Tuần 56: Sách Isaia III (chương 56-66)
TỔNG QUÁT
Chương 40-55 được viết tại Babylon khi dân Do thái sắp được hồi hương, còn các chương 56-66 được viết sau đó, phản ánh những vấn đề của cộng đồng Do thái thời hậu lưu đày. Vào thời kỳ này, cộng đồng Do thái bao gồm những người từ nơi lưu đày trở về, lại có những người không bị lưu đày và vẫn ở lại quê hương, và cả những người ở lại Babylon chứ không trở về quê nhà. Tình hình xã hội bất ổn và phức tạp, đời sống khó khăn… tất cả đều ảnh hưởng đến đời sống đức tin của dân, nhiều người không còn trung thành với niềm tin truyền thống của cha ông, và việc thờ cúng ngẫu tượng có cơ hội phát triển mạnh.
Có lẽ tác giả của những chương này là các môn đệ của Isaia đệ nhị. Các môn đệ này tạo thành một nhóm đặc biệt trong cộng đoàn thời hậu lưu đày, và họ cho rằng mình có trách nhiệm thực hiện sứ mạng của Người Tôi tớ được nhấn mạnh nhiều trong Isaia đệ nhị.
TIN MỪNG CHO NGƯỜI NGHÈO (61,1-11)
Chương 61 được coi là chương trọng tâm trong Isaia đệ tam. Những câu mở đầu rất giống những bài ca về Người Tôi tớ trong Isaia chương 42 và 49: “Thần Khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi…” Nhà tiên tri xem mình là người thi hành sứ mạng của Người Tôi tớ. Các tù nhân ở đây là những người bị lưu đày bên Babylon. Năm hồng ân là năm sabát, theo truyền thống là năm tha nợ và giải thoát nô lệ (x. Đnl 15, so sánh với Lêvi 25). Việc xức dầu ở đây có lẽ mang tính hình tượng, vì thông thường các tiên tri không được xức dầu, dù 1V 19,16 kể rằng Elia đã xức dầu cho Elisê.
Trong văn mạch của Isaia đệ tam, bản văn này làm nổi bật mối quan tâm đối với người nghèo, mối quan tâm đã được nhấn mạnh trong chương 58 và 59. Tuy nhiên tầm quan trọng của bản văn này vượt qua khung cảnh lịch sử, và được coi như bản tóm tắt về sứ mạng của mọi môn đệ trong mọi thời đại. Trong Phụng vụ Lễ Dầu vào Thứ Năm Tuần Thánh, cùng với bản văn này, Hội Thánh công bố Tin Mừng Luca 4,17-19, kể lại việc Chúa Giêsu vào hội đường Nadarét, đọc bản văn này trước cộng đoàn và công bố, “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe.”
Mỗi người Kitô hữu cũng có thể đọc và suy niệm bản văn này từ hai góc độ: góc độ của người nghèo đón nhận Tin Mừng, và góc độ của sứ giả loan báo Tin Mừng. Từ góc độ của người nghèo, chỉ khi nào ta đủ khiêm tốn để nhận ra tình trạng nghèo nàn của mình trong đời sống tâm linh, bị giam cầm trong ngục tù tội lỗi, và tâm hồn tan nát vì khổ đau… lúc ấy ta mới khám phá Lời Chúa thực sự là Tin Mừng cho chính mình. Từ góc độ sứ giả loan báo Tin Mừng, bản văn này giúp ta ý thức lại sứ mạng của người Kitô hữu, sứ mạng tiên tri, sứ mạng công bố ơn tha thứ và ơn hoà giải của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta gặp gỡ.
TỐ CÁO HÀNG NGŨ LÃNH ĐẠO
(56,9 – 57,21)
Các nhà chú giải không hoàn toàn nhất trí về nguồn gốc và ý nghĩa của bản văn này. Một số học giả cho rằng bản văn này đã có từ trước lưu đày vì giống những lời sấm trước lưu đày chống lại việc thờ ngẫu tượng. Nhưng những học giả khác lại cho rằng bản văn nhắm đến hàng ngũ lãnh đạo thời sau lưu đày.
Rõ ràng bản văn lên án những người lãnh đạo lúc đó bằng những từ hết sức mạnh mẽ như “đui mù,” “chó câm,” “chó đói”: “Những người canh gác Israel đui mù hết, chẳng hiểu biết gì; cả bọn chúng là lũ chó câm, không biết sủa… lũ chó đói, ăn chẳng biết no… Thế mà chúng lại là mục tử, mục tử chẳng biết phân biệt gì.” Những từ ngữ trên mang tính cực đoan nhằm diễn tả tình trạng tồi tệ lúc đó. Những hình ảnh mà bản văn sử dụng để nói về các nhà lãnh đạo như “người canh gác” (Ez 3,17; 33,1-9), “mục tử” (Ez 34), giúp người đọc đối chiếu trách nhiệm của người lãnh đạo tôn giáo và thực trạng đang diễn ra.
Bản văn này không chỉ là lời tố cáo hàng ngũ lãnh đạo đương thời nhưng còn là lời cảnh giác đối với tất cả những ai có trách nhiệm lãnh đạo trong Giáo Hội. Nhà lãnh đạo phải là người canh gác cho dân để phát hiện những mối nguy hiểm đang rình rập và gây nguy hại cho đời sống tinh thần của dân. Nhà lãnh đạo phải là người dám nói lên tiếng nói của sự thật và lên án những gian dối; nếu không, họ sẽ bị kết án là “chó câm”! Nhà lãnh đạo phải là người biết quên mình để phục vụ hạnh phúc của dân chứ không thể lợi dụng dân mà thoả mãn bản thân; bằng không họ chỉ là “chó đói.”
Tuần 57: Sách Dacaria II
I. TỔNG QUÁT
Sách Zacaria không cho biết tên tác giả. Mặc dù những phát hiện tại Qumran cho thấy không có sự phân chia giữa Zacaria 1-8 và 9-14 (tức là Zacaria I & II), các học giả ngày nay vẫn cho rằng đây là hai phần tách biệt dựa vào những khác biệt về nội dung, văn phong, và từ vựng. Về nội dung, Zacaria I quan tâm đến việc tái thiết đền thờ, các khuôn mặt lịch sử, và các lời sấm được xác định về thời gian; còn Zacaria II lại quan tâm đến án xử của Thiên Chúa và những lời hứa mang tính cánh chung. Về văn phong, Zacaria là tuyển tập chín thị kiến và những lời giải thích được viết như thơ; còn Zacaria II là một chuỗi những lời sấm quy chiếu về các tiên tri thời trước. Về từ vựng, Zacaria I bắt đầu bằng công thức truyền thống của các tiên tri, còn Zacaria lại bắt đầu hai phần lớn trong sách bằng câu “Lời sấm: Lời của Đức Chúa…” (9,1; 12,1).
Chúng ta cũng không có được những chi tiết xác định thời gian tác phẩm được biên soạn. Tuy nhiên các học giả dựa vào một số điểm để xác định thời gian biên soạn: (1) việc sử dụng các lời tiên tri trước và trong thời lưu đày (Isaia, Hôsê, Giêrêmia, Ezekiel, Gioel); (2) một vài ám chỉ đến những biến cố xảy ra sau năm 333 trước Công nguyên (x. chương 9); (3) văn phong và nội dung mang tính cánh chung, đặc biệt chương 14, gợi ý về thời kỳ sau khi mới từ lưu đày trở về. Dựa vào những chi tiết trên, các học giả cho rằng sách Zacaria II đã được biên soạn sau cuộc chinh phục của Alexander đại đế (năm 333 trước CN) và trước năm 200 trước Công nguyên.
Zacaria II được chia thành hai phần chính:
– Phần I: Án xử của Thiên Chúa (9,1 11,17)
– Phần II: Phục hưng (12,1 – 14,21)
II. CHÂN DUNG ĐẤNG MÊSIA
Từ Mêsia trong tiếng Do thái được dịch sang tiếng Hi Lạp là Christos (tiếng Việt là Kitô), có nghĩa là Đấng-được-xức-dầu. Sách Zacaria II trình bày dung mạo Đấng Mêsia đích thực, và chân dung này sẽ được thể hiện trọn vẹn nơi Chúa Giêsu.
Đấng Mêsia là Đức Vua nhưng không phải vị vua theo quan niệm quen thuộc của người đời. Người là vị vua khiêm tốn, khó nghèo: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9). Chính vị vua khiêm tốn và nghèo khó đó sẽ “công bố hoà bình cho muôn dân, thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất” (9,10).
Thế nhưng Đấng Mêsia lại bị dân Chúa ruồng bỏ và giết hại như hình ảnh Người Tôi tớ trong sách Isaia, để rồi họ khám phá ra chính Người là nguồn Ơn Cứu độ: “Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu, như người ta khóc than đứa con một. Chúng sẽ thương tiếc như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng…. Ngày ấy, một dòng suối sẽ vọt ra cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem để tẩy trừ tội lỗi và ô uế” (12,10 – 13,1).
III. SÁCH ZACARIA II TRONG CỬ HÀNH PHỤNG VỤ
Trong Phụng vụ Mùa Vọng, vào Chúa nhật Hồng giữa mùa Tím, Hội Thánh mượn lời của Zacaria II mà hát lên niềm vui của mình: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi” (9,9). Lễ Giáng sinh đang đến gần, Chúa Kitô sắp được sinh ra, lấp đầy những khát vọng sâu xa nhất của lòng người.
Trong Phụng vụ Mùa Chay, vào ngày Lễ Lá, khi tưởng niệm việc Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem và được mọi người tung hô chào đón, Hội Thánh lại lấy lời của Zacaria II mà nhắc nhớ: “Đức Vua khiêm tốn, ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,10). Quả là một hình ảnh khiêm tốn, và hình ảnh ấy là luồng ánh sáng soi chiếu suốt hành trình Tuần Thánh, ở đó chúng ta chiêm ngắm Vua Giêsu hấp hối trong vườn Dầu, bị bắt bớ và đánh đập dã man, bị kết án và vác thập giá lên đồi Canvê, cuối cùng bị đóng đinh vào thập giá, một hình khổ chỉ dành cho quân trộm cướp và phản loạn vào thời đó. Nhưng chính Vua Giêsu đó là Đấng mà người ta phải ngước nhìn và than khóc (12,10). Cũng từ cạnh sườn vua Giêsu ấy, một dòng nước và máu sẽ chảy ra, dòng nước thanh tẩy mọi tội lỗi và ô uế, dòng nước ban tràn đầy ân sủng. Thánh Gioan đã ghi lại thật vắn tắt nhưng cũng thật phong phú ý nghĩa: “Một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin… Có lời Kinh Thánh chép rằng: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19,34-37).
ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Nguồn: WGPSG
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn