Chúa Nhật XXIV TN/B
Ngay cả ngày nay chúng ta vẫn còn nghe thấy những lời nói và xét đoán mâu thuẫn nhất về Chúa Giêsu: có những người coi Ngài là một con người khôn ngoan, một nhà luân lý quảng đại, một nhân vật chính của lịch sử, và cũng có những người vu khống Ngài, những người ghét Ngài. Nhưng căn tính duy nhất, đích thực của Chúa Giêsu là căn tính được Thánh Phêrô công bố: "Thầy là Đức Kitô". Nếu chúng ta giản lược đức tin Kitô giáo vào giới hạn của một chân trời nhân bản, dù cao quý đến đâu, thì chúng ta đã nhầm: Chúa Kitô đến để mang lại ơn cứu độ vĩnh cửu, niềm hy vọng siêu nhiên, chứ không phải là một học thuyết để làm cho sự chung sống của con người trở nên dễ chịu hơn, ngay cả khi Ngài quan tâm đến việc cứu chuộc tất cả các thực tại trần thế, luôn luôn hoạt động trong hạnh phúc vĩnh cửu. Nhìn nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa thôi thì chưa đủ: chúng ta phải bắt chước Ngài trong những gì đặc biệt nhất đối với Ngài, nghĩa là trong tình yêu đối với thập giá, vốn không phải là mục đích nhưng là phương tiện cần thiết để hoàn thành ơn cứu chuộc. Nếu chúng ta muốn trở thành những người ‘đồng cứu chuộc’, chúng ta không thể xa lánh thập giá, bởi vì chỉ qua thập giá, như sự đánh mất sự sống của mình, chúng ta mới tìm thấy nó trong cõi vĩnh hằng, tham dự vào sự phục sinh của Chúa Kitô.
Ơn cứu rỗi của chúng ta nơi thập giá Chúa Kitô
Lời Chúa ngày Chúa nhật XXIV thường niên giới thiệu cho chúng ta mầu nhiệm Thập giá Chúa Kitô. Gần kề với lễ Suy Tôn Thánh Giá, được cử hành hàng năm vào ngày 14 tháng 9 và lễ nhớ Đức Mẹ Sầu Bi, vào ngày 15 tháng 9, giúp chúng ta hiểu rõ hơn lời Chúa của ngày này và để bối cảnh hóa nó trong thời điểm hiện tại.
Chúng ta hãy bắt đầu từ Tin Mừng Thánh Marcô kể về việc Chúa Giêsu đến Cêsarêa Philipphê. Trong cuộc di chuyển này, trên đường đi, đây là cơ hội để Chúa Giêsu thực hiện một cuộc điều tra để tìm hiểu xem người ta nghĩ gì về Ngài qua lời của các tông đồ. Chúa hỏi họ một câu hỏi rõ ràng, có vẻ tầm thường và ít quan trọng, nhưng trong thực tế, điều rất quan trọng là phải hiểu chính xác ý tưởng của dân chúng về Chúa Giêsu: người ta bảo Thầy là ai. Đây là một cuộc thăm dò ý kiến thực sự. Từ yêu cầu này của Thầy, các tông đồ trả lời dựa trên sự hiểu biết của họ và theo những gì họ đã nghe về Chúa Giêsu. Họ thông báo cho ngài bằng cách nói rằng một số người cho ngài là Gioan Tẩy Giả, những người khác khẳng định rằng ngài là Êlia hoặc một trong số các nhà tiên tri cổ xưa của Israel.
Tóm lại, chưa ai thực sự hiểu Chúa Giêsu là đấng nào. Sau khi lưu ý đến sự thiếu hiểu biết này của dân chúng, vào thời điểm ấy, Chúa Giêsu đã trực tiếp nói với các tông đồ, với những người thân cận Ngài và do đó, lẽ ra phải biết rất rõ Chúa Giêsu Kitô là ai. Ngài trực tiếp hỏi: Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Trong trường hợp này, cũng như trong các trường hợp khác, chính Phêrô là người trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu, tuyên xưng đức tin của mình vào Ngài: Thầy là Đấng Kitô. Câu trả lời này được xem như lời tuyên xưng đức tin nổi tiếng của Phêrô tại Cêsarêa Philipphê. Chúa Giêsu lưu ý đến sự hiểu biết đầy đủ này về phía người đứng đầu các tông đồ về căn tính thực sự của Đức Kitô, Ngài khuyên đừng nói cho ai biết những gì họ nghĩ và những gì họ đã bày tỏ bằng trái tim, lời nói và thái độ tôn kính của mình. Câu nói đó trở thành điểm khởi đầu để Chúa Giêsu dạy các tông đồ: Con Người sẽ phải chịu đau khổ rất nhiều và trong trường hợp này đề cập đến cuộc khổ nạn và cái chết sắp xảy ra trên thập giá. Ngài cũng cho biết thêm tại sao điều này sẽ xảy ra. Ngài sẽ phải đau khổ nhiều vì sẽ bị các trưởng lão, các thượng tế và các thầy thông giáo từ chối. Và họ sẽ là những người đưa Ngài đến chỗ chết. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ giới hạn mình ở việc loan báo cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài trên thập giá, mà còn cả sự phục sinh của Ngài nữa, như đã thực sự xảy ra: ngày thứ ba Ngài đã sống lại.
Thánh ký Marcô, rất chú ý đến mọi sắc thái, kể cho chúng ta trong đoạn Tin Mừng rằng trong khi Chúa Giêsu đang nói điều này thì Phêrô đã kéo Người ra một bên, vì ông hiểu rằng Chúa Giêsu sẽ bị giết, và khiển trách gay gắt vì lẽ ra Ngài không nên nghĩ đến điều đó, và những điều nói đó thật khó chấp nhận. Đau khổ, thập giá và cái chết khiến mọi người sợ hãi. Đến đây, Chúa Giêsu làm gì? Thay vì bỏ đi, chạy trốn và quay lại phía sau và nói với các tông đồ, Chúa Giêsu lại khiển trách Phêrô một cách gay gắt bằng những lời này: Satan hãy lui ra sau, vì ông suy nghĩ theo cách con người chứ không phải của Thiên Chúa. Chúa Giêsu dùng cách diễn đạt này để làm cho chúng ta hiểu rằng ai coi đau khổ là hình phạt của Thiên Chúa thì là một tên Satan đích thực trong tư tưởng và trong cuộc sống. Cái chết, hiến thân vì người khác không phải là một thất bại, không phải là thất vọng, không phải là một trận thua ngay từ đầu, nhưng là một chiến thắng thực sự cho những ai đi theo Chúa chứ không theo con người. Mầu nhiệm thập giá của Chúa Kitô, cũng như cái chết của Ngài, có một giá trị vô biên bởi vì nhờ đó, Ngài cứu chuộc chúng ta khỏi tình trạng tội lỗi để ban cho chúng ta ân sủng của Ngài. Thập giá có giá trị cứu chuộc. Không dùng những lời lẽ và những bài phát biểu khó hiểu, Chúa Giêsu nói với các môn đệ và tất cả chúng ta bằng những lời này: "Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình”. Để theo Chúa Kitô, người ta phải từ bỏ chính mình, nghĩa là vượt qua những rào cản của kiêu ngạo, tự phụ và ngạo mạn cản trở cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô Thập Giá, cũng như để được vinh quang, cần phải vác thập giá của mình hoặc vác thập giá trên vai mà không đổ lỗi cho người khác, dù đó là gánh nặng về tội lỗi của chúng ta cũng như mọi sự yếu đuối của chúng ta.
Một khi bạn đã sẵn sàng bên trong tâm hồn mình, hãy đặt mình vào con đường của Chúa Kitô Chịu Đóng Đinh. Không chỉ của Chúa Kitô vinh quang, mà trên hết là của Chúa Kitô, Đấng đã chết cho chúng ta trên Thập Giá, vì lợi ích thực sự trong cuộc sống của một người nằm ở việc sẵn sàng phục vụ Tin Mừng về lòng thương xót, bác ái và quảng đại. Chúng ta không cứu mạng mình bằng tiền bạc và những thú vui để tận hưởng vô hạn, mà chỉ khi cuộc sống của chúng ta trở thành một món quà và sự hy sinh cho người khác.
Trong bài đọc thứ nhất trích từ sách tiên tri Isaia, người phát ngôn của Thiên Chúa nói về Đấng Messia chịu đau khổ và bị đóng đinh trong tương lai, Đấng sẽ bị hành hạ bởi những kẻ buộc tội Người. Người im lặng trước những người buộc tội mình, không phản ứng và chấp nhận thử thách tiến về phía trước trên con đường cứu độ nhân loại. Thực ra, Chúa Giêsu không chống cự, không lùi bước trước nỗi đau, thậm chí Ngài còn cho phép họ đánh đập và xúc phạm Ngài bằng mọi cách; nhưng Ngài, Con Đức Chúa Trời, biết rằng Thiên Chúa là Đức Chúa giúp đỡ mình, vì lý do này mà Ngài được tôn lên cao và chắc chắn không bị xấu hổ trên thập tự giá.
Đoạn văn này của tiên tri Isaia là một trong những đoạn văn quan trọng nhất đề cập đến mầu nhiệm thập giá của Chúa. Nói tóm lại, nó đề cập đến cuộc thử thách mà Chúa Giêsu sẽ phải đối mặt trong cuộc khổ nạn và sau đó là cái chết trên thập giá. Một bài thánh ca tiêu biểu trong Tuần Thánh.
Đoạn trích từ bức thư của Thánh Giacôbê Tông đồ cho chúng ta thấy một khía cạnh rất quan trọng ở cấp độ tôn giáo: mối quan hệ chặt chẽ giữa đức tin và việc làm. Nếu ai đó nói mình có đức tin nhưng không có việc làm, thì chỉ đức tin đó thôi không thể cứu được người ấy. Và người ấy đưa ra ví dụ về cách kết hợp lý thuyết tôn giáo với việc thực hành tôn giáo trong đời sống hằng ngày. không có quần áo, không có thức ăn hàng ngày và một trong các bạn bảo họ hãy đi bình yên, sưởi ấm và hài lòng ở nơi khác nhưng không ở đây với tôi và do đó không cung cấp cho họ những thứ cần thiết cho thân xác. Nói rằng bạn là một tín đồ có ích gì, bạn cầu nguyện, bạn đi nhà thờ, bạn thực hành nhiều tôn giáo, nếu đức tin không tương xứng với lòng bác ái thì điều tốt phải luôn luôn được thực hiện. Nếu đức tin không đi kèm với việc làm thì đức tin tự nó đã chết. Trong đoạn văn này, chúng ta có thể hiểu rõ tông đồ Giacôbê đặt đức tin và đức ái trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đến mức nếu thiếu đức ái thì đức tin chỉ là một ý hướng đạo đức, không hơn không kém. Hay nói rằng đó chỉ là một niềm tin lý thuyết và trừu tượng. Nếu đức tin không có sự tương ứng trong cuộc sống hàng ngày bằng cách làm điều tốt, thì đây thực sự là một thực tế chết chóc, không mang lại sự sống cho bản thân và người khác. Chúng ta phải hành động và sẵn sàng giúp đỡ những người đang đau khổ, hoạn nạn và bệnh tật. Vì vậy, hãy luôn làm điều thiện bất cứ lúc nào và trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Thực ra, nếu ai đó xin chúng ta một bộ quần áo vì họ không có hoặc không có gì để ăn, thì bổn phận đạo đức của người Kitô hữu là giúp đỡ mọi người mà không phân biệt đối xử. Chúng ta không được giả vờ không hiểu hoặc tệ hơn là quay mặt đi nơi khác để không giúp đỡ. Nếu chúng ta làm như vậy, có nghĩa là chúng ta chưa hiểu gì về đức tin đích thực, đức tin được thể hiện qua các công việc bác ái.
Thánh Giacôbê nhắc lại quan niệm mang tính giáo điều và thần học này, đó là đức tin không có việc làm là đức tin chết. Còn ai chết trong lòng vì không có khả năng yêu thương và làm điều thiện thì đức tin thực sự không còn tồn tại trong người đó nữa.
Vậy chúng ta có muốn trở thành người có đức tin không? Để được như vậy, đức tin của chúng ta cần được thể hiện qua những việc làm tốt, đặc biệt đối với những người đang gặp khó khăn và những người đang cần chúng ta giúp đỡ.
Chúng ta kết thúc suy tư của chúng ta vào Chúa nhật này với lời cầu nguyện tuyệt vời của lời nguyện nhập lễ, dẫn chúng ta vào việc cử hành thánh lễ: “Lạy Cha, Đấng an ủi những người nghèo khó và đau khổ và là Đấng lắng nghe những người công chính kêu cầu Cha, xin trợ giúp Hội thánh của Cha, nơi công bố Tin Mừng về thập giá, để có thể tin bằng trái tim và tuyên xưng bằng việc làm của mình rằng Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Amen”.
Thứ Hai tuần XXIV Tn
‘Ông ấy đáng được Ngài làm ơn cho’, những kỳ mục nài xin Đức Giêsu. Còn chính viên đại đội trưởng thì thưa: ‘Tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi’. Có một sự khác biệt lớn lao giữa công trạng, nghĩa là quyền mà chúng ta nghĩ mình có trên Thiên Chúa, và sự nghèo hèn được viên đại đội trưởng diễn tả. Tại sao lại xảy ra cho tôi điều này? Tôi hỏi và tôi không có đuợc câu trả lời. Danh sách những cố gắng ta nhắm mặc cả với Thiên Chúa có lẽ còn dài lắm. Con người, trước sự bất lực và khổ sở của mình, hướng về Thiên Chúa, nơi đấng mà họ thấy thực hiện toàn bộ những nhu cầu của họ, và trong một thái độ rất đẹp cho dẫu gần với lối suy nghĩ của người ngoại đạo, đó là con người được an ủi khi nghĩ rằng Thiên Chúa không thể không đáp trả bằng cách ban phát tất cả những gì họ cần. Tuy nhiên con người vẫn luôn bị cám dỗ mặc cả với Thiên Chúa. Tự nhiên con người nghĩ rằng lời cầu nguyện sinh ra một loại ‘bổn phận’ mà Thiên Chúa phải thực hiện.
Thiên Chúa là Cha. Ngài biết rõ những nhu cầu của ta và, vì Ngài có trái tim phụ tử, Ngài sẽ rất vui lòng khi chúng ta diễn tả những nhu cầu ấy cho Ngài. Ngài chờ đợi thái độ hiếu thảo của ta, dệt bằng lòng phó thác tuyệt đối. Đứa con chờ đợi tất cả từ cha mình. Một thiếu niên yêu cầu quyền lợi của mình, một người trưởng thành nhìn nhận sự nghèo hèn bẩm sinh của mình trước đấng mình lệ thuộc. Đó là tình cảnh của ta đối với Thiên Chúa: ‘Tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi’, để rồi ta được nghe câu trả lời: ‘Cả trong dân Israel, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế’. Vì lẽ đức tin không phải là yêu sách của con người đối với Thiên Chúa. Đức tin là lòng phó thác vào sự toàn năng của Thiên Chúa, đấng có thể thực hiện điều lớn lao hơn nhiều những ao ước của ta. ‘Về đến nhà, những người được sai đi thấy người nô lệ đã khỏi hẳn’.
Thứ Ba tuần XXIV Tn
Những giọi lệ của người mẹ
‘Lạy Chúa, xin lấy vò mà đựng nước mắt con’. Tại Naim người ta đang đi đưa đám tang: cái chết đã nhằm đến một thanh niên, đứa con trai duy nhất của bà mẹ góa. Những giọt nước mắt của bà, cùng với đoàn người than khóc đang đi theo chiếc quan tài. Đức Giêsu đang cùng ở trên con đường ấy với đám đông; ngài nghe tiếng khóc và ngài cũng hòa mình vào đoàn đưa đám, ngài cũng đang đi trên con đường của sự chết, tất cả đều là những người hay chết và đang trải qua thung lũng đầy nước mắt này. Tuy nhiên Ngài muốn chứng tỏ sứ vụ cứu độ của mình. Sau khi sống lại Ngài sẽ tuyên bố: ‘Ta đã chiến thắng sự chết’. Ngài nói điều đó để tuyên bố rằng ngài đã sống lại nhưng cũng để nói rằng chúng ta cũng được tiền định để hưởng sự sống. Ngài nói với chàng thanh niên đang nằm bất động trong quan tài: ‘Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy’. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ.
Hiệu quả của phép lạ không chỉ là niềm vui cho người mẹ, thấy đứa con mình đang sống, nhưng nhất là lời công bố của đám đông đi theo Đức Giêsu: ‘Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người’. Tuyên bố Đức Giêsu là ngôn sứ đồng nghĩa với việc khẳng định Ngài nói nhân danh Thiên Chúa những chân lý vĩnh cửu. Tuyên bố Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người là tuyên bố trong niềm tin rằng Đấng toàn năng đã can thiệp cách cụ thể trong dòng lịch sử, trong các biến cố của thế giới.
Lạy Chúa, xin hãy đến viếng thăm chúng con hôm nay, biết bao giọt lệ đang cần được lau khô, biết bao kẻ sống người chết đang được mang đi chôn…!
Thứ tư Tuần XXIV Tn
Trong bài tin mừng hôm nay, Đức Giêsu diễn tả hết sức sinh động thái độ trẻ con của những đứa trẻ không bằng lòng, đấu đá nhau bằng những lời quở trách. Chúng chẳng bao giờ đồng thuận với nhau, khước từ mọi đề nghị cuộc chơi. Chúng không muốn chơi trò đám cưới; chúng không diễn tả niềm vui. Như vậy có thể chuyển qua chơi trò đưa đám tang? Cũng không. Chúng cũng không thích hợp.
Đức Giêsu sử dụng cách đó để lột mặt thái độ tinh thần của nhiều người trưởng thành thời của ngài, nhất là của các biệt phái và tiến sĩ luật, được nêu danh ít lâu trước đó (Lc 7,30). Đức Giêsu quan sát thấy rằng chính họ cũng không đồng thuận với nhau. Họ luôn muốn nhắc lại, nhất là khi đề cập đến một sứ giả của Thiên Chúa đến với lời mời gọi sám hối. Thay vì nghiêm túc đón nhận sứ điệp của Thiên Chúa, họ dò xét người sứ giả và tìm đủ mọi cách để có cớ khinh thường vị này và từ đó cũng không đón nhận sứ điệp của Thiên Chúa.
Gioan Tẩy Giả đã đến sống nhiệm nhặt trong hoang địa, không ăn bánh, không uống rượu nho, nhưng bằng lòng với lương thực tìm thấy được trong hoang địa. Sự nhiệm nhặt như thế lẽ ra phải khiến cho những lời ngôn sứ của ông thêm uy tín. Thì lại trở thành đề tài chỉ trích cho các biệt phái và tiến sĩ luật, tự xem mình là chuyên gia về tôn giáo, cho rằng thái độ sống của Gioan là không hợp lý, không phải do Thiên Chúa linh hứng; nên có lẽ đến từ ma quỷ. Họ chẳng thèm quan tâm đến vị ngôn sứ dị kỳ này nữa.
Suy nghĩ đoạn tin mừng này, ta đừng quên áp dụng cho chính mình. Có lẽ chúng ta cũng chẳng khác nào lũ trẻ con không đồng thuận với nhau? Và cũng giống như các biệt phái và tiến sĩ luật chỉ trích Đức Giêsu về mọi đề nghị thay đổi đời sống?
Trong bản dịch tin mừng, có một từ hết sức ý nghĩa nhưng lại khó dịch chính xác. Khi nói về bọn trẻ con Đức Giêsu nói rõ chúng ‘ngồi’. Chúng ta có thể hiểu rằng lũ trẻ này từ khước mọi đề nghị bởi vì chúng không muốn đứng dậy và di chuyển. Cũng thế những lời chỉ trích của các tiến sĩ luật thực sự là một cách thế để bảo vệ ‘chủ nghĩa bất động’ thiêng liêng của họ. Họ không muốn thay đổi, không muốn từ khước cái vị thế cố định của họ để mặc lấy một lộ trình mới ngoan ngùy theo hướng dẫn của Thần Khí. Nên ta có thể hiểu rằng những chỉ trích chống lại các sứ giả của Thiên Chúa thường là loại này. Chúng chỉ trích để khỏi hành động, để khỏi vâng phục Chúa.
+++
Khi nhắc lại một câu châm ngôn cổ Do thái, Đức Giêsu cho ta thấy một nhóm các đứa trẻ (bị hội chứng điếc), không nghe bất cứ lời khiêu khích nào để bắt đầu một trò chơi. Sự lười biếng của các trẻ này giống như bệnh điếc lác của dân Israel khi họ từ chối những lời dạy của Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu. Ngài lột mặt nạ của họ, một lần cho tất cả, để lộ ra bộ mặt giả hình. Phía sau thái độ thụ động kia ẩn giấu một con tim chai cứng, chai cứng trước bất cứ lời kêu mời nào. Hội chứng điếc của Israel thật ra cũng chính là bệnh của mỗi người chúng ta, khi chúng ta không nhận biết ơn cứu độ đích thực mà Đức Giêsu mang đến.
Thứ Năm tuần XXIV Tn
Lòng thương xót, niềm vui của Thiên Chúa Đấng yêu đến độ tha thứ tất cả, niềm vui của Thiên Chúa Đấng nhìn thấy người phụ nữ đang làm một hành vi đức tin vào tình thương của Ngài. Tin vào tình thương. Tin vào lòng thương xót để trở nên nhân chứng của tình thương, của lòng thương xót, bởi lẽ thế giới đang cần đến lời chứng này. Là một thế giới cứng cỏi. không tin vào tình thương nhưng không, vào tình thương tự hiến chính mình, vào lòng thương xót.Ta đừng tự than trách về sự cứng cỏi của thời đại bởi vì lòng thương xót của Thiên Chúa hành động cách hiệu quả. Tôi là chứng nhân sống động về điều này, bởi vì Đức Kitô đang họa lại nơi tôi lịch sử của người phụ nữ tội lỗi.
Ý thức mình là hoa quả của lòng thương xót Thiên Chúa. Đức Kitô cho ta một dấu chỉ của lòng thương xót dịu dàng của Ngài nơi bí tích hòa giải. Đối với ta, đây có phải thường xuyên là suối nguồn sự sống không? Ta có để cho Đức Kitô vui mừng vì tha thứ cho ta không? Quả thật đây là bí tích thống hối: một hành vi đức tin vào tình thương. Thường thì ta lánh xa bí tích này. Vì ta thường nghĩ rằng đó chỉ là việc xưng thú tội lỗi của mình: việc xưng thú quả thật là điều quan trọng. Là một hành động của một con người tự do nhìn nhận mình là kẻ đáng thương và là tội nhân trước mặt Thiên Chúa. Lẽ ra ta nên nghĩ đến niềm vui của Thiên Chúa, Đấng, mà mỗi một lần con người, bằng một hành vi tự do và tự quyết, quay trở về với Ngài để được tha thứ, được nhìn nhận là Tình Yêu Thương Xót.
Nhờ bí tích sám hối, người tín hữu được thanh tẩy, nhìn nhận mình là đối tượng của việc tha thứ và do đó có thể trở nên chủ thể lòng thương xót. Họ sẽ có thể chứng nhận rằng Thiên Chúa là tình yêu, nếu chính mình để bản thân được tái sinh trong tình yêu. Bí tích sám hối là việc thực hiện lời sấm ngôn: ‘Ta sẽ ban cho các người một quả tim mới’. Lòng sám hối là việc thay đổi con tim. Con người dâng cho Thiên Chúa quả tim chai đá do tội lỗi của riêng minh và Thiên Chúa sẽ làm nó tái sinh, ôm ấp nó bằng sự tha thứ. Người tín hữu được thanh tẩy như thế đến lượt mình sẽ có khả năng yêu thương và tha thứ.
+++
Lòng mến tri ân
Phaolô viết cho Timôtêô: ‘Đừng thờ ơ với đặc sủng đang có nơi anh, đặc sủng Thiên Chúa đã ban cho anh khi hàng kỳ mục đặt tay trên anh’. Chúng ta hôm nay cầu nguyện đặc biệt cho các linh mục và các kitô hữu, để tất cả ý thức hơn về đặc sủng của thánh chức linh mục và coi trọng hơn.
Bài tin mừng thật súc tích, chỉ xin để ý một điểm nhấn để hiểu rõ lời Chúa hơn: tình yêu Thiên Chúa luôn đi trước mọi điều con người thực hiện. Người biệt phái, tự phụ, không nhận biết những ân huệ của Chúa, anh ta tin rằng chính mình làm điều này điều kia cho Chúa: anh không yêu Thiên Chúa. Người phụ nữ tội lỗi, ngược lại, biết đón nhận thật nhiều vì món nợ của bà lớn lắm: được Chúa tha vì đã yêu mến nhiều. Ai yêu mến nhiều? Người được Chúa tha nhiều. Điều đó không có ý muốn nói, như thông thường ta giải thích, rằng bà ta nhận được sự tha thứ cho muôn vàn tội của bà vì bà đã yêu nhiều, nhưng ngược lại: tình yêu của bà là dấu chỉ bà đã nhận được ân huệ lớn lao của Thiên Chúa: ơn tha thứ. Vấn nạn của người biệt phái là: ‘nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng đến mình là thứ người nào: một người tội lỗi!’ Bây giờ Đức Giêsu không chỉ nhận biết chị như người tội lỗi: Ngài nhận biết chị như người tội lỗi được tha thứ, vì nhìn thấy lòng mến của chị. Sự tha thứ của Thiên Chúa luôn đi trước, làm cho ta hiểu được tình yêu vô tận của Ngài và gợi lên nơi ta sự đáp trả.
‘Còn ai được tha ít thì yêu mến ít’. Lời xác quyết thứ hai này củng cố cho lời xác quyết thứ nhất. Không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Ngài yêu chúng ta trước. Bổn phận chúng ta là nhận ra tình yêu qua các ân huệ Ngài ban tặng cho ta, qua những lần tha thứ. Đó là điều kiện cần cho lòng mến của chúng ta. Nếu không, chúng ta sẽ giống như người biệt phái, tin rằng chính mình làm cho Thiên Chúa, không nhận ra tình yêu của Ngài và cuối cùng, không yêu Ngài.
Cầu xin Chúa ban cho ta ơn biết nhận ra rằng tình yêu của Chúa luôn đi trước. Trong lời nguyện tiến lễ, Giáo Hội luôn nhận biết điều đó: ‘Chúc tụng Chúa là chúa tể càn khôn, vì Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này…rượu này’, nhờ đó chúng con mới có thể tiến dâng lên Chúa. Chúng ta sẽ là những người khoác lác nếu nghĩ cách kiêu căng rằng chúng ta làm cho Chúa điều này điều nọ mà không nhận biết mình đã nhận trước tiên từ nơi Ngài. Lòng mến đích thực đối với Chúa luôn luôn là một lòng mến tri ân.
Thứ Sáu tuần XXIV Tn
Anrê Kim Têgon và Các Bạn tử đạo
Tác động của Thánh Thần, đấng muốn thổi đâu thì thổi, cùng với việc tông đồ của các người giáo dân làm nên cội nguồn cho Giáo Hội Chúa trên đất Đại Hàn. Hạt mầm đầu tiên của niềm tin công giáo do một người giáo dân Đại hàn mang về năm 1784 từ Bắc Kinh, đã trổ sinh hoa trái vào giữa thế kỷ XIX qua việc tử đạo của 103 thành viên của cộng đoàn non trẻ. Phải kể đến Anrê Kim Teagon, vị linh mục tiên khởi đại hàn và người tông đồ giáo dân Phaolô Chong Hasan. Những cuộc bách hại tiếp nối nhau từ 1839 đến 1867, hầu như bóp nghẹt niềm tin của các tân tòng, lại mang mùa xuân Thánh Thần cho Giáo Hội non trẻ. Ngày 06/05/1984 trong chuyến tông du mục vụ đến đất nước xa xôi này Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ghi vào sổ các thánh các vị tử đạo Đại Hàn.
+++
Các phụ nữ giúp đỡ Chúa
Trong đời sống công khai Đức Giêsu đã khơi dậy lòng quảng đại giúp đỡ của nhiều phụ nữ đi theo Ngài. Chắc chắn các bà đã không ‘coi việc giữ đạo là một nguồn lợi’ như Phaolô viết cho Timôtêô. Họ là những người được chữa lành, giải thoát, đã nhận từ nơi Chúa ý nghĩa đích thực cho cuộc sống, do đó họ sẵn sàng dâng cúng. Tất cả các thánh sử đều nhắc đến họ, nhưng các thánh sử khác chỉ nhắc đến trong tường thuật khổ nạn, vì họ trung thành đến cùng, trong khi các tông đồ trốn chạy. Và chúng ta còn gặp lại họ vào buổi sáng phục sinh, vì họ là những người đầu tiên đến mộ Chúa.
Đức Giêsu thấu hiểu tấm lòng của các bà, biết lòng quảng đại của họ. Ngài muốn họ cùng đồng hành với Ngài vì họ giúp ích cho sứ vụ của Ngài. Ngài đã kêu gọi Nhóm Mười Hai để họ ở với Ngài, và Ngài cũng gọi các bà để họ cũng ở với Ngài.
Luca là thánh sử viết về các bà nhiều hơn hết, vì tin mừng của ông trình bày những mối liên hệ cá biệt, thân tình với Chúa. Thánh Matthêô có một cái nhìn rộng hơn: viết cho cả Giáo Hội; Mátcô, đặc biệt chú trọng đến mầu nhiệm con người của Đức Giêsu; Luca quan tâm nhiều những mối liên hệ giữa con người với nhau, nhạy cảm hơn về vai trò của các bà trong cuộc đời của Đức Giêsu và các môn đệ Ngài. Máthêô, chẳng hạn, viết về thời thơ ấu của Đức Giêsu từ quan điểm của Thánh Giuse, trong khi Luca trong viễn cảnh của Maria, và trong tin mừng của Luca ghi lại nhiều giai đoạn có sự xuất hiện của các phụ nữ, mà các tin mừng khác không nói đến: ví dụ như việc làm cho con trai của bà góa thành Naim sống lại. Cũng chính Luca, trong tường thuật khổ nạn, nói đến việc các phụ nữ thành Giêrusalem khóc thương Chúa.
Các bài đọc hôm nay gợi lên cho chúng ta nhiều ý hướng cầu nguyện. Cầu cho các kitô hữu thời đại chúng ta biết tránh xa những hiềm khích, đố kỵ. cầu cho chúng ta biết tránh cám dỗ tiền bạc. Cầu cho những ai muốn làm giàu bằng mọi giá, để họ biết rằng sự ham muốn tiền bạc vô độ là cội rễ mọi sự dữ. Cầu cho các kitô hữu luôn hướng tìm điều thiện đích thực: là lòng tin, lòng mến, sự nhẫn nại, hiền hòa.
Thứ Bảy tuần XXIV Tn
Thánh Matthêô
Trong bài tin mừng hôm nay Matthêô tự thuật lại ơn gọi của chính mình. Thánh Giêrônimô lưu ý rằng chỉ có ngài, trong sách tin mừng của ngài, đã dùng chính tên riêng của mình Matthêô; trong khi các vị thánh sử khác, thuật lại việc này, gọi ngài với tên Lêvi, tên thứ hai của ngài, có lẽ ít được biết đến, hầu như để muốn giấu đi cái tên của người thu thuế. Mathêô ngược lại nhấn mạnh: ngài được Đức Giêsu biết đến như một người thu thuế, một trong những người thu thuế, cộng tác với quân Rôma đô hộ. Việc Đức Giêsu kêu gọi những người thu thuế gây cớ vấp phạm.
Matthêô tự trình bày mình như một người thu thuế được tha thứ và được kêu gọi, và như thế cho ta hiểu rằng ơn gọi làm Tông đồ nằm ở chỗ nào. Trước tiên phát xuất từ lòng thương xót của Chúa.
Trong tác phẩm của các Giáo Phụ thường nói đến các Tông Đồ như những vị hoàng tử; Matthêô không tự giới thiệu mình như hoàng tử, nhưng như một người tội lỗi được tha thứ. Và đây chính là nền tảng của việc tông đồ: đã lãnh nhận lòng thương xót của Chúa, đã hiểu sự nghèo hèn của mình và để cho mình được đổ tràn lòng thương vô bờ của Thiên Chúa: ‘Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đền để kêu gọi người công chính, mà kêu gọi người tội lỗi’.
Một người thấu hiểu được lòng thương xót của Thiên Chúa, không phải một cách trừu tượng, nhưng chính nơi bản thân mình, thì được chuẩn bị cho công việc tông đồ. Người không có tâm tình đó, dù được kêu gọi, cũng khó có thể chạm đến chiều sâu của các tâm hồn, vì không thông hiệp tình yêu thương của Thiên Chúa. Người tông đồ đích thực, như thánh Phaolô nói, thì đầy lòng khiêm nhượng, hiền hòa, kiên nhẫn: sự khiêm tốn của Thiên Chúa cúi mình trên các tội nhân, mời gọi họ và nâng họ lên.
Ta hãy cầu xin Chúa cho ta có được tâm tình thấu hiểu sự nghèo hèn của mình và lòng thương xót vô biên của Chúa; chúng ta là những tội nhân được tha thứ. Dù ta không phạm những tội nặng, ta cũng có thể nói như thánh Augustinô rằng Chúa tha cho ta trước các tội lỗi, để nhờ đó mà ta không lỗi phạm. Hãy cảm tạ Chúa vì tình yêu thương vô cùng của Ngài, nhìn nhận mình là kẻ nghèo hèn, là tội nhân được tha thứ, và vui mừng vì lòng nhân từ của Thiên Chúa.
+++
Mảnh đất tốt! Dụ ngôn gieo giống thật đánh động vì tính đòi buộc. Nhưng ta đừng rơi vào những vấn nạn giả tạo. Quả vậy, ta nên tự hỏi mình đang là loại mảnh đất nào. Nhưng đây không phải là việc chúng ta tìm ra năng động cần thiết để trở thành mảnh đất tốt nơi đó lời phát sinh gấp trăm lần. Ta nên nhìn, chiêm ngắm thánh ý của Thiên Chúa, Đấng muốn gieo vào lòng ta. Hạt giống thì rất phong phú: “Người gieo giống ra đi gieo hạt”. Con Thiên Chúa đã ra đi, đã đến giữa con người để gieo sự sống của Thiên Chúa, để gieo cách phong phú. Là đối tượng lòng thương của Thiên Chúa Đấng xem cuộc đời của ta như là cánh đồng nhằm phát triển. Thiên Chúa chúng ta là một vị Thiên Chúa đòi hỏi vì Ngài là một Thiên Chúa quảng đại.
Lòng quảng đại của Thiên Chúa còn vượt nhiều hơn nữa. Thiên Chúa là Đấng duy nhất có khả năng chuẩn bị cánh đồng là tâm hồn chúng ta để sẵn sàng đón nhận lời của Ngài. Quả vậy, Ta phải thức tỉnh để tránh cạm bẫy của tên cám dỗ, để loại bỏ những đá sỏi và gai góc, nhưng ta cần tín thác quay về với Thiên Chúa Đấng ban tặng mọi điều thiện hảo.
Thiên Chúa muốn làm cho cuộc đời ta phát sinh hoa quả. Ngài cũng có thể làm như thế cho tâm hồn ta. Ta là kẻ đáng thương trước mặt Ngài và chỉ khi ta biết hướng về Ngài tự sâu thẳm của thống khổ lòng mình, ta mới có thể trở nên ‘mảnh đất màu mỡ’.
+++
Lời mang sự sống
Sự lạm dụng lời nói ngày nay làm chúng ta nghi ngờ về hiệu quả của nó. Quảng cáo, tuyên truyền…đầy vào trong tâm trí chúng ta khiến không còn cho cái gì vào được nữa. Tuy nhiên lời nói của con người là điều kỳ diệu, đưa đến sự sống. Nếu một đứa trẻ chẳng bao giờ nghe được một lời nói từ mẹ nó, nó không thể nhận được sự sống con người cách đích thực được, có thể sẽ giống như con vật. Chính người mẹ gợi lên trí khôn cho con, và làm phát sinh dần dần nhưng ý tưởng, những tình cảm. Thật tuyệt diệu đến thế mà chúng ta hiếm khi nghĩ đến, vì quá quen nghe những lời chẳng có ý nghĩa gì và chẳng mang lại ích lợi gì.
Còn lời của Chúa thì vô cùng phong phú, vì đưa ta đến sự sống thần linh. Chúng ta cần có sự kính trọng đối với lời Chúa như thánh Giacôbê nói: ‘Hãy khiêm tốn đón nhận lời đã gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em’ (Gc 1,21). Đức Giêsu cũng nói như thế. Lời Ngài thanh tẩy các tông đồ, làm cho các ông trở nên bạn hữu của Ngài: ‘Thầy không còn gọi các con là tôi tớ nữa, nhưng là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha, thì Thầy đã cho các con biết’. Đức Giêsu đã nghe lời của Chúa Cha, đã truyền đạt lại và lời đó mang lại sự sống mới, sự sống thân tình với Thiên Chúa.
Nhưng, như thánh Luca viết, chỉ đón nhận thôi thì chưa đủ; cần phải nhẫn nại, kiên trì để lời Chúa sinh hoa kết quả nữa. Không chỉ nghe lời mà còn phải gìn giữ lời cả những lúc gặp trở ngại, cả khi kẻ thù bóp nghẹt, làm cho lời Chúa rời xa tâm trí ta để khỏi làm biến đổi cuộc sống của ta.
Gương mẫu của Mẹ Maria, đón nhận và tuân giữ lời Chúa: ‘Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hãy thành sự cho tôi những lời đã phán’. Và ‘Ngôi Lời đã thành nhục thể’. Việc Mẹ Maria đón nhận, một cách nào đó, đã cho phép lời biến thành nhục thể để mang lại ơn cứu độ cho mọi người.
Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê
Cha Thánh Piô
Cha Thánh Piô sinh tại Pietrelcina gần Benevento (Ý) năm 1887. Thuộc dòng Anh Em Hèn Mọn Cappuccino. Thi hành chức vụ linh mục của mình trong cộng đoàn San Giovanni Rotondo miền Puglia. Phục vụ trong cầu nguyện và trong khiêm tốn dân Chúa qua việc linh hướng, hòa giải hối nhân, nhất là qua việc chăm sóc những người đau bệnh và nghèo khổ. Đồng hình đồng dạng với Đức Kitô chịu đóng đinh (năm dấu thánh), Ngài kết thúc cuộc đời trần gian vào ngày 23.09.1968. Được ĐTC Gioan Phaolô II phong hiển thánh ngày 16.06.2002.
Cha Piô là con người đặc biệt của Thánh Lễ và bí tích hòa giải. Trong Thánh lễ cũng như nơi bí tích hòa giải, Cha Piô sống với cả con người thực sự. Nơi tòa giải tội ngài sống thực những đau khổ như thể đang mang nặng những tội lỗi mà các hối nhân đến bày tỏ với ngài. Thánh Phaolô đã dùng ngôn ngữ mạnh khi nói: ‘Vì chúng ta mà Thiên Chúa đã làm cho con của ngài nên kẻ bị chúc dữ, nên kẻ có tội, Đức Giêsu bị đồng hóa với tất cả tội lỗi nhân loại. Nơi Cha Piô ta cũng thấy đại loại như vậy. Ngài sống, cảm nghiệm và đau khổ vì tội lỗi. Ngài tham dự vào máu Đức Giêsu đổ ra để xóa tội lỗi. Bí tích hòa giải là việc áp dụng máu của Đức Kitô để tha tội. Ngài sống cái ý thức của thảm kịch đẫm máu mà tội lỗi gây ra cho Đức Kitô: là sự thương khó với tất cả sự tàn bạo. Từ đó Cha Piô có thái độ khó chịu với những kẻ tái phạm, xưng tội mà thiếu lòng thống hối ăn năn, do không thành tâm, do không hối cải. Ngài sẵn sàng để cho máu Đức Kitô đổ ra tha tội, nhưng không muốn máu ấy đổ ra cách vô ích.
Một khía cạnh khác trong đời sống của Cha Piô nơi tòa giải tội là ơn biết được những điều trong lòng người khác. Điều này không thường xuyên. Những người đi xưng tội với Cha nhiều năm xác nhận điều này. Họ xác nhận là ngài đã giải tội như bất cứ một linh mục nào. Nhưng đôi lúc, nhiều người chỉ mới vừa quỳ gối, chưa kịp mở miệng, thì Cha Piô đã nói cho họ mọi điều họ đã làm và những gì họ đang chuẩn bị xưng tội. Với vài người khác Cha nói ngay: ‘Con hãy đi đi! Không giải thích gì cả. Nhiều người trong số họ đi ra, thất vọng, hoặc giận dữ: Sao tôi lại đến nơi này nhỉ? Chẳng bao giờ tôi đặt chân đến đây nữa đâu! Nhưng thật tình Cha Piô vẫn theo dõi họ bằng lời cầu nguyện. Vì đó là những người mà Ngài yêu mến hết lòng.
Thụ phong linh mục năm 1910, Cha Pio phải ở lại Pietrelcina một thời gian dài vì lý do sức khỏe (1910-1916). Từ ngày thụ phong linh mục, đối với ngài mỗi thánh lễ ngài dâng đều là ‘thánh lễ đầu tay’, là thiên đàng của ngài. Có điều là: quá dài! Nên giáo dân Pietrelcina than phiền việc đó lên Cha hạt trưởng. Rốt cuộc họ cũng phải vâng lời để thánh lễ tiếp tục, dù đôi lúc xuất thần, Cha Piô dừng lại lâu giờ. Sau lễ, Cha dừng lại thật lâu phía sau bàn thờ để cám ơn Chúa. Có khi kéo dài cho đến trưa.
Một ngày sau lễ phong hiển thánh cho Cha Pio, ÐTC Gioan Phaolô II tiếp kiến hàng ngàn khách hành hương trong đại sảnh đường Phaolô VI. ÐTC điểm lại những bài học về cuộc sống của vị thánh, và đề cử thánh nhân làm mẫu mực cho đời sống thiêng liêng lẫn đời sống nhân bản. Cha Pio là vị thánh thứ 462 được ÐTC Gioan Phaolô tôn phong, trong triều giáo hoàng của Người. Trung Tâm Hành Hương tại San Giovanni Rotondo, miền nam Ý, nơi Cha Pio sống, tiếp đón mỗi năm hơn 6 triệu khách hành hương, đứng thứ 3 xét về số lượng người đến thăm viếng, sau đền thánh Guadalupe ở Mêhicô và Tòa Thánh Vatican.
Theo ÐTC, bí quyết khiến vị thánh được nhiều người ngưỡng mộ và yêu mến như vậy trước tiên là do thánh nhân thực sự trở thành một người anh em của mọi người, đúng như đặc tính truyền thống của các tu sĩ Capuccinô. Thêm nữa, cha còn là một vị ‘làm nhiều phép lạ’ thánh thiện, như bao biến cố ngoại thường, trong đời cha, đã chứng minh. Suốt đời sống của cha, là một cuộc tham dự vào mầu nhiệm thánh giá, kể cả về phương diện thể lý.
Trước đây, Ðức Karol Woityla, vị giáo hoàng tương lai, đã đến thăm Cha Pio vào năm 1947, và đã xưng tội với vị thánh này tại tu viện ở San Giovanni Rotondo.