là một người theo nghĩa nhân đạo, chú ý đến loài người và có thể giúp cho họ. Có người diễn tả Chúa Giêsu như một nhà tâm lý hoàn hảo, Người hiểu được cái động lực và nghị lực của con người. Nhiều người mô tả Chúa như một nhà kiến tạo hòa bình hoặc yêu thiên nhiên xuất sắc.
Những người cải taọ xã hội nhìn Đức Kitô như một kiểu mẫu lý tưởng. Cả những người cộng sản cũng hướng về Đức Kitô như một nhà lãnh đạo cách mạng. Người lao động tin cậy Đức Kitô như lý tưởng con người. Cả những người Hippi cũng cố gắng biện minh lối sống vô trách nhiệm của họ khi họ nói về Chúa Kitô –Đấng đã phán: “Đừng lo lắng về đồ ăn thức uống hoặc áo quần”.
Nhưng hầu hết những người ngưỡng mộ Chúa Kitô như vậy đã nhận rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa. Trong số những người đó, bạn đồng ý với những nhóm người nào? Trong suy tư và trong cách sống của bạn, Đức Giêsu có thực là Thiên Chúa không?
Như thánh Phêrô, chúng ta phải tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa, có Con Thiên Chúa hằng sống.
Tóm lại, Đức Giêsu là Thiên Chúa thật cũng như là người thật, đó là trọng tâm của Kinh Thánh, là trung tâm của lịch sử, là chủ đề của ngày lễ hôm nay, trong Thánh Lễ này. Đó là lý do chúng ta quỳ gối tôn thờ Đấng Chúa-Người trên bàn thờ này, như Lamb và các bạn của ông.
Xin Chúa chúc lành bạn.
“Con Người phải chịu nhiều đau khổ, và bị hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục phế thải, bị giết đi, và sau ba ngày sẽ sống lại”
Từ xưa đến nay một vấn đề gai góc, nan giải và làm cho nhiều người thất vọng nhất là vấn đề đau khổ. Con người sinh ra bắt đầu bằng tiếng khóc, rồi trải qua cuộc đời với đầy vơi đắng cay và nước mắt, để cuối cùng, nằm xuống và được đưa đi giữa những tiếng khóc, có khi chân thật, có lúc giả dối của kẻ khác. Cho nên không lạ gì khi có người than thở: “Đời là bể khổ.”
Nhưng tại sao đời lại là bể khổ? Có lẽ câu hỏi này đã được các nhà hiền triết từ bao đời nay bóp óc tìm câu giải đáp, nhưng rồi đâu vẫn hoàn đó, đau khổ vẫn là khổ đau. Đau khổ vẫn là một thực trạng trong kiếp sống con người.
Thế rồi vì không hiểu được lý do cũng như không tìm được câu trả lời thích đáng cho vấn đề đau khổ, nên người ta không chấp nhận và tìm mọi cách để hủy diệt nó. Thậm chí, lắm khi người ta cũng đã hủy diệt nó. Thậm chí, lắm khi người ta cũng đã hủy diệt luôn kẻ đang gánh chịu đau khổ. Đã có lần chính phủ Nhật ra lệnh tập trung tất cả mọi người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo ngoài khơi Thái bình Dương, rồi tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo cùng những người mắc bệnh phong cùi trên đó. Đã có lần Hitler đã ra lệnh cho bác sĩ giám đốc bệnh viện Bethel thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh thần kinh, không muốn sự hoạn nạn khốn cùng của họ đè nặng trên “dân tộc và quốc gia.” Đã có vô số lần, chính vì không chịu đựng được đau khổ, hay sâu xa hơn, bởi vì không tìm thấy chân lý trong những khổ đau nên đã có không biết bao bạn trẻ cũng như bạn già tự chấm dứt cuộc đời, đi tìm cái chết để mong đạt được một điều duy nhất: chấm dứt khổ đau.
Chắc chắn không ai có thể đem lại cho con người một câu trả lời thoả đáng ngoài Thiên Chúa. Không ai minh chứng một cách sâu xa và hùng hồn ý nghĩa của sự khổ đau ngoài Thượng đế, được tỏ hiện nơi con người của Chúa Giêsu, Đấng mà Tiên tri Isaia đã gọi là “Tôi tớ Đau khổ của Giavê”.
Nhìn vào con người của Đức Giêsu, người ta phải tự hỏi tại sao một Thiên Chúa toàn năng toàn phép lại chọn lựa con đường khổ đau để cứu nhân loại? Tại sao Ngài cũng đã sinh ra với tiếng khóc, trải qua kiếp sống với những thăng trầm, và cuối cùng chịu chết nhục nhằn tận cùng trên khổ giá, giữa bao nước mắt thảm thiết của những người thân quen?
Càng suy gẫm câu hỏi trên người ta càng có thể khám phá thâm sâu chân lý và ý nghĩa của cuộc đời. Nhưng đây không phải là cuộc đời của bể khổ, song là của bể tình, một biển tình vời vợi. Càng nhìn vào những gì Đức Kitô đã chịu, và qua ánh sáng Phúc Âm, con người càng hiểu ra nguyên do của khổ đau.
Thế thì nguyên do của đau khổ là gì? Xin thưa chính là TỘI. Thưở tạo thiên lập địa con người đã hạnh phúc biết mấy. Mọi sự tốt đẹp biết bao. Kinh Thánh đã xác nhận: tất cả mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp-đẹp từ trăng sao trên trời đến muôn loài cây cỏ dưới đất, đẹp từ con người cho đến muông chim cầm thú, đẹp từ cuộc sống loài người cho đến cuộc sống loài vật.
Ấy thế mà điều tươi đẹp đó đã bị tan nát. Tan nát vì tội. Thánh Phaolô đã viết, “Cũng như vì một người, mà sự tội đã nhập vào trần gian, và vị tội thì sự chết nữa; và như vậy sự chết lan tràn qua hết mọi người” (Rm 5:12). Nói cách khác tội đã kéo theo khổ đau và đau khổ tận cùng chính là sự chết.
Vì tội mà đời mất đẹp, hồn mất vui. Vì tội mà đời mới là bể khổ đấy thôi!
Thế nhưng, vì “là Đấng trung tín và giàu lòng xót thương,” Thiên Chúa không thể không cứu con người. Từ trong Xót-Thương mà Đức Giêsu đã ra đời. Ngài đến bằng con đường đau khổ, và rồi đã chết trong đau khổ để cứu con người. Một linh mục từng suy niệm rằng: “Đời sống Chúa Giêsu là một đời sống đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận, Ngài mong chờ, bởi vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.”
“Không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.” Đúng lắm! Thế nhưng nếu chỉ nhìn vào những đớn đau thể xác cùng trí lòng của Đức Giêsu và nghĩ rằng đau khổ của một người đã làm nên ơn cứu độ cho muôn người thì cũng còn thiếu sót lắm. Bởi vì đọc kỹ Thánh kinh sẽ thấy trên đồi Golgotha có tới ba người chịu đau khổ chứ đâu phải một người. Cả hai tên trộm cướp nữa chứ đâu phải một mình Đức Giêsu. Thế nhưng cả ba người cùng chịu đau khổ, cả ba người cùng chịu cái chết trần truồng nhục nhã, nhưng chỉ một người mang ơn cứu độ đến cho toàn nhân loại. Lý do là vì sự khổ đau của người đó đã được kết tinh trong tình yêu. Nói cách khác vì quá yêu thương nhân loại nên Thiên Chúa đã mang lên mình mọi tội lỗi con người, mọi căn nguyên đau khổ, để đóng đinh chúng vào thập giá; trước là giải thoát nhân loại khỏi sự thống trị của tội, sau là thánh hoá sự đau khổ, để rồi từ nay đau khổ có một chỗ đứng-một giá trị mới trong đời sống con người; giá trị đó chính là nếu đau khổ được ướp đượm trong tình yêu, thì nó sẽ trở thành ân phúc cứu độ.
Đã có không biết bao nhiêu các nhà hiền triết, văn hào thông thái bó tay trước vấn nạn đau khổ, và cũng đã có không biết bao nhiêu nhân vật lừng danh lẫn thấp hèn đã thất vọng, đầu hàng trước khổ đau. Nhưng chính nhờ Đức Giêsu và qua ánh sáng của Lời Ngài mà ta không còn thất vọng. Ta thấy được rằng trong sự chết có mầm sự sống, trong gian lao có tia sáng của chiến thắng vinh quang, trong đau khổ có chồi non của hạnh phúc, nếu như sự chết, nỗi gian lao và đau khổ mà ta đang mang đó có nền tảng của yêu thương: yêu thương Đức Kitô và yêu thương các linh hồn.
Thế nên, mỗi khi gặp đau khổ, ta đừng thất vọng, buông trôi, cũng đừng chửi trời rủa đất, cũng đừng trách móc người khác hoặc chính mình, cũng đừng như Phêrô đã can trách Chúa khi nghe nói đến khổ đau (Mc 8:32), song hãy đưa vào khổ đau một chút hương vị thương yêu, bằng việc than thưa với Ngài: “Lạy Chúa, con xin kết hiệp đau khổ của con với khổ đau của Chúa, để làm sáng danh Chúa và cứu các linh hồn.” Chắc chắn nỗi khổ đau sẽ không còn là một thực tại vô giá trị hoặc đáng nguyền rủa, song nó đã trở thành phần ơn cứu độ mà Chúa Giêsu muốn ban xuống cho nhân trần.
Từ ngày Đức Giêsu dùng thân xác mình để thánh hiến sự khổ đau của con người cho đến nay, đã có hàng triệu tâm hồn được nung đốt bởi lửa yêu thương đến độ dám đón nhận mọi hy sinh, gian lao và khó nhọc, vì muốn mang ơn cứu độ đến cho mình và tha nhân. Trong số đó, gương mặt đáng kể nhất phải là gương mặt của Thánh Phaolô tông đồ. Thánh nhân đã làm mọi sự trong yêu thương, chấp nhận mọi gian nan trái ý trong tình mến. Ngài viết: “Chúng tôi bị ép dồn mọi mặt, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phẳi chết của chúng tôi. Như thế, sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em” (2 Cr 4:8-12).
Đồng hành với Thánh Phaolô là hàng vạn tâm hồn nhiệt thành rao giảng để mở mang Nước Trời, trong đó có bạn và tôi. Cũng như Thánh Nhân, chúng ta chỉ tham vọng một điều là “làm đẹp lòng Chúa” (2 Cr 5;8b).
Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm, và họa sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một bức ảnh tựa đề: “Người bị khinh chê chối bỏ”. Họa sĩ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ chính tóa Thánh Phaolô, trong một khu phố đông đúc ở trung tâm Luân đôn, nhưng không một ai để ý tới Chúa. Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa. Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không nhìn lên Chúa. Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước, nhưng không thấy Đức Kitô. Có một nhà thần học đang hăng say thuyết minh về Đức Kitô mà không nhìn về Người. Duy chỉ có một nữ tu nhìn về Chúa, nhưng vẫn tiếp tục đi con đường của mình.
Ông Barclay (William Barclay), một học giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức họa: “Những hoàn cảnh này thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Kitô tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai chú ý tới. Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện cao sâu hơn là việc lưu tâm tới Chúa hoặc theo dõi Lời Chúa. Chuyện đó lạ đời, nhưng lại thực sự xảy ra ngay lần Chúa xuống trần gian hai ngàn năm trước. Sau một thời gian Chúa xuất hiện rao giảng Tin Mừng Cứu độ. Người đã làm bao phép lạ sôi nổi, gây chấn động trong dân chúng, rồi Chúa hỏi các môn đệ xem người ta bảo Chúa là ai, thì mỗi người lại nói mỗi khác. Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả Phục Sinh, người nói là Êli, người khác bảo là một ngôn sứ… Tất cả nói đúng nhưng chưa đủ. Chỉ có Phêrô mới có thể nói đúng và đầy đủ về Chúa: “Thầy là Đấng Cứu Thế”.
Lời tuyên bố của Phêrô là câu trả lời Chúa Giêsu muốn có. Nhưng Chúa cũng nói ngay đó là do Cha trên trời tỏ bày cho, chứ không phải nhờ học hỏi hay nghiên cứu. Phêrô và các Tông đồ được ơn soi sáng, được dạy dỗ và hướng dẫn để hiểu biết sự thật về Đức Kitô, vì các ông là môn đệ Chúa, sẽ tiếp tục sự nghiệp Chúa nơi trần thế. Lời tuyên bố này rõ ràng là một ơn mạc khải, vì chính Phêrô nói ra mà cũng không hiểu tường tận về lời mình nói. Ngay lúc đó Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ về số phận của Người. Chúa nói sẽ chịu đau khổ nhiều, bị bắt, bị hành hạ, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại. Nghe vậy, các môn đệ khó chịu, các ông đã không để ý tới việc Chúa sẽ sống lại, và cho là Chúa thất bại, thua kẻ thù. Vì thế, Phêrô kéo Chúa ra một chỗ và can ngăn Chúa đừng nói vậy, đừng để chuyện đó xảy ra. Vì thế, Chúa Giêsu nổi giận mắng ông: “Satan, hãy lui đi!”.
Chúa Cứu Thế sẽ cứu chuộc trần gian bằng thập giá. Đó là điều quan trọng vì Chúa đòi buộc các môn đệ của Người cũng đi con đường này: “Ai muốn theo Thầy hãy bỏ mình đi, vác thập giá mà theo. Vì ai muốn cứu mạng mình thì sẽ mất. Còn ai sẵn sàng bỏ mạng sống vì Thầy và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được sự sống mình”.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu biết Chúa hơn để chúng con biết vác thập giá đi theo Chúa và được vào hưởng vinh quang với Chúa.
Như chúng ta đã biết: qua lời giảng dạy, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình, Chúa Giêsu đã trở thành một vấn đề, một câu hỏi cho những kẻ còn nghi ngờ về Ngài. Vậy Ngài là ai? Kẻ thì bảo Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy giả, là một tiên tri. Mỗi người một câu trả lời. Nhưng điều quan trọng chính là niềm xác tín vào Chúa của mỗi người chúng ta, bởi vì chính Chúa đã hỏi các môn đệ:
– Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Câu hỏi ấy Chúa cũng không ngừng đặt ra cho chúng ta ngày hôm nay và qua chúng ta, mọi người cũng sẽ tiếp tục tự hỏi:
– Kitô hữu, bạn là ai?
Đúng thế, người Kitô hữu qua lời nói, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình phải là một câu hỏi cho những người chung quanh. Dù âm thầm nhỏ bé đến đâu chăng nữa, thì đời sống của người Kitô hữu phải làm cho những người chung quanh thắc mắc.
Dĩ nhiên câu hỏi càng trở nên khẩn thiết hơn khi cuộc sống của người Kitô hữu mang tính cách chứng nhân giữa một xã hội đầy giành giật và bon chen, đầy bạo lực và bất công.
Đời sống của họ sẽ là một câu hỏi nếu như họ thực thi tinh thần nghèo khó, chấp nhận thua thiệt mất mát hơn là bán đứng lương tâm của mình để chạy theo những lợi lộc bất chính.
Có những kẻ đã lấy hận thù làm luật sống, thì người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi, nếu như họ vẫn yêu thương mọi người, kể cả kẻ thù địch và bước theo Chúa cho đến cùng.
Giữa một xã hội mà nhiều người đang buông xuôi thất vọng, người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi nếu họ biết sống lạc quan, tin tưởng vào một Đấng có tình yêu thương trải dài trong suốt lịch sử con người.
Giữa một xã hội mà sự thành thật đã trở nên như một đồ dùng xa xỉ, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi nếu họ vẫn tiếp tục sống tử tế, cư xử tốt đẹp với mọi người.
Sống như thế quả là một đòi hỏi cam go, nhưng đó không chỉ là một cố gắng suông, mà còn là kết quả của việc chúng ta gắn bó mật thiết với Chúa. Bởi vì không có ơn Ngài trợ giúp, chúng ta sẽ không bao giờ thực hiện được như vậy.
Kết thúc thông điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới”, Đức Thánh Cha Gioan 23, đã viết như sau: Mỗi người Kitô hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, một tụ điểm của tình yêu, một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Người Kitô hữu sẽ đóng trọn vai trò ấy hơn khi họ còn sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Sống trọn vẹn những cam kết trên, thì quả thật người Kitô hữu là một thách thức, một câu hỏi đối với người khác…
Đúng thế, người Kitô hữu không sống cho mình, nhưng sống cho người khác.
Một mảnh sao băng chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó.
Một hạt men nhỏ bé vô danh mất hút trong đống bột, nhưng cũng đủ làm dạy cả khối bột.
Sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo nên những ấn tượng tốt nơi người khác, nếu như chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Chúa.
Lý tưởng là như vậy, còn trong thực tế thì sao? Liệu cuộc sống của chúng ta đã trở thành một câu hỏi, một vấn đề cho những người chung quanh phải băn khoăn và suy nghĩ hay chưa?
Trong quyển sách “Niềm vui sống đạo”, Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã kể ra được 10 “khuyết điểm” của Chúa Giêsu. Và ngài nói là ngài yêu lắm 10 “khuyết điểm” ấy. Một trong 10 “khuyết điểm” mà Chúa Giêsu mắc phải Ngài “không biết làm kinh tế”. Chúa Giêsu đã coi 1=99. Khi Ngài thấy mất một con chiên trong đàn thì lại bỏ 99 con kia lại để đi tìm cho bằng được con chiên bị mất. Hơn nữa, Chúa Giêsu cũng không biết cách tiếp thị và quảng cáo. Quảng cáo mời gọi người ta đến với mình thì phải tìm cái gì đó hấp dẫn và lôi cuốn bằng cách “tô son” lên những điều mình nói một chút. Đằng này Chúa Giêsu lại nói: “Ai muốn theo tôi, thì hãy từ bỏ mình, vác thập mình mà theo” (Mc 8,34). Quảng cáo và chiêu mộ lính kiểu này thì “thua” là cái chắc! Bởi lẽ, nghe nói đến thập giá thì ai mà chẳng sợ. Chẳng ai háo hức ôm lấy thập giá vào mình bao giờ! Hơn nữa, theo Thầy tưởng đâu được cái gì hấp dẫn một chút như lãnh vài triệu đồng một tháng, được người ta kính trọng, hoặc có địa vị cao trong xã hội hay cái gì đại loại như thế. Chứ theo Thầy mà chỉ có vác thập giá thôi thì dại gì mà liều mạng như thế! Như vậy, xem ra Chúa Giêsu dở hơn con người ngày nay trong chuyện làm ăn và quảng cáo nhiều lắm!
Nhưng Chúa Giêsu không đến trần gian để làm kinh tế! Ngài cũng không biết dùng ngôn ngữ của quảng cáo của con người thường làm để tô son cho mình và sứ vụ của mình. Ngài đến trần gian với một sứ mạng duy nhất là “nói lên Sự thật, sống cho Sự thật và làm chứng cho Sự thật” (x. Ga 18,37). Ngài đã nói như thế trước mặt tổng trấn Philatô. Và đặc biệt, trong những năm tháng ra đi rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, Ngài đã từng lớn tiếng nói rằng: “Sự thật sẽ giải phóng các ngươi” (Ga 8,32). Philatô đã hỏi Chúa Giêsu: “Sự thật là cái gì?”. Nhưng Chúa đã không trả lời ông ta câu hỏi đó. Bởi lẽ, Sự thật chính là bản thân của Ngài. Ngài là hiện thân của Sự thật. Từng lời nói, từng hành động và trọn cuộc sống của Ngài đều là Sự thật trọn hảo!
Tin mừng hôm nay chỉ cho chúng ta thấy có rất nhiều nội dung, nhiều vấn đề nói lên Sự thật nơi Thiên Chúa. Nhưng tôi xin chọn câu nói mà Chúa Giêsu xem ra rất thao thức, rất tha thiết mời gọi chúng ta thực hiện nó trong cuộc sống của chúng ta. Ngài nói rất rõ rằng: “Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Đó là sự thật, một Sự thật trọn hảo dành cho những ai dám dấn thân vào con đường của sự hy sinh và từ bỏ- Con đường Thập giá.
Có lẽ việc chọn lựa cho mình một con đường sống là cần kíp và chính đáng nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Theo thói thường thì ai cũng muốn có một cuộc sống dễ dàng, một cuộc sống tiện nghi, sung túc và vui vẻ…Nhưng có điều là một cuộc sống dù đáng ước mơ như thế cũng không có gì đảm bảo cho con người ta được sống hạnh phúc. Vì hạnh phúc đích thực không thể tìm thấy được nơi cuộc sống ở trần gian. Thế nhưng, nhiều người lại say mê và đi ra sức tìm kiếm để sở hữu nó! Biết bao nhiêu cố gắng và khó nhọc của con người nhằm tìm kiếm và giữ lại hạnh phúc trần gian đều tan biến. Bởi vì, “con người từ đất mà ra thì cũng phải trở về với đất bụi” (x. St 3, 19). Và con người đã không mang gì vào trần gian thì cũng đừng mong đem gì ra khỏi chốn gian trần. Điều chắc chắn duy nhất là: “ba tấc đất mới thật là nhà, nơi nó ở muôn đời muôn kiếp” (Tv 49, 12).
Con đường đưa con người tới hạnh phúc thật chính là con đường “liều mất mạng sống mình vì Chúa Giêsu và vì Tin mừng”. Nói cách khác, đó là con đường của Thập giá. “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất”. Kẻ yêu mạng sống mình thì chỉ biết sống cho mình, muốn được mọi người nhìn nhận và phục vụ cho mình. Đó là con đường sống được lót bằng những chiếc thảm hoa êm ái và rực rỡ nhưng sẽ dẫn con người ích kỷ đi tới hố diệt vong. Thật bất hạnh cho những người chỉ biết yêu mình, qui hướng về mình và sống cho riêng mình!
Trong Thần thoại Hy Lạp có kể câu chuyện về một anh chàng có tên là Narcise. Narcise là một chàng trai trẻ đẹp không còn chỗ nào chê được, và cũng không có dung mạo của ai có thể so sánh với anh ta được. Anh ta cũng nhận ra điều đó nên rất tự hào về chính mình. Dần dần anh ta khám phá ra là không ai xứng đáng để anh ta kết bạn cả. Cuối cùng, anh ta chỉ còn cách là quay trở lại để yêu chính mình. Anh ta đã yêu mình cách tha thiết và say mê mình ngây ngất đến độ quên hết mọi sự. Ngày đêm lo tìm cách để nhìn ngắm mình cho đã thèm! Bất cứ nơi đâu có thể soi mình được là anh ta không tiếc thời gian để nhìn ngắm mình cho thoả lòng khao khát. Một hôm, anh ta đi ngang qua một cái giếng sâu, có nước rất trong xanh. Anh chàng Narcise liền soi mình dưới lòng giếng sâu. Tiếc thay, vì không kìm chế được lòng say mê vẻ đẹp của mình, nên anh ta đã lao mình xuống lòng giếng để ôm lấy mình. Nhưng khốn khổ thay, anh ta đã chết chìm một mình trong lòng giếng ấy.
Câu chuyện trên muốn đem đến cho chúng ta một thông điệp này là: kẻ nào quá yêu mình và say mê mình thì khó có thể tránh được cái chết trong cô đơn và tủi nhục. Đó cũng chính là sứ điệp mà Tin mừng hôm nay gửi đến chúng ta: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết can đảm chọn lấy con đường “thập giá” và vui vẻ vác lấy thập giá đời mình để theo Chúa đến cùng. “Vác thập giá” theo Chúa là chu toàn việc bổn phận của mình hằng ngày, là trung tín sống niềm tin tưởng phó thác vào Chúa qua mọi biến cố buồn vui trong cuộc sống của mình.
Ước gì Lời của Chúa hôm nay luôn vang vọng mãi trong từng ngày sống của chúng ta để chúng ta để chúng ta được sáng suốt nhìn thấy con đường mà Chúa Giêsu đang mời gọi và chờ đợi ta bước theo Ngài, ngõ hầu mai sau được Chúa cho đứng vào hàng ngũ những người Chúa chọn và tìm được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Amen.
(Suy niệm của Lm. Louis Thanh Minh)
Bài ca thứ 3 của người tôi tớ Giavê trong bài đọc I trích từ sách Tiên tri Isaia của phần Ngôn Lễ Chúa Nhật hôm nay là hình ảnh tiên báo về Đức Kitô, Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi mà thánh Marcô đã giới thiệu trong bài Phúc Âm hôm nay: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, trưởng tế và luật sĩ chối bỏ và giết đi nhưng sau 3 ngày sẽ sống lại.” (Mc 8,31)
Hình ảnh Đấng Cứu Thế, theo chương trình của Thiên Chúa thật nhỏ bé, khiêm cung, hiền từ, vô danh tiểu tốt, khác hẳn với quan niệm và sự trông đợi của người Do Thái đương thời về một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt xuất hiện trong uy quyền, vinh quang, là vị Cứu Tinh của dân tộc Israel thoát xiềng xích đô hộ của đế quốc La Mã. Vì thế, họ vấp phạm vì Người và họ đã không nhận ra Người mà cứ mỏi cổ hết năm này đến năm nọ, hết thế kỷ này đến thế kỷ khác đợi trông Đấng Cứu Thế.
Đấng Cứu Thế ấy đã nhập thể trong cung lòng một thôn nữ nghèo nàn, sinh hạ trong hang lừa máng cỏ, 30 năm lam lũ trong xưởng mộc Nazareth, 3 năm tụ họp 12 dân chài mộc mạc đi lang thang khắp mọi nẻo đường xứ Palestina rao giảng Tin Mừng Nước Trời, nay đây mai đó vô gia cư, chẳng có văn phòng, trụ sở, bản doanh: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, còn Con Người không có hòn đá gối đầu”, rồi cuối cùng chết một cách nhục nhã thảm thương trần trụi trên cây khổ giá giữa hai tên trộm cướp, đến lúc tống táng cũng phải mượn mồ của người khác!
Đối với con mắt người phàm quả là một sự thất bại ê chề, nhưng đối với Thiên Chúa đó là đường đưa đến vinh quang vô tận. Vì chính thánh giá khổ nạn mới là con đường Đấng Cứu Thế phải trải qua để tiến vào vinh quang như Người đã xác quyết với hai môn đệ trên đường Emmaus sau ngày Phục Sinh (Lc 24,26).
Nếu không có chiều thứ sáu đau thương tử nạn, thì đâu có bình minh Chúa Nhật Phục Sinh huy hoàng! Nếu không có đồi Calvariô ảm đạm, thì sẽ không có đồi Olivêtê thăng thiên vinh hiển! Chúng ta hẳn cũng thường nghe câu ngạn ngữ nầy: “Chiến đấu không gian khổ, chiến thắng không vinh quang”. Một cuộc thi đua nào mà kết quả không khó khăn lắm để đạt được sẽ không có giá trị bao nhiêu.
Đức Phật Thích Ca đã cho rằng: “Đời là bể khổ” và “nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước của đại dương”. Kitô giáo trong Kinh Lạy Nữ Vương (Salve Regina) kêu rằng thế giới này là một thung lũng nước mắt, và giáo thuyết Công giáo cho rằng thế gian này chỉ là tạm gửi “sinh ký tử quy”, là một cuộc lữ hành, là nơi chiến đấu lập công đền tội, chứ không phải là nơi an hưởng, Thiên đàng mai hậu mới thật là quê hương muôn đời, nơi hưởng phúc thanh nhàn, “Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ” nơi đó sẽ không còn khổ đau, thử thách hay lâm cảnh đoạn trường.
Chúa Kitô đã khai mở một con đường độc đạo, đường hẹp, đường thánh giá, đường hy sinh đau khổ, Ngài đã đi tiên phong chúng ta không có sự chọn lựa nào khác hơn nếu muốn làm môn đệ Ngài và bước vào vinh quang thiên quốc: “Ai muốn theo Ta hãy bỏ mình vác thánh giá mọi ngày mà theo Ta”. Cuộc đời của các thánh, mỗi vị có một nét đặc thù nhưng tất cả đều có một mẫu số chung là “đau khổ”. Con đường nên thánh không phải lót toàn bằng hoa hồng, hoặc không phải “ngồi bóng mát ăn bát vàng”, vì trên thiên đàng, theo thị kiến của thánh Gioan tông đồ, gồm toàn “những người từ đau khổ lớn lao mà đến” (Kh 7,14). Bà thánh Litwine nằm trên giường bệnh 38 năm!
Vậy trên bước đường lữ thứ trần gian chắc chắn có những lúc Chúa sẽ gửi đến cho ta những cây thánh giá để giúp Chúa vác như ông Simon, chúng ta hãy vui vẻ ghé vai vác lấy một cách can đảm vì đó là dấu chỉ ta đi đúng đường và đền ơn Chúa và cộng tác với Ngài để cứu rỗi chính mình cũng như muôn người.
Nhóm Mười Hai, tức là các tông đồ, sau một thời gian dài được ở bên Chúa, được nghe những lời Chúa giảng dạy, và được chứng kiến những việc Chúa làm, nay đến Chúa muốn các ông phải dứt khoát lập trường, phải bày tỏ lòng tin của các ông. Nhưng đây cũng là khúc quanh quan trọng: Chúa bắt đầu tỏ ra cho các môn đệ biết con đường đau khổ Ngài phải đi để hoàn thành sứ mạng. Bởi vậy việc ông Phêrô tuyên xưng lòng tin và việc Chúa Giêsu báo trước con đường đau khổ của Ngài là một biến cố bản lề trong quá trình thi hành sứ mạng của Chúa cũng như trong quá trình huấn luyện các môn đệ, vì khi nói về con đường đau khổ của Ngài thì Chúa cũng nói về con đường mà những ai tin Ngài phải đi. Đó là nội dung bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ba điều rõ ràng: Thứ nhất, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: dân chúng nói Ngài là ai và chính các ông nói Ngài là ai? Thứ hai, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết về con đường đau khổ của Ngài. Thứ ba, Chúa Giêsu cho biết đây cũng là con đường của các môn đệ và của mọi người khi đi theo Ngài. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu điều thứ nhất mà thôi.
Dân chúng nói Chúa Giêsu là ai và các môn đệ nói Chúa Giêsu là ai? Từ hai câu hỏi của Chúa chúng ta có thể đặt ra hai câu hỏi cho chúng ta: chúng ta tự hỏi và tự trả lời: đối với tôi, Đức Kitô là ai? và đối với mọi người, tôi là ai? Trước hết, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Đây là một câu hỏi quan trọng, câu hỏi này dẫn chúng ta vào việc kiểm điểm niềm tin và cách sống của mình: có thật chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường sống không? Nếu tin như thế thì cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp, hay chúng ta vẫn tin một đàng, sống một nẻo, xem ra niềm tin và cuộc sống là hai thực thể tách rời nhau, không ăn nhập gì với nhau.
Có thể nói, đối với một số không nhỏ người Công giáo, thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung, mờ nhạt thuộc niềm tin. Vì thế, trả lời được câu hỏi: đối với tôi, Đức Kitô là ai? Không phải chỉ là chuyện kiến thức, sách vở, lặp lại những gì đã đọc được trong sách báo hay nghe được qua các bài giảng, nhưng trả lời được câu hỏi ấy chính là chuyện của cuộc sống, của chọn lựa cá nhân thâm tín và dấn thân.
Chúng ta hãy nhìn vào ông Nây Am-troong, ông là một phi hành gia đầu tiên của Mỹ đã đặt chân lên mặt trăng ngày 20.7.1969. Khi còn là một sinh viên, ông đã ghi trong cuốn sổ tay câu hỏi của Chúa Giêsu: “Anh em bảo Thầy là ai?” và ông đã trả lời: “Ngài là người không hề phạm tội, là người vị tha, là người biết quan tâm săn sóc kẻ khác, là người gần gũi Thiên Chúa”. Như vậy, ông Am-troong đã không trả lời theo thần học hay giáo lý cho câu hỏi “Anh em bảo Thầy là ai?”, nhưng ông đã đưa ra câu trả lời của riêng mình, ông đã nhìn sâu vào tâm hồn mình và nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong cuộc sống riêng tư của ông.
Mỗi người chúng ta cũng phải làm giống như ông Am-troong, chúng ta cũng phải nhìn sâu trong tâm hồn mình để nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong chính cuộc sống của mình, và cảm nghiệm này mang tính riêng tư không ai giống ai. Vậy, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Nói chính xác hơn, mỗi người chúng ta hãy hỏi: “Hôm nay, đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi?”. Phải thêm hai chữ “hôm nay” và chữ “rồi” vào câu hỏi, bởi vì “hôm nay” chứ không phải hôm qua hay hôm nào khác, và chữ “rồi” cũng thật quan trọng, bởi vì có thể trong quá khứ, chúng ta đã gặp Ngài, đã yêu Ngài hết mình, nhưng rồi hôm nay, Ngài thì không thay đổi, nhưng tình chúng ta yêu Ngài có đổi thay chăng? Thế nên, mỗi ngày chúng ta phải tự hỏi để đừng bao giờ Đức Kitô trở thành kỷ niệm, chỉ còn là một niềm tin trong quá khứ, để đừng bao giờ bỏ Ngài lủi thủi bước bên cạnh đời chúng ta.
Câu hỏi thứ hai, đối với mọi người, tôi là ai? trong những dòng cuối của sứ điệp “Hòa bình dưới thế”, Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo Hoàng nhân từ, dễ thương, đã đưa ra cho chúng ta một định nghĩa: thế nào là một người Kitô hữu chân chính như sau: “Mỗi người tín hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, là một tụ điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Nếu người tín hữu đóng trọn vai trò ấy, họ sẽ là người Kitô hữu chân chính”.
Sống trọn những cam kết trên quả thật người Kitô hữu luôn là một thách thức, một câu hỏi, một sự hiện diện quấy rầy đối với mọi người. Thực vậy, một mảnh sao băng khi chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó. Một hạt men bé nhỏ, mất hút trong khối bột, nhưng cũng đủ sức làm dậy nên cả khối bột. Một thể hiện yêu thương, dù nhẹ nhàng đơn giản cũng đủ sưởi ấm cõi lòng, đủ sức chinh phục hay cảm hóa bất cứ người nào. Như thế đó, sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo được ảnh hưởng tốt cho người khác, với điều kiện họ phải sống đúng danh nghĩa người Kitô. Và như thế, qua cuộc sống của mình, sự hiện diện của chúng ta cũng luôn là một câu hỏi cho những người chung quanh, nghĩa là nhìn vào đời sống chúng ta, họ bảo chúng ta là ai?
Tóm lại, người ta có nhận ra tôi là người Kitô không? Nghĩa là sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào, gặp gỡ bất cứ ai, người ta có nhận ra chúng ta là người Kitô không? Không phải chúng ta tự xưng, tự giới thiệu mà cách sống của chúng ta khiến người khác phải đặt câu hỏi hoặc phải cảm phục đời sống tốt đẹp của chúng ta. Và như thế chúng ta đã trả lời được câu hỏi: đối với mọi người, tôi là ai? Tôi là một người Kitô hữu, đơn giản thế thôi.
Nhìn thấy Chúa Giêsu làm những phép lạ, nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi:
– Liệu Ngài có phải là Đấng cứu thế hay không?
Đã từ lâu họ sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã, cho nên cũng đã từ lâu họ, trông chờ một đấng cứu thế đến giải phóng họ và đem lại cho quê hương họ sự phồn thịnh.
Sống trong một hoàn cảnh như vậy, các môn đệ phần nào cũng đã chia sẻ quan niệm ấy, thế nhưng Chúa Giêsu thì khác, Ngài đã không suy nghĩ và hành động như họ.
Sau phép lạ bánh hóa nhiều, nuôi sống năm ngàn người giữa chốn hoang vu. Dân chúng đã nồng nhiệt tung hô Chúa và họ muốn tôn Ngài lên làm vua. Trước ý đồ ấy, Chúa Giêsu đã trốn lên núi một mình.
Các môn đệ cũng không hơn gì những người Do thái. Trước khi Chúa Giêsu về trời, các ông đã hỏi Ngài:
– Phải chăng đã đến lúc Thày lập nước Israel?
Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã nói cho các ông biết Ngài không đến nhằm mục đích chính trị, nhưng đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi và dẫn đưa họ về cùng Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương họ.
Mặc dù các ông cũng đã tin, nhưng giấc mơ về nền độc lập của dân tộc vẫn âm ỉ cháy trong cõi lòng các ông.
Thái độ của Chúa Giêsu trước vấn đề quyền bính đã là một sự khó hiểu đối với các ông, huống nữa là vấn đề đau khổ, thập giá và cái chết của Ngài. Làm sao các ông có thể dễ dàng chấp nhận?
Thực vậy, bài Phúc Am hôm nay đã cho chúng ta thấy, sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, Chúa Giêsu đã nói trước cho các ông biết:
– Con Người sẽ đi lên Giêrusalem, ở đó Ngài sẽ phải đau khổ và sẽ phải chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Phản ứng của Phêrô thật là bộc trực và thẳng thắn, ông kéo Chúa Giêsu ra một chỗ và nói:
– Ước chi Thiên Chúa sẽ gìn giữ Thày để Thày khỏi phải như thế.
Có lẽ phản ứng của các tông đồ khác cũng như vậy. Một khi đã yêu mến Chúa, thì làm sao các ông có thể chấp nhận Ngài phải khổ đau. Hơn thế nữa, như mọi người Do thái khác, các ông quan niệm đau khổ là như một sự chúc dữ của Thiên Chúa.
Trước một người mù từ khi mới sinh, các ông đã chẳng hỏi Chúa Giêsu:
– Nó bị mù là do tội của nó hay là do tội của cha mẹ nó?
Chúa Giêsu hiểu điều ấy, nhưng Ngài cũng không thể chấp nhận để các ông làm cản trở chương trình tình thương của Thiên Chúa. Cuộc thương khó của Ngài phải được nhìn trong toàn bộ chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.
Bởi đó Chúa Giêsu đã quở trách Phêrô:
– Hỡi satan hãy xéo đi, ngươi làm cản trở cho Ta vì ngươi chỉ nhìn thấy những việc của loài người mà chẳng nhìn thấy những việc của Thiên Chúa.
Ít lần sau Chúa Giêsu lại tiên báo một lần nữa cho các ông:
– Chẳng bao lâu nữa Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta, họ sẽ giết chết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Lần này thì các ông không dám lên tiếng, nhưng Phúc âm đã ghi lại rằng:
– Các ông đã tỏ ra buồn bã.
Rồi cùng với thời gian, những sự việc đã xảy ra đúng như lời Chúa đã tiên báo: Ngài đã bị treo trên thập giá. Dưới mắt các ông thì đây là một thất bại ê chề.
Chính vì thế, hai môn đệ trên đường đi Emmaus đã nói với Chúa Giêsu:
– Chúng tôi hy vọng Ngài sẽ cứu thoát Israel, nhưng những sự kiện đau buồn ấy đã xảy ra ba ngày rồi.
Chỉ dưới sự soi dẫn của Chúa, các ông mới hiểu được rằng: Ngài sẽ phải đau khổ để được bước vào chốn vinh quang, và để đem lại cho chúng ta ơn cứu độ.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có tìm thấy ý nghĩa đích thực của những đau khổ gặp phải, hay là chúng ta cũng đã phản ứng như Phêrô và các tông đồ ngày xưa?
Thời Chúa Giêsu, vác thập giá là một cực hình khổ nhất, nhưng thông dụng nhất mà người Rôma đế quốc đã đem áp dụng ở Do thái. Vậy nói tới thập giá, đối với thời Chúa Giêsu, là một khổ hình và chắc chắn chết nhục nhã. Người nào vác thập giá là người bị đưa tới pháp trường để chịu đóng đinh mình vào cây thập giá đó. Vác thập giá lên vai có nghĩa là bắt đầu đi đến chỗ chết. Vác thập giá cũng có nghĩa là bắt đầu đau khổ thực sự. Vì thế, những đau khổ trong cuộc đời chính là thập giá Chúa bảo chúng ta phải vác mà đi theo Ngài. Đây chính là vấn đề chúng ta muốn hiểu biết: vấn đề đau khổ trong cuộc đời.
Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Cho nên, Kinh Thánh nói: “Đời là thung lũng nước mắt”. Đã là thung lũng nước mắt thì cũng là bể khổ, vì sao vậy? Xưa nay các nhà hiền triết đã nát óc đi tìm một câu trả lời thỏa đáng. Đức Phật Thích Ca đi tu cũng vì muốn tìm một câu trả lời cho câu hỏi gai góc ấy.
Không hiểu lý do sự đau khổ, người ta tìm cách hủy diệt người đau khổ mà họ cho là những chiếc gai phản tiến hóa. Đã có một thời chính phủ Nhật Bản ra lệnh tập trung tất cả những người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo nằm ở giữa biển Thái Bình Dương và tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo chứa đầy bệnh nhân ấy. Họ mắc bệnh nan y, họ không có quyền sống. Trong thế chiến thứ hai, nhà độc tài Hitler đã ra lệnh cho giám đốc bệnh viện Bê-then thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh tâm thần, vì họ là thành phần vô dụng, ăn hại xã hội và quốc gia. Không tin ở Thiên Chúa thì người ta không làm sao hiểu nổi vấn đề đau khổ. Và người ta có thể tuyệt vọng khi không làm sao tránh được đau khổ và bệnh tật. Văn hào vô thần Hen-ri đờ Mông-thơ-lan, thuộc hàn lâm viện Pháp, lúc về già, bị mù. Vì không chịu được sự đau khổ ấy, ông đã dùng súng lục bắn vào họng tự sát.
Vấn đề đau khổ, ai sẽ đem lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng? Chỉ có một Đấng là Chúa Giêsu mới có thể trả lời cho chúng ta. Và nhờ ánh sáng Tin Mừng của Chúa chúng ta mới hiểu được nguyên do của đau khổ, đó chính là tội lỗi. Đau khổ đã xuất hiện từ khi loài người bắt đầu phạm tội và sẽ còn mãi cho đến tận thế. Mở trang đầu của Kinh thánh, chúng ta thấy Chúa dựng nên vạn vật, chim trời, cá biển, cầm thú và con người, rồi Kinh Thánh kết luận: “Mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, rất tốt đẹp”. Nhưng rồi chương trình tốt đẹp ấy đã bị đổ vỡ. Tội lỗi đã len vào thế gian. Và vì tội thì có sự chết nữa. Nghĩa là từ ngày nguyên tổ phạm tội thì đau khổ báo trước sự chết và sự chết đã ngự trị trên trần gian. Mỗi ngày có biết bao nhiêu tiếng khóc, có biết bao nhiêu dòng nước mắt. Mỗi ngày có hàng vạn người chết. Bản án còn vang lên: “Vì ngươi đã phạm tội thì trái đất sẽ sinh gai góc, ngươi phải làm ăn vất vả, đổ mồ hôi trán mới có ăn và ngươi là tro bụi thì sẽ hoàn về tro bụi”. Từ đó, đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt. Đau khổ là do tội lỗi phát sinh. Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Nhờ sự chết và sống lại, Ngài đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Nhưng Ngài không cất đi hình phạt của tội lỗi là gian nan đau khổ. Hơn nữa, Ngài dùng đau khổ làm giá cứu chuộc chúng ta. Vì thế, đời sống Chúa Giêsu là một đời đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận. Ngài mong chờ nữa, vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.
Chúa đã chịu đau khổ để đền tội chúng ta, thì Ngài cũng thánh hóa sự đau khổ để nêu gương sáng cho chúng ta. Hơn nữa, Ngài lấy sự nhẫn nại chịu đau khổ như là một điều kiện để theo Ngài, để làm môn đệ của Ngài: “Ai muốn theo tôi, hãy vác thập giá mình mà theo”. Từ đây không ai có thể tự hào là môn đệ Chúa mà không tham gia vào cuộc thương khó của Chúa, không vui lòng lãnh nhận phần đau khổ riêng tư của mình. Vì thế, khi gặp đau khổ, Chúa dạy chúng ta đừng buông xuôi, đừng thất vọng, đừng lồng lộn rủa trời, chửi đất mà hãy đến cầu xin với Chúa: Hãy đến với tôi, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.
Có hai loại đức tin. Loại thứ nhất là đức tin của những người tin tưởng vì họ đi theo truyền thống của tổ tiên, họ mạnh mẽ duy trì truyền thống đức tin ấy. Đây có thể gọi là đức tin thừa hưởng. Loại thứ hai có thể được gọi là đức tin cá nhân. Có một sự khác nhau quan trọng giữa hai loại ấy. Người sở hữu một đức tin thừa hưởng hoặc kế thừa có lợi thế là họ không bị cám dỗ dễ dàng. Cả khi phải đương đầu với những lý lẽ triết học có thể nói ngược lại đức tin của họ. Đức tin này được duy trì mạnh mẽ vì thuộc về truyền thống mà họ thừa hưởng từ tổ tiên họ. Ngoài ra họ không bao giờ lệ thuộc vào tư duy triết học. Nhưng họ cũng có những sự bất lợi. Đức tin của họ thường không có lý luận hoặc suy tư vững chắc, và thường là một đức tin của tập quán và lề thói cổ xưa.
Người sở hữu một đức tin cá nhân cũng có một lợi thế. Họ đã khám phá Thiên Chúa với lý lẽ của họ, và vì thế, lý lẽ này rất mạnh trong đức tin của họ. Nhưng họ cũng có một điều bất lợi. Họ có thể bị thuyết phục bởi lý luận, và nếu đối đầu với những lý lẽ chống lại mạnh mẽ, họ có thể bị cám dỗ bỏ đức tin. Để có thể chống cự lại những thử thách, đức tin phải có nền tảng trong những gì vượt xa hơn kinh nghiệm cá nhân của mình.
Những người có được đức tin của họ theo hai cách trên được hưởng lợi thế mỗi cách. Họ phụ thuộc mạnh mẽ vào truyền thống của tổ tiên, nhưng đồng thời được hưởng ưu điểm của khả năng tư duy những sự vật khách quan. Vì thế, họ có được đức tin tốt nhất và hoàn hảo nhất.
Sinh ra trong đức tin chưa đủ. Một đức tin thừa hưởng là một đức tin đã qua sử dụng và có thể rất trống rỗng. Nói rằng: “Cha mẹ tôi là những tín hữu” chưa đủ. Mỗi thế hệ phải tòng giáo lại. Có người đã nói rằng nhiều người đi lễ không tốt hơn những người ngoại giáo tân tòng. Điều này xem ra khắt khe quá. Tuy nhiên, chúng ta thấy nhiều khuôn mặt buồn chán và mệt mỏi trong nhà thờ, khuôn mặt của những người đến trễ và bỏ ra về khi thánh lễ chưa xong.
Câu hỏi mà Đức Giêsu hỏi các tông đồ là câu hỏi quan trọng nhất trong Tin Mừng. Nó liên quan đến căn tính của Đức Giêsu. Người hỏi họ câu hỏi ấy không phải vì Người mà là vì họ. Một câu hỏi bắt người ta phải suy nghĩ về niềm tin của họ.
Trước tiên Người hỏi: “Người ta nói Thầy là ai?” Các môn đệ thuật lại với Người. Những câu đáp là những câu không trúng. Kế đó, Người quay lại họ và hỏi “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Và Phêrô đáp: “Thầy là Đấng Kitô”. Đấng Kitô có nghĩa là Đấng Mêsia. Thánh Matthêu đã ghi lại câu trả lời của Phêrô như sau: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đây là cốt lõi của đức tin trên đó Giáo hội được xây dựng.
Điều quan trọng là chúng ta phải đưa ra câu trả lời của mình tức là có khả năng khẳng định giá trị và niềm tin của mình như những Kitô hữu. Nếu chỉ lặp lại những câu trả lời chính thức sẽ không đủ. Chúng ta phải làm cho đức tin của mình thành xác tín, khi sống đức tin ấy và để nó ảnh hưởng lên đời sống chúng ta. Đức tin của cha mẹ chúng ta không phải là đức tin của chúng ta chừng nào chúng ta chưa tự mình bước đi.
Chúng ta cần trưởng thành trong sự hiểu biết đức tin. Chúng ta phải tin bằng chính niềm xác tín của bản thân. trong Giáo hội, càng có nhiều người như thế, thì Giáo hội càng được thiết lập vững vàng trên đá tảng.
Rõ ràng Phêrô không hoàn toàn hiểu hết những lời ông nói. Khi ông thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia, ông không biết Đức Giêsu là một Đấng Mêsia đau khổ. Đó là một điều ông phải học biết và học biết một cách khó khăn.
Phêrô đã thực hiện một tuyên xưng hoàn hảo về đức tin. Ông có một đức tin hoàn toàn đúng với ngôn ngữ của ông. Nhưng khi phải hành động theo đức tin ấy, ông thất bại. Điểm kém cỏi nhất của ông là khi ông chối Chúa. Điều này cho chúng ta thấy rằng chúng ta cần ân sủng của Thiên Chúa, không chỉ để tuyên xưng đức tin, mà còn để sống đức tin ấy.
Bà O’Reilly đã nhận được tin một người láng giềng bị đau nặng. Bà nói với người đã cho bà hay tin: “Hãy nói với bà ấy rằng tôi sẽ nhớ đến bà ấy trong lúc cầu nguyện và tôi hy vọng rằng bà ấy sẽ sớm bình phục”.
Và bà O’Reilly cũng tốt bụng như lời bà. Tối hôm đó, khi bà đọc kinh tối như thường lệ, bà đã cầu nguyện chân thành và sốt sắng cho người láng giềng. Bà nói với Chúa: “Lạy Chúa, con muốn cầu xin Chúa cho người láng giềng của con. Bà ấy bị bệnh rất nặng. Bà ấy cần được giúp đỡ, cần được an ủi”.
Khi cầu nguyện xong, bà cảm thấy khá hơn. Và tuy vậy, có một điều làm bà băn khoăn, áy náy. Bà ngồi xuống và nghĩ về điều đó. Rồi bà rơi vào một tình trạng thiu thiu ngủ trong đó bà nghe Thiên Chúa nói với bà: “Ta biết con rất quan tâm đến người láng giềng của con”.
“Vâng, thưa Chúa, con thật sự quan tâm” bà đáp lại với không ít niềm tự hào.
“Và Ta cũng biết rằng người láng giềng con cũng rất cần sự giúp đỡ” Thiên Chúa nói.
“Con cũng nghe nói như thế”. Bà O’reilly nói.
“Con biết đấy, điều bà ấy cần là một người dành cho bà ấy chút ít thời gian”. Chúa nói.
“Thưa Chúa, Chúa hoàn toàn đúng. Con cũng nghĩ như thế”. Bà O’Reilly đáp.
“Bây giờ, con xin Ta giúp đỡ bà ấy, con không chờ Ta từ trời xuống để thăm bà ấy đó sao?”
“Không, thưa Chúa, con không mong Chúa làm thế. Cả người láng giềng của con cũng không mong điều đó. Thật vậy, điều đó làm bà ấy xúc động và chết mất”.
“Vậy, bà ấy không cần ai đến thăm sao?”
“Thưa Chúa, cần ạ”
“Ta có thể sai ai đến?”
Sau một hồi lâu thinh lặng. Bà O’Reilly nói: “Thưa Chúa, xin Chúa hãy sai con!”
Khi bà tỉnh giấc, bà biết chính xác điều bà phải làm.
Thánh Giacôbê nói: “Nếu như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không có đủ của ăn hàng ngày” mà chúng ta chỉ nói: “Anh, chị đi bình an”. Như thế là không đủ.
Với một người đang cần giúp đỡ mà chỉ nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho anh”. Như thế là không đủ. Chúng ta không nên nghĩ rằng đã làm được một chút gì mỗi khi chúng ta chuyển giao vấn đề cho chúa. Điều ấy nghe có vẻ như đùn đẩy mọi việc cho Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện cho người khác, thực ra chúng ta đang nói cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, này con đây. Xin Chúa hãy sai con”.
Lời cầu nguyện của chúng ta phải dẫn chúng ta đến hành động tích cực nào đó, dù chỉ là một hành động nhỏ. Nhưng cho dù là một hành động nhỏ như một cuộc viếng thăm cũng chứng tỏ đó là một cử chỉ có giá trị, bởi vì nó đưa chính chúng ta đến gần bên người đau khổ. Và làm điều đó là đặt chính mình vào nỗi đau khổ của họ. Chúng ta sẽ không tránh được một phần nỗi đau khổ ấy xâm nhập chúng ta.
Cầu nguyện cho người khác, hoặc mong ước họ được tốt lành, là một điều tốt. Nó mang lại cho họ sự an ủi vì họ biết rằng mình không cô độc. Nhưng chưa đủ. Đó là một đức tin chết. Nếu đức tin của chúng ta sống động, chúng ta cũng sẽ diễn tả sự quan tâm của chúng ta bằng hành động.
Phêrô hoàn toàn đúng khi nhận thức được căn tính của Đức Giêsu. Đức tin của ông trở nên hoàn hảo trong Lời Chúa. Nhưng đến lúc hành động, ông đã thiếu sót một cách đáng thương. Khi Đức Giêsu yêu cầu ông canh thức với Người lúc hấp hối ở trong vườn. Ông đã ngủ quên. Và cũng trong đêm đó, ông đã chối Đức Giêsu.
Có một đức tin chủ yếu chỉ trong lời nói. Và có một đức tin tuôn trào qua các công việc. Chúng ta cần ân sủng của Thiên Chúa không chỉ để tuyên xưng đức tin, nhưng còn để sống đức tin ấy.
G.K.Chesterton có một câu chuyện về người đàn ông nhân đức được nhiều người ưa thích. Lý do chính của tính quần chúng này là ông không thiếu những lời hài hước ý nhị. Không có một người lo lắng, ưu phiền nào mà không hỏi ông làm thế nào để luôn luôn hạnh phúc. Họ cho rằng ông sinh ra là một con người lạc quan.Nhưng rồi một ngày kia, người ta thấy ông chết trong một trường hợp bí ẩn. Người ta nghi ngờ có một trò bỉ ổi. Tuy nhiên trường hợp này làm lạc hướng điều tra của cảnh sát. Tình cờ, chính thám tử không chuyên của Chesterton là Fr. Browne đã giải quyết vụ việc. Phán quyết của thám tử là người đàn ông ấy đã tự tử.
Trước tiên người ta không chấp nhận phán quyết của Fr. Browne. Người ta không thể tưởng tượng một người hạnh phúc như thế lại có thể phạm tội tự sát. Nhưng như thế càng nổi rõ một khía cạnh nghiêm trọng của con người vui tính ấy. Người làm cho người khác cười thực ra là một người ưu phiền sâu xa. Nhưng ông không bao giờ có thể nói với bất kỳ ai ông thật sự cảm thấy thế nào.
Ông ấy có hai đời sống. Một đời sống rộng mở cho mọi người nhìn thấy và hiểu biết. Còn đời sống kia thì bí ẩn, chỉ một mình ông ấy biết. Trong đời sống công cộng, ông ấy là một người đàn ông mỉm cười với mọi người. Nhưng trong đời sống riêng tư, người ấy bị tổn thương và tuyệt vọng.
Ông cảm thấy phải sống theo sự mong đợi của những người khác để đổi lấy sự quan tâm và kính trọng. Ông không bao giờ có thể là chính mình. Sau cùng, ông đã nhận thức rằng cả đời ông được đặt trên nền tảng của một sự dối trá. Nỗ lực căng thẳng để duy trì một hình ảnh về mình đối với quần chúng đã trở thành quá to lớn đến nỗi ông không thể đối phó được nữa. Vì thế ông đã phạm tội tự sát.
Mọi người thích được nghĩ tốt về mình. Vì thế, người ta cố gắng tạo thành một hình ảnh thích hợp về mình trong con mắt của người khác. Họ sẽ làm bất cứ điều gì để duy trì hình ảnh đó.
Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu ít quan tâm đến điều người khác nghĩ về Người dù hình ảnh mà người khác có về Người rất thuận lợi. Người ta đã nhìn Người như một ngôn sứ lớn. Phêrô đã đi xa hơn. Ông nói Người là Đấng Kitô (tức là Đấng Mêsia).
Không thể phóng đại ý nghĩa mà người Do thái hiểu về Đấng Mêsia. Nhiều người nghĩ rằng đó là một lãnh tụ quân sự vĩ đại – một vua Đavid khác, Người có thể phục hồi sức mạnh quân sự trước đây. Rõ ràng đó là điều mà Phêrô đã nghĩ đến.
Nhưng đó không phải là ý tưởng về Đấng Mêsia của Đức Giêsu. Người nói với các tông đồ rằng Đấng Mêsia phải chịu đau khổ như Isaia đã tiên báo (xem bài đọc 1) Người không muốn họ có những hy vọng sai lầm để rồi sau này sẽ thất vọng, và cảm thấy rằng Người đã lừa dối họ.
Nhưng Phêrô không ủng hộ ý tưởng Đức Giêsu phải chịu đau khổ. Ông quyết tâm cứu Người khỏi một số phận như thế. Chúng ta có thể có thiện cảm với ông. Chúng ta muốn cứu người chúng ta yêu mến khỏi phải chịu khổ. Nhưng chúng ta càng yêu thương họ, chúng ta càng không có quyền đứng chắn con đường số phận của người ấy.
Đức Giêsu đã quở trách Phêrô. Người không có ý định sống theo sự mong ước của quần chúng. Người không bị ảnh hưởng bởi những gì mà người ta suy nghĩ, hoặc mong muốn, hoặc chờ đợi nơi Người. Người muốn chân thật với chính mình và với điều mà Thiên Chúa mong muốn nơi Người.
Dù đường lối của chúng ta là gì thì điều thật sự quan trọng là chúng ta phải là chính mình, cái bản ngã duy nhất của chúng ta và tốt nhất mà khả năng chúng ta có thể đạt được – một thành phần của dân mà Thiên Chúa muốn chúng ta trở thành. Điều duy nhất quan trọng là phải chân thật với chính mình. Bất cứ đường lối nào khác đều sẽ là sai lầm không làm cho người ta đạt đến sự trưởng thành, hạnh phúc viên mãn và thánh thiện.
Anh chị em thân mến
Có một đoàn lữ hành đặc biệt, đang vượt chặng đường dài với hành trang trên vai. Nhưng hành trang không phải bình thường, mà là, mỗi người mang một cây Thánh Giá. Địa hình của chặng đường khi thì bằng phẳng, khi thì rất khó khăn, nên mọi người đều thấm mệt. Trong số đó, có một người bỗng có một suy nghĩ rất hay. Anh ta cắt bớt đi một phần của cây Thánh Giá. Cũng từ đó anh ta bước đi nhẹ nhàng thoải mái hơn bao nhiêu người khác. Anh ta rất hài lòng về sáng kiến của mình. Nhưng rồi, khi đến một con suối, không có phương tiện gì để vượt qua, mỗi người chỉ còn cách dùng cây Thánh Gia làm chiếc cầu để vượt qua, sau đó, vác Thánh Giá và tiếp tục lên đường. Còn cây Thánh Giá đã mất đi một phần, giờ đây không còn xử dụng được trong trường hợp nầy, nên chủ nhân của nó đành phải ngồi lại bên bờ vực, một mình, cô đơn mà nhìn mọi người từ từ rời xa mình.
“Mọi người chung quanh bảo Thầy là ai?” Tất cả mọi câu trả lời đều không được Chúa Giêsu chấp nhận. “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” — “Thầy là Đức Kitô”. Một câu trả lời được Chúa Giêsu chấp nhận. Nhưng rồi khi nghe Ngài nói về cuộc khổ nạn, thì cũng chính môi miệng đó, cũng chính con người đó, lại bị khiển trách nặng nề. Ngài gọi là satan có nghĩa là kẻ thù, vì đã ngăn cản việc làm của Thiên Chúa.
Phêrô đã theo Chúa Giêsu, nhìn thấy và biết những việc làm của Ngài. Ông cũng mới vừa được khen, ông ngở rằng những gì ông suy tính đều tốt đẹp, nên ông muốn hướng dẫn Đấng ông vừa tuyên xưng là Đức Kitô đi theo con đường của ông. Ông theo Chúa nhưng sợ con đường mà Ngài dẫn đi, sợ những hành trang mà Ngài trao cho. Theo Chúa nhưng ông muốn mang những hành trang của chính mình, đi trên con đường của riêng mình và ông đòi Chúa phải ở bên ông. May thay, lời quở trách đã làm ông thức tỉnh, bài học tiếp theo đã hướng dẫn và giúp ông đi đến nơi đến chốn bình an. “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”.
Tâm trạng của Phêrô, cũng là tâm trạng cuả mỗi ngưới chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng muốn tìm cho mình sự thoải mái, sung sướng cho thân xác. Chúng ta vẫn tự hào là người Công giáo. Chúng ta vẫn biết vác thập giá hàng ngày theo Chúa. Chúng ta biết rất rỏ những gì Thiên Chúa muốn nơi con người chúng ta. Đôi khi chúng ta còn tự hào vì mình luôn vác Thánh giá hằng ngày theo Chúa. Chính những lúc tự hào như thế, là những lúc chúng ta có hành động như Phêrô: kéo Ngài ra để khuyên can.
Cũng nhiều lần trong cuộc sống, Chúa Giêsu khiển trách chúng ta như đã khiển trách Phêrô ngày xưa. Phêrô biết lắng nghe, còn ngày nay, chúng ta vẫn phớt lờ, vẫn sống với niềm tự hào của chính mình và bước đi trong niềm tự hào đó.
Chúng ta vẫn sống, vẫn giữ đạo, hay nói cách khác là đang vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa. Nhưng coi chừng cây Thánh đã bị mất đi một phần. Bao nhiêu lần nó đã bị cắt mất đi vì những luồn lách của cuộc sống. Những lần thân xác được dung dưỡng để nó được thoải mái trong những cuộc vui không chính đáng. Những lần thân xác cảm thấy thỏa mản khi đạt được mục đích lợi nhuận mà bất cần đến sự chính đáng hay không chính đáng. Những lần chúng ta không chu toàn trách nhiệm chính đáng của một người trong xã hội, trách nhiệm của một người công giáo, trách nhiệm của mình trong gia đình, và với bao nhiêu người chung quanh. Đôi lúc chúng ta cũng mỉm cười mãn nguyện, vì cảm thấy mình khôn ngoan hơn bao nhiêu người khác vì những trò vặt như thế. Đó là những lần chúng ta đã cắt bớt đi Thánh giá cuộc đời của mình, để nó được nhẹ nhàn hơn. Chính những lúc thất bại, bị người đời chỉ trích, những lúc đó nếu biết lắng nghe, đó là lúc Chúa khiển trách và bảo chúng ta vác Thánh Giá hằng ngày theo Chú; những lúc đó Chúa cũng nói với chúng ta: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”. Nếu chúng ta không biết lặng thinh khiêm nhường cuối đầu nhận tội như Phêrô, thì chúng ta cũng sẽ không có được cuộc sống tốt đẹp như Ông.
Xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa, xin cho chúng ta biết chấp nhận cuộc sống để biết vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa cho đến cùng.
Đức Giêsu là ai? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ra ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.
Ngày xưa, nhiều người Do thái trả lời rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ, tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhưng nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống bình an của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết chết các tiên tri: họ đã lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan tẩy giả và họ cũng đã đóng đinh Giêsu.
Riêng Phêrô thì trả lời rằng Giêsu chính là Đức Kitô, nghĩa là một người có thừa khả năng để cứu rỗi đời mình và đáng cho mình đi theo cho đến hơi thở cuối cùng. Chính vì thế mặc dù muốn theo Thầy thì phải bỏ mình vác thập giá, nhưng Phêrô đã sẵn sàng trung thành với Thầy cho đến chết.
Giêsu là ai? Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo lôi theo một nếp sống khác nhau. Có hai câu trả lời tiêu biểu sau đây ở trong 2 quyển tiểu thuyết:
. Quyển “The last temptation” (Cơn cám dỗ cuối cùng) mô tả Giêsu như một chàng thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai, nhiều khả năng. Chàng có một người yêu tên là Mađalêna. Nhưng một ngày nào đó, Giêsu bỗng bị ám ảnh rằng mình không thể sống nếp sống tầm thường mà phải sống như siêu nhân. Vì thế chàng từ bỏ tình yêu của nàng Mađalêna và lên đường rao giảng một thứ giáo thuyết siêu nhiên. Mađalêna thất tình buông trôi cuộc đời trong nếp sống trụy lạc, đĩ thõa. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng siêu nhiên. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng siêu nhiên, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối cùng). Nhưng sau đó gục đầu tắt thở.
Đó là một câu trả lời, rằng: Giêsu chỉ là một người phàm, tuy người phàm này theo đuổi một lý tưởng siêu nhiên và do đó cũng đáng được người khác kính trọng, nhưng cái lý tưởng đó không thể thực hiện được. Thành thử chúng ta dù kính trọng Ngài nhưng không thể sống theo Ngài được.
Có lẽ đó là câu trả lời của rất nhiều người thời nay. Họ nhìn nhận Giêsu là một vĩ nhân, họ nhìn nhận đạo Đức Giêsu là đạo tốt. Nhưng cái đạo đó chẳng giúp ích gì cho cuộc sống. Cuộc sống của họ cần có vật chất, cần có tiền bạc, cần có sự nghiệp, công danh, chứ không cần đến lý tưởng tôn giáo bao nhiêu. Vì thế họ lao mình vào cuộc sống vật chất, để sang một bên những vấn đề lý tưởng tôn giáo cho hạng đàn bà, trẻ nít, hay có cho mình thì cũng là tới khi về già, gần đất xa trời.
. Câu trả lời thứ hai chúng ta gặp trong quyển “Quovadis”: quyển truyện này lấy khung cảnh thời hoàng đế Néron của đế quốc Lamã đang thịnh trị. Tất cả các nước chư hầu đều phải gửi một con tin sang thủ đô Rôma. Đó là một cách để bảo đảm sự tùng phục của các chư hầu. Trong số các con tin ấy có một nàng con gái đẹp tuyệt vời làm cho người cháu của hoàng đế Néron si mê. Chàng này vừa có địa vị, vừa có thế lực, vừa có bạc vàng. Chàng tin chắc mình sẽ chinh phục được con tim của người đẹp. Lúc đó bạo Cháu Néron cũng đang thẳng tay bắt giết những người theo đạo Đức Giêsu. Phêrô đã phải sợ hãi bỏ thành Rôma chạy trốn. Nhưng đang khi đi trên đường thì Phêrô gặp Đức Giêsu từ ngoài thành vác thập giá đi vào. Phêrô hỏi “Quovadis”, tiếng Latinh nghĩa là “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?” Đức Giêsu trả lời: Ta vác thập giá vào Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa, vì con đã không dám chịu đóng đinh. Phêrô nghe vậy vội trở vào Rôma và cùng với các tín hữu khác chịu đựng những cuộc bắt bớ, cho đến chết. Tấm gương anh dũng của các tín hữu Đức Giêsu đã làm cho nàng con gái đang làm con tin ấy cảm phục và tìm ra được lý tưởng cho đời mình.
Đó là câu trả lời: Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống. Con xin theo Thầy cho dù phải vác thập giá và phải bỏ mình vì Thầy!
Đức Giêsu không phải chỉ là siêu nhân mà còn là Con Thiên Chúa. Và vì là Con Thiên Chúa cho nên lý tưởng Ngài đề ra cho ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viển vông không thể thực hiện. Là Con Thiên Chúa, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực hiện được lý tưởng của Ngài cho dù có phải trải qua muôn ngàn gian truân khổ sợ. Mà chính cái lý tưởng ấy mới khiến chúng ta sống xứng đáng là người. Con người nếu chỉ biết mê ăn uống, có tiền bạc, có vật chất, sinh ra để ăn, ăn rồi đói, đói rồi phải kiếm ăn, cứ như vậy cho đến lúc chết thì chẳng khác gì hơn con vật. Đức Giêsu muốn giúp chúng ta sống hơn con vật, cho nên Ngài đã chọn kiếp là người, sống cho chúng ta thấy và sống theo để chúng ta sống xứng đáng là người. Chẳng những là người mà còn là Con Thiên Chúa như Ngài. Mà muốn được như Ngài, chúng ta phải đi theo Ngài, phải bỏ mình đi, phải vác thập giá… Nghĩa là phải cố gắng vươn lên, vươn lên cao hơn những nhu cầu vật chất xác thịt tầm thường. Chúa Giêsu đã tiên phong sống được như thế và Ngài sẽ giúp chúng ta sống được như thế, nếu chúng ta nhớ làm theo Lời Ngài: Ai muốn theo ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ được sống đời đời”.
Trên đây là hai câu trả lời tiêu biểu cho câu hỏi “Giêsu là ai?” Còn câu trả lời của chúng ta là gì? Nếu chúng ta trả lời như Phêrô “Thầy là Đức Kitô” thì chúng ta cũng hãy can đảm bỏ mình vác thập giá đi theo Thầy”.
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc: “Họa mi và bông hồng đỏ”. Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: “Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi”. Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:
– Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?
– Họa mi ơi! Em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.
– Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ?
– Họa mi ơi! Đời cần hoa chi cho thương đau?
– Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình.
– Được, nhưng phép mầu cần phải có mầu đỏ.
– Bằng mọi giá chị ạ.
– Bằng giá sinh mạng?
– Kể cả sinh mạng em.
– Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đóa hồng bí nhiệm đỏ thắm.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đóa hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị… Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đóa hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.
Câu chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình”. Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.
Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể “được cả” mà cũng có thể “ngã về không”. Chính cái bấp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.
Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.
Nhưng “Từ bỏ chính mình” không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
“Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống”. Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Đấng tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì “Ai biết chết thì sẽ biết sống”.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ với đòi hỏi hết sức lạ lùng: “từ bỏ và vác thập giá”. Những ai đáp ứng được yêu cầu ấy thì mới “ xứng đáng làm môn đệ Thầy”.
Tại Xêdarê Philipphê, Chúa hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?”. Từ từ Chúa dẫn đưa các ông đến câu hỏi quan trọng nhất, xác tín nhất: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? “.
Chúa Giêsu có thể tự giới thiệu về mình, tự nói lên căn tính của mình. Nhưng Người đã không làm thế. Chúa muốn người môn đệ phải tự khám phá ra Thầy của mình là ai. Chúa muốn lời tuyên xưng của người môn đệ phải phát xuất từ nỗ lực tìm hiểu và cảm nghiệm chân thực trong cuộc sống sinh hoạt với Người.
Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế, Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người. Con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy”. Đó là con đường tủi nhục. Con đường khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Chúa không lừa mị, không hứa hẹn những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ đường ngay nẻo chính và muốn những ai theo Người phải dũng mạnh, can đảm, quyết liệt. Vì thế, Chúa nói thẳng thắn với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.
Muốn theo Chúa, các môn đệ phải “từ bỏ và vác thập giá”.
Chúa đòi buộc người theo Chúa phải từ bỏ, phải đặt tất cả dưới Người, phải yêu Người trên mọi sự. Đưa ra đòi hỏi này và biết đó là một chọn lựa khó khăn nên Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ cần biết tính toán cẩn thận rồi mới chọn lựa dứt khoát. Muốn xây tháp cần tính toán có đủ tiền bạc không. Muốn thắng trận cần có lính Tráng. Muốn theo Chúa phải từ bỏ. Từ bỏ ý riêng, từ bỏ sự tự do, từ bỏ những điều mình ưa thích khi những điều ấy đi ngược lại với lời dạy của Chúa hay làm cho bản thân xa cách Người.
Từ bỏ là quy luật của cuộc sống và sự phát triển.Thai nhi không thể ở mãi trong lòng mẹ cho dẫu nơi đó an toàn, êm ấm nhất. Đứa trẻ phải từ giã lòng mẹ để sinh ra làm người. Đứa trẻ không thể nào trưởng thành nếu nó cứ sống mãi bằng sữa mẹ, nó phải thôi bú, ăn cơm bánh mới lớn lên.
Cuộc sống đặt con người trước những sự lựa chọn. Chọn lựa là giới hạn. Chọn điều này phải bỏ điều kia. Sống là chấp nhận từ bỏ. Chọn những điều tốt loại bỏ những điều xấu. Có những điều xấu cần từ bỏ như cờ bạc, rược chè, ma tuý, truỵ lạc, trộm cắp, gian dối… Cũng có những điều tốt phải từ bỏ để chọn điều tốt hơn. Chẳng hạn, khi chọn trường học, chọn nghề nghiệp, chọn nơi ở, chọn bậc sống, chọn bạn bè, chọn vợ chồng. Thanh niên nam nữ khi tìm hiểu nhau thì có nhiều người nhưng khi chọn vợ chồng, chỉ chọn một mà thôi.
Từ bỏ đòi hỏi nhiều hy sinh. Mỗi sáng thức dậy đi lễ, bỏ lại chiếc giường êm ấm. Mỗi tối gia đình tắt tivi để cùng quy tụ đọc giờ kinh hạt. Giữ ngày Chúa nhật, bỏ công việc làm ăn có nhiều lợi nhuận. Bỏ đi một tật xấu để tập một nhân đức. Cao cả hơn, bỏ đời sống hôn nhân để sống đời tận hiến cho Chúa…
Sự từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Khi yêu người ta cảm thấy nhẹ nhàng. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập. Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình.
Từ bỏ giống như cuộc leo núi. Leo núi là một cuộc mạo hiểm. Đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ. Nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo, lòng can đảm. Càng lên cao, người leo núi càng hưởng nhiều niềm vui, càng tắm mình trong ánh sáng chan hoà và được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ.
Theo Chúa giống như đi leo núi. Thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.
Thập giá đi liền với tình yêu. Phải nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng. Nếu không chẳng thể chấp nhận nổi thập giá. Thập giá phát xuất từ tình yêu của Đấng Cứu Độ.
Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thập giá.Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người.
Tình yêu như là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến với niềm vui. Thiếu tình yêu, hy sinh chỉ còn là đau khổ gánh nặng và buồn chán. Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Hôm nay, nơi nào có bóng thập giá là nới ấy có dấu chân người Kitô hữu. Ba cây thập giá dựng lên chiều thứ sáu tử nạn, Đức Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là Thánh Giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Người đi vào đời sống mới thì cây thập giá khốn khổ ấy trở thành cây cứu rỗi và trở nên thánh thiêng. Sự thánh thiêng ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết và là vinh quang. Không có tình yêu thì thập giá không là Thánh Giá.
Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành Thánh Giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Đức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ sau khi họ đã ở với Ngài và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14), sau khi họ đã thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng.
Hôm nay Đức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho tôi sau khi tôi đã theo đạo một thời gian dài, đã cầu nguyện và tham dự các bí tích…
“Còn anh, anh bảo Thầy là ai?”
Câu hỏi này nhắm thẳng vào tôi, đòi tôi phải trả lời. Tôi không được trả lời qua loa hay máy móc.
Câu trả lời của tôi phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm, kinh nghiệm gặp gỡ và quen biết Đức Giêsu. Chẳng nên theo một người mà mình không quen và tin tưởng.
Đời tín hữu là một hành trình tìm kiếm không ngừng để khám phá ra khuôn mặt luôn mới mẻ của Đức Giêsu.
Ngài thật là một mầu nhiệm khôn dò và quá phong phú. Chúng ta chỉ mon men đến gần, nhưng không sao múc cạn được mầu nhiệm ấy. Phải thanh lọc những hình ảnh ta vốn có về Ngài.
Người làng Na-da-rét cứ nghĩ Đức Giêsu chỉ là bác thợ. Gioan Tẩy Giả nghĩ Ngài là một Mê-si-a vinh quang toàn thắng.
Phải gột bỏ cái biết cũ về Ngài để đón nhận một Đức Kitô khác, vượt xa điều mình nghĩ.
“Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa”.
Cần trở nên trẻ thơ để nhận ra khuôn mặt thật của Giêsu.
Hôm nay, chúng ta dễ dàng trả lời như Phêrô: “Thầy là Đức Kitô”, và hơn Phêrô: “Thầy là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa”. Nhưng vấn đề không phải chỉ là trả lời đúng câu hỏi mà còn là sống tận căn thân phận của Thầy.
Ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi, Đức Giêsu loan báo con đường dành cho người môn đệ. Môn đệ chỉ có một con đường, con đường của Thầy.
Thầy đã sống phận người với tất cả bấp bênh tăm tối, tôi có dám sống phận người của tôi trong niềm vui không?
Thầy đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật, tôi có dám hiến mạng tôi vì Thầy và vì Tin Mừng không?
Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt, tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?
“Người ta bảo Thầy là ai?”
Ta cần biết cái nhìn của con người hôm nay về Đức Giêsu.
Nhiều cái nhìn đúng nhưng chưa đủ.
Truyền giáo là giúp người ta biết đúng và đủ về Ngài. Không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở, nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ.
Cuộc sống của ta vén mở căn tính của Đức Giêsu.
Dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Ngài.
Đức Giêsu đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9).
Chúng ta ao ước nói: “Ai thấy tôi là thấy Đức Giêsu”.
Gợi Ý Chia Sẻ
“Đức Giêsu là ai?” Bạn hãy trả lời câu hỏi này cho một người bạn trẻ đang tìm hiểu đạo.
Tin là bước theo Đức Giêsu trên con đường khổ giá. Bạn có thấy theo Chúa là khó không? Đoạn Tin Mừng hôm nay có giúp bạn vác thập giá một cách an bình hơn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con, nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt, và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến, xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây, xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố vì biết rằng cuối cùng chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
Được gọi là tín hữu Chúa Kitô hay Kitô hữu, ít là một lần chúng ta đã tuyên xưng “tôi tin” vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xuống thế làm người, chịu đóng đinh chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta, phục hồi cho chúng ta sự sống mới trong Thiên Chúa”.
Hầu hết chúng ta được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội từ nhỏ, vì thế, Cha Mẹ, người đỡ đầu, có bổn phận hướng dẫn chúng ta thành toàn ơn Đức Tin đã được lãnh nhận. Việc thành toàn ấy bao gồm việc học biết về Đấng mình đã Tin và Sống theo ý muốn của Đấng mình đã tin. Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 17). Vậy, muốn cho ĐỨC TIN SỐNG, Đức Tin phải có việc làm.
Lời Chúa hôm nay giúp ta khám phá một vài việc làm của Đức Tin:
Tuyên xưng Đức Tin vào Chúa Giêsu không phải là công bố một công thức hay một kiến thức kinh điển thần học, hoặc một số vốn liếng Giáo Lý. Những người có học thần học hay có ít vốn liếng Giáo Lý cũng không nên xem thường đức tin bậc giáo dân thấp kém hay những người mù chữ, ít học. Bởi đức tin là một ân huệ hơn là một khả năng của lý trí. Và ơn huệ của đức tin được nhân lên mỗi phút giây cho những ai biết rõ Đức Giêsu Kitô, Người mình tin, kết hiệp mật thiết với Người và sống theo điều Người dạy. Một số giáo dân tưởng rất kém cỏi, nhưng thực ra, đức tin của họ thật mãnh liệt. Họ Tuyên Xưng Đức Tin bằng đời sống anh dũng của họ trước những làn tên mũi đạn của cuộc đời, của những cuộc bức bách có tổ chức, nhờ họ có lòng mến thực thà, chân thành.
Trong khi các tông đồ không nhận ra “người mình tin” là ai, thì Phêrô, người đánh cá tầm thường nhất, đại diện cho những con người ít học, đã biết “người mình tin”, sống thiết thân với “người mình tin” và được ân huệ nhân lên do bởi ánh sáng của Chúa Thánh Thần của lòng mến đã công bố: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8, 29), hiểu là “Đấng đã được Thiên Chúa Xức Dầu”, “Đấng Cứu Chuộc Thế Gian”
Việc làm cụ thể của Đức Tin còn phải là từ bỏ mình, như Chúa Giêsu nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình”. (Mc 8, 34-35)
Từ bỏ mình cũng đồng nghĩa với từ bỏ ma quỷ, từ bỏ con người cũ của ma quỷ, từ bỏ cái tôi kiêu ngạo được ma quỷ nâng đỡ, khuyến khích, xúi giục, từ bỏ những thứ tham sân si thuộc về cõi phù vân, cõi tạm mang tính-hay-chết hoặc không tồn tại trên đời, cũng là từ bỏ tất cả những gì chúng ta không thể mang theo vào cuộc sống mai sau.
Nhiều người đã tập buông bỏ tất cả cho tâm hồn bình an thư thái, thân xác khỏe mạnh, nhưng cách buông bỏ ấy chưa hẳn là cách buông bỏ theo ý muốn của Chúa Giêsu. Bởi thế, Chúa đã thêm vào việc “từ bỏ mình” là “vác thập giá mình mà theo Chúa”. Một đòi hỏi thật tích cực của Đức Tin vào “Đấng Đã Chịu Đóng Đinh” là phải chịu đóng đinh với Đấng mình đã tin. Như vậy, từ bỏ là biến đau khổ thành niềm vui, biến gian nan thử thách thành con đường sống, biến sự chết thành sự sống lại ngay trong bản tính hay chết của mỗi con người. Con mắt Đức Tin nhìn đau khổ và sự chết ở đời này, chính là hạnh phúc và sự sống ở đời sau.
Hãy cảm phục những lời tuyên xưng đức tin cách sống động, những việc làm cụ thể của đức tin, nơi những Kitô hữu đang đau khổ, bệnh tật, phong cùi, bị đàn áp, bị bức bách… Đừng nên xem thường họ, nhưng hãy kiểm lại cách từ bỏ và vác Thập Giá của mình.
Tuyên xưng Đức tin vào Chúa Giêsu mà không mặc lấy trái tim nhân hậu của Ngài thì quả thật là giả dối, là môi miệng. Bởi thế, Thánh Giacôbê giải thích việc làm của Đức Tin là việc Bác Ái: “Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em lại bảo họ rằng: “Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm”, mà anh em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì?” (Gc 2, 15-16)
Có những tín hiệu đáng vui mừng nơi những Giáo Dân hôm nay đang khá trưởng thành về việc thực hành Đức Bác Ái trong một xã hội vô cảm. Ý nghĩa “Bác Ái vì Chúa” của người Công Giáo, của các nhóm Công Giáo vẫn luôn là kim chỉ nam để mọi người thể hiện việc làm của Đức Tin hơn là việc làm cách giả hình, cách đạo đức mỵ dân của một xã hội gian dối. Chúng ta được quyền tin tưởng nơi những ủy ban Caritas rằng sẽ không thể có chuyện ăn chặn, bớt xén những phần giúp đỡ người nghèo, người bị thiên tai bão lụt…cũng không có chuyện lạc địa chỉ vào túi ông kia vào nhà bà nọ… bởi vì, tất cả đang trưởng thành về việc phải thực hiện đời sống Đức Tin bằng một Đức Bác Ái chân thành, Đức Bác Ái Kitô Giáo.
Thánh vịnh Đáp ca hôm nay cũng góp phần vào việc hướng dẫn một đức tin sống động: Hiên ngang sống công chính giữa cuộc đời giả trá điêu ngoa. “Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (Tv.114,9).
Hiên ngang sống công chính vì đã tin vào Đấng Công Chính và có Ngài nâng đỡ, phù trợ, như tiên tri Isaia khẳng định: “Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Đấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh tụng với tôi được? Chúng ta hầu toà, ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây! Này đây Chúa là Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?” (Is 50, 5-9a)
Vâng, Từ bỏ mình, vác thập giá mình, rồi “theo Chúa”. Theo Chúa là theo cách sống công chính của Chúa. Sự công chính ấy lan tỏa ra cho thế gian bằng một đời sống chứng nhân can đảm: “Tôi đã đưa lưng tôi cho kẻ đánh, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không che mặt giấu mày, không tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi”. (x. Tv 114, 1-9).
Người Công Giáo Việt Nam hôm nay đang bị trong đấm vào lưng, ngoài vả vào mặt, trong giật râu, ngoài nhạo cười phỉ báng. Các Kitô hữu Việt Nam, thuộc mọi thành phần, phẩm trật đang bị hành hình đủ kiểu, mà kiểu nào cũng đòi hỏi một sự kiên cường làm chứng cho Đức Tin Công Giáo và hiên ngang sống công chính giữa mọi thế lực trong ngoài đều có thể là gian tà. Trước tình hình nhiễu nhương hư thực, chẳng biết đâu là gian đâu là thật, Người công Giáo Việt Nam chỉ còn có thể Tin vào Chúa Giêsu Kitô đích thực là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống mà nhắm thẳng đích đến trong cuộc sống chứng nhân.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, là Đấng Cứu Chuộc chúng con. Xin cho Đức tin của chúng con được sống và lớn lên nhờ việc từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa, sống bác ái với mọi người và anh dũng làm chứng nhân cho Chúa giữa đời. Amen.
Chủ đề: “Ngọc không dũa không sáng, người không bị gian nan thử thách cũng không trở nên toàn thiện được” (KHỔNG TỬ)
Trong quyển sách nhan đề: Này tôi tin (This I believe) có một loạt bài khảo luận của một số tác giả nổi tiếng. Họ mô tả lại những thời kỳ trong cuộc đời của họ đã tác động trên họ một cách sâu xa. Chẳng hạn, James du Pont thuộc công ty Du Pont kể lại sự kiện xảy đến cho ông khi ông vừa mới 7 tuổi đầu như sau: Một đêm, đang say ngủ, chợt James thức giấc, cậu bé nhìn thấy mẹ đang khóc lớn tiếng. Đây là lần đầu tiên cậu thấy mẹ khóc, James mô tả biến cố này như sau;
“Giọng bố tôi trầm xuống lộ vẻ bối rối trong khi ông cố gắng an ủi mẹ tôi – lúc đó cả hai người đều sầu buồn nên quên mất tôi đang hiện diện ở bên cạnh. Tôi nghe lỏm được những gì các ngài đang nói”. Ông nói thêm: “Khi vấn đề của các ngài đã được giải quyết và bị chìm vào quên lãng lâu rồi, thì ‘biến cố’ quan trọng tôi khám phá được vào đêm khuya ấy và mãi mãi còn lưu lại trong tâm trí tôi. Khám phá ấy được ghi nhận bằng những lời an ủi của bố tôi; ‘Đời sống đâu phải chỉ toàn là vừa ý và hoa hồng đâu! Nhiều lúc nó rất là khó khăn và cay đắng’.
***
Chắc chắn chúng ta đều có thể mường tượng được cảnh chú bé 7 tuổi đang nằm trên giường lắng nghe mẹ chú khóc. Chúng ta cũng có thể nhớ lại đã có lần ta nghe mẹ mình khóc, và điều ấy đã gây ấn tượng mạnh trên chúng ta như thế nào, và điều ấy đã khiến chúng ta, có lẽ lần đầu tiên trong đời, ý thức được cuộc đời không chỉ toàn là vừa ý và hoa hồng, đôi khi nó rất khó khăn và khổ đau. Từ đó chúng ta hiểu được những lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm ngày hôm nay.
“Ai muốn đến với Ta, thì hãy quên mình, vác thập giá mình rồi theo Ta”. Nói cách khác, khổ đau sầu muộn có thể ví như những cơn bão táp, lụt lội xảy đến. Chúng ta là một phần cuộc sống mà chúng ta không thể nào tránh né được. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại tiếp tục biểu lộ một điều kỳ diệu khi Ngài nói:
“Ai muốn cứu lấy mạng mình thì sẽ bị mất nó, nhưng ai liều mất cuộc sống vì ta và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được nó”. Nói cách khác, đối với Chúa Giêsu, điều quan trọng trong cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đớn đau xảy đến trên chúng ta mà chính là thái độ chúng ta đáp ứng chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Có lẽ chúng ta không thể nào tránh được khổ đau phiền muộn nhưng chúng ta vẫn có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay vì huỷ diệt, nguồn mang sức sống thay vì chết chóc, nhờ đó chúng ta trở nên tốt đẹp hơn thay vì chua chát hơn.
Xin hãy nghe một minh chứng qua trường hợp Eugene Oneill: Mãi đến tuổi 25, ông vẫn còn là một người thất bại, cuộc sống thì hầu như không mục đích, không qui củ, không định hướng. Thế rồi một hôm, ông lâm trọng bệnh và được đem vào bệnh viện. Nhờ thời gian nằm viện, ông đã có dịp may làm được điều trước đó ông chưa bao giờ làm được; ông mới có dịp may suy nghĩ và định hướng cho cuộc đời mình. Nhờ đó ông đã khám phá ra tài năng soạn kịch của ông.
Cuối cùng Eugene O’Neill bình phục, ông chọn nghề viết kịch và bắt đầu trở thành người canh tân nền kịch nghệ Hoa Kỳ. Tất cả điều này xảy ra chính là do ông đã biết biến đổi phiền muộn khổ đau thành phương cách xây dựng tích cực, đã biến chúng thành sức sống cho ông.
Trường hợp Golda Meir cũng thế. Khi còn là một thiếu nữ, Golda Meir rất thất vọng về nhan sắc của mình. Cô viết: “Mãi về sau, tôi mới nhận ra rằng không được đẹp lại là một may mắn tiềm tàng, bởi vì điều ấy buộc tôi phải khai triển những tài năng sâu kín hơn, cuối cùng tôi hiểu được rằng phụ nữ không thể ỷ lại vào sắc đẹp của mình, mà phải làm việc chăm chỉ để nhờ đó… mang lại lợi ích cho mình hơn.” Nói cách khác, Golda Meir đã biết chấp nhận thánh giá của mình. Cô đã không kêu gào than khóc, không bẳn gắt, căm hờn, cô biết cam nhận vác nó lên với lòng can đảm, để rồi cuối cùng cô đã trở nên nữ thủ tướng đầu tiên của Israel.
Cuối cùng, chúng ta hãy xét đến trường hợp của Oscar Wilde. Ở đỉnh cao nghề nghiệp viết lách, ông đã xác tín sứ mạng luân lý của mình. Sau khi ở tù ra, ông không còn chấp nhận viết những vở hài kịch phù phiếm nữa, không dành trí tưởng tượng cho ba chuyện lăng nhăng lít nhít nữa. Ông đã sáng tác những câu thơ tuyệt vời như: “Đau khổ chính là mảnh đất thánh”, hay: “Đức Kitô đâu có thể đi vào tâm hồn chúng ta bằng nẻo đường nào khác ngoài trái tim đã vỡ nát”.
Oscar Wilde đã dùng kinh nghiệm nhục nhã của mình như một dịp để tăng triển tốt đẹp hơn. Giống như tinh thần bài Phúc Âm hôm nay ông đã biết biến đổi kinh nghiệm ấy thành nguồn ban sức sống chứ không để nó thành nguồn chết chóc huỷ diệt.
Những câu chuyện về Eugene O’Neill, Golda Meir và Oscar Wilde cho ta thấy rõ ràng điều quan trọng trong cuộc sống không phải là những khổ đau phiền muộn xảy đến cho chúng ta, mà chính là cách thức chúng ta đáp lại chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Nếu ta từ chối không chấp nhận khổ đau phiền muộn, không chịu cúi xuống nâng chúng lên, thì chúng ta sẽ đánh mất chính cuộc sống của mình. Ngược lại, nếu chúng ta bắt chước Đức Giêsu can đảm cúi xuống nâng chúng lên, thì chúng ta sẽ biến chúng thành năng lực tích cực, thành nguồn ban sức sống giống như trường hợp Eugene O’Neill, Golda và Oscar Wilde.
Để tóm tắt, chúng ta hãy nhớ lại:
– Như cậu bé bảy tuổi trong câu chuyện mở đầu, sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ khám phá ra rằng đời sống không phải chỉ toàn là vừa ý và hoa hồng, nó thường là khó khăn và cay đắng.
Nhưng chúng ta cũng khám phá ra một điều khác nữa. Sớm muộn gì chúng ta cũng thấy rằng phiền muộn và khổ đau không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc, hủy diệt. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa Giêsu và Phúc Âm vì phiền muộn và khổ đau có thể biến thành nguồn sống. Thiên Chúa thường dùng khổ đau phiền muộn để biến đổi chúng ta thành người tốt hơn và biết thông hiểu kẻ khác hơn. Khổ đau và phiền muộn có thể mở mắt cho chúng ta để chúng ta thấy được cuộc sống phong phú tốt đẹp, hơn là chúng ta đã từng dám mơ ước.
Thi sĩ Robert Browming Hamiltom tóm tắt tinh thần bài Phúc Âm hôm nay bằng những lời như sau:
“Tôi bước đi một dặm đường với Nữ Thần Lạc Thú, Nàng ve vuốt tôi đủ điều, nhưng cuối cùng chả làm tôi khôn ngoan hơn tí nào qua những điều nàng nói.
“Tôi lại bước đi một dặm với Nữ Thần đau khổ,
Nàng chả nói với tôi một lời,
Nhưng tôi lại học được biết bao điều khi nàng bước đi bên cạnh tôi…”
(Trích trong Along the Road – Dọc đường)
QUA ĐAU KHỔ THÁNH GIÁ
TỚI VINH QUANG PHỤC SINH
Theo quan niệm Do thái thời bấy giờ, thì Đấng cứu thế phải là nhà lãnh đạo trổi vượt, một nhà cải cách xã hội tài ba, một tướng lãnh lừng danh, bách chiến bách thắng để có thể lật đổ ách thống trị của ngoại bang là người La mã đang cai trị họ thời vua Hêrôđê và đưa dân tộc họ lên hàng số một, làm bá chủ hoàn cầu. Ngay cả các tông đồ đã theo Chúa ba năm, nghe lời Người giảng dạy và chứng kiến phép lạ Người làm, cũng còn nuôi quan niệm sai lầm về Đấng Cứu Thế.
Tới lúc mà Đức Giêsu muốn biết xem người ta nói gì về Người khi hỏi các tông đồ: Người ta bảo Thầy là ai (Mc 8,27)? Sau khi họ thuật lại về việc người ta gán cho Thầy các ông là nhân vật nọ nhân vật kia như ông Gioan Tẩy Giả, ông Êlia hay một ngôn sứ nào đó trong Thánh kinh, thì Chúa muốn biết xem các tông đồ nghĩ Người là ai? Đối với Đức Giêsu, người ta bảo Người là ai không quan trọng cho bằng việc các tông đồ bảo Thầy của họ là ai. Phêrô đại diện các tông đồ trả lời: Thầy là Đấng Kitô (Mc 8,29).
Mặc dù nhận ra Thầy mình là Đấng Kitô, thánh Phêrô vẫn chưa hiểu đủ về bản tính của Đấng Kitô cũng như vai trò và sứ mệnh của Người. Nói cách khác tầm hiểu biết của thánh Phêrô về Đức Kitô lúc đó còn giới hạn và mơ hồ. Do đó các tông đồ không thể nào quan niệm được rằng Thầy mình có thể chịu đau khổ. Đối với các tông đồ thì việc Thầy họ chịu đau khổ không thể nào chấp nhận được. Vì thế ông Phêrô lên tiếng can ngăn Thầy mình khỏi phải chịu đau khổ. Ông muốn Đấng Kitô đi theo đường lối của loài người, nghĩa là tránh cảnh khổ nạn. Sở dĩ có sự can ngăn như thế là vì các tông đồ chưa hiểu lời Thánh kinh. Các ông chưa biết rằng người đầy tớ của Giavê chịu đau khổ mà ngôn sứ Isaia nói đến hôm nay ám chỉ về Đấng Cứu thế, là Thầy của họ. Và trong Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu cũng áp dụng lời tiên tri về người đầy tớ của Giavê về cho Người.
Để loại bỏ những quan niệm sai lầm về Đấng Cứu thế, Đức Giêsu lập tức tiên báo về cuộc khổ hình và tử nạn mà Người sẽ phải chịu. Đây là lần thứ nhất Đức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn thập giá của Người. Và sau này Chúa còn tiên báo hai lần nừa về của khổ nạn của Người. Như vậy Đức Giêsu cho ta thấy điều nghịch lí của đạo Kitô giáo. Khi ta chịu đau khổ thiệt thòi vì yêu mến Chúa, ta sẽ tìm được sự sống mới trong Chúa. Do đó mà thánh Augustinô mới đặt bút viết: Đâu có yêu, đó không còn đau khổ. Giả như có khổ đi nữa, người ta lại chấp nhận đau khổ vì yêu.
Chìa khoá để mở cửa cho sự hiểu biết và đương đầu với đau khổ là ý nghĩa và mục đích. Chúa Cứu thế đến để đem lại ý nghĩa và mục đích cho đau khổ và sự chết. Người tín hữu không chuốc lấy đau khổ chỉ vì muốn khổ, như là một đường cùng không lối thoát. Nếu dừng lại ở đau khổ thánh giá là ta chọn đi con đường cụt và ta sẽ bị bế tắc. Nói như vậy có nghĩa là khi gặp những đau khổ về phần xác như bệnh tật hoặc phần tinh thần như những lo âu, sợ hãi, ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị. Bác sĩ và thuốc men là dụng cụ Chúa dùng để chữa trị bệnh tật loài người. Đôi khi Chúa còn chữa trị bệnh tật loài người cách trực tiếp mà không cần đến bác sĩ hay thuốc men. Cách thế chữa trị như vậy, được gọi là phép lạ. Vậy khi phải mang bệnh tật về phần xác hay tinh thần và sau khi đã tìm cách chữa trị, mà vẫn không thuyên giảm, ta cần học chịu đựng vì yêu mến Chúa, để được tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa, thì việc chịu đựng mới mang lại ý nghĩa và ơn ích thiêng liêng. Chịu đau khổ như vậy vì lòng mến Chúa, thì được kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa để cầu cho phần rỗi linh hồn. Ta cũng cần tiếp tục cầu nguyện, xin Chúa ban thêm đức tin và sức mạnh để ta có thể chịu đựng vì yêu mến Chúa.
Mang lấy gánh nặng của cuộc sống đòi hỏi người tín hữu một đức tin kiên trì và một tâm hồn tín thác vào Chúa. Chỉ bằng việc suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa, bằng kinh nghiệm đau khổ cá nhân và bằng lời cầu nguyện, ta mới có thể cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: Hỡi những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11,28).
Lời cầu nguyện xin cho được chịu đau khổ vì yêu mến:
Lạy Chúa Giêsu là Thiên Chúa!
Chúa đã chấp nhận đau khổ vì yêu mến loài người.
Con xin dâng lên Chúa những đau khổ của con
về phần xác, phần hồn và tinh thần:
những nỗi lo âu, sợ hãi, cơ đơn và buồn chán
những hiểu lầm và nghi kị,
những thiệt thòi và tủi hổ của đời con.
Xin Chúa đến ở bên con và đồng hành với con
để biến đổi đời sống con. Amen.
(Suy niệm của Giuse Trần Văn Yên, OP)
Kính thưa cộng đoàn, qua đoạn Tin Mừng thánh Mac-cô tường thuật hôm nay, thiết nghĩ đây là một trong những lời xem ra khó nghe, khó chấp nhận nhất theo cảm nhận của con người. Nhưng đó lại là sự thật, là con đường đưa ta đến hạnh phúc. Với hai chữ “Từ bỏ” được xem như chỉ dành cho những ai không bình thường và khờ khạo theo cái nhìn của con người trong xã hội hôm nay. Vâng, họ là những con người không bình thường và khờ khạo vì Đức Kitô, Người là Đấng khôn ngoan tuyệt hảo.
Chúng ta thấy Đức Kitô đã đưa ra điều kiện tiên quyết cho những ai muốn đi theo Người rằng:“Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8, 34). Với điều kiện mà Đức Kitô đưa ra, phải chăng, Chúa muốn hành hạ con người, muốn con người phải chịu đau khổ hay sao? Chúng ta thấy trong cuộc s ống đời thường, khi muốn thuyết phục ai đi theo mình, họ thường hứa hẹn đủ điều: nào là chức cao quyền trọng, nào là phú quý giàu sang, nào là hạnh phúc… Còn Chúa, sao Chúa lại hứa hẹn cho những ai muốn đi theo Người phải từ bỏ, hy sinh; phải chịu sỉ nhục, đau khổ và cả mạng sống nữa.
Chắc chắn rằng, Chúa không muốn cho chúng ta những thứ hạnh phúc phù du, những thứ quyền thế giả tạo, dễ dàng và chóng qua. Nhưng Chúa muốn ban tặng cho chúng ta thứ hạnh phúc đích thực, hạnh phúc vĩnh cửu. “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì”? (Mc 8, 35-36).
Vâng, muốn được hạnh phúc đích thực, chúng ta cần phải chịu cắt tỉa, đau xót; phải chịu thử thách, gian nan và cùng với Đức Kitô vác Thập giá tiến về Núi Sọ. Điều kiện mà Đức Kitô đưa ra không phải để hành hạ con người, nhưng muốn con người đi vào quy luật tốt lành của Chúa để được sự sống hạnh phúc vĩnh cửu.
Cộng đoàn thân mến, để hiểu, để yêu Đức Kitô thì cần phải chịu đau khổ với Người, bằng sự hi sinh từ bỏ con người mình. Môn đệ của Chúa Giêsu không có con đường nào khác ngoài con đường mà thầy Giêsu đã đi, đó là con đường từ bỏ, hi sinh; con đường Thập giá. Bởi Người đã nói: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8, 31).
Ngày xưa, dân Do Thái cứ tưởng Đức Kitô con Thiên Chúa đến phải như là một “Vị Tướng” đánh Đông dẹp Tây, để dân tộc mình được đứng đầu các dân tộc khác. Nhưng không ngờ Đức Kitô lại bị hành hạ, bị sỉ nhục và bị giết chết như một tên phản quốc, như một kẻ tội lỗi. Ngày nay chúng ta cũng hay lầm tưởng theo Đức Kitô để được trọng vọng, để được danh tiếng. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em” (Mc 10, 43). Chúng ta cứ tưởng theo Chúa để được may mắn, được thành công ở đời , để được ăn trắng mặc trơn. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8, 34).
Một khi chúng ta mang lấy Thập giá với lòng đón nhận và yêu mến Đức Kitô, chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự chết. Bởi chưng “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đã đi qua con đường Thập giá để bước vào phục sinh vinh hiển. Xin cho chúng con sức mạnh của Chúa để chúng con đón nhận những thử thách, đau khổ ở đời này như là phương tiện để lập công phúc cho cuộc sống mai sau. Xin cho chúng con có ơn Chúa để chúng con biết từ bỏ tính ích kỷ, giận hờn, ghen ghét và những gì không phù hợp với người con Chúa. Xin giúp chúng con khi gặp những thử thách, gian nan biết gượng dậy để tiếp tục tiến bước theo Chúa lên Núi Sọ.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, ước gì Thánh giá Chúa là mẫu gương, là ánh sáng soi đường con đi, nhờ đó Thánh gía không còn là đau khổ, là tai họa nữa nhưng là dấu chỉ Chúa yêu con. Amen.
LỜI TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ (8,27-30)
Chúa Giêsu đưa các môn đệ đi rất xa (c.27a). Chỉ cần nhìn sơ trên bản đồ Palestin thời đó là chúng ta cũng rõ: Xêdarê Philipphe nằm tuốt ở mạn bắc, cận dòng sông Giođan và chân núi Hecmon. Đây là một vùng xa xôi giữa miền đất dân ngoại.
Lợi dụng cuộc đi bộ đường dài với các bạn hữu, Chúa Giêsu đã thăm dò ý kiến của họ về Ngài (c. 27b). Các từ ngữ được dùng ở đây đều nhằm mục đích đó. Chính nhờ đồng hành với Chúa Giêsu, lắng nghe Ngài đặt ra câu hỏi mà chúng ta có thể hiểu được khuông mặt đích thực của Ngài hơn. Câu đầu tiên Ngài hỏi các môn đệ là: “Người ta bảo Thầy là ai?” (c. 27c). đây đúng là một sự thăm dò ý kiến. Trước hết cần phải biết quảng đại quần chúng nghĩ gì về thân thế của Thầy. Đây là một câu hỏi trắc nghiệm thú vị có thể tiết lộ cho thầy được nhiều điều. Trước đây Maccô đã vén lên bức màn cho thấy những ý nghĩ đang lưu hành trong quần chúng Do Thái từ tầng lớp thấp nhất đến tầng lớp cao nhất (x. 6,14- 16). Từ quần chúng vô danh đến ngay chính bản thân Hêrôđê Antipa cũng đưa ra những ý kiến tương tự các ý kiến hiện đang được chính miệng các môn đệ nói ra. Đối với một số người, Chúa Giêsu được đồng hoá với Gioan Tẩy Giả hoặc Êlia; đối với một số khác, Chúa Giêsu được đồng hoá với một trong các tiên tri thời xưa (c. 28). Cái nhìn của quảng đại quần chúng này quả thật thú vị bởi vì nó liệt Thầy vào hàng một vị Mêsia. Tuy nhiên đây cũng chỉ là cái nhìn của người mù ở Betsaiđa lúc mới được Chúa chữa sơ, nghĩa là anh ta vẫn còn thấy lờ mờ (x. 9,23b-24a). Nhận biết Chúa Giêu là vị đại tiên tri như thế cũng rất có giá trị bởi vì đó là bước đầu tiên của của đức tin. Tuy nhiên điều này vẫn còn xa vời chân lý. Vì thế mà Chúa Giêsu đã yêu cầu nhóm môn đệ nói lên rõ ràng hơn về thân thế của Ngài (c. 29).
Và ngay lúc này đây đặt ra cho các môn đệ câu hỏi về thân thế của Thầy họ quả thực là khẩn thiết. Từ nhiều tháng nay, có lẽ khoảng một hai năm rồi, nhóm môn đệ này đã theo nghe Chúa Giêsu giảng dạy cũng như đã chứng kiến các hành vi và cử chỉ của Ngài. Họ đã sát cánh bên Ngài trải qua một cuộc hải hành không chỉ thuộc bình diện địa lý mà còn thuộc bình diện thiêng liêng nữa. Bẫy giờ đã đến lúc thuận tiện để vị Sư Phụ trắc nghiệm các đệ tử sau một thời gian đào tạo đức tin lâu dài cho họ. Chúng ta hoàn toàn có quyền tự hỏi liệu đám bạn hữu Chúa Giêsu có còn bị nhốt kín trong sự “mù loà” mà Ngài từng trách cứ không? (8,17- 18). Liệu họ đã có một nhận thức rõ rệt hơn về thân thế đích thực của Thầy mình chưa?
Câu trả lời của Phêrô vang dội như một tia chớp sáng ngời trong bầu trời tăm tối (c. 29). Cuối cùng thì đây là một lời tuyên xưng đức tin rành mạch. Qua miệng người huynh trưởng, đám môn đệ chứng tỏ được rằng cuối cùng thì họ đã nhận ra được thân thế chính xác của Chúa Giêsu: Ngài là “Đấng Mêsia” nghĩa là Đặc Sứ của Thiên Chúa, Ngài đã được Thiên Chúa chính thức “thánh hiến” để dứt khoát thiết lập Nước Thiên Chúa trên trần gian này.
Maccô để cho phần đầu của Phúc Âm đạt tới tột đỉnh ở đây. Từ đầu tác phẩm, ông không ngừng chứng tỏ Chúa Giêsu là Đấng đã dùng lời nói và hành động của mình để đặt ra câu hỏi này: “Người này là ai vậy?”. Lũ ma quỷ thì đưa ra được câu trả lời rất hay (1,24; 3,,11 v.v…) còn đám người đương đại thì vẫn u mờ tăm tối. Trong tư tưởng của dân Do Thái thời đó, Đấng Mêsia mang khuôn mặt một nhà giải phóng chính trị hơn là một nhà giải phóng tôn giáo. Vì đó trước hết phải phục hồi các quyền lợi của Thiên Chúa bằng cách đẩy bọn Rôma chiếm đóng ra khỏi bờ cõi vương quốc của Đavit, phải mang lại cho dân lợi lộc kinh tế dồi dào, phải tiêu diệt mọi đớn đau bệnh hoạn. Đây phải là vị anh hùng “trần gian” khét tiếng (x.Mt 4,1-11). Như người ta đã thấy, chính Chúa Giêsu đã từng phải điều chỉnh những niềm kỳ vọng lệch lạc về thân thế Ngài sau mỗi khi Ngài đã thực hiện các phép lạ cũng như gặt hái thành công qua việc chiến thắng sự Dữ và sự Chết. Ngài phải không ngừng đưa các thính giả ra khỏi hình ảnh lầm lạc về một Đấng Mêsia thuần tuý trần gian đến để phục hồi cho Israel “thiên đàng đã mất”.
Maccô đã nhấn mạnh thái độ dè dặt của Chúa Giêsu trước những sự đợi chờ quá trần tục này: Ông đã lặp đi lặp lại không ngớt ‘bí mật về Đấng Mêsia”. Và không gì phải ngạc nhiên khi thấy ở đây một lần nữa ông lại đề cập đến “bí mật” này (c. 30). Đây chính là sự câm nín mà Chúa Giêsu từng truyền bảo lũ quỷ (1,25.43- 44), đám bệnh nhân được chữa lành (5,43: 7,36), và ngay cả các môn đệ nữa. Lý do thật đơn giản. Phải theo dõi tiếp trình thuật, quan sát đám môn đệ thời đó, cũng như các độc giả mà họ đại diện, ta mới có thể có được một ý niệm đúng đắn về Chúa Giêsu là loại Mêsia nào. Chỉ nhờ cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài, Chúa Giêsu mới có thể ban cho những kẻ theo Ngài mãi tới lúc đó, phương cách nắm bắt được chân lý toàn vẹn về mầu nhiệm của thân thế và sứ mệnh Ngài.
Tuy nhiên, chúng ta tin rằng cùng với lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, ngưỡng cửa tưởng như không thể vượt đó đã bị vượt qua. Đức Giêsu Nadaret không thể bị giản lược và hình ảnh chung chung người ta có về Ngài: một người như mọi người (x. 6,3), Ngài cũng không thể bị giản lược vào hình ảnh một lương y nổi tiếng có tài năng khiến mọi người kinh ngạc (x. 37- 11); đồng thời cũng không thể đồng hoá Ngài với khuôn mặt một vị tiên tri (x. 6,4- 6). Ngài không phải chỉ là một tiên tri mà Ngài chính là “Đấng Kitô” (từ Hy Lạp này được dùng để dịch tước hiệu “Mashia” trong tiếng Hy Bá có nghĩa là Đấng Mêsia).
Đóng vai kiểu mẫu đức tin tông đồ ở đây, đức tin của Phêrô sẽ là đức tin của Giáo Hội sơ khai sau cuộc Phục Sinh của Ngài. Chúa Giêsu “Kitô” sẽ được công bố là Đấng đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người: Do Thái cũng như dân ngoại. Ngài giải phóng họ triệt để khỏi mọi tôi ác nặng nề để từ đây họ có thể hợp thành một “nhân loại mới” (Ep 2,13- 22).
LẦN ĐẦU TIÊN LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN (8,31-33)
Điều mà bây giờ Chúa Giêsu bắt đầu nói với các môn đệ không phải là một lời giảng dạy bổ sung mà là một giáo huấn đích thực thiết lập nên một bước khởi đầu mới mẻ. Trường hợp ở đây quả thực tiện lợi. Các môn đệ, đứng đầu là Phêrô, vừa mới nhìn nhận Thầy mình là Đấng Mêsia (8,29). Lẽ ra khám phá mới có được này phải cho phéphọ nghĩ ngơi chút ít.
Thế nhưng Chúa Giêsu đã quyết định cách khác. Ngài bắt đầu nói ngay cho họ biết là Ngài là Đấng Mêsia sẽ chịu đau khổ (c. 31a). Lời Chúa Giêsu dùng đã được Ngài chọn lựa một cách khôn ngoan. Kể cũng lạ, Ngài không sử dụng tước hiệu “Kitô” mà họ vừa gán cho Ngài, bởi vì tước hiệu này vẫn còn quá mơ hồ trong tâm trí họ, nhằm đến các mục đích chính trị hơn là thiêng liêng. Ngài chủ ý sử dụng tên gọi nổi tiếng “Con Người” mà ngay từ nhận cho mình (x. 2,10 v.v…). Từ ngữ này nhắc nhở đến một nhân cách dấn thân sâu xa và mầu nhiệm của Thiên Chúa cũng như vào ý định Chúa muốn cứu độ trần gian (Đnl 7,13- 14). Tuy nhiên nét mới mẻ ở đây là “Con người” được chỉ định mang lại chiến thắng của Vương Quốc Thiên Chúa trên sự Dữ lại phải chịu khổ nạn và chết đi. Chúng ta cần ghi nhận rằng số phận của “ Con Người” ấy sẽ không phải là một sự kiện mà người ta không biết được cứu cánh của nó. Thành ngữ vắn gọn “sẽ phải” muốn ám chỉ kín đáo sự đau khổ và sự chết của Đấng Mêsia nằm trong ý định khôn dò của Thiên Chúa là muốn cứu độ nhân loại (x. Lc 24,25- 27).
Như thế, Chúa Giêsu đặt các môn đệ trước một mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu biết của họ. Ngài nói cho họ về cái chết không thể nào tránh khỏi của Ngài, đồng thời xác định cho họ đôi điều về cái chết này. Đây là cái chết do những kẻ tội lỗi gây ra, nó mặc lấy hình thức bị các vị cầm quyền tôn giáo của dân Chúa chọn khai trừ của cộng đoàn Do Thái (c. 31b). Đặc biệt là Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ chịu một cái chết hung bạo, nghĩa là sẽ bị người ta giết (c. 31c). Theo quan niệm đương thời về Đấng Mêsia thì tất cả điều này hoàn toàn không thể chấp nhận được. Trong tâm trí người Do Thái thời đó, Đấng Mêsia sẽ không thể nào bị đau khổ, chứ đừng nói là sẽ bị giết chết. Ngài phải là một “mẫu” người đặc biệt gần như là thần thoại, được thiên Chúa miễn trừ cho số phận hay chết vốn là thuộc tính chung cho cả loài người. Người ta chờ đợi Ngài sẽ đến qua cuộc trở lại của Êlia, vị tiên tri có khuôn mặt thần thoại là được Chúa lôi về trời mà không phải trải qua cái chết (2V 2,1-18; Mc 6,15; 8,28). Chúa Giêsu đã đưa ra lời phủ nhận tính cách thần thoại của một kiểu mẫu Mêsia lý tưởng, thần bí thoát khỏi mọi quy luật nghiệt ngã của bản tính loài người. Chắc hẳn ngài cũng có phụ hoạ thêm vào lời loan báo về các chết của Ngài một động cơ giúp các môn đệ hy vọng: đó là Ngài sẽ Phục Sinh (c. 31c). Tuy nhiên ngay lúc này, thì lời hứa ấy chỉ được các môn đệ nghe một các rất hời hợt. Dù sao thì lần đầu tiên này về một cái chết dữ dằn đang chờ đón Ngài cũng làm các môn đệ thất điên bát đảo. Maccô đã nêu bật tính chất rõ ràng không úp mở trong các lời nói của Chúa Giêsu (c. 32a).
Phần đầu của Phúc Âm đã đóng lại (1,1-8,30). Trong phần này cái chết của Chúa Giêsu xem ra chỉ thoáng hiện nơi một cuộc tạo phản có thể xẩy ra do phía các địch thủ Ngài (3,6). Còn giờ đây thì Chúa Giêsu mặc khải rõ số phận đang chờ đón Ngài. Chuyện này hẳn làm cho các môn đệ choáng váng. Người ta thấy điều đó qua sự bác bỏ thẳng thừng của người đứng đầu trong họ (c. 32b). Thủ lãnh nhóm Mười Hai, người mà mới thay mặt họ tuyên xưng đức tin vào Đấng Mêsia giờ đây đang dùng hết sức mình phản kháng lại. Ông còn dám la rầy Thầy mình: bởi vì làm sao có thể đi theo một người tự ý gieo mình vào cái chết? Có lý do để ông mất niềm tin đó chứ!
Tuy nhiên Chúa Giêsu vẫn không muốn để cho các môn đệ rơi vào ảo tưởng về sống phận mà họ mường tượng về Ngài. Quang cảnh được ghi nhận ở đây sống động đến độ làm ta ngỡ ngàng giống hệt bức tranh tả chân (c. 33a). người ta như trông thấy rõ diễn biến. Theo thói quen của các đạo sư Do Thái thời ấy, Chúa Giêsu bước đi trước các môn đệ Ngài, họ đi theo sau cách Ngài chừng vài bước. Vì thế Ngài đã phải quay quắt lại để khiển trách Phêrô và ban ông. Lời Ngài quở trách thực sự rất gay gắt (c.33b) có thể nói được rằng đây là một thứ mệnh lệnh. Lập tức vị tông đồ phải trở về vị trí của mình tức là lùi lại phía sau Thầy mình. Ông không có quyền thay thế cho Chúa Giêsu là người duy nhất biết được con đường mình phải đi. Và Chúa Giêsu đã không ngần ngại gán cho người thủ lãnh nhóm bạn hữu Ngài tên gọi “Satan”. Trong tiếng Hy Bá, Satan có nghĩa rõ ràng là “kẻ đối nghịch” nghĩa là kẻ xúi giục con người bất tuân ý Thiên Chúa. Ở đây qua bản thân Phêrô, Chúa Giêsu đã vạch mặt tên cám dỗ là kẻ đã nổi lên chống lại Ngài ngay khi Ngài vừa bắt đầu thi hành sứ mệnh của mình (x. 1,12- 13).
Sự tình có vẻ quá bi đát. Thực ra qua việc bác bỏ mãnh liệt ý định của Chúa Giêsu, Phêrô chỉ muốn diễn tả niềm hy vọng hoàn toàn mang tính trần tục được dân Do Thái thời đó cưu mang trong lòng: đó là Đấng Mêsia phải là một kẻ chiến thắng, khổ đau và chết chóc không thể làm gì được Ngài. Và để đưa các môn đệ vào lại chính lộ, Chúa Giêsu buộc phải tiêu huỷ giấc mộng ngu dốt của họ về Ngài: tư tưởng của họ thuộc về con người chứ không thuộc về ta (c. 33c).
Có một hố sâu phân cách giữa ý định của Thiên Chúa và những tầm nhìn của loài người. Sẽ còn phải lâu lắm mới vượt qua nổi “điều kỳ chướng” về cái chết của Đấng Mêsia. Trong khi Maccô thảo ra đoạn văn này, Giáo Hội sơ khai vẫn còn luôn luôn đụng phải viên đá vấp phạm của sứ điệp Kitô giáo: “Phần chúng tôi, chúng tôi công bố Đức Kitô chịu đóng đinh, đó là điều kỳ chướng đối với dân Do Thái, là sự điên rồ với dân ngoại” (1Cr 1,23).
Người ta có thể hiểu được tại sao Maccô sẽ dành trọn vẹn phần thứ hai của Phúc Âm (8,31 – 16,20) chinh phục độc giả của ông về cái nhìn then chốt trong đức tin Kitô giáo: đó là Thiên Chúa đã muốn cho Đấng Mêsia của Ngài mặc lấy trọn vẹn thân phận loài người, kể cả việc phải chịu đau khổ và chết, trước khi ban cho Đấng Mêsia ấy, qua cứu cuộc Phục Sinh, quyền xét xử và cứu độ toàn cầu vào thời gian chung cục.
THEO CHÚA GIÊSU BẰNG CÁCH HIẾN DÂNG MẠNG SỐNG CHO NGÀI (8,34-9,1)
Chúa Giêsu đang kêu gọi đám đông theo làm môn đệ Ngài (c. 34a). Có lẽ nào Maccô quên rằng Chúa Giêsu hiện đang ở trong vùng đân dân ngoại và chung quanh Ngài chỉ có các môn đệ mà thôi? (x. 8,27). Điều này không chắc. Nếu ở đây Maccô nối kết “đám đông” vào vòng đai thân hữu của Chúa Giêsu là chính vì ông nghĩ đến “giáo huấn mới mẻ” của Chúa về việc Ngài cần phải chết có liên quan đến quần chúng độc giả của ông. Tác giả Phúc Âm đã lợi dụng Lời loan báo đầu tiên về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu (8,31) để đựa vào đây một bài giáo lý hợp thời nói về cách thức các Kitô hữu được kêu gọi bước theo Thầy mình (c.34b). Lời mời gọi này quả thật khá khó nghe. Và ở chỗ này Phúc Âm đã sử dụng những từ ngữ đáng gây kinh ngạc! Thập giá là thứ nhục hình quân Rôma sẽ bắt Chúa Giêsu chịu. Vào lúc này đây, Maccô không thể nào biết được Chúa sẽ bị chết kiểu đó. Vì thế, khi soạn lại lời khuyên này và quãng ba mươi lăm đến bốn mươi năm sau khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, hẳn thành ngữ “vác thập giá để theo Ngài” mang một ý nghĩa cực kỳ sâu đậm. Giáo Hội Rôma hiện đang trải qua cơn bách hại. Việc tử đạo, hay nói chính xác hơn, con đường thập giá, đang chờ đón tất cả mọi Kitô hữu đang bị dẫn tới cùng giống y hệt số phận Đấng Mêsia. Bất cứ ai muốn thức sự theo chân Chúa Kitô thi chắc chắn đều bị đòi hỏi phải từ bỏ mình hoàn toàn.
Lý do Chúa Giêsu đưa ra bao hàm một nghịch lý kỳ lạ! (c. 35). Từ chối không dâng hiến mạng sống mình cho Chúa Kitô- tức là cho Phúc Âm- thì đồng nghĩa với đánh mất đi chính mình. Đối với mỗi người, “ơn cứu độ” không hệ tại ở việc cứu vớt cuộc sống hiện tại của mình.
Chúa Nhật XXIV này được định vị vào trong viễn cảnh của cuộc Khổ Nạn. Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo cuộc Khổ Nạn của Ngài theo Tin Mừng Mác-cô.
Is 50: 5-9
Bài đọc I trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị là bài ca thứ ba trong bốn bài ca về Người Tôi Trung chịu đau khổ; Người Tôi Trung này tìm gặp nơi Chúa sức mạnh của mình và chấp nhận mọi đau thương thử thách.
Gc 2: 14-18
Trong đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay, thánh nhân dạy rằng “đức tin không hành động là đức tin chết”.
Mc 8: 27-35
Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi đã nghe lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô”, Đức Giêsu loan báo cuộc Khổ Nạn sắp đến của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 50: 5-9)
Bản văn này được trích dẫn từ một trong bốn bài thơ về một dung mạo bí ẩn của một Người Tôi Trung thập toàn của Đức Chúa trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Hai bài thơ sau cùng đều cho thấy Người Công Chính này chịu mắng nhiếc phỉ nhổ (bài thơ thứ ba mà chúng ta đọc hôm nay), đoạn bị giết chết một cách nhục nhã nhưng tiếp đó tràn đầy vinh quang (bài thơ thứ tư). Chúng ta gặp thấy ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ này, dung mạo của Chúa Giêsu, Đấng chịu đau khổ để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Người Tôi Trung này là sứ giả của Thiên Chúa, ông đã được thông báo cho biết: sứ mạng được trao phó cho ông không là dể dàng, nhưng ông “không cưỡng lại cũng chẳng tháo lui”. Sứ mạng này được xác định ở đoạn trên: “biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức”. Ông chẳng đón nhận gì ngoài những vô ơn bạc nghĩa: bách hại, đánh đòn, nhục mạ; ông cam chịu mà không hề than vãn một lời. Sức mạnh và sự thanh thản của ông đến từ niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng phù trợ ông, Đấng tuyên bố rằng ông công chính, Người ở kề bên ông. Vì thế chẳng có gì phải nao núng cả: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!”.
Ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung này chúng ta đọc thấy số phận của Đức Kitô. Chính Ngài cũng là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Sứ điệp mà Ngài mang đến là Tin Mừng cho những người nghèo khổ. Ấy vậy, chính Ngài phải gánh chịu muôn vàn đau khổ và bách hại mà không hề than van một lời. Và cũng chính Ngài công bố: “Ai có thể bắt lỗi tôi điều gì?”. Ngài biết rằng Chúa Cha sẽ tôn vinh Ngài và Chúa Thánh Thần sẽ minh oan cho Ngài.
BÀI ĐỌC II (Gc 2: 14-18)
Chúng ta tiếp tục đọc Thư của thánh Gia-cô-bê.
Đoạn trích hôm nay tập trung vào một chủ đề: “đức tin không hành động là đức tin chết”. Đức tin tích cực năng động là đức tin hướng đến việc thực thi đức ái. Lời khuyên bảo của thánh Gia-cô-bê rất thực tế: lời khuyên này được minh họa bởi một ví dụ cụ thể và được trình bày rất thấm thía. Những lời hay ý đẹp chỉ là như gió thoảng qua, thậm chí chỉ là giả hình, nếu người ta không đề ra những phương sách cứu giúp những người anh em đau khổ của chúng ta.
Liệu có nên nghĩ rằng thánh Giacôbê có lập trường trái ngược với thánh Phao-lô như được trình bày trong các thư gởi tín hữu Galát và Rôma: “Con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Kitô” (Gl 2:16)?. Nói đúng hơn, thánh Gia-cô-bê cố cảnh giác những người Kitô hữu gốc Do thái coi chừng một lối giải thích lạm dụng giáo huấn của thánh Phao-lô. Người ta không thể trách cứ thánh Phao-lô là không ca ngợi những việc làm, đặc biệt là đức ái, vì nếu không có đức ái thì đức tin “chỉ là tiếng phèn la inh ỏi”.
Tuy nhiên, thánh Phao-lô, vị Tông Đồ dân ngoại, muốn chứng minh rằng những việc lành phúc đức của luật Mô-sê không thể đạt được ơn cứu độ, từ nay chỉ có một nguồn ơn cứu độ duy nhất là “tin vào Đức Ki tô”. Mục đích của thánh Gia-cô-bê là làm nổi bật những thành quả của luật mới, mà thành quả hàng đầu là Đức Ái. Đành rằng đức tin là Thiên Ân và nhờ đức tin chứ không vì công nghiệp mà chúng ta được nên công chính hóa, nhưng việc làm của chúng ta chứng tỏ rằng đức tin ấy đầy sức sống, chứ không èo uột héo khô.
Liệu có nên nghĩ rằng ở bên kia những tư tưởng này, có một dư âm nào đó về hai thái độ của hai vị thánh này xuất hiện ở Công Đồng Giê-ru-sa-lem? Thánh Gia-cô-bê bày tỏ lập trường phải tuân giữ vài mối giây ràng buộc với luật Mô-sê, trong khi thánh Phao-lô muốn giải thoát các Kitô hữu tiên khởi khỏi những thực hành Lề Luật…Có thể lắm chứ.
TIN MỪNG (Mc 8: 27-35)
Chúng ta đang ở giai đoạn Đức Giêsu tìm kiếm một sự yên tỉnh ngoài biên giới miền Ga-li-lê để được ở một mình với các môn đệ và dành trọn thời gian vào việc huấn luyện họ.
Như chúng ta đã biết, Đức Giêsu đã rút lui vào vùng Tia, đoạn miền Thập Tỉnh. Bây giờ Ngài rời Bết-sai-đa để tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp, vùng cực Bắc xứ Pha-lê-tinh. Lãnh địa này không thuộc quyền của tiểu vương Hê-rô-đê, nhưng em của ông là Phi-líp, một nhà cai trị cẩn trọng và khôn ngoan. Chính Phi-líp là người xây dựng thành Xê-da-rê mang tên ông để phân biệt với thành Xê-da-rê duyên hải. Như vậy Đức Giêsu đã dẫn các môn đệ đi sâu vào vùng đất lương dân, lên đến thượng nguồn của dòng sông Giô-đan.
Trên lãnh địa này, người ta có thể đi lại một cách thanh bình. Đức Giêsu đồng hành với các môn đệ của Ngài. Những dòng suối của sông Giô-đan thì rất gần, cảnh vật êm ả, chính trong khung cảnh êm ả và bầu khí thanh bình này mà cuộc nói chuyện giữa Thầy trò diễn ra.
Thánh Lu-ca đặt câu chuyện này vào trong bối cảnh Đức Giêsu cầu nguyện một mình và có các môn đệ ở đó với Ngài (Lc 9: 18-21: thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giêsu cầu nguyện vào những giờ phút trang trọng), trong khi thánh Mác-cô nói với chúng ta rằng Đức Giêsu và các môn đệ vừa đi vừa trò chuyện với nhau. Đối với thánh Mác-cô, chính nhờ đồng hành với Đức Giêsu, lắng nghe Ngài, mà chúng ta có thể hiểu được khuôn mặt đích thật của Ngài hơn.
Trước hết Đức Giêsu hỏi các môn đệ về dư luận quần chúng: họ nói gì về Ngài, ngõ hầu giúp các ông hiểu rõ hơn niềm tin của họ vào Ngài. Các môn đệ đáp: “Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả; có kẻ bảo là ông Ê-li-a; kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Trong những dư luận này, việc đồng hóa Đức Giêsu với ông Gioan Tẩy Giả thật lạ lùng nhưng nhắc nhớ lời phát biểu của tiểu vương Hê-rô-đê khi nghe danh tiếng Đức Giêsu: “Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ” (Mt 14: 1-2). Việc dân chúng nhận biết Đức Giêsu là một trong những đại ngôn sứ đã là một bước tiến đáng kể trên con đường đức tin rồi, tuy nhiên vẫn còn xa với chân lý.
Vì thế, Đức Giêsu muốn trắc nghiệm niềm tin của các môn đệ về Ngài sau những ngày tháng được sống bên Ngài, lắng nghe những lời Ngài nói và thấy những việc Ngài làm: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Thay mặt cho các môn đệ, ông Phêrô đáp: “Thầy là Đấng Ki tô”. Tại Mát-thêu, thánh Phêrô còn nói thêm: “Con Thiên Chúa hằng sống”. Tại Lu-ca, thánh Phêrô nói: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Quả thật, đây là một câu trả lời vượt quá khả năng của thánh Phêrô mà trong cùng một câu chuyện, thánh Mát-thêu ghi lại nhận xét của Đức Giêsu: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều này, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Bởi vì chỉ mới vừa trước đây thôi Ngài đã quở trách các ông vì lòng trí các ông quá chậm hiểu trước sứ điệp và con người của Ngài.
Ngay lập tức Đức Giêsu cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Lệnh cấm này được lập đi lập lại nhiều lần trong Tin Mừng Mác-cô mà các nhà chuyên môn gọi “bí mật Đấng Mê-si-a”. Bí mật Đấng Mê-si-a này thường liên quan đến các phép lạ, bây giờ chính là căn tính Mê-si-a của Ngài. Tại sao lại có lệnh cấm này? Bởi vì Ngài sợ người ta hiểu lầm tước hiệu Mê-si-a trên bình diện trần thế và chính trị. Mặt khác, lúc này các môn đệ không thể hiểu hết được mầu nhiệm Mê-si-a hàm chứa trong ý định của Thiên Chúa. Rõ ràng, Đức Giêsu sắp vén bức màn mầu nhiệm này.
Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo cho họ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, các thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại”. Cái tất yếu mà Đức Giêsu nêu lên: “Con Người phải…”, không là tất yếu của định mệnh, nhưng là cái tất yếu thuộc trật tự thần học, chính là cái tất yếu của chương trình Thiên Chúa. Cuộc Khổ Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ sửa sai, nhưng là một phần của mầu nhiệm cứu độ nhân loại. Vào giây phút này, Đức Giêsu không cho các ông bất cứ lời giải thích nào khác ngoài cái tất yếu (“phải”) này.
Trong lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn của Ngài, Đức Giêsu cẩn trọng tránh nói đến việc Ngài bị đánh đập và bị đóng đinh vào khổ giá. Nhưng như thế cũng đủ gây nên một sự choáng váng ở nơi các môn đệ. Một cách tế nhị, “thánh Phêrô liền kéo riêng Người ra mà trách”. Chúng ta có thể hiểu được phản ứng của thánh Phêrô. Trong tâm trí, thánh nhân đã hình thành nên ở nơi Thầy mình một Đấng Mê-si khải hoàn và vinh quang: thánh nhân ôm ấp những kỳ vọng trần thế; nhưng chắc chắn lời trách cứ của thánh nhân hàm chứa lòng yêu mến của mình đối với Thầy mình. Không ai có thể chấp nhận người mình yêu có thể bị đau khổ.
Đức Giêsu phản ứng rất mãnh liệt; thái độ của thánh Phêrô tái hiện trong tâm trí của Ngài cơn cám dỗ mà Ngài đã kinh qua trong hoang địa; Đức Giêsu đáp trả vị Tông Đồ của Ngài cũng bằng những lời mà Ngài đã dùng để trục xuất Tên Cám Dỗ: “Xa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4: 10), nhưng với thánh Phêrô, Ngài còn nói thêm: “Lui ra đằng sau Thầy”, nghĩa là “Anh không hiểu rằng nếu là môn đệ trung thành, anh phải bước đi theo con đường của Thầy”.
Và với tất cả những ai muốn làm môn đệ của Ngài, Đức Giêsu cũng căn dặn một lời như vậy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Hễ mỗi lần gợi lên cuộc Khổ Nạn của Ngài, Đức Giêsu đều liên kết các môn đệ của Ngài, và qua họ, tất cả các Ki tô hữu, vào con đường đau khổ này: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được mạng sống ấy”. Ở đây Đức Giêsu sử dụng một từ hai nghĩa: “mạng sống” vừa có nghĩa cuộc sống tạm thời ở đời này vừa cuộc sống đời đời ở mai sau.
Những lời này âm vang xuyên suốt nhiều thế kỷ và đã tạo nên niềm tin tưởng và phó thác vô bờ của các thánh tử đạo mọi thời, hôm qua cũng như hôm nay.
LỜI TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ
VÀ LỜI LOAN BÁO THƯƠNG KHÓ LẦN ĐẦU
1.- Ngữ cảnh
Có thể nói đoạn 8,27-30 đưa quyển TM II sang một khúc quanh, vì chúng ta ghi nhận được nhiều khác biệt giữa phần này với phần trước. Có những thay đổi về từ vựng và cách hành văn như: không còn nhắc đến “bánh” nữa; không còn minh nhiên nhắc đến sự tối tăm (không hiểu) của các môn đệ nữa (dù đề tài này vẫn được đề cập đến dưới một dạng khác); Đức Giêsu nói thẳng ra với các môn đệ … Có những thay đổi trong cách trình bày dung mạo của Đức Kitô: tác giả bắt đầu giới thiệu Đức Giêsu với định mệnh của Người bằng câu “Con Người phải chịu đau khổ” (8,31). Đây là định mệnh nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Số phận ấy trở thành nền tảng để Đức Giêsu khuyến khích các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (8,34).
Về nội dung, ta thấy trước đó, Đức Giêsu đã liên tục đặt cho các môn đệ một số câu hỏi (x. 8,17-21). Các câu hỏi này cho hiểu rằng các môn đệ phải hiểu chuyện gì đó, nhưng các ông lại không hiểu. Lý do: lòng các ông còn ngu muội (8,17: dịch sát: “trái tim các ông còn chai cứng”).
Có thể nói rằng: sau khi đã chứng kiến Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa ngọng (7,31-37) và chữa người mù (8,22-26), và đặt mình vào vị trí của những người ấy, các môn đệ hẳn phải biết là những người ấy tượng trưng cho tình trạng mù lòa điếc lác của chính các ông trước mầu nhiệm Đức Giêsu, và chỉ mình Người có thể giúp các ông đánh tan sự tăm tối ngu muội khiến các ông không hiểu biết Người. Và khi đã được mở tai, mở miệng, mở mắt, hẳn các môn đệ có thể tuyên xưng niềm tin vào Người và chấp nhận mọi đòi hỏi của đời môn đệ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (8,27-30);
2) Lời loan báo Thương Khó lần đầu (8,31-33);
3) Giáo huấn về đời các môn đệ (8,34-35).
3.- Vài ghi chú về chú giải
– Xêdarê Philipphê (27): Đức Giêsu tiến về miền Iturê, nơi có thành Xêdarê Philipphê trấn ngữ. Thành này là nơi cư trú của Hêrôđê Philipphê, được gọi là “Xêdarê” để tôn vinh hoàng đế Rôma. Nó nằm tại nguồn sông Giođan trên sườn núi Khemôn. Trong khi “đi đường” tiến gần đến trung tâm quyền lực chính trị này, Đức Giêsu hỏi các môn đệ về dư luận liên can đến chân tính của Người.
– Họ bảo Thầy…, có kẻ thì bảo…, kẻ khác… (28): Những ý kiến mà các môn đệ nêu ra thì tương tự với ba ý kiến trước đây liên hệ đến Gioan Tẩy Giả (x. 6,15). Sự tương đồng giữa Đức Giêsu và vị Tẩy Giả đã khiến một số người tin rằng Đức Giêsu là vị Tẩy Giả đã sống lại. Có những người lại nghĩ rằng Người là ngôn sứ Êlia, nay đã trở lại để hoạt động lần thứ hai. Lại có những người chỉ coi Đức Giêsu là như một ngôn sứ. Những phỏng đoán trên xuất hiện theo cùng một thứ tự vào thời gian Gioan bị chém đầu. Đấy là quan điểm của những người quan sát Đức Giêsu và những hoạt động của Người từ xa.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó là nhận định của những người ở gần bên Đức Giêsu, những người đã gắn bó với Đức Giêsu như là môn đệ của Người, và những người sẽ nhận tác phẩm Mc: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
– Anh em bảo Thầy là ai? (29): Đức Giêsu đã được gọi bằng nhiều danh hiệu: “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (1,24), “Con Thiên Chúa” (3,11), “Thầy” (4,38), “Con Thiên Chúa tối cao” (5,7), “Ngài (Chúa)” (7,28). Nhưng Người không hề tỏ ra muốn làm cho những kẻ đi theo Người xác định Người là Đấng Mêsia. Người chỉ cho thấy rằng Người hiểu mình có sứ mạng như “Con Người”, có quyền hành động trên trái đất nhân danh Thiên Chúa (x. 2,10).
Vào thuở đầu, các môn đệ gọi Đức Giêsu là “Thầy” (4,38). Với thời gian đi theo Người, các ông đã chứng kiến các tà thần bị trục xuất (1,21-27; 5,1-20), những bệnh nhân được chữa lành (1,29-31; 1,40-45…), những người chết được sống lại (5,21-24.35-43) và đông đảo những người nghèo đói được ăn no (6,30-44; 8,1-10). Lời nói và việc làm được Đức Giêsu liên kết với nhau. Người vừa là Đấng công bố vừa là Đấng hoàn tất Tin Mừng của Thiên Chúa.
Nhưng các môn đệ thời Đức Giêsu cũng như thời Mc đã ý thức về những điều đó đến mức nào? Họ nghĩ Đức Giêsu là ai, và như thế, họ nghĩ làm môn đệ Đức Giêsu nghĩa là gì? Lần đầu tiên họ đã nêu lên câu hỏi về chân tính Đức Giêsu khi chứng kiến trận bão bị dẹp yên (4,35-41; x. 1,27). Bây giờ dường như các môn đệ đã có một câu trả lời mà Phêrô vừa nói ra như là người phát ngôn: “Thầy là Đấng Kitô”.
– Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô”: Tên “Phêrô” đã biến mất sau 5,37, nhưng từ đây tên này sẽ được nhắc đến thường xuyên. Phêrô đã nhận thức được những gì khi tuyên xưng như thế? Tất cả những gì chúng ta có thể nói là, ít ra, ông coi Đức Giêsu hẳn là Đấng hoàn tất những niềm hy vọng từ lâu đời là tái thiết Dân Thiên Chúa. Bản văn Lc thêm “của Thiên Chúa”, và bản văn Mt: “Con Thiên Chúa hằng sống”.
– Đức Giêsu liền cấm ngặt (30): Hẳn là câu trả lời của Phêrô đúng, thế mà Đức Giêsu đã cấm không những ông mà tất cả những môn đệ nữa là “không được nói với ai về Người”. “Cấm ngặt”, epitimaô, đã được dùng trong các câu truyện trừ quỷ” (1,25; 3,12). Với từ ngữ này, chúng ta hiểu không phải Đức Giêsu muốn che giấu chân tính đích thực của Người, mà là muốn tránh cho người ta khỏi hiểu sai hoàn toàn Người là ai và Người đang làm gì. Các tông đồ không được phổ biến một lối nhìn sai lạc như thế.
Xuyên qua Cựu Ước, danh hiệu Mêsia (Kitô) gợi lên nơi tâm trí đám dân đen cũng như giới lãnh đạo hình ảnh một vị vua ngự trên đỉnh kim tự tháp xã hội kinh tế để mà điều khiển kim tự tháp này. Để cho triều đại được tồn tại mãi mãi, ngài dùng quân đội, thu thuế, và nâng đỡ một đền thờ có giới tư tế phục dịch. Giống như vua Đavít, Đấng Mêsia phải là vị thủ lãnh được xức dầu mang uy quyền thần thánh mà điều hành xã hội sao cho có công bình về mọi mặt. Nhưng các cơ cấu của xã hội này là cơ cấu hàng dọc, chúng đưa đến sự áp chế và bóc lột, nên chúng phi nhân.
Luật lệ của Thiên Chúa mà Đức Giêsu thiết lập trong tư cách là con người mới là trật tự luân lý mới, theo chiều ngang, hoàn toàn bình đẳng, trong đó định mệnh con người được thể hiện vừa theo cách cá nhân vừa theo cách tập thể. Vậy, cần giữ lại lời tuyên xưng của Phêrô, nhưng cần phải lấp đầy lời tuyên xưng ấy bằng một nội dung mới. Vì thế, Đức Giêsu bắt đầu dạy các ông về số phận của Con Người.
– Con Người phải chịu đau khổ nhiều (31): Trong nửa đầu của quyển TM Mc, Đức Giêsu đã nối kết Con Người với tư cách chúa tể và với uy quyền (2,10.28). Nhưng bây giờ, phản ứng lại lời tuyên xưng của Phêrô, Người đưa vào một viễn tượng gắn liền với chân tính của Con Người: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều”. Người diễn tả hai đối cực trong một khái niệm. Một đàng, Người được ngự trên ngai cùng với Đấng Tạo Hoá, và như thế, cùng có quyền chủ tể với Đấng Tạo Hoá. Đàng khác, Người phải chịu đau khổ và chịu chết, bởi vì Người chia sẻ mọi phương diện của thân phận con người. Tuy nhiên, sự sống, chứ không phải sự chết, mới có tiếng nói cuối cùng. Cho dù Người có bị giết, Người sẽ lại trỗi dậy. Không gì có thể cản trở việc thể hiện nhân tính mới để loài người hoàn toàn sống theo luật Thiên Chúa. “Phải; cần thiết”, dei, diễn tả một điều nằm trong chương trình của Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Đấng Mêsia, như Phêrô (và các anh em) đã tuyên xưng. Nhưng Người là Đấng Mêsia một cách nghịch lý: là vị đại diện của Thiên Chúa, Người có quyền tối cao. Nhưng tương lai gần lại đưa Người đến đau khổ và cái chết, chứ không phải là sự huy hoàng và vinh quang của một vị vua.
– bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ: Điều đáng lưu ý là những đau khổ và cái chết của Người lại bị gây ra bởi giới ưu tuyển đang nắm giữ quyền bính và đặc quyền trên đỉnh cao kim tự tháp Do Thái: đó là các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư. Họ sẽ loại trừ Người và giao nộp Người cho nhà cầm quyền Rôma xử tử. Họ làm như thế, bởi vì luật lệ của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đang thiết lập có nghĩa là đã đến lúc chấm dứt cái trật tự mà họ cho là phát xuất từ Thiên Chúa và họ đang ra sức bảo vệ bằng mọi phương thế có thể được.
– Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người (32): Phêrô (và các anh em) không thể chấp nhận được rằng trong khái niệm Đấng Mêsia họ vẫn hiểu, lại có sự đau khổ và sự chết. Ông liền kéo Đức Giêsu ra một bên và trách Người (epitimaô).
– Satan! Lui lại đằng sau Thầy (33): Đức Giêsu đã mắng ngược lại: “Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Ý kiến của Phêrô không diễn tả nếp sống môn đệ mà ông được mời gọi theo. Tư cách Mêsia mà ông tuyên xưng và cách hiểu đời môn đệ tương ứng với Đấng Mêsia ấy không thể hài hoà với cách Đức Giêsu hiểu thánh ý Thiên Chúa. Ý kiến của Phêrô chỉ dựa trên những quan điểm của loài người, nên đã tương đương với những nỗ lực của Satan nhằm kéo Đức Giêsu ra khỏi đường sứ mạng (so với Mt 4,10). Trong Mc 8,31-33, tác giả đề cập đến những hậu quả của tư cách Mêsia đối với chính Đức Giêsu. Trong 8,34-38; 9,1, ngài sẽ đề cập đến hậu quả đối với các môn đệ của Đức Giêsu.
Lời tuyên xưng duy nhất về Đấng Mêsia mà Đức Giêsu chấp nhận được, là lời tuyên xưng đưa các môn đệ đến chỗ hiểu về tư cách môn đệ phù hợp với đường lối của Thiên Chúa về mầu nhiệm Đức Kitô.
– Đức Giêsu gọi đám đông cùng vói các môn đệ (34): Đức Giêsu tiếp tục giải thích chân lý trên đây thật rõ ràng cho các môn đệ, nhưng, bởi vì điều này hết sức quan trọng, Người gọi cả đám đông lại mà nghe.
– Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình …: Nẻo đường tuân thủ thánh ý Thiên Chúa bắt đầu với cái chết, như chính Đức Giêsu đã cho thấy. Aparneomai, “chối mình”, nghĩa là không màng tới quyền lợi hoặc sở thích của mình. Vì Phêrô không chịu “chối mình” (aparneomai), sau này ông đã chối (arneomai) Thầy (14,68).
– ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được (35): Lời này cho thấy Đức Giêsu tự đồng hoá với Tin Mừng của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu, Con Người, sẽ hướng dẫn người ta đi vào một cuộc tái lập trật tự cho thế giới chúng ta, trong đó giá trị của con người không nằm ở “sở hữu” (cái “có”), nhưng ở “hiện hữu” (cái “là”). Người môn đệ Đức Giêsu sẽ đạt được sự sống vĩnh cửu ở bên kia kinh nghiệm về cái chết được diễn tả bằng công thức “vác thập giá bước theo Đức Giêsu”. Đây là sự sống vĩnh cửu bởi vì đạt được xuyên qua cuộc tái tạo bằng hơi thở ban sự sống của Thiên Chúa và bằng việc tháp nhập vào trong đời sống không bao giờ chấm dứt của Con Người (nhân loại mới).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (27-30)
Tác giả TM II đã nêu bật tầm quan trọng của câu hỏi của Đức Giêsu khi đặt câu hỏi ấy ở trung tâm của tác phẩm của ngài. Những gì ngài tường thuật trước đó (trong phân đoạn 1,1–8,26) nhắm đưa tới câu hỏi này và cung cấp các nền tảng để trả lời. Các môn đệ đã đồng hành với Đức Giêsu trong mọi chuyến đi và đã chứng kiến tất cả hoạt động của Người, phải có thể trả lời câu hỏi Người đặt ra.
Đức Giêsu không nhấn mạnh tổng quát về tình trạng thiếu hiểu biết của các môn đệ nhưng, với một độ tăng dần, Người nêu ra cho họ hai câu hỏi: ý kiến của dân chúng và của chính các ông về bản thân Người. Các môn đệ, qua Phêrô, đã tỏ ra hiểu hơn về bản thân Người: họ thấy Người là Đấng Mêsia, Đấng Xức dầu của Đức Chúa, Vị Sứ giả tối hậu và vĩnh viễn của Thiên Chúa, sẽ thực hiện ơn cứu độ trọn vẹn cho loài người bằng quyền lực và nhân danh Thiên Chúa. Câu đáp của Phêrô sẽ được triển khai bởi mạc khải của Thiên Chúa đến sau đó: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (9,7). Chính vì Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà các môn đệ phải nghe lời Người và để cho Người hướng dẫn.
* Lời loan báo Thương Khó lần đầu (31-33)
Phêrô vừa tuyên xưng niềm tin xong, Đức Giêsu tức khắc nói về cuộc Thương Khó. Đây là lần đầu tiên Người nói rõ ra những gì đang chờ đợi Người ở cuối “con đường”. Người sẽ còn ngỏ lời với các ông về đề tài này hai lần nữa (9,31; 10,33-34). Vì các ông đã nhận biết và tuyên xưng Người là Đấng Mêsia, các ông phải được chuẩn bị đi trên con đường mà Đấng Mêsia sẽ rảo qua. Đức Giêsu coi như các môn đệ có khả năng đón nhận lời loan báo này. Nhưng bây giờ lại chính là Phêrô phản đối Người (c. 32). Ông muốn cho Đức Giêsu hiểu rằng lộ trình Người loan báo đó là một lộ trình điên rồ, phi lý. Nhưng Đức Giêsu cũng đã đẩy ông đi với một sự quyết liệt không kém. Lộ trình Người theo là lộ trình Thiên Chúa muốn, nên khi phản đối Người, Phêrô đã trở thành hiện thân của ma quỷ mà chống lại Thiên Chúa.
* Giáo huấn về đời các môn đệ (34-35)
Kế đó, vì biết rằng giáo huấn Người sắp ban có giá trị cho mọi người, Đức Giêsu đã nói với toàn dân và các môn đệ: Ai muốn làm môn đệ Người, thì phải mô phỏng đời mình theo lối sống của Người. “Vác thập giá mình mà theo” là công thức nói lên một công việc sẽ kéo dài, công việc đưa lại nhiều tủi nhục đau đớn, như chuyến đi vác thập giá đến nơi chịu đóng đinh, tiến bước giữa hai hàng người say sưa chế nhạo, căm hờn chửi bới,… Đấy chính là chấp nhận thua thiệt vì trung thành sống theo Tin Mừng, cũng chính là trung thành bước theo Đức Kitô.
+ Kết luận
Cuộc sống của người Kitô hữu tham dự vào nghịch lý của bản thân Đức Kitô. Đức Kitô đã chỉ đạt được vinh quang thiên sai nhờ đi qua Khổ Nạn và cái chết, theo đúng chương trình của Thiên Chúa. Bất cứ ai tự hào mang danh “Kitô hữu”, đều phải sống nghịch lý Kitô giáo: muốn cứu mạng sống mình, là mất mạng; chấp nhận mất mạng vì Đức Kitô, là cứu được mạng. Các môn đệ phải thích ứng với nẻo đường của Đức Giêsu, mặc dù trái tim chai đá sẽ toan tính đủ cách để tránh xa con đường này, để đẩy nó đi.
5.- Gợi ý suy niệm
Các nhà chú giải Tin Mừng theo Thánh Maccô đều đồng ý công nhận rằng, trong bài Tin Mừng mà chúng ta sắp suy niệm là đỉnh cao của Tin Mừng ông. Cho tới đây, Maccô mới viết trình thuật để minh chứng rằng mọi người vẫn còn thắc mắc về con người đích thực của Đức Giêsu, vị ngôn sứ thuộc Nagiarét:
“Đây là gì?” (Mc 1,27).
“Chúng tôi chưa bao giờ thấy như vậy” (Mc 2,12).
“Ông ấy mất trí rồi ” (Mc 21).
“Thực sự ông này là ai ” (Mc 4,41).
“Tất cả mọi người đều kinh ngạc” (Mc 5,20).
“Bởi đâu ông ta được như thế” (Mc 6,2).
“Đó là ma” (Mc 6,49).
“Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả” (Mc 7,37).
Vâng, sự nhận biết Thiên Chúa trong Đức Giêsu, cũng như sự nhận biết toàn diện con người phát triển dần dần từ trong tâm hồn con người tự do, những con người đã cùng sống và quan sát người. Con đường Đức tin luôn tiệm tiến. Tôi có tiến lên không?
Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ:
Đó là làng Xêdarê Philípphê: Maccô xác định vị trí rõ ràng và chính xác. Tin Mừng không phải được viết trên không. Vùng này, dưới chân núi Hécmôn, là một nơi xanh tươi nước chảy trên những sườn đồi có tuyết: Nguồn của sông Giođan phát xuất từ đó. Đức Giêsu đã dẫn dắt các bạn hữu đến giữa cảnh thiên nhiên, xa các đám đông. Người biết Người muốn gì? Người sẽ trắc nghiệm đức tin của các môn đệ.
Người ta nói Thầy là ai?
Đây là một cuộc thăm dò dư luận. Những tổ chức Sofrès và Ifop đã dành thời giờ của họ để thăm dò xem ta nghĩ gì về những nhân vật chính trị, về trường học, về một sản phẩm nào đó. Ngày nay, chúng ta có chấp nhận câu hỏi trên đây của Đức Giêsu không?
Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.
Vậy thì dư luận cũng khá nhất quán: Người ta cho rằng Đức Giêsu là một vĩ nhân, là Gioan Tẩy giả đã sống lại thì cũng không phải là việc thường, là ngôn sứ Êlia, kẻ phải đến liền trước Đấng Mêsia. Do đó Đức Giêsu được coi như là phát ngôn viên của Thiên Chúa. Ngày nay, đa số người ta cũng vẫn coi Đức Giêsu như là một nhân vật siêu phàm. Ngu dốt thì mới quả quyết ngược lại, hay xem thường Người. Không một người hiểu biết nào đã học lịch sử mà lại có thể chối bỏ sự kiện Đức Giêsu Nagiarét đã ghi dấu ấn của Người lên lich sử hành tinh chúng ta.
Người lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?
Ngày nay, câu hỏi này vẫn còn đặt ra cho chúng ta: Người ta nói gì về Đức Giêsu chung quanh chúng ta?
Không nên trả lời bằng những câu sẵn có. Các bạn hãy nhìn xem những gì các bạn đã sống trong tuần qua, nơi khu phố, trong công viên, trong những ngày nghỉ “Giêsu? Tôi có bao giờ nghĩ nói về ông ấy”.
Giêsu ư? Ta đâu cần biết tới. Trong một khóa huấn luyện thể thao mà người ta hoàn toàn không để ý đến một yếu tố luân lý sơ đẳng nào, tôi đã tự hỏi xem có phải mình đã bất bình thường, khi không làm như những người khác? Nhưng còn bạn, bạn nói gì về tôi? Trong nhóm người kinh doanh, giải trí, làm việc, bạn có bị ‘người ta hạch hỏi về nội dung đức tin của mình không?’ Có thể chúng ta không thích điều đó lắm, vì nó quá bó buộc.
Có thể chúng ta sống một cách nào đó mà không ai nảy ra ý kiến đặt câu hỏi như trên. Điều này không đáng lo ngại sao? Đức tin của chúng ta nơi Đức Giêsu không làm thay đổi gì cuộc sống chúng ta sao? Như Thánh Giacôbê đã nghiêm khắc nhắc nhở chúng ta? (2,14-18).
Ông Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô”
Nói lên quan điểm của người khác chưa đủ. Mỗi người chúng ta cần phải trả lời. Chúng ta nói lên lời “Tuyên xưng đức tin” nào?
Do đó, nhóm Mười Hai mà Thánh Phêrô đứng đầu, sẽ trả lời vượt xa hơn những câu trả lời thông thường của quần chúng. Họ là một thiểu số rất nhỏ. Không ai nghĩ ra một điều như thế, chỉ trừ nhóm này.
Tước vị “Christos” “Meshiah” trong tiếng Hêbrơ có một nghĩa rất mạnh như biến cố bùng nổ tại Israel: Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đó là Đấng được mọi người mong đợi để đến “hoàn tất lịch sử”. Đấng các Ngôn sứ đã báo trước, Đấng sẽ cho cuộc sống con người có ý nghĩa.
Đức Giêsu liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người
Bản kịch đã làm nhẹ bản văn Hy Lạp. Đúng ra phải dịch là: ‘Chúa đã la mắng họ để họ đừng nói điều đó với ai cả’. “Bí mật về Đấng Mêsia” là một trong những đề tài của Maccô. Đức Giêsu đã luôn yêu cầu người ta đừng công bố tước vị của Người (Mc 1,34; 1,44-45; 3,11; 5,43; 7,33-36; 8,26; 8,30).
Đó không phải là không công nhận tước vị Mêsia mà Thánh Phêrô gán cho Người, nhưng chỉ là đề cao cảnh giác để người ta đừng tiết lộ Người quá sớm. Thái độ chờ đợi Đấng Mêsia nơi người Do Thái đã quá hàm hồ. Lát nữa chúng ta sẽ nhận ra điều này, khi nghe Phêrô nói. Thiên Chúa không giống như chúng ta thường mong đợi. Thiên Chúa không tìm kiếm vinh hiển, quyền năng, thành công theo nghĩa của loài người. Thiên Chúa ưa ẩn dật. Thiên Chúa thích thinh lặng. Thiên Chúa lánh mình sau tạo vật của Người. Thánh Phaolô sẽ nói rằng: “Người là mầu nhiệm được bao phủ trong im lặng” (Rm 16,25).
Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại
Đây là khúc ngoặt lớn của Tin Mừng Đức Giêsu đang rời xứ Galilê, bắt đầu tiến lên Giêrusalem, và biết rõ mình sẽ bị giết chết tại đó. Thập giá đã hiện ra trước Đấng Mêsia của Thiên Chúa.
Maccô sẽ kể lại cho ta ba lần Chúa loan báo rõ ràng cuộc thương khó của Người (Mc 8,31; 9,31; 10,33). Đây là cớ vấp phạm cho con người.
Về mặt lịch sử, chắc chắn Đức Giêsu đã phân tích rất kỹ những phản ứng bất lợi đối với lời rao giảng của Người: Người đã thấy trước sự kết thúc số phận đời mình và Người đã ý thức tự mình đối chất với nhưng nhà lãnh đạo Do Thái Người kể ra ở đây ba nhóm người làm nên Thượng Hội Đồng, là cấp xét xử tôn giáo cao nhất bây giờ. Người bắt đầu nói với họ rằng cần phải Người bắt đầu nói với họ, Người sẽ bị đau khổ, ruồng bỏ, trục xuất ra khỏi dân tộc và phải chết dữ dằn. Mỗi lần Đức Giêsu loan báo với họ về biến cố đó. Người đều khẳng định về sự Phục sinh của Người. Nhưng lạ thay, các tông đồ hình như không bao giờ nghe được lời cuối này.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta không bao giờ nghe Chúa nói đến cùng. Do đó, chúng ta tiếp tục bị khựng lại trước sự dữ trên thế gian, trước những thử thách riêng của ta: Như thể thế gian và những thử thách đó thắng thế luôn mãi, như thể sự Phục sinh, sự sống đời đời không thể có bao giờ. Chúng ta cần thú nhận điều đó.
Người nói rõ điều đó, không úp mở
Tiếc thay, một lần nữa bản dịch lại làm nhẹ bớt bản văn Hy Lạp. Lẽ ra phải dịch như sau: “Một cách quả quyết, Đức Giêsu đã nói Lời”. Lạy Chúa, con cần biết như Maccô đã nói, Chúa đã phát biểu những lời đó “một cách quả quyết” không chút sợ hãi, đầy can đảm. Con cần biết rằng, Chúa là Lời Thiên Chúa qua kiểu nói mạnh mẽ này (Người đã nói lên lời Chúa). Con đoán rằng, nhân cách của Chúa không chỉ là nhân cách của nhà hiền triết, một bậc Thầy, một vĩ nhân, nhưng là sự “hiện diện” của Ngôi Lời Thiên Chúa. “Từ khởi thủy đã có Ngôi Lời” (Ga 1,1) “Người nói Lời cách quả quyết”. Con Người phải bị giết và sống lại; chữ “phải” này làm chúng ta chìm đắm trong “ý định đời đời và không hiểu được” của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa thấy cái chết và sự Phục sinh của Chúa hoàn toàn khác hẳn với biến cố ngẫu nhiên. Đó là chương trình mầu nhiệm của Chúa Cha. Chúng ta cũng cần lưu ý, đây là kinh “Tin kính” đầu tiên, từ chính môi miệng Đức Giêsu thốt lên.
Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người. Nhưng khi Đức Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phêrô: “Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy!”
Do đó, lệnh truyền giữ bí mật không phải là vô ích.
Mặc dù vừa gán cho Thầy mình tước vị đẹp đẽ, nhưng Phêrô đã không hiểu gì cả. Ông vẫn đợi một Đấng Mêsia vinh quang, chiến thắng theo kiểu loài người, một Đấng Mêsia hoạt động chính trị, một nhà giải phóng trần gian.
Còn chúng ta thì sao? Không phải chỉ đọc kinh “Tin kính” thật đúng là đã đủ. Những từ đúng nhất cũng có thể hàm chứa sai lầm, và những từ không đúng lắm cũng có thể diễn tả chân lý. Các bạn tin ở Đấng Mêsia nào? Có phải Đấng Mêsia của Thánh Phêrô ngày đó không? Con người do trời sai đến để tái lập cách kỳ diệu trật tụ dưới thế gian này? Con người mà chúng ta có thể trút đổ vào tay người đó những trách nhiệm của chúng ta?
Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” Rồi Đức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy
Đức Giêsu kiên quyết loan báo thập giá cho Phêrô. Liền sau đó, Người cũng loan báo điều đó “cho chúng ta”, cho các môn đệ của Người, sau khi đã hỏi: “Anh em nói Thầy là ai?” Người hỏi: “Anh em nói anh em là người thế nào?”. Anh em cho cuộc sống của mình ý nghĩa nào? Sự sống được ban cho anh em để làm gì? Để giữ nó ư? Để cho nó ư? Để yêu thương? Hay để làm gì?
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Các môn đệ đi theo Đức Kitô một thời gian dài. Các ông đã nghe người ta nói nhiều về Đức Kitô. Những người này bao gồm kẻ tin theo Người và dân ngoại. Trên đường viếng thăm dân ngoại Ngài chữa lành một người tật nguyền vừa câm vừa điếc. Đức Kitô lên tiếng dò hỏi các môn đệ các ông nghe thấy người ta công luận gì về Ngài.
Chúng ta thường quan tâm nhiều về người khác nghĩ về mình, về thành quả tổ chức công việc và về sự xuất hiện, tư cách cá nhân nơi công chúng. Những nhận xét, bình phẩm, khen chê này quan trọng vì chúng ảnh hưởng đến con người, việc làm và lối xử thế. Chúng tạo cho chúng ta niềm tự tin, tự hào, hãnh diện và can đảm hơn khi xuất hiện trước công chúng. Trái lại, Đức Kitô hoàn toàn không bị lệ thuộc vào những nhận xét, phán đoán, phê bình bên ngoài nơi đại chúng. Ngài luôn tránh các cơ hội người ta muốn tôn vinh Ngài làm vua. Những lần như thế Ngài luôn tìm cách tránh đám đông, đi lên nơi thanh vắng, một mình để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Đức Kitô không màng về tán tụng đại đa số dành cho. Điều Ngài quan tâm chính không phải là những ca tụng, hoan hô nơi đai chúng. Điều Ngài quan tâm chính là sứ mạng Ngài được Chúa Cha sai xuống trần để cứu chuộc nhân loại. Chúng ta thấy rõ trong câu hỏi Ngài hỏi các môn đệ. Ngài không hỏi người ta định giá Con Người ra sao, hay họ nghĩ gì về lối sống, cách giảng dậy hay mức độ ảnh hưởng của phép lạ. Tất cả đều không phải. Ngài quan tâm đến họ coi Ngài lài ai. Điều Ngài quan tâm không phải là cách hành xử, lối sống, cách giảng dậy mà chính là đối với họ Ngài là ai. Đây mới chính là mấu chốt của điều Ngài tìm hiểu. Điều này quan trọng bởi vì người nhận biết Đức Kitô là ai không phải là do khôn ngoan cá nhân, hiểu biết của loài người mà là mặc khải của Thánh Thần Chúa. Chỉ những ai Thánh Thần Chúa mặc khải mới biết được Ngài là ai. Thiếu điều mặc khải này người ta đểu biết thiếu sót về Ngài. Chính vì thế mà khi Phêrô đại diện các tông đồ khác đáp:
Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống. Đức Kitô đã vui mừng ca tụng ông.
Các tông đồ cho Đức Kitô biết ý kiến đám đông. Hầu như mọi người đều coi Ngài là một đại tiên tri. Đây không phải là điều Ngài muốn tìm hiểu. Ngài không muốn tìm hiểu sự khôn ngoan của loài người. Ngài đi tìm kiếm dấu vết, dấu chỉ của Thánh Thần Chúa hoạt động trong tâm hồn con người. Người ta không nhận biết Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế đang sống giữa họ. Điều người ta thất bại, không nhận ra vì thiếu sự cộng tác hay mở rộng tâm hồn đón nhận Thánh Thần Thiên Chúa.
Các tông đồ có thể vui mừng vì thấy nơi đâu người ta cũng ca tụng, đón chào Thầy. Đức Kitô thì không tìm thấy niềm vui nơi những ca tụng, tán dương. Điều Ngài quan tâm chính là sứ mạng cứu độ muôn dân lúc nào cũng đóng vai trò chủ động trong việc Ngài làm, lời Ngài rao giảng. Đây mới chính là điều Ngài quan tâm. Ngài đi tìm dấu vết Thánh Thần để biết khi nào, ngày nào Giờ Con Người sẽ làm vinh danh Chúa Cha. Đó là điều Ngài quan tâm. Chính vì thế mà nhiều lần, mỗi khi có dịp thanh vắng, không có đông, chỉ riêng mấy thầy trò, Đức Kitô tâm sự cùng các tông đồ về cuộc tử nạn Ngài sẽ thực hiện ban ơn cứu độ cho toàn dân.
LỜI TUYÊN XƯNG CỦA PHÊRÔ VÀ
LẦN LOAN BÁO ĐẦU TIÊN VỀ CUỘC KHỔ NẠN
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
KHÁM PHÁ QUAN TRỌNG (8,27-30)
Xêdarê Philipphê hoàn toàn nằm ngoài ranh giới xứ Galilê, không thuộc lãnh thổ của Hêrôđê, nhưng là đất thuộc về Philipphê. Đây là một thành phố có một lịch sử ly kỳ. Từ thời xưa, nó được gọi là Balinas, vì nó từng là một trung tâm quan trọng cho việc thờ thần Baan. Ngày nay, nó hãy còn được gọi là banias, vốn là hình thức của chữ Panias. Sở dĩ nó có tên Panias bởi trên một sườn đồi tại đấy có một hang đá mà người ta bảo chỗ sinh ra của Pan, là Thượng Đế, là thần tạo dựng cõi thiên nhiên của dân Hy lạp. Hơn nữa, từ một hốc đá bên sườn đồi ấy lại xuất phát một dòng suối mà người ta cho rằng đó là nguồn phát sinh sông Giođan. Cao hơn trên sườn đồi, sừng sững một Đền Thờ sáng chói bằng đá trắng. Philipphê đã xây dựng Đền Thờ thần tính của Xêda, hoàng đế Roma, người đang trị vì thế giới thời ấy, người đuợc xem như một vị thần. Điều lạ lùng chính tại đây chứ không phải ở một nơi nào khác, Phêrô lại thấy một người thợ mộc không nhà, dân xứ Galilê, là con Thiên Chúa. Bầu không khí tôn giáo cổ xưa vốn bao trùm xứ Palestine, những kỷ niệm về Baan được nhìn thấy khắp nơi. Các thần của thế giới cổ Hy Lạp cũng ngự trị tại đó, người ta vẫn còn nghe tiếng sáo của thần Pan và còn thoáng thấy các nữ thần sống trong các khu rừng. Sông Giođan chắc gợi cho người ta nhớ lại từng giai đoạn trong lịch sử dân Israel và việc chinh phục xứ ấy. Và dưới ánh sáng của mặt trời từ Phương Đông, Đền Thờ bằng đá t rắng đang phản chiếu như nhắc nhở mọi người rằng Xêda là một vị thần. Ở đây, hơn bất cứ nơi nào khác, trong bối cảnh có đủ thứ tôn giáo và suốt dòng lịch sử, Phêrô lại khám phá vị giáo sư lưu động từ Nadarét, và đang tiến về hướng thập giá, là Con Thiên Chúa. Qua các sách Phúc Âm, thật không thể tìm được một câu chuyện nào khác bày tỏ sức mạnh cao cả nhân cách của Chúa Giêsu như trong trường hợp này.
Biến cố này xảy đến ngay ở giữa sách Phúc Âm Maccô và như đã có ý sắp xếp vậy, vì chuyện đã xảy ra đúng vào khoảnh khắc tuyệt đỉnh của Phúc Âm. Ít ra theo một phương diện, khoảnh khắc này là một băn khoăn của Chúa Giêsu, cho dù các môn đệ Ngài có nghĩ gì. Chúa Giêsu biết chắc chắn ở phía trước, sừng sững một thập giá chẳng thể tránh né, mọi sự không còn kéo dài bao lâu nữa. Thế lực chống đối đang tập trung lực lượng để tấn công. Vấn đề Chúa Giêsu phải đối đầu là: đời sống của Ngài đã gây được chút ảnh hưởng gì chưa? Ngài có thực hiện được gì? Hay nói cách khác, đã có người nào khám phá được Ngài thật sự là ai chưa? Nếu Ngài đã sống, đã giảng dạy, đã đi đây đó giữa loài người nhưng chẳng một ai thoáng thấy được Thiên Chúa nơi Ngài, thì tất cả công lao của Ngài đã bỏ ra chẳng đi đến đâu cả. Phương pháp duy nhất Ngài có thể để lại một thông điệp cho loài người, đó là viết nó vào lòng một số người, vì thế, trong thời gian này, Chúa Giêsu đã đem mọi sự đưa vào một trắc nghiệm. Ngài hỏi các môn đệ thiên hạ đang nói gì về Ngài, để Ngài nghe từ chính họ tiếng đồn và dư luận quần chúng. Tiếp theo là một khoảnh im lặng nghẹt thở. Ngài đặt một câu hỏi thật nhiều ý nghĩa: “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?”. Thình lình Phêrô nhận ra được điều ông vẫn biết từ nơi sâu thẳm của lòng mình. Đây là Đấng Mêsia, là Đức Kitô, Đấng được xức dầu, là Con Thiên Chúa. Qua câu trả lời này, Chúa Giêsu biết Ngài không thất bại.
Nhưng giờ đây, chúng ta đến một vấn đề đã được nêu lên và đã giải đáp nửa phần trước đây, cần được giải đáp cách chi tiết, nếu không cả câu chuyện Phúc Âm sẽ không được thấu hiểu đầy đủ. Ngay sau khi Phêrô khám phá điều đó, Chúa Giêsu bảo ông không được nói điều này với ai. Tại sao? Trước nhất và trên hết, Chúa Giêsu phải dạy Phêrô và những người khác về sứ vụ Mêsia thực sự có nghĩa gì. Vậy, muốn hiểu rõ nhiệm vụ mà Chúa Giêsu đang nắm trong tay, muốn hiểu được ý nghĩa đích thực sự cần yếu đó, chúng ta cần xem lại các ý niệm liên hệ đến Đấng Mêsia vào thời Chúa Giêsu thật sự là gì.
Các ý niệm về Đấng Mêsia của dân Do Thái.
Suốt quá trình tồn tại, người Do Thái chẳng khi nào quên họ là tuyển dân của Chúa theo một ý nghĩa hết sức đặc biệt. Vì lý do ấy, họ trông mong được một địa vị đặc biệt trên thế giới. Vào thời xa xưa, họ trông đợi chiếm được một địa vị đó bằng điều mà chúng ta có thể gọi là các phương tiện tự nhiên. Họ luôn luôn xem những ngày trọng đại nhất trong lịch sử của họ như các ngày của Đavít, và họ mơ ước một ngày kia họ sẽ có một vua khác thuộc dòng dõi Đavít, một vua sẽ làm cho họ trở thành vĩ đại trong sự công chính và thế lực (Is 9,7; Gr 22,4; 23,5; 30,9). Nhưng thời gian trôi qua, sự vĩ đại mà họ mơ ước đó rõ ràng một cách đáng thương hại là sẽ chẳng bao giờ có thể thực hiện được bằng các phương tiện tự nhiên. Mười chi phái bị đày sang ASyri và đã vĩnh viễn thất lạc, người Babylon chinh phục Giêrusalem, bắt dân Do Thái đem về nước làm tù binh. Rồi đến người Ba Tư trở thành chủ nhân ông của họ, tiếp theo là người Hy Lạp, sau đó là người Roma. Thế là đã chẳng chinh phục, cai trị được ai, mà qua nhiều thế kỷ, dân Do Thái cũng chẳng biết đến tự do là gì nữa. Cho nên có một dòng tư tưởng khác nẩy sinh. Ý niệm về một nhà vua vĩ đại thuộc dòng Đavít vẫn chưa bao giờ tan biến hẳn, luôn luôn ở trong tư tưởng của họ dưới một hình thức nào đó, càng ngày họ càng mơ ước về một ngày khi Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử bằng những phương tiện siêu nhiên, sẽ thực hiện điều mà các phương tiện tự nhiên chẳng bao giờ thành tựu được. Họ trông mong quyền năng của Chúa sẽ làm cho họ những gì mà khả năng của con người phải bó tay.
Trong giai đoạn giữa Cựu và Tân Ước, đã có hàng loạt các sách về những giấc mơ, những dự báo về các thời đại mới đó và sự can thiệp của Thiên Chúa. Các sách ấy được xếp vào một loại được gọi là các sách Khải Huyền. Từ này có nghĩa là vén màn. Các sách này là phương tiện nhằm vén lên những bức màn đang che giấu tương lai. Chúng ta phải quay sang các sách ấy để tìm hiểu xem dân Do Thái thời Chúa Giêsu đã tin gì về Đấng Mêsia, về công tác của Ngài và về thời đại mới. Chúng ta phải đặt giấc mơ của Chúa Giêsu trong bối cảnh các giấc mơ của họ.
Trong các sách ấy, đã xuất hiện một số ý niệm căn bản. Ở đây chúng ta theo cách xếp loại các ý niệm ấy của Schurer, tác giả của “Lịch Sử Dân Do Thái Thời Chúa Giêsu”.
1/ Trước thời Đấng Mêsia đến, sẽ có một giai đoạn đại nạn. Đó là cơn quặn thắt Mêsia. Đó sẽ là cơn chuyển bụng của kỷ nguyên mới. Tất cả những gì khủng khiếp có thể quan niệm được sẽ bùng nổ trên đất, mọi tiêu chuẩn về vinh dự, về luân lý đạo đức đều bị đánh đổ, thế gian này sẽ trở thành một cảnh hỗn mang cả về phương diện thể chất luôn cả tinh thần.
“Và vinh hiển sẽ biến thành nhục
Và sức mạnh sẽ bị hạ bệ, bị khinh bỏ
Và sự chân thật bị tận diệt
Và đẹp đẽ trở thành xấu xí
Và tham lam sẽ dấy lên trong lòng
những kẻ chẳng hề nghĩ mình ra gì.
Và đam mê sẽ bắt lấy kẻ vốn an phận
Và nhiều người sẽ bị xách động để nổi giận,
gây tàn hại người khác.
Và thiên hạ sẽ dấy binh để gây đổ máu
Và cuối cùng, họ sẽ chết chung với nhau” (II Barúc 27)
Sẽ có: “nhiều cơn động đất, nhiều dân tộc náo loạn, nhiều quốc gia mưu đồ, nhiều lãnh tụ bối rối, nhiều vua chúa lo âu” (Xh 9,3).
“Sẽ có nhiều tiếng nói khủng khiếp từ trời vang xuống đất. Những tia chớp vừa to lớn, vừa sáng chói lóe lên giữa loài người và địa cầu, là mẹ của vũ trụ sẽ chuyển động, trong các ngày đó, bởi tay Đấng Vĩnh Cửu. Cả dưới biển, thú vật trên đất, vô số loài vật hay linh hồn người ta cùng biển cả sẽ run rẩy, kinh hoàng trước Đấng Vĩnh Cửu. Và những đỉnh núi, các đồi lớn sẽ bị xé ra và mọi người sẽ nhìn thấy các vực sâu, các thung lũng, trên các núi cao sẽ đầy dẫy xác người, những khối đá sẽ tuôn tràn máu và mọi thác sẽ đổ máu xuống làm tràn ngập các đồng bằng… Và Chúa sẽ phán xét mọi người bằng chiến tranh, bằng gươm, sẽ có diêm sinh từ trời xuống, phải, sẽ có đá, có mưa, có băng giá liên tục và trầm trọng. Sự chết sẽ giăng trên loài thú bốn chân… Phải, chính đất sẽ uống máu người chết, thú rừng sẽ ăn thịt họ” (Các sấm ký của Sybille 3,363).
Kinh Mishnah kể ra các dấu hiệu cho biết lúc Đấng Mêsia gần đến.
“Sự khoe khoang tăng thêm, tham vọng nảy sinh, cây nho ra trái và rượu nho được ưa chuộng. Các chính quyền biến thành tà giáo. Không còn có sự dạy dỗ nữa, các hội đường bị dành cho việc dâm đãng. Galilê bị tàn phá. Gabian bị hoang vu. Dân chúng của một khu vực đi từ thành phố này sang thành phố khác nhưng chẳng được ai thương xót. Sự khôn ngoan của người học thức bị thù ghét, kẻ tin kính bị khinh dể, chân lý vắng bóng. Con nít mắng chửi người già cả, người già phải chịu cho con trẻ xét xử. Con trai khinh cha, con gái chống đối mẹ, dâu nghịch cùng mẹ chồng. Kẻ thù của người ta là người nhà mình”.
Thời kỳ trước khi Đấng Mêsia đến là thời kỳ mà thế gian bị xé ra từng mảnh và mọi dây ràng buộc đều bị nới lỏng. Trật tự vật thể và tinh thần đều sụp đổ.
2/ Giữa cảnh hỗn mang đó. Êlia đến với tư cách sứ giả tiền trạm, báo trước việc Đấng Mêsia giáng lâm. Ông có nhiệm vụ hàn gắn các vết thương và lập lại trật tự cho cảnh hỗn mang để dọn đường cho Đấng Mêsia đến. Đặc biệt là ông phải dàn xếp những bất hòa, tranh chấp. Thật ra, luật truyền khẩu của Do Thái giáo có quy định rằng tất cả tiền bạc, tài sản đạng bị tranh chấp về chủ quyền hoặc bất cứ vật gì người ta không biết sở hữu chủ thì phải chờ đợi “cho tới khi nào Êlia đến”. Khi Êlia đến, thì Đấng Mêsia không còn bao xa nữa.
3/ Rồi Đấng Mêsia sẽ đến. Từ Messiah và từ Christ vốn đồng nghĩa, chỉ về Đấng được xức dầu (Messiah là chữ Do Thái, còn Christ là chữ Hy Lạp). Trước khi lên làm vua, nhà vua phải được xức dầu, Đấng Mêsia là nhà vua được Thiên Chúa xức dầu. Điều quan trọng cần nhớ là Christ không phải là tên mà là tước vị. Lắm lúc người ta nghĩ rằng Đấng Mêsia là nhà vua thuộc dòng dõi vua Đavít, nhưng thường hơn, người ta nghĩ về một nhân vật vĩ đại, một thần nhân, một siêu nhân, xuất hiện trong lịch sử để tái tạo thế giới và cuối cùng sẽ báo thù cho dân của Chúa.
4/ Các dân, các nước sẽ liên minh với nhau để chống nhà vô địch của Thiên Chúa.
“Các vua của các dân tộc sẽ xông vào đất này để tự thanh toán lấy nhau. Khi đã đến xứ này, họ sẽ tìm cách cướp phá Đền Thờ của Thiên Chúa quyền năng và những nhà quyền quý. Các nhà vua đáng nguyền rủa ấy cùng với đoàn dân vô đạo sẽ bao vậy thành phố và đặt ngai mình tại đó. Và rồi, bằng một tiếng phán lớn. Thiên Chúa sẽ nói với người vô kỷ luật đầu óc trống rỗng đó, và phán xét sẽ giáng trên chúng từ Thiên Chúa toàn năng, khiến tất cả đều chết dưới tay Đấng Vĩnh Cửu” (các sấm ký của Sybille 3, 363-372).
“Chuyện sẽ xảy ra là khi các dân nước nghe tiếng Ngài (Đấng Mêsia) mọi người sẽ rời bỏ xứ mình, ngưng chiến tranh chống lại nhau, vô số người không đếm xuể sẽ tụ họp, muốn chống lại Ngài” (Xh 13,33-35).
5/ Kết quả là các thế lực chống đối sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt, Philo bảo rằng Đấng Mêsia sẽ “ra trận đánh giặc và tiêu diệt các nước lớn và dân đông”.
Ngài sẽ trừng phạt chúng nó vì tội bất kính
Quở trách chúng vì sự bất chính
Trách mắng tận mắt chúng vì sự phản bội của chúng
Và khi quở trách chúng, Ngài sẽ tiêu diệt chúng (Xh 12,32-33)
“Và việc đã xảy ra trong những ngày đó, sẽ chẳng có một ai được cứu, hoặc là nhờ vàng hay bạc, sẽ chẳng một ai thoát thân được, và sẽ không có sắt cho chiến tranh, cũng chẳng có ai mặc áo giáp. Đồng sẽ thành vô dụng, thiếc sẽ không còn được ưa chuộng, sẽ không còn ai thích chì, mọi vật sẽ bị tiêu diệt khỏi mặt đất” (Hênóc 52,7-9).
Đấng Mêsia sẽ là nhà chinh phục gây nhiều tàn hại nhất trong lịch sử, đàn áp các kẻ thù Ngài cho đến khi chúng hoàn toàn bị tiêu diệt.
6/ Tiếp theo đó, thành Giêrusalem sẽ được làm mới lại. Đôi khi người ta nghĩ thành phố hiện có sẽ được thanh tẩy nhưng thông thường hơn thì nghĩ rằng thành Giêrusalem mới sẽ từ trời xuống. Ngôi nhà cũ sẽ được cuốn lại và đem đi chỗ khác, ngôi nhà mới được thế vào “tất cả cột trụ đều mới và đồ vật trang trí đều mới và đồ vật trang trí đều lớn hơn trong nhà cũ” (Hênóc 90,28-29).
7/ Dân Do Thái đã bị tản lạc khắp thế gian sẽ được gom về thành Giêrusalem mới. Nhằm hướng về ngày đó, bài cầu nguyện của người Do Thái mỗi ngày có lời khấn xin “Xin hãy giương lên một ngọn cờ để thu góp những kẻ tản lạc của chúng tôi khắp bốn phương trời lại”. Có một bức tranh cao quý về việc hồi hương đó: “Hãy thổi kèn trong Sion, để kêu gọi các thánh hãy làm cho người ta nghe trong Giêrusalem tiếng của kẻ mang Tin Mừng vì Thiên Chúa đã thương với dân Israel và thăm viếng họ. Hỡi Giêrusalem, hãy lên đỉnh núi cao mà nhìn xem con cái người, từ Đông sang Tây. Đức Chúa đang thu gom chúng lại, từ phương Bắc, chúng đến trong niềm vui của Chúa mình, từ các đảo xa, Chúa đã thu gom chúng lại, các núi cao hạ thấp xuống thành đồng bằng cho chúng, các đồi chạy trốn cho chúng đi vào, khi chúng đi qua, cây cối sẽ che chúng. Chúa khiến đủ thứ cây cối có hương thơm mọc lên vì chúng, để dân Israel có thể đi qua khi vinh quang của Chúa mời gọi chúng. Hỡi Giêrusalem, hãy mặc áo vinh quang, hãy chuẩn bị sẵn áo dài thánh thiện của ngươi; vì Chúa đã nói sự tốt đẹp cho Israel mãi mãi. Nguyện Đức Chúa thực hiện điều Ngài đã phán liên hệ với Israel và Giêrusalem. Nguyện Đức Chúa và lấy danh vinh quang Ngài thúc đẩy Israel. Nguyện lòng thương xót của Đức Chúa ngự trên Israel đời đời”.
Thật dễ thấy thế gian này sẽ được làm mới lại theo cách nào dưới mắt người Do Thái. Lòng yêu nước của họ bao giờ cũng là yếu tố nổi bật.
8/ Xứ Palestine sẽ là trung tâm thế giới, và cả thế gian sẽ quy phục nó. Tất cả mọi dân tộc sẽ bị đè bẹp, thỉnh thoảng người ta nghĩ đến điều này như một sự quy phục hòa bình “Và mọi cù lao, mọi thành phố sẽ nói: Chúa thương yêu dân ấy biết bao. Vì mọi sự đều hợp lại làm ích lợi và giúp đỡ họ… hãy đến, sấp mình xuống đất và cầu khẩn vua đời đời, là Chúa toàn năng và vĩnh cửu, hãy diễu hành đến Đền Thờ Ngài. Vì Ngài là Đấng Toàn Năng duy nhất” (các sấm ký của Sybille 3,690tt)/
Thương hơn nữa, số phận của các dân ngoại là bị tiêu diệt, do đó dân Israel sẽ được nhắc đến và vui mừng. “Và Ngài sẽ hiện ra để trừng phạt các dân ngoại, tiêu diệt các thần tượng của chúng, rồi ngươi, hỡi Israel, hãy vui mừng, ngươi sẽ cỡi lên cỏ, lên đôi cánh của chim phượng hoàng (nghĩa là Roma, con chim phượng hoàng-sẽ bị tiêu diệt), chúng sẽ bị tiêu diệt và Chúa sẽ tôn cao ngươi. Và từ trên cao ngươi sẽ nhìn xuống, thấy các kẻ thù mình trong địa ngục, ngươi sẽ nhận ra chúng và vui mừng” (Quyết Đoán của Môsê 10,8-10).
Thật là một bức tranh ảm đạm. Dân Israel sẽ vui mừng khi thấy các kẻ thù mình bị đập tan và ở trong hỏa ngục. Cả đến những người chết của dân Israel cũng sẽ được sống lại và dự phần vào thế giới mới.
9/ Cuối cùng một thời đại mới hòa bình và tốt đẹp sẽ đến và tồn tại mãi mãi.
Trên đây là các ý niệm về Đấng Mêsia vốn ở trong tâm trí người Do Thái lúc Chúa Giêsu đến thế gian này. Các ý niệm ấy vốn là tàn bạo, đầy tinh thần quốc gia cực đoan, gây tàn hại và báo thù. Thật ra chúng cũng được cho kết thúc bằng sự trị vì trọn vẹn của Thiên Chúa, nhưng muốn đạt đến đó, phải trải qua trận tắm máu và một sự nghiệp chinh phạt. Hãy nghĩ về Chúa Giêsu bị đặt trong một bối cảnh như vậy, cho nên chẳng có gì để ngạc nhiên nếu Ngài cần huấn luyện các môn đệ mình về ý nghĩa của Đấng Mêsia và chẳng có gì lạ nếu cuối cùng, chúng đã đóng đinh Ngài vào thập giá vì tội giảng tà giáo. Trong một bức tranh như thế, làm sao có chỗ cho một thập giá, cũng chẳng hề có một chỗ trống nào dầu thật nhỏ hẹp cho tình thương chịu khổ được.
KẺ CÁM DỖ LỢI DỤNG TIẾNG NÓI CỦA NGƯỜI BẠN THÂN (8,31-33)
Chúng ta phải đặt câu chuyện này trong bối cảnh vừa thấy về quan niệm thông thường liên hệ đến Đấng Mêsia. Khi Chúa Giêsu kết hợp chức vụ của Đấng Mêsia với đau khổ và sự chết là Ngài đang khẳng định với các môn đệ Ngài những điều khó tin, khó hiểu. Suốt đời họ vẫn quan niệm về một Đấng Mêsia bách chiến bách thắng, thế mà bây giờ họ lại được nghe một ý niệm họ phải choáng váng. Chính vì thế, nên Phêrô đã mạnh mẽ phản đối. Với ông toàn thể vấn đề không thể nào xảy ra như vậy được.
Tại sao Chúa Giêsu quở trách Phêrô quá nghiêm khắc như vậy? Vì lời ông nói ra cũng chính là cám dỗ đang tấn công Chúa Giêsu lúc đó, Chúa Giêsu không hề muốn chết, Ngài biết rằng Ngài có quyền năng để sử dụng cho việc chinh phục và chiến thắng. Lúc này cuộc chiến đấu với cám dỗ trong hoang địa đang tái diễn. Chính ma quỷ lại cám dỗ Ngài một lần nữa là hãy sấp mình xuống thờ lạy nó, hãy chấp nhận đường lối của nó thay vì đường lối của Thiên Chúa.
Việc kẻ cám dỗ nói với chúng ta bằng giọng nói của một người bạn thân thiết là điều hết sức kỳ lạ, lắm khi còn là khủng khiếp nữa. Có lẽ chúng ta đã quyết định tiến hành công việc phải lẽ mà không thể nào tránh được rắc rối, mất mát, bị chê bai và phải hy sinh. Thế rồi, đúng lúc đó, có thể có một người bạn thân thiết, đến với ý định tốt, để cố gắng can ngăn chúng ta. Tôi biết một người đã quyết tâm tiến hành một công việc hầu như chắc chắn sẽ đưa người ấy lâm cảnh rắc rối. Một người bạn đến và cố thuyết phục, can ngăn ông ta, người bạn nói “Hãy nhớ anh còn vợ và gia đình, anh không nên làm thế!”. Có thể một người vì rất yêu mến chúng ta đến nỗi người ấy muốn chúng ta tránh chuyện rắc rối để tìm kiếm một nếp sống an toàn.
Kẻ cám dỗ không thể tìm được cách tấn công nào khủng khiếp hơn là tấn công bằng tiếng nói của những người yêu thương chúng ta và những người chỉ nghĩ đến việc mưu tìm điều tốt đẹp cho chúng ta. Đó chính là chuyện đã xảy ra cho Chúa Giêsu ngày hôm ấy và cũng chính vì thế mà Ngài đã đáp lại thật nghiêm khắc. Cả đến tiếng van nài của tình thương cũng không thể lấn át tiếng nói cấp thiết của Thiên Chúa.
CON ĐƯỜNG LÀM MÔN ĐỆ CHÚA (8,34)
Phần này của Phúc Âm Maccô rất gần với trung tâm niềm tin Kitô giáo nên chúng ta phải học từng câu một. Nếu mỗi ngày, một người chỉ cần một trong những câu này ghi khắc vào tâm trí và làm chủ đời sống mình, thiết tưởng chừng đó cũng đã đầy đủ lắm rồi, để có thể tiếp tục tiến tới.
Thoạt nhìn có hai điều nổi bật ở đây:
1/ Sự thành thật của Chúa Giêsu gần như đáng gây ngạc nhiên. Chưa hề có ai nói rằng mình đã bị xúi giục đi theo Chúa Giêsu. Ngài không hề mua chuộc người ta bằng cách đề nghị môt con đường dễ dãi. Ngài không đề nghị với con người sự bình an, Ngài chỉ đề nghị với họ sự vinh quang. Nói với một người phải sẵn sàng vác thập giá nghĩa là nói với người ấy phải sẵn sàng chịu người ta nhìn mình như một tội phạm và phải lãnh án tử hình. Lòng thành thật của các đại lãnh tụ luôn luôn là một trong những đặc điểm của họ. Trong thế chiến thứ hai, lúc Sir Winston Churchill lên nhận chức, tất cả những gì ông đề nghị với mọi người là “máu, nhọc nhằn, mồ hôi và nước mắt”. Nhà ái quốc lừng danh người Ý Garibaldi đã hiệu triệu các tân binh bằng những lời lẽ sau đây: “Tôi không trao cho anh em lương bổng, nhà cửa, lương thực. Tôi chỉ cho đói, khát, hành quân, chiến trận và chết. Ai là người yêu xứ sở bằng con tim của mình, chớ không chỉ bằng môi miệng, hãy theo tôi”. “Hỡi các chiến hữu, mọi nỗ lực của chúng ta chống lại những lực lượng hùng mạnh hơn đã không thành công. Tôi có gì để cho anh em ngoài đói, khát, nhọc nhằn và chết chóc; nhưng tôi kêu gọi tất cả những ai yêu tổ quốc, hãy theo tôi”. Chúa Giêsu không bao giờ nghĩ chuyện lừa gạt, bảo người ta theo Ngài bằng cách hứa hẹn cho họ một con đường dễ đi. Ngài đã tìm cách thách thức họ, khơi dậy chí khí đang ngủ trong tâm hồn họ, bằng cách đề nghị với họ một con đường ngày càng lên cao hơn, càng gian khổ hơn. Ngài không hứa hẹn sẽ khiến đời sống họ được dễ dàng hơn, nhưng sẽ khiến họ trở thành vĩ đại hơn.
2/ Sự nêu gương của Chúa Giêsu, Ngài không hề kêu gọi con người thực hiện hay đối diện bất cứ chuyện gì mà chính Ngài không sẵn sàng đương đầu và thực hiện trước. Chắc chắn đó là đặc tính của một lãnh tụ được một số người nối gót. Lúc Alịchsơn Đại đế truy kích Đariút, nhà vua đã thực hiện một trong những cuộc trường chinh kỳ diệu trong lịch sử. Suốt 11 ngày, nhà vua đã thúc giục đạo quân của mình đi được 663 km. Binh sĩ hầu như sắp bỏ cuộc vì khát nước. Plutarch kể lại câu chuyện sau đây: “Lúc họ đang khốn đốn, có mấy người Makêđônia cỡi lừa đi tìm nước từ các con sông gần đó trở về, thấy nhà vua hầu như đang nghẹt thở vì khát, họ dâng một chiếc mũ sắt đựng nước lên cho vua. Vua hỏi họ đem nước cho ai? Họ bảo là cho các con của họ và thêm rằng chỉ cần cứu được mạng của vua. Bấy giờ nhà vua nhận chiếc mũ sắt đựng nước của họ, nhìn quanh thì thấy mọi người đứng quanh đều ngóng cổ cổ lên, tỏ ra rất thèm được uống nước. Nhà vua liền trả lại chiếc mũ sắt, chẳng nếm lấy một giọt và cám ơn họ. Vua nói “Nếu chỉ một mình ta uống nước thì số người còn lại đều ngã lòng”. Binh sĩ thấy ngay tính tự chế và rộng lượng của nhà vua nên nhất quyết yêu cầu nhà vua hãy mạnh dạn truyền lệnh lên ngựa, bắt đầu ra roi. Một khi họ đã có vị vua như vậy, họ bất chấp đói khát mệt mỏi và tự xem mình chẳng kém gì những nhân vật bất tử. Thật dễ nối gót một lãnh tụ chẳng bao giờ đòi hỏi thuộc hạ những gì mà chính mình không chịu được. Vì tướng Roma lừng danh là Quintus Fabius Cuncator, một hôm đang thảo luận với bộ tham mưu về chiến thuật đánh chiếm một vị trí khó thanh toán. Có người đề nghị một phương cách hành động. Vị cố vấn này nói “Làm thế thì chỉ cần hy sinh một số ít người thôi”. Fabius nhìn thẳng vào vị cố vấn ấy và hỏi “thế ông có sẵn lòng làm một trong số ít người đó không?” Chúa Giêsu không phải là một lãnh tụ chỉ ngồi xa đùa giỡn với sinh mạng con người như những con tốt phí vậy. Nếu Ngài đòi hỏi người ta phải đương đầu với điều gì, chính Ngài cũng sẵn sàng đối đầu với nó. Chúa Giêsu có quyền kêu gọi chúng ta hãy vác thập giá, bởi vì chính Ngài đã từng vác.
3/ Chúa Giêsu dạy ai muốn làm môn đệ Ngài “phải liều mình”. Ta sẽ hiểu câu này rõ hơn theo nghĩa đen thật đơn giản trong nguyên văn. Câu này có nghĩa là “Hãy nói không với chính mình”. Nếu ai muốn theo Chúa Giêsu thì luôn luôn phải trả lời “không” với chính mình và đáp “vâng” với Chúa. Người ấy phải đáp không với tính tự nhiên ưa thích dễ dãi, an vui cho chính mình. Người ấy phải trả lời không với hành động đặt nền tảng trên ý riêng và nhằm tìm lợi lộc, thoải mái cho riêng mình. Người ấy phải trả lời vâng với tiếng nói và lệnh truyền của Chúa Giêsu mà không chút phân vân. Người ấy phải đồng hành với Phaolô để nói rằng: không phải tôi sống nữa, nhưng Chúa Kitô đang sống trong tôi. Người ấy sẽ không sống để theo đuổi ý riêng nữa, nhưng để theo ý của Chúa, và trong khi phục vụ Ngài, người ấy thực sự cảm thấy mình được tự do hoàn toàn.
ĐƯỢC LẠI ĐỜI SỐNG BẰNG CÁCH LIỀU BỎ MẠNG SỐNG (8,35)
Có nhiều điều hễ muốn giữ thì mất, nhưng nếu đem ra sử dụng thì lại giữ được. Bất cứ tài năng nào của con người cũng như vậy. Nếu sử dụng nó, nó sẽ phát triển trở thành tinh vi, vĩ đại hơn. Nếu chúng ta không chịu dùng đến nó, cuối cùng nó sẽ bị mai một đi. Trên hết mọi sự, cuộc đời của con người vốn giống như vây.
Lịch sử đầy dẫy những tấm gương về những con người liều bỏ mạng sống mà được sự sống đời đời. Bên phương Đông, cuối thế kỷ 4 SCN có một tu sĩ tên là Telemachus. Ông đã quyết định từ bỏ thế gian để sống riêng biệt trong cầu nguyện, suy gẫm, chay tịnh, và mong nhờ đó cứu rỗi linh hồn. Trong nếp sống tách biệt đó, ông chẳng tìm kiếm gì khác hơn là được tiếp xúc với Chúa, nhưng ông vẫn cảm thấy có một cái gì đó còn trục trặc, sai lầm. Một ngày nọ, lúc ông từ chỗ đang quỳ đứng lên, thình lình một tia sáng lóe lên trong tâm trí ông: cuộc sống của ông không đặt trên tình yêu vô ngã đối với Chúa mà là tình yêu ích kỷ. Ông được cho thấy nếu muốn phục vụ Chúa, ông phải phục vụ con người, sa mạc không phải là chỗ để Kitô hữu sống, nhưng là các đô thị đầy dẫy tội lỗi dang có rất nhiều nhu cầu. Vậy ông nhất định giã từ sa mạc và đến ở một thành phố lớn nhất thế giới là thành phố Rôma ở phương Tây. Ông vừa xin ơn vừa vượt biển vừa băng trên đất liền để đến Roma. Vào thời đó Roma đã được Kitô giáo hóa. Ông đến Roma nhằm lúc tướng Roma là Sitilicho vừa thắng được dân Gót một trận lớn. Roma đã dành nhiều vinh quang cho Sitilicho. Khác với thời bách hại, bấy giờ thiên hạ đổ xô vào các nhà thờ Kitô giáo chứ không phải đến các đền thờ ngoại đạo nữa. Người ta tổ chức những cuộc diễu hành, lễ mừng và Sitilicho cỡi ngựa đi qua các đường phố Roma với tư cách kẻ chiến thắng, bên cạnh có hoàng đế trẻ tuổi Honorius. Nhưng trong thành phố Roma theo Kitô giáo vẫn còn sót lại một điều: đấu trường và những cuộc giác đấu. Bấy giờ, các Kitô hữu không còn bị ném cho sư tử xé xác nữa nhưng hãy còn các tù binh chiến tranh bị đưa ra để đánh giết nhau, cho dân chúng Roma ăn mừng các ngày lễ của họ. Mọi người reo hò khi thấy máu chảy trong các cuộc giác đấu. Hôm ấy, Telemachus tìm đường đến đấu trường. 80.000 người đang có mặt tại đó. Cuộc đua chiến xa vừa chấm dứt, thiên hạ đang nhốn nháo vì các lực sĩ giác đấu sắp tranh tài. Họ vào đấu trường và tung hô “Xêda vạn tuế, chúng tôi là những kẻ chết, xin chào hoàng đế”. Cuộc đấu bắt đầu Telemachus cảm thấy kinh hoàng. Những người mà Chúa Kitô đã chịu chết thay cho đó lại đang giết nhau để mua vui cho đám đông tự nhận là Kitô hữu. Ông nhảy qua hàng rào, ông đứng giữa hai lực sĩ giác đấu đang đánh nhau, họ dừng lại một chút. Đám đông gào lên “Hãy để các trò vui tiếp tục”. Họ đẩy ông lão qua một bên, ông vẫn còn mặc bộ áo tu sĩ ẩn tu. Ông lại xông vào giữa họ. Đám đông bắt đầu lượm đá ném ông. Họ kêu các lực sĩ giác đấu hãy giết ông để dẹp cho trống chỗ. Người chỉ huy các trò vui ra lệnh, một lực sĩ giác đấu vung gươm lên, chém xuống. Telemachus ngã lăn ra chết. Thình lình cả đám đông yên lặng như tờ. Họ bị xúc động mạnh vì một thánh nhân vừa bị giết. Chuyện quá đột ngột và đám đông bỗng hiểu giết người có mang một ý nghĩa. Hôm đó, các trò vui giác đấu bị ngưng và từ đó không còn tiếp tục nữa. Bằng cái chết của mình, Telemachus kết thúc các trò chơi ấy. Gibbon đã nói về ông “cái chết của ông hữu ích cho nhân loại hơn đời sống của ông”. Liều bỏ mạng sống, ông đã làm được nhiều việc hơn là lúc ông tự đầy ải nó bằng cách biệt riêng để tĩnh tâm trong sa mạc.
Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống để sử dụng chứ không phải đem giấu đi hay giữ lại. Nếu chúng ta sống cách cẩn thận luôn dành ưu tiên suy nghĩ về lợi lộc, thoải mái, an toàn, sung túc của riêng mình, nếu mục đích duy nhất của chúng ta là kéo dài cuộc đời trốn tránh gian khổ càng nhiều càng hay, nếu chúng ta chịu nỗ lực khi nào có lợi cho riêng mình, chúng ta luôn luôn đánh mất đời sống. Nhưng nếu chúng ta dùng đời sống mình vì tha nhân, nếu đầu tư thì giờ, sức khỏe, tài sản vào một việc gì đó cho Chúa Giêsu và cho những người Ngài đã chịu chết thay cho, chúng ta luôn luôn thắng cuộc trong đời sống. Việc gì sẽ xảy đến cho thế giới này nếu các bác sĩ, các nhà khoa học, những phát minh đều không chịu liều mạng làm các thí nghiệm mà thường thường là trên chính thân thể họ. Chuyện gì sẽ xảy đến cho thế giới này, nếu mọi người chỉ muốn sống an nhàn vô sự ở nhà, chẳng ai chịu đi tiên phong thực hiện những cuộc thám hiểm? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu không có bà mẹ nào chịu mang nặng đẻ đau? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu mọi người tiêu dùng tất cả những gì họ có cho riêng họ? Yếu tính của đời sống là đánh liều và sử dụng đời sống mình chứ không phải là bảo vệ, giấu kín nó. Chúng ta sẽ ngày càng hao mòn kiệt quệ, tàn tạ thật sự, khi tận hiến cuộc sống mình. Ngày nào cũng làm cho đời sống mình bùng cháy lên, thì vẫn còn hơn là để nó han rỉ, vì đó chính là con đường hạnh phúc, đường đến với Chúa.
Yêu và ghét là hai động thái trái ngược nhau, nhưng luôn xảy ra song song. Lằn ranh giữa yêu và ghét quá mong manh đến nỗi khó nhận ra. Khi ghét mà người ta cứ tưởng là mình đang yêu, và khi bảo là yêu mà thực ra lại chỉ là ghét!
Không ai lại ghét chính mình, vì thế mà đôi khi người ta yêu mình thái quá. Đó là tự ái – tự yêu mình quá mức. Nhưng Chúa Giêsu dạy “ghét mình” mà “yêu tha nhân”. Vẫn theo chiều hướng “ngược đời”. Vậy Ngài có quá đáng hoặc xúi dại chúng ta không?
Có thể là “hơi quá đáng” đối với chúng ta, nhưng tuyệt đối Ngài không hề xúi dại ai cả! Chúa bảo chúng ta “ghét mình” vì Ngài biết chung ta dễ ỷ lại, thích tự tôn, ưa tự cao tự đại, khoái “nổ” banh-ta-lông, dễ “chứng”, khó thuần hoá, thế nên Ngài phải đặt “hàm thiếc” vào chúng ta để kiềm chế thói “chứng” của chúng ta. Mà cũng rất hợp lý. Vì nếu Ngài không làm vậy thì chúng ta sẽ dám chỉ coi trời bằng… nắp bia mà thôi!
Bài đọc I hôm nay là bài ca thứ ba trong các Bài ca Người Tôi Trung. Tôi trung nào cũng khổ sở “trần ai khoai củ”. Không đâu xa, lịch sử Việt Nam cho thấy có những trung thần mà phải bị hàm oan, trong Giáo hội Công giáo cũng không thiếu những con người bị khổ oan như vậy, thậm chí có những vị thánh đã từng bị vạ tuyệt thông!
Ngôn sứ Isaia kể một mạch: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50,4-5). Ngoan cường quá! Không ngại khó, không sợ khổ, không “tham sanh, uý tử” (ham sống, sợ chết). Thế mới xứng danh Người Tôi Trung. Và đó chính là hình bóng của Đức Kitô.
Ngôn sứ Isaia kể tiếp: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6). Rất tự tin, rất hiên ngang. Mọi gian truân chẳng là “cái đinh” gì ráo trọi! Tại sao? Thánh nhân cho biết động lực thúc đẩy: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên” (Is 50,7-8a). Càng lúc càng an tâm, vững dạ; càng lúc càng tin tưởng. Ngôn sứ Isaia “đặt vấn đề” rất thẳng thắn, ngỡ như thách thức: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!” (Is 50,8b).
Sống công chính thì chẳng có gì phải sợ, và cũng chẳng ngán bất kỳ ai. Mãi mãi là chính mình!
Nếu theo Chúa và hoàn toàn tín thác vào sự quan phòng của Ngài, chúng ta sẽ không ngại nói: “Lòng tôi yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi khẩn nài, Ngài lại lắng tai ngày tôi kêu cứu” (Tv 116,1-2). Và dù “dây tử thần đã bủa vây chằng chịt, lưới âm ty chụp xuống trên mình” (Tv 116,3), chúng ta cũng vẫn ngước cao đầu mà tiến bước. Nếu gặp gian truân sầu khổ mà chúng ta thành tín kêu cầu danh Chúa: “Ôi lạy Chúa, xin cứu gỡ mạng con!” (Tv 116,4), Ngài sẽ thương cứu ngay, vì Ngài luôn đồng hành với chúng ta, nhất là trên những chặng đường đầy chông gai. Bởi vì Ngài mệnh danh là Thiên Chúa tình yêu (x. 1 Ga 4,8), là Đấng nhân từ chính trực, luôn một dạ xót thương, hằng gìn giữ những ai bé mọn, những người yếu đuối, đặc biệt là luôn giữ lời hứa. Tác giả Thánh vịnh đã là nhân chứng sống động: “Chúa cứu gỡ mạng tôi khỏi chết, giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ, ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt chân. Tôi sẽ bước đi trước mặt Ngài trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 116,8-9). Thật vậy, Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không của người chết.
Thánh Giacôbê chất vấn: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?” (Gc 2,14), và phân tích: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,16). Thế thì đời sống tâm linh cũng vậy, “đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Một cách định nghĩa đức tin rất ngắn gọn mà sâu sắc và rất hay. Quả thật là thế: “Bạn có đức tin; còn tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2,18). Cứng họng. Không ai có thể đưa ra bất cứ lý do nào để tự biện hộ. Cách biện luận của Thánh Giacôbê rất thuyết phục, chắc hẳn ai cũng phải “tâm phục, khẩu phục”.
Có lần Chúa Giêsu đã từng “ví von” thế này: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn?” (Mt 7,9-10). Chỉ có nước câm miệng chứ ai nói lại được gì? Đó là yêu thương, là sống đức tin, là sống đạo (chứ không chỉ giữ đạo), là thể hiện lòng thương xót của Chúa. Đừng thương xót Chúa mà hãy thương xót nhau, cũng như Chúa Giêsu đã nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23,28).
Một dịp Đức Giêsu và các môn đệ tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” (Mc 8,27). Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8,28). Ngài lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Phêrô nhanh nhẹn đại diện trả lời: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8,29). Một câu trả lời trên cả tuyệt vời, Phêrô nhà ta là “số dzách”, là “number one”!
Thế nhưng Đức Giêsu liền nghiêm mặt và cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Rồi Ngài không nói về vinh hoa, phú quý, hoặc chức quyền, địa vị, mà Ngài bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Thánh Máccô cho biết rằng Chúa Giêsu nói rõ về điều đó, không hề úp mở.
Có lẽ Phêrô nhà ta “cụt hứng”, thế nên ông liền kéo riêng Ngài ra và bắt đầu trách Ngài. Nhưng Ngài quay lại nhìn các môn đệ và trách ông Phêrô: “Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,33). Chúa Giêsu chưa một lần trách ai nặng như đã trách vị Giáo hoàng tiên khởi. Điều đó chứng tỏ Chúa rất công bình, chính trực, hay thì khen mà dở thì chỉnh ngay, không thiên tư hoặc vị nể. Thật vậy, những người khác chỉ bị trách là thế này hay thế nọ, còn Giáo hoàng Phêrô bị nguyền rủa là Satan. Quá nặng!
Nói xong thì thôi, không để bụng, Ngài liền gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34). Thuận ngôn, nghịch nhĩ. Khó quá, Chúa ơi! Thế nhưng Ngài vẫn thật thà và thẳng thắn: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Ngài không ép. Hoàn toàn cho tự do. Tuỳ ý. Thích thì chiều!
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con chỉ là những tội nhân khốn nạn, lúc nào cũng chỉ muốn “nổi dậy” bằng đủ cách, chỉ đòi được Ngài yêu mà không muốn yêu tha nhân, không muốn bị ghét mà chúng con lại lườm nguýt hoặc xỉa xói những người lân cận. Chúng con thật hồ đồ, thật đáng tội. Xin Ngài thương xót, tha thứ, và giúp chúng con quyết “bỏ mình” như Chúa Con đã nêu gương. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Chúa Giêsu bắt đầu mạc khải giai đoạn hai về sứ mạng cứu độ của Ngài sau những lời vén lộ nước trời bằng những dụ ngôn và dấu lạ. Giờ đây, Chúa Giêsu dành riêng những lời mạc khải cho các tông đồ bằng cách nói cho các ông thấy cách thức Ngài sẽ thực hiện để cứu chuộc nhân loại, cứu chuộc con người.
Thánh Marcô trong đoạn Tin Mừng 8, 27-35 cho nhân loại hiểu rõ không úp mở là Ngài phải thực hiện sứ mạng cứu rỗi của Ngài trong sự chống đối hận thù của nhiều lớp người, đặc biệt đối với những lớp người có chức sắc trong dân Do Thái lúc đó và nói cho cùng ngay trong hàng ngũ các môn đệ mà Ngài tuyển chọn cũng hiểu lầm, cũng cản ngăn đường thập giá, đường đau khổ của Chúa. Sự chống đối và hận thù theo kiểu biệt phái đã dẫn tới cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Hận thù, tranh chấp và chống đối của lớp cai quản dân Do Thái, của Hội đồng thượng tọa, hội đồng tư tế, kỳ lão, đầu mục không phải là tiếng nói cuối cùng của Chúa Giêsu để rồi tắt lịm luôn, nhưng Chúa Giêsu sẽ sống lại sau khi bị chôn cất trong mồ ba ngày. Con đường vinh quang của Chúa Giêsu phải kinh qua thử thách chông gai, trải qua thương khó và đau khổ. Nhưng mạc khải quan trọng và cốt yếu này không dễ được mấy ai chấp nhận và hiểu thấu. Ngay đối với các tông đồ, những đệ tử thân tín nhất cũng chỉ được Chúa Giêsu thông báo khi đòi họ tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Phêrô tuyên xưng thay mặt toàn thể các môn đệ:” Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8, 29). Tuy Phêrô hay nói cách nôm na, tất cả các môn đệ đã có cái nhìn của Thần khí, nhưng trước mạc khải về sự thống khổ, điều bi đát vẫn xẩy ra vì Phêrô lại có cái nhìn xác thịt để cản ngăn đường đi của Chúa Giêsu.
Phêrô và các môn đệ quả như những người Do Thái cảm thấy chói tai, khó chịu và không thể chấp nhận nổi khi nghe Chúa Giêsu loan báo về sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu. Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở mắng thực sự, không khoan nhượng vì khi cản ngăn con đường cứu chuộc của Chúa, Phêrô đã giữ vai trò của Satan kẻ tìm cách cám dỗ và ngăn cản con đường cứu chuộc của Chúa:” Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”(Mc 8, 33). Chúa Giêsu quả thực đã mạc khải cho các môn đệ và nhân loại con đường cứu thế của Ngài để tất cả những ai tin và đi theo con đường của Chúa sẽ được ơn tha thứ, được hạnh phúc và được cứu độ.
Chúa Giêsu khi loan báo cuộc thương khó (Mc 8, 31) của Ngài để cứu độ nhân loại đã cho nhân loại thấy tính cách quyết liệt của Tin Mừng Ngài mang lại. Vì Ngài là Tin Mừng cứu độ. Sứ mạng và tính cách thực hiện sứ mạng cứu rỗi của Ngài:” Chúa phải đau khổ mới tới vinh quang”. Đây là điểm làm đảo lộn tất cả mọi trật tự: ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho một số người được ưu tuyển hay được chọn lọc mà ơn cứu rỗi thuộc về mọi người. Chúa đến trần gian không để thỏa hiệp với bất cứ một ai, nhưng Ngài cương quyết, tự do hoàn toàn để loan báo, để giới thiệu nước trời. Chúa Giêsu đòi hỏi con người luôn phải trả lời cho Ngài về ý nghĩa của cuộc sống con người. Mỗi con người tự mình mà có hay con người do Đấng tạo hóa sinh ra:” Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì?”(Mc 8, 36). Con người chỉ có thể hiểu được nội dung Tin Mừng, sứ điệp cứu rỗi của Chúa khi con người sẵn sàng bỏ hết tất cả để theo Đức Kitô:” Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chinh mình, vác thập giá mình mà theo”(Mc 8, 34). Tin Mừng của Đức Kitô đòi hỏi con người phải cương quyết, dứt khoát, không thỏa hiệp mà phải thanh thản mà bước theo Chúa Giêsu. Hiểu được như thế, con người sẽ bước đi một cách tự do và thanh thoát mà theo Đức Kitô.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết lắng nghe và thực thi lời Chúa, nhận ra Chúa trong mọi trạng huống của cuộc đời.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Theo Đức Giêsu, các môn đệ đã được Chúa huấn luyện, uốn nắn, dạy bảo. Từng lời nói, từng việc làm, cử chỉ của Chúa luôn giúp các môn đệ hiểu ra các Ngài đang ở với Đấng cao cả, tuyệt vời. Đặc biệt các phép lạ Chúa làm đã cho các môn đệ thấy Chúa là Đấng quyền năng: mọi việc trên trời dưới đất đều thuộc về Ngài và Ngài có quyền trên cả sinh mạng của con người. Chính vì thế, danh tiếng của Chúa đã vang ra nhiều nơi. Người ta đã đồn thổi về Ngài. Đã có nhiều nhân vật, nhiều danh xưng được người ta gán ghép cho Ngài. Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn biết các môn đệ gọi Ngài là ai?
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Câu hỏi này làm cho các môn đệ choáng váng. Bởi vì, đã có nhiều danh xưng được gán cho Chúa Giêsu. Người thì bảo Chúa Giêsu là Ông Gioan Tẩy Giả, người khác bảo Ngài là Ông Êlia và có người lại bảo Ngài là một ngôn sứ nào đó.Tất cả các danh xưng ấy một cách nào đó cũng chỉ nói lên được một khía cạnh nào đó về Chúa Giêsu. Chúa muốn biết các môn đệ đã hiểu, đã nghĩ về Chúa như thế nào? Các môn đệ phải có một sự dấn thân, phải có một sự quyết định mạnh mẽ và dứt khoát của đức tin.Phêrô đã thay mặt các môn đệ khác thưa với Chúa Giêsu: ” Thầy là Đấng Kitô “. Đúng, lời tuyên tín của thánh Phêrô đã làm cho Chúa mát dạ an lòng. Sống với Chúa, Ngài chỉ muốn được nghe lời ấy và hôm nay Phêrô đã đáp trả đúng ý của Chúa. Đây không phải lời tự ý Phêrô nói ra nhưng là do Thiên Chúa Cha mạc khải cho Phêrô. Thế nên, nhân cơ hội này, Chúa đã mạc khải ý định của Chúa Cha về Ngài: Ngài sẽ chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế và kinh sư loại bỏ, bị bắt và bị giết nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Phải có đức tin mạnh mẽ, sâu xa, phải có con mắt của Chúa mới hiểu được ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Đúng thế, bởi vì Phêrô vừa được Chúa khen thì lại cùng lúc bị Chúa mắng là ” Xa-Tan! lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người ” (Mc 8, 33). Chúa la mắng Phêrô vì sợ lời nói cản ngăn con đường của Chúa sẽ làm ảnh hưởng các môn đệ khác. Dù sao, lời tuyên tín của Phêrô cũng làm Chúa vui mừng vì Phêrô cũng như các môn đệ khác đã dấn thân, đã dám liều mình vì Chúa qua lời nói đó.
Sau đó, Chúa Giêsu đã nói công khai với các môn đệ và mọi người: ” Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo ” (Mc 8, 34). Từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo Chúa là những tác động quan trọng và là những điều kiện tiên quyết để theo Chúa. Điều Chúa muốn con người từ bỏ chính mình, vác thập giá của mình ma theo Chúa, không phải con người chỉ làm một lần là xong, là chấm dứt, nhưng nó đòi hỏi con người phải lập đi lập lại không ngừng trong đời sống. Người thanh niên giầu có trong Tin Mừng cũng đã được Chúa mời gọi và chỉ bảo sau khi anh ta đã làm nhiều việc được Chúa khen ngợi, nhưng khi Chúa đề nghị với anh: ” Hãy về bán hết tài sản, phân chia cho những kẻ nghèo khó, rồi đến theo Chúa “. Người thanh niên này đã không dám làm điều Chúa đề nghị. Các môn đệ, đặc biệt Nhóm Mười Hai đã dám bỏ tất cả mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Nếu chúng ta đi ngược dòng lịch sử để xem Nhóm Mười Hai là những người nào; một điều rất thú vị là chúng ta hiểu được trong Nhóm Mười Hai đã có vợ, có người đã có gia sản, có người đã thành đạt trong cuộc sống nhưng rồi khi nghe tiếng Chúa gọi nhất nhất, họ đã bỏ tất cả để theo Chúa Giêsu. Do đó, lời tuyên xưng của thánh Phêrô hôm nay thật có giá trị. Bởi vì, Phêrô đã nói đúng ý Chúa.
Chúa khẳng định rõ ràng với Phêrô và các tông đồ: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8, 35). Theo Chúa chỉ có một con đường là đường mà Chúa đã đi: con đường đau khổ, con đường hẹp, con đường thập giá để đạt tới vinh quang.
Người ta bảo Thầy là ai? Tất cả các tên gọi như người ta dự đoán về Chúa đều chỉ đúng một khía cạnh. Phêrô đã được Thiên Chúa Cha mạc khải và Ngài nói đúng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa “.
Vâng, ca nhập lễ Chúa nhật 24 thường niên viết: “Lạy Chúa, xin ban bình an cho những người trông đợi Chúa. Xin cho các ngôn sứ của Ngài được luôn luôn trung thực. Xin nghe tiếng nguyện cầu của toàn thể dân Chúa”.
Lạy Thiên Chúa,
Tình thương Ngài quí trọng biết bao.
Phàm nhân tìm bóng Ngài trú ẩn (Tv 35, 8).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mau mắn thưa với Chúa như thánh Phêrô xưa: “Thầy là Đức Kitô”.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Sau khi theo Chúa, nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến gương lành và đối diện với những việc làm cao cả, những phép lạ lớn lao của Chúa, các môn đệ của Chúa đã hiểu phần nào về Ngài, đã thán phục Ngài. Dù rằng các môn đệ không nhất loạt nói ra những cảm nghĩ của mình về Chúa, nhưng trong thâm tâm mỗi người đều có những cảm nghiệm hết sức sâu xa về Ngài. Chúa đã nghe dân chúng nói to nói nhỏ về Ngài. Người bảo rằng Chúa là Êlia, người nói Chúa là một ngôn sứ vv…Chúa muốn biết thực sự các môn đệ nghĩ về Ngài làm sao? Phêrô tuyên xưng đức tin. Điều này an ủi Chúa bởi Chúa đã khổ tâm vì nhiều môn đệ không hiểu Ngài. Phêrô hôm nay tuyên xưng đức tin: vậy là các môn đệ đã bắt đầu hiểu Ngài.
Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ, đã chữa nhiều bệnh cho nhiều người, đã trừ quỷ, đã làm cho cả người chết sống lại, đã giảng dạy nhiều điều tốt đẹp. Uy tín và danh giá của Ngài đã vang khắp nơi, người ta đã xôn xao bàn tán về Ngài. Theo dư luận quần chúng mà các môn đệ nghe được, giờ đây trước lời tra vấn của Chúa, họ đã thưa với Ngài về dư luận của dân chúng: có người cho rằng Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả, có người nói Chúa là Êlia hay là một ngôn sứ nào đó. Tất cả những dư luận ấy đánh giá Chúa rất cao, đánh giá Chúa thật tốt nhưng chưa phải là điều Chúa muốn nghe. Nhân đi qua một vùng làng xã của Xê-da-rê Phi-lip, sau khi nghe các môn đệ thuật lại suy nghĩ của quần chúng nhân dân về Chúa Giêsu. Chúa Giêsu muốn biết ý nghĩ của các môn đệ nói về Ngài để rồi sau đó Ngài sẽ loan báo về cuộc thương khó và phục sinh của Ngài. Dư luận quần chúng thì các ông đã nói với Chúa, còn riêng các ông: ” Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mc 8, 29). Ông Phêrô nhanh nhảu, thay mặt các môn đệ tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô” (Ga 8, 29b). Đức Giêsu cấm các môn đệ không được nói với ai về điều đó, không phải Ngài không chấp nhận sứ mạng Mêsia, nhưng vì dân chúng chưa thể hiểu được điều đó trước khi Người chịu chết và phục sinh.
Đức Giêsu bắt đầu vén mở cho các môn đệ thấy cuộc đời cứu thế, sứ mạng cứu chuộc của Ngài đầy dẫy đau khổ, thử thách và chông gai, Ngài sẽ bị bắt, bị đánh đập, bị kết án tử hình, Ngài chịu chết và sẽ sống lại. Thánh Phêrô không làm sao chịu nổi số phận của Thầy sẽ phải chịu, cho nên Ông đã can ngăn con đường cứu thế của Chúa, nên Chúa đã mắng nhiếc ông thậm tệ. Từ Satan Chúa gán cho Phêrô nói lên sự bực bội khó chịu của Ngài bởi vì chỉ có ma quỷ mới cản ngăn con đường cứu thế của Chúa.Rồi Chúa vạch ra những tiêu chuẩn để theo Ngài, những điều kiện này không chỉ dành cho các môn đệ mà cho cả đám đông, cho cả mọi người muốn đi theo Ngài. Điều kiện ấy là hãy từ bỏ mình, vác thập giá, tức là liều mạng sống vì Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài.
Người môn đệ của Chúa làm tốt công việc của chính mình, lắng nghe Lời của Chúa mà thôi vẫn chưa đủ nhưng còn phải thực thi Lời Chúa và làm ích cho người khác, cho tha nhân theo tiêu chuẩn của Tin Mừng: phục vụ Chúa tôn kính Chúa và phục vụ tha nhân, dám hy sinh, dám chia sẻ, cảm thông, dám giúp đỡ người khác về vật chất cũng như tinh thần. Theo Chúa, ở với Chúa quả thực là vất vả, khó nhọc nhưng đối với Chúa: “Thập giá là ơn cứu độ, là vinh quang”.
Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Do đó, tin không vẫn chưa đủ, cầu nguyện cho nhau là một việc tốt, cần thiết nhưng vẫn chưa đủ. Chúa dạy chúng ta là “Hãy yêu như Chúa” “Hãy làm như Chúa”. Nên, Chúa muốn chúng ta phải biết cảm thông, phải biết chia sẻ và nâng đỡ nhau.
Đức Giêsu đã hy sinh cả mạng sống của Người để cứu độ nhân loại, Người đã thực hiện công việc cứu thế của Người bằng tình yêu vô vị lợi, tình yêu hiến thân: “Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Thập giá là ý muốn của Thiên Chúa dành cho Chúa Giêsu và cũng là ý muốn Thiên Chúa dành cho chúng ta: đây là con đường dẫn chúng ta tới sự sống vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn tin tưởng bước theo Chúa trên đường tử nạn để chúng con cũng được phục sinh với Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb)
Xêdarê Philípphê được xem là miền đất dân ngoại- nơi có một trung tâm rộng lớn thờ thần Baan. Tương truyền đây là nơi “chôn rau cắt rốn” của thần Hylạp có tên là Panias – thần thiên nhiên. Vào năm 2 trước CN, chính quận vương Hêrôđê Philípphê đã xây dựng nơi đây thành địa danh linh thiêng đối với cư dân xứ này. Trên thành này, ông đã cho xây và đặt đầu tượng Xêda- hoàng đế Rôma được ông xem là vị thần, để tôn thờ. Chính tại “linh địa” dân ngoại này, một sự kiện độc nhất vô nhị xuất hiện. Đó là sự kiện một người con vô danh của dân làng Nazarét được tuyên xưng là Đấng Kytô. Sự kiện đó thế nào? Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cùng nhau suy chiêm.
Trước khi thăm dò các môn đệ, Chúa Giêsu cũng đã phần nào biết được dư luận bàn tán về nhân thân của Người như thế nào. Thật vậy, dư luận dân chúng xem Chúa Giêsu là một Ngôn sứ. Còn vua Hêrôđê Antipa thì khẳng định Chúa Giêsu chính là Gioan Tẩy giả – người mà ông đã ra lệnh chém đầu- đã sống lại (x. Mc 6, 16). Dư luận thì như thế, còn các môn đệ thì sao? Chúng ta thấy rõ ràng các môn đệ đã không bị cuốn hút vào thông tin từ phía dư luận. Hay nói khác hơn, lần này các ông đã “khôn hơn” chứ không còn “ngu muội” nữa. Các ông đã có cách đánh giá, cách nhìn nhận sáng suốt và đúng đắn về người thầy của mình. Phêrô đã đưa ra một nhận định đầy tính quyết đoán: “Thầy là Đấng Kytô”, nghĩa là Đấng Mêsia sứ giả của Giavê Thiên Chúa.
Khi tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kytô, có lẽ Phêrô cũng như các môn đệ chưa thật sự hiểu hết ý nghĩa của danh hiệu này. Lý do là vì, chúng ta thấy ngay sau khi Phêrô tuyên xưng, thì liền sau đó, chính ông lại là người “cản mũi kỳ đà” khi nghe Chúa Giêsu nói rằng Người sẽ phải chịu khổ hình. Như thế, đối với Phêrô, Đấng Kytô không thể như thế được. Bởi theo ông cũng như đa số dân Dothái lúc bấy giờ, Đấng Mêsia sẽ là Đấng được Giavê Thiên Chúa gìn giữ bảo vệ và Người sẽ được miễn trừ đau khổ và chết chóc. Không những thế, Phêrô và các môn đệ có thể đã hiểu danh hiệu này theo kiểu hoàn toàn thế gian. Nghĩa là danh hiệu đó gắn liền với màu sắc chính trị. Các ông mong muốn Chúa Giêsu sẽ là người có nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành lại nền độc lập tự chủ cho quốc gia.
Sứ mệnh của Chúa Giêsu sẽ không bao giờ phù hợp với những suy nghĩ duy chính trị và tầm thường như Phêrô và dân Dothái đã quan niệm. Sứ mệnh của Người là chu toàn thánh ý của Chúa Cha, cứu độ nhân loại bằng hiến tế tình yêu thập giá. Điều này hoàn toàn mới lạ và khó hiểu với hầu hết dân chúng thời đó chứ không hẳn chỉ mình Phêrô. Chính vì thế, phản ứng của Phêrô, xét cho cùng cũng là điều dễ hiểu. Quả là trứng không khôn hơn vịt. Để rồi từ đây, khi lời tuyên bố cách chắc nịch của Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ và dân chúng rằng “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”, các ông mới dần dần hiểu rõ danh hiệu đích thực của Đấng Kytô là gì để rồi quyết dấn thân đến cùng.
Phần chúng ta – những Kytô hữu của thời đại hôm nay, Chúa Giêsu là ai trong tâm thức tín ngưỡng của mỗi người? Rất có thể chúng ta đang vẽ một Chúa Kytô khác hẳn hoàn toàn với một Chúa Kytô là Thiên Chúa khiêm nhu và hiền hậu. Một Chúa Kytô hoàn toàn do con người tạo ra. Một Chúa Kytô quyền lực. Một Chúa Kytô đầy quyền thống trị. Một Chúa Kytô được vẽ lên do trí tưởng tượng của con người để phục vụ cho những lợi ích tầm thường của họ. Thế nên, “Chúa Giêsu là ai?” vẫn mãi là câu hỏi cần mỗi người Kytô chúng ta đi tìm lời giải đáp.
Đối với niềm tin Kytô giáo, Chúa Giêsu luôn là một hình ảnh duy nhất không đổi thay. Đó chính là hình ảnh “Chúa Kytô hôm qua, hôm nay và mãi mãi” – là hình ảnh Thiên Chúa cứu độ duy nhất của nhân loại. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta thấm nhuần chân lý này, ngõ hầu trong bất cứ nghịch cảnh nào của cuộc sống, chúng ta luôn tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Giêsu như Phêrô đã từng tuyên xưng danh thánh Chúa giữa miền đất dân ngoại khi xưa.
(Suy niệm của Sr Mai An Linh OP)
Người Tôi tớ Giavê bản thân vô tội nhưng phải chịu nhiều đau khổ, và người đương thời với Người cho đó là hình phạt của Thiên Chúa, nhưng thực chất Người chịu đau khổ vì tội lòai người (Is.50,5-9a). Đau khổ tột cùng là cái chết trên Thập Giá để cứu độ nhân lọai (Mc.8,27-35) mà Người đã thấy trước và loan báo cho các môn đệ của Người. Dù phải đau khổ nhưng Người vẫn một lòng tin tưởng Thiên Chúa (Đáp ca TV.114). Đó là tư tưởng xuyên suốt của phụng vụ Lời Chúa hôm nay.
Bài Tin Mừng của Thánh Marcô cho thấy, Chúa Giêsu không trực tiếp nói cho các môn đệ biết căn tính của mình, Người dẫn họ trên con đường để họ tự khám phá. Người đời coi Ngài chỉ là một tiên tri như Gioan Baotixita, Elia, hay một tiên tri nào khác, là tiên tri thì rao giảng một học thuyết, ai muốn theo thì theo, không thì thôi. Còn các môn đệ thì sao? – Phêrô đại diện tuyên xưng ” Thầy là Đức Kitô”, một Mêsia đau khổ – chúng con sẽ theo Thầy dù phải vác Thánh Giá và phải bỏ mình. Phêrô nói thế hoàn toàn do mạc khải chứ chính ông cũng không hiểu hết ý nghĩa của câu nói.
Con đừơng của Chúa Giêsu là chọn kiếp người, là vâng phục ý Thiên Chúa Cha và biết rõ đâu là con đường Thiên Chúa Cha muốn mình đi, và đâu là con đường thế gian đang chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt những toan tính của lòai người. Người nhìn thấy và thông báo cho các môn đệ về định mệnh đang chờ đợi mình, Người biết mình phải đương đầu với các nhà lãnh đạo Do Thái, và bóng dáng cái chết đang rình rập, nhưng Người không thối lui mà tiếp tục trung tín với Cha và phục vụ lòai người. Đó là sự lựa chọn để trung tín với tình yêu, nên sau lời tuyên tín của Phêrô Chúa Giêsu liền thông báo về cái chết.
Lời tiên báo về cuộc khổ nạn làm cho Phêrô bỡ ngỡ không sao hiểu được, vì ông còn mải mê với một Đức Kitô vinh quang, nên ông đã can ngăn Chúa bằng một tình yêu chân thành, nhưng Đức Kitô cảm nhận đó là một cám dỗ nên đã quở Phêrô ” Hãy đi sau Ta”, nghĩa là hãy ở đúng vị trí của người môn đệ là đi theo chứ không phải là người dẫn đường cho Người, muốn đi trước Người. Lời quở mắng cũng là lời cảnh tỉnh để các môn đệ nhận định lại việc đi theo Chúa Giêsu. Người nói ” Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo tôi”, muốn làm môn đệ Người thì cũng phải đi theo con đường Người đi, đó là con đường thập giá.
Đi theo Chúa Giêsu đòi buộc phải từ bỏ, từ bỏ tận căn, là từ bỏ chính mình, từ bỏ này là gốc rễ của những từ bỏ khác. Hôm nay Chúa Giêsu cũng hỏi mỗi người chúng ta và đòi chúng ta phải trả lời, câu trả lời bắt nguồn từ kinh nghiệm sống với Người. Nếu chúng ta trả lời như Phêrô ” Thầy là Đức Kitô” thì chúng ta hãy ca đảm bỏ mình và vác thập giá đi theo Thầy. Đây là lời mời gọi hoàn toàn tự do, chúng ta có toàn quyền lực chọn, Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Từ bỏ mình là từ bỏ mọi sự kể cả mạng sống, mà từ bỏ mình không phải chỉ một lần là đủ mà là thái độ sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
Từ bỏ chính mình không phải là vong thân mà trở nên giống Đức Kitô ” đồng hình đồng dạng” với Chúa Giêsu, nên giống Đức Kitô là tìm lại hình ảnh ban đầu. Từ bỏ để theo Chúa chúng ta không mất gì mà còn được tất cả, bỏ cái mau qua lấy cái vĩnh hằng, bỏ cái tương đối lấy cái tuyệt đối, bỏ cái chết để lấy cái sống. Thế nhưng, sống tận căn thân phận từ bỏ là đi theo con đường của Thầy, con đường độc đạo, con đường nhiều bấp bênh và tăm tồi, chúng ta có dám sống không? Cuộc sống của chúng ta sẽ vén mở căn tính của Đức Kitô, dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Người, để chúng ta có thể nói như Phaolô ” anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước Chúa Giêsu”.
Lạy Chúa, Chúa đã chấp nhận cuộc sống đau thương và cái chết nhục nhã để đem lại sự sống đời đời cho chúng con. Xin Chúa luôn nhắc nhớ chúng con vấn nạn xưa ” còn con, con bảo Thầy là ai” để chúng con tăng thêm lòng mến và niềm tin vững mạnh vào Chúa. Nhờ đó, chúng con biết kiên trì theo Người trên con đường khước từ bản thân, sống nhẫn nhục, hiền hậu, xả thân theo gương Chúa.
(Suy niệm của Fr. Jude Siciliano, OP – Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP)
I-sa-ia viết 4 ca khúc về người tôi tớ trong phần II từ chương 40-55 nói về “Sách an ủi Israel”. Đây là thiên trường ca nói lên việc một người đang cổ gắng trung thành thực hiện nhiệm vụ Đức Chúa đã giao với biết bao đau khổ.
Đức tin của chúng ta bị thử thách trong đau khổ do sự liên kết với Thiên Chúa. Vậy “Nếu Thiên Chúa thương yêu tôi sao lại để tôi phải đau khổ?”. Trong những trường hợp như muôn vàn khổ đau bất ngờ đổ ập đến do bệnh hoạn, mà nếu người ấy chịu được thì đó là bằng chứng của một tôi tớ Chúa. Khi đau khổ do nhiệm vụ mang tới; nếu muốn tránh né; chỉ cần từ chối nhiệm vụ là xong. Thế nhưng người tôi tớ muốn trung thành; do vì “Đức Chúa đã mở tai cho tôi được nghe”; nên tôi vẫn chấp nhận hứng chịu đau khổ vì tôi tin rằng Đức Chúa sẽ không quên tôi là người đang trung kiên thực hiện nhiệm vụ Ngài.
Làm đúng chưa chắc chúng ta sẽ thành công. Vì ở đây không nói đến sự thành công, nhưng nói về cách thể hiện lòng trung thành. Nhưng làm sao trung thành được khi phải trả giá bằng đau khổ? Sự đau khổ là điều khó tránh khỏi và không lối thoát? Và người tôi tớ này đưa chúng ta đến một ý tưởng khôn ngoan là “Đức Chúa sẽ hổ trợ tôi khiến tôi không phải hổ thẹn”.
Người tôi tớ này là ai, nói về sự đau khổ của nhiệm vụ trong thời xa xưa của nhiều thế kỷ trước Chúa Kytô? Phải chăng là một người đang cố gắng sống theo đường lối của Thiên Chúa giữa những đố kỵ của thế gian. Hay đó là dân Israel, đang bị lưu đày xa quê hương trong một xã hội khác văn hóa và tín ngưỡng. Hay có thể là một ngôn sứ như I-sai-a chẳng hạn; đang bị dân phản đối vì nói lời Chúa cho họ nghe.
Những câu hỏi trên có thể đặt ra cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Trong cộng đoàn đang thờ phượng hôm nay, cũng có một số người là những tôi tớ Chúa đang chịu đau khổ vì đang cố gắng sống đức tin trong một xã hội đầy dị biệt, chống đối khinh miệt. Là một Kytô hữu chúng ta hãy học nơi Đức Giêsu Kytô là tạo cho chúng ta một “vẻ mặt lạnh” đối với thế gian và luôn hướng về Thánh Đô để rao giảng tin mừng trong thân phận người được Thánh Linh xức dầu luôn trung thành với sứ vụ cho dù có bị thế gian “đánh vặt râu..”nói theo cách I-sai-a (Is50,6).
Trong phúc âm hôm nay, thánh Mác-cô đưa ra trường hợp về danh tính của người tôi tớ Thiên Chúa. Ngài đặt câu hỏi với các môn đệ là người ta và cả các ông nữa nói thầy là ai. Câu hỏi này đánh dấu bước đầu huấn luyện của Ngài cho các môn đồ, tuy ngắn gọn nhưng thật đầy đủ trong việc làm và nếp nghỉ của các môn đồ, trên đường đến Thánh Đô và những miền xa xôi khác. Chúa Giêsu hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Có thể câu trả lời sẽ làm sáng tỏ sứ vụ của Chúa Giêsu. Ngài không ám chỉ Ngài là người tôi tớ đang bị đau khổ như I-sai-a; nhưng, lời Ngài nói về những đau khổ sắp đến Ngài sẽ nhận có liên quan đến những tôi tớ đau khổ của I-sai-a; và đó cũng là hệ quả mà những Kytô hữu chúng ta; những tôi tớ của Chúa; sẽ nhận được khi đang cố gắng thực thi sứ vụ ở trần gian.
Trên đường đến Giê-ru-sa-lem, Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu rằng các ông sẽ phải gặp những gian truân đau khổ và các ông có còn quyết tâm làm môn đệ của Ngài không. Vì thế Chúa Giêsu đặt câu hỏi đó cho các ông và qua đó Ngài cũng hỏi chúng ta nữa. Câu trả lời của chúng ta sẽ chứng minh sự tuyên xưng đức tin của mình về Ngài ra sao, và chúng ta sẽ đáp lại lời mời gọi của Ngài trong cuộc sống hàng ngày nơi trần gian thế nào?
Các môn đệ đã trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu nhưng không sâu sắc. Ngài không phải chỉ là một ngôn sứ hay một người thánh thiện nhất trong lịch sử trần gian. Đúng Ngài là một ngôn sứ lớn, là đấng Mê-si-a, là Đức Kytô. Nhưng Ngài không đem đến quyền lực huy hoàng và thống trị trần gian để trả về cho dân Israel. Trái lại, Ngài nói đến sự chống đối của các lãnh đạo tôn giáo. Ngài sẽ bị ”các kỳ mục, thượng tế kinh sư từ chối” Vậy Ngài là ai và Ngài lãnh đạo thế nào mà khác lạ vậy?.
Cũng như “Người tôi tớ đau khổ” của I-sai-a Chúa Giêsu sẽ chịu nhiều đau khổ về lẻ công chính. Tôi quen một người, vì bất đồng ý kiến với người chủ về việc thường lừa gạt khách hàng, nên bị cắt lương và cho tạm thôi việc có thời gian. Tôi cũng biết một phụ nữ có trình độ chuyên môn vững chắc ở ngoài đời lại làm việc trong hội đồng giáo xứ, vì bà nói “Tôi muốn thực hiện cuộc sống cho có ý nghĩa”. Tôi cũng biết một thợ sữa xe hơi khi anh sữa xe cho ai it hơn thời gian dự kiến thì anh tính tiền ít lại so với ước tính ban đầu. Tôi quen với một nữ sinh viên khi được biết các bạn mình nhận được một đáp án bài thi bị đánh cắp trước đó; cô đã không hề nhìn vào đó để làm bài cho mình mặc dầu điểm các môn thi của cô ta không được tốt. Khi nghe về những người này; những người đã bị thiệt hại khi làm những điều đúng; có người cho rằng họ ngu. Không phải dễ gì ai cũng làm được việc đó. Những tôi tớ đau khổ của I-sai-a nói “Đức Chúa đã mở tai cho tôi được nghe, nên tôi không chống đối hay quay lưng lại với Ngài”. Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài muốn cho các môn đệ nhìn thấy mọi việc trong cái nhìn mới qua đó các môn đệ sẽ hiểu được Ngài qua việc chấp nhận hay từ chối đau khổ là một yếu tố không thể thiếu được trong sứ vụ của các ông.
Thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay nói rất rõ là nếu tai chúng ta được mở rồi, và đã một lòng tin vào phúc âm thì chỉ có một hành động duy nhất là “Hãy thực hiện những điều chúng ta đã nghe”. Cuộc sống và lời dạy của Chúa Giêsu đã mở tai chúng ta, Vì vậy hãy nên giống Ngài bằng cách khi nghe ở đâu cần dến sự giúp đỡ, chúng ta hãy đáp lời ngay vì theo thánh Gia-cô-bê: ”Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17).
Vừa qua tôi có đi đo thị lực. Trong khi đo, bác sĩ thường thay đổi những tròng kính như thế nào để tôi có thể đọc rõ được những hàng chữ chiếu trên tường. Chúa Giêsu cũng như bác sĩ mắt vậy, Ngài hỏi các môn đệ nhiều câu hỏi để các ông thấy rõ hơn về Ngài. Khi họ trả lời là mắt họ đã mở ra. Và cũng để cải thiện thêm tầm nhìn của tâm hồn họ, Ngài đã dùng các lời giảng dạy, các phép lạ chữa lành bệnh, qua cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Ngài đã làm các ông thấy rõ hơn để có thể nói rằng “Bây giờ tôi thấy rất rõ rồi”. Vì là con người, nên trong tương lai các ông lại không trông thấy rõ ràng nữa và đôi khi bị mờ đi vì những tia sáng khác lạ chiếu vào.
Cũng như các môn đệ, chúng ta là những cá nhân sinh hoạt trong cộng đoàn giáo hội để cùng nhau thờ phượng Chúa. Theo lịch sử giáo hội, chúng ta thấy đã nhiều lần giáo hội dựa vào quyền thế trần gian; đàn áp một số cá nhân có nhiều thắc mắc vấn nạn, chấp nhận chế độ nô lệ, lập nên quân đội tấn công bắn giết những người thệ phản, từ chối những nhân tài trong giới nữ. v.v… Trong suốt thời quá khứ và một số lần trong thời hiện tại, giáo hội đã không trông thấy rõ được. Thế nên giáo hội cần những người có đôi mắt sáng suốt hơn như các thánh, các ngôn sứ để kích thích giáo hội trông thấy rõ hơn. Đời sống của họ chính là một câu hỏi cho chúng ta: ”Bạn nghĩ Chúa Giêsu là ai?”. Các thánh đã giúp chúng ta sống và tuyên xưng đức tin qua những hành động và lời nói. Và như thánh Gia-cô-bê đã nhắc: Đức tin không có việc làm là đức tin chết.
Để trả lời câu hỏi, “Còn anh em, anh em nghỉ Thầy là ai?”. Chỉ có một cách trả lời là làm cho cộng đoàn chúng ta trở nên như các môn đệ đầu tiên đến với Chúa Giêsu để xem Ngài là ai. Những điều các ông đã thấy, được trình bày trong các sách phúc âm, trong các thư gởi cho tín hữu các cộng đoàn tiên khởi. Hôm nay chúng ta cùng nhau thờ phượng Chúa cũng là một cách để nghe những điều mà các môn đệ các môn đệ đã thấy rõ Chúa Giêsu là ai. Đức tin của các ông giúp cho chúng ta tin thờ Thiên Chúa hôm nay, qua bí tích thánh thể chúng ta nhận dược mình máu thánh Chúa Giêsu sẽ giúp chúng ta thấy tỏ tường hơn.
Mở đầu Kỷ Nguyên Thứ Ba, vào đúng Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay, 12 tháng 03 năm 2000, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II xin Thiên Chúa và nhân loại tha thứ những tội lỗi Giáo hội đã làm cho thế giới suốt hai kỷ nguyên qua. Người nhìn nhận đôi khi Giáo hội đã phản bội Tin Mừng khi dùng bạo lực để phục vụ chân lý, đã phạm tội “chống lại nhân phẩm phụ nữ và chia rẽ nhân loại,” và không luôn luôn liên đới với những người nghèo và người bị áp bức.[1]
Hình ảnh ÐGH sám hối vì tội lỗi Giáo hội đã làm cho cả thế giới và Giáo hội sững sờ đến kinh ngạc. Trong suốt lịch sử và truyền thống Giáo hội, chưa hề thấy một vị Giáo Hoàng nào làm được một cử chỉ như thế. Dám hỏi hàng Giáo Phẩm Việt nam có ai dám làm điều đó chưa, trong khi suốt hơn bốn trăm năm đồng hành với dân tộc, chắc chắn Giaó Hội Việt nam không thể tránh được những lầm lỗi? Biết bao những ngộ nhận và ác cảm với Giáo hội vẫn chưa được khai thông. Ngay sau cuộc sám hối của ÐGH Gioan Phaolô II, người ta đã chờ đợi. Nhưng tới nay, vẫn không có một cử chỉ đẹp nào từ phía Giáo hội Việt nam.
Trong khi đó, ngày 30 tháng 9 năm 1997, nhớ lại thái độ thụ động của Giáo hội Pháp hồi thế chiến thứ hai và trách nhiệm đối với người Do thái, các Giám mục Pháp đã công bố bản “Tuyên Ngôn Sám Hối” với những lời lẽ chân thành và đau đớn như sau: “Chúng tôi thú nhận tội lỗi này. Chúng tôi xin Thiên Chúa thứ tha, và xin dân tộc Do thái lắng nghe những lời hối hận của chúng tôi.”[2] Tại sao ÐGH Gioan Phaolô II và Hàng Giám Mục Pháp đã làm được cử chỉ vô cùng ngoạn mục đó? Vì các ngài đã theo sát gót Ðấng đã từng quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Hành động thống hối đó chứng tỏ sự hiểu biết và yêu mến Chúa nơi các ngài cao tới mức nào. Nếu không hiểu biết, không thể theo Chúa.
Ngày xưa, các tông đồ hăm hở bước theo Chúa. Nhưng đến một lúc muốn củng cố bước chân các ngài, Chúa đã không ngần ngại tra vấn các ông về hình ảnh và căn tính đích thực của Chúa. Phải chăng cách đặt vấn đề chứng tỏ Chúa sống lệ thuộc dư luận? Thực tế, cách đặt vấn đề đó cho ta có cảm tưởng Chúa muốn phân biệt dư luận “bên ngoài” của quần chúng và niềm tin từ “bên trong” của các môn đệ.
Sau khi Chúa tra vấn, Phêrô trả lời ngay: “Thày là Ðấng Kitô.”[3] Nhưng ông nói không đúng lúc. Phải đợi đến lúc xuất hiện trước Thượng Hội Ðồng, khi nắm chắc cái chết, Chúa mới hiên ngang trả lời cho vị Thượng Tế Người là Ðức Kitô, Con Ðấng Ðáng Chúc Tụng.[4] Phêrô không sai lầm. Nhưng Chúa đọc được những gì đang diễn ra trong đáy lòng ông. Bởi vậy, vừa nói xong, không những ông không được khen thưởng, mà còn bị Chúa “sửa lưng” và “cấm ngặt.”
Cuộc xung đột tư tưởng giữa Chúa và Phêrô bắt đầu. Phêrô quá trần tục đến nỗi không hiểu nổi ý định của Thiên Chúa. Bằng chứng, ông đã ngăn cản khi Thày tự xưng là Con Người với một viễn ảnh vô cùng đen tối. Ngược với hình ảnh “Ðấng Kitô” trong đầu Phêrô và truyền thống Do thái, “Con Người” mới là hình ảnh trung thực nhất diễn tả căn tính và sứ mạng của Chúa. Nếu là “Con Người,” chắc chắn Người sẽ có một số phận vô cùng bi đát, chứ không oai hùng như giấc mơ Thiên Sai (Nhà Vua, Ngôn Sứ hay Tư Tế, Người Ðược Xức Dầu) có ảnh hưởng lớn tới tương lai Tuyển dân.[5] Ông Phêrô cố ngăn cản Thày thực hiện sứ mệnh Con Người. Ðến đây, Người có hành động quyết liệt và giáng cho ông một đòn chí tử. Tại sao tôn xưng Chúa là Ðấng Kitô và ngăn cản Thày khỏi rơi vào bể khổ lại là một tội lỗi giống Satan? Không hiểu tại sao Thày lại có lời lẽ quá cứng rắn như thế?
Từ tư tưởng đến hành động, hai Thày trò đều không gặp nhau. Thày luôn theo sát nút ý muốn Thiên Chúa. Không ai hiểu Thiên Chúa bằng Thày. Thiên Chúa muốn “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.”[6] Bởi đấy, sau khi Người bị lên án, cây Thập giá nặng nề đã đè bẹp Người xuống tận bùn đen. Ðó là cách phục vụ lớn lao nhất và khó khăn nhất. Con Thiên Chúa hủy mình ra không. Ðến lúc gần bị hành hình, Người vẫn còn lớn tiếng kêu gọi tôi: “Hãy theo Thày!”[7]
Có ai dám bước theo Thày tới mức đó không? Thày đã hoàn toàn từ bỏ và thắng vượt chính mình. Ðó là bài học đắt giá nhất! Ðó cũng là tặng phẩm cao quý nhất, tặng phẩm vượt trên mọi ân sủng và ân huệ Chúa Kitô ban cho người Chúa yêu là tôi.[8] Ân huệ lớn lao đó bắt đầu từ một niềm tin sâu xa mà tôi phải đáp trả cho Chúa Giêsu tận đáy lòng. Ðối với tôi, thực sự Chúa Giêsu là ai? Ðức tin cá nhân tôi đồng thời cũng là lời tuyên xưng đức tin của Giáo hội. Khi tra vấn tôi, Chúa Giêsu muốn tôi xác minh xem điều tôi tin có phù hợp với điều Giáo hội dạy khi trung thành loan báo Tin mừng không.
Tôi có thể bị cám dỗ sống đức tin như trong sách vở. Chính ông Phêrô đã trải qua cơn cám dỗ này. Ông đã trả lời đúng bài bản, nhưng lại không hiểu gì về sứ điệp của Chúa. Bởi thế, ông mới bị la rầy là Satan. Kinh Thánh cho biết Satan tưởng mình thông minh bằng Thiên Chúa. Nó tìm mọi cách thuyết phục con người sống độc lập với Ðấng Tạo Hóa và tự quyết về bản chất thiện ác. Giữa xã hội tục hóa hôm nay, tôi cũng đang bị lôi cuốn sống độc lập với Thiên Chúa.
Dù thế, hôm nay Chúa Giêsu vẫn kêu gọi tôi từ bỏ chính mình. Có bỏ mình mới có thể bước theo Thày.[9] Mặc dù không bị cá nhân chủ nghĩa ảnh hưởng sâu xa, nhưng lại chìm ngập trong nền văn hóa và lối sống đầy tính ích kỷ, không biết tôi đã bước theo Thày cách nào và tới đâu rồi? Chỉ một mình Thiên Chúa mới biết con đường nào dẫn tôi đến thành công, dù không phải bao giờ cũng thành công như tôi muốn.
Bao lâu chưa hiểu biết rõ về Chúa Giêsu, tôi chưa thể làm chứng cho Người và lôi cuốn mọi người theo Chúa. Một cuộc sống chỉ lo hưởng thụ là bằng chứng tố cáo tôi chưa hiểu gì về Chúa Giêsu. Khi đã chiếm được quyền bính và của cải, tôi cố sức giữ chặt và khai thác, mặc bao người đang đau khổ chung quanh. Tôi tự mãn về công trạng và hưởng thụ những gì đã chiếm hữu và nhất định không chia sẻ cho ai. Miệng tôi vẫn ca tụng và rao giảng Ðức Kitô, nhưng lòng tôi vẫn nghĩ như Phêrô! Nếp sống hưởng thụ và tự mãn tố cáo tôi chưa hiểu Ðức Kitô là Con Người Ðau Khổ. Những than thân trách phận suốt bao năm tháng là bằng chứng tôi chưa đặt tất cả niềm tin và hy vọng vào chiến thắng cuối cùng Ðức Giêsu Phục sinh sẽ dành cho tôi. Bao năm tháng đã trôi qua. Thật là uổng phí!!!
Nhưng không phải chỉ có tôi. “Tiếc thay, phải thú nhận rằng lỗi lầm của Phêrô vẫn được lập lại trong lịch sử. Cũng thế, vào một lúc nào đó một số người trong Giáo hội, kể cả những Ðấng Kế Vị Thánh Phêrô, đã hành xử như thể Nước Thiên Chúa thuộc về thế gian này và quyết tâm chiến thắng kẻ thù (nếu cần cũng dùng vũ lực), thay vì chịu đau khổ và tử đạo.”[10]
Nhìn vào Giáo Hội Việt nam hôm nay, chúng ta thấy gì? Có lẽ GHVN đang sống như một Nước Thiên Chúa hoàn hảo trên mặt đất. Không bao giờ sai lầm. Chẳng cần ai góp ý hay sửa sai. Như thế, vô tình đã mắc vào cạm bẫy thế gian. Dựa trên quyền bính để khẳng quyết giá trị và chỗ đứng Giáo hội. Nếu thế làm sao có thể lôi kéo mọi người ra khỏi cơn lốc thời đại? Thế gian đang dùng mọi phương tiện truyền thông, phim ảnh, tiểu thuyết, phong tục và những thông tin kỳ lạ để trình bày một Ðức Giêsu theo quan niệm Phêrô. Phim truyện “Giải Mã Da Vinci Code” chỉ là ấn bản mới nhất trong một chuỗi dài những nỗ lực của Satan hôm nay.[11]
Hơn lúc nào, trước khi dấn thân phục vụ để rao giảng Chúa Kitô[12], GHVN hãy trả lời câu hỏi Chúa đã đặt ra cho Phêrô và các tông đồ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”[13] Từ chỗ xác tín đúng đắn mới phục vụ đắc lực và rao giảng hiệu quả được. Nếu không, ngay cả sự hiện hữu của chúng ta cũng vô nghĩa, nói chi đến việc phục vụ. Ðúng như thánh Hillary Poitiers nói khi mới gia nhập Ðạo: “Trước khi biết Chúa, con không hiện hữu.”
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa là ai. Giữa những thử thách hôm nay, xin cho con luôn đứng vững và tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng của Chúa Phục sinh. Nhờ đó, con sẽ được thánh hóa, dấn thân làm chứng, xây dựng một xã hội tự do, công bình và hòa bình. Lạy Chúa, xin hãy đến! Amen.
——————————————————–
[1] x. www.findarticles.com ngày 15/09/2006.
[2] www.sacredheart.edu
[3] Mc 8:29.
[4] x. Mc 11:61 tt.
[5] x. Harper’s Bible Dictionary, ed Paul J. Achtemeier & Associates, Harper & Row, Publishers, San Francisco, 1985.
[6] Mt 20:28; Mc 10:45.
[7] Ga 21:19; Lc. 5:27; Mc 2:14; Mt 9:9.
[8] Theo Thánh Phanxicô Assisi.
[9] x. Mc 8:34
[10] Linh mục Cantalamessa: Zenit 15.09.2006.
[11] x. Linh mục Cantalamessa: Zenit 15.09.2006
[12] Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam: Thư Mục Vụ Năm 2006: Sống Ðạo Hôm Nay.
[13] Mc 8:29.
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
Ý CHÍNH:
Sau khi nghe biết dư luận quần chúng, Đức Giê-su đòi các môn đệ phải xác định đức tin vào Người: “Anh em bảo Thầy là ai?” Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô”. Từ đây Đức Giê-su bắt đầu cho các ông biết con đường Người sắp trải qua là: “qua đau khổ vào vinh quang”. Người trách Phê-rô khi ông cản Người theo con đường này. Người đòi ai muốn làm môn đệ của Người phải bỏ mình vác thập giá mình mà đi theo Người.
CHÚ THÍCH:
– C 27-28: + “Người ta nói Thầy là ai?”: Qua các môn đệ, Đức Giê-su muốn biết người ta nghĩ gì về Người. + Là Gio-an Tẩy Giả tái sinh: Đây là ý tưởng của đảng Hê-rô-đê (x. Mt 14,2). + Là Ê-li-a: Ngôn sứ Ma-la-ki-a đã tuyên sấm về sứ mệnh của ngôn sứ Ê-li-a là sẽ đi trước dọn đường cho Đấng Thiên Sai: “Này Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng” (Ml 3,23). + Là một trong các vị ngôn sứ: Dân chúng tin Đức Giê-su ít ra là Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đến giáo huấn dân Người.
– C 29-30: + Người lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Đức Giê-su đặt câu hỏi này với các môn đệ để xem nhận thức của các ông về Người. + Ông Phê-rô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô”: Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Kitô hay Đấng Cứu Thế. Đây là lời tuyên xưng chính xác về thân thế Đức Giê-su. Do lời tuyên xưng này mà Phê-rô đã được khen ngợi là có phúc (x. Mt 16,16-17). Chính Đức Giê-su cũng thừa nhận Người là Đấng Kitô trước tòa án tôn giáo (x Mc 14,61-62). Lời tuyên xưng của Phê-rô tuy đúng, nhưng chưa rõ ràng, vì người ta có thể hiểu sai sứ mệnh cứu thế của Người và gán cho Người sứ mệnh cứu thế trần tục, nhằm giải phóng dân Do thái bằng bạo lực, thoát khỏi ách thống trị của Đế quốc Rô-ma. + Đức Giê-su liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người: Đức Giê-su cấm nói ra không phải để phủ nhận lời tuyên tín của Phê-rô, nhưng vì muốn tránh sự cuồng nhiệt của dân Do Thái muốn sử dụng bạo lực để lật đổ nhà cầm quyền Rô-ma. Người cấm các môn đệ nói ra Người là Đấng Kitô vì cần có thêm thời gian rao giảng về sứ mệnh cứu thế thiêng liêng tinh thần phù hợp thánh ý Thiên Chúa. Cuối cùng, Người cấm vì “Giờ của Người chưa đến”, vì cần phải nhờ Thần Khí tác động, người ta mới có thể chấp nhận được chân lý này.
– C 31-33: + Người bắt đầu dạy các ông biết…: Đây là lúc Đức Giê-su loan báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh mà Người sắp trải qua. + Con Người: Khi tự nhận là Con Người, Đức Giê-su vừa khiêm tốn xưng mình là: “kẻ hèn mọn này”, lại vừa theo ý nghĩa biểu tượng của văn chương khải huyền Do Thái về Con Người là Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa (x. Tv 110,1) và sẽ đến trên mây trời (x. Đn 7,13-14). Đức Giê-su đã dùng tước hiệu Con Người nhiều hơn tước hiệu Mêsia. là tước hiệu đã bị người Do Thái tục hóa mang mầu sắc chính trị. Trong Tân Ước, từ ngữ Con Người được lặp đi lặp lại tới 70 lần. Con Người có nghĩa là “Người Tôi tớ Gia-vê, bị loại bỏ và bị giết để sau cùng được tôn vinh và cứu rỗi muôn người” (x. Mc 8,31). Trước khi xuất hiện trong vinh quang vào ngày sau hết, Con Người phải tự hạ, sống cuộc đời trần thế, bị nghèo khó (x. Mt 8,20), bị khinh dể (x. Mt 11,19), bị xúc phạm (x. Mt 12,32), bị tử hình thập giá (x. Ga 3,14), rồi mới vào trong vinh quang Phục Sinh (x. Dt 2,6-9). Cuối cùng khi đến ngày tận thế, Con Người sẽ lại đến ngự trên ngai uy quyền mà xét xử muôn dân (x. Mt 25,31-46). + Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: Tuy tuyên xưng Đức Giê-su với tước hiệu là Đấng Kitô, nhưng Phê-rô chưa hiểu được ý nghĩa thực sự của tước hiệu này. Ông chưa hiểu rằng theo thánh ý Thiên Chúa thì “Đấng Kitô phải chịu đau khổ rồi mới vào trong vinh quang” (x Lc 24,26). Ông đã thay mặt anh em can trách Đức Giê-su đừng chịu như vậy, vì các ông đều không muốn thấy Thầy phải chịu thất bại trước rồi sau đó mới chiến thắng. Các ông muốn Thầy sớm lên làm vua Mê-si-a để các ông cũng được chia sẻ quyền cao chức trọng (x. Lc 22,24), được ngồi bên tả bên hữu Thầy (x. Mt 20,21). + Người trách Phê-rô: “Xa-tan! Lui lại đằng sau Thầy!: Khi kéo riêng Đức Giê-su ra mà can trách, ông phê-rô đóng vai trò của Xa-tan, kẻ đã cám dỗ xúi giục Đức Giê-su đi con đường khác với thánh ý Thiên Chúa. Nhưng Đức Giê-su ra lệnh cho Phê-rô phải trở về chỗ của người môn đệ là ở phía sau và phải theo đường lối của Thầy (x. Mc 1,17.20; 8,34). + Vì tư tưởng của anh không phải tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”: Ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm: ”Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,9). Ông Phê-rô đã không hiểu thánh ý Thiên Chúa là muốn cho Đức Giê-su cứu thế bằng con đường “qua đau khổ vào vinh quang” và mời gọi người ta đi theo con đường này (x. Mt 16,21-23).
– C 34-35: + “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”: Đây là lời Đức Giê-su mời gọi người ta tự nguyện theo Người chứ không ép buộc. + Từ bỏ chính mình: “Từ bỏ” ở đây đồng nghĩa với “ghét” hay “yêu ít hơn” hoặc “coi thường” bản thân mình (x. Lc 14,26 ; Ga 12,25). + Vác thập giá mình: Thành ngữ “vác thập giá mình” gợi lên thói tục quân lính bắt tử tội phải tự vác cây thập giá của mình đến nơi hành hình. Ai muốn làm môn đệ Đức Giê-su, cũng phải vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người. + “Cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Liều mạng sống mình vì Đức Giê-su và vì Tin Mừng thì cứu được mạng sống ấy”: Câu nói nghịch lý này mời gọi người nghe quan tâm đến giá trị đích thực của cuộc sống đời sau. Một người sống ích kỷ ở đời này, thì sẽ bị mất đời sống vĩnh hằng ở đời sau. Nhưng nếu ai sẵn sàng chịu thua thiệt, chịu chết vì đức tin ở đời này, thì sẽ có được sự sống đời đời do Chúa sẽ ban sau này.
CÂU HỎI:
1) Khi được hỏi, các môn đệ đã thuật lại cho Đức Giê-su dư luận của quần chúng về Người thế nào?
2) Phê-rô tuyên xứng Đức Giê-su là ai? Lời tuyên xưng ấy đúng hay sai? Người Do thái thời đó có hiểu tước hiệu ấy đúng như thánh ý Thiên Chúa muốn Đức Giê-su thi hành không?
3) Tại sao Đức Giê-su cấm các môn đệ nói ra tước hiệu Kitô mà Phê-rô vừa tuyên xưng?
4) Khi xưng mình là “Con Người”, Đức Giê-su ngầm dạy điều gì về vai trò và sứ mệnh của Người?
5) Tại sao Đức Giê-su thích xưng mình là “Con Người” hơn là “Đấng Mê-si-a” hay “Đấng Kitô” nghĩa là “Đấng Thiên Sai”?
6) Trong Tân Ước, từ “Con Người” được nói tới bao nhiêu lần và mang ý nghĩa gì?
7) Tại sao ông Phê-rô can trách Đức Giê-su?
8) Tại sao Đức Giê-su lại mắng Phê-rô là Sa-tan và bắt ông lui lại phía sau?
9) Thánh ý Thiên Chúa muốn Đức Giê-su phải cứu thế bằng con đường nào?
10) Đức Giê-su đòi ai tình nguyện đi theo làm môn đệ của Người phải làm gì?
11) “Từ bỏ mình”có ý nghĩa thế nào?
12) Câu “vác thập giá mình mà theo Thầy” nghĩa là gì?
1) Vào trong vinh quang ngang qua đau khổ:
Bà GÔN-ĐA MÊ (Golda Meir), nữ Thủ tướng đầu tiên của nước Ít-ra-en, khi còn là thiếu nữ đã thất vọng về nhan sắc của mình. Bà thuật lại giai đoạn thiếu thời ấy như sau: “Mỗi lần nhìn khuôn mặt của mình trong gương, tôi lại thầm trách sao Ông Trời quá bất công, khi ban cho tôi một khuôn mặt không mấy đẹp đẽ duyên dáng như các bạn đồng trang lứa khác. Mãi về sau tôi mới nhận ra rằng: Chính khuôn mặt không mấy đẹp đẽ của tôi lại là điều may mắn và mang lại sự tốt lành cho tôi. Bởi vì điều ấy buộc tôi luôn phải cố gắng khám phá ra những tài năng sâu kín nơi bản thân và phát triển chúng ngày một tốt hơn. Cuối cùng tôi rút ra được bài học này là: Một phụ nữ đáng quí trọng không phải ở chỗ có một sắc đẹp trời cho, vì nó không mấy bền vững và sẽ phai tàn theo năm tháng. Nhưng giá trị đích thực của một phụ nữ ở chỗ cố gắng phấn đấu làm việc, để khám phá ra khả năng Chúa ban cho mình, rồi phát huy những mặt tích cực, biến những tài năng đó trở thành phương tiện giúp ích cho bản thân, gia đình và xã hội…”.
GÔN-ĐA MÊ đã chấp nhận thập giá của mình, không than khóc phản kháng, không tức giận chán nản, nhưng sẵn sàng vác nó lên vai với lòng can đảm vượt qua trở ngại, để cuối cùng đã trở thành vị nữ Thủ tướng đầu tiên của nước Israel (Giảng lễ CN B – M. Link).
2) Bài thơ “Dọc Đường”:
Thi sĩ RÔ-BỚT BAO-NING HA-MINH-TƠN (Robert Browning Hamilton) trong bài thơ “Dọc đường” (Along the Road), đã tóm lược nội dung Tin Mừng hôm nay bằng những lời thơ đầy ý nghĩa như sau: “Tôi đã cùng bước đi một quãng đường với Nữ Thần Hoan Lạc. Dọc đường, nàng đã cho tôi được sung sướng bằng những lời ve vuốt tự ái của tôi. Nhưng rồi cuối cùng tôi chẳng thấy khôn ngoan hơn bao nhiêu. Sau đó, tôi lại bước đi với Nữ Thần Đau Khổ. Dọc đàng, nàng chẳng nói một lời. Nhưng cuối cùng tôi lại thấy mình lớn lên về kinh nghiệm sống, về sự khôn ngoan, nhờ trải qua kinh nghiệm đau thương suốt thời gian bước đi bên nàng…”.
1) Mỗi khi gặp được những điều may lành như ý, chúng ta thường dâng lời tạ ơn Chúa. Nhưng khi gặp rủi ro trái ý, chúng ta nên làm gì theo Lời Chúa dạy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”?
2) “Vác thập giá mình mà theo” Đức Giêsu cụ thể là nhờ Thần Khí giúp chúng ta thanh luyện khỏi các thói hư thuộc về xác thịt và đón nhận hoa quả của Thần Khí như thánh Phaolô đã liệt kê sau đây: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy… Còn hoa quả của Thần Khí là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ… Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,19-24).
1) “Thầy là Đấng Kitô”:
Câu hỏi “Người ta bảo Con Người là ai?” của Đức Giêsu đã được đặt ra cho dân Do thái, cho các môn đệ xưa và cho mỗi tín hữu chúng ta hôm nay. Dư luận dân Do thái coi Đức Giê-su là ông Gio-an Tẩy giả tái sinh, là ngôn sứ Ê-li-a hay một vị ngôn sứ thời xưa. Tông đồ Phêrô đã tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Kitô”. Tước vị Kitô hay “Chris-tus”, “Mê-si-a” ám chỉ Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong làm Vua Thiên Sai, để giải phóng dân Ít-ra-en khỏi ách thống trị của Đế quốc Rô-ma và trở thành một dân tộc hùng mạnh. Tuy nhiên sau đó Đức Giê-su lại mặc khải cho ông Phê-rô biết sứ mệnh Kitô của Người là cứu độ nhân loại bằng con đường “qua đau khổ vào vinh quang” (x Mt 16,21). Ngừơi là “Tôi trung của Đức Chúa”, chịu đau khổ để đền tội thay cho dân và làm cho muôn người được nên công chính như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm (x Is 53,3-11).
Lời Đức Giêsu tiên báo về việc Người sẽ trải qua cuộc Tử Nạn rồi mới vào trong vinh quang Phục Sinh đã làm cho Tông đồ Phêrô choáng váng. Ông không sao hiểu được tại sao Thầy của ông lại phải chịu điều khủng khiếp như vậy, bởi ông còn mải mê với một Đức Kitô vinh quang, nên ông đã phản ứng ngay, bằng việc kéo Đức Giêsu lại mà can trách Người. Đức Giêsu nhận thấy đây là một cơn cám dỗ của Satan nói qua miệng Phêrô, nên Người đã bảo ông: “Satan, hãy lui lại sau Ta”. Thực vậy: Ngay từ khi gọi Simon Phêrô ở bờ hồ Galilê, Đức Giêsu đã cho thấy chỗ của ông: “Hãy đi sau Thầy”. Chỗ đứng của môn đệ là ở đằng sau Thầy. Qua câu này, Đức Giêsu muốn đưa ông Phêrô về đúng chỗ của ông, bởi ông đang muốn đi trước dẫn đường cho Người. Lý do Đức Giêsu nếu ra: “Vì anh không nghĩ những điều của Thiên Chúa, mà chỉ nghĩ những điều của loài người.” Đức Giêsu thấy rõ đâu là con đường Thiên Chúa muốn, và đâu là con đường thế gian đang chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt trên những tính toán khôn ngoan của loài người. “Bởi vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người.” (1 C 1,25)
2) “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình” (x Mt 16,24):
Đi theo Đức Giêsu là mẫu số chung của mọi Kitô hữu, từ hàng giáo phẩm đến giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân. Tất cả mọi thành phần dân Chúa đều được mời gọi đi theo Người. Theo sau Đức Giêsu đòi phải từ bỏ: Các môn đệ đầu tiên đã bỏ nghề chài lưới, bỏ cả cha già cùng những người làm công mà theo Thầy. Ở đây, Đức Giêsu đòi hỏi không phải chỉ từ bỏ một vật hay người nào đó, mà là từ bỏ chính bản thân mình. Từ bỏ chính mình là không còn sống cho chính mình nữa, là vác lấy thập giá của mình mà theo Người. Như thế có thể định nghĩa: Kitô hữu là người vác thập giá mình đi theo sau Đức Giêsu cũng đang vác cây thập giá. Đức Giêsu đã vác thập giá, cái dụng cụ giết người mà cả người Do Thái lẫn Hy Lạp đều coi là nhơ nhuốc. Thập giá của Đức Giêsu là do Ngài tình nguyện gánh lấy tội lỗi của nhân loại. Còn thập giá của chúng ta hôm nay là gì?:
– Là từ bỏ chính mình, bỏ đi “cái tôi” tự ái, ích kỷ; lòng ham mê tiền bạc, danh vọng, quyền hành và các đam mê bất chính khác. Là từ bỏ con người cũ để nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu Con Thiên Chúa (x Rm 8,29), tìm lại hình ảnh ban đầu tốt đẹp khi mới được sáng tạo “giống như Thiên Chúa” (x Stk 1,26).
– Là vác thập giá mình: Vác thập giá là thái độ tự chủ, vượt lên trên những đòi hỏi của bản năng. Vác thập giá là thái độ nỗ lực muốn nên hoàn thiện, là quyết tâm lọai bỏ con người “thuộc thể”, để mặc lấy con người “thuộc linh” được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như vậy: “vác thập giá mình” là sẵn lòng chấp nhận những đau khổ và rủi ro hoặc thất bại gặp phải trong cuộc sống, noi gương Đức Giêsu đã chấp nhận đau khổ trong cuộc khổ nạn đau thương của Người.
“Vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu” cụ thể là nhờ Thần Khí giúp chúng ta thanh luyện mình khỏi các thói hư thuộc về xác thịt và đón nhận được hoa quả của Thần Khí, như thánh Phaolô đã liệt kê trong thư Galata: “Là dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy… Còn hoa quả của Thần Khí là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ… Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,19-24).
3) Người tín hữu cần vui vẻ đón nhận đau khổ thập giá trong cuộc sống:
Cuộc đời mỗi người không phải lúc nào cũng thành công. Bên cạnh những điều như ý vẫn có những nỗi cay đắng, tủi nhục, những tai nạn rủi ro, những thất bại đau khổ… mà dù muốn hay không chúng ta cũng phải chịu đựng. Đau khổ thất bại vẫn có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến thành công, như người ta thường nói: “Thất bại là mẹ thành công”. “Thiên Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành”, từ việc tổ phụ Giu-se bị các anh bán làm nô lệ bên Ai Cập, lại trở thành tể tướng triều đình Ai Cập và về sau đã đưa cả dòng tộc của Tổ phụ Gia-cóp sang bên Ai cập tránh khỏi nạn đói kém. Tin là chấp nhận con đường thập giá chật hẹp và leo dốc đi theo Đức Giê-su như thánh Phao-lô đã khuyên đồ đệ Ti-mô-thê: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình (2 Tim 2,12-14).
4) Cần ý thức đau khổ có giá trị thanh luyện để giúp ta nên thánh:
Thiên Chúa thường sử dụng khổ đau để rèn luyện con người nên tốt hơn. Các vĩ nhân trên thế giới, các thánh nhân trong Giáo hội, đều đã trải qua muôn ngàn khó khăn trong cuộc sống… Nhưng các ngài không nản chí buông xuôi, mà quyết tâm vượt qua để trở nên vĩ đại, nêu cao gương sáng đức tin cho hậu thế noi theo. Như “Đức Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế , rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26), người tín hữu chúng ta cũng phải trải qua đau khổ rồi mới được thành công. Từ đây thập giá không còn là hình khổ ghê sợ, nhưng là phương tiện để được vào trong vinh quang. Con người ngày nay thường ngại hãm mình, tránh sự từ bỏ và hy sinh… Nhưng nếu ai muốn cuộc sống có ý nghĩa thì phải chấp nhận gian nan thử thách như người ta thường nói: “Có công mài sắt có ngày nên kim” . Một khi hiểu được ý nghĩa cao cả của đau khổ thập giá, chúng ta sẽ hãnh diện về cây thập giá như thánh Phaolô đã nói: ”Vinh dự của tôi là thập giá Đức Kitô” (Gl 6,14). Chính cây thập giá là chiếc cầu duy nhất dẫn đưa chúng ta về tới thiên đàng đời sau.
Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay nếu con được Chúa hỏi: “Về phần con, con bảo Thầy là ai? ” Con sẽ tuyên xưng lòng tin ra sao? Xin Chúa đừng để con chỉ tuyên xưng đức tin ngoài môi miệng, nhưng bằng hành động: Bằng việc cầu nguyện kết hiệp với Chúa; luôn chu toàn bổn phận với lòng yêu mến Chúa; Biết cậy trông phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng; Biết tạ ơn Chúa khi vui lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại… Vì biết rằng tất cả những gì Chúa để xảy đến, đều là hồng ân, và đều mang lại ích lợi cho phần rỗi đời đời của con như thánh nữ Tê-rê-sa đã dạy. Xin giúp con năng nhìn lên thánh giá Chúa, để học sống tình thương hiến thân quảng đại của Chúa, vì: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).
(Suy niệm của Sr. Thanh Thủy, LHC)
Môn đệ hỏi thầy: “Thưa thầy đâu là hành động cao trọng nhất con người có thể thực hiện được?”
Sư phụ đáp: “Ngồi suy niệm.”
Môn đệ thắc mắc: “Thưa Thầy, ngồi suy niệm như vậy sẽ dẫn đến sự thụ động chứ đâu phải hành động.”
Sư phụ: “Đúng vậy, đó là một sự thụ động.”
Môn đệ: “Thụ động thì không thể xem là cao trọng, phải không thưa Thầy?”
Sư phụ: “Sự thụ động là sức sống của hành động. Không có sự thụ động sẽ dẫn đến những hành động chết.”
(Anthony de Mello, “One minute wisdom”- Double Day, NY 1985)
Bài suy niệm này được soạn trong khi giới điện ảnh và báo chí thi nhau khai thác những dữ kiện liên quan đến cuốn phim “Da Vinci Code”. Một số nhà lãnh đạo tinh thần hô hào việc tẩy chay việc xem phim này, vì họ lo sợ những người thiếu hiểu biết sẽ bị lung lay đức tin sau khi xem phim. Một số khác thì bình tĩnh hơn, lợi dụng cơ hội để chọn chính đề tài này trong việc giảng dậy giáo lý hay trên bục giảng. Họ nhấn mạnh rằng đây chỉ là một phim giả tưởng mà người xem chỉ nên tin như tin một câu chuyện tiểu thuyết, không có thật.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cảnh Đức Kitô thẩm vấn các môn đệ của Người: “Người ta bảo Thầy là ai?” Và họ trả lời: “Gioan Tẩy Giả, tiên tri Elijah, hoặc một tiên tri nào đó…” Và chúng ta biết câu chuyện diễn tiến như thế nào. Vấn đề là mỗi người chúng ta phải có sự trả lời cho Đức Kitô về câu hỏi: “Đối với tôi, Đức Kitô là ai?” Và chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi đó một cách sâu xa và chân chính, sau khi chúng ta suy tư, học hỏi và quyết tâm chọn để Đức Kitô chiếm một vị trí quan trọng trong tâm trí của mỗi người chúng ta. Tìm hiểu và học hỏi không chỉ để biết Đức Kitô từ đâu đến, con nhà ai v.v… nhưng điều cốt yếu là tìm hiểu giáo huấn, sứ mạng và cuộc sống của Người. Vô tri bất mộ. Không hiểu thì không yêu được và không yêu thì không chọn ký thác cuộc đời cho người đó được. Một khi đã chọn rồi, thì chúng ta hãy sống chết với sự lựa chọn đó, để mỗi khi những biến cố “Da Vinci Code” khác nổi lên, chúng ta sẽ không bị lay chuyển và nao núng.
Để thực sự chọn Đức Kitô làm đối tượng duy nhất trong cuộc sống, chúng ta phải tìm hiểu, suy niệm, chọn, xác tín và hành động như chính Đức Kitô, những hành động đi ngược với trào lưu của xã hội, những hành động đi ngược lại sự mời gọi của Satan. Nếu chọn những tư tưởng, lời nói hay hành động do thần dữ xui khiến, thì chúng ta sẽ nghe Đức Kitô lên tiếng: “Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8:33). Tìm hiểu, tin và theo Đức Kitô không khó, nhưng sống cách sống của người là một thách đố: “Ai muốn theo ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8:34-35).
Bài đọc hai hôm nay trích từ thư Thánh Giacobê tông đồ nhắc nhở cho chúng ta biết “Đức tin không việc làm là đức tin chết.” Còn câu chuyện do Anthony de Mello kể trên thì xác định rằng, hành động mà không đi đôi với sự chiêm niệm cũng sẽ dẫn đến sự chết. Phải chăng hai xác quyết này lại là một sự mâu thuẫn? Chiêm niệm và hoạt động là hai thực trạng không thể tách rời được. Cuộc đời của Đức Kitô đầy dẫy những gương cầu nguyện, ăn chay và hành động. Chiêm niệm chuẩn bị cho hành động và hành động phải được nuôi dưỡng bằng sự chiêm niệm. Cuộc sống của các Thánh cũng không thiếu những gương sáng về việc chiêm niệm và hoạt động. Điều quan trọng vẫn là động lực hay đối tượng của việc chiêm niệm và hoạt động. “Các Thánh không phải là những người có nhiều bằng cấp hoặc những con người đạt được nhiều thành công vượt bực. Họ là những người với một hai tính cách rất giống nhau, nhưng ít ai nhận ra. Những gì họ nói luôn đi đôi với cuộc sống và việc làm của họ (Keith Miller).
Lậy Chúa, con muốn noi gương Chúa, để tư tưởng và lời nói luôn đi đôi với hành động trong cuộc đời của con.
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano OP – Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Gò Vấp)
Thắc mắc về thân phận của Đức Giêsu đã được nhắc đến trước đó trong Tin mừng theo thánh Máccô. Đức Giêsu đã gợi lên bao hào hứng, tò mò thắc mắc và chống đối khi Người rảo quanh Galilê để rao giảng và chữa lành. Trong chương 6, người ta đã tranh luận về việc Đức Giêsu là ai và họ đã thốt lên: “Đó là ông Gioan Tẩy Giả từ cõi chết trỗi dậy,… là ông Êlia… một ngôn sứ” (Mc 6,14-15). Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai?” Và các môn đệ lặp lại ý kiến đó: “Gioan Tẩy Giả, Êlia…. một trong các ngôn sứ”.
Đức Giêsu đặt câu hỏi về thân phận của Người và nghe lời xầm xì dấy lên từ việc chữa lành và giáo huấn của Người. Một cuộc thảo luận về thân phận Đức Giêsu hẳn sẽ là cuộc trò chuyện thú vị giữa những người đang quây quần trong bữa liên hoan ngoài trời với ly bia trên tay. Câu chuyện sẽ trở nên sôi nổi với những ý kiến trái ngược nhau. Có thể cả nửa trong đám thực khách cũng nóng hùng hực như cục than hồng. Nói về một chuyện như thế có thể khiến cho cuộc trò chuyện thêm thú vị và thậm chí còn gây lên sự tò mò, và ở khía cạnh nào đó còn mang tính học hỏi; có người lấy sách ra kiểm chứng, có người lên mạng tìm câu trả lời. Nói chung là tốt. Nhưng cần một chút gì đó riêng tư hơn.
Trong sự tiến triển của niềm tin, chúng ta cần lắng nghe và học hỏi từ những người khác, nhưng việc lập lại các công thức và ý niệm thôi thì chưa đủ. Đức Giêsu đòi chúng ta phải tận hiến cuộc đời này cho Người và đón nhận cuộc đời của Người như lối sống của chúng ta – dù cho có phải chịu đau khổ và tự hiến vì danh Người. Một người môn đệ phải liên lụy thiết thân với Đức Kitô và có khả năng nói lên niềm tin của mình khi bị thử thách. Dẫu cho không ai thắc mắc về niềm tin của chúng ta nơi Đức Giêsu, thì cũng sẽ có những khoảnh khắc quan trọng, vấn nạn đó sẽ được đặt ra cho chúng ta qua những biến cố trong cuộc đời.
Chúng ta sẽ nói gì và làm gì khi: công việc mang lại cho ta một khoản tiềm thêm nếu chúng ta chấp nhận thỏa hiệp; bệnh tật khiến chúng ta và gia đình mình bị xáo trộn; một người bạn chất vấn chúng ta về niềm tin; chúng ta phải đưa ra chọn lựa về ứng cử viên cho cuộc bầu cử; chúng ta cố gắng chuyển trao niềm tin của mình cho con cháu chúng ta; giáo xứ cần thêm người giúp về khoản phục vụ nhà cấp phát lương thực cho người nghèo,…? Trong những khoảnh khắc nhất định đó của đời mình, Đức Giêsu quay về phía chúng ta và hỏi, như Người hỏi các môn đệ xưa rằng: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Và rồi Người sẽ nói thêm, “Vậy thì anh em sẽ làm gì nào?”
Vào những giai đoạn khác nhau trong đời, chúng ta cũng bị chất vấn những câu như thế và chúng ta phải trả lời chứ không chỉ dùng lại công thức tuyên xưng đức tin hay câu trả lời mà chúng ta học được từ các lớp giáo lý khi còn là trẻ con, nhưng phải là câu trả lời từ một đức tin trưởng thành được nuôi dưỡng bởi các bí tích, bài đọc, các cơ hội học hỏi trong giáo xứ, qua cầu nguyện, suy tư Lời Chúa – cũng như những như những gì chúng ta học được từ nỗ lực nhằm trả lời cho những thiếu thốn của con người và thế giới quanh ta.
Các môn đệ mà Đức Giêsu đặt câu hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” đã có thời gian học từ Người và nhìn xem Người đối xử với những kẻ nghèo khó thiếu thốn chạy đến với Người ra sao. Các ông được “giáo dục” trong vai trò người môn đệ – chúng ta cũng vậy. Các ông phải học nhiều và sau này, trên đường sứ vụ, câu hỏi đó cứ được lặp lại mãi với các ông, “Anh em bảo Đức Giêsu là ai?” Sự đáp trả của các ông ngày càng tăng, trên hết vì các ông đã cảm nghiệm câu hỏi đó từ lần đầu tiên Đức Giêsu hỏi các ông. Sau này, sau cái chết và phục sinh của Người, các ông có thể trả lời xa hơn, như chúng ta đang học để tự mình trả lời: “Người là Đức Kitô phục sinh!”
Phêrô làm một cú nhảy vọt trong câu trả lời cho Đức Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô” (hay “Đấng Mêssia”). Trong Tin mừng theo thánh Mátthêu, Đức Giêsu khen ngợi Phêrô: “Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,17-18). Nhưng thánh Máccô không giống như thánh Mátthêu, và ngài có mục đích riêng của ngài.
Trong Máccô, Đức Giêsu lệnh cho tất cả các môn đệ không được nói với ai về Người. Các môn đệ trong bài Tin mừng này vẫn khá khờ khạo. Ngay trong đoạn Tin mừng trước bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã khuyến cáo họ về “men Pharisêu và men Hêrôđê”. Men là mộ biểu tượng nói đến sự thổi phồng tính kiêu ngạo nhưng, dĩ nhiên, các ông lại hiểu rằng Đức Giêsu đang nói đến việc họ thiếu lương thực. Quý vị hiểu ý tôi không? Khờ khạo!
Các môn đệ, cả chúng ta cũng vậy, còn nhiều thứ phải học trên hành trình làm mộn đệ. Nhưng may cho chúng ta, Đức Giêsu không từ bỏ chúng ta, nhưng còn cho chúng ta thời gian – hết lần này đến lần khác. Vì Phêrô đã tuyên xưng Đức Giêsu là đấng Mêssia, và vì niềm mong đợi đấng mêssia đến mang theo nhiều thứ, như sự thống trị và giải phóng về mặt chính trị – Phêrô và các môn đệ còn phải học nhiều để biết Đức Giêsu là đấng Mêssia như thế nào. Vì thế, Đức Giêsu cảnh báo họ “đừng nói với ai về Người”.
Bài đọc I là “Bài Ca Người Tôi Trung” thứ ba trích từ sách ngôn sứ Isaia. Bài này có thể giúp cho các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi có được lời giải đáp cho câu hỏi của Đức Giêsu “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Khi trả lời, những tín hữu đầu tiên áp dụng hình ảnh người tôi trung của Isaia để giúp họ hiểu Đức Giêsu là ai và Người đã làm điều gì khác biệt trong cuộc đời họ.
Bài Ca Người Tôi Trung có thể được viết hướng đến lúc kết thúc thời gian lưu đày ở Babylon. Nó diễn tả niềm hy vọng rằng những người bị giam cầm sẽ được quyền năng của Thiên Chúa giải thoát. Đó là điều Thiên Chúa đã làm bằng cách khiến cho vua Kyrô nước Ba Tư trả tự do cho dân lưu đày và cho họ trở về quê cha đất tổ.
Đức Giêsu đang nói về sự đau khổ và cái chết của Người, điều đó sẽ xảy đến vì, như nhân vật của Isaia, Người đã trung tín với sứ vụ. Dù có phải chịu đau đớn và bị từ chối, Người vẫn tin tưởng nơi sự minh xét sau cùng của Thiên Chúa. Cả Đức Giêsu và ngôn sứ Isaia đều mang Tin mừng đến, nhưng cả hai đều bị từ chối.
Khoảnh khắc hỏi và trả lời trong đoạn trích Tin mừng thánh Máccô hôm nay là một điểm xoay chuyển quan trọng. Từ đầu cho đến giờ, chỉ có ma quỷ mới nhận ra Đức Giêsu là ai và Người bắt chúng phải im miệng. Nay, Phêrô gọi đích danh Đức Giêsu là “Đấng Kitô” – Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Trong Tin mừng theo thánh Máccô mà chúng ta theo dõi cho đến nay và sau này chúng ta sẽ thấy căn tính Đức Giêsu dần được hé lộ như Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa, Người là Đấng mặc khải tình yêu của Thiên Chúa cho chúng ta và luôn trung thành với thánh ý của Thiên Chúa – dẫu cho có phải chịu đau khổ và phải chết.
Nhờ con đường Đức Giêsu đã chọn mà chúng ta biết được Thiên Chúa của chúng ta, không phải một Thiên Chúa xa vời, nhưng là Đấng luôn đồng hành cùng với ta hằng ngày, trong niềm vui cũng như trong những thử thách.
Phêrô không muốn nghe gì về việc Con Người phải chịu đau khổ và bị giết chết. Ông vẫn một mực với ý niệm về một Đấng Mêssia mạnh mẽ và chiến thắng, đấng khuất phục mọi quyền lực; chứ không chịu chúng làm cho đau khổ và giết chết. Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta được tỏ lộ ra trên thập giá và rồi, được bày tỏ cách trọn vẹn, như Đức Giêsu nói với chúng ta hôm nay: “sau ba ngày” – khi Người từ cõi chết trỗi dậy.
Nếu chúng ta chỉ tìm kiếm sự hiện diện của Thiên Chúa trong những hành động uy hùng thì chúng ta sẽ thất vọng. Có thể vì chúng ta diễn giải sức mạnh không đúng cách. Đức Giêsu dập tắt niềm hy vọng của Phêrô về một đấng mêssia quyền uy về chính trị và quân sự. Nhưng, Người lại biểu lộ một kiểu sức mạnh khác bằng cách chọn ở lại với chúng ta trong sự mỏng giòn, kiếm tìm và đau khổ, cho chúng ta niềm hy vọng rằng Người có thể nâng chúng ta lên với một đời sống mới.
Kết quả của niềm tin này là, trong sự yếu đuối lại là chính sức mạnh của Thiên Chúa, chúng ta đáp lại bằng cách chọn đứng về phía những người đang gặp khó khăn, đau khổ và trở thành dấu chứng tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa cho họ – như Đức Giêsu đã làm cho chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano OP – Chuyển ngữ: FX Trọng Yên, OP)
I-sa-ia viết 4 ca khúc về người tôi tớ trong phần II từ chương 40-55 nói về “Sách an ủi Israel”. Đây là thiên trường ca nói lên việc một người đang cổ gắng trung thành thực hiện nhiệm vụ Đức Chúa đã giao với biết bao đau khổ.
Đức tin của chúng ta bị thử thách trong đau khổ do sự liên kết với Thiên Chúa. Vậy “Nếu Thiên Chúa thương yêu tôi sao lại để tôi phải đau khổ?”. Trong những trường hợp như muôn vàn khổ đau bất ngờ đổ ập đến do bệnh hoạn, mà nếu người ấy chịu được thì đó là bằng chứng của một tôi tớ Chúa. Khi đau khổ do nhiệm vụ mang tới; nếu muốn tránh né; chỉ cần từ chối nhiệm vụ là xong. Thế nhưng người tôi tớ muốn trung thành; do vì “Đức Chúa đã mở tai cho tôi được nghe”; nên tôi vẫn chấp nhận hứng chịu đau khổ vì tôi tin rằng Đức Chúa sẽ không quên tôi là người đang trung kiên thực hiện nhiệm vụ Ngài.
Làm đúng chưa chắc chúng ta sẽ thành công. Vì ở đây không nói đến sự thành công, nhưng nói về cách thể hiện lòng trung thành. Nhưng làm sao trung thành được khi phải trả giá bằng đau khổ? Sự đau khổ là điều khó tránh khỏi và không lối thoát? Và người tôi tớ này đưa chúng ta đến một ý tưởng khôn ngoan là “Đức Chúa sẽ hổ trợ tôi khiến tôi không phải hổ thẹn”.
Người tôi tớ này là ai, nói về sự đau khổ của nhiệm vụ trong thời xa xưa của nhiều thế kỷ trước Chúa Kytô? Phải chăng là một người đang cố gắng sống theo đường lối của Thiên Chúa giữa những đố kỵ của thế gian. Hay đó là dân Israel, đang bị lưu đày xa quê hương trong một xã hội khác văn hóa và tín ngưỡng. Hay có thể là một ngôn sứ như I-sai-a chẳng hạn; đang bị dân phản đối vì nói lời Chúa cho họ nghe.
Những câu hỏi trên có thể đặt ra cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Trong cộng đoàn đang thờ phượng hôm nay, cũng có một số người là những tôi tớ Chúa đang chịu đau khổ vì đang cố gắng sống đức tin trong một xã hội đầy dị biệt, chống đối khinh miệt. Là một Kytô hữu chúng ta hãy học nơi Đức Giêsu Kytô là tạo cho chúng ta một “vẻ mặt lạnh” đối với thế gian và luôn hướng về Thánh Đô để rao giảng tin mừng trong thân phận người được Thánh Linh xức dầu luôn trung thành với sứ vụ cho dù có bị thế gian “đánh vặt râu..”nói theo cách I-sai-a (Is 50,6)
Trong phúc âm hôm nay, thánh Mác-cô đưa ra trường hợp về danh tính của người tôi tớ Thiên Chúa. Ngài đặt câu hỏi với các môn đệ là người ta và cả các ông nữa nói thầy là ai. Câu hỏi này đánh dấu bước đầu huấn luyện của Ngài cho các môn đồ, tuy ngắn gọn nhưng thật đầy đủ trong việc làm và nếp nghỉ của các môn đồ, trên đường đến Thánh Đô và những miền xa xôi khác. Chúa Giêsu hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Có thể câu trả lời sẽ làm sáng tỏ sứ vụ của Chúa Giêsu. Ngài không ám chỉ Ngài là người tôi tớ đang bị đau khổ như I-sai-a; nhưng, lời Ngài nói về những đau khổ sắp đến Ngài sẽ nhận có liên quan đến những tôi tớ đau khổ của I-sai-a; và đó cũng là hệ quả mà những Kytô hữu chúng ta; những tôi tớ của Chúa; sẽ nhận được khi đang cố gắng thực thi sứ vụ ở trần gian.
Trên đường đến Giê-ru-sa-lem, Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu rằng các ông sẽ phải gặp những gian truân đau khổ và các ông có còn quyết tâm làm môn đệ của Ngài không. Vì thế Chúa Giêsu đặt câu hỏi đó cho các ông và qua đó Ngài cũng hỏi chúng ta nữa. Câu trả lời của chúng ta sẽ chứng minh sự tuyên xưng đức tin của mình về Ngài ra sao, và chúng ta sẽ đáp lại lời mời gọi của Ngài trong cuộc sống hàng ngày nơi trần gian thế nào?
Các môn đệ đã trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu nhưng không sâu sắc. Ngài không phải chỉ là một ngôn sứ hay một người thánh thiện nhất trong lịch sử trần gian. Đúng Ngài là một ngôn sứ lớn, là đấng Mê-si-a, là Đức Kytô. Nhưng Ngài không đem đến quyền lực huy hoàng và thống trị trần gian để trả về cho dân Israel. Trái lại, Ngài nói đến sự chống đối của các lãnh đạo tôn giáo. Ngài sẽ bị ”các kỳ mục, thượng tế kinh sư từ chối” Vậy Ngài là ai và Ngài lãnh đạo thế nào mà khác lạ vậy?.
Cũng như “Người tôi tớ đau khổ” của I-sai-a Chúa Giêsu sẽ chịu nhiều đau khổ về lẻ công chính. Tôi quen một người, vì bất đồng ý kiến với người chủ về việc thường lừa gạt khách hàng, nên bị cắt lương và cho tạm thôi việc có thời gian. Tôi cũng biết một phụ nữ có trình độ chuyên môn vững chắc ở ngoài đời lại làm việc trong hội đồng giáo xứ, vì bà nói “Tôi muốn thực hiện cuộc sống cho có ý nghĩa”. Tôi cũng biết một thợ sữa xe hơi khi anh sữa xe cho ai ít hơn thời gian dự kiến thì anh tính tiền ít lại so với ước tính ban đầu. Tôi quen với một nữ sinh viên khi được biết các bạn mình nhận được một đáp án bài thi bị đánh cắp trước đó; cô đã không hề nhìn vào đó để làm bài cho mình mặc dầu điểm các môn thi của cô ta không được tốt. Khi nghe về những người này; những người đã bị thiệt hại khi làm những điều đúng; có người cho rằng họ ngu. Không phải dễ gì ai cũng làm được việc đó. Những tôi tớ đau khổ của I-sai-a nói “Đức Chúa đã mở tai cho tôi được nghe, nên tôi không chống đối hay quay lưng lại với Ngài”. Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài muốn cho các môn đệ nhìn thấy mọi việc trong cái nhìn mới qua đó các môn đệ sẽ hiểu được Ngài qua việc chấp nhận hay từ chối đau khổ là một yếu tố không thể thiếu được trong sứ vụ của các ông.
Thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay nói rất rõ là nếu tai chúng ta được mở rồi, và đã một lòng tin vào phúc âm thì chỉ có một hành động duy nhất là “Hãy thực hiện những điều chúng ta đã nghe”. Cuộc sống và lời dạy của Chúa Giêsu đã mở tai chúng ta, Vì vậy hãy nên giống Ngài bằng cách khi nghe ở đâu cần dến sự giúp đỡ, chúng ta hãy đáp lời ngay vì theo thánh Gia-cô-bê: ”Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17)
Vừa qua tôi có đi đo thị lực. Trong khi đo, bác sĩ thường thay đổi những tròng kính như thế nào để tôi có thể đọc rõ được những hàng chữ chiếu trên tường. Chúa Giêsu cũng như bác sĩ mắt vậy, Ngài hỏi các môn đệ nhiều câu hỏi để các ông thấy rõ hơn về Ngài. Khi họ trả lời là mắt họ đã mở ra. Và cũng để cải thiện thêm tầm nhìn của tâm hồn họ, Ngài đã dùng các lời giảng dạy, các phép lạ chữa lành bệnh, qua cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Ngài đã làm các ông thấy rõ hơn để có thể nói rằng “Bây giờ tôi thấy rất rõ rồi”. Vì là con người, nên trong tương lai các ông lại không trông thấy rõ ràng nữa và đôi khi bị mờ đi vì những tia sáng khác lạ chiếu vào.
Cũng như các môn đệ, chúng ta là những cá nhân sinh hoạt trong cộng đoàn giáo hội để cùng nhau thờ phượng Chúa. Theo lịch sử giáo hội, chúng ta thấy đã nhiều lần giáo hội dựa vào quyền thế trần gian; đàn áp một số cá nhân có nhiều thắc mắc vấn nạn, chấp nhận chế độ nô lệ, lập nên quân đội tấn công bắn giết những người thệ phản, từ chối những nhân tài trong giới nữ. v.v… Trong suốt thời quá khứ và một số lần trong thời hiện tại, giáo hội đã không trông thấy rõ được. Thế nên giáo hội cần những người có đôi mắt sáng suốt hơn như các thánh, các ngôn sứ để kích thích giáo hội trông thấy rõ hơn. Đời sống của họ chính là một câu hỏi cho chúng ta: ”Bạn nghĩ Chúa Giêsu là ai?”. Các thánh đã giúp chúng ta sống và tuyên xưng đức tin qua những hành động và lời nói. Và như thánh Gia-cô-bê đã nhắc: Đức tin không có việc làm là đức tin chết.
Để trả lời câu hỏi, “Còn anh em, anh em nghỉ Thầy là ai?”. Chỉ có một cách trả lời là làm cho cộng đoàn chúng ta trở nên như các môn đệ đầu tiên đến với Chúa Giêsu để xem Ngài là ai. Những điều các ông đã thấy, được trình bày trong các sách phúc âm, trong các thư gởi cho tín hữu các cộng đoàn tiên khởi. Hôm nay chúng ta cùng nhau thờ phượng Chúa cũng là một cách để nghe những điều mà các môn đệ các môn đệ đã thấy rõ Chúa Giêsu là ai. Đức tin của các ông giúp cho chúng ta tin thờ Thiên Chúa hôm nay, qua bí tích thánh thể chúng ta nhận dược mình máu thánh Chúa Giêsu sẽ giúp chúng ta thấy tỏ tường hơn.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn