Tuần 44: Sách Giêrêmia, chương 24-39.
1. TIÊN TRI GIÊRÊMIA VÀ GIAO ƯỚC MỚI (30,1 – 33,26)
Gier 31,1-40 cho thấy Giêrêmia chịu ảnh hưởng của tiên tri Hôsê về mặt thần học cũng như về ngôn ngữ và văn phong. Cả hai đều sử dụng ngôn ngữ hình tượng để nhấn mạnh đến tình yêu Thiên Chúa dành cho Israel, đồng thời loan báo giao ước mới và vĩnh cửu hoặc cuộc hôn nhân mới và vĩnh cửu (Gier 31,31-34 và Hôsê 2,18-25).
– Câu 1-6 : loan báo dân sẽ được thoát cảnh lưu đày, nhấn mạnh tình yêu của Chúa: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở”
– Câu 7-14 : niềm vui của những người bị lưu đày nay được trở về: “Reo vui lên mừng Giacóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân”
– Câu 15-20 : kêu gọi dân đừng than khóc nữa (qua nhân vật Rakhel). Thánh Matthêu cũng dùng hình ảnh này (Mt 2,18). Dân sẽ được thoát cảnh lưu đày, sẽ hối cải, và được Thiên Chúa thứ tha.
2. Giao ước mới (31,31-34)
“Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập… Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta…”
Đây là lời tiên tri nổi tiếng, làm nền cho giáo huấn thần học của Tân Ước về Giao Ước Mới được thực hiện trong Chúa Giêsu Kitô: “Anh em là bức thư của Đức Kitô được giao cho chúng tôi viết, không phải viết bằng mực đen nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người… Khả năng của chúng tôi là do ơn Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng tôi khả năng phục vụ Giao Ước Mới, không phải Giao Ước căn cứ trên chữ viết nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống” (2Cor 3,3-6).
Cái “Mới” ở đây là hoa trái của giao ước và phương thế mang lại hoa trái đó: chính Chúa và chỉ một mình Chúa đặt vào tâm hồn con người năng lực đáp trả tình yêu của Ngài. Chúng ta gọi là ân sủng. An sủng đó được ban cho ta cùng với ơn tha thứ tội lỗi, khi ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu là Đấng đã chết vì yêu thương ta.
3. TIÊN TRI THẬT VÀ TIÊN TRI GIẢ (27,1 – 29,32)
Chương 27 trình bày bối cảnh cuộc xung đột giữa tiên tri Giêrêmia và Hananiah (Kha-nan-gia). Năm 593 trước Công nguyên, vua Zedekiah của Giuđa âm mưu chống lại Nabuchodonosor bằng cách mời đại diện các nước Edom, Moab, Ammon, Tyre và Sidon đến Giêrusalem. Dùng một cái ách làm tượng trưng (dụ ngôn bằng hành động), Giêrêmia loan báo cho vua cũng như các vị đại sứ rằng họ sẽ không thành công nhưng sẽ phải chịu cái ách thống trị của Babylon.
Trong bối cảnh trên, chương 28 trình bày cuộc đối đầu giữa Giêrêmia (tiên tri thật của Chúa) và Hananiah (tiên tri giả). Hananiah loan báo thành công (28,1-4). Giêrêmia tố cáo Hananiah nói sai (28,5-9). Hananiah tháo cái gông ra khỏi cổ của Giêrêmia mà ném xuống đất và lập lại lời loan báo về sự thành công (28,10-11). Cuối cùng Giêrêmia nói tiên tri về cái chết của Hananiah trong vòng một năm vì “Đức Chúa chẳng hề sai ông, thế mà ông lại làm cho dân này tin vào điều dối trá.”
Chương 29 tiếp tục trình bày cuộc chiến đấu của Giêrêmia chống lại các tiên tri giả. Trong cảnh lưu đày Babylon, các tiên tri giả quả quyết với dân rằng họ sẽ sớm được hồi hương nhưng Giêrêmia phi bác lời tiên tri đó bằng cách gửi cho dân một lá thư. Ngài khuyên dân chấp nhận định cư ở đó (câu 4-6), cầu nguyện cho sự thịnh vượng của Babylon (câu 7), đừng để các tiên tri giả lường gạt (câu 8-9). Sau đó (câu 10-14) Giêrêmia đoan quyết với dân rằng sau 70 năm, Chúa sẽ đảo ngược số phận của họ và đem họ về quê hương xứ sở của họ.
4. Làm thế nào để phân biệt tiên tri thật và tiên tri giả?
Hãy đọc Gier 28,7-9 và 29,8-9 và tìm ra một vài dấu hiệu nhận diện tiên tri giả.
“Các tiên tri có trước tôi và ông từ ngàn xưa đã tuyên sấm về nhiều xứ sở và vương quốc hùng mạnh, là sẽ có chiến tranh, tai ương và ôn dịch; còn tiên tri nào tuyên sấm có bình an, thì chỉ khi nào lời tiên tri ấy ứng nghiệm, ông ta mới được nhìn nhận là tiên tri Đức Chúa sai đến thực sự” (28,8-9)
“Các ngươi chớ để cho mình bị lầm lạc vì các tiên tri đang ở giữa các ngươi cũng như vì các tay bói toán; đừng tin theo mộng mị các ngươi mơ thấy, bởi vì chúng chỉ nhân danh Ta mà tuyên sấm điều dối trá cho các ngươi. Ta chẳng hề sai chúng đi” (29,8-9).
Tuần 45: Sách Giêrêmia, chương 40 – 52.
I. PHẦN KẾT SÁCH GIÊRÊMIA (52,1-34)
1. Giêrusalem sụp đổ (52,1-16)
Cuộc vây hãm bắt đầu vào tháng giêng năm 588 trước Công nguyên và kết thúc vào tháng 7 năm 587. Binh lính bỏ chạy, bị bắt, vua Zedekiah bị đâm mù mắt… những điều này đã được nói đến ở chương 39,5-7. Một tháng sau, Nebuzaradan, quan chỉ huy thị vệ của vua Babylon, đến để giám sát việc phá hủy thành phố và đưa dân đi đày.
2. Lưu đày (52,24-30)
Đem dân thua trận đi lưu đày là cách thế hiệu quả nhất để ngăn chặn những cuộc nổi loạn có thể bùng phát. Assyria đã từng làm như thế (x. 2V 17). Lưu đày không có nghĩa là đưa toàn bộ dân chúng sở tại đi, nhưng chỉ đưa những người có thế lực và ảnh hưởng đi vì sự hiện diện của họ có thể khơi dậy các cuộc phản kháng và chống đối. Câu 28-30 đưa ra những con số dân lưu đày thuộc 3 nhóm: năm 597, 587, và năm 582.
3. Vua Jehoiachim được tha (52,31-34)
Năm 598, Ông vua trẻ này lên nối nghiệp cha mới được 3 tháng thì bị đày sang Babylon làm con tin. Ông được trả về năm 561. Nhiều người Do thái đang bị lưu đày cũng như đã được về quê hương nhìn vị vua này là vị vua chính thức (chứ không phải vua Zedekiah). Vì thế việc ông ra khỏi tù được coi là dấu chỉ hi vọng cho tương lai. Cách đối xử đặc biệt mà vua Babylon dành cho vị vua này cũng nhằm nói lên ý nghĩa này: nhắc nhớ cho dân Israel lời tiên tri của Giêrêmia rằng thời lưu đày sẽ chấm dứt và họ sẽ được trở về miền đất quê hương.
II. TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA TIÊN TRI GIÊRÊMIA
Giống như Môsê và Chúa Giêsu, Giêrêmia sống vào thời điểm bước ngoặt của lịch sử, và đóng vai trò cầu nối giữa giai đoạn cũ và giai đoạn mới. Trong thị kiến mở đầu, sứ vụ tiên tri của ngài được mô tả là “để nhổ, để lật, để hủy, để phá, để xây, để trồng” (1,10). Trong thực tế, ngài đã làm đúng từng chữ như thế. Ngài đã thấy đế quốc Assyria biến mất khỏi vũ đài lịch sử, và Babylon bước lên thay thế. Ngài đã loan báo sự sụp đổ của vương quốc Giuđa và giao ước Sinai, đồng thời tiên báo việc thiết lập Giao Ước Mới. Ngài đã tuyên bố rằng các vua dòng dõi Davít bị ruồng bỏ, đồng thời loan báo một Đavít mới.
Có thể nói về Giêrêmia rằng không có ai đóng góp nhiều cho dân tộc mình bằng ngài nhưng lại là người bị đối xử tệ hại nhất. Tuy nhiên điều quan trọng không phải là những đau khổ ngài phải chịu, mà là sự phục sinh của một dân tộc. Sự phục sinh này là một trong những kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa lại làm việc qua con người, và Giêrêmia là người đóng góp tích cực nhất.
Khi ngài bắt đầu xuất hiện vào năm 626 trước Công nguyên, khó có người Israel nào có thể hình dung Giêrusalem sẽ bị vây hãm và Đền thờ bị phá huỷ. Ai cũng nghĩ rằng Thiên Chúa đã tuyển chọn các vua dòng dõi Đavít và đã gắn bó với Giêrusalem, nên Giêrusalem bất khả xâm phạm. Việc họ đánh bại Sennacherib thời Isaia lại càng làm cho họ vững tin hơn. Đây là lý do giải thích tại sao họ chống lại Babylon và đến phút cuối, vẫn hi vọng Chúa sẽ can thiệp và hạ gục vua Babylon.
Giêrêmia đã cố gắng chống lại quan điểm tôn giáo sai lầm này. Ngài nhắc cho dân chúng nhớ rằng Thiên Chúa có thể hủy diệt Giêrusalem và ruồng bỏ hàng vua chúa thuộc dòng dõi Đavít. Điều ngài nhấn mạnh là việc Giêrusalem thất thủ không phải là do đế quốc Babylon nhưng là công việc của Chúa, và Chúa dùng Babylon như khí cụ. Thế là ngài bị chế giễu, khinh khi, nguyền rủa. Các tiên tri giả chiến thắng!
Thế nhưng khi Ngày của Đức Chúa đến, khi Giêrusalem bị tàn phá, khi vua chúa bị lưu đày… người ta nhớ lại lời của Giêrêmia. Và lời rao giảng của ngài, những dụ ngôn (bằng lời và hành động) của ngài được nhìn trong ánh sáng mới. Dân Chúa học được bài học đó đã là đáng quý nhưng phải trả giá quá đắt.
Điều đáng mừng là lời tiên tri của Giêrêmia không dừng ở đó. Bên cạnh thúng vả xấu, còn có thúng vả tốt (24,1-10); bên cạnh lời loan báo hủy diệt, còn có lời hứa hi vọng: “Khi mãn 70 năm, Ta sẽ viếng thăm để trừng phạt Babylon và dân ấy vì tội lỗi của chúng…” (25,12) và “Người ta sẽ còn tậu nhà cửa, ruộng nương, vườn tược trong xứ này” (32,15). Và những lời loan báo về giao ước mới (31,31-34; 32,40) cũng như lời hứa về một Đavít mới (33,14-26).
Trong cảnh tang thương, người ta nhớ lại lời tiên tri Giêrêmia và hiểu ra rằng tương lai của dân tộc tùy thuộc vào việc người ta trung thành hay bất trung với giao ước đã ký kết với Thiên Chúa. Trong ánh sáng đức tin, người ta hiểu được ý nghĩa những biến cố xảy ra. Và đức tin ấy tiếp tục được thắp lên giữa tăm tối của thời lưu đày, trở thành gạch nối giữa một Israel đau khổ của lưu đày và một Israel được hồi sinh từ nấm mồ lưu đày để bước vào một trang mới của lịch sử Dân Chúa. Giêrêmia là người đã đóng góp phần tích cực nhất cho lịch sử đó.
ĐGM. Nguyễn Văn Khảm
Nguồn: WGPSG
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn