Lời Chúa: Is 56, 1.6-7; Rm 11, 13-15.29-32; Mt 15, 21-28
MỤC LỤC
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau tìm hiểu về đức tin của người đàn bà xứ Canaan, một đức tin đã từng làm cho Chúa Giêsu xúc động và chiếm được tình thương của Ngài. Vậy thì đức tin ấy như thế nào?
Trước hết đức tin ấy là một đức tin khiêm tốn
Thực vậy, người phụ nữ bất hạnh có đứa con gái đau yếu, và bà đã kêu tới Chúa Giêsu, nhưng tiếng kêu của bà không có vẻ hiếu thắng. Bà không ý thức là mình đang nêu lên một quyền lợi. Trái lại khi nghe Chúa bảo là Người chỉ muốn hoạt động ở Israel chứ không muốn hoạt động nơi người ngoại giáo, thì bà đã trả lời với một cung cách làm nổi bật mức độ khiêm nhường của lời cầu xin. Bà cầu xin và đặt mình ngang hàng với đàn chó con, sống bằng những mẩu bánh vụn từ bàn rơi xuống. Bà đã gắn cho đức tin cái tính chất khiêm nhường khiến cho Chúa Giêsu cũng phải cảm động và xiêu lòng.
Tiếp đến đức tin ấy là một đức tin van xin
Thực vậy, trước mặt Chúa, bà đã nhấn mạnh và nhắc lại lòng tin tưởng của bà vào quyền năng và lòng nhân từ của Chúa. Lúc đầu bà bị xua đuổi một cách cứng rắn, nhưng bà vẫn kiên nhẫn và tỏ ra ngoan cố. Cái ngoan cố đặc biệt của một bà mẹ. Trên bình diện tâm lý thì đức tin này mang tính cách hiện sinh vì nó đi từ kinh nghiệm đau khổ và từ hy vọng được chữa lành. Trên bình diện thiêng liêng, chúng ta có thể nghĩ rằng Chúa đã đặt vào trong tâm hồn bà một ơn riêng để bà bám chắc và tin tưởng mãnh liệt vào Chúa.
Sau cùng đức tin ấy là một đức tin mới mẻ và vươn xa
Với các tông đồ thì hành động của bà chỉ là một sự quấy rầy, còn với Chúa Giêsu thì Người đã dành quyền ưu tiên cho dân Israel, thế nhưng người đàn bà xứ Canaan đã lật đổ các vấn đề đó để đi thẳng tới đối tượng. Chính điều này đã làm cho chúng ta phải suy nghĩ. Thực vậy, đã từ lâu chúng ta được nuôi dưỡng bằng biết bao nhiêu ơn lành của Thiên Chúa, thế nhưng đức tin của chúng ta có giữ được vẻ mới mẻ, sức vươn xa và sự khiêm nhường mà nó phải có hay không?
Ý tưởng chính của phần phụng vụ sáng hôm nay đó là Thiên Chúa mong muốn cho mọi người được cứu độ, không phân biệt chủng tộc, màu da và tiếng nói. Thực vậy, trong một thị kiến, tiên tri Isaia đã mở rộng cửa đền thờ cho tất cả những tâm hồn thiện chí. Ngay đến những người xa lạ cũng được mời gọi. Kể từ nay sẽ không còn rào chắn, sẽ không còn vách ngăn bởi vì mọi cánh cửa đã được rộng mở, để đón nhận những kẻ tìm kiếm Chúa.
Rồi trong Phúc Âm chúng ta cũng thấy người đàn bà ngoại giáo có đứa con bị quỷ ám, đã tin tưởng vào Chúa Giêsu. Bà gọi Ngài là con vua Đavít. Bà đã sụp lạy Ngài và xin Ngài giúp đỡ. Tuy nhiên thái độ của Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta sững sờ và ngạc nhiên. Dường như Ngài muốn dành ưu tiên cho dân Do Thái và dường như muốn thử thách lòng tin của bà. Lần thứ nhất Ngài đã yên lặng. Lần thứ hai Người đáp: Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi. Lần thứ ba, Ngài lại bảo: Chớ lấy bánh của con cái mà vứt cho chó. Thế nhưng bà vẫn một niềm cậy trông. Bà sẽ không ra về bao lâu đứa con gái của bà chưa được chữa lành. Bà đã chấp nhận lời nói có vẻ sỉ nhục của Chúa, nhưng rồi lợi dụng nó để đem lại lợi ích cho mình bà nói: Nếu thế thì những con chó cũng sẽ được hưởng những mẩu vụn từ bàn rơi xuống. Cuối cùng Chúa Giêsu đã phải ca ngợi niềm tin của bà và làm phép lạ cứu chữa đứa con gái của bà. Là một người ngoại đạo bà đã làm gương cho các môn đệ về một niềm tin khiêm nhường và kiên vững.
Cũng trong chiều hướng ấy, thánh Phaolô đã gióng lên một tiếng chuông và Ngài cho chúng ta được biết: có một mối liên hệ mật thiết giữa người Do Thái và dân ngoại. Dân ngoại đã không vâng lệnh Chúa và cuộc đời họ thì chồng chất tội lỗi, thế nhưng người Do Thái cũng không hơn gì. Bởi thế Ngài đã tỏ lòng nhân từ cho cả hai. Ngài đã không bỏ rơi dân Do Thái, dân mà Ngài đã đổ xuống biết bao nhiêu ơn lành quý giá. Thế nhưng tội lỗi đã làm cho họ thực sự xa cách Chúa và làm cho Ngài nổi giận. Dầu vậy lòng thương xót của Ngài vẫn không hề thay đổi. Đối với dân ngoại cũng vậy, Ngài luôn sẵn sàng giơ tay nâng đỡ họ, bởi vì ơn cứu độ chính là một hành động nhân từ và thương xót mà Ngài đã thực hiện cho chúng ta.
Bởi đó chúng ta hãy tin tưởng vào tình thương của Chúa và hãy kiên tâm bền chí cho đến cùng vì ai kiên tâm bền chí cho đến cùng thì người ấy sẽ được cứu chuộc.
Kết thúc đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã lên tiếng ca ngợi đức tin của một người đàn bà Canaan. Còn đức tin của chúng ta lúc này thì sao? Mạnh mẽ hay yếu kém? Nếu như đức tin của chúng ta lúc này đang yếu kém, thì có cách nào để củng cố, để gia tăng hay không?
Đức tin có thể được sánh ví như một bắp thịt. Nếu không chịu khó tập luyện thì bắp thịt ấy sẽ suy yếu dần. Trái lại, càng luyện tập, thì bắp thịt ấy càng trở nên mạnh mẽ. Đức tin cũng vậy, nó cần phải được tập luyện. Trong phạm vi này, chúng ta có nhiều cách để tập luyện để củng cố cho đức tin nên mạnh mẽ.
Trước hết, chúng ta có thể học hỏi lời Chúa, tìm hiểu Phúc Âm như chúng ta đang làm trong giây phút này. Chúng ta có thể tham dự thánh lễ một cách sốt sắng. Chúng ta có thể cầu nguyện riêng tư một cách có ý thức, để kín múc nguồn sinh lực thiêng liêng cho đức tin của mình. Tuy nhiên có một phương cách luyện tập đức tin rất hữu hiệu.
Trong tác phẩm “Anh em nhà Karamaốp”, Dostoevski, kể lại rằng: Một bà già bị khủng hoảng về đức tin, đến hỏi ý kiến một vị linh mục. Cuối cùng vị linh mục đã đưa ra một phương cách để giúp bà củng cố niềm tin của mình, đó là bằng tình yêu. Vị linh mục nói: Hãy cố gắng yêu thương láng giềng của bà thật tình. Càng yêu thương, bà chắc chắn hơn về sự hiện hữu của Chúa và đời sống mai hậu sau khi chết. Càng yêu thương, đức tin của bà càng lớn lên và những nỗi ngờ vực sẽ bị tiêu tan.
Từ lời khuyên này, chúng ta nhận thấy đức tin và đức mến luôn đi đôi với nhau, không khác gì hai thanh sắt của đường rầy xe lửa. Tìm được cái này tức là tìm được cái kia. Đức tin và đức mến liên kết với nhau mật thiết như xác với hồn. Chúng ta có muốn thực sự tin vào Chúa hay không? Nếu muốn, thì chúng ta phải làm một điều gì đó cho Ngài. Giữa thời buổi đầy ngờ vực này, thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà chúng ta cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ trần trụi được mặc, thì lúc đó chúng ta sẽ thấy rằng mình đã thực sự làm những điều ấy cho Ngài.
Chúa sẽ tỏ lộ chính Ngài cho chúng ta như thể Ngài là một người vẫn còn sống. Và điều này dẫn chúng ta trở lại với người phụ nữ Canaan của đoạn Tin Mừng hôm nay. Bà đến với Chúa là vì kẻ khác chớ không vì mình. Bà đến với Chúa vì tình yêu, với tư cách của một người mẹ, một người mẹ đầy yêu thương đối với đứa con của mình. Cuối cùng Chúa đã lên tiếng ca ngợi đức tin của bà.
Trong phạm vi đức tin, có những ngày tươi sáng và hứng khởi, nhưng cũng có những ngày ảm đạm và khủng hoảng. Nếu như lúc này đức tin chúng ta đang suy yếu, ngoài việc học hỏi và cầu nguyện chúng ta hãy thực hiện những hành động bác ái, để nhờ đó chúng ta sẽ gặp được Chúa nơi những người anh em của chúng ta.
Sau thế chiến thứ II ít lâu, người ta thu dọn những đổ vỡ và người ta thấy trên một bức tường nhỏ, có hàng chữ sau đây của một người Do Thái đang trên đường trốn tránh bọn Đức quốc xã. Người Do Thái ấy đã viết như thế này: Tôi tin vào mặt trời ngay cả lúc nó không chiếu sáng. Tôi tin vào tình yêu ngay cả lúc nó vắng bóng. Tôi tin vào Thiên Chúa ngay cả khi Ngài yên lặng.
(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Thiên Chúa muôn đời vẫn là một “ẩn số” mà nhân loại cứ phải khao khát kiếm tìm trong khắc khoải khôn nguôi, như Thánh Augustinô đã từng thốt lên: “Chúa đã dựng nên con, nên lòng con mãi khắc khoải kiếm tìm cho đến khi được an nghỉ trong Chúa”. Một thái độ tự hào, tự mãn, cho rằng mình đã chiếm được Thiên Chúa, đã nắm bắt chân lý, để rồi không còn biết vươn mình lên đi tới hay khiêm hạ khát khao kiếm tìm lại chính là một thái độ phản lại niềm tin, hay một niềm tin, nếu có, đã trở nên nghèo nàn và rỗng tuếch.
Nhưng nếu đức tin là một cuộc lên đường tìm kiếm, thì, tiên vàn đó lại là cuộc kiếm tìm của chính Thiên Chúa.
Nếu khởi đầu lịch sử, khi Thiên Chúa đến kiếm tìm và gặp gỡ nhân loại “trong cơn gió nhẹ ban chiều” ở nơi vườn diệu quang (St 3,8) để hàn huyên tâm sự lại đã gặp một A-đam, E-va trần truồng đang núp trốn, thì Ngài đã không thất vọng nản lòng để quay mặt đi xa; nhưng rồi sau đó đã tiếp tục lên đường không mệt mõi, kêu gọi, ước giao, hẹn thề hết Áp-ra-ham, đến Gia-cóp, hết I-sa-ac đến Giuse…sau đó là Mô-sê với bao chịu đựng nhọc nhằn của 40 năm trường hành về Đất Hứa, cũng chỉ để hình thành một Dân Tộc của niềm tin, một Dân của Giao ước. Mà đâu chỉ có dân ít-ra-en; cho dù trong phương án cứu độ, đó chính là Dân ưu tuyển. Thiên Chúa kiếm tìm tất cả mọi người, mở lối đưa đường cho tất cả những ai thành tâm thiện chí khát khao Ngài, kiếm tìm Ngài và chân chất sống theo những chỉ dạy của Ngài khắc ghi trong đáy thẳm tâm hồn, như lời sứ ngôn I-sa-i-a trong BĐ 1 hôm nay: “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người…”
Và cuộc kiếm tìm của Thiên Chúa đã đến đỉnh điểm khi “Ngài ban Con Một, để ai tin vào Người con đó sẽ không phải chết nhưng được sống vĩnh hằng” (Ga 3,16).
Quả thật, trong cuộc hành trình rao giảng Nước Thiên Chúa, Đức Kitô Con Một Thiên Chúa đã từ Bắc xuống Nam, từ Đông lên Tây, dọc ngang khắp vùng Palestina để “kiếm tìm” những con chiên lạc mà đưa về cho Thiên Chúa một đàn chiên và một chủ chiên.
Ngoài những con chiên lạc “con giòng cháu giống thuộc dân ưu tuyển Ít-ra-en, Chúa Giêsu lại bôn ba sang các miền ngoại giáo lân cận để tìm kiếm nơi cộng đồng dân ngoại những tâm hồn khao khát chân lý cứu độ để dẫn họ về trong chân lý và tình thương.
Tin mừng Matthêu hôm nay đã tường thuật những bước chân tiến về vùng ngoại giáo Tyrô và Siđon của Chúa Giêsu; và chính nơi vùng ngoại đạo nầy, Ngài đã gặp được một người đàn bà ngoại giáo Canaan nhưng “mạnh tin”.
Bà mạnh tin khi bà nhận ra chàng thợ mộc đến từ Na-da-rét kia chính là “Con Vua Đa-vít”, một danh xưng mà vào thời điểm đó, chỉ có những tấm lòng khát mong và đầy tràn niềm hy vọng vào một Đấng Thiên Sai đang đến mới sử dụng.
Bà mạnh tin khi bà xác tín rằng chỉ có Chúa Giêsu mới có đủ quyền năng chữa con bà khỏi quỷ ám, một quyền năng chỉ dành cho Thiên Chúa.
Bà mạnh tin khi vững vàng trông cậy vào tình yêu vô biên của chính Chúa Giêsu bất chấp những thử thách nặng nề là sự làm ngơ, chối từ và cả khinh miệt.
Chính ở nơi tâm hồn cương nghị và đầy khiêm hạ của người phụ nữ ngoại giáo Canaan nầy, Chúa Giêsu đã tìm được niềm an ủi trong công cuộc “đi bủa lưới giăng câu” các linh hồn trên những nẻo đường đất lạ.
Và khởi đi từ đó, Ngài đã truyền cho các Tông Đồ hãy mạnh dạn “đưa thuyền ra chỗ nước sâu”, “hãy đi khắp tứ phương thiên hạ để rao giảng Tin Mừng.”
Thế nhưng, chúng ta cũng đừng quên, Chúa Giêsu đã không ít lần đã thất bại thảm thương; mà cuộc thất bại cay đắng nhất trên con đường rao giảng Tin Mừng lại xảy ra trên chính quê hương Na-da-rét của Ngài. Chính tại nơi đây, Ngài đã “không làm được phép lạ nào” chỉ với lý do: “Vì họ cứng lòng tin”.
Nếu ở tại đất ngoại giáo có được một tâm hồn phụ nữ Canaan sẵn sàng đánh đổi niềm tin vào Ngài bằng mọi giá, thì tại Giê-ru-sa-lem, đã có hàng trăm người đã sẵn sàng chối từ Ngài để chọn Ba-ra-ba, vì họ không thể đánh cược niềm tin vào một con người rách nát thảm thương sắp bị Philato tuyên án tử.
Họa hằn lắm mới có một Lê-vi giã từ bàn đếm tiền của người thu thuế để bỏ lại đằng sau tất cả sự giàu có trần tục mà lên đường làm môn đệ của Ngài; hay một Gia-kê lùn tịt về thân xác và cả nhân phẩm hay đức độ, sẵn sàng cho đi tất cả của cải trần gian để sống cho những giá trị của cái nghèo Nước Trời.
Vâng, những người ở Na-da-rét hay Giê-ru-sa-lem đó cùng với các tư tế và biệt phái, hay những người quyền cao chức trọng lúc bấy giờ họ tin rằng họ đã có sắn một đức tin chân truyền đúng mực, họ không cần phải mở lòng ra để đón nhận hay khát mong một “tin mừng” huyển hoặc nào nữa, nhất là một “Tin Mừng” gần như đối nghịch hẳn với tâm thức và sự kiếm tìm của họ mà ông Giêsu kia đã loan báo như “khó nghèo, hiền lành, trong sạch, yêu thương kẻ thù, tha thứ luôn luôn, chọn đường thập giá…”
Đặc biệt, “giải pháp thập giá” quả là một thử thách quá lớn mà họ không dễ gì vượt qua hay chọn lựa, bởi họ đã quen chọn cho mình con đường dễ dàng, nhung lụa, vinh quang…
Tuy nhiên, cũng giống như người đàn bà Canaan khi đối diện với những thử thách nghiệt ngã, người trộm bên hữu đã mở lòng để tin vào một con người chỉ còn tấm thân tàn ma dại: “Lạy Thầy, khi nào Thầy về Vương Quốc của Thầy, xin nhớ đến tôi”.
Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay gần như truy vấn tất cả mọi người chúng ta về hành trình đức tin của chính mình.
Chúng ta gần như sống và thực hành đức tin như một chuyện “đã rồi”, một “chọn lựa dễ dàng và không hề thử thách”.
Vẫn còn đó nhiều người trong chúng ta sẵn sàng quay lưng lại với Giáo Hội với nhà thờ, chỉ vì một tự ái không đâu trước một lời quỡ trách.
Vẫn còn đó nhiều tâm hồn khô khan nguội lạnh chã còn thiết tha cầu nguyện và trung thành đến với Chúa chỉ vì Chúa chưa đáp ứng những khát vọng và lời nguyện xin.
Vẫn còn đó những người mang tâm trạng oán trách và cả hận Chúa vì phải đương đầu với những khổ đau, thất bại, bệnh tật hay đói nghèo…
Và chung chung, chúng ta muốn giữ “nguyên trạng đức tin” mà không cần phải đặt lại, kiếm tìm hay hoán cải…
Trên những nẻo đường thế giới hôm nay Chúa vẫn sục sạo đi tìm. Nhưng con đường Chúa đề nghị để theo Ngài không bao giờ tầm thường và dễ giải.
Câu trả lời của người phụ nữ ngoại đạo Canaan hôm nay và thái độ đức tin đầy khiêm nhu tín thác của bà mãi mãi là một điểm quy chiếu cho mọi cuộc lên đường tìm kiếm và gặp gỡ Thiên Chúa. Vâng, đó là một mô hình mẫu tuyệt vời của đức tin hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Amen.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Norman Vincent Peale (1898-1993) là một mục sư danh tiếng trong Giáo Hội Tin Lành Methodist, đồng thời cũng là nhà tâm lý trị liệu danh tiếng ở Mỹ, đã xuất bản nhiều tác phẩm thuộc hạng ăn khách nhất (best-selling books), trong đó có cuốn “sức mạnh của tư tưởng tích cực” (The Power of positive thinking) xuất bản năm 1952, được dịch ra đến 41 thứ tiếng, bán ra hơn 20 triệu cuốn và còn được thu vào băng dĩa để phát hành.
Cuốn sách nầy lôi cuốn được nhiều độc giả đến thế nó vì giúp cho người ta tìm thấy bí quyết tránh thất bại và đạt tới thành công. Bằng cách nào? Tác giả cuốn sách viết: người ta thất bại vì người ta thiếu lòng tin, thiếu lòng tin nơi Thiên Chúa và thiếu tin tưởng vào khả năng của mình. Vậy muốn thành công, hãy gầy dựng cho mình một niềm tin mạnh mẽ.
Tác giả dùng một câu lời Chúa, trích trong Tin Mừng Mat-thêu làm nên bí quyết để thành công trong cuộc đời, để giành lấy thắng lợi. Câu đó là: “nếu bạn có lòng tin thì chẳng có việc gì mà bạn không làm được.” (Mt 17,20)
Chân lý đó được chứng tỏ qua sự kiện sau đây:
Khi Chúa Giêsu vượt qua biên giới Do-thái qua miền Tia và Xi-đôn, có một người đàn bà xứ Canaan, là người ngoại bang đến gặp Chúa Giêsu và thống thiết nài xin Người: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
Chúa Giêsu lặng thinh không đáp.
Nếu ở trong hoàn cảnh người đàn bà nầy, chắc chúng ta tức tối bỏ đi, thầm oán trách Chúa vô tâm. Đó là bức tường thứ nhất người đàn bà Canaan đụng phải, nhưng bà không thối lui.
Bà cứ liên lỉ nài van, còn Chúa Giêsu thì cứ tiếp tục lặng thinh. Bà kêu xin bền bĩ đến độ các tông đồ đi theo chịu hết nổi, nên mới xin Chúa Giêsu đáp lại ước vọng của bà: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!”
Chúa Giêsu lại từ chối: “Thầy chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel”.
Sứ mạng của Chúa Giêsu vào thời điểm đó chỉ dành cho dân Israel mà thôi. Chưa đến lúc, chưa đến giờ đem ơn cứu độ cho mọi dân tộc.
Bị từ chối thẳng thừng, bị dụng vào bức tường thứ hai, nhưng bà không nhụt chí. Bà vẫn tiếp tục van xin. Bà bái lạy Người cách thành khẩn: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi”.
Lần nầy, Chúa Giêsu trả lời cách cứng cỏi và quyết liệt: “Không nên lấy bánh của con cái mà cho chó con”. Thế là bà lại đụng phải bức tường thứ ba, tưởng như còn cao hơn, dày hơn hai bức tường trước. Vẫn không thoái chí, bà khiêm nhường chấp nhận thân phận thấp hèn của mình và khiêm tốn cầu xin: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Đến đây thì Chúa Giêsu không thể chối từ được nữa và nguyện vọng của người phụ nữ Canaan đã được đáp ứng hoàn toàn. Con gái bà đã được cứu chữa.
Chúa Giêsu xác nhận rằng bà được như ý bà muốn là nhờ lòng tin: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”
Vì muốn cho chúng ta biết rằng lòng tin có sức cứu chữa và làm nên phép lạ, nên sau mỗi lần cứu bệnh nhân lành bệnh, Chúa Giêsu không nói: “Ta đã chữa lành con, hãy về bình an”, nhưng Ngài lại nói: “Đức tin của con đã cứu chữa con”.
Tin Mừng Mátthêu cũng nhấn mạnh rằng nếu không có lòng tin, thì người ta chẳng đạt được gì cả, bằng chứng là khi Chúa Giêsu về thăm quê hương Ngài là Nadarét, người đồng hương không tin vào Ngài, nên không có phép lạ nào xảy ra. “Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin” (Mt 13,58) hay như tường thuật của thánh Máccô: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó… Người lấy làm lạ vì họ không tin” (Mc 6, 5-6)
Chúa Giêsu khẳng định rằng ai có lòng tin thì có thể làm được bất cứ việc gì. “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.” (Mt 17,20)
Một sự kiện điển hình chứng tỏ niềm tin làm nên phép lại là khi Phê-rô thấy Chúa Giêsu đi trên mặt nước, ông cũng muốn được như Thầy và đã xin Chúa Giêsu cho ông thực hiện điều đó. Chúa Giêsu chấp thuận. Tin vào quyền năng Chúa Giêsu, Phêrô làm nên được điều kỳ diệu: ông đi được trên mặt nước để đến với Thầy. Thế nhưng khi thấy gió thổi mạnh, ông đâm ra lo sợ và nghi ngờ. Chính vì mất niềm tin nên ông bị chìm đắm. Ông hốt hoảng la lên. Chúa Giêsu nắm lấy tay Phêrô kéo lên và trách ông: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi!” (Mt 14, 22 – 33).
Lòng tin là bí quyết của thành công, đó là bài học quan trọng mà Chúa Giêsu muốn gửi đến chúng ta hôm nay, tiếc thay chúng ta không biết tận dụng bài học đó để thu hoạch những thành quả tốt đẹp trong cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đề cao lòng tin, khen ngợi những người mạnh tin và chê trách các môn đệ yếu lòng tin. Xin ban thêm Đức tin cho chúng con để nhờ đó, chúng con vững vàng thắng vượt gian nan thử thách và giành lấy những thành tựu tốt đẹp trong cuộc đời.
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bài hát nói về tâm trạng xem ra mâu thuẫn của một người ngoại đạo như sau: “Lạy Chúa, con là người ngoại đạo, nhưng con tin có Chúa ở trên cao”. Lời hát thật đơn sơ nhưng nói lên niềm tin chân thật của một người ngoại đạo. Anh công nhận mình ngoại đạo. Nhưng anh cũng không chối cãi niềm tin vẫn có trong lòng mình. Anh công nhận mình vẫn ở ngoài đạo nhưng anh lại gắn bó mật thiết với Chúa. Bằng chứng là anh đã cầu nguyện với Chúa. Anh nói với Chúa về sự thật của anh, một người ngoại đạo. Anh nói với Chúa về niềm xác tín của anh, anh tin có Chúa ở trên cao. Anh giải bày với Chúa những khúc mắc trong cuộc đời anh. Anh đang trình bày với Chúa về nhu cầu của mình. Anh cần Chúa cho anh niềm tin để anh không còn nghi ngại một điều gì nữa! Anh đang cần có một đức tin đủ để tin vào sự hiện diện của Chúa.
Lời Chúa hôm nay cũng tường thuật về cách thức biểu lộ niềm tin chân thành của một người đàn bà ngoại đạo miền Canaan. Bà là người ngoại đạo nhưng bà lại kêu cầu Chúa là Con Vua Đavit, nghĩa là bà đã tin Chúa Giêsu là Đấng phải đến trong thế gian. Nhưng đối với Chúa niềm tin chân thành thôi chưa đủ để nhận ơn lành từ Chúa, mà còn phải kiên nhẫn, phải khiêm tốn, và nhất là phải có một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Đấng mà mình kêu xin.
Người đàn bà này đã trải qua những giai đoạn đó:
Trước tiên bà kiên nhẫn kêu xin. Xin lần thứ nhất chưa được, bà liền xin lần thứ hai và mãi cho tới lần thứ ba bà mới được toại nguyện.
Niềm tin của bà thật cảm động, vì bà quá khiêm tốn trước mặt Chúa. Bà chỉ ao ước nhặt từng mảnh vụn ơn thánh rơi rớt của những người con Chúa. Bà biết mình không xứng đáng được ơn. Bà không dám nghĩ mình được tắm trong biển cả yêu thương của Chúa, nhưng chỉ cần một giọt thánh ân trong biển lòng thương xót của Chúa có thể cứu sống con của bà.
Niềm tin của bà còn đạt tới niềm tin tưởng tuyệt đối, không có gì lay chuyển nổi! Cho dù trước thái độ xua đuổi khéo léo của các môn đệ và sự lạnh lùng của Chúa Giêsu. Bà không bỏ cuộc. Bà vẫn một lòng cậy trông vào Chúa đến mức độ mà Chúa phải ca tụng bà: “đức tin của bà thật lớn lao. Bà muốn sao được vậy”. Và phép lạ đã diễn ra bởi lòng tin của một người mẹ hết mình vì con.
Vâng, lòng tin thường là điều kiện cần thiết để Chúa thi thố tình thương của Ngài dành cho chúng ta. Lòng tin càng lớn thì ân ban càng nhiều. Lòng tin càng được tôi luyện trong gian nan thử thách thì càng thấy rõ hơn tình thương của Chúa khi được Ngài giải thoát khỏi mọi hiểm nguy. Lòng tin cần phải kiên nhẫn mới có thể thấy sự bất lực của con người trước sự dữ và quyền năng cao vời của Thiên Chúa luôn sẵn lòng bảo vệ con người khỏi mọi sự dữ.
Lòng tin này đã được thánh nữ Monica thực hiện suốt 18 năm ròng rã. Thánh nữ Monica luôn cầu xin Chúa cho đứa con hoang đàng của mình là Augustino. Hằng ngày bà khóc lóc, ăn chay và hãm mình. Người đời nhìn bà là một người phụ nữ bất hạnh vì chồng khô khan, và con truỵ lạc. Đã có lần đức tin của bà cũng bị lung lay. Bà muốn bỏ cuộc, nhưng thánh Ambrosio đã nói với thánh nữ: “Bà hãy yên trí, đứa con của biết bao giọt nước mắt sẽ không thể nào hư mất”. Thực vậy, nhờ niềm tin của người mẹ mà Thiên Chúa đã thay đổi phận số của người con. Thánh Augustino đã từ bỏ con đường tội lỗi để sống đời thánh thiện. Thánh nhân đã bỏ con đường con công danh để tận hiến cho Thiên Chúa. Thánh nhân đã không tìm kiếm thú vui thể xác nhưng tìm kiếm hạnh phúc Nước trời.
Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những con người đã cạn kiệt nước mắt. Có biết bao bà mẹ đã khổ vì con cái hư hỏng. Có biết bao gia đình quá cơ cực vì một thành viên bước vào con đường truỵ lạc. Có biết bao cơn bệnh hiểm nghèo đang cướp dần sinh mạng của những người chúng ta thương. Nước mắt vẫn chảy cho những phận đời cơ cực, bị bỏ rơi, bị bội phản. Nước mắt vẫn tuôn chảy cho những trái ngang của cuộc đời, những bất hạnh, rủi ro trong cuộc sống. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy tin tưởng và cầu xin giữa những thử thách gian nan cuộc đời. Thiên Chúa vẫn hiện diện. Thiên Chúa vẫn đang chờ một lời kinh, một lời cầu của chúng ta. Thiên Chúa cần lòng tin nơi chúng ta. Ngài có thể làm mọi sự. Nhưng Ngài lại bất lực trước sự cứng lòng tin của chúng ta. Phép lạ Chúa làm không nhằm mục đích phô diễn quyền năng của Thiên Chúa. Ngài càng không làm phép lạ vì sự hiếu kỳ của con người. Ngài chỉ có thể làm phép lạ vì đức tin chân thành, kiên nhẫn và tin tưởng của chúng ta.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn tin tưởng kêu cầu Chúa khi gặp những gian nan. Xin cho mỗi người chúng ta đừng đánh mất niềm tin khi gặp những thử thách trăm bề, nhưng luôn kiên nhẫn trong lời cầu xin. Vì sau đêm dài là ánh bình minh. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một lời kêu cứu của người mẹ có con mắc bệnh hiểm nghèo, được chia sẻ rất nhanh trên mạng. Riêng trên Facebook Jack Mummy, có tới 16.000 lượt chia sẻ. Đằng sau lời kêu cứu này, là câu chuyện số phận buồn của người phụ nữ khát khao làm mẹ đã 2 lần mất con.
Đó là chuyện đau lòng của Chị Hà Thị Quỳnh Nga (Đông Anh, Hà Nội) hạ sinh người con thứ 3 vào lúc 14g30 ngày 3/6 tại bệnh viện Bạch Mai. Nhưng niềm hạnh phúc mong manh bỗng nhiên sụp đổ khi sáng ngày hôm sau, bác sĩ chuẩn đoán bé trai Nguyễn Hà Hải Đăng bị nhiễm độc do nhóm máu hiếm ORh-.
Cùng ngày hôm đó, bác sĩ huy động người nhà truyền máu cho Hải Đăng, nhưng không ai thuộc nhóm máu này. Gượng dậy sau nỗi đau mới mổ khi sinh, chị Nga vội vã lên mạng nhắn tin cho người em với những dòng vội vàng, nhờ chia sẻ lên Facebook: “Mình mới sinh con được một ngày, con thuộc nhóm Rh-, cần được truyền máu. Mình đang ở Bệnh viện Nhi Hà Nội, cầu xin mọi người giúp mẹ con mình. Mình mới mất 2 cháu rồi, đây là cơ hội làm mẹ còn lại duy nhất của mình. Xin mọi người giúp mẹ còn mình với, mọi người liên hệ số điện thoại….”. Chị gửi tin và hi vọng, cuộc sống luôn có phép nhiệm màu.
Nhờ thông tin lan nhanh trên mạng, một số người có cùng nhóm máu đã nhanh chóng đến viện hỗ trợ máu cho bé Hải Đăng. Hiện tại, nhờ sự giúp đỡ của cộng đồng Facebook, cháu Hải Đăng đã thay máu 3 lần, qua được cơn nguy kịch.
Quả là tình mẫu tử đã khiến chị Nga đầy khôn ngoan và kiên trì để cầu cứu cho đứa con. Dù mong manh. Dù tỉ lệ rất thấp, nhưng nếu cứu được con, chị sẵn lòng làm tất cả. Chị đã biết sử dụng thông tin hiện đại để viết lên lời kêu cứu của mình. Chị đã được toại nguyện. Tình mẫu tử cao sâu đã cứu con chị khỏi lưới hái tử thần.
Đó cũng là hình ảnh kiên cường của người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay. Bà đã mang con đi vái tứ phương, nhưng vô vọng. Bệnh tật vẫn bám chặt đời con bà. Sự sống như đang dần trôi qua với con bà. Bà vẫn quyết chí dành giựt lại sự sống cho con bà. Bà đã khiêm tốn đến với Chúa, dù rằng bà là người ngoại đạo. Bà đã van xin Chúa, dù rằng lời van xin tưởng chừng như Chúa bỏ ngoài tai. Bà vẫn không ngã lòng. Bà vẫn níu kéo Chúa bằng những mẩu đối thoại thật khiêm tốn và kiên trì. Bà chỉ nhận mình là một thân phận thấp hèn, nhưng vẫn ao ước được đón nhận hồng ân từ Chúa.
Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước niềm tin không thay đổi của bà. Chúa đã thấy sự chân thành của bà. Chúa cũng thấy một tình mẫu tử thật cao cả của bà đã dám làm mọi sự vì đứa con. Niềm tin và sự can trường của bà đã được Chúa đền đáp bằng phép lạ tình thương của Ngài.
Con người chúng ta khi đứng trước khó khăn, vẫn mong cầu phép lạ. Phép lạ là điều ai cũng mong đến với mình. Nhưng không mấy ai hiểu rằng: phép lạ chỉ đến sau những nỗ lực của con người. Phép lạ không bổng dưng đến với chúng ta như kiểu “ngồi chờ sung rụng”. Phép lạ đòi hỏi niềm tin bằng hành động của con người được biểu lộ một cách chân thành và khiêm tốn. Đó là điều tối cần thiết để Thiên Chúa có thể thi ân cho con người.
Thế mà vẫn còn đó, những người mong được phép lạ chữa lành bệnh tật mà lại chẳng bao giờ bày tỏ lòng thành qua những giờ kinh, qua thánh lễ hay cầu nguyện riêng với Chúa hay Đức Mẹ. Vẫn còn đó, những người muốn được phép lạ có cuộc sống sung túc, thế mà chẳng bao giờ chú tâm vào công việc. Vẫn còn đó, những người muốn Chúa giúp vượt qua hoạn nạn, nhưng chẳng bao giờ nỗ lực đứng lên để Chúa dìu bước.
Quyền năng Chúa vẫn bao trùm trên con người. Phép lạ của Chúa vẫn tiếp diễn trong cuộc sống hôm nay. Nhưng để đón nhận phép lạ của Chúa, đòi hỏi con người nỗ lực vươn lên và bày tỏ lòng tín thác nơi Chúa. Như người phụ nữ trong Tin Mừng, bà chỉ có thể đón nhận phép lạ của Chúa sau bao nhiêu những nỗ lực phấn đấu, cùng với niềm tin trung kiên.
Cuộc sống luôn có những khó khăn, xin cho chúng ta biết chạy đến với Chúa trong niềm tin phó thác. Ước gì chúng ta không bao giờ bỏ cuộc trước gian nguy, nhưng luôn tin tưởng vào quyền năng của Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua. Amen.
Lời rao giảng của các tiên tri trong thời Cựu Ước được dành cho người Do-thái trước tiên. Họ là Dân đã được Thiên Chúa chọn để cưu mang ơn cứu độ cho nhân loại. Dân Do-thái là một dân tộc văn minh có lề luật hướng dẫn và có cơ cấu tổ chức chu đáo. Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn lại hơn hai ngàn năm về trước, cuộc sống của dân làng rất đơn sơ mộc mạc. Ngày đó, họ chưa có các phương tiện văn minh kỹ thuật về các phương diện khoa học trong đời sống. Nhất là về vấn đề thông tin, in ấn và truyền thông. Các tiên tri đã nỗ lực rao giảng và luôn nhắc nhở con dân quay về với Thiên Chúa: Đây Thiên Chúa phán: Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện (Is 56, 1). Sự rao giảng bằng cách truyền đạt rỉ tai và âm thầm loan truyền sứ điệp một cách rất chậm rãi qua các thế hệ. Lời rao giảng được ghi chép bằng tay cuộn thành từng cuốn sách được cất giữ và lưu truyền.
Lịch sử ơn cứu độ đi vào hành trình cuộc sống cụ thể của xã hội. Dân bị ảnh hưởng bởi văn hóa và tín ngưỡng của các dân tộc lân bang tôn thờ các tượng thần gỗ đá vô cảm. Các vị Thần này do con người làm nên, tặng ban và phong thần để có thể đáp ứng thỏa mãn mọi nhu cầu đòi hỏi của bản năng. Nhiều người đã ưa thích chạy theo thói đời dễ dãi, buông thả và thụ hưởng. Các Vị Thần như các bình phong để con người tự điều khiển theo ý muốn của mình. Các nhà cầm quyền dựa vào uy tín của thần minh để thống trị và cai quản dân chúng. Các tôn giáo ngoại bang chủ trương thờ cúng các thần minh theo nhu cầu của cuộc sống, tạo nên các thần mưa, gió, bão, núi, sông, mặt trời, mặt trăng, thần bò vàng, thần cây cối… và các thần vô danh. Gọi chung là Đa Thần Giáo. Các nghi lễ cúng bái thờ lạy các Thần chỉ là những hình thức bề ngoài trống rỗng. Các Thần chỉ là gỗ đá, có mắt mà không nhìn, có tai mà không nghe và chỉ trơ trọi như một xác không hồn.
Trong bài phúc âm kể câu truyện người đàn bà quê ở Canaan, vùng đất của dân ngoại, đến kêu van Chúa Giêsu trừ quỷ cho con gái của bà. Con người thường bị ma quỷ quấy phá và ám ảnh. Tự sức con người đành bó tay. Các Thần Minh cũng chẳng có quyền hành gì trên ma quỷ. Người đàn bà đã chạy đến với Chúa xin cứu giúp: Bà kia đến lạy Người mà nói: Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi (Mt 15, 25). Chúa đã thử thách bà về lòng tin. Bà tỏ ra có đủ sự khiêm nhượng để nhận ra quyền năng của Thiên Chúa. Bà không ngại nhận mình chỉ là ‘chó con’, cũng được thừa hưởng ân lộc của Thiên Chúa: Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy. Và ngay lúc ấy, con gái bà đã được lành (Mt 15, 28). Tuy sống chung đụng giữa những người dân ngoại, nhưng không phải mọi người đều lệ thuộc hay tỏ lòng thờ kính những vị Thần vô tri vô giác. Nhiều người vẫn muốn đi tìm sự thật và nguyên nhân cùng đích của cuộc đời. Trên thực tế, có biết bao nhiêu người bị hướng dẫn lầm lạc trong vấn đề niềm tin tôn giáo. Họ tôn thờ những vị thần mà họ không biết. Thật đáng thương!
Dân tộc Do-thái được Thiên Chúa mạc khải và hướng dẫn sống trong lề luật và huấn lệnh. Chúng ta biết rằng sống trong khuôn khổ của các giới răn cũng không phải là dễ dàng. Vì tâm lòng con người mong muốn được cuộc sống tự do không bị ràng buộc. Trải qua lịch sử ơn cứu độ, chúng ta thấy Thiên Chúa đã thực hiện biết bao sự lạ lùng và ưu đãi dân hết mực, vậy mà dân chúng cứ chứng nào tật đó. Sự cám dỗ của cuộc sống vô thần hay đa thần giáo luôn kéo lôi con người trở lại sự vô tri. Vì nhiều người tin vào Đa Thần sẽ tự tìm thỏa mãn mọi khát vọng thấp hèn của bản năng, mà không bị lương tâm cắn rứt. Nhưng dân Do-thái được hướng dẫn để đặt niềm tin vào Thiên Chúa độc thần. Một Thiên Chúa có uy quyền và yêu thương con dân của Người. Thiên Chúa nhân từ, công bằng và thưởng phạt công minh.
Qua hơn hai ngàn năm, Tin mừng tiếp tục được rao truyền khắp nơi. Số người tin Chúa có gia tăng nhưng so với dân số thế giới, số tín hữu không tăng thêm. Giáo Hội có nhiều phát triển không đồng đều như những sóng triều khi thịnh khi suy tùy thuộc vào mỗi địa phương, văn hóa, chủng tộc và ngôn ngữ. Khi chúng ta nhìn chung chung qua những sinh họat của Giáo Hội Công Giáo tại Giáo Đô, tại các Nước thứ ba và trong các Nước đang phát triển, chúng ta thấy có tia hy vọng và lạc quan. Các cuộc tổ chức Đại hội, đại lễ và các cuộc hành hương rất hoành tráng, qui tụ đông người và long trọng. Các nhà thờ tiếp tục được xây dựng mới và sửa chữa tu bổ rất khang trang. Số giáo dân vẫn sinh hoạt sầm uất và mỗi năm có thêm nhiều các tân tòng. Có nhiều ơn gọi dâng mình cho Chúa trong các Dòng tu đạo đời.
Tuy nhiên, thực tế tại các nước văn minh, nhất là Âu Châu, niềm tin tôn giáo đã dần bị phai mờ. Ngay tại nơi Chúa Giêsu giáng trần, con số Kitô hữu rất khiêm nhượng. Tại Belem, Giêrusalem và Nazarét, những nơi thánh trở thành các di tích làm chỗ cho khách hành hương kính viếng. Các đền thờ, nhà thờ và hội đường ít người lui tới. Giáo dân thưa thớt và bị chia năm sẻ bảy, mỗi nhóm tôn giáo sở hữu một khu vực. Đa số các tín hữu bị ảnh hưởng bởi các trào lưu trong xã hội. Nhiều người đang chạy theo cuộc sống thực tế mong tìm cái ăn, cái uống, hưởng thụ và thỏa mãn mọi nhu cầu đòi hỏi. Không còn quan tâm nhiều đối với đời sống tâm linh và sự sống ngày sau.
Đôi khi chúng ta cảm thấy hơi bi quan vì nhiều người Kitô hữu không còn muốn thực hành đạo. Các nhà thờ bị trống vắng nhiều. Con số tín hữu tham dự lễ Chúa Nhật giảm sút đáng kể. Thờ ơ với các Bí Tích nhất là Bí tích Thánh Thể và Hôn Phối. Ơn gọi dâng hiến phục vụ thiếu hụt. Nhiều nhà thờ bị đóng cửa vì thiếu tài chánh nâng đỡ. Tin đạo, nhưng không muốn sống và thực hành các giới răn của Chúa hay huấn quyền. Rất nhiều tín hữu cấp tiến đồng ý chấp nhận những điều nghịch với giáo huấn của Giáo Hội về đạo đức luân lý như vấn đề công bằng xã hội, quyền sự sống, quyền lao động, về hôn phối của các cặp đồng tính, ngừa thai, phò phá thai, trợ tử và tử hình… Có nhiều tín hữu không chống đối hay từ bỏ niềm tin, họ vẫn mang danh Kitô hữu, nhưng sống theo chủ nghĩa tương đối. Quan niệm sống đạo một cách cởi mở và dễ dàng. Đây là vấn đề nhức nhối trong mục vụ. Một số các thành viên vẫn tham dự đầy đủ các sinh họat tôn giáo, nhưng không muốn thay đổi cuộc sống nội tâm. Nhất là sự liên hệ trong đời sống gia đình như ly dị, tái hôn và sống chung bất hợp pháp. Đời sống luân lý bị tụt dốc gây rất nhiều những khó khăn trong vấn đề giáo dục con cái và xây dựng gia đình, cộng đoàn.
Thiên Chúa chọn dân tộc Do-thái để thể hiện ơn cứu độ. Chúa tiếp tục ban ơn: Vì Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc (Rm 11, 29). Dân Do-thái vẫn được Thiên Chúa chúc phúc qua các thế hệ. Người Do-thái có một sức mạnh phi thường. Họ phải đối đầu với cả khối Ả-Rập ở Trung Đông, nhưng vì sống còn, họ vẫn hiên ngang chiến đấu. Họ là những người đi tiên phong trong các lãnh vực về chính trị, kinh tế, xã hội và khoa học. Dân Do-thái là dân tộc thông minh và mạnh mẽ. Nguồn gốc của Đạo Công Giáo do chính người Do-thái dựng xây. Chúng ta có Đức Maria, Phêrô, các Tông đồ, môn đệ và các Giáo đoàn tiên khởi đều là người Do-thái. Chúng ta hãy luôn cầu nguyện cho họ, vì đôi khi: Thiên Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người (Rm 11, 32). Thánh Phaolô đã có những suy tư rất chân thật và hoàn toàn đặt niềm tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa.
Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con. Giữa cơn phong ba bão tố của niềm tin, cậy và mến, xin cho chúng con biết chạy đến với Chúa xin ơn phù trợ. Chúa có lời ban sự sống đời đời.
(John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Hãy đuổi bà ta đi, vì bà cứ lẽo đẽo đi theo và quấy rầy chúng ta” (Mt 15,23)
Có nhiều người không thuộc về ai, cũng chẳng thuộc về một tổ chức nào hay một đoàn thể nào. Họ thình lình xuất hiện, có thể chỉ để phá đám, hoặc gây rối. Họ không giống ai, có chăng chỉ là thứ người ương ương, dở dở. Thiết tưởng rằng, bạn có thể suy đoán tôi đang nói tới loại người nào. Quả đúng như vậy, rất có thể trong loại người đó có bạn, và có cả chính tôi nữa. Giáo hội ngày nay đa phần gồm những con người chẳng đáp ứng đúng theo quy chuẩn mà các môn đệ đã đề ra, khi các Ngài nhìn vào người phụ nữ Canaan đã đến xin Chúa chữa lành cho con gái bà bị quỷ ám. Các môn đệ nói với Chúa hãy “quát bảo để đuổi bà ta đi, vì bà cứ lẽo đẽo đeo bám chúng ta mãi”. Tuy nhiên Chúa đã không xua đuổi, và Ngài nói với người phụ nữ: “ Ta chỉ được sai đến với các con chiên lạc nhà Israel”.
Tại sao bà ta không “ thuộc về”? Chúng ta khởi đầu với 3 lý do: hoặc bà ta chỉ là một phụ nữ, hoặc bà ta là một người Canaan- gốc dân ngoại, hoặc bà ta chỉ đến để nhũng nhiễu và gây rối, vì bà cứ đeo bám một cách dai dẳng . Ấy vậy mà, một nửa trong chúng ta lại là phụ nữ, đa phần chúng ta cũng là gốc dân ngoại, và nói một cách công tâm, tất cả chúng ta đều đã từng nhũng nhiễu và gây bao phiền toái cho người khác. Đức Giêsu tuyên bố Ngài chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel, không có dân ngoại trong đó. Ngài còn so chiếu người phụ nữ Canaan với một con chó, có vẻ như thật khinh suốt, nếu đúng ngôn từ đó ám chỉ đến một con vật quen thuộc mà người ta vẫn thường nuôi trong nhà. Rõ ràng, người phụ nữ này không “thuộc về”, nhưng tại sao một kiều cư gốc dân ngoại lại không được Đức Giêsu quan tâm đến, khi Ngài thực thi sứ vụ chữa lành và rao giảng.
Đức Giêsu đã đến “miền Tyre và Sidon”, một vùng đất dân ngoại. Chắc chắn Ngài sẽ gặp những kiều dân ở đó. Điều này đánh đố chúng ta khi nêu vấn nạn tại sao Đức Giêsu lại tuyên bố “ Ngài chỉ được sai đến với các con chiên lạc nhà Israel” , cũng như Ngài đã từng chỉ thị cho các môn đệ giống như vậy khi sai các ông đi truyền giáo ( Mt 10,6). Tuy nhiên, chúng ta phải qui chiếu một cách hài hòa những lời tuyên bố trên với sứ vụ rộng khắp, mà Đức Giêsu đã chuyển giao cho các môn đệ trước khi về trời “ Hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Điều này gợi mở cho chúng ta hai thực tại song chiếu trong lịch sử cứu độ. Một là dòng dõi Abraham, tức dân Israel-một dân tộc ưu tuyển, được lựa chọn cách riêng để thực hiện giao ước thân tình với Thiên Chúa, và mặt khác, giao ước này trong tương lai sẽ được dàn trải đến khắp muôn dân.
Ngôn sứ Isaia đã nêu lên khía cạnh thứ hai này theo truyền thống cựu ước. Vị ngôn sứ tiên báo rằng “Những dân ngoại giữ ngày sabat mà không vi phạm, và những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỉ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng vì nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” ( Is 56,6-7). Isaia và nhiều tiên tri khác cũng nói rằng sẽ tới lúc mọi dân tộc sẽ được đón nhận giao ước. Điều đó xảy ra bao giờ và như thế nào, chúng ta phải nhìn xuyên suốt trong lăng kính của lịch sử ơn cứu độ mới có thể lãnh hội được. Trong sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu và của cả Giáo hội, chúng ta sẽ thấy lời tiên báo của Isaia đang trở thành hiện thực.
Có thể, thái độ và lời nói của Đức Giêsu đã chạm đến lòng tự ái của người phụ nữ Canaan. Nhưng các học trò của Ngài trong khoảnh khắc lạ kỳ đó của lịch sử cứu độ, đã khơi dậy lòng tin của bà đặt để nơi Thiên Chúa, là Chúa của người Israel. Thoạt đầu, Đức Giêsu đã im lặng, không đáp trả trước lời cầu ngỏ của người thiếu phụ. Kế đến Ngài tuyên bố là Ngài chỉ được sai đến với các con chiên lạc nhà Israel, với người nhà mà thôi. Và cuối cùng Ngài còn nói một cách mạnh mẽ thẳng thừng “ Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó.” Trong cơn thử thách, người phụ nữ gan lì này đã không tuyệt vọng, nhưng vẫn tin. Bà ta vẫn tin chắc chắn rằng Đức Giêsu có thể ra tay hành động để cứu chữa con gái bà.
Đức tin của bà không bị lung lay và chẳng suy chuyển chút nào.
(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Elvire là con gái út trong một gia đình nghèo. Cô ước mơ trở thành cô giáo. Cô xin học bổng và ghi danh tại một trường Cao đẳng Sư phạm. Nhà trường chấp thuận với điều kiện: cô phải luôn giữ điểm trên trung bình.
Nhập học. Giáo sư dạy Triết lớp cô là một người vô thần. Mỗi lần nói về Giáo hội hay Đức Kitô, ông luôn tìm cách che đậy hay xuyên tạc. Elvire cảm thấy bất bình. Cô biết rằng nếu phản đối giáo sư, cô sẽ khó tránh khỏi việc lãnh về những con điểm không tốt.
Thế nhưng, lòng tin yêu Chúa Giêsu đã thúc bách cô. Nhiều lần cô can đảm giơ tay phát biểu. Có khi cô còn nói: “Thưa thầy, điều đó không đúng” hay “Em không đồng ý.”
Đôi lúc cô cảm thấy đuối lý trước đầu óc thông thái và “cáo già” của ông thầy. Thế nhưng, trong các lời phát biểu của cô luôn ánh lên tia sáng của niềm tin, thứ niềm tin ôm ấp chân lý. Điều này khiến người ta suy nghĩ.
Elvire không thích thú gì khi đương đầu với thầy mình. Nhưng cô không thể sống theo kiểu “nín thở qua cầu”. Thấy thế, các bạn cô cũng tìm cách khuyên ngăn, nhưng họ không thành công.
Thời gian trôi qua. Kỳ thi cuối khoá đã đến. Giây phút nhận kết quả mới hồi hộp làm sao. Elvire và các bạn mỗi người được phát một phiếu điểm. Tay cô run run mở phiếu. Chợt cô reo lên: “Điểm A”.
Thành quả cuối cùng trong lớp Triết học của Elvire là điểm tối đa.
Câu chuyện người con gái có tên Elvire khiến tôi không khỏi tự vấn: nếu rơi vào trường hợp tương tự liệu tôi có đủ tinh tế và can đảm nói lên niềm xác tín của mình không, hay tôi sẽ làm ngơ cho qua chuyện?
Nếu hành trình đức tin gặp phong ba thách đố, phải chọn lựa giữa giá trị Phúc âm và lợi lộc trần gian, liệu tôi có dám đặt chân lý Tin Mừng lên trên tất cả không?
Qua việc tự vấn, tôi khám phá ra rằng mình dễ hèn nhát tránh né làm chứng cho niềm tin. Đôi khi vì một chút danh dự, tư lợi, hay địa vị tôi dễ rơi vào cảnh sống như kẻ vô thần. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng những lần mình can đảm đáp trả tiếng gọi của Tin mừng là những khi mình sống bình an và phong phú nhất. Những lúc đó tôi thấy mình cũng đạt được điểm tối đa như Elvire vậy.
Thế ra, kiên trung sống theo chân lý, bền đỗ bước trong niềm tin, người ta sẽ gặt hái được hoa trái tốt tươi cho cuộc đời. Chính câu chuyện người đàn bà xứ Canaan trong Thánh Kinh cũng minh chứng cho điều đó:
Hôm ấy, Đức Giêsu đi lên mạn cực bắc của nước Do thái, vượt qua biên giới Galilê để tiến vào vùng Tyrô và Siđôn. Ngài muốn tìm một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi và cầu nguyện. Một người phụ nữ ngoại giáo chạy theo và kêu cầu Ngài cứu chữa cho con gái bà đang bị quỷ ám.
Trước lời khẩn nguyện chân thành và tha thiết của người mẹ, Kinh Thánh kể, Chúa Giêsu “không đáp lại một lời nào”.
Tại sao Ngài im lặng? Tại sao Chúa Giêsu làm thinh trước một lời cầu xin chính đáng? Có lẽ lắm khi trong cuộc đời tôi cũng đặt vấn đề như thế.
Nhiều lần Chúa Giêsu đã làm phép lạ để tỏ mình cho dân chúng. Phép lạ đóng vai trò như một dấu chỉ. Thế nhưng lắm khi người ta lại đọc sai dấu chỉ đến nỗi thay vì nhận chân Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, họ lại khinh thường và rêu rao Ngài dùng quyền ma quỷ để làm phép lạ (Mc 3:22). Có khi người ta lại suy tôn phép lạ như nhu cầu thiết yếu và xem Chúa là cái máy cung cấp. Thế nên có lần Ngài phải chạy trốn lên núi (Gn 6:15) hoặc cấm không cho họ nói lại những phép lạ Ngài làm (Mc 8:26).
Thái độ dè dặt của Chúa Giêsu thật đáng suy nghĩ: Ngài không đến để phô trương các việc lạ lùng hòng thu hút niềm thán phục nơi quần chúng và sự mến mộ của kẻ hiếu kỳ. Ngài đến là để thực thi Thánh ý Chúa Cha. Thánh ý đó là tìm kiếm chiên lạc của Israel.
Yvon Daigneault có viết: “Israel của Chúa Giêsu là Israel của lòng tin, qui tụ những ai có niềm tin vào Ngài. Trong Israel đó ta nhìn thấy một viên bách quản Rôma, một người cai trị có những lối sống không mấy rõ ràng, một phụ nữ không được tiếng tốt cho lắm như Madalêna, và một đám đông không kể xiết những người tội lỗi. Trong đó có chúng ta hợp thành con cháu thật sự của Abraham.
Chúa Giêsu không muốn loại trừ người phụ nữ Canaan khỏi Israel này. Đây là dân mà Chúa Cha giao phó cho Ngài. Chúa Giêsu thách đố bà tiến đến đức tin chân chính để có thể gặp được Ngài. Bà hiểu điều này và đã diễn tả niềm tin mới của mình bằng một công thức thật cảm động, đầy niềm vui và lòng khiêm nhượng”.
Đây là phần lạ lùng nhất của đoạn Phúc âm: khi nghe Chúa Giêsu nói “Người ta không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho đàn chó”, bà đã khiêm tốn thưa: “Vâng, lạy Ngài, nhưng chó cũng được ăn những bánh vụn rơi xuống từ bàn của chủ nó” (Mt 15,26-27).
Không biết trong hoàn cảnh như thế liệu đức tin của tôi có đủ mạnh để khiêm tốn và bền chí cầu xin, hay tôi sẽ quay ra than trách: không ban ơn lại còn xỉ vả bêu nhuốc nghĩa là thế nào? Chắc tôi sẽ tự ái, khó chịu mà bỏ Chúa mất.
Thái độ kiên trì khẩn nài và vững tin trước thách đố của người đàn bà Canaan đáng cho tôi học hỏi biết bao. Nhờ kiên tâm bám vào Chúa mà bà đã được điểm “A”. Chúa Giêsu tuyên bố: “Lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì được như vậy” (Mt 15,28).
Tôi ước ao được điểm A như thế lắm. Song trước tiên, có lẽ tôi phải biết thốt lên với tất cả lòng thành lời nguyện như người phụ nữ ngày xưa: “Kyrie eleison – Xin Chúa thương xót con”.
Đoạn Phúc Âm nầy được viết khi trong Giáo Hội đã có bắt đầu với những người Kitô giáo Do thái của Đấng Messia, con vua Đavít và rất đông người Kitô giáo Hy Lạp (ngoại giáo) của Đức Kitô. Vì số người Do thái Kitô giáo ít còn Hy Lạp thì đông nên Đức Giêsu trong Phúc Âm và Giáo Hội là Đức Kitô.
Điểm của đoạn Phúc Âm là “lòng tin”. Không phải do thái hay dân ngoại. Lòng tin làm phép lạ. Chúa nhậm lời vì thấy lòng tin. Có lòng tin là tín hữu, là môn đệ, là được Chúa quan tâm, là được nhậm lời. Nhưng đức tin phải tự chứng minh qua nhiêu thử thách. “Thiên Chúa thử thách Abraham đủ cách để coi ông có thật lòng thờ Chúa hay không”.
CHÚ GIẢI
– Có một người đàn bà Canaan: bà ngoại đạo, không phải Israel.
– Kêu lên rằng: Lạy Ngài là con vua Đavít, xin thương xót tôi: Kêu theo kiểu Israel. Bắt chứoc người Israel, họ đang mong đợi một Đấng Messia, con vua Đavít..
– Nhưng Người không đáp lại một lời: kêu chưa đúng. Messia là của Do thái. Bà nầy không phải Do thái. Giáo Hội không kêu vậy mà kêu “Đức Kitô” của mọi người không phân biệt Israel hay Hy Lạp (khi viết Phúc Âm thì các Kitô hữu đầu tiên là Israel rồi Hy Lạp đông dần lên).
– Thầy chỉ được sai đến với các chiên lạc của nhà Israel: Con vua Đavít là của Israel, là danh xưng quen thuộc của ngưòi Israel với niềm hy vọng Người sẽ tái lập nhà Đavít và một triều đại thịnh vượng cho Israel.
– Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi: Lời cầu xin mà mọi tín hữu thường dùng không phân biệt Israel hay dân ngoại. Đúng rồi.
– Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó ăn: Thử thách cuối cùng làm phát sinh đức tin. Thiên Chúa thử thách vì muốn ban ơn chứ không vì sở thích. Không có lòng tin thì không thể có gì. Thử thách có bài bản chứ không lung tung không biết đâu mà rờ. Ngưòi chỉ lập lại cái cách mà người Do thái coi dân ngoại là chó, heo. Ngưòi không như vậy. Bà nầy biết nên không tự ái. Thử thách là để cho thấy đức tin. Thấy đức tin mới cho.
– Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con cũng được hưởng những mảnh vụng từ bàn ăn chủ rơi xuống: Chó con sẽ chết. Một cách trả lời thản nhiên, chấp nhận. Ơn cứu độ bắt đầu từ ngưòi Do thái, nhưng không chỉ cho thiểu số Do thái mà phải lan rộng đến mọi người.
– Lòng tin của bà mạnh thật: Bà hiểu vấn đề và Lời Chúa và đã áp dụng đúng. Vấn đề trước hết là hiểu bản văn Lời Chúa để áp dụng đúng như Chúa muốn. Đó là tin.
– Bà muốn sao thì được vậy: Tin sao thì được vậy. Tin không đúng thì không được. Hãy để ý điều nầy. Phải hiểu đúng để tin đúng. Không phải cứ tin mà phải tin cho đúng.
Cách đọc Lời Chúa đơn giản nhất và hiệu quả nhất là nghiên cứu chuyên môn để hiểu đúng bản văn rồi áp dụng dúng thì chắc chắn hiệu quả vì là Chúa muốn vậy. Nhưng không dể. Các công trình nghiên cứu cho tới nay chỉ tham vọng tìm được nghĩa gần nhất với ý tác giả Phúc Âm.
Đoạn Phúc Âm nầy không khó. Điểm cốt yếu dể nhận ra. Đó là: Lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao được vậy. Thiên Chúa muốn ban ơn, sẳn sàng ban ơn. Nhưng điềư kiện rất rõ ràng là lòng tin. Là điều kiện tất yếu, không thể thiếu. Là điều kiện đủ không cần gì thêm. Phải biết đúng diều Chúa muốn để tin cho đúng và làm cho đúng. Phải nhờ những nhà chuyên môn hướng dẫn. Nhưng ngừơi ta lại sợ học Phúc Âm. Tự đọc làm sao hiểu. Tại sao có hiện tượng “tôn giáo cực đoan”? Vì hoặc không đọc hoặc tự đọc không hiểu đúng ý Chúa. Biết đúng ý Chúa thì tin rất dễ.
Phêrô sợ và chìm. Theo suy nghĩ riêng thì sợ. Thầy đây đừng sợ. Suy nghĩ theo ý Chúa thì không chìm. Người Do thái coi ngưòi ngoại là chó, heo. Nhưng Thiên Chúa thì không. Hiểu mới tin. Fides clamat intellectum. Intellegas ut credas (Augustin). Nguời ta không tin vì không hiểu vì con ngưòi có trí khôn để hiểu. Hiểu mới có xác tín. Phải chịu khó nghiên cứu. Phải làm hết sức để hiểu Lời Chúa. Còn lại Thánh Thần sẽ bổ khuyết cho. Không thể chỉ xin “ban cho con một đức tin anh dũng” mà có.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chịu khó nghiên cứu và suy niệm để hiểu Lời Chúa vì như thế mới có được lòng tin mạnh thật và được như ý.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi… Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”
Lời cầu xin trên của người đàn bà Canaan có gì khác không nhỉ với lời kêu cứu của Phêrô “Thưa ngài, xin cứu con với!”? Người môn đệ ruột có quyền được Thầy mình cứu vớt, thế nhưng lời cầu khẩn đó của ông lại bị Đức Giêsu coi như một biểu hiện của thiếu tin tưởng, của hoài nghi, do đó đáng bị quở trách, “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14, 31) Còn lời cầu xin thương xót của người đàn bà Canaan ngoại giáo và bất xứng này lại được Đức Giêsu đề cao: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!”
Quả thế, đoạn Tin Mừng hôm nay hầu như muốn lột tả tới từng chi tiết tình trạng bất xứng của người đàn bà này trước ân huệ được xót thương: là người Canaan thuộc miền Tia và Si-đôm mà người Đo Thái khinh bỉ gọi là vùng đất dân ngoại (một đối nghịch và loại trừ rõ ràng so với danh xưng ‘đất hứa của dân riêng Đức Chúa’). Con gái bà bị quỉ ám lại càng cho thấy gia đình bà thuộc hạng xấu xa bất hạnh. Đức Giêsu, qua thái độ và lời nói, càng như muốn nhấn mạnh trên sự bất xứng, không đáng được bố thí thương xót chút nào: ‘Người không đáp lại một lời’. Trước sự can thiệp bất đắc dĩ của nhóm môn đệ chỉ vì muốn được yên thân khỏi bị quấy rầy, Thầy Giêsu càng tỏ ra lạnh nhạt, “Thầy chỉ được sai đến với các con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Thái độ khinh bỉ khước từ đạt tới đỉnh điểm trong câu chối từ không nể nang: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!” Thế đấy, nếu người Do Thái nói chung và các môn đệ nói riêng (điển hình nhất là Phêrô) tự coi mình là thành phần được tuyển chọn, là xứng đáng hơn ai hết lãnh nhận sự ưu ái, che chở và cứu vớt của Thiên Chúa, thì người dàn bà Canaan này chỉ là con số không, thâm chí còn dưới không nữa. Thế nhưng chính ở điểm này mà lòng thương xót thần linh biểu lộ được nội dung sâu xa và độc đáo nhất của nó.
Còn về phía người đàn bà Canaan, bà không hề muốn che dấu sự bất xứng của mình, ngược lại xem ra bà còn muốn đề cao nó hơn nữa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Quả thế, nếu đã xứng đáng thì chẳng cần gì tới lòng thương xót, ngược lại càng bất xứng bao nhiêu thì lòng thương xót càng tỏa sáng bấy nhiêu: một định luật dễ hiểu. Ai kể mình xứng đáng để được ân thưởng, người đó sẽ được áp dụng luật công bằng với các cân đong đo đếm rất chi li (qua hình ảnh cán cân tội phúc vẫn thường được sử dụng). Còn đối với lòng thương xót, Đức Giêsu hình như muốn cho thấy nó thật chan hòa tới độ, chỉ cần duy một điều kiện độc nhất là khiêm tốn đón nhận, thế là nó tuôn trào vô giới hạn – “Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Chính lúc khiêm tốn nhìn nhận sự bất xứng của mình mà người đàn bà Canaan hầu như đã hoàn toàn điều khiển được quyền năng xót thương của Thiên Chúa, ‘từ giờ đó con gái bà được khỏi’. Ôi thật lạ lùng và tuyệt diệu thay sức mạnh của khiêm tốn đón nhận xót thương!
Trước đó cũng đã từng có một người nữ khác khám phá ra và khai thác được định luật này cách triệt để hơn nhiều, đó là trinh nữ Maria tại thôn xóm Nadarét. Trinh nữ này đã hiểu ra sức mạnh vô địch của khiêm nhường (tức nhìn nhận mình bất xứng) khi xác quyết bằng lời ngợi ca Magnificat: một khi Đức Chúa nhận thấy phận nữ tì hèn mọn của tôi, thì Đấng giầu lòng xót thương xót sẽ thi thố nơi tôi biết bao điều cao cả, tới độ từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Niềm vui lớn nhất làm cho trinh nữ đó hớn hở vui mừng không phải là các ơn huệ nhận được (nhân đức, thánh thiện hay trở thành vô nhiễm hay làm Mẹ Thiên Chúa…) mà chính là: vì mình được Thiên Chúa cứu độ và xót thương. Ân huệ nào thì cũng có giới hạn, nhưng lòng thương xót thì vô bờ và tồn tại mãi cho tới muôn đời.
Có lẽ đây là khía cạnh dễ bị quên lãng nhất mỗi khi Kitô hữu chúng ta quyết tâm noi gương hay học đòi Mẹ Maria. Khiêm nhường là nhân đức không được mấy ai đề cao, và cũng ít ai nhận ra tầm quan trọng lớn lao hầu như tuyệt đối của nó. Nếu Phúc âm vẫn hay đề cập tới hai khuôn mặt Maria, và đặt gần kề bên nhau trong nhiều tình huống của hành trình cứu độ, có lẽ cũng có một ý nghĩa nào đó? Maria Nadarét và Maria Mácđala bổ xung cho nhau cách tuyệt diệu lắm thay, và điểm giao thoa gặp gỡ giữa hai người phụ nữ có lý lịch rất khác biệt nhau này chính là các ngài đã biết mở rộng cõi lòng khiêm tốn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa từ nhân.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con bài học quan trọng và cao quí nhất này là nhìn nhận sự bất xứng tột cùng của mình để có thể khai thác được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Xin cho con xác tín chân nhận ‘Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…’ để mỗi khi rước lễ, con chạm tới được lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa – Đấng cứu chuộc con. Xin cho con biết hàng ngày hiệp lời ca ngợi lòng thương xót hải hà Chúa dành cho Mẹ và cho tất cả các con cái của Mẹ đến muôn thuở muôn đời. Amen.
“Dân ngoại” có lòng tin mạnh hơn quân “Giudêu”
Tất cả những người “bén duyên” với việc rao giảng tin mừng trong lãnh vực giúp giáo lý dự tòng cho những “người ngoại” ắt hẳn sẽ có rất nhiều kinh nghiệm tuyệt vời từ những “người ngoại” tìm đến Chúa. Với xã hội phát triển vượt bậc về kinh tế như ngày nay tưởng chừng con số gia nhập Kitô giáo sẽ chựng lại hay chỉ vài người nhưng thật may mắn khi còn nhiều và còn nhiều người “ngoại” bỗng nhiên cảm mến Chúa, cảm mến Đạo để tìm đến các lớp Dự Tòng của các giáo xứ để học giáo lý. Trong những người đấy thật sự là có những người học vì phải theo đạo vợ đạo chồng nhưng cũng trong những số ấy, không ít người “ngoại” xuất phát từ niềm tin thật trong lòng của họ.
Một học trò cũ đã bộc bạch với tôi: “Thưa Cha! Thoạt đầu, vì anh ấy con đi học giáo lý để tìm hiểu về Chúa nhưng rồi sau khi đi học con thấy con tin Chúa nhiều lắm! Nhất là sau khi rửa tội, con thấy con bình an hơn, cuộc sống của con thanh thản hơn trước. Con đã bớt đi tính tranh giành, hơn thua, ghen ghét. Hiện giờ thì anh ấy không quen con nữa nhưng con cảm ơn anh ấy vì chính anh ấy là người dẫn con đến với Chúa và Mẹ. Con nghĩ rằng anh là người dẫn đường cho con. Vẫn biết rằng chia tay với anh ấy con rất buồn nhưng con thấy con được rửa tội để theo đạo là con hạnh phúc rồi. Những tối khó ngủ, con đeo chuỗi Mân Côi mà đứa bạn tặng con trong ngày rửa tội (13.07.2008 tại nhà nguyện Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn) con thấy con ngủ ngon!”. Tôi không nghĩ ra và không ngờ học trò đã nói rất thật, thật tự đáy lòng và lương tâm của mình. Phải chăng đây là lòng tin kiên vững của một “dân ngoại” thời hiện đại.
Nếu có dịp, ai muốn “tai nghe mắt thấy” thì có thể đến với các lớp giáo lý dự tòng trong đó có lớp giáo lý ở Dòng Chúa Cứu Thế. Không phải Dòng Chúa Cứu Thế dạy hay hay nổi tiếng nhưng Ban giảng huấn ở đây đã thu thập tất cả các chứng từ, các cảm nghiệm thật đơn sơ, thật chân thành tự đáy lòng của những “dân ngoại” khi họ tìm đến Chúa. Những lời chứng ấy, những niềm xác tín đấy hiện đang còn lưu giữ như lời chứng hùng hồn niềm tin vào Chúa giữa một thế giới mà dường như người ta muốn đẩy Thiên Chúa ra bên lề đời họ.
Với Cha Trương Bửu Diệp, Ngài khá nổi tiếng vì sự tử đạo của mình nhưng nổi tiếng hơn khi Ngài đã làm nhiều và nhiều dấu lạ cho mọi người. Khi đặt chân đến viếng Ngài ở Tắc Sậy, những người mà tôi được tiếp xúc, hỏi thăm đều cho biết: “Cha Bửu Diệp mắc cười lắm! Ngài hay làm dấu lạ cho nhiều người nhưng đặc biệt Cha làm dấu lạ cho những người “lương” (“ngoại giáo”) không à! Còn những người Công Giáo được ơn của Cha rất ít”. Đúng như lời những người ở đây nói khi tôi đi tham quan một vòng nhà thờ cũng như phần mộ của Cha. Hàng ngàn cái ghế đá dâng kính Ngài trong khuôn viên nhà thờ như nói lên lòng biết ơn Cha Bửu Diệp được đề tên nhưng đa số là của “người ngoại” vì có tên người dân nhưng không có tên Thánh như những con nhà “có đạo” mà ta thường thấy.
Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Cha Bửu Diệp đã ban ơn cho “dân ngoại” nhiều hơn con nhà “có đạo”. Nhiều người hàm hồ bảo rằng Thiên Chúa bất công, thiên vị, cho người ngoài chứ không cho con cái trong nhà!
Ở vùng đất Cần Giờ nhỏ bé nghèo nàn cũng thế! Vị linh mục đặc trách đã, đang bị “ném đá” vì ngài đã cứu đói người ngoại nhiều hơn là con cái trong nhà! Lẽ ra con cái trong nhà phải hiểu cho tấm lòng của vị mục tử khi quan tâm, chia sẻ cho “người ngoại” đàng này chia bè chia phái làm vơi đi cái lòng mến cha – con thuở ban đầu. Giờ này đây linh mục đặc trách khá đau đớn trước cách phân chia của mình. Ngài làm theo cách của Chúa Giêsu làm trong bài tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Matthêu thuật lại.
Chúa Giêsu, thoạt đầu cũng nói thẳng với bà: “không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Phải nói rằng Chúa Giêsu ví von nghe sao mà sốc quá! Người ta đến với mình, hạ mình xuống để xin mình chữa cho con của họ mà họ là phụ nữ nữa chứ! Cho không cho thì thôi, còn ví von này nọ, còn đem hình ảnh của những miếng bánh cho chó! Chúa Giêsu kỳ quá! Không! Chúa Giêsu không kỳ, Ngài dùng lời lẽ đó để thử lòng tinh của người phụ nữ “ngoại giáo” này! Thử thì thử nhưng lòng tin của người phụ nữ “ngoại giáo” này đã phá vỡ được sự “cứng cỏi” của Chúa Giêsu. Ta có thể nói rằng trong ván cờ này Chúa Giêsu thua 1-0. Thua 1-0 nhưng thật ra là thắng! Thắng vì lẽ Chúa Giêsu đã thu lợi được một con người, một lòng tin từ người “ngoại” này vào Thiên Chúa. Thua như thế cũng đáng thua chứ cũng chẳng mất mát gì. Không chỉ thua mà Chúa Giêsu còn minh chứng, còn công bố cho những người gặp gỡ Chúa hôm ấy rằng: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy”. Lòng tin của người phụ nữ “ngoại giáo” này được Chúa bù đắp một cách mỹ mãn.
Như trong bài đọc thứ nhất chúng ta vừa nghe: Đây Thiên Chúa phán: “Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện. “Người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabbat, không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Ta, Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”.
Đức Chúa hứa với những người ngoại bang sẽ trở thành tôi tớ Chúa vì họ trung thành với giao ước và được Đức Chúa dẫn lên núi thánh. Còn chúng ta, chúng ta được gọi là “con nhà có đạo”, là quân “Giudêu”. Có đạo chục năm, vài chục năm, thậm chí bảy tám chục năm nhưng rồi lòng tin của chúng ta đang ở mức độ nào? Nó còn nồng thắm như cái “thuở ban đầu lưu luyến ấy” khi mới theo Chúa hay không?
Phải nói rằng như người ta vẫn nói: “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Nhiều khi cứ đi lễ đi nhà thờ như một thói quen chứ niềm tin thì cứ nhạt dần nhạt dần. Người ta có thể cân đo đong đếm thóc lúa tiền nong chứ làm sao mà đo được lòng tin. Thế nhưng, dẫu không đo được lòng tin cao bao nhiêu? sâu baon nhiêu? rộng bao nhiêu? không cân được lòng tin của anh, của chị, của chúng ta được bao nhiêu ký nhưng qua lối sống, qua hành vi, tương quan của mỗi kitô hữu với những người xung quanh có thể biết được người ấy tin Chúa ở mức nào, sống kết hợp với Chúa như thế nào?
Đời sống nội tâm, đời sống cầu nguyện là nền tảng của đời sống kitô hữu nhưng sau khi suy gẫm, sau khi cầu nguyện ta diễn tả niềm tin vào Chúa như thế nào chứ đâu phải cứ ngày ngày, giờ giờ ngồi bên Chúa là hay đâu. Có những người chăm chăm chú chú, ngày ngày giờ giờ cầu nguyện nhưng sau khi cầu nguyện xong trở lại đời sống bình thường thì cư xử khó có ai đón nhận được?
Chẳng nói đâu xa, trong giới “luật sĩ và biệt phái” thời hiện đại cũng thế thôi. Cũng mang trong mình cái áo của “luật sĩ và biệt phái” đấy nhưng cách cư xử chẳng ra làm sao cả. Chính “luật sĩ và biệt phái” không sống lòng tin chân chính vào Chúa, không diễn tả lòng tin thật của mình vào Chúa mà chỉ sống cái hình thức bên ngoài thì làm gì mà đòi hỏi giáo dân sống niềm tin tinh tuyền.
Hình ảnh người phụ nữ “ngoại giáo” hôm nay là cơ hội để chúng ta xét lại niềm tin của chúng ta vào Chúa. Từ “luật sĩ và biệt phái” thời hiện đại cho đến giáo dân xét xem mình còn tin Chúa hay không? Nếu còn tin Chúa thì chắc chắc Chúa sẽ ban ơn lành cho chúng ta. Thiên Chúa bao dung, Thiên Chúa quãng đại, Thiên Chúa hào phóng nhiều hơn là chúng ta tưởng.
Chúng ta – quân “Giudêu” – có dám tin vào Chúa như người phụ nữ “ngoại giáo” hôm nay không? Nếu chúng ta tin thật vào Chúa như “người ngoại” thì bảo đảm Chúa cũng phải mềm lòng với những kẻ cứng đầu cứng cổ, chầy cối van xin Chúa như người ngoại đạo hôm nay trong Tin mừng.
“Lạy Ngài là Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi… Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Lời cầu xin trên của người đàn bà Ca-na-an có gì khác không nhỉ với lời kêu cứu của Phê-rô “Thưa ngài, xin cứu con với!”? Người môn đệ ruột có quyền được Thầy mình cứu vớt, thế nhưng lời cầu khẩn đó của ông lại bị Đức Giêsu coi như một biểu hiện của thiếu tin tưởng, của hoài nghi, do đó đáng bị quở trách, “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (Mt 14, 31) Còn lời cầu xin thương xót của người đàn bà Ca-na-an ngoại giáo và bất xứng này lại được Đức Giêsu đề cao: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!”
Quả thế, đoạn tin mừng hôm nay hầu như muốn lột tả tới từng chi tiết tình trạng bất xứng của người đàn bà này trước ân huệ được xót thương: là người Ca-na-an thuộc miền Tia và Si-đôm mà người Đo Thái khinh bỉ gọi là vùng đất dân ngoại (một đối nghịch và loại trừ rõ ràng so với danh xưng ‘đất hứa của dân riêng Đức Chúa’). Con gái bà bị quỉ ám lại càng cho thấy gia đình bà thuộc hạng xấu xa bất hạnh. Đức Giêsu, qua thái độ và lời nói, càng như muốn nhấn mạnh trên sự bất xứng, không đáng được bố thí thương xót chút nào: ‘Người không đáp lại một lời’. Trước sự can thiệp bất đắc dĩ của nhóm môn đệ chỉ vì muốn được yên thân khỏi bị quấy rầy, Thầy Giêsu càng tỏ ra lạnh nhạt, “Thầy chỉ được sai đến với các con chiên lạc của nhà It-ra-en mà thôi”. Thái độ khinh bỉ khước từ đạt tới đỉnh điểm trong câu chối từ không nể nang: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!” Thế đấy, nếu người Do Thái nói chung và các môn đệ nói riêng (điển hình nhất là Phê-rô) tự coi mình là thành phần được tuyển chọn, là xứng đáng hơn ai hết lãnh nhận sự ưu ái, che chở và cứu vớt của Thiên Chúa, thì người dàn bà Ca-na-an này chỉ là con số không, thâm chí còn dưới không nữa. Thế nhưng chính ở điểm này mà lòng thương xót thần linh biểu lộ được nội dung sâu xa và độc đáo nhất của nó.
Còn về phía người đàn bà Ca-na-an, bà không hề muốn che dấu sự bất xứng của mình, ngược lại xem ra bà còn muốn đề cao nó hơn nữa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Quả thế, nếu đã xứng đáng thì chẳng cần gì tới lòng thương xót, ngược lại càng bất xứng bao nhiêu thì lòng thương xót càng tỏa sáng bấy nhiêu: một định luật dễ hiểu. Ai kể mình xứng đáng để được ân thưởng, người đó sẽ được áp dụng luật công bằng với các cân đong đo đếm rất chi li (qua hình ảnh cán cân tội phúc vẫn thường được sử dụng). Còn đối với lòng thương xót, Đức Giêsu hình như muốn cho thấy nó thật chan hòa tới độ, chỉ cần duy một điều kiện độc nhất là khiêm tốn đón nhận, thế là nó tuôn trào vô giới hạn – “Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Chính lúc khiêm tốn nhìn nhận sự bất xứng của mình mà người đàn bà Ca-na-an hầu như đã hoàn toàn điều khiển được quyền năng xót thương của Thiên Chúa, ‘từ giờ đó con gái bà được khỏi’. Ôi thật lạ lùng và tuyệt diệu thay sức mạnh của khiêm tốn đón nhận xót thương!
Trước đó cũng đã từng có một người nữ khác khám phá ra và khai thác được định luật này cách triệt để hơn nhiều, đó là trinh nữ Ma-ri-a tại thôn xóm Na-da-rét. Trinh nữ này đã hiểu ra sức mạnh vô địch của khiêm nhường (tức nhìn nhận mình bất xứng) khi xác quyết bằng lời ngợi ca Magnificat: một khi Đức Chúa nhận thấy phận nữ tì hèn mọn của tôi, thì Đấng giầu lòng xót thương xót sẽ thi thố nơi tôi biết bao điều cao cả, tới độ từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Niềm vui lớn nhất làm cho trinh nữ đó hớn hở vui mừng không phải là các ơn huệ nhận được (nhân đức, thánh thiện hay trở thành vô nhiễm hay làm Mẹ Thiên Chúa…) mà chính là: vì mình được Thiên Chúa cứu độ và xót thương. Ân huệ nào thì cũng có giới hạn, nhưng lòng thương xót thì vô bờ và tồn tại mãi cho tới muôn đời.
Có lẽ đây là khía cạnh dễ bị quên lãng nhất mỗi khi Kitô hữu chúng ta quyết tâm noi gương hay học đòi Mẹ Ma-ri-a. Khiêm nhường là nhân đức không được mấy ai đề cao, và cũng ít ai nhận ra tầm quan trọng lớn lao hầu như tuyệt đối của nó. Nếu Phúc âm vẫn hay đề cập tới hai khuôn mặt Ma-ri-a, và đặt gần kề bên nhau trong nhiều tình huống của hành trình cứu độ, có lẽ cũng có một ý nghĩa nào đó? Ma-ri-a Na-da-rét và Ma-ri-a Mác-đa-la bổ xung cho nhau cách tuyệt diệu lắm thay, và điểm giao thoa gặp gỡ giữa hai người phụ nữ có lý lịch rất khác biệt nhau này chính là các ngài đã biết mở rộng cõi lòng khiêm tốn để đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa từ nhân.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con bài học quan trọng và cao quí nhất này là nhìn nhận sự bất xứng tột cùng của mình để có thể khai thác được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Xin cho con xác tín chân nhận ‘Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…’ để mỗi khi rước lễ, con chạm tới được lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa – Đấng cứu chuộc con. Xin cho con biết hàng ngày hiệp lời ca ngợi lòng thương xót hải hà Chúa dành cho Mẹ và cho tất cả các con cái của Mẹ đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Tháng 12 năm 1987 một trận động đất kinh hoàng đã xảy ra tại Armênia, đã cướp đi sinh mạng hàng ngàn người, trong số những người bị chôn vùi trong đống đổ nát có mẹ con bà Suzanna may mắn nằm gọn trong một khoảng trống của những bức tường sụp đổ. Lương thực họ có được là một hủ mứt nhỏ, nhưng chẳng bao lâu hủ mứt hết sạch, đứa con nói với bà mẹ: “mẹ ơi con khát”, bà mẹ không biết tìm đâu ra nước cho đứa con, nhưng tình mẫu tử đã thôi thúc bà nẩy ra một hành động táo bạo, bà đưa tay nhặt lấy miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay cho máu chảy ra rồi đưa lên miệng cho đứa con 4 tuổi mút, nhưng không lâu thì đứa con lại kêu lên nữa, bà cắt ngón thứ hai, rồi ngón thứ ba… nhưng may mắn lại đến với mẹ con bà là đội cứu hộ tìm đến và đưa hai mẹ con ra khỏi đống đổ nát an toàn, nhiều người đến chúc mừng và hỏi thăm động lực nào khiến bà làm chuyện đó? Bà chỉ trả lời “tôi muốn con tôi được sống”. Báo chí đã nhiều ngày ca tụng tình mẫu tử và sự hy sinh của bà mẹ xứ Armênia này.
Hôm nay thánh Matthêu cũng giới thiệu cho chúng ta một người mẹ xứ Canaan chấp nhận và hy sinh mọi sự chỉ vì đứa con, nhưng Chúa Giêsu không khen ngợi tình mẫu tử, mà Ngài lại khen ngợi về đức tin. Tại sao một người ngoại giáo mà lại được Chúa Giêsu khen ngợi về đức tin?
Thật vậy, Đức Giêsu khen ba ta vì những nguyên nhân sau:
Điều chắc chắn người phụ nữ Canaan này đã nghe nói về Con Người Giêsu, về những phép lạ Ngài làm, về những lời rao giảng của Ngài… vì danh tiếng của Người lan rộng ra khắp vùng (Mc 3,8). Người phụ nữ này với một tia hy vọng là gặp được ông Giêsu để xin một phép lạ cho con gái bà. Còn chúng ta có được đức tin là ngay từ nhỏ đã nghe nói nhiều về Chúa Giêsu từ trong gia đình, từ trong khu xóm, họ đạo… nhưng tôi có nói cho những người ngoại giáo dang sống chung quanh tôi biết về Chúa Giêsu không? Họ chính là những người Canaan thời đại ở quanh ta.
Người phụ nữ Canaan sau khi nghe về Chúa Giêsu, bà luôn luôn nghe ngóng về tin tức với hy vọng sẽ gặp để xin một phép lạ cho con gái bà. Khi Chúa Giêsu tới Tyr và Sidom thì bà vội vã ra khỏi Canaan mà đến để xin Người “Lạy con vua Đavit, xin dủ lòng thương xót tôi…” danh hiệâu này bà biết được cũng là nhờ nghe nói. Trước lời kêu xin của người phụ nữ này, Chúa Giêsu không những lặng thinh mà con lên tiếng chối từ “Ta được sai đến với những con chiên lạc nhà Ísrael mà thôi”. Sự thinh lặng và thái độ chối từ của Chúa Giêsu đã làm cho các tông đồ phải thắc mắc, vì thầy mình vừa dạy “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho” thế mà hôm nay, trước lời kêu xin của người đàn bà này thì thầy mình lại chối từ. Còn thái độ của chúng ta thì sao? Hằng ngày tôi chạy đi tìm Chúa để xin hết ơn này đến ơn khác, nếu được nhận lời thì coi như là việc của Chúa phải làm, còn Chúa thinh lặng, hay chối từ thì ta buồn phiền, giận ghét, bỏ đạo hay chạy theo những thế lực trần gian, hay còn tệ hơn nữa là chạy theo tà thần. Riêng người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay thì vẫn khiêm tốn, không tuyệt vọng, không than phiền, không thắc mắc…bà không những kêu xin bằng miệng, mà bà còn kêu xin bằng cả con người. Trước sự khiêm tốn đó làm cho Chúa Giêsu không thể chối từ được, nên Ngài dẫn bà vào cuộc thử thách.
Trước sự kiên trì của người phụ nữ, Chúa Giêsu lên tiếng “không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”, một thử thách dường như quá nặng, quá khó đối với người ngoại giáo này. Nếu người mẹ xứ Armênia chỉ hy sinh những giọt máu để cứu đưa con, thì bà mẹ Canaan lại hạ mình xuống ngang với “con cho” cũng vì đứa con. Nhưng chính lòng khiêm tốn của bà lại làm cho các tông đồ phải ngạc nhiên “Thưa Thầy đúng lắm, nhưng mà chó con cũng đáng được hưởng những mảnh vụn từ trên bàn của chủ nó rơi xuống”. Trước câu trả lời đầy khiêm tốn này đã làm cho Chúa Giêsu “phải bó tay” mà thốt lên “Đức tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được như vậy”.
Đứng trước những thử thách trong cuộc sống, chúng ta có chấp nhận hay kêu ca? Phải chăng nhiều lần tôi có thái độ hoán hận Thiên Chúa vì những khó khăn tôi gặp phải. Lúc đó tôi không đủ khiêm tốn để nhận ra ý Chúa trong những thử thách, mà tôi muốn Chúa phải làm theo ý của tôi. Chúng ta đã nghe nói nhiều về Chúa, đã đi tìm Chúa trong suốt thời gian qua, nhưng tôi có hiểu được ý Chúa chưa? Trong đời sống, tôi có đủ khiêm tốn để chấp nhận cho Chúa thử thách không? Mỗi người chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của mình và hãy tín thác đời mình cho Chúa. Chúng ta phải tin rằng: “Chúa không bao giờ chơi xấu” Ngài biết sức chịu đựng của ta. Vậy mỗi người hãy biết sống khiêm tốn như người phụ nữ Canaan và dùng lời kêu xin như một lời nguyện tắt để ta có thể kêu lên Chúa bất cứ lúc nào trong ngày: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, “Lạy Chúa, xin thương gia đình con”, “Lạy Chúa, xin thương xót họ đạo con”, “Lạy Chúa, xin thương xót Giáo Hội Việt Nam chúng con”. Amen!
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phúc, Người mang hạnh phúc đến cho chúng ta, người đàn bà xứ Canaan hiểu điều đó đã tìm đến Chúa! Bà muốn Chúa Giêsu nhìn đến nhu cầu bà xin cho con gái bà. Bà muốn Thiên Chúa thể hiện lòng nhân lành đối với con bà, lời van xin của bà mới đẹp làm sao: “Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi!” (Mt 15, 22) Bà coi Chúa Giêsu là Đấng Messia.
Sự thinh lặng của Chúa Giêsu
Bà xin Chúa không trả lời, có phải bà bị miệt thị không? Chắc chắn là thế, nhưng bà cứ xin Chúa phải trả lời: “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel” (Mt 15, 24). Câu này thể hiện sự vâng phục của Chúa Giêsu được Cha sai đến cùng dân Israel, và mạc khải cho dân biết về lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với họ. Lời cầu xin của bà xứ Canaan khó có thế chấp nhận, nhưng bản chất và tình thương của một người mẹ bảo bà cứ xin.
Chúng ta biết, giữa người Do thái và dân ngoại có một bức tường ngăn cách, thánh Phaolô gọi đó là “bức tường hận thù” (x. Eph 2, 14). Chính sự ngăn cách này mà Chúa Giêsu cũng bảo môn đệ đừng đi theo đường của dân ngoại, cầu nguyện “đừng có lải nhải như dân ngoại” (Mt 6, 7). Và nếu ai đó muốn nhục mà người nào trong dân Israel, thì hãy “đối xứ với họ như dân ngoại ” (x. Mt 18, 17), nên không có lạ gì khi môn đệ ngạc nhiên thấy Thầy tiếp chuyện với người phụ nữ xứ Samaria dân ngoại. Thế mới biết người đàn bà xứ Canaan can đảm biết chừng nào, bà đã vượt qua tất cả rào cản về tôn giáo, địa lý, niềm tin, nhất là về thân phận phụ nữ của chính bà. Vì ngay người nữ Do thái còn không được nhắc đến trong lời cầu nguyện, lời chứng của họ không có giá trị pháp lý, không giải quyết được gì ở nơi công cộng, huống hồ là đàn bà dân ngoại.
Chúa Giêsu không đề cập đến những vấn đề trên. Tuy nhiên, bà này vượt qua ranh giới dân ngoại, kêu xin một người Do thái với lòng kính trọng: “Lạy Ngài là con Vua Đavít” (Mt 15, 22). Có lẽ bà đã nghe nói nhiều về Chúa Giêsu, trong lòng bà có điều không biết rõ, phải chăng là hồng ân của Thiên Chúa.
Nhưng bà biết, theo ý kiến của dân chúng, bà có thể xin được điều bà cần nơi Đấng được Thiên Chúa sai đến. Bà liều đến, Chúa Giêsu không chấp nhận, bà nhờ vả các môn đệ, khiến các ông phải thưa với Chúa Giêsu: “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi” (Mt 15, 23). Các ông muốn Chúa nhận lời ngay, Chúa từ chối, bà khăng khăng sấp mình xuống. Chúa bảo bà, “không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó” (Mt 15, 26) để giải thích lý do tại sao Người không thể nhận lời bà xin. Bà đáp rằng, “vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống” (Mt 15, 27). Lời này đã thuyết phục được Chúa Giêsu, ma quỉ bị trục xuất, con gái bà được giải thoát.
Lời bà van xin không được xét đến, xin mãi bị từ chối, lại còn bị miệt thị như chó. Chúng ta tự hỏi: điều gì đã khiến cho bà dám làm tất cả? Thưa vì yêu. Với tình mẫu tử, bà không đành lòng ngồi nhìn đứa con mình bị ma quỉ hành hạ, bà đi khắp đó đây tìm thầy chạy thuốc, vượt qua cả những nơi bị xem là cấm kỵ. Yêu con, bà chấp nhận tất cả, không những đến với Chúa Giêsu là người Do thái, lại còn tin Chúa có quyền năng thống trị được ma quỉ, tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa, tin Chúa có trái tim rộng mở để không phân biệt người ngoại, kẻ đạo. Đáng ngưỡng mộ cho một người mẹ.
Giao ước và đức tin
Dù bà đã công nhận kế hoạch của Thiên Chúa, cũng như vai trò cứu thế của Chúa Giêsu được sai đến với nhà Israel, nhưng bà hy vọng rằng sự quan phòng của Thiên Chúa Đấng Cứu Thế không chỉ liên kết chặt chẽ với Israel, mà còn trải dài đến mọi dân tộc, kể cả dân ngoại, “vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc” (Is 56, 7 ) ; để “hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài” (Tv 66). Bà cũng tin rằng, những rào cản ngăn cách giữa con người một ngày kia sẽ được rỡ bỏ, không còn trở ngại cho việc thi ân giáng phúc của Thiên Chúa. Bà tin, Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa sai đến như vị Cứu tinh dân ngoại, bởi bà tin Thiên Chúa đã hành động. Lời thánh Phaolô chứng tỏ điểu đó: “Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót” (Rm 11, 32). Tại Nagiaret, Đức Giêsu đã không thể làm một phép lạ nào vì họ không tin vào Người, bởi vì họ cứng lòng tin. Người đàn bà này bằng đức tin đã đến gần Chúa Giêsu. Bà quả là một người mẹ có lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, bà đã được Thiên Chúa xót thương (x. Rm 11, 13-15. 29-32)
Bài học cho chúng ta
Chúng ta học được nhiều điều ở nơi bà xứ Canaan. Nhờ đức tin của bà, Chúa Giêsu hoàn thành phép lạ cứu con gái bà. Người ban cho bà được đồng bàn tình thương của Thiên Chúa như con cái Cha trên Trời. Được trở nên con cái Thiên Chúa là ơn gọi của chúng ta! Chúng ta không bị tách rời khỏi Giao ước ban đầu. Chúa Giêsu đến để kiện toàn, vì: “Không còn Do Thái hay Hi lạp; không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ; vì hết thảy anh em là một trong Đức Kitô Yêsu”(Gal 3, 28). Thánh Gioan nói với chúng ta rằng chúng ta có quyền là con. Tất cả những ai đón nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa (x. Ga 1, 12). Cả chúng ta nữa, chúng ta được Thiên Chúa Cha mời gọi vào dự tiệc cưới Con Chiên.
Bánh vẫn luôn luôn là nội dung của câu chuyện. Bánh được ban cho dân chúng ăn no nê, thỏa mãn sự thèm muốn. Bánh đã được ban tặng cho 12 chi tộc Israel, bánh ấy đã không được chấp nhận, nay Bánh ấy được ban cho dân ngoại. Chúa Giêsu là Bánh của con cái Thiên Chúa. Phẩm vị của những người làm con Thiên Chúa mới đẹp làm sao.
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện, như: người bạn đến quấy rầy xin bánh, bà góa yêu cầu vị thẩm phán bất lương xử kiện, cụ thể người đàn bà xứ Canaan đã chiến đấu và đã chiến thắng. Thiên Chúa vui mừng vì đã có cơ hội để chịu thua một đức tin tuyệt vời. Trong đời sống của chúng ta, chúng ta cũng phải chiến đấu một trận chiến, ai có đức tin tuyệt vời sẽ là người chiến thắng. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Phải vào đạo Công giáo mới được được lên thiên đàng sao? Vâng, đúng thế. Một thừa sai cách đây gần 300 năm không chỉ xác quyết như trên mà còn nói thêm rằng mọi người không vào đạo Công giáo đều xuống hỏa ngục. Một bà vương tộc nước Việt chúng ta, người đặt câu hỏi trên đây đã nhất quyết không vào đạo Công giáo vì một chức sắc của đạo ấy quả quyết tiên tổ của bà đều xuống hỏa ngục tất. Và chính bà ta đã thẳng tay đuổi vị thừa sai ra khỏi nhà.
Cần khiêm tốn thú nhận rằng đã một thời Kitô hữu chúng ta tự nhốt mình trong tháp ngà tự kiêu chủ quan: Chỉ có đạo ta mới là đạo thật, chỉ có chúng ta mới nắm trọn chân lý, ngoài đạo ta, anh em lương dân, bà con khác đạo đều là sai lạc sạch sành sanh và không thể được cứu rỗi.
Thử hỏi chân lý ta có được do bởi đâu, phải chăng là nhờ sự truy tìm của trí khôn? Không loại trừ sự góp phần của lý trí, nhưng nguyên lý trí vẫn chưa đủ. Chân lý ta thủ đắc là nhờ lòng tin dựa vào sự mạc khải của Thiên Chúa. Đức tin là ân sủng nhưng không do Chúa ban tặng. Thiên Chúa lại là Đấng giàu lòng từ bi, nhân ái. Người muốn mọi người nhận biết chân lý để được cứu rỗi. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định sự thật này với môn đệ Timôtê (x. Tim 2,3-4 ). Thiên Chúa, Đấng chẳng nể vì hay tây vị một ai, Đấng rộng tay cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ dữ, Đấng làm cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn kẻ bất lương, chắn chắn Người chẳng hẹp hòi với bất cứ ai. Tiên tri Isaia công bố rằng mọi người sẽ được Chúa dẫn lên Núi thánh, cho họ hân hoan bước vào Nhà cầu nguyện, vì Nhà Chúa là nhà cầu nguyện của muôn dân nước ( x.Is 56,6-7 ).
Đức tin là do Chúa ban tặng. Thế nhưng đức tin không phải là một món quà cụ thể được trao ban một lần tức thời, nhưng thường là dần dần qua những điều kiện tự nhiên khách quan lẫn chủ quan. Một trong những điều kiện tự nhiên ấy chính là những mối tình chân chính bình thường của kiếp người: Tình phụ tử, mẫu tử, tình phu thê, tình bằng hữu… Một người mẹ, một phụ nữ xứ Canaan, một lương dân hay ngoại giáo đã bày tỏ niềm tin sắt đá khiến Chúa Giêsu phải khâm phục. Đấng Thiên sai cũng đã từng khâm phục lòng tin của một viên sĩ quan bách quản đến nỗi Người khẳng định rằng chưa thấy có lòng tin nào mạnh mẽ như thế trong Israel ( x. Mt 8,10 ).
Viên sĩ quan bách quản và người mẹ xứ Canaan trên đã sớm chân nhận căn tính Thiên Sai của Chúa Giêsu chăng? Điều này chúng ta không thể trả lời cách chắc chắn. Nhưng một điều thật hiển nhiên ta có thể khẳng định, đó là tấm lòng của người phụ nữ ngoại giáo dành cho đứa con và tấm lòng của viên sĩ quan bách quản dành cho người đầy tớ thật sâu đậm và dạt dào. Vì thương con, chị phụ nữ kiên trì lẽo đẽo theo chân Thầy Giêsu. Cũng vì thương con, chị đã vượt qua chướng ngại của sự tự ái, đồng thời bày tỏ sự khiêm nhu: “Vâng, thưa Ngài, dẫu sao, chó con cũng được hưởng những mãnh vụn từ bàn rơi xuống” ( Mt 15,27 ). Vì thương người đầy tớ, viên sĩ quan bách quản không ngại ngần đến gặp Chúa Giêsu, một người Do Thái vốn là dân đang bị cai trị, đồng thời lại bày tỏ sự khiêm nhu: ” Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi…” ( Mt 8,8 ).
Theo tiến trình tự nhiên, thì không phải nhờ đã có lòng tin nên ta biết yêu, mà ngược lại nhờ biết yêu thương thì lòng tin của ta dần dà nên vững mạnh. Chúng ta dễ nhận ra hiện thực này qua tương quan đôi lứa. Vì yêu nhau nên đôi bạn trẻ ngày càng tin tưởng nhau hơn là vì đã tin tưởng nhau nên họ yêu nhau. Như thế niềm tin thường khởi đi từ trái tim hơn là từ khối óc. Quả thật. lịch sủ Hội Thánh minh chứng rằng người ta đến với đức tin thường là do cảm nhận một mối tình, một nghĩa cử nào đó hơn là do “bị thua lý”. Xét theo chiều ngược lại, khi niềm tin của một Kitô hữu ngã nghiêng, chao đảo hay khô cằn, thì lý do thường thấy là vì đời sống luân lý sa sút hơn là do thiếu hiểu biết, mặc dù ta không thể loại trừ hay giảm nhẹ vai trò của lý trí trong việc gìn giữ và củng cố đức tin.
Trong thời gian rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu thường bày tỏ tình yêu của Người qua việc thi ân giáng phúc rồi sau đó mời gọi người ta tin vào Người. Phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi no đủ gần cả vạn người cũng như nhiều phép lạ khác như chữa lành người mù từ thưở mới sinh… là một minh chứng ( Ga 6,35; 9,35 ). Ngay đêm Tiệc lý, sau khi cử hành “Lễ tạ ơn” và rửa chân cho các môn đệ Chúa Giêsu tha thiết: “Anh em hãy tin vào Thầy…” ( Ga 14,1 ).
Là những người đã lãnh nhận hồng ân đức tin và được xem là người có đức tin, ước gì chúng ta biết củng cố niềm tin của mình bằng chính những nghĩa cử bác ái yêu thương. “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” ( Gia 2,17 ). Khi khẳng định chân lý này thánh Giacôbê tông đồ trước tiên muốn nói đến hành vi bác ái mà Kitô hữu cần thường xuyên thực thi. Vì trước đó Ngài nói: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không có đủ của ăn hằng ngày mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ cần, thì nào có ích lợi gì?” ( Gia 2,15-16 ).
Một sứ vụ gắn liền với căn tính của Kitô hữu, đó là rao giảng tin mừng, là chia sẻ niềm tin mình đã lãnh nhận. Có nhiều cách thế để thực thi sứ mạng truyền giáo, tuy nhiên cách thế xem ra thiết thực nhất, để khởi đầu việc gieo hạt giống đức tin đó là rộng tay chia sẻ tấm lòng của mình qua các mối tình nhân loại chính đáng và phải đạo. Dĩ nhiên không phải dùng của cải vật chất như chiêu bài để câu tín hữu như đã có một thời với “chuyện đạo gạo, đạo bộp bắp, bột xép…”, nhưng phải phát xuất từ một tấm lòng yêu thương chân thật.
Biết yêu thương, dù với những nghĩa cử thường tình của tình nhân loại, thì niềm tin sẽ được củng cố. Được yêu thương thì niềm tin sẽ được gợi mở và dệt xây. Thiên Chúa sẵn sàng đón nhận những ân tình bình thường của ta để tuôn ban ân sủng đức tin. Có đức tin thì sẽ có sự sống đời đời. Xin đừng quên lời cảnh báo của Thầy chí thánh: “Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến cùng dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaac va Giacop trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng (Mt 8,11-12).
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Mahatma Gandhi, người có công giành độc lập cho Ấn Độ bằng con đường bất bạo động, đã có lần tuyên bố: “Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu”. Câu nói của con người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.
Giáo lý của Chúa Kitô thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho bao nhiêu người xa lánh Giáo Hội, chỉ vì cuộc sống của họ đi ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Người ta thường nói: “Bà con xa không bằng láng giềng gần”. Đôi khi chúng ta cảm thấy gần gũi với những người láng giềng hơn là với những người thân thuộc. Trong liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có biết bao người chưa từng được nghe nói đến Chúa Giêsu, có biết bao người không mang danh hiệu Kitô, nhưng lại gần gũi với Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn chính những người Kitô hữu.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: “Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta”. Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Đền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa”.
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Đây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
Đã đành đức tin là một ân ban, một tặng phẩm mà Chúa trao cho con người một cách nhưng không. Nhưng đức tin ấy có lớn mạnh và vững vàng hay không là tùy thuộc chính yếu vào con người. Hạt giống đức tin mà Chúa gieo trong tâm hồn chúng ta thì cũng rất cần sự cộng tác của ta trong việc làm cho nó lớn lên và trổ sinh hoa trái. Cũng như vàng cần được lửa thử luyện để đạt tới độ tinh khiết của vàng ròng, thì đức tin của con người cũng cần được thanh luyện qua những thử thách và gian nan trong cuộc đời này để có được đức tin chân thật và trưởng thành. Ta hãy nhớ lại hành trình đức tin của các tổ phụ chúng ta để rút ra bài học cho mình.
Câu chuyện người đàn bà Canaan ngoại giáo trong Tin mừng hôm nay để lại cho chúng ta nhiều bài học thâm thúy về một đức tin trưởng thành, mạnh mẽ và chân thật.
Ta không biết được nhờ đâu mà người đàn bà dân ngoại có đứa con gái bị quỷ ám biết được Đức Giêsu. Tin mừng không nói đến điều đó, nhưng có lẽ bà đã biết được Danh Đức Giêsu nhờ những lời truyền khẩu về Ngài qua những phép lạ Ngài làm. Bởi lẽ, Bà là người Canaan , thuộc Dân ngoại. Còn Đức Giêsu là người Do thái, nên ít khi Ngài đến vùng đất quê hương của bà. Nhưng khi thấy Đức Giêsu, bà tin rằng cơ may đã đến với bà. Con gái bà hoàn toàn có hy vọng được khỏi bệnh.
Với tất cả tấm lòng thành, bà đến với Đức Giêsu để xin Ngài nhìn đến nỗi đau của một bà mẹ. Bà đau vì nỗi đau của đứa con mà bà đã cưu mang và sinh hạ. Tấm lòng mẫu tử thôi thúc bà vượt qua bao nhiêu rào cản để đến với Đức Giêsu, để đặt hy vọng vào Ngài. Nhưng Đức Giêsu đã không đáp lại một lời. Một thử thách quá lớn đối với một người mới có đức tin. Rất nhiều người trong chúng ta thắc mắc: “Tại sao Chúa lại hành động như vậy? Đâu rồi hình ảnh một Thiên Chúa tình thương mà biết bao người đã ca tụng như thế?” Phải chăng Chúa Giêsu vô cảm và lạnh lùng trước nỗi đau của người khác? Phải chăng Ngài vô tâm và lãnh đạm trước những việc Ngài có thể làm được? Và chắc chắn còn rất nhiều những câu hỏi rất hợp lý được đặt ra trước thái độ im lặng của Đức Giêsu trước lời kêu xin của người đàn bà ngoại giáo này. Lắm khi, chúng ta cũng gặp sự thinh lặng nặng nề như thế. Chúng ta khắc khoải tự hỏi: “Chúa có nghe gì không? Chúa có thấy gì không?” Nhưng đức tin chân thật là biết kiên trì khi Chúa im lặng. Không kiên trì sẽ mất đức tin, mất tất cả.
Người đàn bà ngoại giáo này không nản lòng trước thái độ im lặng của Chúa Giêsu. Bà đã vượt qua được một giai đoạn quan trọng để làm cho hạt giống đức tin của bà lớn lên. Dù Chúa Giêsu im lặng, người đàn bà cứ đi theo sau Ngài mà kêu xin. Bà kêu xin hoài, kêu mãi khiến các môn đệ Chúa Giêsu cảm thấy bực bội: “xin Thầy bảo bà ấy về đi”. Chắc bà cũng nghe được những lời bực bội ấy của các môn đệ, nhưng bà không nản lòng và không chịu thua. Bà trực tiếp giáp mặt Chúa Giêsu và nài xin Ngài cứu giúp. Nhưng kết quả là một lời từ chối không khoan nhượng, nếu không muốn nói là làm xúc phạm đến người xin: Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con”. Bà có sốc không khi Chúa Giêsu ví Dân ngoại, ví bà với chó con nuôi trong nhà, không đáng được hưởng phần ăn của con dân Israel? Điều đáng khen và đáng mừng là bà đã không thất vọng trước lời từ chối này. Bà đã vượt qua được một giai đoạn cực kỳ quan trọng trong hành trình đức tin. Đây là một giai đoạn khó khăn vô cùng. Đã có rất nhiều người không thể vượt qua được giai đoạn này nên bỏ cuộc. Còn chúng ta thì sao? Nếu chúng ta để cho cái tôi của mình quá lớn, chúng ta sẽ có nguy cơ mất đức tin. Thực tế là đã có nhiều người bỏ đạo vì cha sở, cha phó hay ông thầy nói những lời làm họ tự ái.
Bà mẹ này đã chấp nhận lối so sánh của Chúa Giêsu. Bà chấp nhận mình chỉ là chó con và chỉ dám trông chờ những mảnh bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của chủ. Bà không dám mong được ăn phần ăn của các con cái trong nhà. Sự khiêm hạ của bà đã giúp bà về đích cách thành công. Trong cuộc hành trình đức tin, sức mạnh của lòng tin nằm ở sự khiêm tốn. Với sự khiêm tốn của người đàn bà dân ngoại này, Chúa Giêsu đã ngạc nhiên về bà và khen bà là người có đức tin lớn lao. Lòng tin lớn lao của bà khiến bà: “muốn sao thì sẽ được như vậy” Xin chúc mừng bà. Bà là người đã giành được “vòng nguyệt quế” chiến thắng.
Qua hành trình đức tin gian khó của người đàn bà ngoại giáo này, chúng ta thấy được rằng: tin thật sự không phải là đòi hỏi Chúa làm điều này điều nọ cho chúng ta, nhưng là chờ đợi tất cả từ tay Chúa và đón nhận tất cả như quà tặng tình yêu của Chúa. Tất cả là hồng ân, là tình thương của Chúa.
Sứ mạng của Chúa Giêsu là làm theo ý của Chúa Cha. “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Nhưng Chúa Giêsu không cứng nhắc trong nguyên tắc. Ngài tin rằng: Cha vẫn ở với Ngài và nói với Ngài qua những hoàn cảnh khác nhau, nên Ngài đã để cho trái tim của Ngài được tự do vươn rộng ra. Ngài tin rằng điều Ngài sắp làm cho người đàn bà có lòng tin mạnh mẽ là hợp với thánh ý của Chúa Cha. Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa tình yêu, đã rất trung thành và uyển chuyển để có thể nắm bắt được thánh ý của Chúa Cha vừa hé lộ cho Ngài.
Ước gì chúng ta luôn có được lòng tin sắt đá vào Thiên Chúa qua từng ngày sống của chúng ta. Chúng ta cũng cầu xin Chúa cho chúng ta biết để Chúa Cha dẫn chúng ta đi từng ngày và mở lòng chúng ta ra với những chân trời mới của lòng tin yêu và phó thác.
KHÔNG AI BỊ LOẠI TRỪ KHỎI TRÁI TIM CỦA THIÊN CHÚA
Không ai xa lạ, không một ai bị loại trừ khỏi trái tim và lòng thương xót của Thiên Chúa. Đó là chủ đề chính mà phụng vụ lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu với chúng ta.
Extra ecclesiam nulla salus? (Ngoài Giáo hội không có sự cứu rỗi?)
Ngày xưa, Giáo Hội Công giáo chúng ta cũng có quan niệm rằng: “Extra ecclesiam nulla salus: ngoài Giáo Hội thì không có ơn cứu độ” (san Cipriano). Quan niệm này đã bị hiểu cách méo mó và cũng đã tồn tại trong Giáo hội rất lâu hàng thế kỷ. Phải chờ đến Công Đồng Vatican II mới cho ta một cái nhìn quân bình và mới mẽ về ơn cứu độ của những người ngoài Giáo hội.
Trong hiến chế Lumen Gentium Ánh Sáng Muôn Dân, số 16 nói đến những người sau đây dù không thuộc về Giáo hội một cách hữu hình nhưng vẫn hy vọng được cứu độ: trước hết phải kể đến những người tin nhận Thượng Đế và tôn thờ Người như là đấng Tạo Hóa của đời mình, họ là những người Do thái và Hồi giáo. Kế đến là những người vô tình không biết Tin Mừng Đức Kitô và Giáo hội, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và sống theo tiếng lương tâm ngay thẳng, thì có thể được cứu độ. Một cách vô hình họ cũng thuộc về Giáo hội.
Cái nhìn này có nền tảng Kinh thánh và thần học rất vững chắc: Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ (1 Tm 2,4). Thiên Chúa có những cách thế riêng để cứu độ họ.
Và đây cũng là cái nhìn của Lời Chúa hôm nay: ở bài đọc I, Isaia cho biết: Thiên Chúa không chỉ muốn cứu độ Israel – Dân riêng, Ngài còn muốn đón nhận và cứu độ tất cả những ai “giữ luật và thực thi công bình”, cả những người “ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và yêu mến danh Người vì “nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Nói như Thánh vịnh là: Thân Lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (Tv 66,6). Thánh Phaolô quả quyết: “Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc” (Rm 11, 13-15).
Đức Giêsu trong bài Tin Mừng cũng xác nhận Ngài được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel, nhưng Ngài cũng đến để cứu độ Dân Ngoại, khi Ngài công khai khen ngợi đức tin của người đàn bà Canaan và nhờ đức tin mạnh mẽ và kiên nhẫn của Bà, Chúa chữa lành con gái của bà bị quỷ ám. Đức tin đó mang lại ơn cứu độ, Đức tin đó khiến Chúa thực hiện những điều kỳ diệu cho Bà.
Vâng, chúng ta phải xác tín rằng: ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người, ơn cứu độ của Đức Kitô mang đến là cho tất cả, không lại trừ ai, không giới hạn bởi khu vực, chủng tộc, quốc gia. Đức Kitô chết cho hết mọi người không loại trừ ai. Đó là niềm hy vọng lớn lao nhất cho tất cả chúng ta và cho những ai không thuộc về Giáo hội. Thiên Chúa không loại trừ ai, chỉ có con người loại trừ nhau. Thiên Chúa không có kỳ thị và phân biệt ai, chỉ có con người mới kỳ thị nhau và tạo ra những hàng rào ngăn cách. Vì thế hôm nay, tất cả chúng ta được mời gọi mở rộng cái nhìn của mình theo cách nhìn của Thiên Chúa, là biết kính trọng và biết đón nhận sự khác biệt và sự đa dạng phong phú của những người khác, của tôn giáo khác. Đồng thời tất cả chúng ta cũng được mời gọi truyền giáo và rao truyền những gì tốt đẹp của Tin Mừng cho những người xưng quanh, nhất là những người chưa biết Chúa.
Câu chuyện sau đây cũng diễn tả được điều mà chúng ta vừa nói: Ngày nọ, Chúa đến một hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là Hội chợ Tôn giáo. Nhưng những người tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ĩ.
Tại quầy hàng của người Do thái, người ta treo quảng cáo: “Chúa là Đấng thương xót và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những người Do thái, không ai khác được chọn như họ”.
Tại quầy hàng của người Hồi giáo, thì rao rằng: “Chúa đầy lòng khoan dung và Mohammed là ngôn sứ duy nhất của Ngài. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ duy nhất của Chúa”.
Tại quầy hàng của người Kitô giáo, thì trưng bày: “Chúa là tình yêu và không có sự cứu độ ở ngoài giáo hội. Hoặc gia nhập Giáo hội hoặc là mất linh hồn đời đời”.
Trên đường trở ra, có người hỏi Chúa: “Ngài nghĩ gì về những điều nói về Chúa?”
Chúa trả lời: “Ta không tổ chức hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến thăm nó”!!!
Nếu mỗi lần muốn sao được vậy có lẽ cuộc đời sẽ không lắm ưu phiền vì muốn thế nào thì được như thế ấy. Suy nghĩ như thế có vẻ không ổn thoả chút nào vì điều ước muốn thì vô vàn, không bao giờ cùng. Những gì vô cùng thì không thể thoả mãn. Vì thế tư tưởng muốn sao được vậy có lẽ làm cho cuộc đời phiền toái nhiều hơn là làm cho cuộc đời đơn giản hơn. Cái nghịch lí thứ hai trong việc muốn sao được vậy là vấn đề ai đủ khả năng thoả mãn điều ước muốn. Ngoài Chúa ra, mọi người phàm đều có giới hạn nên điều ước muốn không thể thực hiện. Vừa lo thoả mãn ước muốn của mình vừa lo thoả mãn ước muốn của người quả là một việc làm ngoài khả năng.
Ước muốn vì thiếu thốn, khao khát, muốn có điều chưa có hay có nhưng chưa cảm thấy đủ. Ước muốn theo nghĩa đó nói lên cái nghèo nàn trong cuộc sống hay cái nghèo trong tâm hồn hoặc cả hai cùng. Nghèo từ trong ra ngoài. Một khi đầy đủ thoả mãn, đâu cần ước muốn. Trường hợp bà mẹ thành Canaan là trường hợp bà ước muốn điều cao thượng. Cao thượng vì bà không ước muốn cho chính mình nhưng vì tình thương mến cho người con. Lòng mến của bà mãnh liệt đến độ không nề hà, sẵn sàng van nài nơi công cộng. Bà dẹp bỏ tự ái, danh dự cá nhân vì hạnh phúc của người con. Phúc âm thuật lại bà van nài mãi mà Đức Kitô không đáp lại. Lời van nài khẩn thiết, dai dẳng đến độ các tông đồ không vì ngại ngùng cũng vì ngượng ngập, hoặc ngay cả muốn được yên thân. Cũng có thể các ngài nghe lời van xin cảm động chạnh lòng thương lên tiếng xin dùm bà ta.
Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi.c.23
Đức Kitô giải thích lí do tại sao Ngài không đáp lại lời bà kêu cầu, van nài.
Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel.c.24
Câu trả lời khá mạch lạc, rõ ràng. Bà không phải là chiên lạc nhà Israel nên chưa đến lượt bà xin. Bà là dân ngoại. Ưu tiên một dành cho chiên lạc nhà Israel.
Nghe lời đó bà không nản lòng, chán nản, tiếp tục van xin. Từ van xin câu chuyện chuyển sang đối thoại. Sự việc diễn tiến có nhiều hy vọng hơn. Từ im lặng không đáp, chuyển sang đáp. Từ đáp chuyển sang đối thoại. Từ đối thoại chuyển sang giúp chỉ còn là một bước nhỏ.
Nơi đây chúng ta tìm gặp một tấm lòng chân thành, khiêm nhường hết mực. Bà đáp, Thưa Ngài đúng lắm. Ưu tiên một dành cho con cái trong nhà, chiên lạc nhà Israel. Mẹ con chúng tôi không dám xin chia phần dành riêng đó. Chúng tôi chỉ dám xin mảnh vụn, phần dư thừa, phần không dùng đến cũng chẳng để lại tích trữ. Phần đó xin dành cho mẹ con chúng tôi.
Điểm thứ hai, ngôn từ bà xử dụng cho biết bà có một tâm hồn trong sáng, kính trọng người khác hết lòng. Bà luôn đáp lại Đức Kitô bằng câu ‘Thưa Ngài’, ‘Lậy Ngài’. Từ nói lên lòng kính trọng, tôn kính.
Điểm thứ ba, ‘Lậy Ngài’, xin cứu giúp tôi. Bà vừa bái, lậy, vừa xin cứu vừa xin giúp. Chỉ một câu ngắn gọn trên cho chúng ta hình dung ra một người đàn bà, trên đường phố, giữa đám đông người chân quì, tay chắp bái, lậy, miệng van xin điều muốn xin.
Thứ tư, đau đớn, bệnh tật, khổ sở của con bà được bà coi như của chính cá nhân mình. Bà không phải xin cứu giúp con bà nhưng xin cứu giúp tôi. Chữ tôi cho biết bà sẵn sàng mang lấy bệnh tật, khắc khoải của con bà.
Thứ năm, Đức Kitô nhìn bà với con người đức tin, người có lòng tin mãnh liệt, vững vàng trong cơn thử thách. Cơn thử thách đây lại đến từ chính Đức Kitô.
Bấy giờ Chúa trả lời cùng bà ấy. Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy. Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.c.28.
Bà là người ngoài, là dân ngoại không thuộc vào chiên lạc nhà Israel. Những người ngoài Israel không được Đức Kitô cứu chữa. Nhưng trường hợp của bà Đức Kitô cứu chữa. Như vậy câu hỏi đặt ra cho chúng ta. Ai là người Israel? Thưa dân Israel là dân Chúa chọn. Một dân Chúa mong muốn họ sống đời sống hết mực khiêm nhường, đầy yêu thương, giầu bác ái. Một dân đặt trọn niềm tin vào Chúa. Bà phụ nữ thành Canaan đang từ dân ngoại biến thành dân Israel, dân Chúa chọn, nên Ngài chữa bệnh cho con bà theo lời bà cầu xin.
Như thế dân Israel là bất cứ ai sống đời sống hết mực khiêm nhường, đầy yêu thương, giầu bác ái và có lòng tin vững mạnh đều là dân Chúa chọn. Những người đó khi kêu cầu Chúa sẽ nhận lời cầu xin. Chúng ta cầu xin sống trung thành điều Chúa mong muốn, mời gọi.
Dân Israel kì thị dân thờ ngẫu tượng, cho họ là những người tội lỗi và coi họ như kẻ thù. Câu chuyện Đức Kitô chữa con gái bà goá thành Canaanite cho biết Đức Kitô không kì thị bất cứ ai. Trong quá khứ bà thờ ơ tôn thờ Thượng Đế nhưng tôn trọng thờ thần ngoại bang. Con gái bà bệnh không thuốc chữa bà van nài ngẫu thần đến mệt mỏi vẫn không được đáp trả. Cuối cùng không còn cách nào khác bà đến nài xin Đức Kitô chữa và Đức Kitô đáp lời bà nài van sau cuộc đối thoại giữa Ngài và bà.
Khởi đầu cuộc đối thoại người ta có cảm tưởng như Đức Kitô từ chối, xua đuổi bà. Nhận xét đó đến từ phán đoán cục bộ, nhìn từ bên ngoài. Người ta phải đợi đến cuối cuộc đàm thoại mới biết rõ. Kết quả cho thấy Đức Kitô đón nhận bà với tình yêu của một Thiên Chúa đầy yêu thương. Qua cuộc đối thoại Đức Kitô muốn cho mọi người tại hiện trường nhận biết sức mạnh của lòng tin. Những ai đặt trọn vẹn niềm tin nơi Đức Kitô sẽ không bao giờ phải thất vọng, dù họ phải trải qua thử thách nhưng thử thách làm cho đức tin phát triển, lớn mạnh trong Ngài. Bà nhận biết Đức Kitô thuộc dòng dõi vua Đavid và bà may mắn cũng đến từ dòng dõi vinh quang đó và là con dân của đức vua. Vì thế bà tin rằng con dân, dù hoang đàng, khi trở lại, thống hối, cũng đáng hưởng ân lộc vua ban.
Bà rất kiên nhẫn xin Đức Kitô cứu con bà. Kiên nhẫn nài van đến độ làm cho các môn đệ Đức Kitô phải lên tiếng. Có thể các ông cảm thấy phiền toái nhưng với Đức Kitô ơn kiên nhẫn trên lại là bằng chứng rõ ràng cho biết niềm tin trọn vẹn của bà. Bà thực sự từ bỏ ngẫu thần và đặt trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa. Việc chữa lành cho con gái bà là khởi đầu việc giao hoà rạn nứt giữa người Israel and dân tôn thờ ngẫu tượng. Ngoài Đức Kitô ra không một ai khác có thể đong đầy hố ngăn cách lịch sử này. Bà goá tin một mình Đức Kitô có thể làm được việc đó và bà đặt trọn niềm tin vào Ngài. Việc dân Israel coi bà là người ngoài không làm bà chùn bước trong việc xin Đức Kitô chữa cho con bà; trái lại bà tin là những ai đặt niềm tin vào Đức Kitô đều là con cái Chúa và con cái thì nhận đuợc yêu thương từ cha mẹ.
Dân Israel là dân tuyển chọn nhưng chính dân này lại từ chối đón nhận Đức Kitô là Đấng Thiên sai và còn mong đợi một đấng khác sẽ đến; trong khi bà goá bị coi là người ngoại bang lại vui lòng đón nhận Đức Kitô là Đấng Thiên Sai và đặt trọn niềm tin vào Đấng đó. Có lẽ bà goá được nghe ít nhiều về phép lạ Đức Kitô hoá bánh ra nhiều. Điều này càng làm cho bà vững tin hơn con bà sẽ được Đức Kitô chữa lành bệnh.
Chia rẽ hoặc đòi đặc quyền, đặc lợi và kì thị xuất hiện khắp nơi nhưng điều này trở nên khủng khiếp khi nó xảy ra trong gia đình hay trong chủng tộc. Kì thị tôn giáo hiện đang hoành hành gây tai hại ở thời đại chúng ta sống. Mãnh liệt và kinh khủng nhất là nó đang xảy ra tại Iraq nơi nhiều ngàn người là nạn nhân của kì thị tôn giáo. Thật là tệ hại khi người ta nhân danh Thượng Đến giết chết những người tin theo Thượng Đế. Nhà thờ, nơi thờ phượng bị phá tan tành, ảnh tượng các thánh và ảnh Chúa bị chà đạp dưới gót giầy của kẻ có vũ khí trong tay. Trường học bị phá sập, nhà cửa bị đốt cháy thành tro bụi và đoàn người tay xách, nách mang kéo nhau chạy trốn trong vùng xa mạc ngày nóng cháy da, đêm lạnh thấu xương, không lương thực. Tai hoạ đến chỉ vì kì thị tôn giáo. Nó xảy ra khi một cá nhân hay một nhóm người tự nhận mình là công chính, còn kẻ không theo họ là bất chính và kẻ công chính thì tự cho quyền chà đạp kẻ cưỡng lại họ. Tự nhận mình công chính để hại người khác. Đức Kitô có lần cho biết trên cõi đời này không ai công chính trừ một mình Thiên Chúa. Mat 19,16. Tự nhận nhóm mình là công chính là một sai lầm và kẻ lầm đường, tương tự như người say, thường không bao giờ nhận mình lầm.
Đức Kitô đón nhận và tha cho bà goá khi bà tỏ lòng thống hối ăn năn, đón nhận bà vào gia đình Chúa. Điều này cho biết Chúa đến để thu tóm không phải chia rẽ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Biến cố chúng ta vừa đọc lại trên đây cho thấy Chúa Giêsu đã vượt qua một biên giới, và đến gần vùng đất của dân ngoại. Và tại đây Ngài đã gặp một người đàn bà được hưởng lấy lợi ích từ tác vụ của Chúa Giêsu, tự lãnh nhận những hồng ân Thiên Chúa như những người con Do Thái đồng hương. Vừa bước vào vùng đất mới, Chúa Giêsu nghe được lời kêu van của một người đàn bà đang gặp thử thách: “Lạy Ngài, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Đức con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm”. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Trước lời kêu xin tha thiết như vậy, tại sao Chúa không đáp lại? Chúa là Đấng nhân từ, đầy cảm thông trước cảnh cùng khổ của những ai đến với Chúa và đã dạy các tông đồ: “Hãy cầu nguyện thì sẽ được. Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho”. Thế mà tại sao Chúa lại làm thinh, không trả lời cho người đàn bà đang thành tâm kêu xin? Hẳn có lý do.
Các tông đồ không hiểu được thái độ của Chúa và cũng không muốn bị quấy rầy nên đã nói với Chúa như sau: “Xin Thầy bảo bà ấy đi đi, kẻo bà ấy cứ theo chúng ta mà kêu mãi”. Các tông đồ hiểu lầm thái độ im lặng của Chúa như một sự từ chối và các ngài cũng muốn phủi tay: “Xin Chúa đuổi bà ấy đi cho, đừng để bà ấy quấy rầy nữa”. Chúa Giêsu không chỉ im lặng mà Ngài còn lên tiếng nói lời chối từ như sau: “Ta chỉ được sai đến để cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”.
Chúng ta nên học hỏi thái độ khiêm tốn và kiên trì của người đàn bà: “Lạy Thầy, xin cứu giúp tôi”. Bà không bực tức, không nổi giận, không trách móc Chúa tại sao thế này, tại sao thế nọ. Chúa càng im lặng thì bà càng khiêm tốn hơn nữa. Không những bà chỉ nói mà còn van xin bằng cả con người của mình. Bà sụp lạy Chúa Giêsu và nói: “Xin Ngài thương xót con”. Sự im lặng của Chúa là một thử thách, thử thách trong đức tin, thử thách trong việc cầu nguyện Chúa Giêsu thử thách nhiều hơn nữa: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà đem ném cho chó”. Đây là thử thách ở mức độ cuối cùng, ai có thể vượt qua được. Người đàn bà xa lạ và thuộc dân ngoại khiêm tốn thưa cùng Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, đúng thế, nhưng mà những con chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ trên bàn chủa rơi xuống”. Có thể nói tâm hồn khiêm tốn đã giúp người đàn bà vượt qua được thử thách và trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu trấn an bà như sau: “Này bà, lòng tin của bà thật mạnh. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy”. Người đàn bà chỉ xin Chúa cho lợi lộc thông thường cho con bà khỏi bị quỉ ám và bà được nhận lời.
Chúng ta có thể tượng tưởng người đàn bà sẽ vui mừng biết bao hơn nữa khi lãnh nhận được ơn Chúa. Cuối đoạn đường gian nan nhìn lại, chúng ta sẽ thấy rõ những giây phút Chúa xem ra im lặng là những giây phút quí trọng vô cùng vì những im lặng và từ chối này của Chúa giúp đức tin của chúng ta được trưởng thành. Khi đi qua đoạn đường gian nan, chúng ta có thể hiểu được chương trình của Chúa dành cho cuộc đời mình. Thử hỏi, chúng ta còn đủ nghị lực để đi qua đoạn đường nhiều gian nan thử thách hay không.
Lạy Chúa,
Xin thương ban cho tất cả những ai chọn theo Chúa có được tâm hồn khiêm tốn để lãnh nhận những mầu nhiệm ân sủng của cuộc đời.
Lạy Chúa,
Xin thương nâng đỡ chúng con và củng cố đức tin cho chúng con.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tình mẹ thương con, bao la như trời như biển. Không có thứ tình cảm nào đậm đà và cao quý như tình mẹ thương con. Đã có biết bao nhiêu thi ca nhạc phẩm, đã có vô vàn câu hò điệu hát ca tụng tình mẹ thiêng liêng.
“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào.
Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.”
Với giai điệu mượt mà sâu lắng, với ca từ thấm đẫm chất thơ gợi lên những hình ảnh bình dị, gần gũi, nhạc sĩ Y Vân đã viết ca khúc tuyệt vời ca ngợi tình mẹ.
Thương con mẹ nào có quản nắng mưa, có ngại gì sớm khuya vất vả… Tình mẹ mãi mãi là như thế. Dẫu ở thời nào, dẫu thuộc nền văn minh văn hóa nào và dẫu ở đâu, tình mẹ muôn đời vẫn thế.
Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ, đã chôn vùi hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hủ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: “Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”.
Bà mẹ Armênia trong câu chuyện và bà mẹ Canaan trong bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay là một hình ảnh sống động minh họa cho tình mẫu tử thiêng liêng cao cả.
Thương đứa con gái bị quỷ ám, bà đã lặn lội đi tìm Chúa Giêsu, nài nỉ van xin, bị xua đuổi bà vẫn kiên trì, bị nói nặng là “đồ chó”, bà vẫn không nản. Kiên trì và khiêm tốn chứng tỏ nơi bà có một tình yêu mãnh liệt và một lòng tin mạnh mẽ.
Thật cảm động trước tình thương dạt dào của người mẹ Canaan. Thật cảm phục một lòng tin kiên vững của người phụ nữ ngoại giáo. Tình yêu và lòng tin ấy cứ xoắn quyện với nhau. Tình yêu dẫn đến lòng tin. Tình yêu kiện cường lòng tin. Biểu lộ của lòng tin cũng chính là biểu lộ của tình yêu. Lòng tin và tình yêu đi đôi với nhau giúp cho con người một sức mạnh để can đảm, kiên trì và khiêm tốn.Lòng tin và tình yêu cho bà mẹ Canaan có được một sức mạnh thật kỳ diệu, vượt thắng mọi thử thách và đi đến cùng trong việc cứu chữa con gái.
Thương con,bà đã chạy thầy chạy thuốc khắp nơi. Không rõ nhờ đâu mà bà biết được Chúa Giêsu, nhưng khi thấy Người bà tin rằng cơ may đã đến. Bà gọi Người là Con Vua Đavít, bà đặt trọn niềm tin vào Người, vị cứu tinh duy nhất của bà.
Dẫu biết rằng bà thuộc dân ngoại, còn Chúa Giêsu là người Do Thái, hai dân tộc có mối thù truyền kiếp không giao du tiếp xúc với nhau, nhưng lòng thương con đã khiến bà bất chấp ranh giới cấm kỵ hận thù để đến với Chúa trong tư thế một người xin ơn.
Thương con nên khổ vì con. Người mẹ Canaan xin với Chúa Giêsu: “Xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỉ nhập khổ sở lắm.” Đứa con bị quỉ nhập khổ sở là đúng rồi. Thế nhưng thực tế ai khổ hơn ai, đứa con hay bà mẹ? Con đau khổ một, còn mẹ khổ mười. Mỗi lần con rên, con quằn quại là lòng mẹ quặn đau như muối xát, mẹ ước gì được lãnh lấy mọi cơn đau của con. Chắc hẳn, các bà mẹ đều đã trải qua những kinh nghiệm như thế. Chính vì thế thay vì nói “Xin dủ lòng thương con tôi” bà lại nói: “Xin dủ lòng thương tôi!”
Bà xin Chúa nhìn đến nỗi đau của một bà mẹ, đau vì nỗi đau của đứa con. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Tại sao Chúa lại lãnh đạm với nổi đau của con người như vậy? Chúa thinh lặng để bà thấm thía được sự bất lực của mình, và nhờ đó mà thấy được rõ hơn rằng, Thiên Chúa là nơi nương tựa duy nhất của con người.
Bà chẳng ngã lòng trước thái độ lạnh lùng của Chúa Giêsu. Bà cứ lẽo đẽo theo sau mà nài nẵng xin mãi xin hoài đến nổi các môn đệ không chịu được những lời lẽo nhẽo ấy nên trình với Chúa để đuổi bà về.
Mặc kệ thái độ khó chịu của các môn đệ, bà trực tiếp giáp mặt Chúa Giêsu và nài xin cứu giúp. Lần này thì bà lãnh đủ một gáo nước lạnh: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”. Sao lạ vậy? Chúa Giêsu mới làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn người, vậy mà Người lại nhẫn tâm khước từ mẩu bánh nhỏ cho người đàn bà khốn khổ này ư? Những lời khó nghe Chúa dùng cũng là lời nói với mọi người, để cho ai cũng thấy được ơn cứu độ là một hồng ân Chúa ban bởi lòng thương xót, chứ không phải bởi sự xứng đáng của bất cứ ai.
Câu chuyện đã đi đến cao điểm, thử thách đã đến cùng tột. Chính trong cơn thử thách như thế ta mới thấy hết vẻ đẹp của tình mẫu tử và lòng tin của bà.
Bà chấp nhận lối so sánh của Chúa. Bà không dám mong được những ân huệ như dân Do Thái, bà chỉ xin chút vụn vặt thừa thãi cho con bà, bởi vì “lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”
Đến đây thì Chúa Giêsu chẳng còn lý do gì để chối từ, Người nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn sao thì được như vậy.” Nhận biết mình hèn mọn nên hoàn toàn cậy dựa vào lòng trắc ẩn của Chúa. Đó là sức mạnh của người mẹ Canaan. Thiên Chúa đầy lòng thương xót không thể từ chối lời nài van của một người không sao tìm ra một nơi nương tựa nào khác ngoài lòng trắc ẩn của Ngài, và Chúa Giêsu nói: “Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”.
Làm sao mà Chúa có thể chối từ được trước tình yêu bao la và niềm tin mạnh mẽ đến vậy. Không phải Người đã từng bảo: “Hãy xin thì sẽ cho, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở” đó sao? Hơn nữa, Người cũng có một bà mẹ là Đức Maria. Rồi sẽ có ngày Mẹ Người sẽ khổ đau đi theo con trên chặng đường thương khó, trái tim Mẹ như bị lưỡi gươm đâm thâu khi đứng dưới chân thập giá. Có lẽ nổi đau khổ của bà mẹ Canaan này khiến Chúa Giêsu chạnh nghĩ đến mẹ của mình. Người hiểu tấm lòng của các bà mẹ, nên chẳng nỡ chối từ những gì các bà mẹ trong cơn đau khổ cầu xin.
Lòng tin và tình yêu giống như đôi cánh đã giúp người mẹ Canaan bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Đến với Chúa Giêsu bằng lòng tin và tình yêu, người mẹ Canaan nhận được một tình yêu quyền năng. Thánh Phaolô chia sẽ kinh nghiệm này: “Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13).
Bà mẹ Canaan là tấm gương cho các bậc làm cha làm mẹ. Cha mẹ nào mà chẳng thương con. Vì thương con nên mới khổ vì con. Chắc hẳn, con đau bệnh không làm khổ lòng cha mẹ cho bằng con hư hỏng. Bao cha mẹ đã bạc mái đầu vì những đứa con ngỗ nghịch hư hỏng, bao bà mẹ đã khóc hết nước mắt vì có đứa con lỡ vướng vào các tệ nạn vào ma tuý… Trong trường hợp đó, lòng thương con của các bậc cha mẹ có xoắn quyện chặt chẽ với lòng tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa hay không? Các bậc cha mẹ đã làm hết cách, đã tha thiết cầu xin, đã kiên tâm cầu khẩn, đã tin tưởng cầu nguyện như người mẹ Canaan này chưa?.
Chúa Giêsu đã khen ngợi đức tin của người đàn bà ngoại giáo. Chúa đã đánh giá lòng kiên nhẫn của bà là một bằng chứng đức tin. Chúa đề cao một mẫu gương về đức khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.
Tình mẹ cha yêu thương với tất cả hy sinh chịu đựng luôn đóng ấn và trải dài suốt những năm tháng của cuộc đời con.
Tình mẹ thương con là tình cảm thiêng liêng cao quý nhất. Chính Con Một Thiên Chúa Nhập Thể làm người cũng đã nhận lấy con đường bình thường mà trân quý ấy. Maria, người nữ Sion đã vâng phục ngay từ ngày đầu khi thiên sứ truyền tin. Từ đó, Mẹ đã nhận lấy những nhọc nhằn vất vả của vai trò làm mẹ. Mẹ đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu gian truân khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người Mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình trong hành trình cứu độ. Cuối cùng, người nữ ấy được Thiên Chúa đoái thương cất nhắc về Trời cả hồn lẫn xác, một trong bốn đặc ân cao cả Thiên Chúa đã ban cho Mẹ.
Mẹ Maria đang được hưởng niềm vui thiên quốc. Mẹ hằng yêu thương con cái trên đường hành hương về quê trời. Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở.Trong niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của lòng cậy trông, kiên nhẫn với tin yêu và hy vọng.
Thời Chúa Giêsu, Tia và Xiđon – ngày nay là miền nam Libăng – được xem là miền đất dân ngoại. Vì thế, việc Chúa Giêsu và các môn đệ lui về đây không chỉ để tránh tai mắt của nhóm Biệt phái hay tránh sự cuồng nhiệt của dân chúng muốn tôn Ngài làm vua ngay sau sự kiện hoá bánh ra nhiều (x. Ga 6, 15), mà còn mang một ý nghĩa thần học theo dụng ý của tác giả Mátthêu. Theo đó, ơn cứu độ lẽ ra chỉ dành cho Israel, nhưng vì họ từ chối, thì nay ơn cứu độ đó được mang đến cho dân ngoại mà người phụ nữ Canaan là một đại diện.
Trước khi đến gặp Chúa Giêsu, chắc hẳn người phụ nữ Canaan đã lường trước những thách đố mà mình sẽ gặp khi “chạm trán” với những người mà bà biết họ chẳng ưa thích gì khi có sự hiện diện của mình. Nhưng biết làm sao được. Bởi động cơ dẫn lối đưa đường bà đến gặp Chúa Giêsu chính là cô con gái yêu quý của bà đang ngày đêm khổ sở vì bị quỷ ám. Vì tình mẫu tử, bà đã vượt qua mọi cản ngăn để đến gặp Chúa Giêsu với hy vọng Người sẽ cứu giúp con bà. “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm”. Không một lời lên tiếng. Im lặng bao trùm. Quả đúng như những gì bà đã lường trước. Người bà đang cần sự giúp đỡ chẳng mặn mà gì. Sự im lặng của Người đến khó hiểu. Còn các môn đệ của Chúa Giêsu xem ra cũng khó chịu khi có sự hiện diện của bà, nên không ngừng hối thúc Thầy mình đuổi bà ấy về cho khỏi chướng tai gai mắt. Mặc dù vậy, người phụ nữ Canaan vẫn kiên trì. Bà biết mình phải làm gì trong trường hợp không lấy gì làm dễ chịu này.
“Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Tiếng bà lại vang lên khi toàn thân bà phục xuống bái lạy Chúa Giêsu với hy vọng Người sẽ đoái thương. Phủ phàng thay, câu trả lời của Chúa Giêsu, vô hình trung, như gáo nước lạnh giữa trời đông xối vào mặt bà. “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Cho đến lúc này, Chúa Giêsu vẫn trung thành với điều mà Người đã nói trong lúc khai mạc sứ vụ rao giảng Tin mừng. Theo đó, sứ mệnh của Người chỉ dành cho “con chiên lạc nhà Israel” mà thôi. Vì thế, câu nói của Chúa Giêsu xem ra sỗ sàng, khiến người khác phật lòng nhưng lại nói lên lòng mong mỏi của Người dành cho nhà Israel.
Liên tiếp phải hứng chịu sự thật phủ phàng, người phụ nữ Canaan không mảy may dao động hoặc tức giận tháo lui. Trái lại, bà còn dùng ngay chính sự thật phủ phàng này để trả lời Chúa Giêsu một cách hết sức khôn khéo và tế nhị. “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Câu nói của bà như một lời tuyên xưng niềm tin của bà đối với người mà bà đang đối diện. Chính niềm tin mãnh liệt của bà đã làm cho Chúa Giêsu kinh ngạc nếu không nói nó gây nên một cú xốc cho Người. Và Đức Giêsu chỉ còn cách bằng lòng “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Lời của Chúa Giêsu không chỉ là lời tán thưởng, lời ban bình an và xua đuổi tà thần mà còn là lời xoá đi mọi ngăn trở, mọi thứ lề luật nhỏ nhen thấp hèn do con người tạo nên. Từ đây, nhờ niềm tin, người phụ nữ Canaan, dân ngoại, một kẻ dơ bẩn được Thiên Chúa đón nhận, cho làm bạn nghĩa thiết với Người. Niềm tin mãnh liệt đó đã làm cho bà trở nên người đáng được tôn vinh, làm cho bà từ một khách lạ trở thành người nhà của Thiên Chúa và còn hơn thế nữa.
Lạy Chúa, trong cuộc sống Ngài ban cho con rất nhiều ơn lành, nhưng đôi lúc con lại không biết quý trọng. Chắc chắn những hành động của con như thế đã làm cho Chúa buồn. Xin cho con biết nhận ra những ơn lành của Chúa như một ơn ban không thể thiếu. Amen.
Bà ấy liền bái lạy và thưa với Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Người đáp: “Không lên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trênbàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó con gái bà được khỏi. (Mt. 15, 25-28)
Thái độ của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này không được đáng mền. Những câu: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Cho người ta thấy Đức Giêsu rất cảm thương, tốt lành và kính chuộng những kẻ hèn mọn và nghèo khổ.
Thánh Mátthêu cho chúng ta thấy một Đức Giêsu có óc bè phái: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi.” Có óc kinh bỉ: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”
Nhưng kìa: Đức Giêsu hoàn toàn không phải thế, Thánh sử muốn dạy chúng ta biết lắng nghe và hiểu rõ bài học này.
Có nhiều người lương dân biết xưng tụng, kêu van danh Đức Kitô, trong khi những Kitô hữu nghe danh người xưa kia mà nay lại không biết kêu cầu Người. Hay ngay cả khi họ nghĩ đến Người, hiểu biết Người bây giờ, họ vẫn điếc chẳng nghe Tin Mừng của Người, mù không thấy những phép lạ của Người, sự phục sinh của Người, câm không nói về Người.
Chó con trong nhà.
Chó con được ăn những đồ thừa, không những nó bằng lòng mà còn tỏ niềm vui mừng và biết ơn nữa. Trẻ con trong nhà thì sao? Không phải lúc nào chúng cũng biết ơn, cảm ơn dù chúng được chăm lo rất nhiều, chúng không thấy vì được quá nhiều đặc ân, quá thường xuyên.
Bà lương dân này chẳng được dạy dỗ, chẳng được ân huệ gì, bà lại có niềm tin thật mạnh đó là điều thiết yếu Đức Giêsu muốn Người không nói bà phải tỏ ra ngoan ngoãn phục tùng, Người không tra hỏi về đời tư của bà. Như bất cứ một kẻ nào đó đến với Người, cầu khẩn Người, với cảnh cùng khổ của mình, với lòng tin cậy được nhận lời.
Chúng ta hãy thành khẩn.
Còn chúng ta ngày nay thì sao?
Không còn đề cập đến vấn đề đức tin nữa, nó làm chúng ta mù quáng bằng đủ mọi thứ bào chữa để che đậy lòng thiếu đức tin của chúng ta.
Nếu người lương dân biết tin vào Đức Kitô thì càng có lý mạnh mẽ đòi chúng ta càng xây dựng niềm tin vào Đức Kitô biết bao! và phải làm cho Người trở lên sống động nơi chúng ta và nơi mọi người đến chừng nào! vì chúng ta hiểu biết Người hơn lương dân gấp bội.
Người ta thường nói “có gan mới làm giàu”. Đúng vậy, trong đời sống khi muốn tốt hơn thì lắm lúc ta cần phải có sự liều lĩnh. Liều lĩnh để vượt qua những khó khăn thử thách. Liều lĩnh để có thể vượt qua những rào cản của dư luận … Dĩ nhiên, sự liều lĩnh ấy cần được đặt trên một tiêu chuẩn nào đó. Một trong những tiêu chuẩn cần thiết là lòng tin. Khi có lòng tin người ta mới dám thực hiện bước đột phá.
Đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay cho ta chiêm ngắm một bước đột phá của người đàn bà xứ Canaan . Như ta biết, thời Chúa Giêsu người Do thái và người ngoại giáo có một sự ngăn cách rất lớn. Họ rất ngại tiếp xúc với nhau. Thế nhưng người đàn bà này dường như không cần chú ý đến điều ấy. Bà ta đến thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”. Sau một hồi thinh lặng Chúa Giêsu trả lời: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.”. Bà ta vẫn tiếp tục nài xin “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”. Như một gáo nước lạnh Chúa Giêsu tiếp tục nói với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Nếu như với người khác, có thể họ đã bỏ ra về. Nhưng bà không ngần ngại trả lời:”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” . Với câu trả lời này có thể nói được là Chúa Giêsu phải “tâm phục khẩu phục” nên đã nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”
Như thế, ta thấy nếu không có lòng tin mạnh vào Chúa thì người đàn bà này đã không thể nào thực hiện được bước đột phá này. Nhờ đó, con của bà đã được chữa khỏi.
Những ngày gần đây, ở miền Bắc nước ta xảy ra nhiều thiên tai do bão và lũ gây ra. Thông thường những cây nào sau những trận mưa bão mà còn trụ lại được thì những cây đó mới thực sự có giá trị. Thánh Giacôbê đã nói: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều.Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn” (Gc 1, 2 – 3).
Có thể nhiều lúc trong đời sống đức tin ta thấy dường như Chúa hoàn toàn thinh lặng thậm chí không ngó ngàng gì tới mình. Hãy tin là những lúc ấy chính là những cơ hội Chúa đang chờ ta thực hiện những bước đột phá như người đàn bà này. Chắc chắn Chúa sẽ không quên ta trong những lúc ấy.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Trong tập sách “Những mẩu bánh vụn” của Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, đã kể lại một câu chuyện: Một người bạn tù với Ngài là người ngoại giáo, nhưng ông ta rất cảm mến Đức Hồng Y. Ông ta được ra tù trước và sau này kể lại: Nhà ông ở gần Trung tâm Lavang, vì thế mỗi ngày, ông đều đến với Đức Mẹ Lavang để cầu nguyện cho Đức Hồng Y Thuận. Khi được hỏi: Ông là người ngoại, ông cầu nguyện thế nào? Ông đáp: Tôi nói với Bà Ấy (Đức Mẹ) rằng: Thưa bà, tôi chưa biết Bà là ai, song tôi đến đây để cầu xin Bà thương đến một người bạn của tôi là ông Thuận còn ở trong tù, xin Bà thương cứu giúp ông ấy. Thế là không bao lâu sau, Đức Hồng Y Thuận cũng được ra tù và hai người gặp lại nhau trong sự xúc động.
Người ngoại có tin Chúa và có cầu nguyện không? Trong thực tế, có nhiều người được gọi là ‘bên lương”, là dân ngoại, song họ lại có một niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa, mặc dù họ chưa thực sự theo Chúa. Đối với những người dân ngoại này, chỉ cần một lòng tin đơn sơ chân thành, thì Thiên Chúa vẫn ghi nhận sự chân thành ấy và ban ơn trợ giúp cho họ. Nếu có dịp đến Lavang, Tàpao, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự thành tâm của những người ngoài Công Giáo. Họ đến đây với lòng tin vào quyền năng của Thiên Chúa và sự trợ giúp của Đức Mẹ. Họ thành tâm xin Chúa và Đức Mẹ che chở, chữa lành.
Có một suy nghĩ thường xảy ra nơi người Do Thái và nơi chúng ta hôm nay, đó là chúng ta thường đóng khung Thiên Chúa trong những người có đạo, cho mình là những người độc quyền chiếm giữ Thiên Chúa và loại trừ người khác ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Tuy nhiên Lời Chúa hôm nay cho thấy, Thiên Chúa không hề giới hạn tình yêu của Ngài. Bất cứ ai, dù là là dân ngoại hay Do Thái, nếu tin tưởng vào Thiên Chúa, thì đều được Ngài ra tay cứu độ. Tiên tri Isai đã loan báo về ơn cứu độ của Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại, không chỉ người Do Thái, mà người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa, phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cũng trở nên tôi tớ của Người. Những ai tuân giữ lề luật, thì cũng được lên núi thánh của Chúa… và Thiên Chúa sẽ ưng nhận lễ toàn thiêu của họ. Với lời này của Isai, quả thật đã phá đổ hoàn toàn suy nghĩ của người Do Thái, vì họ tự hào mình là dân riêng của Chúa, và ngược lại, Chúa là của riêng Israel mà thôi. Isai cho thấy, Thiên Chúa không hề bị giới hạn, hay nói đúng hơn, ơn cứu độ của Thiên Chúa được ban tặng không chỉ cho Israel, mà là cho tất cả nhân loại. Những ai tin và tuân giữ giới răn lề luật của Chúa thì trở thành dân của Chúa.
Câu chuyện Thánh Matthew thuật lại hôm nay khiến cho nhiều người thắc mắc: Chúa Giêsu đi về vùng Tia và Sidon, tức là vùng đất của dân ngoại, thì có một người đàn bà chạy đến và kêu lên: Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm. Với lời kêu cầu này, bà đã thể hiện lòng tin vào Đức Giêsu. Bà tin Đức Giêsu là Con vua Đavít, tức là Đấng cứu thế. Tuy nhiên Thánh Matthew cho thấy, Chúa Giêsu dường như dửng dưng trước lời kêu cầu này. Khi các môn đệ lên tiếng giùm bà, thì Chúa Giêsu còn trả lời: Thày chỉ được sai đến với con chiên lạc nhà Israel thôi. Đến khi bà ấy nài nỉ thì Chúa đã nói với bà: Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con.
Có nhiều nhà chú giải đã cố gắng giải thích những lời lẽ xem ra từ chối nặng nề này của Chúa Giêsu. Chúng ta không đi sâu và những giải thích này, nhưng chúng ta nhìn vào đức tin và sự kiên nhẫn của người phụ nữ trong khi cầu xin. Người đàn bà này đang gặp đau khổ, đó là con bà đau bệnh gần chết. Trong lúc tuyệt vọng, bà chỉ còn biết chạy đến với Thày Giêsu, mà có lẽ bà đã từng nghe biết về Ngài. Tuy nhiên khi đến với Chúa Giêsu, bà dường như lại gặp một thử thách khác, đó là sự im lặng làm ngơ của Thiên Chúa trước lời cầu xin của bà. Người phụ nữ này vẫn không thất vọng, dù có lúc bà như bị Thiên Chúa không chỉ im lặng mà còn từ chối thẳng thừng lời cầu xin của bà. Thế nhưng, bà vẫn kiên trì trước câu trả lời của Chúa, bà thưa lại với Chúa: Thưa Ngài đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống. Với câu trả lời này, bà đã thể hiện lòng tin của bà nơi Chúa Giêsu dù trước đó bà đã bị từ chối.
Người phụ nữ Canaan không hề tự ái trước lời từ chối của Chúa. Trái lại, bà càng khiêm tốn hơn để “lý lẽ” với Chúa như thế, vì tin rằng con của bà chỉ có thể được chữa lành nhờ quyền năng “dư thừa” của Thày Giêsu. Bà còn nhận mình không xứng đáng được đồng bàn hoặc được chia sẻ tấm bánh ân phúc của Chúa, mà chỉ dám nhận mình là đám chó con, chờ đợi và cầu xin một chút ân lộc dư thừa từ bàn ăn của chủ rơi xuống, chứ cũng không dám mong được ông chủ ném cho một miếng bánh. Chúa Giêsu hết sức ngạc nhiên trước lý lẽ và lòng tin của bà và ngài đã không thể không đáp ứng lời cầu xin của bà: Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi bệnh. Có thể nói, Chúa Giêsu đã phải xiêu lòng và chịu thua trước đức tin mạnh mẽ của một người phụ nữ như thế.
Thánh Phaolô đã nhận ra sự kỳ diệu trong kế hoạch của Thiên Chúa, khi dân ngoại được mời gọi chia sẻ niềm tin và thừa hưởng lời hứa ban ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho người Do Thái. Mặc dù dân Do Thái đã được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn để thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời, thế nhưng dường như, họ đã coi thường ân phúc này. Họ đã từ chối ân huệ của Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã dành ân huệ ấy cho dân ngoại và cho tất cả những ai có lòng tin. Phúc lành mà Thiên Chúa hứa ban cho dân Do Thái qua các tổ phụ, giờ đây lại được ban cho dân ngoại. Theo Thánh Phaolô, những người Do Thái muốn được hưởng ân phúc này đòi phải có một điều kiện tiên quyết, đó là quay trở lại với thái độ vâng phục Thiên Chúa.
Thưa quý OBACE, cũng đã có một thời, vì tự mãn với ơn gọi làm con Thiên Chúa, được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa qua Giáo Hội, chúng ta cũng rơi vào tình trạng cực đoan, loại trừ những người dân ngoại, khi tuyên bố rằng: Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu rỗi. Từ quan niệm này, nhiều người sống đạo không khác gì dân Do Thái, tức là giữ đạo thụ động, không cố gắng, không hoán cải. Nhiều người khác rơi vào tình trạng giữ đạo theo công thức, theo thói quen, thiếu chiều sâu của đức tin, không thực hành đạo, vì thế khi gặp khó khăn thử thách, họ thất vọng oán trách Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào đức tin của những người bị coi là dân ngoại, để biết tôn trọng đức tin chân thành của họ và còn để rà xét lại đời sống đạo và đức tin của mình. Thiên Chúa cho chúng ta rất nhiều cơ hội và ân phúc, nhưng nhiều khi chúng ta lại coi đó là những điều tự nhiên, may mắn, hơn là nhận ra tình yêu thương ban tặng của Chúa. Giống như người Do Thái, chúng ta thờ ơ với ơn cứu độ của mình, từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không hoán cải đời sống, thì cũng sẽ có ngày người từ đông chí tây được mời vào dự tiệc nước Thiên Chúa, còn chúng ta bị loại ra ngoài.
Kế đến, hãy học nơi tấm gương tin tưởng kiên trì và khiêm tốn của người phụ nữ Canaan hôm nay: đừng bao giờ thất vọng trước sự im lặng của Thiên Chúa. Vì để tôi luyện, thử thách đức tin của chúng ta, đôi khi Chúa dường như im lặng hoặc từ chối lời kêu cầu của chúng ta; nhưng nếu chúng ta cứ kiên trì, cứ nài xin, chắc chắn Chúa sẽ ra tay và cho chúng ta được như sự thỉnh cầu.
Người phụ nữ hôm nay quả là tấm gương cho các bậc làm cha mẹ. Nhiều người, nhiều gia đình đang rơi vào cảnh cùng quẫn, đau khổ vì vợ chồng đau yếu, con cái ngỗ nghịch hư hỏng; nhiều người đã ngã lòng vì thấy lời cầu xin của mình chưa được Chúa nhận lời. Họ trách Thiên Chúa: Tôi đi lễ mỗi ngày, đã đi xin khấn ở nhiều nơi mà vẫn chẳng được… Nhiều người thì xin những người đạo đức, thánh thiện thêm lời kêu khấn cho mình. Đó là điều tốt, thế nhưng đừng quên chính bản thân cần phải hoán cải, cần lắng nghe để nhận ra tiếng nói và sự chỉ dẫn của Chúa qua từng biến cố xảy ra trong cuộc sống. Hãy tin tưởng, kiên trì để thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin dủ lòng thương con và gia đình con. Chúa sẽ nghe lời chúng ta.
Nhiều người trẻ vì bị mê hoặc bởi khoa học công nghệ, bị mãnh lực của đồng tiền chiếm trọn cả thời giờ và ưu tư, khiến họ không còn chỗ cho Thiên Chúa. Họ đã để cho đức tin của mình bị mờ nhạt, èo uột khi rời xa gia đình hoặc khi lăn xả vào vòng quay của xã hội. Họ đánh mất thói quen cầu nguyện mỗi ngày, bỏ qua việc xưng tội rước lễ, xa rời với những sinh hoạt của cộng đoàn giáo xứ. Những dấu hiệu ấy cho thấy một đức tin đang bị khô héo, mất sức sống. Chúng ta cùng cầu xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta, đặc biệt cho những người đang lung lạc đức tin vì thử thách, và xin Chúa giúp chúng ta luôn tin tưởng, cậy trông nơi Chúa dù lúc vui hay lúc buồn, khi thành công hay thất bại. Chúng ta tin rằng, Thiên Chúa luôn ở bên và sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Amen.
Suy Niệm
Một người mẹ có đứa con gái bị quỷ ám. Bà là dân ngoại, còn Đức Giêsu là người Do thái. Ít khi Ngài đến vùng đất quê hương của bà. Không rõ nhờ đâu mà bà biết được Đức Giêsu. Khi thấy Ngài, bà tin rằng cơ may đã đến, con bà hoàn toàn có hy vọng khỏi bệnh.
Đức Giêsu khen bà là người có lòng tin lớn lao. Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, chúng ta thấy điều đó.
Lòng tin lớn lao biết kiên trì khi Chúa thinh lặng.
Bà xin Ngài nhìn đến nỗi đau của người mẹ, đau vì nỗi đau của đứa con. Nhưng Đức Giêsu không đáp lại một lời. Phải chăng Ngài lạnh lùng trước nỗi đau, lãnh đạm trước điều Ngài có thể làm được? Lắm khi chúng ta cũng gặp sự thinh lặng như thế. Chúng ta khắc khoải tự hỏi: Chúa có nghe gì không? Chúa có thấy gì không?
Lòng tin lớn lao biết kiên trì khi bị từ chối.
Bà chẳng ngã lòng trước sự thinh lặng của Đức Giêsu. Bà cứ đi sau mà kêu, kêu hoài, kêu mãi. Rồi bà trực tiếp giáp mặt Ngài, và nài xin Ngài cứu giúp. Kết quả là một lời từ chối không khoan nhượng: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con.” Bà có bị sốc không khi Đức Giêsu ví dân ngoại với chó con nuôi trong nhà không đáng được hưởng phần bánh của con dân Israel? Chắc chắn bà đã chẳng thất vọng trước lời từ chối này.
Lòng tin lớn lao là lòng tin khiêm tốn.
Bà chấp nhận lối so sánh của Đức Giêsu. Bà chấp nhận mình chỉ là chó con, chỉ dám trông chờ những vụn bánh từ bàn rơi xuống. Bà không dám mong được phần ăn của các con. Sức mạnh của lòng tin ở nơi sự khiêm tốn.
Tin không phải là đòi hỏi. Tin là chờ đợi tất cả từ tay Chúa, và đón lấy tất cả như hồng ân nhưng không.
Đức Giêsu từ chối giúp người phụ nữ dân ngoại vì Ngài thấy rõ sứ vụ Cha giao cho Ngài: Ngài chỉ được Cha sai đến với người Israel thôi. Nhưng Đức Giêsu không cứng nhắc trong nguyên tắc. Ngài tin Cha vẫn nói với Ngài qua mọi cảnh ngộ, nên Ngài cứ để cho trái tim Ngài được tự do mở ra, ngỡ ngàng và ngây ngất trước lòng tin của người phụ nữ. Ngài để cho mình bị chinh phục và chấp nhận thay đổi quyết định ban đầu.
Thay đổi không phải là phản bội hay thiếu ý chí. Thay đổi là trung thành và uyển chuyển để có thể nắm bắt được ý Cha mới hé lộ cho ta.
Ước gì chúng ta để Cha dẫn đi từng ngày, và mở chúng ta ra trước những chân trời mới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Lòng tin lớn lao của người phụ nữ dân ngoại đã khiến Đức Giêsu đổi ý. Ngài đổi ý vì Ngài nghe thấy một lời mời gọi mới của Cha. Bạn là người uyển chuyển hay là người có tính nguyên tắc? Làm sao để uyển chuyển không trở thành thiếu kiên định, và tính nguyên tắc không trở thành cứng nhắc?
Bạn nghĩ gì về lòng tin của bạn hiện nay? Bạn có còn tin vào Thiên Chúa không? Theo bạn, tin là gì?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
Trình thuật Chúa Giêsu chữa khỏi quỷ ám cho con gái người phụ nữ Canaan trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay bao hàm hai ý nghĩa: một đàng Chúa Giêsu xác nhận Dân Israel chính là dân được tuyển chọn, dân của Lời hứa (x. Mt 15,24); đàng khác, ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa, dành cho tất cả những ai có lòng tin vào Người (x. Mt 15,28).
Là Đấng Thiên sai, Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Mục Tử duy nhất được Chúa Cha sai đến để chăn dắt Israel (x. Ez 34,23). Nhưng thái độ của Dân Do Thái làm cho Chúa thất vọng. Họ tự phụ vào truyền thống là dân riêng, dân được chọn của Chúa, nên thường không tin Ngài.
Chúng ta cũng thường tự hào mình là người Công giáo, những người nắm giữ đức tin chân thật. Lý lịch công giáo của chúng ta được xác nhận qua Sổ Rửa Tội, Thêm sức, Hôn phối. Chúng ta thuộc về một cộng đoàn Họ đạo. Chúng ta giữ Lễ Chúa Nhật hàng tuần… rồi thôi. Chúng ta cho rằng mình chỉ cần giữ một số Luật quy định thì đã xong bổn phận giữ đạo của mình rồi. Ngoài ra thì cuộc sống của chúng ta chẳng thể hiện một đức tin tích cực nào cả: thiếu một tấm lòng với Chúa và với anh em. Tóm lại, chúng ta là người Công giáo theo sổ sách, nhưng không phải trong đời sống.
Chúa cần nơi mỗi người chúng ta một tấm lòng: “yêu Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình”. Chỉ có tấm lòng mới thể hiện đích xác chúng ta là con cái Thiên Chúa. Bởi vì tin Chúa, có nghĩa là gắn bó toàn vẹn con người chúng ta vào Chúa, sống theo và cho Chúa.
Người đàn bà Canaan được Chúa ban phép lạ theo lời khẩn cầu, vì bà đã tin. Biết bao anh em lương dân chung quanh chúng ta, chưa nhận biết Chúa, nhưng đời sống luân lý của họ nhiều khi tốt hơn chúng ta. Họ ăn ngay, ở lành, thờ Trời và được bình an. Đời sống trong sáng của họ nên như nhắc nhở cảnh tỉnh chúng ta. Cánh cửa ơn cứu độ của Chúa vẫn dành cho họ. Trách nhiệm của chúng ta là phải sống xứng đáng, vì là con cái Thiên Chúa, và đem Tin Mừng Chúa đến cho những ai chưa được diễm phúc biết Người.
Xin cho chúng con biết yêu Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình. Amen.
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa,
tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại.
Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm.
Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan.
Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít.
Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia.
Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.
***
Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu và ngỏ lời nài xin:
“Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.”
Người mẹ đau vì con của mình đau.
Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái.
Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy.
Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to.
Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội.
Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu.
“Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.”
Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần.
Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu.
Người phụ nữ vẫn là người độc thoại.
Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà.
Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình:
“Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.”
Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát.
Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ.
Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích.
Chị không phải là chiên của nhà Israel.
Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi,
vì Cha tôi chưa sai tôi đến.
***
Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách đến tột độ.
Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng,
và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu.
Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế.
Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.
Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin:
“Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25);
khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22).
Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà.
Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ.
Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con,
vì tình yêu nối kết cả hai nên một.
Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ
dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu.
Người đưa ra lời từ chối thứ hai
quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng:
“Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.”
Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành.
Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà.
Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng.
Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái.
Họ tự hào về tính ưu việt của mình
trong tư cách là Dân riêng của Chúa.
Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
***
Người phụ nữ không phản đối cái nhìn của Đức Giêsu
Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi.
Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa:
“Thưa Ngài đúng thế.
Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.”
Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà,
không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn.
Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách
để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái,
bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.
Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng.
Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.
***
Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của bà.
Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”
Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).
Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.
Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin,
khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.
Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.
Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu,
và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.
Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…
***
Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện với bà: “Này bà…”
Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm.
Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà
chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt:
“Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.
***
Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó.
Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.
Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.
Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ.
Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.
Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.
Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai:
“Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,”
để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”
***
Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ khổ vì con mình bị ám.
Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại.
Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa.
Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau.
Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại,
tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng
và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.
***
Lời nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
*
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
*
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
*
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thương của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
TIN YÊU SỐNG BÍ TÍCH THÁNH THỂ THEO GƯƠNG ĐỨC MẸ
Đoạn Tin Mừng hôm nay thật lôi cuốn. Lôi cuốn trước hết ở diễn tiến bất ngờ của phép lạ. Bất ngờ đầu tiên: người phụ nữ ngoại đạo dám đến xin phép lạ cho con mình. Người ngoại với người Do Thái không bao giờ liên hệ với nhau. Với người phụ nữ ngoại giáo, khoảng cách càng xa diệu vợi. Thế mà người phụ nữ này dám vượt qua hết những rào cản để đến với Chúa. Bất ngờ thứ hai: Chúa đã có thái độ từ chối quyết liệt. Từ chối bằng im lặng không trả lời. Từ chối thẳng thừng bằng lời nói quyết liệt: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel thôi”. Và căng thẳng đến tàn nhẫn: “Không được lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Bất ngờ thứ ba: người phụ nữ chấp nhận tất cả những thử thách, và đã có câu trả lời thông minh: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Thật là khiêm tốn, nhưng cũng đầy tin tưởng. Thật bất ngờ mà cũng thật đẹp đẽ.
Lôi cuốn ở nét đẹp tâm hồn người phụ nữ. Ẩn sâu trong vẻ đẹp của thái độ người phụ nữ ngoại đạo, ta thấy nổi bật hai phẩm chất cao quí đó là: Tin và Yêu. Yêu con tha thiết nên bà không thể nhẫn tâm ngồi nhìn ma quỷ hành hạ đứa con yêu quí. Yêu con tha thiết nên bà không ngần ngại đi tìm thầy tìm thuốc ở khắp mọi nơi, kể cả những nơi bị coi là cấm kỵ. Yêu con tha thiết nên bà chấp nhận tất cả, không chỉ sự mệt nhọc tìm kiếm mà cả sự dửng dưng lạnh nhạt và nhất là sự khinh khi nhục mạ. Yêu con nên bà tin Chúa. Tin Chúa có quyền năng thống trị ma quỷ. Tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa. Tin Chúa có trái tim rộng mở sẽ không phân biệt người ngoại kẻ đạo. Tin và Yêu giống như đôi cánh đã giúp người phụ nữ bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Tin và Yêu giống như giòng thác nước. Càng gặp đập ngăn cản càng dâng lên cao. Càng dâng lên cao sức mạnh càng tăng. Và khi đổ ào xuống sẽ phát sinh công hiệu quả lớn. Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn Thiên Chúa.
Trong bối cảnh của Năm Thánh Thể, thái độ người phụ nữ ngoại đạo khiến ta liên tưởng đến Đức Mẹ, người phụ nữ Thánh Thể. Người phụ nữ ngoại đạo này là một bà mẹ hiền. Vì thương con đói khổ nên bà đã lặn lội đi tìm tấm bánh về nuôi con. Vì thương con nên bà chấp nhận tất cả mọi vất vả, khổ cực, nhục nhã. Và Chúa đã thưởng công bà. Bà chỉ mong tìm được những mẩu bánh vụn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã ban cho bà trọn vẹn tấm bánh thơm ngon của những đứa con. Bà chỉ mong được như lũ chó con chực chờ thức ăn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã cho bà và con gái bà được đồng bàn với con cái Chúa. Chúa đã ban cho bà tấm bánh hạnh phúc. Đó là tấm bánh cứu độ. Cho bà được gia nhập gia đình Chúa, trở nên con cái Chúa. Bà đã mở được đường lên Nước Trời, đã làm cho Chúa thay đổi chương trình, thu nhận dân ngoại vào Nước Chúa.
Cũng thế, Đức Mẹ là người mẹ rất hiền từ. Vì thương yêu chúng ta nên Mẹ cũng lặn lội đi tìm cho ta tấm bánh hạnh phúc. Mẹ đã trao ban cho ta tấm bánh cứu độ. Đó chính là Chúa Giêsu Kitô. Nếu hiểu rằng Thịt Máu Chúa Giêsu Thánh Thể cũng chính là thịt máu Mẹ đã cưu mang trong lòng, ta mới rõ Đức Mẹ là người Mẹ hiền đã tìm cho con cái tấm bánh cứu độ thơm ngon hạnh phúc. Và để có được tấm bánh đó, Đức Mẹ đã phải chịu rất nhiều vất vả, đau đớn, khổ nhục như lời tiên tri Simêon tiên báo: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”. Chính nhờ Mẹ, ta được ăn bánh các thiên thần, được đồng bàn với thần thánh, được nên con Thiên Chúa.
Không những ban cho ta tấm bánh cứu độ, Đức Mẹ còn dạy ta sống bí tích Thánh Thể trong đức tin và tình yêu.
Đức Mẹ dạy ta hãy tin thật Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, noi gương Mẹ khi xưa nghe lời thiên thần truyền tin đã hoàn toàn tin rằng bào thai trong lòng Mẹ là Con Thiên Chúa.
Đức Mẹ dạy ta hãy tin vào quyền năng của Chúa. Như xưa tại tiệc cưới Cana, Mẹ đã bảo các gia nhân: “Người bảo gì thì hãy cứ làm theo”. Hôm nay, trong Năm Thánh Thể, Đức Mẹ cũng muốn nói với ta: Nếu Chúa đã dạy: “ Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, thì hãy sốt sắng tin tưởng cử hành bí tích Thánh Thể. Hãy vững tin vì Đấng đã có thể biến nước lã hoá thành rượu ngon cũng có thể làm cho bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người.
Đức Mẹ dạy ta hãy luôn hướng về bí tích Thánh Thể như xưa Mẹ đã theo Chúa Giêsu trên mọi bước đường, dù gian nan khổ cực.
Đức Mẹ dạy ta dâng mình làm hy lễ. Như xưa Mẹ đã đứng dưới chân Thánh giá, cùng Chúa Giêsu dâng hiến những đau khổ làm hy lễ dâng Thiên Chúa Cha.
Và cũng như xưa Đức Mẹ đã đem Chúa Giêsu đến với bà Elisabet, đem lại niềm vui lớn lao cho bà, vì đã cho Thánh Gioan Baotixita được khỏi tổ tông truyền khi còn trong lòng mẹ, Đức Mẹ cũng dạy ta khi sống bí tích Thánh Thể, hãy trở nên những nhà tạm sống động đem Chúa Giêsu Thánh Thể đến khắp mọi nơi, đem ơn cứu độ đến cho mọi người.
Hôm nay khi cho người phụ nữ ngoại đạo được tấm bánh của con cái, được đồng bàn với con cái Chúa, Chúa cho bà được gia nhập dân riêng Chúa. Điều đó nhắc nhở ta khi sống bí tích Thánh Thể cũng hãy chăm lo việc truyền giáo, đi quy tụ nhiều người về bàn tiệc Thánh Thể, vào dự tiệc Nước Trời. Đức Mẹ La Vang luôn quan tâm đến việc truyền giáo, nên Mẹ không ngừng yêu thương và ban ơn lành cho những lương dân chạy đến với Mẹ. Trong những buổi cử hành sắp tới, ta sẽ được nghe những chứng từ rất sống động về tình thương của Mẹ.
Đức Mẹ là thầy dạy về bí tích Thánh Thể một cách tuyệt hảo. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị khuyên mời ta hãy đến nơi trường của Đức Mẹ. Hôm nay, họp nhau đông đảo về đây, ta hãy tạ ơn Mẹ La Vang đã ban cho ta Chúa Giêsu là tấm bánh cứu độ hạnh phúc. Ta hãy xin Mẹ dạy ta biết sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời. Hãy noi gương Mẹ đem Thánh Thể đến khắp các nẻo đường, quy tụ một dân đông đảo về dự tiệc Thánh Thể, dự tiệc Nước Chúa.
Lạy Mẹ La Vang xin nhận lời chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bí quyết nào khiến bà mẹ ngoại đạo đạt được ước nguyện?
2) Người phụ nữ ngoại đạo nêu gương cầu nguyện cho ta thế nào?
3) Đức Mẹ đã sống đức tin vào tình yêu thế nào trong cuộc đời?
Tại một làng bên Ấn Độ có một đạo sĩ thánh thiện, ai cũng tìm đến xin đến ông cầu nguyện cho. Cứ mỗi lần có ai đến kêu cứu, vị đạo sĩ thường vào rừng, tìm đến một nơi vắng vẻ và cầu nguyện. Lần nào Thiên Chúa cũng nhận lời ông và độ trì cho dân chúng.
Khi nhà đạo sĩ qua đời, dân chúng trong làng cũng muốn có người kế tục. Họ tìm được một người tuy không thánh thiện nhưng biết rõ nơi vị đạo sĩ trước kia thường đến cầu nguyện cũng như thuộc lòng lời kinh của ông.
Người này nói với Chúa:
– Lạy Chúa, Chúa biết con không phải là người thánh thiện. Nhưng con tin chắc rằng Chúa không nỡ bỏ rơi dân Chúa. Xin Chúa nhận lời con mà cứu giúp họ.
Thiên Chúa đã nhận lời ông và cả dân làng đều được cứu giúp mỗi khi đến nhờ ông cầu nguyện.
Khi người này qua đời, thì dân làng lại phải đi tìm một người khác để thay thế. Họ tìm được một người. Người này thuộc lời cầu nguyện, nhưng lại không biết chỗ cầu nguyện trong rừng.
Ông bèn thưa với Chúa:
– Lạy Chúa, con biết không màng đến nơi chốn. Nơi nào mà không có sự hiện diện của Chúa. Vậy xin Chúa nhận lời con mà đến cứu giúp dân Chúa.
Thiên Chúa cũng đã nhận lời ông và cứu giúp tất cả những ai xin ông cầu nguyện.
Thế nhưng đến lúc con người trung gian này cũng qua đời, dân chúng lại phải đi tìm một người khác để thay thế. Nhưng kẻ kế vị này không biết chỗ trong rừng lại cũng chẳng thuộc lời cầu nguyện.
Ông đã thưa Chúa:
– Lạy Chúa, con biết Chúa không màng đến công thức của lời kinh mà chỉ lắng nghe nỗi thống khổ của dân Chúa. Xin Chúa nhận lời con mà cứu giúp họ.
Thế là một lần nữa Chúa cũng nhận lời cầu xin và độ trì dân chúng trong làng. Nhưng sau khi người này qua đời thì dân chúng không còn biết chọn ai thay thế nữa. Cuối cùng họ phải nài nỉ một người mà họ biết là không đạo đức chút nào. Ông ta chỉ biết có tiền bạc. Ông càu nhàu với Chúa:
– Lạy Chúa, Chúa là ai mà cứ bắt con cầu nguyện rồi mới ra tay cứu giúp. Bao nhiêu lời cầu cứu đây tôi xin giao cho Chúa tất cả. Tuy Chúa muốn làm gì thì làm.
Nói xong ông quay trở lại với công việc của mình. Vậy mà Chúa cũng nghe lời cầu nguyện của ông và dân chúng trong làng lúc nào cũng được cứu giúp.
Anh chị em thân mến, Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu không thể đo lường, tính toán hay tưởng tượng được. Lời kinh, nơi chốn, ngay cả sự thánh thiện của con người không phải những gì cốt yếu để Thiên Chúa có thể thi thố tình thương của Ngài. Điều cốt yếu hơn cả mà Thiên Chúa chờ đợi nơi con người là niềm tin tưởng, phó thác trọn vẹn.
Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa còn nghe lời kêu xin của một phụ nữ ngoại đạo ở Canaan, vì nhận thấy lòng kêu xin của bà thật là vững mạnh. Đức tin quả lấp đầy cái hố xem ra ngăn cách hồng ân Thiên Chúa với các dân ngoại. Bà đã kêu cầu với Chúa Giêsu bằng danh hiệu “Con Vua Đavit”. Bà có lòng trông cậy đặc biệt vào quyền năng cao cả của Ngài. Nhưng vì người ngoại đạo nên bà không phải là người mà Đưc Giêsu phải đến thực hiện lời hứa dành cho người Do Thái. Chúa làm thinh. Các môn đệ đã mau mắn can thiệp: “Bà đã làm cho chúng tôi điếc tai mất, xin Thầy bảo bà ta yên cho chúng con nhờ!”. Câu trả lời của Đức Giêsu “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”xem ra ăn khớp với yêu cầu của các môn đệ. Nhưng cũng cho thấy rằng, các con chiên lạc của nhà Israel có thể đôi khi lại ít gắn bó với Đức Giêsu hơn là những con chiên xa lạ trong dân ngoại. Quả thực, Đấng chăn chiên tốt lành đã không từ chối người này hay người kia.
Nghe câu trả lời có vẻ dứt khoát, người đàn bà không ngã lòng và cứ nài nẵng: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi”. Đến đây câu trả lời của Chúa lại có vẻ khinh bỉ hơn: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Ai cũng thấy rằng không nên so sánh như vậy, nhưng chắc cũng đoán ra rằng có lẽ là một thử thách lòng tin. Người đàn bà ngoại giáo Canaan cũng có thái độ như thế, bà đã chịu chơi không kém. Bà không phản đối mà còn tự nhận mình là “chó con”trong nhà để đòi được ăn những mảnh vụn rơi xuống đất, nghĩa là đòi cho con mình được khỏi bệnh. Đức Giêsu đọc rõ lòng tin tưởng của bà, Ngài như lấy làm ngạc nhiên về lòng tin của bà và đã nhận lời cùng với lời ca ngợi: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”.
Thưa anh chị em,
Thiên Chúa thấu suốt tận đáy lòng con người và Ngài muốn tìm ở đấy trước hết là lòng tin. Với lòng tin chân thật thì bất cứ ai, dù là người ngoại đạo, cũng được Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Ơn cứu độ của Ngài là ơn phổ quát, cho mọi dân tộc. Ngày nay Chúa dùng Giáo Hội của Đức Kitô để cứu độ nhân loại qui tụ mọi dân tộc lại cho Ngài. Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ chung và duy nhất của cả nhân loại. Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay cũng đã cho thấy: Thiên Chúa đầy lòng thương xót và muốn ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Vì thế, Thánh Phaolo đã quyết định đi tới dân ngoại để đem lại cho Tin Mừng cứu độ. Rồi đây Do Thái và dân ngoại sẽ gặp nhau trong Giáo Hội của Đức Giêsu như một đàn chiên dưới sự chăn dắt của một Chủ Chiên.
Thánh lễ tái diễn mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Nhớ đến tình thương và ơn huệ lớn lao Ngài đã ban cho chúng ta qua Đức Kitô, chúng ta hãy cảm tạ Chúa và cùng với Ngài mở rộng cõi lòng yêu thương đến với hết mọi người, để ơn cứu độ phổ quát của Chúa có thể đến được với mọi dân tộc trên thế giới.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của – Charles E. Miller)
Đôi khi có vẻ như thời đại này có nhiều cuộc tranh cãi nhất bên trong Giáo Hội. Những người Công giáo tranh cãi với nhau về nhiều điều và phương tiện truyền thông đại chúng giống như thế gian tin rằng nước Mỹ chống lại mọi điều Đức Thánh Cha đã nói. Khi những cuộc tranh cãi kết thúc trong oán ghét và chia rẽ, chúng ta biết rằng chúng thật tai hại.
Thật sự là không có gì trong Giáo Hội hiện nay của chúng ta có thể so sánh với sự tai hại và cay đắng trong cuộc tranh cãi nơi Giáo Hội tiên khởi giữa người Do thái và dân ngoại trở lại với đức tin. Những người Kitô hữu Do thái, những người được gọi là “những người nhiệt thành” tin rằng những người dân ngoại muốn trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, họ phải được cắt bì và theo luật Môisen. Nói cách khác, họ phải trở thành người Do thái trước đã. Những người dân ngoại thì nhấn mạnh là Chúa Giêsu đã thực hiện mọi việc mới rồi. Người đã mở rộng sự mời gọi cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc để thân mật với Thiên Chúa của Israel, Đấng là Thiên Chúa thật.
Sự mời gọi của Người đã được tiên báo trong sách tiên tri Isaia. Bài đọc chúa nhật hôm nay được lấy từ phần thứ ba trong sách tiên tri Isaia. Đoạn văn ấy nói về những người Do thái trở về sau cuộc lưu đày ở Babylon, họ thấy quê nhà của họ đã bị những người ngoại quốc xâm chiếm và họ rất phẫn nộ. Những người Do thái trở về luôn bị cám dỗ phải đánh đuổi những người ngoại quốc hoặc họ phải nghe theo lời giảng dạy của tiên tri isaia, lời ấy nói rằng những người ngoại quốc ấy có thể hợp làm một với họ và đáng được Thiên Chúa chấp nhận. Chúa nói qua miệng tiên tri rằng: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân nước”.
Chủ nghĩa đại kết là một bài học khó nhai đối với người Do thái. Đó là lý do vì sao vào thời Chúa Giêsu và ngay sau đó diễn ra một cuộc tranh cãi mạnh mẽ về chỗ của người dân ngoại. Người đàn bà xứ Canaan trong bài Phúc Âm hôm nay không phải là người Do thái, bà ta là người dân ngoại. Các môn đệ của Chúa Giêsu muốn Người đừng làm gì cho bà ta và muốn đuổi bà ấy đi. Khi người đàn bà cự lại và xin Chúa Giêsu chữa bệnh cho con gái bà, Chúa Giêsu đáp: “Không lý gì lại lấy thức ăn của con cái mà ném cho chó”. Tại sao Chúa Giêsu lại nói nặng lời như thế và điều đó có ý nghĩa gì? Thật ra những lời của Người chỉ là tiếng vang của những người Giuđa không muốn Người làm gì cho dân ngoại và coi dân ngoại như chó vậy. Thánh Mathêu khi viết Phúc Âm, ngài đã hy vọng rằng khi nghe những lời nặng nề khó nghe trên môi miệng của Chúa Giêsu sẽ làm cho những người nghe bị sốc vì sự loại bỏ dân ngoại đến cỡ nào. Người đàn bà với đức tin của mình đã chiếm được ân sủng nơi Chúa Giêsu.
Ngày nay, chúng ta không nghĩ rằng mọi người phải trở thành người Do thái trước khi trở thành người Công giáo nữa. Nhưng chúng ta có thể thực hành những hình thức khác của sự loại trừ. Trong một số vai trò hình thức cũ đã trở lại “chống chủ nghĩa Semit” ngày nay đã thay thế “chủ nghĩa bài dân ngoại” của thế kỷ Kitô giáo đầu tiên. Chủ nghĩa chủng tộc là một vấn đề nghiêm trọng nơi xã hội của chúng ta ngày hôm nay. Oán ghét dân nhập cư, nhiều người trong những phong trào đó, mang danh là người công giáo, đã được gán cho một từ rất lạ, chủ nghĩa “bài ngoại”.
Từ mà chúng ta sẽ tập trung chú ý là “người Công giáo”. Từ đó nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta là một Giáo Hội toàn cầu, bao gồm cả thế giới, Giáo Hội thân thiết với mọi dân tộc. Mọi nhà thờ công giáo đều là nhà cầu nguyện cho tất cả mọi người. Ở đó Thiên Chúa đã tự hiến vì tất cả chúng ta, không phải là những bánh vụn rơi từ bàn ăn nhưng là Thịt và Máu Chúa. Chúa đã đến với chúng ta trong Bánh Thánh, là Chúa của mọi dân tộc. Trở nên tín hữu của Người là chấp nhận tất cả mọi người không loại trừ một ai hết.
Người đàn bà xứ Canan là một người mẹ. Chúa Giêsu nhìn thấy mẹ Maria đàng sau mỗi người mẹ. Ngài không quở mắng bao nhiêu mẹ của Giacôbê và của Gioan khi bà xin cho họ làm bộ trưởng (Mt 20, 20). Ngài âu yếm chữa lành cho nhạc mẫu của Phêrô. Ngài bối rối do bà goá thành Naim vừa mất đứa con trai của mình. Tôi nghĩ rằng điều này làm ta hiểu rõ hơn điều sắp xảy ra giữa Chúa Giêsu và người mẹ xứ Canan.
Ngài là người Do thái đứng trước người phụ nữ ngoại đạo, Ngài không muốn có chuyện rắc rối với bà. Thật là khổ sở, nhất là đối với những người trẻ không chịu đựng nổi những câu chuyện giữa các chủng tộc và những tôn giáo khác nhau: Thiên Chúa có được dành cho tất cả mọi người hay không?
Sự phổ quát của Chúa, rất cảm động, vẫn có nguy cơ chỉ là lý thuyết. Chúng ta không thể dễ dàng lấn sang những khác biệt đến thế. Phải thoả hiệp dần dần. Chúa Giêsu đã chấp nhận mọi thứ của thân phận con người, kể cả những giới hạn, và việc tìm kiếm ý của Chúa Cha đôi khi rất là khó.
Chúng ta xét đoán Thiên Chúa rất nhanh: Tại sao lại có một dân tộc được chọn? Tại sao Chúa Giêsu muốn bỏ rơi người đàn bà Canan? Bởi vì, là người Do thái, Chúa Giêsu đi vào trong chương trình cứu độ như Ngài biết chương trình đó qua Thánh Kinh của dân tộc Ngài, và chương trình cứu độ bao gồm hai dữ kiện rất rõ ràng: 1/ Thiên Chúa muốn cứu chuộc tất cả mọi người; 2/ Qua dân Do thái. Vào lúc này đây, Chúa Giêsu chỉ nghĩ Ngài được phái đến “vì các con chiên lạc nhà Israel” mà thôi.
Tuy nhiên có người mẹ này đây. Một số người đã nghĩ rằng Ngài tỏ ra dửng dưng (“thậm chí Ngài không trả lời”) để làm cho đức tin của người đàn bà Canan này tăng lên! Nói như thế là chối bỏ mầu nhiệm Nhập thể. Chúa Giêsu là một con người và đơn giản là Ngài bối rối giống như một con người. Xua đuổi bà ta sao? Thoả mãn bà ấy để cho bà ấy về như các môn đệ gợi ý hay sao? Các môn đệ khó chịu và khinh khi hơn là quan tâm đến các chương trình của Thiên Chúa.
Đây là một bà mẹ, Chúa Giêsu bắt đầu khuất phục và ít ra là cho bà ấy điều mà Ngài có thể cho: sự tử tế của một cuộc đối thoại. Trước tiên hãy để cho con cái ăn no nê đã. Đừng quá vội vàng mang ơn cứu độ đến cho những người không được chuẩn bị, những con chó con.
Người đàn bà Canan hoàn toàn nắm được nét thân hữu trong những lời của Chúa Giêsu: người ta rất yêu quí những con chó nhỏ nuôi trong nhà. Bà thật sắc sảo, bà là mẹ, bà quyết tâm đến với người có thể cứu con gái của bà: “Những con chó nhỏ cũng được ăn những mảnh vụn”.
Lời nói tin tưởng này mở lòng Chúa Giêsu. Người đàn bà Canan vừa xoá bỏ một lằn ranh nơi Ngài. Với một đức tin khiêm hạ và sâu sắc đến nỗi bà không nói với Ngài: “Thầy hãy làm trái lại”. Bà đã hiểu. Bà cùng Ngài đi vào trong những dự định của Chúa Cha: “Phải, lạy Chúa, xin Ngài trước tiên hãy nghĩ đến con cái, nhưng xin đừng chậm trễ nghĩ đến những con chó con có thể còn tin tưởng nơi Chúa nhiều hơn nữa”.
Thế là Chúa Giêsu làm một cử chỉ đánh dấu tính hoàn toàn ưu việt của đức tin. Điều xảy ra với người đàn bà Canan chứng tỏ rằng từ nay tất cả đều tùy thuộc vào đức tin. Người Do thái có sự ưu tiên, người đàn bà Canan là một người mẹ làm xáo trộn tất cả, nhưng đã có một điều duy nhất đáng kể, từ nay sẽ có một điều đáng kể mà thôi: “Hỡi đàn bà kia, đức tin của bà rất mạnh”
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn chia sẻ về tình thương của một người mẹ.
Người đàn bà xứ Canaan hẳn đã đau khổ rất nhiều, khi đứa con của mình bị quỉ ám. Nghe đồn về Chúa Giêsu, ngày hôm nay bà đã tìm đến gặp Ngài để xin Ngài cứu chữa đứa con yêu dấu của bà. Bà nói:
– Lạy Ngài là con vua Đavid, xin thương xót tôi bởi vì đứa con gái của tôi bị quỉ ám khốn cực lắm.
Thế nhưng Chúa Giêsu đã yên lặng, khiến cho các môn đệ cũng phải lên tiếng can thiệp. Lần thứ hai bà lại kêu cầu:
– Lạy Ngài, xin hãy cứu giúp tôi.
Thái độ của Chúa Giêsu khiến cho chúng ta cũng phải sững sờ ngạc nhiên. Ngài bảo:
– Chớ lấy bánh của con cái mà vứt cho chó.
Nếu như chúng ta, rất có thể chúng ta đã bực bội tức tối vì cho rằng lời nói đó có tính cách mỉa mai và hạ nhục. Nhưng người phụ nữ ngoại giáo này, chắc hẳn lúc bấy giờ đã nghĩ tới nỗi khốn cùng của đứa con, nên bà vẫn kiên trì kêu xin. Bà thưa cùng Chúa Giêsu:
– Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống.
Tới lúc này chúng ta có thể nói:
– Niềm tin cậy trông và tình thương của một người mẹ đã thắng, bởi vì Chúa Giêsu đã phải lên tiếng ca ngợi bà và làm phép lạ như lòng bà mong ước. Ngài phán:
– Này bà, bà có một lòng tin mạnh mẽ. Bà muốn sao thì được như vậy.
Và đoạn Tin Mừng đã kết luận: Ngay lúc đó, con gái bà đã được chữa lành. Chắc hẳn lúc bấy giờ bà đã vui mừng hớn hở, bà đã quì xuống cảm tạ Chúa rồi vội vã trở về với đứa con của mình đã được chữa khỏi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta hãy nghĩ đến người mẹ của mình. Người mẹ ấy cũng đã phải vất vả vì chúng ta, suốt chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, rồi lại còn nuôi dưỡng chúng ta cho tới ngày hôm nay. Người mẹ ấy đã phải lo lắng mỗi khi chúng ta đau yếu. Và không chừng người mẹ ấy cũng đã khổ đau mỗi khi chúng ta ngỗ nghịch ương bướng.
Từng ngày và từng đêm, người mẹ ấy luôn cầu xin Chúa nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta để chúng ta có được một tương lai tươi sáng. Trên đời này không có gì quí giá cho bằng tình thương của người mẹ.
Chính vì thế mà nhạc sĩ Y Vân đã có lý khi ca tụng tình thương ấy:
– Lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào.
Phải, lòng mẹ chính là nơi trú ẩn an toàn nhất cho mỗi đứa con. Tác phẩm tuyệt vời nhất của Thượng đế là trái tim của người mẹ. Bởi đó, chúng ta hãy biết ơn và trọng kính người mẹ của chúng ta. Tất cả những gì chúng ta làm được trong suốt cả cuộc đời cũng không đủ để báo đáp công ơn của người mẹ hiền.
Một ngày kia, khi người mẹ không còn nữa, chúng ta mới cảm nghiệm được rằng mình đã mất đi một kho tàng quí giá. Lúc bấy giờ nếu chúng ta có hối hận về cách cư xử tệ bạc của mình thì đã quá muộn.
Bởi đó, để kết luận tôi xin nhắc lại nơi đây câu ca dao của người Việt Nam chúng ta:
Công cha như núi thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
(Suy niệm của Achille Degeest – Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Miền Tyrô và Siđôn nói chung là phần đất cuối cùng ở miền tây bắc xứ Palestina. Đa số dân chúng ở đây là người Do thái sinh sống tại vùng này, vì thế dân ngoại cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều về phương diện hiểu biết lề luật của Chúa nên chúng ta không ngạc nhiên mấy nếu một vài người ngoại đạo lại biết vài đoạn Kinh Thánh nho nhỏ. Điều này giải thích danh từ ‘con vua Đavít’ mà người phụ nữ Canaan đã dùng để thưa với Chúa. Tại sao Chúa Giêsu lại đi lên tới vùng này? Có lẽ là để đi xa xứ Galilêa một ít vì nơi đây tính cách đại chúng của Người có thể lam cho nhiều tâm hồn nghĩ lầm về một Đấng Cứu Thế trần gian. Cũng có lẽ Người lên đây là để đào tạo các môn đệ cách thong thả hơn. Nhất là qua cách Người cư xử với người phụ nữ Canaan Người muốn dậy các môn đệ một bài học thường thức. Họ sẽ nhớ lại khi đặt vấn đề người ngoại giáo gia nhập Giáo Hội, gia nhập Nước Trời và họ sẽ biết là không thể nào từ chối không cho người ngoại giáo gia nhập được. Nói chung thì đoạn Tin Mừng này tuy bề ngoài có vẻ cứng cỏi, nhưng cho thấy rõ là Chúa Giêsu quan tâm đến người ngoại giáo cách sâu xa và Người hằng yêu mến họ. Nó cũng chứng tỏ người ngoại giáo có một khả năng mới mẻ và mãnh liệt để đón nhận đức tin. Đức tin của người phụ nữ Canaan đánh động chúng ta ở những điểm nào?
1) Đây là một đức tin khiêm tốn. Người phụ nữ bất hạnh có người con gái bị ốm, đau khổ đến nỗi kêu tới Chúa Giêsu, nhưng tiếng kêu của bà ta không có vẻ hiếu thắng. Bà ta không ý thức là đang nêu ra một quyền lợi. Trái lại khi nghe Chúa bảo là tình thế muốn Ngài hoạt động ở Israel chứ không phải nơi người ngoại giáo, bà ta đã trả lời với một cung cách làm nổi bật mức độ của lời cầu xin. Bà ta cầu xin và bà đặt mình ngang hàng với đàn chó con sống bằng những mụn bánh dư thừa từ bàn ăn rơi xuống. Người phụ nữ Canaan đã gắn bó cho đức tin cái tính chất khiêm nhượng, khiến Chúa phải xiêu lòng. Đức tin vẫn là một tiếng kêu hồn nhiên. Nếu phải phân tích ta sẽ thấy trong đó dấu hiệu của một sự đau khổ lớn lao, một sự choáng váng vì trông cậy đột ngột và kẻ đó là một sự an tâm đầy tin tưởng. Hình như người phụ nữ Canaan khi được Chúa trả lời và như thế là được Người quan tâm đến, đã nắm chắc phần thắng. Một cách chắc chắn, bà ta cảm thấy là Chúa sẽ chữa lành cô con gái của bà.
2) Đây là một đức tin nài nỉ. Đức tin dừng lại cách mạnh mẽ ở một điểm rõ ràng: Chúa Giêsu có thể chữa lành đứa bé đang bị ốm. Trước mặt Chúa, người phụ nữ Canaan đã nhấn mạnh và nhắc lại lòng tin tưởng của bà vào quyền năng và lòng nhân từ của Chúa. Lúc đầu bà ta bị xua đuổi một cách cứng rắn, nhưng bà ta vẫn kiên nhẫn và tỏ ra ngoan cố, cái ngoan cố đặc biệt của bà mẹ. Trên bình diện tâm lý đức tin này có tính cách hiện sinh vì nó đi từ kinh nghiệm đau khổ và từ hy vọng sẽ được chữa lành. Trên bình diện thiêng liêng sâu xa, người ta có thể nghĩ rằng Chúa đã đặt vào trong tâm hồn người phụ nữ Canaan một ơn riêng (một ơn huệ) để bà bám chắc lấy Chúa và tin tưởng vào Người.
3) Đây là một đức tin mới mẻ và vươn xa. Đức tin không vướng mắc bởi các vấn đề, những vấn đề từ nơi khác tới. Từ các tông đồ khi các Ngài cho rằng cách làm của người phụ nữ Canaan chỉ nỗi quấy rầy và từ nơi Chúa Giêsu khi Người nêu ra vấn đề quyền ưu tiên của dân Israel. Đức tin của người phụ nữ Canaan lật đổ các vấn đề để đi thẳng tới đối tượng, điều này làm chúng ta phải suy nghĩ. Thực vậy, từ lâu chúng ta thường được nuôi dưỡng bằng rất nhiều ơn huệ của Chúa trong vụ trụ đức tin. Tuy thế đức tin của chúng ta có giữ được vẻ mới mẻ, sức vươn xa và sự khiêm tốn mà nó phải giữ hay không? Phải chăng chúng ta bị vướng mắc bởi những vấn đề thường làm suy yếu đức tin của chúng ta?
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục trình bày việc Chúa Giêsu vượt qua biên giới để tiến vào vùng đất của dân ngoại, và một người trong dân là người đàn bà xứ Canaan sắp sửa được dự phần vào tác vụ của Ngài, đó là được lãnh nhận hồng ân như những người Do Thái. Đây là điểm khởi đầu, một dấu chỉ mời gọi để rồi sau này các tông đồ được Chúa Thánh Thần soi sáng vượt qua ranh giới hạn hẹp của quốc gia để đi đến tận cùng bờ cõi trái đất rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc.
Khi bước vào vùng đất mới, Chúa Giêsu gặp những lời kêu van của người đàn bà đang bị thử thách: “Lạy Con Vua David, xin dủ lòng thương tôi, đứa con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm”. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời nào, và trước lời khẩn cầu tha thiết như vậy lại sao Chúa Giêsu không đáp lại
Lời cầu nguyện của người đàn bà thật cảm động, thật chân thành, thế mà lại sao Chúa lại không đáp trả. Chúa là Đấng nhân từ trước những người cùng khổ chạy đến kêu cầu Ngài. Hơn nữa, Ngài đã dạy cho các đồ đệ cầu nguyện rằng: “Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho, hãy xin thì sẽ được”, thế mà lại sao trong lúc này Chúa tặng thinh không trả lời người đàn bà, hẳn phải có lý do nào đó mà Ngài không trả lời.
Thật vậy, các tông đồ không thể hiểu được thái độ của Chúa và cũng không muốn bị quấy rầy, nên nói với Thầy mình: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, kẻo bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu xin mãi”. Các đô đệ hiểu tầm thái độ im tặng của Chúa như một sự chối từ nên các ông cũng muốn phủi tay: “Xin Chúa đuổi bà ấy đi cho rảnh, đừng để bà ấy quấy rầy nữa”. Không những Chúa im tặng mà Ngài còn lên tiếng chối từ lời van xin của người đàn bà trong cơn thử thách: “Ta chỉ được sai đến với chiên lạc của nhà Israel”.
Đứng trước một thách thức về lòng tin như vậy, người đàn bà xứ Canaan đã không ngã lòng trước lời từ chối của Chúa, bà đến sụp Lạy dưới chân và thưa với Ngài rằng; “Lạy Ngài, xin thương giúp tôi”. Bà không thắc mắc, không giận dỗi hay trách móc Chúa thế này thế nọ, nhưng bà khiêm tốn hạ mình hơn nữa. Bà không những van xin bằng lời nói mà còn van xin bằng cả con người, bà sụp Lạy trước Chúa Giêsu và nói: “Xin Ngài thương cứu giúp tôi”. Sự im tặng của Chúa, sự chối từ của Ngài là một thử thácho Thử thách trong đức tin, thử thách trong việc cầu nguyện, Ngài muốn thử thách người đàn bà van xin nhiều hơn nữa: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho con chó”. Lời nói cứng cỏi này xem ra không phù hợp với một con người nhân từ đầy yêu thương như Chúa. Và rồi thử thách đã đến mức độ cuối cùng, ai có thể vượt qua được, nhưng người đàn bà dân ngoại này đã vượt qua, bà đã thưa với Chúa Giêsu như sau: “Thưa Ngài đúng tắm, nhưng các chó con cũng được ăn những vụn bánh từ nơi bàn ăn của chủ rơi xuống”. Tâm hồn khiêm tốn đã giúp người đàn bà vượt qua được thử thách và trưởng thành trong đức tin. Giờ đây Chúa Giêsu mới trả lời: “Này bà, đức tin của bà đã được chấp nhận, bà muốn sao thì được vậy”. Người đàn bà đã xin được Chúa Giêsu cho con mình khỏi bị quỉ ám.
Thái độ của Chúa Giêsu từ im tặng đến chối từ đã hướng dẫn bà đến mức độ trưởng thành của lòng tin: “Lòng tin của bà vững mạnh, bà muốn sao thì được như vậy”. Sự thử thách đã đến lúc chấm dứt, và cuối đoạn đường gian nan, khi nhìn lại xem ra như Chúa im tặng hay từ chối trước lời ta cầu xin, nhưng giây phút đó là những giây phút quí báu vô cùng, vì những phút im tặng và chối từ ấy giúp lòng tin của ta được trưởng thành. Như vậy, vào cuối đoạn đường gian nan ta mới hiểu được phần nào chương trình của Chúa cho cuộc đời của mình. Nhưng liệu ta có đủ sức để đi đến cuối con đường, đến nơi mà Chúa muốn chúng ta trưởng thành trong đức Tin hay không? Đó là một đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
Người đàn bà ngoại giáo, có đứa con đau yếu đã đến tìm gặp Chúa Giêsu. Lần thứ nhất bà kêu xin, nhưng Ngài đã thinh lặng khiến các môn đệ phải lên tiếng can thiệp. Lần thứ hai bà kêu xin, thì bị Chúa Giêsu trả lời: Đừng lấy bánh của con cái mà ném cho chó. Thế nhưng bà vẫn không mất lòng cậy trông khi thưa cùng Chúa: Lạy Thầy, nếu như vậy thì con chó cũng được hưởng những mảnh vụn từ bàn rơi xuống chứ. Cuối cùng Chúa Giêsu đã phải ca ngợi niềm tin của bà và đã làm phép lạ cho con bà được khỏe mạnh.
Từ câu chuyện này chúng ta rút ra được một bài học, một thái độ sống giữa những khổ đau và bất hạnh, giữa những gian nguy và thử thách chúng ta gặp phải giữa lòng cuộc đời. Như chúng ta đã biết: đau khổ và thử thách là như một cái gì gắn liền với thân phận con người: thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, đời có vui sao chẳng cười khì. Giáo lý nhà Phật đã gọi đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Còn trong kinh Lạy Nữ Vương, chúng ta vốn thường cho rằng đời là nơi khổ ải, nơi khóc lóc, đời là thung lũng nước mắt. Đứng trước những khổ đau và thử thách, người thì can đảm chấp nhận, không kêu ca, không oán trách, kẻ thì hậm hực tức tối, khóc lóc than van, dường như ở trên đời này chỉ mình họ là khổ đau mà thôi. Nếu có dịp, chúng ta hãy ghé thăm những bệnh viện và chúng ta sẽ thấy những khổ đau chúng ta đang phải chịu, chẳng thấm tháp vào đâu so với những khổ đau của người khác.
Ngày kia đức Khổng Tử gặp Vĩnh Khải Kỳ, tay cầm đèn, vừa đi vừa hát một cách vui vẻ. Khổng Tử bèn hỏi: Hôm nay có chi mà tiên sinh mừng vui thế. Vĩnh Khải Kỳ trả lời: Trời sinh ra muôn vật, mà loài người là loài trọng nhất, bỉ nhân đây là loài người, thì làm sao chẳng vui cho được. Trong loài người thì đàn ông hơn đàn bà. Bỉ nhân đây được may mắn là đàn ông, thì làm sao chẳng vui cho được. Sinh ra có kẻ mù lòa câm điếc hay què quặt, bỉ nhân đây không mù lòa, không câm điếc cũng chẳng què quặt, thì làm sao chẳng vui cho được. Còn nếu như nghèo nàn, bệnh tật và chết chóc là số phận chung của mọi người, không ai có thể tránh thì việc gì mà phải buồn phiền lo lắng.
Tuy nhiên, điều quan trọng đối với chúng ta, những người luôn tin tưởng và cậy trông vào Chúa thì những khổ đau chúng ta chịu sẽ không kéo dài quá thời gian cuộc sống chúng ta. Chắc chắn một ngày nào đó nó sẽ chấm dứt. Người giầu và kẻ nghèo rồi thì cũng phải chết, cũng như ông phú hộ và người ăn xin tên là Lagiarô. Thế nhưng sau cái chết là cuộc sống đời đời, là tương lai vĩnh cửu sẽ mở ra cho chúng ta tùy theo như những việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn sống ở trần gian này. Vì thế, chúng ta phải cố gắng biến những khổ đau chúng ta gặp phải trở thành nguồn ơn phúc, đem lại lợi ích cho chúng ta như lời thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: Được chịu gông cùm vì Chúa, tôi lấy làm hãnh diện hơn là ngồi trên 12 tòa các tông đồ mà xét xử muôn dân. Tại sao thế? Bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường tiến tới Phục sinh.
Có một giai thoại kể rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò chơi mạo hiểm. Hôm đó anh mang một chiếc dù lớn đến bên bờ một vực thẳm tính để chơi cho thoả chí mạo hiểm của anh, không biết loay hoay thế nào, anh trượt chân té xuống vực thẳm. May quá, anh bám được một nhánh cây chìa ra trên bờ vực. Khi đã nắm được nhánh cây kia, anh thở phào một cái, tuy nguy hiểm vẫn chưa qua, nhưng anh nghĩ như thế này là có hy vọng sẽ được cứu.
Anh ngước mắt nhìn lên bờ vực, không thấy có bóng dáng một ai, cúi xuống, anh nghĩ chỉ còn cách cầu nguyện. Thế là anh cầu xin: “Lạy Chúa, xin cứu con, con xin hứa con sẽ làm bất cứ điều gì Chúa muốn”. Bỗng có tiếng Chúa từ trời vọng xuống: “Được, Ta sẽ cứu con, nhưng trước khi cứu con, Ta muốn con có thực sự tin Ta có thể cứu con được không”. Anh thưa ngay: “Lạy Chúa, con tin chứ, con tin chắc là Chúa cứu được con, Chúa cứu con ngay đi con mỏi tay lắm rồi”. Chúa nói: “Được, nếu con tin thì con cứ buông tay con đang bám vào nhánh cây đó đi”. Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào nhánh cây chứ không chịu buông tay ra, rồi chàng ngẩng nhìn lên bờ cố la lớn: “Có ai ở trên bờ không, cứu tôi với”. Giả sử chúng ta là chàng thanh niên trên đây, liệu chúng ta có dám buông tay ra không? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh xảy ra trong cuộc sống của chúng ta không? Điều Thiên Chúa muốn là chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Chúa. Lòng tin tưởng của chúng ta phải như em bé trong câu truyện sau:
Cách đây ít lâu, báo chí tường thuật lại một sự kiện: Vào một đêm kia, một đám cáy bùng lên tại một ngôi nhà trong khi ngọn lửa đang phừng phừng bốc lên, người ta trông thấy người cha, người mẹ và mấy đứa con hấp tấp chạy ra tức khắc, họ buồn rầu nhìn ngôi nhà mình bốc cháy. Bất chợt họ nhận ra mình thiếu đứa con nhỏ nhất, một đứa bé trai năm tuổi. Đứa bé lúc đó chạy ra, thấy khói lửa nghi ngút, nó hoảng sợ lùi lại rồi leo lên tầng trên. Mọi người nhìn nhau: không thể liều lĩnh đi vào trong nhà bây giờ chỉ còn là một lò lửa hừng hực. Thì kìa, một khung cửa trên kia mở toang, đứa bé giơ tay kêu cứu.
Cha nó thấy nó, ông quát to: “Nhảy xuống đi”. Đứa bé chỉ thấy khóí lửa mịt mù, nhưng nó nghe ra tiếng cha nó, nó liền đáp: “Ba ơi, con không thấy ba đâu cả”. Cha nó lại quát: “Ba thấy con, nhảy đi”, đứa bé đã nhảy, và đã bình an vô sự rơi vào vòng tay cha nó, vì ông kịp đỡ lấy nó.
Đứa bé đứng trong ngôi nhà bốc cháy ấy lại không phải là hìng ảnh diễn tả người Kitô hữu đứng trước mặt Thiên Chúa sao? Trong cơn khốn quẫn, chúng ta nghe ra tiếng Chúa bảo mình: “Hãy tin tưởng vào Ta, hãy nhảy vào vòng tay của Ta”, và rất nhiều phen chúng ta đã trả lời: “Chúa ơi, con chẳng thấy Chúa đâu cả”, và đã tưởng rằng Chúa bỏ rơi mình. Có bao giờ chúng ta nghĩ như thế không hay nghĩ tương tự như thế không? Dường như Chúa đi đâu vắng lúc chúng ta cần đến Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay,một lần nữa, nhắn nhủ chúng ta về giá trị của đức tin. Đức tin có sức mạnh, có khả năng đảo ngược được tình cảnh trong đời người, giúp chúng ta vượt được gian khó, và làm được những việc quá sức tự nhiên của mình. Ngưòi phụ nữ ngoại giáo trong Tin Mừng đã có một đức tin như thế, nên bà đã nhận được điều bà muốn xin. Tuy con gái bà bị quỷ ám khốn cực và các thầy thuốc đã vô phương cứu trị, tức là tình cảnh của bà đã tuyệt vọng về mặt tự nhiên, nhưng bà đã tin Chúa có thể cứu chữa được con bà, nên bà đã đến kêu xin Chúa, và dù Chúa thử thách bà, bà vẫn kiên nhẫn hết lòng tin tưởng. Chính vì lòng tin vững mạnh đó, Chúa đã làm phép lạ cứu chưã con gái bà.
Có lẽ sau đức tin của viên đại đội trưởng ở Caphácnaum thì phải kể đến đức tin của người phụ nữ Canaan này, là người ngoại giáo nhưng hết lòng tin tưởng vào quyền phép của Chúa Giêsu. Đây là tấm gương và bài học cho chúng ta khi cầu nguyện: Chúng ta hãy kiên nhẫn, cầu xin chưa được, cầu xin tiếp, cầu xin mãi, đừng bao giờ nản lòng, vì ai kiên nhẫn và tin tưởng cầu xin, sẽ được như ý.
Trước Công đồng Vatican II, những người tín hữu có đời sống luân lý công khai bê bối, nhưng không chịu ăn năn trở lại, khi chết thường bị các cha sở cấm không cho chôn cất trong nghĩa trang của nhà thờ, vì nghĩa trang Công giáo là phần đất đã được thánh hiến, chỉ dành cho những người tín hữu có đời sống xứng đáng mà thôi.
Có một ông cụ già sống bê bối về luân lý, say sưa cờ bạc, ăn ở lung tung… Khi chết, cha sở ra lệnh cho người nhà phải chôn cất ông ở ngoài hàng rào của nghĩa trang trong xứ. Sau nhiều năm, cha sở đã đổi đi nơi khác, người con gái của ông già trở về nhà thờ cũ để thăm mộ và xin lễ cầu nguyện cho ông. Bà đi kiếm mộ cha mình ở bên ngoài hàng rào nghĩa trang nhưng chẳng thấy. Bà đành phải đi tìm người trông coi nghĩa địa ngày xưa để hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Người trông coi nghĩa địa đã dẫn bà ra đúng mộ của thân phụ, nhưng đã nằm ở bên trong hàng rào nghĩa trang. Bà ngạc nhiên hỏi, “Tại sao ông lại dời mộ của thân phụ tôi?” Người trông coi nghĩa trang mỉm cười trả lời: “Chúng tôi đã không dời mộ của ông cụ, nhưng vì bên trong nghĩa trang không còn đủ chỗ chôn cất nữa, nên phải mở rộng nghĩa trang ra. Chúng tôi chỉ dời hàng rào ra mà thôi”.
Đây là điều Chúa Giêsu đã làm trong bài Phúc Âm hôm nay, khi chữa bệnh cho con gái của người đàn bà xứ Canaan. Người đàn bà Canaan đến với Chúa là người ở bên ngoài những hàng rào ranh giới do sự kỳ thị phân biệt của xã hội.
Đối với những người Do thái, sự trong sạch và nhơ bẩn được phân định rõ ràng. Nếu là người Do Thái và biểu tỏ đức tin qua việc giữ luật Do Thái, người đó được coi là trong sạch. Nếu là ngoại kiều, hay là Do Thái mà không tuân giữ luật lệ Do Thái, đó là người dơ bẩn. Sự phân định ranh giới này rất đơn giản và rõ ràng!
Có hai điều làm cho người đàn bà xứ Canaan bị loại trừ trong bậc thang phân định giá trị của người Do Thái: đàn bà và dân ngoại. Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, người đàn bà bị lãng quên. Trong bài Phúc Âm Mt 14, 13-21, Chúa Giêsu hoá bánh ra nhiều cho 5000 người ăn uống no nê, “không kể đàn bà và trẻ con”. Đàn bà và trẻ con không được kể đến, coi như không có giá trị. Hôm nay một lần nữa, thánh Matthêu nói đến người đàn bà xứ Canaan, mà không nhắc đến tên của bà. Điều này có ý nghĩa. Chắc chắn bà phải có tên. Nhưng không được nhắc đến tên chứng tỏ bà đã bị xã hội thời đó khinh bỉ và loại trừ.
Điểm thứ hai, bà là người dân ngoại xứ Canaan. Đối với người Do Thái, dân ngoại là xấu. Người Canaan, kẻ thù truyền kiếp của tổ tiên người Do Thái, còn xấu hơn nữa. “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Chúa Giêsu đã sử dụng phong tục và lối nói quen thuộc của người Do Thái để so sánh những người dân ngoại giống như chó. Xã hội Do Thái thời xưa không cưng chiều và quý trọng chó như xã hội tây phương thời nay. Gọi ai bằng chó là một điều sỉ nhục. Vì chó liếm những vết ghẻ chốc, và mang bệnh truyền nhiễm như trong câu chuyện người phú hộ và ông Ladarô.
Theo William Barclay, bởi lòng kiêu căng, người Do Thái đã gọi dân ngoại là “những con chó ngoại đạo”, “những con chó vô tín ngưỡng”. Sau này họ gọi những người theo Kitô giáo là “những con chó Kiô hữu”. Một sự diễn tả đầy khinh bỉ! Trong cuốn tự thuật của Mahatma Gandhi, vị thánh của người An Độ giáo, ông kể lại rằng trong thời gian còn là học sinh, ông đã đọc Phúc Am và nhìn thấy trong những lời giảng dạy của Chúa Giêsu câu trả lời cho vấn nạn lớn lao của người dân An Độ phải giải quyết với chế độ đẳng cấp. Đang khi suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh về đức tin Kitô giáo, một buổi sáng Chúa nhật, Gandhi bước vào nhà thờ với ý định sẽ bàn thảo với mục sư về tư tưởng của mình. Tuy nhiên, vừa bước vào trong nhà thờ, người dẫn chỗ ngồi đã từ khước không tìm chỗ và đề nghị ông nên bước ra ngoài đi đến nhà thờ dành riêng cho giai cấp của ông. Gandhi đã bỏ nhà thờ và không bao giờ trở lại nữa. Sau này ông nói: “Nếu những người Kitô hữu cũng có những đẳng cấp khác nhau, thì tốt hơn tôi nên ở lại với An Độ giáo”. Vì sự kỳ thị và phân biệt mà người đàn bà Canaan và ông Gandhi đã bị loại trừ. Nhưng Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho mọi người nhìn thấy rằng ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa vượt qua tất cả mọi hàng rào ranh giới của con người dựng nên.
Người ta kể về một người đàn bà ở bãi biển. Bà ấy vừa già, lại dơ bẩn và ăn mặc dị hợm. Bà đi bộ lang thang dọc theo bờ biển, thỉnh thoảng ngừng lại cúi xuống nhặt một cái gì đó bỏ vào trong túi sách. Khi bà đi ngang qua đám trẻ con đang đùa vui trên cát biển, cha mẹ của những em bé này liền gọi các em lại để khỏi gần gũi với bà. Họ lo lắng và sợ hãi vì không biết bà có thể làm điều gì gây nguy hại cho các em. Họ căn dặn con cái: “Không có việc gì phải liên hệ với bà ta cả”. Sau này, họ khám phá thấy rằng bà lão đi dọc theo bờ biển và nhặt những miếng kính vỡ bỏ vào trong túi xách để trẻ em không bị đứt chân chảy máu khi chạy vui đùa trên bãi biển.
Nếu chúng ta bước theo Chúa Giêsu, chúng ta phải sẵn sàng dẹp bỏ những hàng rào ngăn cách. Điều này được thể hiện bằng thái độ nhìn tất cả mọi người bình đẳng như nhau, không còn phân biệt kỳ thị nam nữ, giàu nghèo, sắc tộc, màu da, hay tôn giáo. Và trong ánh sáng đức tin, phải nhìn mọi người là anh chị em của mình, là con cái của Chúa Cha trên trời. Thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta điều này trong thư gửi tín hữu Galát: “Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô”.
Đối với những người ngoài Kitô giáo, trong tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, Nostra Aetate, đoạn 5, Công Đồng Vatican II đã nói: “Chúng ta không thể kêu cầu Thiên Chúa là Cha mọi người nếu chúng ta không muốn xử sự như anh em đối với một số người, cũng được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Liên lạc giữa con người với Thiên Chúa là Cha và giữa con người với anh em mình, có liên quan mật thiết với nhau như lời Thánh Kinh: “Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa”.
Do đó, mọi lý thuyết hay hành động đưa đến kỳ thị về phẩm giá con người và những quyền lợi do phẩm giá đó mà ra, kỳ thị giữa con người với nhau, giữa dân này với dân khác, sẽ không có nền tảng.
Vì thế, Giáo Hội bác bỏ mọi sự kỳ thị hoặc đàn áp chủng tộc hay màu da, giai cấp hay tôn giáo, vì thái độ ấy xa lạ với tinh thần Chúa Kitô. Do đó, thánh Công đồng theo chân thánh Phêrô và Phaolô, khẩn thiết kêu mời các Kitô hữu: “Hãy sống ngay lành giữa người lương dân”, nếu có thể được, tuỳ khả năng mà sống hoà thuận với hết mọi người như những người con một Cha trên trời”.
Đối với những người Kitô hữu, trong tinh thần hiệp nhất, Công đồng nói: “Thánh công đồng này khuyến khích tất cả mọi người Công giáo hãy nhận ra các dấu chỉ thời đại để khéo léo tham gia vào công cuộc hiệp nhất”.
Đối với những anh chị em ly khai, Công đồng Vatican II nói: “Người Công giáo cần phải vui mừng nhìn nhận tôn trọng những giá trị thật sự Kitô giáo, xuất phát từ cùng một gia sản chung được tìm thấy nơi các anh em ly khai. Nhìn nhận những kho tàng phong phú của Chúa Kitô và những hoạt động của quyền lực Người trong đời sống của những kẻ đang làm chứng về Người – và có khi phải đổ máu mới nói lên được chứng tá ấy – quả là chính đáng và có giá trị cứu rỗi: vì Thiên Chúa luôn đáng khâm phục và việc Người làm bao giờ cũng kỳ diệu”.
Nhìn vào tấm gương của người đàn bà Canaan, chúng ta cũng rút ra được bài học quý giá trong đời sống đức tin. Với tình yêu lớn lao của một người mẹ đối với con gái đang đau nặng, người đàn bà Canaan đã vượt qua mọi ranh giới kỳ thị của xã hội – đàn bà và dân ngoại – để kiên trì tin tưởng vào lòng nhân lành của Chúa Giêsu. Tình yêu là động lực dẫn đến đức tin.
Trong cuốn truyện “Anh em nhà Karamazốp”, Dostoevski kể về câu chuyện của một bà lão đang bị khủng hoảng về tinh thần và thể lý. Ngày nọ bà đến bàn luận vấn đề này với linh mục Zossima. Bà tâm sự về sự yếu kém của đức tin, cùng nỗi nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa và đời sống mai sau.
Linh mục Zossima thông cảm lắng nghe, rồi khuyên bà rằng chẳng có cách nào minh chứng rõ ràng về những điều này, nhưng vẫn có thể làm cho đức tin của bà chắc chắn hơn bằng tình yêu thương tha nhân. Hãy cố gắng yêu người láng giềng cho thật tình. Càng yêu thương, bà sẽ càng tin tưởng chắc chắn hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về đời sống sau khi chết. Càng yêu mến, đức tin của bà càng trở nên mạnh mẽ, và làm tiêu tan hết những nỗi nghi ngờ. Bà đã thử nghiệm và thấy có kết quả.
Linh mục Mark Link S.J., trong bài giảng Chúa nhật XX hôm nay, đã ví tình yêu và đức tin đi đôi với nhau không khác gì như hai đường rầy xe lửa. Tìm được cái này sẽ thấy cái kia. Đức tin và tình yêu liên kết với nhau như xác với hồn. Cha cũng dùng lời của bác sĩ truyền giáo Albert Schweitzer, trong cuốn sách có nhan đề “Reverence for Life” – “Kính trọng Cuộc Sống” như sau:
“Bạn có muốn tin vào Chúa Giêsu không? Bạn có thực sự muốn tin Ngài không? Như thế bạn phải làm một điều gì đó cho Ngài. Trong thời buổi đầy ngờ vực này thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà các bạn cho kẻ khác đồ ăn, nước uống hoặc áo mặc, những nghĩa cử này Chúa Giêsu đã hứa chúc phúc như là làm cho chính Ngài, thì lúc đó bạn sẽ thấy rằng mình đã thực sự làm điều ấy cho Ngài. Chúa Giêsu sẽ mặc khải chính Ngài cho bạn như thể Ngài là một người vẫn còn sống”.
Các bậc cha mẹ cần củng cố đức tin hãy bắt chước người đàn bà Canaan, đến với Chúa Giêsu với lòng yêu thương con cái tha thiết. Và tất cả mọi người, muốn cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, hãy mở rộng tâm hồn để chấp nhận những người anh chị em không cùng tôn giáo, lập trường chính trị, văn hoá, sắc tộc hay ngôn ngữ. Bởi “Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa”.
Cuộc sống hiện tại có quá nhiều đòi hỏi làm chúng ta đến mệt và không biết làm thế nào để bổ sung lại sức lực của chúng ta. Trong thế giới chúng ta đang sống tiến triển quá nhanh, những bổn phận về gia đình, công ăn việc làm và cộng đồng của chúng ta đặt ra nhiều đòi hỏi nặng nề trên chúng ta.
Hãy thử nghĩ lại coi đã bao lâu rồi chúng ta có được một buổi tối êm đềm thảnh thơi không làm gì cả. Một buổi tối thong thả; một buổi tối chỉ ngồi đấy mà thôi; một buổi tối để chỉ cho mình ta mà thôi. Nhiều người trong chúng ta chắc không thể nhớ được buổi tối như thế nữa rồi. Ngay khi chúng ta về nhà, thì đã có tất cả mọi điều chúng ta phải làm trong tâm trí chúng ta rồi. Và bạn ngồi xuống và cảm thấy bối rối vì bạn đã không làm gì cả.
Tại San Francisco, một nhà quàn quảng cáo phía trước nhà: “Tại sao lại phải đi vòng quanh, những kẻ gần chết, khi mà chúng tôi có thể chôn cất bạn chỉ tốn có 98 đồng mà thôi?” Đấy đúng là một bảng quảng cáo oái oăm sắc bén, bởi vì rất nhiều người trong những ngày gần đây sẵn sàng đón nhận lời đề nghị này. Thế nhưng còn một cách thức hay hơn để hỏi câu hỏi này. Và những ký giả Thánh Kinh, mỗi người trong chính cách thức riêng, hỏi đi hỏi lại chúng ta: “Tại sao bạn lại đi vòng quanh, những kẻ sắp chết, khi mà có phương pháp bổ sung sức mạnh của bạn?” Các bạn coi, một phần trong Tin Mừng Kinh Thánh chính là Thiên Chúa không chỉ tạo dựng chúng ta rồi bỏ rơi chúng ta. Thiên Chúa Đấng tạo dựng chúng ta thì luôn luôn ở với ta, luôn luôn củng cố sức mạnh cho chúng ta thực thi những gì cần được thực hiện.
Kinh nghiệm tôn giáo chân chính khởi đầu từ với ý thức quan trọng và tuyệt diệu về Sự Hiện Hữu của Thiên Chúa Hằng Sống. Thế nhưng rất thông thường nó đi đến chỗ thói quen. Người ta thấy chính họ máy móc đọc đi đọc lại cùng những lời kinh, hát cùng những bài ca và làm cho có lệ cùng những nghi thức cho đến lúc kinh nghiệm tôn giáo trở nên vô hồn và Thiên Chúa Hằng Sống không còn cảm thấy như là thực sự nữa. Đấy chính là những gì đang xảy ra cho nhiều người trong chúng ta. Chúng ta mất đi ý thức tuyệt diệu về Sự Hiện Hữu của Thiên Chúa Hằng Sống. Và bởi vì cảm nghiệm của ta về Thiên Chúa Hằng Sống trở nên lỗi thời han rỉ, chúng ta trở nên lỗi thời han rỉ về thiêng liêng.
Chúng ta hãy nhìn xem cuộc đời của nhà bác học Hoa Kỳ, George Washington Carver, người đã cách mạng hoá nông nghiệp của Miền Nam. Carver, với nhiều việc vĩ đại khác, đã phát minh ra hơn 300 sản phẩm khác nhau từ đỗ lạc, và 75 sản phẩm từ quả hồ đào. Nhà bác học Carver thức dậy mỗi buổi sáng và quỳ cầu nguyện. Và chủ đề cho lời kinh nguyện của ông luôn chỉ là những lời này: “Chú Ý!” Hãy lắng nghe Thiên Chúa đang nói! “Chú Ý! Nhìn coi có thấy gì? Sự vật mới gì?” Một lần, khi ông có cuộc kết hiệp này với Thiên Chúa, ông có một củ khoai lang trong tay. Và Thiên Chúa nói, “Hãy chú ý, George Washington Carver, con có gì hả?” Ông trả lời, “Lạy Chúa, một củ khoai lang.” Và Thiên Chúa nói, “Con có thể làm gì với nó?” “Con có thể bỏ lò nướng nó, chiên nó, và có thể giằm nát nó ra.” “Con còn có thể làm gì với nó nữa, George Washington Carver? Hãy chú ý!” Và ông đi đến chỗ suy tư và tự hỏi. Nếu các bạn đến viếng thăm Tuskegee Institute tại tiểu bang Alabama, họ sẽ chỉ cho bạn thấy những mẫu thử của 118 cách thức được sử dụng từ khoai lang thông thường. Và tất cả bởi vì ông đã sống với tinh thần cầu nguyện công khai để củng cố sức mạnh trước Sự Hiện Diện của Thiên Chúa Hằng Sống.
Thiên Chúa chúng ta chính là Thiên Chúa Hằng Sống. Ngài không bao giờ ngừng và nói với ta: “Giờ đây chúng ta đã hoàn thành!” Nó luôn luôn chính là chuyển động tiến tới trong tương lai. Nó luôn luôn chính là Sự Hiện Diện của Ngài với chúng ta tại lúc này, đang làm một sự vật gì đó mới mẻ. Chúng ta có thể đang trong vực thẳm của sự thất vọng, và chúng ta có thể cảm thấy mình đang bị khuất phục, thế nhưng Thiên Chúa tiến vào, và ánh sáng đã rọi chiếu qua, và niềm hy vọng cũng như sức mạnh cùng với việc cứu chữa đã đến.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, một người phụ nữ xin Chúa Giêsu giúp đỡ. “Xin hãy thương đến tôi, Lạy Ngài, Con Vua Đavít,” bà nài nỉ. “Con gái tôi bị quỉ ám dữ dội” (Mt 15:22). Các môn đệ cố đẩy bà ra xa nhưng bà không quản ngại và gan lì kêu to hơn. Bà quỳ lạy trước Chúa Giêsu, và nói, “Lạy Ngài, xin hãy thương giúp tôi!” Tâm hồn bà đã mở rộng cho Sự Hiện Diện quyền năng của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Bà tin rằng Thiên Chúa sẽ tiến vào và sự cứu chữa sẽ đến. Rồi bà nghe câu trả lời của Chúa Giêsu: “Hỡi bà, đức tin bà thật vĩ đại!” (Mt 15:28). Và con gái bà đã được chữa lành ngay lập tức.
Nếu các bạn cảm thấy tinh thần của mình bị giảm sút trong những ngày này, hãy mở rộng tâm trí và linh hồn các bạn cho Sự Hiện Hiện quyền năng của Thiên Chúa Hằng Sống trong Chúa Giêsu Kitô. Những kẻ sắp chết, tại sao phải đi vòng quanh, khi mà có một phương thế bổ sung sức mạnh các bạn? Hãy thưa với Chúa Giêsu, “Lạy Chúa, xin hãy thương giúp con! Xin giúp con cảm nghiệm sự hiện diện quyền năng của Chúa!”
Khi “lũ chó con” được đồng bàn với chủ…
Thời Chúa Giêsu, Tia và Xiđon- ngày nay là miền nam Libăng, được xem là miền đất dân ngoại. Vì thế, việc Chúa Giêsu và các môn đệ lui về đây không chỉ để tránh tai mắt của nhóm Biệt phái hay tránh sự cuồng nhiệt của dân chúng muốn tôn Ngài làm vua ngay sau sự kiện hoá bánh ra nhiều (x. Ga 6, 15), mà còn mang một ý nghĩa thần học theo dụng ý của tác giả Mátthêu. Theo đó, ơn cứu độ lẽ ra chỉ dành cho Israel, nhưng vì họ từ chối, thì nay ơn cứu độ đó được mang đến cho dân ngoại mà người phụ nữ Canaan là một đại diện.
Nói đến Canaan, không người Dothái nào lại không biết đến mảnh đất mà cha ông họ đã chiếm làm lãnh thổ cho riêng mình. Miền đất này được xem là miền đất hứa, miền đất của sữa và mật, vì thế, để chiếm được nó, người Dothái phải đổ không ít xương máu mới có được. Chính vì thế, nói đến miền đất Canaan và con người Canaan là không chỉ nói về một chiến tích, nói về một thời hào hùng của dân tộc mà còn nói đến một mối thù “truyền kiếp” giữa hai dân tộc. Người Dothái vốn xem người Canaan là dân ngoại, là những kẻ dơ bẩn cần phải tránh xa bao có thể. Sự khinh thường này đôi khi thái quá và làm cho hố ngăn cách ngày càng thêm sâu đậm khó có thể hoà giải một sớm một chiều. Sự kiện người phụ nữ Canaan đến gặp Chúa Giêsu và các môn đệ cũng không nằm ngoài hố ngăn cách này.
Trước khi đến gặp Chúa Giêsu, chắc hẳn người phụ nữ Canaan đã lường trước những thách đố mà mình sẽ gặp khi “chạm trán” với những người mà bà biết họ chẳng ưa thích gì khi có sự hiện diện của mình. Nhưng biết làm sao được. Bởi động cơ dẫn lối đưa đường bà đến gặp Chúa Giêsu chính là cô con gái yêu quý của bà đang ngày đêm khổ sở vì bị quỷ ám. Vì tình mẫu tử, bà đã vượt qua mọi cản ngăn để đến gặp Chúa Giêsu với hy vọng Người sẽ cứu giúp con bà.
“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm”. Không một lời lên tiếng. Im lặng bao trùm. Quả đúng như những gì bà đã lường trước. Người bà đang cần sự giúp đỡ chẳng mặn mà gì. Sự im lặng của Người đến khó hiểu. Còn các môn đệ của Chúa Giêsu xem ra cũng khó chịu khi có sự hiện diện của bà, nên không ngừng hối thúc Thầy mình đuổi bà ấy về cho khỏi chướng tai gai mắt. Mặc dù vậy, người phụ nữ Canaan vẫn kiên trì. Bà biết mình phải làm gì trong trường hợp không lấy gì làm dễ chịu này.
“Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Tiếng bà lại vang lên khi toàn thân bà phục xuống bái lạy Chúa Giêsu với hy vọng Người sẽ đoái thương. Phủ phàng thay, câu trả lời của Chúa Giêsu, vô hình trung, như gáo nước lạnh giữa trời đông xối vào mặt bà. “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Cho đến lúc này, Chúa Giêsu vẫn trung thành với điều mà Người đã nói trong lúc khai mạc sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Theo đó, sứ mệnh của Người chỉ dành cho “con chiên lạc nhà Israel” mà thôi. Vì thế, câu nói của Chúa Giêsu xem ra sỗ sàng, khiến người khác phật lòng nhưng lại nói lên lòng mong mỏi của Người dành cho nhà Israel.
Liên tiếp phải hứng chịu sự thật phủ phàng, người phụ nữ Canaan không mảy may dao động hoặc tức giận tháo lui. Trái lại, bà còn dùng ngay chính sự thật phủ phàng này để trả lời Chúa Giêsu một cách hết sức khôn khéo và tế nhị. “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Thưa bà Canaan! Chúng tôi không biết tên bà. Nhưng có thể tên bà là đại diện cho một dân tộc hay đại diện cho toàn khối dân ngoại. Câu nói của bà không chỉ là câu nói hay nhất, tế nhị và khôn khéo nhất mà còn là một lời tuyên xưng niềm tin của bà đối với người mà bà đang đối diện. Chính niềm tin mãnh liệt của bà đã làm cho Chúa Giêsu kinh ngạc nếu không nói nó gây nên một cú xốc cho Người. Thưa bà Canaan! Với niềm tin mãnh liệt, bà đã thắng Thiên Chúa.
“Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Lời của Chúa Giêsu không chỉ là lời tán thưởng, lời ban bình an và xua đuổi tà thần mà còn là lời xoá đi mọi trở ngăn, mọi thứ lề luật nhỏ nhen thấp hèn do con người tạo nên. Từ đây, nhờ niềm tin, người phụ nữ Canaan – một hạng dân ngoại, một kẻ dơ bẩn được Thiên Chúa đón nhận, cho làm bạn nghĩa thiết với Người. Niềm tin mãnh liệt đó đã làm cho bà trở nên người đáng được tôn vinh, làm cho bà từ một khách lạ trở thành người nhà của Thiên Chúa và còn hơn thế nữa, từ nay “lũ chó con” kia được đồng bàn với chủ, được hưởng mọi ân lộc của chủ, được hưởng ơn cứu độ chứ không phải chỉ ăn những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống.
Người phụ nữ Canaan là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Chính đức tin của bà làm cho mỗi người chúng ta phản tỉnh. Với những gì mà người phụ nữ Canaan đã làm, chúng ta hãy xem chúng ta đang ở đâu trong bàn tiệc Thiên Chúa, trong Giáo Hội và trong lòng nhân loại?
(Suy niệm của Lm. Đinh Quang Vinh)
Sau buổi cơm chiều, vị linh mục già với tràng chuỗi trên tay đang gõ đều những nhịp chân trên dãy hành lang của nhà xứ. Bỗng một loạt chuông dài từ phía cổng vang lên, không chút đắn đo, vị linh mục tiến về cổng chính. Cánh cửa bật mở, một khuôn mặt thật tiều tụy xuất hiện, kèm theo lời kêu cứu: “Linh mục ơi! Xin cứu gia đình con với”; với giọng ôn tồn ngài nói: “Mời chị vào phòng khách, có điều chi hãy từ từ giải bày”.
Đón lấy ly nước mát lạnh từ tay ngài, người phụ nữ chỉ nhấp đôi chút và vội vàng cất tiếng với giọng nói thật thống thiết: “thưa linh mục, xin ngài cứu gia đình con với, xin cứu người chồng đáng thương của con. Anh ấy ngã bệnh đã hai năm nay, con đã cố gắng hết sức mình, ngay cả gia tư vốn liếng con cũng chẳng tiếc chi. Nhưng cho đến nay, mọi chuyện như muối đổ bể: bệnh tình của nhà con chẳng đỡ chút nào, còn gia đình con thì lại rơi vào khánh kiệt”. “Vậy giờ đây chị muốn tôi giúp gì cho chị? Chị cứ nói, trong khả năng của tôi, tôi xin sẵn sàng giúp chị”, vị linh mục cất tiếng nói. Xúc động bởi sự chân tình của vị linh mục trong tiếng nghẹn ngào chị ta bộc bạch: “thưa linh mục, gia đình con là gia đình cách mạng, chúng con là những đảng viên, tuy chúng con không biết về Chúa, cũng chẳng quen biết linh mục, nhưng nhờ những người hàng xóm Công Giáo gần nhà giới thiệu, cho nên con mạnh dạn đến đây để nhờ linh mục cầu nguyện cho nhà con qua khỏi cơn nguy biến này”. Vẫn với giọng nói thật chân tình, vị linh mục hỏi: “Chị tin vào lời cầu nguyện của tôi ư?” chị đáp lời: “Thưa linh mục, giờ con biết làm gì hơn ngoài điều này; vả lại có tin con mới đến đây để cậy nhờ linh mục”. “Thế thì chị hãy an tâm, tôi hứa ngay từ chiều hôm nay sẽ cầu nguyện cho chồng của chị”. Cảm động bởi tấm lòng cao thượng của vị linh mục, chị ta còn chỉ biết tạ ơn và cáo biệt ngài ra về cho kịp chuyến xe chiều. Hai tháng sau, người phụ nữ ấy trở lại với người chồng của mình để tạ ơn vị linh mục. Và cũng từ đó khơi mào cho hành trình niềm tin của hai vợ chồng.
Câu chuyện trên đây cũng phần nào diễn tả Lời Chúa ngày hôm nay: Niềm tin của người phụ nữ xứ Canaan. Người phụ nữ ấy đã tin vào Đức Giêsu Kitô: Lạy Ngài là Con Vua Đavít (Mt 15,22); dẫu chỉ nghe nói về Ngài qua những người chung quanh. Niềm tin ấy được diễn tả ngày càng mạnh mẽ, nhất là khi Đức Kitô nói với chị ta: “không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (c.26). Đáp lời Ngài, chị ta nói: “thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Đây phải chăng là lời vặn vẹo hay tranh luận với Chúa Giêsu? Thưa không, lời nói của chị đượm nét khẩn cầu của một kẻ đầy lòng khiêm nhường, cúi mình trước Đấng Tối Cao; chính câu trả lời của chị như thêm một lần nữa xác tín niềm tin của mình vào Con Vua Đavít, vì chị tin rằng Ngài luôn thương đến những kẻ mọn hèn, dẫu cho là những chú “chó con” (ngôn từ mà người Do Thái thời xưa dùng để ám chỉ dân ngoại). Đọc được những tâm tình sâu thẳm ấy, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương và chữa lành cho con gái chị.
Lời Chúa hôm nay còn muốn diễn tả sứ vụ của Đức Kitô: Được sai đến với những chiên lạc nhà Israel (c.24). Thực vậy, có những con chiên mà đôi lúc do những hiểu lầm hoặc chưa được nghe Lời Chúa đã không ở trong một đàn. Trong và qua Tình Yêu Thập Tự Đức Kitô đã muốn quy tụ tất cả về trong một đàn chiên duy nhất, sống sự hiệp thông, tình yêu, bình an; Ngài muốn dẫn đưa tất cả chúng ta lên Núi Thánh Ngài (Is 56,7). Sứ vụ ấy được ủy thác lại cho các Tông Đồ khi Ngài về trời, và cho chính mỗi người chúng ta, những thành phần của Hội Thánh (Đến với muôn dân, 2).
Trăn trở trước sứ vụ thật cao cả ấy, đôi lúc chúng ta cũng tự đặt câu hỏi cho mình: “Đâu là cách thế để loan báo Tin Mừng cho thế giới ngày nay?”. Tôi muốn mượn lời của ĐGH Gioan Phaolô VI để trả lời cho vấn nạn này: “Người đương thời sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là những thầy dạy”, thế nên “Tin Mừng trước tiên phải được công bố bằng cách làm chứng, một đời sống làm chứng bao hàm sự hiện diện, chia sẻ, liên đới” (Loan báo Tin Mừng, 21;41).
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta những bài học quý giá. Qua hình ảnh người phụ nữ xứ Canaan ta học được bài học về sống niềm tin. Chính niềm tin hun đúc và giúp chúng ta bước đi cách vững chắc trong hành trình hướng về quê trời, dẫu cho hành trình đó còn vương đầy sỏi đá; chính lối sống tín thác vào Đức Kitô, khiến ta trở thành những chứng nhân sống động của Tin Mừng, của tình yêu: rao giảng không những bằng lời nói, nhưng còn bằng chính đời sống. Thiết nghĩ khi thực thi được những điều đó ta đã thực thi phần nào sứ mạng mà Chúa uỷ thác cho mỗi người chúng ta.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Chuyện kể rằng: một em bé vâng lời mẹ xách giỏ ra tiệm tạp hóa. Em cẩn thận đọc cho người bán hàng tên của từng món đồ mà mẹ em đã ghi trên mảnh giấy. Người bán hàng nhìn em và để ý theo dõi từng cử chỉ cẩn thận của em một cách thích thú.
Sau khi đã xếp gọn các món vào giỏ cho em, ông dẫn em đến trước cái hộp đầy kẹo. Vừa mở nắp hộp ông vừa bảo em thò tay vào lấy kẹo. Em bé vui mừng rút ra một viên kẹo. Người bán hàng bèn khích lệ em và nói:
– Cháu hãy bốc cho đầy lòng bàn tay của cháu đi.
Em bé mỉm cười đáp:
– Vậy ông hãy bốc kẹo giùm con.
Người bán hàng ngạc nhiên hỏi:
– Tại sao vậy?
Em bé dí dỏm trả lời:
– Tại vì bàn tay của ông lớn hơn bàn tay của con rất nhiều.
***
Như em bé nhìn nhận cái bé nhỏ của mình trước sự lớn lao của người khác, nên đã được ban cho dư đầy, thì người đàn bà ngoại giáo xứ Canaan cũng khiêm tốn nhận mình nhỏ bé như “chó con” được ăn “những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Bà còn hết lòng tin tưởng vào bàn tay lớn lao quyền phép của Thiên Chúa, nên bà xứng đáng lãnh nhận hồng ân cao cả, là con bà tức thì được chữa khỏi quỉ ám.
Đó chính là thái độ cần phải có khi cầu nguyện.
Chỉ có những lời cầu nguyện khiêm tốn, nhận mình là không và Chúa là tất cả, chẳng đòi hỏi gì mà chỉ trông đợi lòng thương xót Chúa, mới là những lời cầu nguyện đẹp nhất.
Chỉ có những lời cầu nguyện kiên trì, không bao giờ thất vọng nản chí cả khi Chúa xem ra như bỏ quên, như chối từ, mới là những lời cầu nguyện phát sinh sức mạnh.
Sức mạnh của lời cầu nguyện chính là đức tin. Sau khi đã chối từ lời cầu xin của người đàn bà ngoại giáo với lý do chính đáng: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel”, thậm chí Người còn nặng lời với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Thế mà Đức Giêsu, cuối cùng đã để bà chinh phục: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Đứng trước lòng khiêm tốn, kiên trì và phó thác, Thiên Chúa sẽ không nỡ chối từ. Đức Giêsu không những đã ban cho người đàn bà được thỏa lòng mong ước mà còn công khai khen ngợi đức tin mạnh mẽ của bà trước các môn đệ.
Nếu Đức Giêsu đã không tiếc lời khen ngợi đức tin của người đàn bà ngoại giáo, hẳn là Người muốn đưa ra một mẫu gương khi cầu nguyện: khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.
Nếu người đàn bà ngoại giáo cầu xin mà cũng được nhận lời, thì chứng tỏ Chúa không bị giới hạn trong phạm vi Giáo Hội, mà Người muốn ban ơn cho ai là tùy ý Người.
Có thể nói, đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa, vì thế, nhà toán học kiêm triết gia Pascal đã nói: “Để có đức tin, con người phải quỳ gối cầu xin”. Cầu xin là nhìn nhận Chúa là tất cả, là đặt thánh ý Chúa trên hết, là nhận biết mình yếu đuối, và chỉ cậy trông một mình Người mà thôi.
***
Lạy Chúa, có ai khiêm tốn cầu xin mà Chúa chẳng nhận lời, có ai kiên trì phó thác mà chúa chẳng ban ơn. Xin thêm Đức Tin cho chúng con, để chúng con luôn tin tưởng cả khi Chúa xem ra như thinh lặng, để chúng con cậy trông cả khi cuộc đời không mỉm cười với chúng con. Vì chúng con tin chắc rằng cuối cùng Chúa vẫn luôn chọn phần tốt nhất cho chúng con. Amen.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay rất lạ lùng,và đối với chúng ta, cũng rất quen thuộc. Nó thuật lại một cuộc gặp gỡ một người đi xin xỏ. Thật vậy, người đàn bà Canaan không xin tiền bạc. Nhưng bà đi xin một ân huệ. Có những lúc, chúng ta gặp những người ăn xin, hoặc ở nơi bậc cửa nhà mình hoặc trên đường phố. Người ta tự hỏi Đức Giêsu xử sự ra sao trong những hoàn cảnh như thế.
Đức Giêsu đã cùng các môn đệ lui về miền Tia và Xiđon, đó là miền đất của dân ngoại. Dường như Người lui về đó để nghỉ ngơi. Tuy nhiên, ngay sau khi đến đó có một người đàn bà đi theo quấy rầy Người, xin Người chữa lành cho con gái của bà.
Phản ứng của chúng ta thế nào, khi chúng ta gặp một người nào đó xin xỏ? Tôi nghĩ rằng ít người trong chúng ta từ chịu bố thí, mà được như thế thì quá tốt. Thông thường chúng ta từ chối giúp người khác. Chúng ta biện minh sở dĩ chúng ta không có khả năng và tốt hơn hết là không cho họ thứ gì bởi vì khi cho, chúng ta nuôi dưỡng tâm lý xin xỏ, dựa giẫm, ỷ lại.
Tuy nhiên, chúng ta có thể rút ra một niềm an ủi từ bài Tin Mừng hôm nay. Phản ứng của các Tông đồ không khác phản ứng của chúng ta. Đối với họ, người đàn bà Canaan là một kẻ quấy rầy, phiền nhiễu. Họ chỉ muốn Đức Giêsu tống khứ bà ấy càng nhanh càng tốt.
Dĩ nhiên, phản ứng của Đức Giêsu làm chúng ta ngạc nhiên. Trước hết, Người không biết bà ấy. Vì thế, Người từ chối bà và cố gắng thoái thác. Tuy nhiên bà là một phụ nữ có rất nhiều quyết tâm và không chịu chấp nhận một câu trả lời không. Sau cùng, Người phải thỏa mãn lời cầu xin của bà.
Từ đó, người ra rút ra điều gì: chúng ta sợ tiếng kêu của người nghèo. Gặp gỡ với một người ăn xin có thể là một kinh nghiệm quấy rầy phiền nhiễu. Nó có thể làm lộ ra những điều đáng ghét trong chúng ta. Nó làm nổi lên trong chúng ta những cảm giác mâu thuẫn về lòng thương xót, bực bội, tức giận và phạm tội. Chúng ta ghét điều mà chúng ta khám phá về mình. Và nếu không thận trọng, chúng ta có thể hướng lòng thù hận về người nghèo bất hạnh đã dám đến gần chúng ta.
Gặp gỡ một người nghèo có thể là một kinh nghiệm làm người ta khiêm nhường bởi lẽ nó làm chúng ta nhận ra sự nghèo nàn của chính chúng ta. Chúng ta nhận thức rằng trong lúc người ăn xin nghèo nàn về mặt vật chất, thì chúng ta nghèo nàn trong một ý nghĩa khác. Chúng ta nghèo nàn lòng thương xót, nghèo nàn sự sẵn sàng giúp nghèo nàn lòng thương xót, nghèo nàn sự xẵng sàng giúp đỡ một người khác, nghèo nàn khả năng yêu thương.
Tuy nhiên, dù gặp gỡ một người nghèo có thể làm phiền chúng ta, nó cũng có thể sinh ra ích lợi. Qua người nghèo, chúng ta khám phá sự yếu đuối và thương tật của chúng ta mà xét cho cùng, chúng ta là như thế. Điều đó có nghĩa là chúng ta không nên đeo mặt nạ và gán cho mình điều mình không có. Có như thế, chúng ta mới đạt đến sự giải phóng nội tâm sâu xa. Nó đặt chúng ta vào sự tiếp xúc với sự thật về chính mình.
Gặp gỡ ấy cũng có thể làm thức tỉnh và bộc lộ tâm hồn. Nó có thể đánh thức trong chúng ta cảm giác dịu dàng và thương xót, nhân từ và hiệp thông. Nó cho chúng ta thấy có thể hiện hữu nhiều hơn, yêu thương nhiều hơn, và dâng hiến chính mình nhiều hơn. Nó có thể thay đổi chúng ta. Nó phát huy chúng ta và kêu gọi chúng ta đến với nhân loại. Vì thế nó có thể dẫn đến một sự bắt đầu mới.
Và nó nhắc nhở chúng ta rằng trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều nghèo. Vị linh mục cầu nguyện trong thánh lể với đôi tay dang rộng. Cầu nguyện trong thánh lễ với đôi tay dang rộng. Cầu nguyện như thế là biết rằng trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đều nghèo và chúng ta đặt như cầu hàng ngày của chúng ta vào lòng thương xót và tình yêu của Người. Vì thế chúng ta như người ăn mày đưa cái bát trống rỗng cho những khác qua đường. Thực tế chúng ta đã nói: “Lạy Chúa, trước mặt Ngài, con nghèo nàn như một người hành khất”.
Đến viếng mộ cha Trương Bửu Diệp ở Tắc Sậy, Cà Mau, hay toà thánh Martin ở nhà thờ Ba Chuông, Sàigòn, người ta thấy những tấm bảng đá gắn đầy tường. Phần đông người tạ ơn đề tên gọi, không có tên thánh, chứng tỏ người lương được ơn cứu giúp nhiều hơn người Công giáo.
Tại sao vậy?
Chúng ta thật khó trả lời. Có lẽ câu trả lời của ta là: Ta đã được nhiều ơn Chúa rồi. Còn họ bây giờ mới được! Có lẽ Chúa muốn lôi cuốn họ trở về với Chúa, nên cho họ được ơn cứu giúp rõ ràng.
Không, đó là câu trả lời của ta, ngầm chứa một sự tự phụ, một sự bào chữa, cho mình là hơn người ngoại.
Chỉ có Chúa mới trả lời thật chính xác: “Lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao được vậy, ngay lúc đó con bà được khỏi quỷ ám” (Mt. 15,18). Thế là quá rõ: họ được ơn cứu giúp chính vì họ có lòng tin mạnh thật. Còn ta, ta không được ơn cứu giúp, vì ta kém lòng tin, không xứng đáng nhận được ơn Chúa.
Ơn Chúa dồi dào cho mọi người, như Chúa Giêsu đã nói: “Ta đến cho họ được sống và được sống dồi dào” Người còn giải thích bằng những hình ảnh rất rõ: “Thiên Chúa đã cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ xấu cũng như kẻ tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt. 5, 45).
Ơn Chúa tràn ngập khắp vũ trụ như ánh sáng mặt trời, nhuần thấm cùng cõi trái đất như mưa sa. Công thần Nguyễn Công Trứ ở thời cấm đạo khốc liệt mà còn nhận thấy “Của trời trăng gió kho vô tận” hay: “Của trời muôn sự để chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”. Đúng vậy, của trời thì vô tận chỉ hơn nhau có lòng tin anh hùng mà người này thì được ơn dồi dào, người kia thì không được, chứ không phải mang danh có đạo là được ơn. Tiên tri Isaia đã được Chúa tỏ cho biết rõ: Những người ngoại bang nào gắn bó cùng Chúa, phụng sự và yêu mến danh Người, thì được nên tôi tớ của Người… “Ta sẽ dẫn họ lên núi thánh của Ta và cho họ hân hoan bước vào nhà cầu nguyện của Ta…” (Bài I – Is. 56, 6-7).
Thế là Thiên Chúa không tây vị ai, chỉ nể vì: “Bà có lòng tin mạnh thật”. Đó là lý do chính xác nhất mà Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng.
Lý do thứ hai tuy Chúa Giêsu không nói ra, nhưng sau này Thánh Phaolô đã nêu trong bài đọc II:
“Trước kia anh em không vâng phục Thiên Chúa, nay được xót thương… để cho chính họ cũng được xót thương” (Rm. 15, 30- 31). Họ đây là dân mới có đạo, tức là: dân ngoại đã có lòng tin mạnh mẽ nên được ơn Thiên Chúa thương xót, để cho dân Do Thái, dân đã có đạo lâu đời, thấy mình không được ơn thương xót cứu giúp vì kém lòng tin, nên phải lo có lòng tin mạnh mẽ mới mong được ơn thương xót của Chúa.
Lòng thương xót của Chúa đối với dân ngoại là một đòn bẩy gián tiếp bẩy dân có đạo noi gương lòng tin mạnh thật của dân ngoại, đánh thức lòng tin của ta, khuyến khích ta gia tăng lòng tin thêm mạnh mẽ, mới mong nhận được ơn cứu giúp như bà dân ngoại xứ Canaan.
Lòng tin mạnh thật của bà thế nào?.
Trước nhất, bà cầu nguyện với Đức Giêsu bằng nhận biết Ngài là con vua David: “Lạy Ngài là con vua David”. Người Do Thái mong đợi con vua David đến giải phóng đế quốc hơn là đến cứu độ. Vì thế khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem họ đã hoan hô Ngài như một David chiến thắng dũng tướng Goliad (Mt. 21, 9). Còn bà dân ngoại, bà tin Đức Giêsu là Đấng Cứu thế đến “Đem Tin Mừng cho người khốn khó, ân xá cho kẻ tù đày, cho người đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được tự do, loan báo năm hồng ân của Chúa” (Lc. 4, 18-19). Lòng tin của bà giống như lòng tin của bà góa tại Sarepta thời tiên tri Elisa và Naaman người Syri thời tiên tri Elisa.
Như vậy lòng tin của bà vào lòng thương của Thiên Chúa, chứ không phải vào tài thao lược của một tướng quân như David. Bà kêu khấn: “Xin dủ lòng thương tôi”. Chính vì tin vào lòng thương xót của Chúa, lòng thương không giới hạn, vượt biên giới Israel mà bà đã đến với Đức Giêsu, dù bà biết mình là dân ngoại và dù Người nói chỉ đến với chiên lạc nhà Israel.
Thứ đến, lòng tin mạnh thật của bà tỏ ra rất kiên trì và khiêm tốn. Bà kiên trì cứ theo sau các Ngài đến nỗi môn đệ không thể chịu đựng nổi nữa. Có lẽ các ông đã đuổi bà đi nhiều lần mà không xong, đành phải xin Thầy bảo bà ấy đi đi. Nhưng bà quyết tâm kêu nài bằng được, đến nỗi Ngài phải nặng lời xỉ vả theo thói dân Do Thái khinh bỉ dân ngoại coi họ như chó má: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Bà đang sụp lạy trước mặt Người hơn con chó nằm chực chờ vụn bánh trên bàn chủ rơi xuống, nên không lạ gì bà đã thưa lại: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những vụn bánh trên bàn rơi xuống”. Thật đáng kinh ngạc! Không ai trong dân Israel hay dân có đạo lại khiêm tốn, hạ mình xuống đến thế trước mặt Ngài.
Lòng tin khiêm tốn mạnh thật của bà đã sai khiến được lòng thương của Thiên Chúa: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được vậy”. Ngay lúc đó con gái của bà được khỏi quỷ ám.
Lạy Chúa, xin cho con biết noi gương lòng tin mạnh mẽ, kiên trì, khiêm tốn sâu thẳm của bà dân ngoại xứ Canaan. Con đã quá quen với ơn phúc tràn đầy của Chúa, đúng là “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Xin đánh thức lòng con biết nhiệt tâm tin mạnh mẽ vào lòng thương xót vô bờ của Chúa, biết luôn luôn sấp mình trước tôn nhân hiền từ của Chúa để van nài: Lạy Chúa, xin cứu con như cứu lấy con bà Canaan xưa khỏi bị khổ sở của quỷ ám.
Glady bị mù từ lúc mới sinh. Vậy mà cô đã nhập trường Đại Học. Cô có thể tìm đường đi bất cứ chỗ nào trong khu vực nhà trường mà không cần ai giúp đỡ, trừ khi cô đi vội vàng. Thế rồi có một cô gái cần giúp đỡ. Một đêm điện bị cúp. Phòng ngủ tối đen như mực. Các cô sờ soạn tìm lối đi, vấp ngã và va chạm ở những dãy hành lang. Nhưng Glady ở đúng trong môi trường của mình. cô sống trong bóng tối luôn mãi nên cô có thể dẫn các bạn của cô an toàn chắc chắn đi mọi chỗ họ muốn tới. Glady thực sự hình thành chính mình đêm đó.
Tin Mừng hôm nay nói về người đàn bà khác gặp cản trở và đã hình thành chính mình khi gặp Chúa Giêsu. Người đàn bà Canaan gặp cản trở vì phải là người Do thái. Bà ấy thuộc về một dân tộc không những là dân ngoại, nhưng từ lâu còn là địch thù của dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Thế mà bà cứ kêu to nài xin cứu chữa con bà bị quỉ ám.
Bà mẹ ở Canaan này là người dân ngoại. Bà ấy biết ít hay không biết gì về Đấng là Thiên Chúa thật. Tuy nhiên, rõ ràng là bà đã nghe biết những phép lạ của Chúa Giêsu, bà lớn tiếng: “Lạy Ngài là con vua David, xin thương xót tôi”. Tóm lại, bà mẹ này không tin rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng bà tin Ngài là một người khác thường và có quyền năng tuyệt vời.
Các môn đệ muốn đuổi bà ấy đi, còn Chúa Giêsu thì thoái thác. Nhưng bà mẹ khôn ngoan và kiên trì này không thất vọng. Bà kêu lớn tiếng: “Lạy Ngài, xin giúp tôi”. Bà ấy biện hộ rằng: bà thỏa mãn với những mảnh bánh vụn chứ không cần phải là được cả năm chiếc bánh. Chúa Giêsu khen ngợi lòng tin của bà và đã chữa lành con gái bà ngay tức khắc.
Cũng có hơn một tỷ người như bà mẹ này trên thế giới. Ngay ở Hoa Kỳ, dù rằng 90% tuyên bố rằng: họ tin vào Thiên Chúa mà chỉ 50% chính thức lưu tâm đến Thiên Chúa. Dĩ nhiên chúng ta phải lưu tâm đến hàng triệu người không được gặp Chúa Kitô. Nhưng tôi muốn làm tiêu tan về cá nhân, như bà mẹ ở Canaan, họ không thuộc về gia đình Thiên Chúa nhưng như bà, họ rộng mở đối với Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài.
Mỗi người chúng ta biết một vài người hay gia đình, một người láng giềng, một người bạn công nhân, một người quen thuộc, xem ra họ ít hay không lưu tâm tới Thiên Chúa. Họ không phải là người xấu đâu. Thực vậy, họ có thể có đức tính tự nhiên trổi vượt, như tính chân thật, sự ân cần. Nhưng họ là nhưng người xa lạ đối với Chúa Kitô.
Chúng ta có thể làm được nhiều điều cho họ, chân thành và đều đặn xin Chúa Kitô lôi kéo họ về cùng Ngài. Các bạn hãy dâng thánh lễ này, hãy nói về họ với Chúa Giêsu khi hiệp lễ, hãy giới thiệu cho họ những sách báo công giáo, hãy mời họ tham dự một vài buổi lễ đặc biệt như lễ Giáng sinh, phục sinh, nhất là các bạn hãy tỏ cho họ thấy rằng: Chúa Kitô có ý nghĩa rất lớn đối với các bạn. Ngài cũng có ý nghĩa rất lớn đối với họ. Ngài đã đổ máu ra vì mọi người. Các bạn đừng đẩy người ngoại đi như các tông đồ làm. Hãy đem họ lại cùng Chúa Kitô.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
(Suy niệm của Lương Văn Liêm – Don Bosco)
Trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô đã nhắc nhở: “Người Do thái muốn nên công chính, nhưng không thực hiện được bởi họ tìm cách nên công chính nhờ luật, những người ngoại họ nên công chính được là vì họ tin” hoặc “Đức tin là bằng chứng cho những gì anh em không thấy, là bảo chứng cho những gì anh em trông đợi”
Quả thật nhờ lòng tin, người đàn bà xứ Canaan cứu được người con gái bà bị quỷ ám đã nhiều năm phải sống trong tình trạng rất khổ sở, đức tin của bà đã được chính Đức Giêsu khen “Bà có lòng tin mạnh thật”. Nhưng lòng tin mạnh mẽ của bà do đâu và vì đâu? Với những suy nghĩ hạn hẹp mình viết lên đôi dòng cảm nghĩ do đâu và vì đâu, mong được sự đóng góp của tất cả các bạn trẻ.
Đức tin mạnh nhờ lắng nghe và đi tìm.
Xứ Canaan là nơi mà người Do thái xưa kia cho là dân ngoại, không hề biết đến Thiên Chúa, nếu có biết thì cũng chỉ thoảng qua. Người đàn bà xứ Canaan chắc chắn không biết Đức Giêsu xuất thân từ đâu và cũng không thể nào biết Đức Giêsu có một quyền năng siêu phàm cải tử hoàn sinh, là thần y chữa bá bệnh để rồi tự tìm đến với Chúa, có phải chăng bà đã nghe những người Do thái truyền miệng cho nhau về Đức Giêsu, từ lắng nghe, bà cất bước đi tìm để rồi những cố gắng của bà đã được toại nguyện. những diều đó đều khởi đi từ Thiên Chúa, Ngài đã gieo vào lòng con người từ khai thiên lập địa, khi con người biết lắng nghe và cất bước đi tìm Ngài sẽ tỏ lộ cho mọi người biết Ngài qua mọi sự việc, biến cố.
Đức tin mạnh khởi đi từ tình yêu.
Vào thời cựu ước ông Áp-ra-ham đã yêu mến Đức Chúa hết lòng và khởi đi từ tình yêu đó mà ông đã tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa và trở thành Cha già các dân tộc tin vào Thiên Chúa. Mẹ Maria cũng một lòng yêu mến Thiên Chúa một cách tuyệt đối, cũng chính tình yêu đó, Mẹ Maria đã tin tuyệt đối vào lời mời gọi Mẹ cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa điều này đã được chính Bà Ê-li-sa-bét chúc mừng Mẹ “Em thật có phúc vì đã tin những gì Thiên Chúa thực hiện nơi em”
Nói về người đàn bà xứ Canaan trong Tin Mừng hôm nay, cũng khởi đi từ tình yêu nhưng không phải tình yêu của bà dành cho Thiên Chúa vì bà có biết Đức Giêsu là Chúa đâu, bà yêu người con gái của mình, đó là giọt máu của bà, là niềm vui của bà trong cuộc sống “con đau mẹ cũng đau”, chính cái đồng cảm trong tình yêu mẫu tử, bà đã mạnh dạn đến để xin cùng Đức Giêsu chữa cho con bà và chính tình yêu đó thúc đẩy bà tin Chúa sẽ thực hiện điều bà mong ước là cho con gái được khỏe mạnh. Từ tình yêu dành cho con dẫn đến lòng tin, bà đã được Chúa đáp trả.
Đức tin mạnh khởi đi từ sự khiêm nhường.
Bắt nguồn từ sự lắng nghe, đi tìm, đồng thời kết hợp với tình yêu dành cho người con thúc đẩy, người dàn bà xứ Canaan đã đặt niềm tin vào Đức Giêsu. Ngoài những điều đó bà còn tỏ ra rất khiêm nhường, khiêm nhường lắng nghe những lời miệt thị của người Do thái, khiêm nhường khi chính Đức Giêsu lặng im với lời van xin, khiêm nhường chịu đựng khi các tông đồ nói bà nhiều lời và khiêm nhường chấp nhận mình chỉ là con chó con dưới bàn ăn của chủ. Chính nhờ lòng tin trong sự khiêm nhường đó mà bà đã được thỏa lòng mong ước.
Đức tin mạnh khởi đi từ lòng kiên nhẫn
Thánh Mátthêu đã trình thuật một cách tỉ mỉ về sự kiên nhân của người đàn bà xứ Canaan: Lần đầu bà van xin, Chúa như vờ không nghe thấy. Lần hai chính các môn đệ thưa với Chúa nhưng chúa đáp lại với các môn đệ một cách như vô tình “Thầy chỉ được sai lạc nhà Israel mà thôi”. Lần ba bà lại van xin một cách tha thiết nhưng chính Đức Giêsu đáp lại
“Không thể lấy bánh của con mà ném cho chó” với lòng kiên nhẫn bà đã đáp lại “Nhưng thưa Ngài! Chó con cũng được thừa hưởng những miếng bánh vụn từ bàn ăn rơi xuống”. Quả thật điều bà xin với Chúa rất chính đáng và đó cũng là những lời giáo huấn của Đức Giêsu, bà không xin cho chính bà, bà xin cho người con đang rất cần tình yêu liên đới của mọi người và cũng từ nơi Chúa. nếu không có sự kiên nhẫn liệu bà ta có được những điều mình mong ước ngay lúc hiện tại và tương lai? Chính do lòng kiên nhẫn bà đã thành công một cách mỹ mãn đem lại cho chính bà niềm vui, đem lại cho con gái bà một sức sống mới và đem lại vinh quang cho Thiên Chúa qua Đức Giêsu
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ vì Chúa đã ban nhưng không Đức tin cho chúng con, nhưng vì thiếu lắng nghe, đi tìm, thiếu tình yêu, thiếu sự kiên nhẫn mà đức tin của chúng con không đủ mạnh vì thế mà lời cầu nguyện của chúng con chưa thấu đến tai Chúa, giữa cuộc sống đầy những cám dỗ, sóng gió tứ bề luôn phủ lấp cuộc đời chúng con.
Xin cho chúng con có được sự lắng nghe qua lời của Chúa, qua lời mời gọi, giáo huấn của các bậc bề trên, biết đi tìm Chúa mọi lúc, mọi nơi, luôn có một tình yêu như Chúa đã yêu chúng con và cuối cùng xin cho chúng con có lòng kiên nhẫn, chờ đợi Chúa trong đời sống cầu nguyện. Nhờ đó mà chúng con có được sự bình an, niềm vui của Chúa và giúp chúng con luôn làm sáng danh Chúa trong đời sống thường ngày. Amen.
“Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”
1/ Thái độ kiên trì của người đàn bà Dân Ngoại: Trong cuộc đời hành đạo, Chúa Giêsu rất ít ra khỏi lãnh thổ của Palestine. Trình thuật hôm nay là một ngoại lệ, thánh Matthew tường thuật: “Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về miền Tyre và Sidon, thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
Người đàn bà Canaan này phải đương đầu với ít nhất 3 thử thách lớn như sau:
(1) Nạn kỳ thị chủng tộc: Người Do thái khinh thường những người Dân Ngoại, họ không muốn có bất cứ liên hệ gì với Dân Ngoại cả. Bà phải can đảm lắm mới vượt qua được bức tường kỳ thị chủng tộc này.
(2) Các môn đệ coi Bà như một gánh nặng cần trút bỏ càng sớm càng tốt: Thấy Chúa Giêsu không đáp lại một lời, các môn đệ thưa với Ngài: “Xin Thầy bảo Bà ấy về đi, vì Bà ấy cứ theo sau chúng ta mà xin mãi!” Chúa Giêsu tỏ thái độ cho các môn đệ và cho cả Bà: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi.”
(3) So sánh Bà với chó: Đây có lẽ là một thử thách to lớn nhất về đức tin. Nhiều nhà chú giải có khuynh hướng làm dịu lại bằng cách đề cập tới chó nhà hay chó con; nhưng điều chính yếu là con người phải làm chứng cho đức tin cho dù bị xỉ nhục. Hãy nghe lời Bà đối thoại với Chúa Giêsu:
– Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”
– Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”
– Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”
2/ Sự ngạc nhiên của Chúa Giêsu: Lời đối đáp của Bà nói lên một sự thật: mặc dù không được ăn bánh dành cho con cái, nhưng “lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Tuy Chúa Giêsu không trực tiếp rao giảng cho Dân Ngoại, nhưng Ngài đang huấn luyện các môn đệ để làm việc đó. Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Ngài muốn chọn dân Do thái trước khi bành trướng ơn cứu độ đến tất cả Dân Ngoại.
Vì Bà biểu lộ đức tin cách vững chắc, nhiệt thành, và khôn ngoan; nên Đức Giêsu trả lời Bà: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải trải qua gian khổ trước khi đạt tới vinh quang Nước Trời. Nếu chúng ta cùng chịu gian khổ với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng thống trị vinh quang với Ngài.
– Chúng ta phải nghe lời Đức Kitô để đi qua đường hẹp; vì đường rộng rãi thênh thang chỉ dẫn tới diệt vong. Cuộc đời chúng ta có thể ví như cuộc đời con cái Israel 40 năm trong sa mạc.
ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ CANAAN
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1) Một cử chỉ tượng trưng xảy ra ở ngoài biên giới…
Đám đông dân chúng theo Chúa trong hoang địa Đức Giêsu đã nhân 5 ổ bánh và 2 con cá lên nhiều đến dư dật (Chúa nhật thứ l8). Rồi Người bắt buộc các môn đệ lên thuyền và chèo sang bờ bên kia trước. Trong khi đó Người rút lui lên núi cầu nguyện một mình. Rồi sau đó Người đã đến nhập bọn với họ, bằng cách đi trên mặt biển, lúc thuyền của họ đang bị sóng gió dập vùi (Chúa nhận 19). Giờ đây, các biệt phái và ký lục đến từ Giêrusalem chất vấn Người về chuyện các môn đệ Chúa không giữ luật thanh sạch, pbá tục lệ của tổ tiên. Đức Giêsu đặt lại các lề thói của tổ tiên vào đúng chỗ, nghĩa là các tục lệ đó phải phục vụ các giới răn của Thiên Chúa. Đức Giêsu quả quyết rằng sự thanh sạch của một người không lệ thuộc vào những thực hành, cho dù nó hợp pháp và theo truyền thống đến đâu chăng nữa, nhưng chỉ lệ thuộc vào hành động, phản ảnh nội tâm sâu xa nhất của người đó, phản ánh con tin của họ. Điều đó dẫn đến việc gặp gỡ người đàn bà Canaan ngoài giáo.
Sau cuộc tranh luận về chuyện “sạch” và “dơ”, Đức Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, ngày nay thuộc miền nam Liban, đó là miền giáp ranh với đất của dân ngoại. Một phụ nữ từ miền đó tiến đến gặp Chúa. Một phụ nữ mà tác giả Matthêu đã cố ý gọi là người đàn bà Canaan, để chỉ rõ ý nghĩa cái hố sâu không thể vượt qua giữa họ và thế giới Do Thái. Địa danh cổ kính này dùng để chỉ miền đất mà dân Hipri đã đánh chiếm làm lãnh thổ của mình. Người phụ nữ ấy thuộc về “kẻ ngoại” những kẻ “dơ”, những dân mà dân Do Thái coi khinh như những “con chó”. Còn tệ hơn nữa, bà thuộc một dân tộc mà người Do thái chính thống tránh xa hơn các dân khác, mà từ thời cha ông họ đã thề nguyền giữ mối thù truyền kiếp. “Lạy Chúa, xin thương xót tôi” bà ấy van xin, trong khi kêu Đức Giêsu bằng danh hiệu “con vua Đavit”. Trước hết Đức Giêsu làm thinh. Nhưng rồi bị các môn đệ nài ép đuổi người đàn bà vẫn đeo đẳng kêu van ấy Người nhắc đến sứ mạng của Người là chỉ được sai đến với những “chiên lạc của nhà Israel” mà thôi. J. Radmakers giải thích: “Câu đáp của Đức Giêsu am hạp hoàn toàn với bài diễn từ khai mạc sứ mạng của Người (câu 10,6). Ơn cứu độ của Thiên Chúa phải đi theo con đường lịch sử và địa lý trước, sau đó mới tới toàn thể các dân nước và lan rộng ra tới tận cùng thế giới” (“Aufil de Evangile se lon St Matthieu”, trang 211).
“Lạy Ngài, xin hãy đền cứu giúp” người phụ nữ một lần nữa sấp mình trước mặt Chúa và kêu cầu theo lời kinh phụng vụ. Đức Giêsu bấy giờ nói trắng ra rằng: Người không thể lấy bánh của con cái – là của dân Do Thái, dân của Lời hứa – để ném cho con chó nhỏ. Tuy câu nói “chó nhỏ” thì đã nhẹ bớt ý khinh dể, nhưng câu nói vẫn còn mang vẻ sỗ sàng. Người phụ nữ không phật lòng trước câu nói đó, bà còn dùng chính lời đó để đáp lại Chúa một cách tinh tế. “Đúng vậy thưa Ngài, nhưng những con chó nhỏ cũng được ăn những miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của chủ”. Cl. Tassin giải thích: Bà ấy nhìn nhận rằng dân Israel theo lịch sử thánh được ưu tiên, họ là “chủ”, còn bà là dân ngoại, bà chỉ cầu được những “miếng bánh vụn” trong sự tuyển chọn mầu nhiệm của Thiên Chúa (L’evangile de Matthieu Centurion, trang 167).
Đức tin mãnh liệt ấy đã gây nên sự ngỡ ngàng nơi Đức Giêsu. “Bánh” Lời Chúa bị người Do Thái khước từ, vậy mà người đàn bà này, một người ngoại giáo, một người xa lạ, một người “dơ” đối với con mắt Do Thái, đã chấp nhận và chấp nhận với đức tin vững vàng. Chúa liền kết luận “Hỡi bà, đức tin của bà thật to lớn bà muốn sao thì được vậy. Đức Giêsu đả phá mọi cấm cản, dẹp tan mọi loại trừ để ban cho bà điều bà ta xin, đó là con bà được lành.
2) Báo hiệu một Tin Mừng không biên giới
Tác giả Matthêu thuật lại câu truyện người đàn bà Canaan này có ý nhắm những người Kitô hữu gốc Do Thái. Những người này tuy bị người đồng bào ruồng rẫy, nhưng họ cũng vẫn cảm thấy lòng nghi kỵ mãnh liệt đối với những Kitô hữu gốc dân ngoại, những người đón nhận Tin Mừng và gia nhập Hội Thánh ngày càng đông.
Đặt cuộc gặp gỡ này vào trong khung cảnh “bẻ bánh”, tác giả như muốn làm sáng tỏ giáo lý Tin Mừng về sự cách biệt giữa người “sạch” và người “dơ” từ nay không còn nữa. Từ nay điều kiện duy nhất để được ngồi vào bàn tiệc Hội Thánh đề ra cho dân ngoại, và nhận “bánh của con cái” là lòng tin vào Đức Giêsu.
Từ một thái độ ban đầu của Đức Giêsu xem ra Ngài chỉ chịu chết để cứu chuộc những người thuộc dân tộc tuyển chọn, Matthêu đà dẫn đến bài học về phái độ cởi mở trong truyền giáo. Cl. Tassin viết: “Đức Giêsu thật đã thi hành sứ vụ cứu thế đối với dân Israel cách trung thành, tuy nhiên Người đã mềm lòng trước lòng tin mạnh mẽ của người phụ nữ ngoại đạo… Ngày nay, nếu những người ngoại giáo cũng chứng tỏ một đức tin mạnh mẽ như thế đối với Đấng Cứu Thế, lẽ nào Hội Thánh lại có thể đóng cửa không cho họ vào. Lẽ nào Hội Thánh lại có thể đặt giới hạn cho Đức Kitô, ngăn cản người chiếu sáng cho dân ngoại.” (sđd trang 167-168).
Cuộc tranh luận giữa nhưng Kitô hữu gốc Do Thái và Kitô hữu gốc dân ngoại đã tắt từ lâu. Nhưng trong Hội Thánh vẫn còn âm ỉ cơn cám dỗ đối nghịch giữa những người thuộc các chủng tộc khấc nhau: cám dỗ giả điếc làm ngơ trước những kêu gọi đến từ những nước xa xôi; cám dỗ cuộn tròn trong vỏ ốc của mình; cám dỗ trốn tránh mạo hiểm và khước từ mở rộng cửa để đón những cơ may. Do đọc lại đoạn Tin Mừng Matthêu hôm nay câu truyện người phụ nữ Canaan mời gọi Hội Thánh hãy tìm ra trong lịch sử của mình niềm hứng khởi và sức mạnh cần thiết để trung thành với sứ mạng toàn cầu và liên tục tự vượt thắng chính mình.
BÀI ĐỌC THÊM:
1/ “Đức tin phá đổ mọi rào cản”. (G.Bessière, trong cuốn “Diêu si proche” NXB Deschée de Brouwer, 1992, trang 136-137).
Người ta không biết tên bà, người ta gọi bà là “người phụ nữ Canaan”. Tuy nhiên bà giữ một vai trò độc đáo Đức Giêsu và các môn đệ vừa vượt ranh giới, bởi vì tình hình căng thẳng ở Galilê: Dĩ đào vi thượng mà. Họ đi về hướng Bắc, đến Tyr và Sidon, ngày nay là miền nam Liban. Đã từ nhiều thập kỷ, người Do Thái giừ một khoảng cách đối với dân chúng miền này, tôn giáo của người Canaan bị người dân trung thành với Thiên Chúa Israel khinh miệt. Một phụ nữ của xứ này đến kêu xin Đức Giêsu chữa con gái bà. Chúa làm thinh. Khi các môn đệ nài xin Chúa ban phép lạ để thoát khỏi người đàn bà quấy rầy, thì Chúa trả lời rằng Người chỉ được sai đến kiếm những chiên lạc nhà Israel. Rồi khi người đàn bà sấp mình dưới chân Chúa, thì Người còn tỏ ra cứng cỏi hơn: “Không nên lấy bánh của con cái là ném cho chó con. Và đây chính là lúc sự việc diễn ra. Một người phụ nữ chộp lấy cách gọi khinh bỉ đó và đối đáp lại bằng câu ví: “Thât đúng vậy, nhưng chó con được ăn những miếng bánh vụn từ bàn ăn của chủ rơi xuống. Bà ấy không phản đối, không chống lại. Bà chỉ kêu mời Đức Giêsu đi tới cùng. Đức Giêsu ngạc nhiên: “lòng tin của bà quá lớn…”. Và đứa con được lành bệnh. Đức Giêsu vừa bước qua một ranh giới, ranh giới nội tâm. Chúa mở rộng tâm hồn cách quyết liệt. Câu đối đáp của người phụ nữ ngoại này có chiều kích nhân đạo và tôn giáo vô hạn. Đối với các Kitô hữu đến từ các dân tộc và tôn giáo khác – người ta thường kêu là “dân ngoại” – đoạn Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu đến với người ngoại quốc, được coi là quý hoá. Bởi vì họ có thể đồng hoá với viên đại đội trưởng, với người phụ nữ Canaan. Khi có cuộc tranh luận xem có cần phải theo đạo Do Thái để theo chân Đức Giêsu không, thì người ta nhắc lại kỷ niệm này. Tại sao Đức Giêsu khen ngợi người phụ nữ Canaan? Chính là vì đức tin kiên trì của bà. Nhìn bà, chúng ta cùng khám phá ra rằng chúng ta cần phải học hỏi người khác, đôi khi cần chúng ta phải bỏ đi cái nhìn hẹp hòi của ta, và nhận ra rằng Thiên Chúa Cha đến từ nơi khác.
2/ “Đức tin của môt người phụ nữ ngoại (F.Declos, trong cuốn “Prends ét mang la Parole” NXB Centurion – duculot, 1992, trang 73).
Người phụ nữ Canaan tuy biết rằng những người Do Thái mà bà đang khẩn cầu này nhìn bà cách kinh tởm vẫn cứ nài nỉ dai dẳng. Các môn đệ, những người rất tôn trọng truyền thống, gợi ý với Thầy mình: Xin Thầy làm phép lạ cho bà ấy đi, để chúng ta được yên. Đây là cuộc gặp gỡ do Chúa quan phòng xếp đặt. Vì lòng kiên trì của người phụ nữ sẽ thắng thái độ thinh lặng “theo luật” của Đức Giêsu. Nào Người sẽ giữ thái độ khép kín trong bốn bức tường định kiến của dân tộc Người chăng? Nhưng vị tiên tri Nagiarét đã phản ứng một cách bất ngờ và gây sốc biết bao. Bằng chỉ một lời, Đức Giêsu đã quét sạch mọi cấm kỵ, mọi luật lệ, mọi quy ước do những con người nhỏ nhen tạo ra, và bắt đầu một cuộc đổi đời mà sẽ trở thành cuộc hiệp thông giữa mọi người.
Đứng trước nhóm biệt phái tức tối và nhóm môn đệ bàng hoàng, Đức Giêsu đã trân trọng lời của một phụ nữ, trân trọng đức tin của một người ngoại đạo, thái độ chứng tỏ cho mọi người thấy tâm hồn cao thượng và lòng tin tương sâu xa của bà. Bà nhận được phép lạ như lòng mong ước, đồng thời nhận được tình bạn của vị tôn sư, điều mà bà không dám nghĩ tới.
Giờ đây, người “dơ” trở nên mẫu mực cho người “sạch”. Người mà dáng lẽ phải bị ruồng bỏ giờ đây được đón tiếp, người đáng lẽ bị nguyền rủa giờ đây được chúc mừng. Người phụ nữ Canaan bị các môn đệ khinh bỉ, giờ đây được sư phụ của họ tôn vinh. Người khách lạ trở nên người thân thuộc, và “con chó nhỏ” được ngồi vào bàn ăn của Chúa. Sát bên Người. Chúng ta cũng có những phụ nữ Canaan, những con chó nhỏ. Tinh thần Ghetto (pháo đài) về giai cấp, địa vị luôn rình rập ta. Tính tự cao tự đại khiến ta nghi kỵ ra mặt, khinh bỉ người khác không giấu giếm, hoặc kiêu căng nghĩ mình là trên hết. Nhưng nhiều khi những “con chó nhỏ” giúp ta nhảy qua rào cản của bè phái để mở ra đón nhận sự phong phú từ người khác, và mở ra đón nhận tình huynh đệ toàn cầu. Đâu là những “người khách lạ” khi chúng ta tham dự tiệc Thánh Thể?
Chúng ta đã nhận thấy, vào cuối cuộc đời Người, Đức Giêsu “rút lui”, “lánh mặt” ở vùng đất của dân ngoại. Đã hẳn có nhiều lý do được đưa ra. Dẫu sao, đây là một khúc quanh trong sứ vụ của Người. Từ khi hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu cảm nhận một cách xót xa sự hiểu lầm của dân chúng. Thật ra họ không biết sứ mạng thật của Người.
Từ nay, Người tránh họ, để chuyên tâm đào tạo nhóm nhỏ các môn đệ. Vả lại, như mỗi người trong chúng ta, Người không tránh khỏi sự mệt mỏi thể xác và tâm lý, và Người cảm thấy nhu cầu được yên tĩnh, nghỉ ngơi, cầu nguyện, xa khỏi các đám đông.
Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđon, thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng…
Vậy để được yên tĩnh, Đức Giêsu phải vượt qua một biên giới. Và này Người đi dọc theo bờ biển tuyệt đẹp miền nam xứ Libăng với những vách đá màu vàng chạy xuôi ra Địa Trung Hải, và những vườn cây ăn trái xum xuê.
Vùng đất này, lẽ ra là một ốc đảo bình yên lại thường bị các cuộc chiến huynh đệ tương tàn làm xáo động. Tại đây, Đức Giêsu gặp tôn giáo ‘thờ thần’ của dân ngoại. Tia và Xiđon không còn nằm trong phần đất của Israel. Đó là hai thành phố cảng thương mại lớn, có cư dân hỗn hợp. Nhưng danh tiếng của Đức Giêsu đã vượt qua biên giới. Và đây là một phụ nữ mà Matthêu giới thiệu rõ ràng là “người đàn bà Canaan” để nhắc chúng ta nhớ lại những kẻ thù đầu tiên của Israel đã tiến vào Đất Thánh. Người đàn bà ấy đang kêu lên…
“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi? Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
Theo thói quen thường có, Matthêu cho lời cầu xin của người đàn bà một phong cách hoàn toàn “phụng vụ”: Lạy Ngài, xin rủ lòng thương tôi” dịch chính xác ra tiếng Hy-lạp là: “Kyrie éléisòn mé”. Về chữ “Con vua Đavít” đây rõ ràng là một tước hiệu của Đấng Mêsia.
Vậy quả là một nghịch lý đáng kinh ngạc: Đức Giêsu vừa có một cuộc tranh luận, khi còn ở trên đất Israel, với các kinh sư và Pharisêu từ Giêrusalem đến (Mt 15,1-20); và chính trong vùng đất ngoại bang này, Người nhận được một lời cầu nguyện của đức tin do một người đàn bà. Đức Giêsu sẽ đón nhận lời cầu nguyện tốt đẹp, chân thành và cảm động ấy như thế nào, Người đã từng nói: “Anh em cứ xin thì sẽ được… cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).
Nhưng Người không đáp lại một lời.
Lạy Chúa Giêsu, tại sao Người không đáp lại lời cầu xin của một người mẹ đáng thương trong cảnh khốn khố? Tuy nhiên đó là một lời cầu xin rất tinh tuyền: bà xin Ngài “cứu con gái bà khỏi bị quỷ ám”. Lạy Chúa tại sao Ngài dường như rất hay im lặng khi chúng con cầu xin sự giải thoát chúng con, và giải thoát những người mà chúng con yêu mến?
Tạm thời trong lúc chờ đợi lịch sử chấm dứt sẽ soi sáng thêm cho chúng ta, có lẽ chúng ta nhớ lại ràng Đức Giêsu thường rất dè dặt trong việc làm phép lạ. Người không muốn bị coi như một người chuyên làm các phép lạ.
Một cách bình thường, Thiên Chúa để cho các quy luật của vũ trụ diễn ra và Người không muốn làm ngược lại bất cứ lúc nào. Những lần chữa bệnh hay làm phép lạ nào đó mà Đức Giêsu đã thực hiện thì không nhiều và trước tiên luôn luôn là những “dấu chỉ”. Nhưng mọi “dấu chỉ” đều mơ hồ và đều phải được giải thích. Nhiều người Pharisêu khinh thường những phép lạ của Đức Giêsu bằng cách cho rằng các phép lạ ấy thuộc quyền lực của ma quỷ (Mt 12,24)… còn với các đám đông, các phép lạ ấy thường chỉ ở trong bình diện của thầy trị bệnh và thầy pháp, điều này khiến Người phải chạy trốn (Mt 14,22) đến nỗi. Đức Giêsu thường cấm người ta nói ra những phép lạ Người làm (Mc 1,34-44; 7,36; 8,26; 9,9).
Các môn đệ lại gần xin với Người rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi”.
Rõ ràng đây là một giải pháp dễ dãi. Nhưng như thế chẳng phải là làm ngưng mọi cuộc đối thoại đó sao? Người ta thoát khỏi sự phiền phức. Thế là xong. Rồi người ta được yên tĩnh.
Chúng ta cũng thế, như các Tông đồ, chẳng phải chúng ta cũng thường đi đến một thái độ cuối cùng như thế, và do đó cắt đứt mọi dự định trao đổi đó sao?
Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”.
Người bắt đầu không đáp một lời. Rồi giờ đây một sự từ khước dứt khoát. Lạy Chúa, tại sao vậy? Tại sao Chúa nói không với người đàn bà đang cầu xin Chúa? Tuy nhiên, chúng con biết rằng Chúa có trái tim nhân hậu và hay chạnh lòng thương xót. (Mt 9,36; 14,14; 15,32).
Nhưng rõ ràng, trước sự khắt khe này của Đức Giêsu chúng ta cảm thấy bị tổn thương.
Khi chúng ta biết được sự dịu dàng của Đức Giêsu đối với những người nghèo, chúng ta không thể nghĩ rằng những sự từ chối bề ngoài này không bao hàm một ý nghĩa. Chúng ta hãy thử vượt qua cảm tưởng ban đầu để khám phá ý nghĩa bao hàm trong công thức: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Bởi công thức này, Đức Giêsu nói lại với chúng ta tình yêu của Người theo thánh ý Chúa Cha: Người đã được Chúa Cha sai đến vì một nhiệm vụ chính xác và hạn chế. Mọi đời sống con người được đóng khung trong không gian và thời gian. Người ta không thể ở khắp nơi và làm mọi việc.
Đức Giêsu không tự mình quyết định sứ mạng của Người: Người đã được sai đi. Chính Chúa Cha đã giới hạn môi trường hoạt động trong phạm vi mà một con người có thể hoàn thành trong một cuộc đời ngắn ngủi. Chúng ta cũng thế, thay vì bám víu những mơ ước của chúng ta, chúng ta phải chấp nhận thân phận con người có giới hạn, bị gắn chặt vào một nơi nào đó ngõ hầu làm tròn nhiệm vụ riêng của mình và chỉ có chúng ta mới có thể làm được. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ mơ mộng đến một đời sống khác… đời sống của những người khác?
Thật vậy Đức Giêsu, ngoại trừ những cuộc du hành ít ỏi (và rất có ý nghĩa), hiếm khi Người ra khỏi biên giới của xứ Palestine, Người dành phần chính của sứ vụ cho những người đồng hương Do Thái của Người. Những người khác, các môn đệ, sẽ đi khắp thế gian (Mt 28,19), nhưng chỉ sau khi Người đã dược trao toàn quyền trên trời tức là sau cái chết và sự sống lại của Người (Mt 28,18).
Trong lúc này, Đức Giêsu bằng lòng đảm nhận một cách khiêm tốn nhiệm vụ “nhỏ bé” giới hạn đã được trao cho Người, và Người định nghĩa sứ mạng của Người khi tóm tắt lời tiên tri tuyệt vời trong đó Thiên Chúa tự giới thiệu như một Mục Tử Nhân Từ, đích thân đến để quy tụ và chữa lành những con chiên lạc (Ed 34,1-31). Nhưng dù bà mẹ đáng thương có hiểu biết viễn cảnh lịch sử ấy… bà có bằng lòng không?
Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”
Ôi quả là một lời khẩn nài tuyệt diệu!
Thêm vào những lời đáp lại trước đó, câu này há chẳng phải là một lời đáp lại lý do tại sao của chúng ta đó sao?
Những thử thách của đức tin, những thử thách của việc cầu nguyện há chẳng phải là một sự thanh luyện đức tin và làm tăng giá trị của sức mạnh cho sự cầu nguyện chân thực. Giữa người đàn bà Canaan và Đức Giêsu có một quan hệ mầu nhiệm gây ngạc nhiên trong giây phút ấy: theo vẻ bề ngoài, đó là mối quan hệ bị phá vỡ, một lời từ chối, một sự bỏ rơi… nhưng bên trong những tấm lòng, chính những kh6 khăn của hoàn cảnh lịch sử làm nẩy mầm một quan hệ sâu xa nhiều hơn giữa hai người. Cũng như thế, trên núi; một đập nước dường như chận dòng nước lại… nhưng gây ra sự dâng lên cho đến lúc tạo ra những điều kỳ diệu.
Còn chúng ta? Chúng ta có biết giải thích những thử thách của chúng ta không? Thay vì để chúng ta bối rối bởi những khó khăn, chúng ta có biết “nâng cấp” mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa không? Trước sự bền đỗ tuyệt diệu này của người đàn bà ngoại giáo, Thầy chúng ta sẽ đáp lại gì?
Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”.
Quả là khắc nghiệt! Lạy Chúa, Chúa vừa hóa bánh ra nhiều. Thế mà Chúa từ khước mẩu bánh nhỏ mà người đàn bà nghèo khổ ấy cầu xin. Không thể như thế. Hãy đọc cho đến phần cuối của câu chuyện này…
Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Không để cho mình chán nản, người đàn bà đã nắm lấy trái bóng và với sự hóm hỉnh, trả trái banh lại cho Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu thực ra đã chẳng muốn cứu giúp người đàn bà ấy hay sao? Ở Phương Đông gọi một người nào đó là con chó là một sự nguyền rủa nặng nề. Nhưng khi dùng chữ chó con Đức Giêsu muốn gợi ra tính chất của thú nuôi trong nhà, chúng hoàn toàn thuộc về những thành viên trong nhà như các con cái.
Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
Rõ ràng đây là chỗ mà câu chuyện phải đi đến. Một niềm hy vọng to lớn được mở ra xuyên qua Tin Mừng này nhờ đức tin của người đàn bà ngoại giáo ấy. Nếu Đức Giêsu khiêm nhường giới hạn mình nơi những con chiên lạc của nhà Israel thì ở đây, Người cho thấy rằng sứ điệp và ơn cứu độ của Người là dành cho tất cả mọi người. Và chúng ta phải để cho chính Tin Mừng tra vấn chúng ta. Tại sao tôi may mắn có được đức tin? Tại sao tôi là một người có đặc ân, được ăn “bánh của con cái Thiên Chúa”? Có phải tôi không quên, mà quên thì rất thường xảy ra, đám đông nhiều vô kể đang chờ những mảnh vụn từ bàn ăn của Thiên Chúa? Mọi sự tuyển chọn của Thiên Chúa cũng là một sứ mạng hoàn vũ…
Nếu Thiên Chúa chọn “một số người”, chính là để sai họ đi đến với mọi người khác. Israel là dân tộc đầu tiên được chọn, phải là dân tộc đầu tiên tiếp nhận sự trung tín tuyệt vời của Thiên Chúa với những lời Người hứa, không quên mục đích sau cùng: Mọi người phải được cứu chuộc! “Toàn cõi đất đều là của Ta. Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế”… cho những người khác (Xh 19,5-6).
NGƯỜI PHỤ NỮ CANAAN
1.- Ngữ cảnh
Trong các bản văn trước, ta thấy, sau khi Đức Giêsu bị dân Nadarét loại trừ và Gioan Tẩy Giả bị chém đầu, Đức Giêsu đã hoàn toàn tập trung vào việc giáo huấn các môn đệ; Người có chữa bệnh, nhưng không còn ngỏ lời với đám đông nữa. Tuy nhiên, các tranh luận với người Pharisêu vẫn còn, ngày càng gay gắt hơn. Đức Giêsu trách họ là đã thêm quá nhiều quy tắc vào Luật Môsê khiến cho Luật này trong thực tế không còn giá trị nữa; cùng lắm chỉ một số chuyên viên rất rành các truyền thống tiền nhân mới giữ được mà thôi. Đức Giêsu phản ứng bằng cách đưa Luật Môsê trở lại với sự đơn giản ban đầu, để toàn dân có thể tuân giữ.
Trong bản văn đi trước sát đoạn văn của chúng ta, Đức Giêsu còn đi xa hơn. Trong một dịp tranh luận với người Pharisêu về món ăn trong sạch và không trong sạch, dường như Người gợi ý là người ta có thể ăn mọi thức mà chính Luật Môsê cấm! Thế mà điều này đã từng là một trong những lý do gây chia rẽ Do Thái và Dân ngoại. Vậy Đức Giêsu dường như đang quay về với một thái độ mềm dẻo hơn đối với Dân ngoại. Chính trong khung cảnh này mà ta đọc được truyện “Người phụ nữ Canaan”. Tác giả Mt trình bày cho thấy Đức Giêsu đã làm một phép lạ theo lời thỉnh cầu của một phụ nữ ngoại giáo. Đứng trước sự cứng lòng tin của dân Người và sự chống đối ngày càng gia tăng của giới lãnh đạo tôn giáo, phải chăng Đức Giêsu đã quyết định bỏ mạc Israel mà quay sang hẳn với người ngoại?
2.- Bố cục
Bản văn được bố trí thành những đoạn đối thoại với Đức Giêsu, như những bậc đi lên tới một cao điểm:
* Mở: Hoàn cảnh (15,21);
1) Đoạn một: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu làm ngơ = từ chối (15,22-23a);
2) Đoạn hai: Đức Giêsu và các môn đệ: Đức Giêsu trả lời = từ chối (15,23b-24);
3) Đoạn ba: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu trả lời = từ chối (15,25-26);
4) Đoạn bốn: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu khen ngợi = đồng ý (15,27-28).
3.- Vài điểm chú giải
– Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđôn (21): Ghi chú về nơi chốn này có tính cách thần học. Tác giả Mt cho thấy Đức Giêsu tiếp xúc với Dân ngoại cư ngụ trong vùng này. Cụm từ “Tia và Xiđôn” thường được dùng để gọi vùng Dân ngoại cư ngụ ở về phía biên giới tây bắc Paléttina; nơi này cũng còn được gọi là Phênikia. Dân Phênikia tự gọi mình là “dân Canaan”, và Cựu Ước cũng như Tân Ước đã lấy lại tên gọi đó.
– ở vùng ấy đi ra (22): Giải thích như BJ (1998) rằng “ân huệ cuối cùng được Đức Giêsu ban cho người phụ nữ ngoại giáo này rất có thể sẽ là trong đất Israel”, hay như Bd CGKPV (2004): “Mátthêu hình như muốn ngụ ý rằng, sở dĩ người đàn bà ngoại giáo biết tuyên xưng Chúa Giêsu là Con vua Đavít là vì bà đã đi ra khỏi miền dân ngoại và chỉ trong đất Israel bà mới được Chúa thi ân” dường như có phần ép nghĩa. Nhưng c. 21 lại cho hiểu rằng chính Đức Giêsu mới đi ra khỏi đất Israel để đi vào vùng Dân ngoại. Trong thực tế, các biên giới địa lý, chính trị và dân tộc giữa Galilê, Xyri và Phêniki cũng chẳng rõ ràng gì. Đàng khác động từ “đi ra” (exelthousa) và giới từ apo cũng rất có thể chỉ liên hệ đến xuất xứ ngoại giáo của bà ấy mà thôi. Vì thế, giáo sư Guillemette đề nghị dịch là “… thì này có một người đàn bà Canaan của vùng ấy…”. Dịch như thế, thì hài hòa với câu trước (c. 21). TOB (1994) dịch là “này đây một người đàn bà Canaan đến từ đó…”.
– Con vua Đavít (23): Vì danh tiếng Đức Giêsu đã lan tới các vùng này, người ta biết các tên của Người. Do đó, không chắc là khi gọi Người như thế, người phụ nữ đã tin Người là Đấng Mêsia. Rất có thể bà gọi Người như thế là chỉ bắt chước người Do Thái. Tuy nhiên, lời kêu của bà cũng vẫn là một lời trách gửi đến cho dân Do Thái vì họ đã không biết nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia.
– Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi (24): “Chỉ được sai đến” là một thái bị động thay tên Thiên Chúa (= Thiên Chúa chỉ sai Thầy đến với…). Đức Giêsu nhắc lại một bài sai rất phù hợp với các sấm ngôn nói rằng sẽ đến một ngày Yhwh đuổi các mục tử giả hiệu ra khỏi Israel và trao nhiệm vụ chăn dắt cho Đấng Mêsia (x. Ed 34,23). Nay Người loan báo rằng giờ đó đã đến. Người có vai trò tái lập Israel thành một đoàn chiên duy nhất, trung thành với Yhwh. Khi dân Israel đã được quy tụ lại rồi, khi họ đã lại đi theo vị mục tử chân thật của Thiên Chúa rồi, chỉ khi ấy các dân trên thế giới mới có thể được quy tụ lại quanh Thiên Chúa chân thật. Nhưng giai đoạn hai này của chương trình cứu độ không trực tiếp liên hệ đến sứ mạng của Người là Mêsia. Về chú giải, “những con chiên lạc nhà Israel” (ta probata… oikou Israêl) cũng có thể là một thuộc-cách giải nghĩa (epexegetical genitive), và có nghĩa là “những con chiên lạc là nhà Israel”.
– Chó con (26): Từ Hy Lạp kynarion (“chó con”) là dạng giảm nhẹ của từ kyôn (“chó”). Người Do Thái thường gọi Dân ngoại là “chó” (Híp-ri keleb). Phải chăng Đức Giêsu dùng từ ở dạng giảm nhẹ để giảm bớt tính khinh bỉ trong từ “chó”? Không chắc, bởi vì: 1) Trong Hy Lạp koinê (bình dân), không chắc là dạng giảm nhẹ ấy có giá trị là một sự giảm thiểu; 2) Ngôn ngữ A-ram không có dạng từ tương ứng với “chó con”. Do đó, hẳn là Đức Giêsu đã dùng từ A-ram truyền thống là kalơbâ’ (chó) để gọi Dân ngoại.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Phải chăng Đức Giêsu đã quyết định bỏ mạc Israel mà quay sang hẳn với người ngoại? Bản văn Mt đọc hôm nay trả lời với chúng ta rằng đấy không phải là ý định của Đức Giêsu. Quả thế, Đức Giêsu đã chỉ chấp nhận làm phép lạ sau khi đã từ chối lâu dài, y như thể Người đã chấp nhận cực chẳng đã. Chúng ta tìm hiểu bản văn.
Người phụ nữ đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi” (c. 22). Khi nói” Xin rủ lòng thương tôi”, bà đã dùng ngôn ngữ Kinh Thánh lấy từ các Thánh vịnh (Tv 6,3; 9,14; 26,7; 30,10; 40,56; 85,.3; 122,3; v.v.). Đây là ngôn ngữ quen thuộc với Hội Thánh. “Ngài/Chúa, kyrie”, là danh hiệu các môn đệ và những người cầu xin thường dùng để thưa với Đức Giêsu. Khi gọi Người là “Con vua Đavít”, cho dù đức tin của bà chưa rõ ràng, bà cho thấy bà đang quay về với Đấng Mêsia của Israel, Đấng đã chữa lành nhiều người đau ốm trong dân. Như vậy, bà biết rằng Đức Giêsu được gửi đến với con cái Israel; độc giả thấy được đức tin của bà ở chỗ là, dù biết như thế, bà vẫn kêu cầu Người.
Các môn đệ tìm cách đuổi bà ấy đi. Các ông đóng một vài trò tiêu cực, giống như ở 14,15; 19,13. Các ông giải thích xấu tiếng kêu la của người phụ nữ; các ông không nghe ra được nỗi cùng quẫn của bà, mà chỉ thấy là bà đang đi theo nhóm và làm phiền bằng tiếng kêu la. Lời đáp của Đức Giêsu nằm trong ngữ cảnh này: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi” (c. 24); Người tuyên bố như vậy trước mặt các môn đệ và trong hoàn cảnh dân Do Thái khép lòng lại trong thái độ cứng tin. Điều này, chính Người đã một lần nói lên khi sai phái Nhóm Mười Hai (x. 10,6). Như thế Người hỗ trợ cho việc dứt khoát từ chối người phụ nữ và còn cho thấy điều này thuộc về lịch sử cứu độ. Nếu vậy, sau này khi Đức Giêsu truyền dạy các môn đệ đi đến với muôn dân (28,18-20), điều này có nghĩa là có một sự thay đổi căn bản trong chương trình của Thiên Chúa. “Các con chiên lạc của nhà Israel” không phải chỉ là “các con chiên đen” tại Israel, nhưng có thể hiểu là toàn thể dân Thiên Chúa mà Đức Giêsu được gửi tới. Câu trả lời của Đức Giêsu cho thấy Người không dành cho người phụ nữ một chút quan tâm nào nữa. Thế nhưng bà vẫn quay về Đức Giêsu và bái lạy Người (x. 8,2; 9,18). Một lần nữa, bà gọi Người là “Ngài/Chúa, kyrie”, và một lần nữa, bày nài xin Người với những lời lấy từ các Thánh vịnh (Tv 43,27; 69,6; 78,9; 108,28). Một lần nữa, Đức Giêsu từ chối bằng lời lẽ rất mạnh: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (c. 26). Người muốn nói rằng Tin Mừng chỉ được nhắm phân phát cho “con cái”, tức là dân tộc Do Thái, những người thừa kế lời Thiên Chúa hứa. Không chắc người phụ nữ hiểu được ý này, khi bà trả lời: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (c. 27). Có lẽ phải nói rằng bà tự gọi mình là “chó” không phải là một sự khiêm nhường, nhưng là để bẻ lại Đức Giêsu: Trong gia đình, nhưng con chó cũng được hưởng những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống. Dù bị từ chối nhiều lần, người phụ nữ vẫn không nản chí, bà vẫn tiếp tục cầu xin. Thế là Đức Giêsu chấp nhận lời bà thỉnh cầu.
Đức Giêsu mô tả sự tin tưởng vô điều kiện của người phụ nữ, được diễn tả bằng những lời xin được lặp lại liên tục, là “lòng/đức tin” (x. 8,10.13; 9,22.29). Đức tin có nghĩa là người ta không có bất cứ điều gì ngoại trừ sự tin tưởng đặt nơi Đức Giêsu. Câu truyện kết thúc giống như truyện viên sĩ quan ở Caphácnaum. Lời thỉnh cầu không ngơi nghỉ của bà đã được chấp nhận. Con gái bà được khỏi (c. 28).
Việc Đức Giêsu chấp nhận lời thỉnh cầu của bà trở thành một lời gián tiếp kết án sự công chính và sự an toàn mà dân Do Thái nghĩ là họ đang có, dựa trên truyền thống và tư cách thừa kế lời Thiên Chúa hứa cho tổ phụ Abraham: họ không còn biết đón nhận ơn Thiên Chúa tuyển chọn trong đức tin nữa. Còn bà Canaan, bà đã đạt được điều bà muốn có, là bởi vì bà ở trước nhan Thiên Chúa trong tư thế chờ đợi khiêm tốn như những người được nói đến trong các Mối Phúc. Bà đã tỏ ra như là một người hành khất dưới chân Đức Giêsu, cứ không ngừng cầu xin, cứ hy vọng ngược lại mọi hy vọng, giống như Abraham, như bà góa trong dụ ngôn Lc (Lc 18,1-8), như những người biết dùng sức mạnh mà vào Nước Trời (Mt 11,12). Lời bà cầu xin chính là hình thái cụ thể và sống động của niềm tin bà. Đức Giêsu thấy “lòng tin của bà mạnh thật” (c. 28), bởi vì lòng tin của bà là trọn vẹn, nó cho thấy một con tim không chia sẻ đang chờ đợi được no lòng thỏa dạ từ sự hào phóng của Thiên Chúa, từ ý muốn của Chủ. Đồng thời, chính đức tin này càng cho thấy là sự mù quáng và định kiến của dân Do Thái đối với Đức Giêsu thật thê thảm, vì họ đã từ khước nhìn nhận Người là Đấng Mêsia, trong khi “con chó” ngoại giáo này đã biết nhận ra Người là “Con vua Đavít” (c. 22). Sự tin tưởng vô điều kiện đặt nơi Đức Chúa và Con vua Đavít cũng hàm chứa kinh nghiệm cụ thể về sự chữa lành.
+ Kết luận
Truyện người phụ nữ Canaan hàm chứa hai khẳng định bề ngoài mâu thuẫn nhau: sự tuyển chọn Israel làm dân riêng của Thiên Chúa và Thiên Chúa hoàn toàn tự do trong việc thực hiện chương trình cứu độ. Ta vẫn có thể đọc truyện bà Canaan để ghi nhận sứ điệp cứu độ và hy vọng, nhưng cũng phải luôn đề phòng xu hướng duy tín hoặc cuồng tín. Nếu bà ấy cuối cùng đã được Đức Giêsu lắng nghe, tác giả vẫn không có ý nói rằng bất cứ ai có đức tin y như đức tin của bà thì luôn luôn đạt được thành công như thế. Các mầu nhiệm của Thiên Chúa không phải bao giờ cũng trở nên minh bạch khi con người thỉnh cầu Ngài.
5.- Gợi ý suy niệm
CHỮA LÀNH CON GÁI MỘT PHỤ NỮ CANAAN
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui đến miền Tyrô và Siđôn”. Đừng tìm cách xác định lộ trình của Chúa Giêsu từ chỗ ra khỏi đó, một thành ngữ rất mơ hồ, đến miền Tyrô và Siđôn. Đúng hơn việc định vị này có một ý nghĩa thần học: Matthêu muốn nói Chúa Giêsu tiếp xúc với lương dân sống trong các miền ấy, nơi cũng có rất nhiều người Do thái ở. Thành ngữ Tyrô và Siđôn, theo cựu truyền, chỉ vùng đất của dân ngoại dọc theo biên giới bắc-đông bắc của Palestine, mà ta cũng còn gọi là xứ Phênixia. Dân Phênixia tự gọi mình là người Canaan, và Cựu ước lẫn Tân ước cũng kêu họ như vậy.
“Một phụ nữ Canaan…”: Thành ra bà này không phải là một người Do thái sống trong vùng ngoại đạo nhưng, như phần tiếp trình thuật cho thấy, là một người ngoại đạo biết rõ hoạt động của Chúa Giêsu và có lẽ cũng nhiễm ít nhiều niềm tin Do thái. Đừng quá ngạc nhiên khi thấy bà ta gọi Chúa Giêsu là con Đavít: theo Mc 3, 8 danh tiếng Người đã vang nhanh đến các vùng này. Thành thử khi gán tước hiệu đó cho Chúa Giêsu, không chắc bà tin Người là Đấng Messia; có lẽ đúng hơn bà chỉ lặp lại điều đã nghe dân Do thái trong vùng nói về Người; vì thế, niềm tin mà Chúa Giêsu thán phục ở c. 28 đúng ra là chính niềm tin được biểu lộ trong câu đáp đầy khiêm tốn ở c.27, nơi người đàn bà Canaan minh nhiên công nhận, dù là ngoại giáo, quyền ưu tiên được cứu rỗi của Israel.
“Ra khỏi vùng đó… “: BJ dịch ra như thế các chữ Hy lạp apo ton horion ekeinon exelthousa và còn ghi chú thêm: “ân huệ mà cuối cùng Chúa Giêsu đã ban cho bà ngoại giáo ấy cũng chỉ được ban trong đất Israel”. Nhưng hình như c.21 cho thấy là Chúa Giêsu ra khỏi lãnh thổ Israel để đến các vùng ngoại đạo mà? Kỳ thực, ranh giới địa dư, chính trị và chủng tộc giữa Galilê, Syria và Phênixia không có gì rõ ràng. Đàng khác động từ Hy lạp ra khỏi (exelthousa) với giới từ apo cũng có thể chỉ muốn nói bà này có xuất xứ ngoại đạo. Thành ra có thể dịch phần đầu của c.22 như sau: “Và này môt người đàn bà Canaan ở vùng đó…”. Cách dịch này ăn khớp hẳn với câu trước vậy (c. 21).
“Ta chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà Israel thôi”. Một câu trả lời nặng óc địa phương như thế hẳn là chướng tai đối với Giáo Hội, vì ngay từ trước thời Phaolô, Giáo Hội đã bắt đầu hoạt động truyền giáo giữa lương dân (Cv 10, 44-48). Thật ra Chúa Giêsu nhắc tời một ủy nhiệm lãnh từ Thiên Chúa động từ ở thể thụ động, không túc từ động tác, là một cách nói bóng gió về Thiên Chúa mà không nêu danh Ngài). Và ủy nhiệm này hoàn toàn phù hợp với các sấm ngôn tiên báo sẽ có ngày giao đuổi các mục tử giả nhà Israel để ban trách vụ mục tử cho Đấng Messia (Ed 34, 23). Chúa Giêsu loan báo giờ đó đã đến. Vai trò của Người là tái lập Israel thành một đàn chiên duy nhất, trung tín với Giavê. Khi dân Israel lại được quy tụ và đi theo Thiên Chúa, mục tử chân chính của nó, thì bấy giờ các dân tộc trên thế giới mới được quy tụ quanh Thiên Chúa thật. Nhưng giai đoạn thứ hai này của chương trình cứu rỗi không trực tiếp liên hệ đến sứ mệnh của Người, xét như là Đấng Messia. Người chỉ chuẩn bị giai đoạn đó thôi.
“Chó con”: Hy ngữ kunarion (chó con) là hình thức yếu nghĩa (diminutit) của chữ khôn (chó). Đa số các nhà chú giải xem việc dùng yếu nghĩa từ này là cách làm dịu bớt sự khinh miệt trong lời nói của Chúa Giêsu (người Do thái gọi dân ngoại là “chó” chứ không phải chó con). Nhưng về ý kiến này, ta có hai nhận xét:
1/ Không chắc hình thức yếu nghĩa trong Hy ngữ bình dân có giá trị như một cách làm dịu bớt;
2/ Ngôn ngữ Aram không có yếu nghĩa từ tương ứng với “chó con”; chữ Chúa Giêsu nói hẳn là chữ quen dùng để chỉ người lương dân kaloba (chó) hơn là gurâ (con thú nhỏ).
“Lòng tin của bà lớn thật”: người đàn bà Canaan đã hiểu rằng Chúa Giêsu không phải là một nhà thần thông nào đó hoạt động một cách cá nhân nhưng là thừa tác viên thi hành một kế hoạch của Thiên Chúa, mà trước tiên liên hệ đến tuyển dân; và bà đã khiêm tốn nhìn nhận tuyển dân này được ưu tiên trong chương trình cứu rỗi đó. Chính việc nhìn nhận như vậy làm nên đức tin của bà.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu giúp bà này chẳng phải vì bà là kẻ ngoại giáo, song vì bà có một đức tin lớn lao. Trật tự cứu rỗi được tôn trọng, các giới hạn của sứ mệnh ủy thác cho Chúa Giêsu được xác định rõ ràng. Nhưng một niềm hy vọng vĩ đại đã bừng dậy. Trong niềm hy vọng đó ta thấy hiện ra một dân Israel mới được xây trên một lòng tin cũng thật lớn lao. Trường hợp viên sĩ quan trước đó cũng thế (8, 10. 13). Vì như Thiên Chúa hoàn toàn đủ sức biến các “viên đá” thành con cái cho Abraham, thì ngày kia Ngài cũng sẽ gây dựng một Israel mới lừ những kẻ có lòng tin như vậy. Ơn cứu rỗi chưa đến với lương dân; Chúa Giêsu còn trở về Israel (c. 29) để bẻ bánh cho con cái dân Người. Nhưng rải rác đó đây, trong nhiều trường hợp xác định, người ta thoáng thấy một thực tại mới, một tương lai mới trong đó Thiên Chúa sẽ hoàn tất trật tự cứu rỗi đã thiết lập ngay từ đầu. Vì ơn cứu rỗi phải đến với mọi dân trên toàn cõi trái đất.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Vì được rửa tội trong Giáo Hội Công giáo, vì có niềm tin, nên đôi khi ta tưởng các con “chó ” ở ngoài, nghĩa là lương dân quanh ta, không có cùng quyền lợi được cứu rỗi như ta. Giai thoại người đàn bà Canaan nhắc ta nhớ Thiên Chúa không bị ràng buộc bởi các cơ cấu tôn giáo. Cũng như Chúa Giêsu đã gặp “một lòng tin lớn” ngoài Israel trong khi chính Israel lại cứng lòng tin, thì ngày nay Người cũng có thể gặp một lòng tin lớn lao như thế, nghĩa là một lòng đói khát Thiên Chúa thực sự, ở ngoài Giáo Hội. Vì thiếu mặc khải minh nhiên và thiếu ánh sáng soi dẫn, nên lòng đói khát này là một nỗi mong chờ được nuôi dưỡng bằng những vụn bánh rơi tư bàn ăn của Thiên Chúa. Những người đói khát như vậy có lẽ có, dầu họ không biết, một đức tin tinh tuyền hơn lòng tin của ta, nếu ta khinh chê lương dân thì có khác gì những người Do thái tự mãn đã không chịu khiêm tốn tin vào Chúa Giêsu, viện cớ mình là “con cái Abraham”!.
2) Thiên Chúa thường bắt đầu tỏ ra giả điếc làm ngơ trước lời cầu xin của ta, như Chúa Giêsu đối với người đàn bà xứ Canaan, nhưng là để sau đó nhậm lời nếu ta biết khiêm tốn kiên trì van vái. Chính đó là cách Ngài giáo dục ta cho có một lòng tin chân thật vậy.
3) Lời cầu xin thực sự làm đẹp lòng Thiên Chúa là lời cầu xin không ỷ lại vào một quyền lợi nào, mà chỉ hoàn toàn trông chờ vào lòng tốt của Thiên Chúa như chó con đón lấy các mảnh vụn rơi từ bàn ăn gia đình.
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Lời tiên báo về tiên tri Giêrêmia thời Cựu Ước: “Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân”(Gr 1,5) và niềm hy vọng mà muôn dân đặt nơi danh Người (x. Mt 12, 21) hôm nay đã được ứng nghiệm qua sự hiện diện của Đức Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến ý định cứu độ phổ quát của Đức Giêsu, tức là ơn cứu độ của Ngài không chỉ dành riêng cho dân Israel, mà là cho cả dân ngoại qua hình ảnh người đàn bà góa thành Canaan. Mặt khác, qua sự xuất hiện của bà và niềm tin mà bà đặt nơi Đức Giêsu, Ngài đã khen ngợi đức tin của bà, đồng thời mời gọi chúng ta noi gương bà, vượt qua mọi thử thách để tiến bước trên hành trình theo Chúa.
Trước tiên, chúng ta cùng tìm hiểu về ơn cứu độ phổ quát và đức tin qua hình ảnh người phụ nữ thành Canaan.
Khi nói về sứ mạng truyền giáo, chúng ta sẽ khởi đi từ lệnh truyền của Đức Giêsu trước khi về trời: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 18-19); và khi đề cập đến tính phổ quát của ơn cứu độ, chúng ta thấy Đức Giêsu nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15). Rồi trong hành trình loan báo Tin Mừng của chính Đức Giêsu, Ngài đã nhiều lần đích thân đến với dân ngoại như: câu chuyện người đàn bà Samaria bên bờ giếng Giacóp; hay như hôm nay, Ngài tiếp xúc với người đàn bà thành Canaan.
Như vậy, chúng ta hiểu: Thiên Chúa không muốn dành riêng ơn cứu độ cho một dân tộc, một thế hệ, hay một thành phần nào, mà là dành cho hết mọi người. Vì thế, ơn cứu độ được lan tỏa khắp nơi không phân biệt màu da, ngôn ngữ, hay chức vị…
Trình thuật Tin Mừng hôm nay cho thấy, Đức Giêsu rời khỏi nơi mà các Pharisêu và mấy kinh sư chất vấn Ngài về việc các môn đệ không giữ truyền thống của tiền nhân khi ăn uống. Nhưng họ đã bị Đức Giêsu khiểm trách vì sự giả hình của họ. Sau đó, Ngài và các môn đệ đi sang thành Tia và Xiđôn.
Tưởng cũng nên nhắc lại, theo truyền thống thì đây là vùng đất của dân ngoại dọc theo biên giới bắc – đông bắc của Palestine, mà ta cũng còn gọi là xứ Phênixia.
Vì thế, dân ở vùng này bị coi là dân ngoại. Vào thời điểm đó, dân ngoại bị coi là một lớp người bị Thiên Chúa nguyền rủa và không được cứu độ. Họ bị khinh miệt đến nỗi, trong lối suy nghĩ của người Dothái, họ là “lũ chó”. Đây là ngôn ngữ mang tính miệt thị.
Tại sao vậy? Thưa, vì từ xa xưa, người ta vẫn hiểu dân Dothái là dân riêng, được Thiên Chúa ưu tuyển. Các vùng phụ cận khác không thuộc về lãnh thổ Dothái thì đều bị khinh miệt, coi thường và nguyền rủa.
Khi Đức Giêsu dùng từ “chó con” để ám chỉ về người đàn bà, Ngài không có ý miệt thị, nhưng mục đích của Ngài là xem lòng tin của bà như thế nào! Ngài đã thử thách bà tận căn khi nói: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15, 26). Đây là thử thách mang tính quyết định về lòng khiêm nhường.
Nhưng người đàn bà đã không xấu hổ và tủi nhục, ngược lại, bà đã can đảm, mạnh dạn để tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa qua trung gian Đức Giêsu. Vì thế, bà đã thưa: “Lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15, 27)
Dù là bị khước từ, miệt thị , nhưng với tình yêu và lòng tin vào quyền năng của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, bà đã hoàn toàn khiêm tốn chấp nhận tất cả, kể cả sự ưu tiên cho dân Do Thái và sự miệt thị của dân Do Thái. Chính vì vậy, bà đã được Đức Giêsu khen ngợi và ra tay cứu giúp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật” và hẳn nhiên là Chúa phán “Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (x. Mt 15, 28).
Qua biến cố này, chúng ta thấy: trật tự cứu rỗi được tôn trọng, nhưng khi Đức Giêsu đến, Ngài cũng sẽ gây dựng một Israel mới từ những kẻ có lòng tin như vậy. Vì ơn cứu rỗi phải đến với mọi dân trên toàn cõi trái đất.
Sứ Điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học về sự kiên trì khi gặp thử thách, đồng thời trung thành trong đức tin thì sẽ được Thiên Chúa ân thưởng.
Thật vậy, trong cuộc sống, rất nhiều khi ta bị thất bại. Sự thất bại này có thể đến từ sự thiếu hiểu biết của chúng ta, khiến công việc trở nên thất bại. Nhưng nhiều khi lại đến từ chính Thiên Chúa. Tức là Thiên Chúa để cho chúng ta thất bại và rơi vào tình trạng cùng khốn. Đôi khi những thử thách đó lên đến mức khủng khiếp. Câu chuyện của ông Gióp, tiên tri Hôsê hay của người đàn bà Canaan là một thí dụ.
Tuy nhiên, như người đàn bà trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, dù bị thử thách, bà vẫn nhận ra tình thương của Thiên Chúa với mình, mặc dù bà không xứng.
Thật vậy, Thiên Chúa như người cha, Ngài không bao giờ nỡ để con cái của mình phải đi vào ngõ cụt. Nhưng Ngài muốn chúng ta được sống và sống dồi dào. Tuy nhiên, để được hưởng trọn niềm sung mãn, hạnh phúc… thì đôi khi cần phải có thử thách từ phía người ban ơn và sự cảm nghiệm của người lãnh nhận. Có thế thì món quà của người trao ban mới trở nên cao trọng và người nhận mới trân quý.
Trong đời sống đức tin cũng vậy. Nếu không có thử thách, thì đức tin ấy vẫn chỉ là đức tin trong “giấy khai sinh”, nơi “sổ rửa tội” mà thôi. Như thế, thử hỏi, chúng ta đang sống trong một xã hội với những tiến bộ vượt trội và rất nhiều cạm bẫy, thì liệu đức tin non nớt kia có đủ vững để đối diện với những thực tại của cuộc sống không? Thưa, hẳn là không.
Vì thế, trong đời sống siêu nhiên, đôi khi Chúa phải thử thách để đức tin của chúng ta được lớn lên ngay trong thử thách, hầu chúng ta mới can đảm, trung thành với niềm tin của mình ngay trong một thế giới đang tìm mọi cách lôi kéo chúng ta xa dần Thiên Chúa và niềm hy vọng của chúng ta đặt để nơi Ngài.
Sống sứ điệp Lời Chúa là chúng ta sống định luật: vĩnh biệt, chia ly:
Vĩnh biệt – chia ly sự nghi ngờ, kiêu ngạo, tự phụ để kết duyên với lòng mến, cậy trông, trung thành, kiên trì, tín thác nơi Chúa.
Vĩnh biệt – chia ly sự hiếu tri thuần lý, tức là chỉ dùng lý trí để suy luận những chân lý đức tin, thay cho lòng khiêm tốn trong tâm tình của người biết lắng nghe và mau mắn thi hành.
Vĩnh biệt – chia ly sự tự tin quá dáng vào bản thân, đến nỗi ân sủng của Thiên Chúa đến với ta không thể thẩm thấu vào trong tâm hồn được vì chúng ta đã dùng cái “tôi” ích kỷ đậy lại.
Vĩnh biệt – chia ly lối sống đạo hình thức bên ngoài, vụ luật, cứng ngắc để thay vào đó là sống đạo của niềm tin, yêu thương và cảm thông.
Vĩnh biệt – chia ly cung cách coi thường, miệt thị những người kém may mắn, không cùng niềm tin, để thay vào đó là lời cám ơn Thiên Chúa, vì Ngài yêu thương chúng ta vô bờ, đến lượt mình cũng phải sống sự yêu thương như Chúa.
Vĩnh biệt – chia ly thái độ “đèn nhà ai nấy rạng”, chỉ biết sống cho riêng mình, để thay vào đó là tinh thần liên đới và khao khát cho mọi người cũng được hạnh phúc như mình.
Cuối cùng, vĩnh biệt – chia ly sự hờ hững, nông nổi, thiếu sự kiên trì, và thất trung, thành một con người kiên tâm, vượt lên trên những thử thách để đạt được mục đích cuối cùng là Nước Trời.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta luôn đặt niềm tin tưởng vào Chúa, vì: trong mọi gian nan thử thách, chúng ta luôn tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên chúng ta để nâng đỡ, khích lệ mặc dầu chúng ta không trông thấy. Đồng thời, khi đã được Thiên Chúa yêu thương, hẳn chúng ta cũng phải yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương mình.
Mong sao, trong mọi cảnh huống của cuộc đời, chúng ta luôn hướng về Chúa như người mẹ hiền ấp ủ con thơ. Nếu thử thách có đến thì cũng như là người mẹ hiền đang tập cho con bước đi để vững bước tiến vào đời trong tương lai.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con có thể kiên trung trong mọi thử thách. Amen.
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
Ý CHÍNH: Đức Giêsu chữa con gái người đàn bà xứ Canaan:
Khi nghe người đàn bà ngoại giáo xứ Ca-na-an kêu xin giúp con gái của bà đang bị quỷ ám, Đức Giêsu im lặng và khi môn đệ cầu bầu thì Người giải thích lý do “chỉ được sai đến với chiên lạc nhà It-ra-en mà thôi”. Tuy nhiên các lời bà đối đáp đã chứng tỏ bà có một đức tin mạnh mẽ, nên cuối cùng bà đã được Đức Giêsu khen ngợi có đức tin mạnh và đã ban cho bà được thỏa mãn.
CHÚ THÍCH:
– C 21-22: + Đức Giêsu lui về miền Tia và Xi-đon:Tia va Xi-đon là hai thành phố của dân ngoại. Khi âm thầm lui về miền đất ngoại giáo này (x. Mc 7,24), có lẽ Đức Giêsu muốn tránh sự dòm ngó của nhóm Pha-ri-sêu, cũng như tránh sự nồng nhiệt của quần chúng muốn tôn Người lên làm vua sau phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Ga 6,15). Ngoài ra, điều này còn tiên báo: Vì dân Do thái đã từ chối ơn cứu độ ưu tiên cho họ, nên dân ngoại sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ ấy. + “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”: Sở dĩ người đàn bà ngoại giáo biết và tuyên xưng Đức Giêsu bằng danh hiệu Con Vua Đa-vít là do bà đã ra khỏi miền đất dân ngoại và được nghe nhiều người Do Thái truyền đạt đức tin về Đức Giêsu (x. Mc 3,8).
– C 23-24: + Nhưng Người không đáp lại một lời:Khi không nghe lời cầu xin của người đàn bà này, Đức Giêsu muốn thử thách để biết tình trạng đức tin của bà, để gia tăng lòng tin cho bà. + Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!: Các môn đệ muốn Đức Giêsu thỏa mãn lời cầu xin để khỏi tiếp tục bị quấy rầy. Còn Đức Giêsu lại muốn chứng tỏ Người ban ơn cho ai là tùy lòng tin yêu của họ. Ở đây không những Người ban cho con gái bà khỏi bị quỷ ám, mà còn ban cho chính bà đức tin vào Người là điều kiện để được hưởng ơn cứu độ. + Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi: Sinh thời, Đức Giêsu chỉ rao giảng cho người Do Thái, là những người được thừa kế các lời hứa cho họ là con cái Thiên Chúa (x Rm 9,5; 15,8). Do đó, khi sai các môn đệ đi giảng đạo, Đức Giêsu cũng chỉ giới hạn trong lãnh thổ dân Ít-ra-en (x. Mt 10,5-6). Nhưng rồi thực tế cho thấy: dân Do Thái đã từ chối ơn ấy, nên cuối cùng họ đã bị mất quyền ưu tiên gia nhập Nước Trời (x. Cv 18,17).
– C 25-26: + “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”:Người đàn bà tỏ ra kiên trì trong lời cầu xin: xin một lần chưa được, bà xin hai, rồi ba lần. Khi cầu xin mà chưa được nhận lời, bà vẫn bền đỗ chứ không nản lòng bỏ cuộc (x Lc 18,1). + “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”: Không nên lấy Nước Trời được hứa ban cho con cái trong nhà là dân It-ra-en, để đem cho người ngoài là dân ngoại bị khinh dể như loài vật. Từ chó con ở đây là để làm dịu bớt sự khinh miệt theo quan điểm của dân Do thái.
– C 27-28: + Chó con:là con vật nuôi trong nhà và được mọi người cưng chiều. + Cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống: Câu nói của người đàn bà cho thấy bà có lòng khiêm tốn. Bà công nhận dân Do thái có quyền ưu tiên hơn dân ngoại trong chương trình cứu độ. Điều này cho thấy đức tin của bà thật vững mạnh. + Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy: Khi thấy người đàn bà tỏ lòng khiêm hạ và vững lòng phó thác cậy trông, Đức Giêsu đã khen ngợi đức tin của bà và đã ban cho con gái bà khỏi bệnh như ý bà xin.
1) Người đàn bà ngoại giáo kêu xin Đức Giêsu bằng danh hiệu nào? Tại sao bà ta biết được danh hiệu ấy? 2) Tại sao Đức Giêsu làm như không biết không nghe thấy lời kêu xin khẩn thiết của người đàn bà này? 3) Các môn đệ yêu cầu Đức Giêsu thuận theo ý người đàn bà nhằm mục đích gì? 4) Đức Giêsu cho môn đệ biết sứ mệnh của Người là gì? 5) Tại sao Đức Giêsu khen đức tin của người đàn bà ngoại giáo và cuối cùng đã ban theo ý bà xin?
HỎI: TẠI SAO CHÚA IM LẶNG TRƯỚC LỜI CẦU XIN CỦA CHÚNG TA?
ĐÁP: Khi ta cầu xin mà Chúa vẫn im lặng không nhậm lời thường do mấy nguyên nhân chính như sau:
+ Có thể Chúa đang thử thách để xem đức tin của ta mạnh hay yếu? Trưởng thành hay ấu trĩ? Ta cần noi gương người đàn bà ngoại giáo trong Tin Mừng: kiên trì cầu nguyện và không ngã lòng cậy trông. Xin một lần chưa được, hãy xin thêm nhiều lần. Phải xin với sự xác tín Chúa sẽ ban điều tốt lành cho ta, như Đức Giêsu phán: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).
+ Có thể lời cầu xin của ta mới chỉ mang tính cá nhân. Ta hãy xin cộng đoàn hợp ý cầu nguyện như lời Đức Giêsu dạy: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho” (Mt 18,19). Ta cũng nên xin các thánh và các linh hồn trong luyện ngục cầu bầu cùng Chúa cho ta dựa theo tín điều “Các Thánh Cùng Thông Công”.
+ Có thể lời cầu xin của ta chưa khiêm tốn đủ: Do ta phô trương lòng đạo đức để tìm tiếng khen nơi người đời (x. Mt 6,5-6). Có thể do ta đòi Chúa phải ban theo ý riêng của ta, thay vì phải xin vâng theo thánh ý Thiên chúa như lời Đức Giêsu cầu xin trước khi bị bắt: “Ba ơi! Nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
+ Có thể lời cầu xin của ta còn thiếu sự hy sinh: ta hãy cầu xin, kèm theo những việc đạo đức như xưng tội rước lễ, và các việc hy sinh hãm mình, kèm theo sự tha thứ làm hòa như Đức Giêsu dạy: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ đó lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).
+ Có thể ta xin những điều có hại cho phần rỗi của ta mà ta không biết: Đừng đòi Chúa phải ban theo ý mình, nhưng hãy tin cậy vào lòng từ bi của Chúa, Đấng hằng muốn ban ơn cứu độ cho ta như Đức Giêsu đã dạy: “Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những thứ tốt lành. Phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin người” (Mt 7,7-11; Lc 11,13).
+ Có thể do ta cầu nguyện với lòng ích kỷ hại nhân: Xin những gì có lợi cho mình mà hại cho người khác như hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đã nhờ mẹ mình đến xin Đức Giêsu cho được ngồi hai bên tả hữu Người trong Nước mà Người sắp thiết lập (x. Mt 20-21), hoặc xin Chúa làm điều trái nghịch với lòng từ bi nhân hậu của Chúa như hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an xin Thầy sai lửa trời xuống thiêu hủy làng Sa-ma-ri vì đã dám từ chối đón tiếp Thầy trò ở trọ (x. Lc 9,53-54)… nên những lời cầu xin ấy không đựơc Chúa chấp nhận (x. Mt 20,23; Lc 9,55). Ta nên chú trọng xin những ơn tinh thần như trong kinh Lạy Cha (x. Mt 6,9-14), vì sẽ dễ dàng được chấp nhận hơn là xin các ơn vật chất phần xác, vì liên quan đến luật tự nhiên do Chúa đã an bài khi sáng tạo vũ trụ vạn vật.
Trong tác phẩm: “Anh em nhà Ka-ra-ma-dốp” (the Brothers Karamazov) của Đớt-tốp-ki (Dostoevski) có kể câu chuyện về một bà lão kia. Bà cảm thấy đức tin của bà bị suy thoái theo với sự suy yếu sức khoẻ về thể xác. Ngày nọ bà đến gặp một vị linh mục già tên là Dốt-Si-Ma (Zossima). bà đã tâm sự về tình trạng đức tin của bà như sau: “Thưa cha, kỳ này con thường hoài nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Không biết Người có quan tâm đến hết mọi loài do Người dựng nên, trong đó có con hay không? Sau khi chết rồi con sẽ đi đâu? Ngoài thế giới đời này còn có đời sau không?…” Vị linh mục già chăm chú nghe bà nói và cuối cùng ông đã trả lời rằng: “thực ra chẳng có cách nào chứng minh cụ thể về những điều mà bà đang hoài nghi kia. Tuy vậy tôi đề nghị bà hãy áp dụng một phương pháp giúp bà luôn vững tin vào những chân lý ấy”. Bà lão ngạc nhiên hỏi: “Thưa cha, bằng cách nào vậy?” Vị linh mục liền đáp: “Bằng tình yêu. Phải, Bà hãy yêu thương người khác cách thành thật. Càng yêu thương người khác bao nhiêu thì bà lại càng vững tin vào Thiên Chúa bấy nhiêu và sẽ tin vào đời sau hơn. Càng yêu nhiều, thì đức tin của bà càng lớn lên, và các sự ngờ vực kia cũng tự nhiên tan biến hết. Đấy là một phương pháp đã được nhiều người áp dụng và tất cả đều chứng thực là rất hữu hiệu để củng cố đức tin”.
Một người đàn bà ngoại giáo Ca-na-an có đứa con gái bị quỷ ám đã đi tìm Đức Giêsu để xin Người chữa cho con gái bà lành bệnh. Nhờ có đức tin mạnh mà bà đã được Người ban cho như ý. Vậy để lời cầu xin của chúng ta xứng đáng được Chúa chấp nhận, chúng ta cần phải cầu nguyện với lòng tin như thế nào?
– Cần có một đức tin trưởng thành: Người đàn bà này đã kêu to lên để xin Đức Giêsu thương cứu con gái bà đang bị quỷ ám. Bà nói: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” Nhưng Đức Giêsu im lặng không đáp lại một lời! (22-23). Thực ra không phải Người thờ ơ lãnh đạm trước nỗi khổ đau của người khác. Nhưng Người muốn thử thách để xem đức tin của bà mạnh yếu thế nào? Nếu bà không kêu xin nữa thì đức tin nơi bà chỉ là tin vụ lợi: “Tin Chúa để được Người ban ơn như ý!” như người ta thường nói: “Theo đạo lấy gạo mà ăn”; “Cúi đầu lạy Chúa Ba Ngôi. Cho tôi được vợ tôi thôi nhà thờ!”. Nhiều khi chúng ta cũng gặp phải sự im lặng của Chúa như thế. Khi ấy, chúng ta có hồ nghi sự hiện hữu của Chúa và tự hỏi: “Thiên Chúa có hiện hữu hay không? Ngài có nghe thấy lời cầu xin của tôi không? Có nhìn thấy những khó khăn của tôi và sẵn sàng ra tay cứu giúp không?”.
– Cần có một đức cậy vững vàng: Người đàn bà này đã không ngã lòng trông cậy dù bị Đức Giêsu giả điếc làm ngơ. Bà luôn vững tâm và kiên trì kêu xin Người cứu giúp: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” (23b-25) Cuối cùng bà đã được như ý. Nhiều tín hữu chúng ta khi cầu xin mà không được nhậm lời, thì liền chán nản ngã lòng trông cậy, không cầu nguyện nữa và bắt đầu “hữu sự vái tứ phương” là chạy đến với thầy bói, thầy ngải hay làm những điều mê tín dị đoan khác….
– Một đức tin khiêm tốn và phó thác: Nghe Đức Giêsu trả lời: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”, bà ta thưa: “Thưa ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bà sằn sàng chịu đựng những lời miệt thị của người Do Thái, vì họ coi dân ngoại như loài chó. Chính sự khiêm tốn ấy khiến bà được Chúa yêu mến. Như vậy, tin không phải là cầu xin để đòi Chúa ban theo ý mình, nhưng là kiên nhẫn và vững lòng cậy trông, phó thác cho Chúa quan phòng định liệu.
1) Khi gặp tai ương họan nạn, bạn thường cầu xin với Thiên Chúa, với Chúa Giêsu hay với Đức Mẹ và các thánh làm phép lạ? 2) Qua kinh Lạy Cha, bạn thấy lời cầu nguyện do chính Đức Giêsu dạy có những đặc điểm nào? 3) Từ nay bạn quyết tâm sẽ cầu nguyện ra sao từ khi thức dậy ban sáng đến lúc đi ngủ ban đêm?
– Lạy Chúa Cha nhân ái. Con xin cảm tạ Cha vì biết bao hồng ân Cha đã đổ xuống trên con. Rất nhiều ơn Cha ban mà con cứ tưởng là chuyện tự nhiên như: khí trời con thở, cơm bánh con ăn, áo quần con mặc, đồ dùng con sử dụng… Thế mà con lại đau khổ khi không được Cha ban theo điều con xin, hay những khi Cha để con gặp phải những sự rủi ro trái ý. Con đã quên rằng đời con luôn được Cha bao bọc bằng muôn ngàn hồng ân lớn lao hồn xác.
– Lạy Cha. Con xin cảm tạ Cha vì những gì Cha đã không ban, vì con tin chắc rằng Cha biết điều ấy có hại cho phần rỗi đời đời của con, hoặc vì Cha muốn ban nhiều ơn khác có ích cho phần rỗi đời đời của con hơn. Xin cho con luôn vững tin vào tình thương quan phòng của Cha như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh. Nhờ đó khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi đuợc may lành như ý cũng như khí gặp phải những sự trái ý cực lòng… Xin cho con luôn biết cậy trông và phó thác trọn vẹn nơi tình thương quan phòng của Cha.
(Suy niệm của Lm Jude Siciliano – Chuyển ngữ: Anh Em HV Đaminh Gò-Vấp)
Quý vị có thấy bài Tin Mừng hôm nay khác thường không? Tin Mừng mô tả Đức Giêsu xem ra thiếu sự cảm thông, khiến chúng ta lúng túng. Một người đàn bà tha thiết cầu xin cứu giúp cho đứa con gái khốn khổ của mình. Bởi vì bà là người Canaan, không cùng niềm tin với Do Thái giáo, nên Đức Giêsu đối xử với bà không như mong đợi. Thoạt tiên, Người phớt lờ ra như không để ý đến bà, rồi theo cách nói của thời bấy giờ, ám chỉ những ai không phải là Do Thái là “những con chó”.
Câu chuyện có tác dụng đẩy chúng ta về phe “người yếu thế” – chúng ta muốn khích lệ người đàn bà rằng “Đừng bỏ cuộc! Người sẽ đáp lời cầu xin!” Thật lạ làm sao, chúng ta đứng về phía người thỉnh cầu, hy vọng Đức Giêsu sẽ dủ lòng thương đến bà mẹ này. Lần này không giống với những trường hợp khác khi một ai đó chạy đến xin Chúa cứu giúp. Thường thì Đức Giêsu tỏ ra có tấm lòng nhân hậu, sẵn sàng cứu giúp những kẻ kêu xin và tin tưởng vào Người. Nhưng câu chuyện Tin Mừng hôm nay là có cho thấy điều đó. Đức Giêsu thực sự có khác với Người trước đây chứ? Điều gì đang diễn ra?
Chúng ta đi vào câu chuyện Tin Mừng hôm nay bằng cách suy tư về niềm tin căn bản của chúng ta vào Đức Giêsu. Chúng ta tin gì về nhân tính của Người? Tôi dám nói rằng hầu hết chúng ta được dạy dỗ để xác tín mạnh mẽ vào thần tính của Đức Giêsu. Chúng ta tin Người là Lời Vĩnh Cửu của Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm. Trong việc giáo dục đức tin, chúng ta ít chú trọng đến một đạo lý đúng đắn và quan trọng không kém này là: Đức Giêsu cũng làm người thực sự. Chúng ta phải giữ sự cân bằng cho cả hai chân lý này. Nhưng chúng ta thường có khuynh hướng nhấn mạnh đến một khía cạnh của chân lý về căn tính Đức Giêsu, chú ý nhiều đến thần tính của Người. Đức Giêsu hoàn toàn là một con người – chân lý quan trọng không kém này vẫn thường bị lãng quên, ít là theo như tôi được giáo dục từ nhỏ.
Vậy, quý vị hãy tự hỏi: Nếu có người đến gõ cửa, Đức Giêsu có biết đó là ai, trước khi ra mở cửa không? Theo truyền thống, chúng ta sẽ không lưỡng lự trả lời rằng: “Biết chứ. Đức Giêsu là Thiên Chúa nên Người biết rõ mọi sự”. Dựa trên cái nhìn này, chúng ta sẽ giải thích cách đối xử thiếu thiện cảm của Đức Giêsu với người đàn bà trong bài Tìn Mừng rằng: Người biết tất cả những điều Người dự định làm; chẳng qua là Người đang thử thách niềm tin của bà mà thôi. Và người đàn bà này quả thực có lòng tin!
Lòng tin đã thôi thúc bà vượt qua ranh giới thông thường của mình, bà là người Canaan, đã rời khỏi quê hương để đến với Đức Giêsu. Cần nhớ rằng người Canaan chính là cư dân bản xứ của miền Đất Hứa, và đã bị dân tộc Israel đẩy ra khỏi vùng đất của họ. Những mâu thuẫn giữa người Do Thái và người Canaan có từ xa xưa, và người đàn bà này rất liều lĩnh khi dám đi vào vùng đất của kẻ thù. Bà ta can đảm rời khỏi nơi thân thuộc an toàn, phiêu lưu vào một vùng đất đầy nguy hiểm để cầu mong sự cứu giúp của Đức Giêsu. Có thể là, khi lên đường, bà ta đã thừa nhận tính ưu tuyển của dân Do Thái và niềm tin của họ như một điểm tựa để gặp gỡ một Thiên Chúa đầy xót thương, sẵn lòng cứu giúp bà. Sự gan dạ và liều lĩnh của bà đã lộ ra khi bà đến với Đức Giêsu mà không có một người đàn ông nào đi theo bảo vệ – đó là một điều khác thường đối với các phụ nữ thời bấy giờ.
Lòng tin của bà cũng được biểu lộ qua sự kiên trì khẩn nài Đức Giêsu. Bà không dễ dàng chịu sự can ngăn, thậm chí khi Đức Giêsu hàm ý quăng thức ăn của “con cái” (người Do Thái) cho “lũ chó” (dân ngoại). (Trong ngôn ngữ gốc, từ mà Đức Giêsu sử dụng là “chó con”, nghe không nặng nề như từ “lũ chó”. Chúng ta có cảm tưởng Đức Giêsu tỏ ra cởi mở đối với người đàn bà; Người tránh dùng từ “lũ chó” là ngôn từ người Do Thái thời ấy dùng để nói về người đàn bà ngoại giáo này). Bà ta nhất định rằng mình có được quyền lợi gì đó, ngay cả bà ta thuộc vào hàng “lũ chó”, chỉ được hưởng những mảnh vụn trên bàn rơi xuống. Xem ra bà cũng tin rằng Thiên Chúa sẽ cho cả “con cái” lẫn “lũ chó” được ăn – cả người Do Thái lẫn dân ngoại.
Đức Giêsu vừa mới bị giới Pharisêu chỉ trích vì các môn đệ của Người (và hiểu rộng ra là cả Đức Giêsu nữa) không tuân thủ luật chay tịnh và nghi thức thanh tẩy (chương 15, 1- 20). Người đã gọi giới lãnh đạo tôn giáo là những kẻ đạo đức giả, chỉ tôn thờ thiên Chúa bằng môi miệng. Ngược lại, Đức Giêsu khen ngợi người đàn bà xứ Canaan này có lòng tin mạnh mẽ. Một trong số những người nhỏ bé nhất mà giới lãnh đạo Do Thái xem thường thái độ thờ phượng cũng như việc thực hành luân lý của người đó, nay lại được Đức Giêsu tán dương hết lời. Bởi thế, trong mắt Đức Giêsu ai mới được xem là đạo đức và ngay chính? Những người nhận ra nơi Người ý định ân sủng của Thiên Chúa nhằm cứu chữa, tha thứ và đón nhận chúng ta bước vào bàn tiệc. Tại bàn tiệc đó, như bàn tiệc Thánh Thể của chúng ta hôm nay, Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta thứ lương thực tốt lành nhất.
Các môn đệ cũng muốn xua đuổi người đàn bà này. Tuy nhiên như đã thấy, bà ta biểu lộ một lòng tin mạnh mẽ hơn cả các ông, vì bà ta nhận ra rằng Thiên Chúa mà Đức Giêsu loan báo hằng đón nhận tất cả mọi người, kể cả những ai được cho là không hề xứng đáng xếp vào hàng ngũ những người đức hạnh, ngay chính. Thiên Chúa không xem tầng lớp nào hay dân tộc nào có đặc quyền nhận lãnh ân huệ của Thiên Chúa. Tất cả những ai tin đều được Người lắng nghe.
Trở lại với câu hỏi ban đầu của chúng ta: nếu một ai đó gõ cửa, liệu Đức Giêsu có biết trước người đó là ai trước khi ra mở cửa hay không? Nếu nhấn mạnh đến thần tính mà không chú ý đến nhân tính của Người, câu trả lời sẽ là: “Dĩ nhiên là biết chứ”. Tuy nhiên, những năm gần đây chúng ta đã có một cách nhìn nhận khác về nhân tính của Đức Giêsu qua những nghiên cứu Kinh Thánh mới được khôi phục. Chẳng hạn như, thánh Phaolô nói về sự tự huỷ của Đức Kitô, “mặc lấy thân nô lệ, được sinh ra trong kiếp phàm nhân, trở nên giống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi” (Pl 2, 6-7). Thư gởi tín hữu Hípri nói rằng Đức Giêsu “trải qua mọi cám dỗ như chúng ta, nhưng chẳng bao giờ phạm tội.” (Hr 4,15). Cũng trong thư Hípri, Đức Giêsu “trải qua mọi đau khổ mới học được thế nào là vâng phục”. Sau khi hai ông bà tìm thấy trẻ nhỏ Giêsu trong Đền Thờ, thánh Luca nói với chúng ta rằng Người đã trở về quê hương cùng cha mẹ, “hằng vâng phục các ngài” và “càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và nhân đức trước mặt Thiên Chúa và mọi người” (2, 51-52). Từ quan điểm Kinh Thánh, chúng ta thấy rằng Đức Giêsu, giống như mọi người, không đến thế gian này với con người đã trưởng thành đầy đủ và hiểu biết mọi sự, nhưng giống như chúng ta, Người “càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và nhân đức trước mặt Thiên Chúa và mọi người”.
Từ quan điểm thứ hai này, chúng ta có thể nói rằng khi mới gặp gỡ người đàn bà và nghe lời thỉnh cầu của bà ta, Đức Giêsu biểu lộ ý định ban đầu của Người là chỉ rao giảng sứ điệp cho “con chiên lạc của nhà Israel”. Nhưng khi thấy bà tin vào Người một cách mạnh mẽ, đặc biệt là sau khi Người đã bị những kẻ vốn được xem là tốt lành hơn – giới lãnh đạo Do Thái – chối bỏ, thì Đức Giêsu thay đổi kế hoạch của Người.
Người đàn bà trong bài Tin Mừng là dấu hiệu rõ ràng cho thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa được dành cho tất cả mọi người, mọi dân tộc – không phải chỉ dành cho người Do Thái. Cuộc gặp gỡ với người đàn bà xứ Canaan biểu hiện một sự thay đổi trong tư tưởng và nhận thức của nhân tính Đức Giêsu về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đối với con người. Sự thay đổi này xảy ra như thế nào? Thưa, nhờ người đàn bà đã kiên trì và không bằng lòng chấp nhận một quan điểm hạn hẹp về Thiên Chúa. Bà đã nhận ra rằng nguồn gốc sinh thành và tôn giáo không thể ngăn cản dòng chảy tình yêu của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người. Nếu chúng ta biến Thiên Chúa trở ra quá hạn hẹp và nhỏ mọn trong tình yêu thì chúng ta quả đã không nghe Tin Mừng.
Bởi thế, chúng ta có hai đường lối phổ biến để đi vào câu chuyện này. Một là, nhấn mạnh đến thần tính của Đức Giêsu, coi các hành động của Người là hành động của một Thiên Chúa toàn năng, Đấng đã khơi dậy niềm tin nơi một người ngoại giáo, một niềm tin sẽ được loan truyền “cho đến tận cùng trái đất”. Một cách tiếp cận khác, nhìn Đức Giêsu là một con người trọn vẹn, qua một cuộc gặp gỡ, Người đã mở rộng sứ vụ của mình hướng đến tất cả các quốc gia.
Các tín hữu thời Giáo hội sơ khai, và cũng có cả những người trong thời đại chúng ta nữa, sẽ lên tiếng phản đối thông điệp “bao gồm” được khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay. Thậm chí sau biến cố Phục Sinh, một số người trong Giáo Hội cho rằng sứ điệp của Đức Giêsu chỉ hạn chế cho Israel, dầu rằng đoạn kết của Tin Mừng Mátthêu có lệnh truyền của Đức Giêsu Phục Sinh rằng phải đi đến tận cùng thế giới để loan báo Tin Mừng (Mt 28,18-20).
Thiên Chúa đã liên kết chúng ta trong sứ điệp của Đức Giêsu về ơn tha thứ và giao hoà. Chúng ta không làm bất cứ điều gì để giành được sự liên kết đó, nó được trao ban cho chúng ta nhờ sự sống, sự chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, và chúng ta được mời gọi đến với bàn tiệc, nơi mà lương thực của triều đại Thiên Chúa được trao ban cho chúng ta. Quy tụ nơi bàn tiệc này, chúng ta nghe lại lệnh truyền của Đấng Phục Sinh: phải đi rao giảng Tin Mừng cho khắp thế gian.
Có ai hay một nhóm người nào đó tự động được liên kết vào trong nhóm bạn của chúng ta và trong nhóm thành viên của Giáo Hội không? Có ai bị xem nhẹ hay bị từ chối không? Chúng ta xem ai là người bề trên của mình? …Vậy ai bị coi là bề tôi hay là người không đáng giá gì trong thời đại chúng ta? Nói khác đi, những ai bị xem là người Canaan, người bị từ chối và bị đẩy ra ngoài cách nhanh chóng, trong cuộc sống của chúng ta? Đức Giêsu đã nghe tiếng kêu xin và đón nhận người đàn bà. Vậy hằng ngày tôi có mở lòng ra trước tiếng kêu xin của những người đang cần tôi cứu giúp không? Chúng ta hãy đáp trả lời Tin Mừng chúng ta đã lãnh nhận bằng cách làm cho tha nhân những điều mình đang được đón nhận. Như Thiên Chúa đã lắng nghe và đáp lại lời chúng ta, chúng ta hãy sẵn lòng lắng nghe và đáp trả những ai đang cần chúng ta cứu giúp.
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Người Do Thái thời Chúa Giêsu coi tất cả những ai không có máu Do Thái là dân ngoại. Ngay cả những người có máu Do Thái, nhưng nếu bị tiêm nhiễm bởi những thói hư nết xấu của dân ngoại bang thì cũng bị coi là dân ngoại. Tuy nhiên người đàn bà xứ Canaan được coi là dân ngoại đã không sợ đến với Chúa để xin một ân huệ. Các môn đệ Chúa toan đuổi bà đi, vì bà có vẻ quấy rầy. Điều đó giúp ta hiểu cái cuộc đấu lý giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Canaan.
Có lẽ để thử đức tin của bà, ngay cả chính Chúa cũng toan đặt cản trở cho lòng tin của bà lúc ban đầu, khi bảo bà rằng sứ mệnh của Người là được sai đến với những chiên lạc nhà Israel mà thôi, nghĩa là sứ mệnh của Người không được sai đến với dân ngoại như bà.
Lúc đầu Chúa có vẻ lãnh đạm, lại còn nói những lời có vẻ chạm đến tự ái của bà như không nên lấy bánh của con cái mà cho chó con (Mt 15,26). Theo mạch văn, thì con cái đây được hiểu là dân được chọn, còn dân ngoại như bà được ví như chó con. Đó là cuộc đấu lý hay đúng hơn là cuộc chơi chữ. Và bà cũng tỏ ra tài khéo trong cách đối đáp: “Vâng. Lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bản chủ rơi xuống” (Mt 15,27). Lời đối đáp của bà có nghĩa là bà sẵn sàng nhận một ơn huệ nhỏ Chúa ban cũng được vậy.
Thấy bà có lòng tin vững mạnh, Chúa lên tiếng ca tụng đức tin của bà, và ban cho bà được toại nguyện, cho con gái bà được thoát khỏi quỉ ám. Chúa nói với người đàn bà ngoại giáo sứ mệnh của Người là trước hết giảng dạy và chữa lành dân riêng của Chúa. Dân Chúa có được cơ hội đầu tiên để nhận lãnh ơn cứu độ, sau đó đến lượt dân ngoại.
Bằng việc Chúa ban cho người đàn bà dân ngoại có lòng tin được hưởng ân huệ, cũng như Chúa đã mở rộng tâm hồn cho người đàn bà dân ngoại, cho viên sĩ quan dân ngoại, cho người phụ nữ dân ngoại ở giếng Gia-cóp, các môn đệ hiểu được cái sứ mệnh của Chúa bao quát hơn, rộng lớn hơn, không chỉ giới hạn về một dòng giống, một dân tộc mà thôi.
Trước những biến cố này, đức tin vào Đấng cứu độ chỉ giới hạn đến một dân tộc Chúa chọn. Cái thủ đô và trung tâm tôn giáo của họ là Jerusalem. Tuy nhiên Tiên tri Isaia nhìn thấy một Jerusalem mới, có tính cách thiêng liêng, là trung tâm của lòng xót thương của Chúa. Bài trích sách Tiên tri Isaia hôm nay ghi lại: Người ngoại bang nào muốn phụng sự Chúa và yêu mến Người, thì cũng trở nên tôi tớ của Người (Is 56,6).
Jerusalem là thành được chọn cho ơn cứu độ, nhưng ơn cứu độ không phải là độc quyền cho dân thành Jerusalem mà thôi. Cái vương quốc mà Chúa hứa cho dân riêng của Chúa bây giờ trở nên rộng lớn hơn vì Chúa Cứu Thế đã đến và bày tỏ mình ra, không những cho dân riêng mà còn cho cả dân ngoại nữa. Cái việc chuyển hướng từ cái nhìn có tính cách địa phương, cá biệt, đến cái nhìn có tính cách phổ quát nơi các tông đồ bắt đầu từ khi Thánh Phaolô rao giảng tin mừng cho dân ngoại.
Thánh Phaolô là người Do Thái, nhiệt thành theo đạo Do Thái đến độ cuồng tín. Chẳng thế mà ông đã xin trát của quan tòa để đi bách hại đạo mới là đạo Kitô giáo. Khi được ơn trở lại, Thánh Phaolô đã nhiệt thành rao giảng đạo Kitô giáo cho người Do Thái. Chỉ khi người Do Thái không chịu chấp nhận tin mừng Phúc Âm của đạo mới, thì Thánh Phaolô mới tìm đến rao giảng tin mừng Phúc Âm cho dân ngoại.
Người đàn bà xứ Canaan khẩn khoản nài xin Chúa ban cho con bà được khỏi bệnh quỉ ám. Những cử chỉ khó chịu của các tông đồ, cộng thêm thái độ hờ hững của Chúa lúc ban đầu cũng không làm nản lòng bà. Lời từ chối ban đầu của Chúa với người phụ nữ chỉ là hình thức thử thách đức tin và lòng kiên trung của bà.
Đối với đạo cũ, đạo Do Thái, ta cũng được coi là dân ngoại. Bằng việc chấp nhận đức tin vào Chúa Cứu Thế, ta được trở nên dân riêng, mới được chọn. Thiết tưởng câu chuyện Chúa thử thách đức tin của người đàn bà ngoại giáo phải dạy ta bài học về đức tin. Vậy đức tin của ta đang ở mức độ nào?
(Suy niệm của Sr. Ter Thanh Thiên)
Nếu nói chung về ý nghĩa của các bài đọc cho ngày Chúa Nhật hôm nay, ta thấy chúng cùng ca ngợi lòng thương xót vô biên của Chúa đã vui lòng khấng ban ơn cứu độ cho hết mọi người, không phân biệt ai. Riêng bài Phúc Âm, ngoài bài học về đức công bình bác ái, coi mọi người là anh chị em ngang hàng với ta, còn dạy ta cách cầu nguyện nữa, mà bà mẹ người Canaan dân ngoại là mẫu gương sáng.
Câu chuyện của người mẹ Canaan cũng được Chúa Giêsu thương nhận lời cầu xin chữa bệnh cho con của bà là một bằng chứng cho lời tiên tri trong bài đọc thứ nhất, về việc ơn cứu độ sẽ được lan tràn khắp địa cầu: “… Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu, và hiến tế của chúng trên bàn thờ,vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai cũng muốn minh chứng cho mọi người chúng ta đặc biệt là những người Do Thái đồng thời với Ngài biết tại sao ngài đã làm tông đồ cách riêng cho dân ngoại. Ngài đã viện tới lý lẽ của trái tim đầy thương xót bao dung của Thiên Chúa, muốn cho hết mọi người con cái được thứ tha và được cứu độ. Lý lẽ mà thánh Phaolô dùng đây nhắc nhở chúng ta cần phải suy nghĩ đến thái độ của mình: một đôi lần đã sai sót, đối xử không công bình, phân biệt giàu nghèo, tuổi tác, kỳ thị chủng tộc, màu da, ngôn ngữ với anh chị em sống chung quanh ta.
Chỉ có hai lần trong Phúc Âm nói đến việc Chúa Giêsu đi ra khỏi vùng đất Do Thái, đến với dân ngoại và đây là một. Lần này lại là lần duy nhất mà Phúc Âm kể chuyện có kẻ lanh lợi cãi thắng Chúa Giêsu trong cuộc đấu trí với Ngài. Người ấy lại là một người đàn bà Canaan, dân ngoại. Đối với người Do thái thời bấy giờ, người đàn bà không có địa vị trong xã hội. Họ còn thản nhiên khinh thị gọi những người dân ngoại là “cho”. Vừa là dân ngoại, lại thuộc hạng đàn bà, bà mẹ Canaan nhận mình là “chó con” thì cũng không lạ lắm. Chúa Giêsu tưởng là sẽ làm cho bà ta bỏ cuộc không quấy rối các môn đệ nữa khi nghe Ngài thử gọi bà trong lối đối xử bất công là “chó”. Thật không ngờ bà dùng ngay chính lối nói khiêu khích của Chúa Giêsu để trả lời Ngài. Có người cho rằng nhận là “chó con” thì vinh dự gì mà gọi là thắng cuộc đâu. Nhưng nên nhớ rằng khi phải “tranh cãi” với lòng thương xót thì vũ khí lợi hại nhất và chắc thắng là đức khiêm nhường. Bà mẹ Canaan này đã dùng đúng vũ khí và đúng thủ đoạn khi tranh cãi với một người thông minh như Chúa Giêsu, người “đã làm cho bọn Saducê phải câm miệng” (Mt 22,34), và bọn Pharisêu thông luật “không đáp lại những câu chất vất của Người được một tiếng” (Mt 22,46). Vì thế, chúng ta không nên ngại ngùng gì khi phải “tranh cãi” với cả Thiên Chúa, nhưng phải nhớ dùng đến vũ khí “đức khiêm nhường” mới thắng được.
Làm sao mà bà mẹ Canaan này có được thứ vũ khí “đức khiêm nhường” để mà đấu với Chúa Giêsu? Chắc hẳn đó phải nhờ đến lòng thương con vô bờ bến của bà. Để được Chúa thương nhận lời cầu nguyện của ta, ít là cần 3 yếu tố sau: yêu thương, khiêm nhường, và bền chí. Thực ra cả ba yếu tố đó quy lại chỉ một mà thôi: lòng bác ái yêu thương. Lòng yêu thương của bà mẹ đối với người con gái của bà là lòng yêu thương thật sự. Chính lòng yêu thương nầy đã khiến cho bà có thêm được nhân đức khiêm nhường mau mắn nhận mìnhlà “chó con” và kiên nhẫn, bền lòng bền chí đi lẽo đẽo theo Chúa mà “kêu mãi”, đến nỗi các môn đệ phải sốt cả ruột lên.
Nhắc đến tình người mẹ yêu thương con mình đang phải chịu đớn đau mà đã không ngần ngại đi xin xỏ năn nỉ người mắng chửi mình là “cho”, đã mau mắn nhận mình là “chó con” để người đó chữa bệnh cho con mình, chúng ta liên tưởng đến tình Chúa quá đỗi yêu thương ta. Người đã vui lòng hạ mình xuống nhận thân phận thấp hèn để cứu chữa ta khỏi tội lỗi và sự chết. Người đã không ngần ngại chịu thống khổ và chịu chết nhục nhã trên cây thánh giá như một “con chó chết” để cứu chuộc chúng ta. Lòng ta sao không bừng lên ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa của ta, là người Mẹ Hiền, là người Mẹ Yêu đã sinh ra ta vào cuộc đời, nuôi dưỡng ta bằng chính Thịt Máu mình, chữa lành ta khỏi mọi tội lỗi tật nguyền, và cứu ta cho khỏi chết đời đời! Hãy yêu mến Người bằng cả trái tim, với trọn tình yêu, sức lực, và ý chí của ta! Hãy yêu Người!
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Có một giai thoại kể rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò chơi mạo hiểm. Hôm đó anh mang một chiếc dù lớn đến bên bờ một vực thẳm tính để chơi cho thỏa chí mạo hiểm của anh, không biết loay hoay thế nào, anh trượt chân té xuống vực thẳm, may quá anh bám được một nhánh cây chìa ra trên bờ vực. Khi đã nắm được nhánh cây kia, anh thở phào một cái, tuy dù nguy hiểm vẫn chưa qua, nhưng anh nghĩ như thế này là có hy vọng sẽ được cứu.
Anh ngước mắt nhìn lên bờ vực, không thấy có bóng dáng một ai, cúi xuống, anh thấy choáng váng mặt mày vì vực thẳm sâu, anh cũng biết rõ là không thể bám vúi như thế này mãi được, vì thế, anh nghĩ chỉ còn cách cầu nguyện. Thế là anh cầu xin: “Lạy Chúa, xin cứu con, con xin hứa con sẽ làm bất cứ điều gì Chúa muốn”. Bỗng có tiếng Chúa từ trời vọng xuống: “Được, Ta sẽ cứu con, nhưng trước khi cứu con, Ta muốn biết con có thực sự tin là Ta có thể cứu con được không”. Anh thưa ngay: “Lạy Chúa, con tin chứ, con tin chắc là Chúa cứu được con, Chúa cứu con ngay đi, con mỏi tay lắm rồi”. Chúa nói: “Được, nếu con tin thì con cứ buông tay con đang bám vào nhánh cây đó đi”. Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào nhánh cây chứ không chịu buông tay ra, rồi chàng ngẩng nhìn lên bờ cố la lớn: “Có ai ở trên bờ không, cứu tôi với”.
Giả sử chúng ta là chàng thanh niên trên đây, liệu chúng ta có dám buông tay ra không? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh xảy ra trong cuộc sống của chúng ta không? Điều Thiên Chúa muốn là chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Chúa. Lòng tin tưởng của chúng ta phải như em bé trong câu chuyện sau:
Cách đây ít lâu, báo chí tường thuật lại một sự kiện: Vào một đêm kia, một đám cháy bùng lên tại một ngôi nhà, trong khi những ngọn lửa phừng phừng bốc lên, người ta trông thấy người cha, người mẹ và mấy đứa con hấp tấp chạy ra tức khắc, họ buồn rầu nhìn ngôi nhà mình bốc cháy. Bất chợt họ nhận ra thiếu đứa con nhỏ nhất, một đứa bé trai năm tuổi. Đứa bé lúc đó chạy ra, thấy khói lửa nghi ngút, nó hoảng sợ lùi lại, rồi leo lên tầng trên. Mọi người nhìn nhau: không thể nào liều lĩnh đi vào, trong nhà bây giờ chỉ còn là một lò lửa hừng hực. Thì kìa, một khung cửa sổ trên kia mở toang, đứa bé giơ tay kêu cứu.
Cha nó thấy nó, ông quát to: “Nhảy xuống đi”. Đứa bé chỉ thấy khói lửa mịt mù, nhưng nó nghe ra tiếng cha nó, nó liền đáp: “Ba ơi, con không thấy ba đâu cả”. Cha nó lại quát: “Ba thấy con, nhảy đi”, đứa bé đã nhảy, và đã bình an vô sự rơi vào vòng tay cha nó, vì ông kịp đỡ lấy nó.
Đứa bé đứng trong ngôi nhà bốc cháy ấy lại không phải là hình ảnh diễn tả người Kitô hữu đứng trước mặt Thiên Chúa sao? Trong cơn khốn quẫn, chúng ta nghe ra tiếng Chúa bảo mình: “Hãy tin tưởng vào Ta, hãy nhảy vào vòng tay của Ta”, và rất nhiều phen chúng ta đã trả lời: “Chúa ơi, con chẳng thấy Chúa đâu cả”, và đã tưởng rằng Chúa bỏ rơi mình. Có bao giờ chúng ta nghĩ như thế không hay nghĩ tương tự như thế không? Dường như Chúa đi đâu vắng trong lúc chúng ta thật cần đến Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay, một lần nữa, nhắn nhủ chúng ta về giá trị của đức tin. Đức tin có sức mạnh, có khả năng đảo ngược tình cảnh trong đời người, giúp chúng ta vượt được gian khó, và làm được những việc quá sức tự nhiên của mình. Người phụ nữ ngoại giáo trong Tin Mừng đã có một đức tin như thế, nên bà đã nhận được điều bà muốn xin. Tuy con gái bà bị quỷ ám khốn cực và các thầy thuốc đã vô phương chữa trị, tức là tình cảnh của bà đã tuyệt vọng về mặt tự nhiên, nhưng bà tin Chúa có thể cứu chữa được con bà, nên bà đến kêu xin Chúa, và dù Chúa thử thách bà, bà vẫn kiên nhẫn và hết lòng tin tưởng. Chính vì lòng tin vững mạnh đó, Chúa đã làm phép lạ cứu chữa con gái bà.
Có lẽ sau đức tin của viên đại đội trưởng ở Ca-phác-na-um thì phải kể đến đức tin của người phụ nữ Ca-na-an này, là người ngoại giáo nhưng hết lòng tin tưởng vào quyền phép của Chúa Giêsu. Đây là tấm gương và bài học cho chúng ta khi cầu nguyện: Chúng ta hãy kiên nhẫn, cầu xin chưa được, cầu xin tiếp, cầu xin mãi, đừng bao giờ nản lòng, vì ai kiên nhẫn và tin tưởng cầu xin, sẽ được như ý.
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt 3 bài đọc Chúa Nhật XX năm A hôm nay, đó là “qua dân tộc Do Thái, ơn cứu độ đã đến với dân ngọai”. Qủa thế, ngay bài sách tiên tri Is.56,1.6-7 Ngôn Sứ đã nói đến viễn cảnh lương dân nhập đòan cùng con cái Abraham, đến bài đọc II thư gửi tín hữu Rm.11,13-15.29-32 Thánh Phaolô cũng xác định rằng Ngài được tuyển chọn là để cho dân ngọai. Và bài Tin mừng Chúa Giêsu nói tới việc Ngài được sai đến cho con cháu nhà Israel nhưng vì họ cứng lòng mà dân ngọai được mời gọi.
Chúa Giêsu đến là để tìm những con chiên lạc nhà Israel, nhưng ở đây Chúa Giêsu chữa bệnh cho con người phụ nữ Canaan. Thật ra, Ngài chỉ làm phép lạ này sau cuộc chối từ dai dẳng, như thế Ngài chỉ làm vì bất đắc dĩ mà thôi. Trước khi làm Ngài còn muốn xác quyết mạnh mẽ việc tuyển chọn Israel trước mặt các môn đệ và ngay chính dân Do Thái cứng lòng tin nhất ” Ta chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà Israel mà thôi”, phải phân phát bánh, nghĩa là Tin mừng cho “con cái” nghĩa là cho kẻ thừa tự lời hứa trước đã. Vì thế, Đức Giêsu chỉ nhượng bộ trước lời cầu xin của người đàn bà sau khi bà đã nhận ra sự chia cách do Thiên Chúa muốn giữa dân Ngài và mọi dân khác. Sự chia cách ấy bao giờ cũng linh thánh. Như vậy, Thiên Chúa lựa chọn dân Do Thái là vì dân tộc khác.
Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho dân Do Thái là để cho các dân tộc, cho nên ơn cứu độ có tính phổ quát. Chúa Giêsu nói với bà như là sự từ chối ” Không nên lấy bánh của con cái mà cho lòai chó”. Ngài nói như thế để cảnh cáo cho người Do Thái biết rằng: Thiên Chúa đã ưu tiên cho họ mà họ từ chối, nên ơn cứu độ sẽ được ban cho các dân tộc. Trong kế đồ cứu độ, có nhiều giau đọan, Đức Giêsu đến đào tạo một nhóm người rồi sau đó là giai đọan của Thần Linh, Tin mừng được rao giảng cho mọi dân tộc vì mọi người đều là con cái của Abraham nếu có lòng tin vào Đức Giêsu (x.Rm11,13…).
Đó là Israel của lòng tin, Israel qui tụ những kẻ tin và trong đó chúng ta thấy có viên quan bách quản Rôma, một người phụ nữ Samari, một đám đông không kể xiết tòan những người tội lỗi, nên Chúa Giêsu không muốn lọai trừ người phụ nữ Canaan này, Chúa chỉ thách thức bà đi đến đức tin chân chính để bà có thể đến với ngài. Và chính bà cũng hiểu điều này và diễn tả niềm tin mới bằng một công thức thật cảm động, đầy niềm vui và lòng khiêm tốn ” những chó con cũng được ăn những vụn bánh rơi từ bàn rớt xuống”.
Bà kiên trì nài nỉ với Chúa Giêsu không hề nao núng, dù bị các môn đệ từ chối. Nhưng bà tin là Chúa Giêsu, Đấng tốt lành nên không nản chí và bà còn kêu to lên ” Lạy Ngài là con vua David xin thương tôi”, tước hiệu ” con Đavid” có ý nói Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai đến để thực hiện lời hứa với nhà Đavit. Điều này chính ra người Do Thái phải là người loan báo cho dân ngọai, thì giờ đây người dân ngọai lại rao giảng cho người Do Thái.
Nhìn vào thái độ của người phụ nữ chúng ta hãy nhìn lại mình, chúng ta có hay than phiền về Thiên Chúa khi chúng ta gặp thử thách không? Đức tin của chúng ta lớn bao nhiêu? Chúng ta đòi Chúa giải quyết những công việc mà bản thân chúng ta không giải quyết được, chúng ta đòi Thiên Chúa phải ban cho chúng ta điều này điều kia mà chúng ta không xin Ngài giải thóat chúng ta khỏi sự dữ.
Người phụ nữ Canaan đã hiểu rằng không gì ngòai lòng tốt và sự thánh thiện của một ngôn sứ có thể giải phóng được bà, bà kiên trì cầu xin cả trong lúc bà không được niềm nở đón tiếp.Lạy Chúa, Chúa đã đón nhận đức tin người phụ nữ ngọai giáo để nói lên tính cách phổ quát của ơn cứu độ. Xin cho chúng con lòng nhiệt thành, hăng say loan báo Tin mừng đến cho muôn người, để Thánh Ý Chúa được thể hiện mau chóng.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội và lịch sử thế giới, chắc nhiều người trong chúng ta đều biết đến cuộc Thập Tự chinh đẫm máu chống lại người Hồi Giáo vào những năm 1095-1291, bước sang thế kỷ 16 là cuộc chiến giữa người Tin lành và Công giáo tại Âu Châu, rồi cuộc đối đầu giữa những người quá khích Ấn giáo với những người theo các tôn giáo khác tại Ấn Độ…
Và Mahamat Ganhdi, người đã giải phóng Ấn Độ khỏi ách nô lệ của người Anh bằng cuộc tranh đấu bất bạo động đã bị một thanh niên Ấn Giáo hạ sát, chỉ vì anh ta không thể chấp nhận được sự kiện Ganhdi lại yêu thương và tha thứ cho người Hồi Giáo.
Những câu chuyện trên đây muốn nói lên một trong những thảm trạng đau thương của lịch sử nhân loại hiện nay. Đó là sự xâu xé do sự bất khoan dung tôn giáo gây nên. Thế đó, con người luôn bị cám dỗ nhân danh niềm tin, nhân danh Thượng Đế của mình để bách hại và loại trừ người khác.
Thời Chúa Giêsu, những người Biệt phái cũng có thái độ tương tự. Nhân danh lề luật, nhân danh Thiên Chúa, họ đã kết án và loại trừ nhiều người, nhất là những kẻ bé mọn, những người dân ngoại, những người mà họ cho là tội lỗi.
Thế nhưng khi đến trần gian, Chúa Giêsu đã không loại trừ một hạng người nào. Được sai đến trước tiên cho người Do Thái. Chúa cũng đã đi đến với cả nhân loại. Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng khoan dung của Thiên Chúa, một Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả mọi người, và muốn quy tụ mọi người vào trong gia đình của Ngài. Điều này được thể hiện rõ trong phần phụng vụ lời Chúa hôm nay.
Để thấy rõ điều này, chúng ta cùng đọc lại các bài đọc trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Trước hết, bài đọc một được trích đọc hôm nay, thuộc phần thứ ba trong sách của ngôn sứ Isaia (56, 6-7). Đoạn này được viết trong bối cảnh dân Do Thái vừa từ nơi lưu đày trở về. Tại Đất Hứa, và ngay chung quanh thành Thánh Giêrusalem đã có rất nhiều người dân ngoại sinh sống. Do đó, vấn đề đặt ra là họ phải đối xử với những dân tộc này như thế nào. Hơn nữa, những người ngoại bang này có được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa hay không? Đứng trước những vấn nạn đó, vị ngôn sứ được mạc khải của Thiên Chúa đã đưa ra cho họ một câu trả lời thật rõ ràng: “Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện, Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Như thế, ngay từ trong Cựu ước, mạc khải về tính phổ quát của ơn cứu độ đã bắt đầu được hé mở.
Tính phổ quát này của ơn cứu độ đã trở nên hiện thực với việc xuất hiện của Chúa Giêsu. Ngay từ khi Giáng Sinh thì một trong những người đầu tiên đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, chính là những đạo sĩ người dân ngoại đến từ Đông Phương (x. Mt 2, 1-12). Rồi hôm nay đây, trong lúc những người đồng hương Nazareth với Chúa Giêsu đã không tin Ngài (x. Mt 13, 53-57); các Luật sĩ và Biệt phái thì dựa vào các lệ truyền của tiền nhân để huỷ bỏ chính Lời Thiên Chúa (x. Mt 15, 1-9). Họ đang tranh luận với Ngài về luật “sạch” và “dơ” (x. Mt 15, 10-20). Họ tự hào là công chính vì có lề luật, để loại bỏ những người mà họ cho là dân ngoại, là “dơ”, thì ngay lúc đó, một người phụ nữ người Canaan, một thứ “dân ngoại” chính gốc đã hết lòng tin tưởng và nhận được ân ban của Đức Giêsu (x. Mt 15, 21-28). Đây là khúc mở đầu, sau khi Phục Sinh, trước khi về trời, thì di chúc cuối cùng của Đức Kitô cho các tông đồ là ra đi loan báo Tin mừng cho muôn dân (x. Mt 28, 19-20).
Vâng lời Thiên Chúa, các tông đồ đã lên đường rao giảng cho hết mọi dân tộc. Chính thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Roma chúng ta vừa nghe, cũng khẳng định: “Tôi là Tông đồ các Dân ngoại”. Và ngài còn cho thấy, lẽ ra Tin mừng phải được loan báo cho dân Israel là dân được Chúa chọn trước, nhưng vì họ đã cứng lòng, không tin, nên giờ đây, vị tông đồ đã quay sang loan báo cho anh em dân ngoại để họ được cứu rỗi “Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót”. Dù vậy, thánh nhân cũng hy vọng chính khi thấy dân ngoại tin nhận Đức Kitô và được ơn cứu độ, thì lúc đó dân Israel cũng sẽ quay lại để được ơn cứu độ “cũng thế, nay họ không tin, vì thấy Chúa thương xót anh em, để họ cũng được thương xót”.
Như vậy, ơn cứu độ không thể bị giới hạn bởi bất cứ một dân tộc nào, cho dù đó là dân Chúa chọn; hay bởi bất cứ miền đất nào, dù đó là Đất Hứa. Tuy nhiên, mặc dù là ơn của Thiên Chúa, nhưng để lãnh nhận được ơn cứu độ này, mỗi người chúng ta cũng cần thể hiện một thiện chí nào đó của mình.
Trước hết, chúng ta phải xác tín lại với nhau rằng ơn cứu độ là một ân ban nhưng không của Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô: “Vì Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc. (Rm 15, 29).
Kế đến, ơn cứu độ cũng đòi chúng ta một sự mở rộng cõi lòng, sẵn sàng đón nhận và hết lòng tin tưởng trong tinh thần khiêm hạ. Chúng ta có thể nhận ra được điều này trong lời cầu xin của người phụ nữ Canaan, khi bà xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái bà. Bà không hề nhân danh một điều gì khác ngoài lòng thương xót của Đức Giêsu: “Lạy Ngài, con Vua Đavít, xin thương xót tôi” Đây là một lòng tin trong sự phó thác hoàn toàn nơi lòng thương xót của Thiên Chúa, chứ không hề dựa vào bất cứ điều gì của bản thân mình. Khi Chúa nói: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó” thì bà đã đáp lại một cách tuyệt vời: “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng đựơc ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”. Trước lòng tin mạnh mẽ đó, Đức Giêsu đã làm cho bà những gì bà muốn: “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy”. Có lẽ đây là một trong những lần hiếm hoi, mà Chúa Giêsu đã “thua” trong các cuộc tranh luận. Ngài đã thua trước lòng tin và sự khiêm hạ của người phụ nữ Canaan.
Lắng nghe lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải tự nhìn lại chính mình. Có khi chúng ta đang đi vào vết xe cũ của những người Biệt phái xưa kia. Chúng ta tự hào mình là một kitô hữu, được rửa tội từ bé, mình là “đạo dòng, đạo gốc” rồi loại bỏ những người khác. Đây quả thật là một điều nguy hiểm, vì nếu chúng ta không có được một đức tin, lòng khiêm hạ và sự kiên nhẫn như người phụ nữ Canaan trong bài Tin mừng, thì nguồn gốc đó không thể cứu được chúng ta. Điều thứ hai chúng ta rút ra được từ lời Chúa hôm nay đó là lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài không loại trừ ai. Vì thế, để được hưởng lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy biết tha thứ và sống bao dung với người khác, đón nhận người khác không phân biệt lương giáo, kể cả những người không cùng ý kiến với chúng ta như lời kinh Lạy Cha chúng ta vẫn đọc hàng ngày: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.”.
Đối với các em thiếu nhi, các con cần tập sống lòng bao dung đó ngay từ bây giờ, cụ thể là không cãi nhau, đánh nhau, và sẵn sàng chơi với hết mọi bạn, nhất là những bạn không có ai chơi cùng. Các con hãy luôn giữ nụ cười trên môi đối với hết mọi người.
Nếu tất cả cộng đoàn chúng ta sống đức tin cách cụ thể như vậy, nghĩa là, luôn mở rộng vòng tay đón nhận người khác đến với chúng ta. Lúc đó, chắc chắn chúng ta cũng nhận được lời hứa của Chúa: “Này con, con có lòng mạnh tin. Con muốn sao thì được vậy”. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, con người không khỏi nửa cười nửa khóc, hoặc ngạc nhiên đến lạ lùng trước thái độ của Chúa Giêsu. Có lúc Chúa tỏ ra rất nghiêm khắc nhưng có lúc Ngài cũng mềm lòng trước tâm tình dễ thương của con người, trước thái độ kiên trì, lời khẩn khoản thật khiêm tốn của con người. Tin Mừng của thánh Matthêu 15, 21-38 hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều đó. Người đàn bà ngọai giáo xứ Canaan nhận mình nhỏ bé như “chó con” được ăn” những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống “. Đây là thái độ hết sức khiêm tốn của người đàn bà ngoại giáo này. Thái độ của một người cầu nguyện với hết tâm hồn, với hết đức tin của mình.
Bài Tin Mừng thuật lại việc Chúa Giêsu chữa đứa con gái của người đàn bà ngoại giáo xứ Canaan bị quỉ ám. Ngưới đàn bà này bị dân Do Thái coi như ở ngoài, nghĩa là không thuộc về phe họ, do đó, đối với dân Do Thái bà là đồ bị chúc dữ và bị kinh bỉ.
Đức Kitô thương yêu mọi người, Ngài không loại trừ ai, không bỏ rơi ai, miễn là họ biết mở lòng ra, biết khẩn cầu Ngài và thật lòng muốn được Ngài cứu chữa. Con gái của người đàn bà Canaan bị quỉ ám, đang ở vào tình trạng hết sức tuyệt vọng: các thầy thuốc giỏi, danh tiếng đều bó tay, vô phương cứu chữa. Bà đã hoàn toàn tuyệt vọng theo mặt tự nhiên. Chính đức tin diễn tả ra nơi bà qua lời khẩn khoản nài van, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót và đã chữa lành con của bà được khỏi ngay lúc đó. Đức tin mạnh mẽ của bà cũng như đức tin của Viên Bách Quản khiến Chúa thay đổi ý định của Ngài. Bởi vì, Chúa Giêsu chỉ được Chúa Cha sai tới với con cái Israen, một dân tộc tự kiêu, tự hào vì là dân riêng của Chúa. Họ hãnh diện về đức tin của cha ông và của chính họ. Tuy nhiên, trước lòng tin mạnh mẽ và thái độ khiêm tốn cầu nguyện của người đàn bà, Chúa đã làm phép lạ để cứu chữa một người bị quỉ ám, không phải là dân Do Thái, là dân ngoại bị dân Do thái khinh chê và coi là đồ chó. Bà đã kêu xin Chúa thương xót cứu chữa con gái của bà. Rồi bà quỳ mọp xuống đất trước mặt Chúa Giêsu xin Ngài thương cứu giúp con bà, và với một thái độ hết sức khiêm tốn chấp nhận lời so sánh hết sức tủi nhục, so sánh mình với đồ chó. Bà đã có một đức tin rất mạnh mẽ như Viên Bách Quản, một đức tin son sắt thúc đẩy bà khẩn cầu hết lời, hạ mình chấp nhận những hất hủi, những tủi nhục, những khinh miệt có thể gọi được là tột độ đến thế. Bà đã có một đức tin sâu sắc để có thể chấp nhận những thử thách của Chúa Giêsu ban đầu. Bà không bực tức, không chán nản, không thất vọng, bà luôn chứng tỏ niềm tin mạnh mẽ và kiên trì.
Lời khẩn cầu của người đàn bà xứ Canaan thật khiêm tốn nhưng đầy tin tưởng và mạnh mẽ,kiên trì, phó thác. Do đó, Chúa Giêsu không nỡ từ chối. Đức Kitô đã ban cho người đàn bà Canaan được thỏa lòng mong ước, đồng thời công khai khen ngợi lòng tin của bà trước mặt các môn đệ. Chúa Giêsu muốn dạy con người về mẫu gương cầu nguyện: khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Mẫu gương về lời cầu nguyện và đức tin của người đàn bà ngoại giáo này gợi cho chúng ta xét lại thái độ cầu nguyện của chúng ta và đức tin của chúng ta ra sao mỗi lần chúng ta gặp những bất trắc, những thử thách nơi trần gian này. Liệu đức tin của chúng ta có mạnh mẽ hay thua kém nhiều người ngoại giáo và nhiều người lương? Đức tin là một ơn nhưng không Thiên Chúa ban tặng cho con người. Tuy nhiên để diễn tả đức tin và để chứng tỏ đức tin, chúng ta:” Phải quỳ gối cầu xin “( Pascal ). Trong mọi trạng huống của cuộc đời, dù cầu xin chưa được, chúng ta vẫn cứ kiên trì để cầu xin và khiêm tốn, van nài, tin tưởng và phó thác như người đàn bà Canaan. Chắc chắn Chúa sẽ nhậm lời chúng ta:” Cứ xin thì được. Cứ gõ thì mở. Cứ tìm thì gặp “. Chúng ta thực sự tin tưởng vào tình thương vô biên của Chúa.
Người đàn bà Canaan đã hoàn toàn tin vào sức mạnh quyền năng của Chúa. Bà tin, bà nhận được hồng ân cao quí của Chúa. Chúa đã chữa con bà ngay lúc bà tin khẩn khoan nài van. Và đây là một kinh nghiệm trong đời sống đức tin. Chúng ta đã có kinh nghiệm về đức tin như người đàn bà Canaan chưa? Khi gặp khó khăn trong cuộc sống thường ngày, chúng ta có đủ sáng suốt, can đảm, tin tưởng, phó thác xin Chúa cứu giúp không? Chúng ta có coi Chúa là tất cả khi chúng ta cầu xin không?
Lạy Chúa xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết tin tưởng, cậy trông, phó thác vào Chúa. Amen.
LÒNG TIN VỮNG MẠNH CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ NGOẠI GIÁO
Đức tin là một hồng ân cao vời, nhưng không của Thiên Chúa trao ban cho con người. Có thể nói được không có đức tin, con người không thể nhận biết Thiên Chúa, con người không thể tìm và đạt được Nước Trời. Người đàn bà ngoại xứ Canaan, hết lòng tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, do đó, con bà được Ngài chữa khỏi quỷ ám…
Đức tin cần được biểu lộ ra bề ngoài bằng lời cầu nguyện. Thánh Phaolô đã viết: ” Đức tin không có việc làm là đức tin chết “. Đức tin có sức mạnh đảo ngược tất cả. Tin Mừng cũng cho chúng ta thấy, lòng tin của viên sĩ quan. Viên bách quản này có thuộc hạ dưới tay, Ông truyền cho thuộc hạ làm cái này thì nó làm, truyền cho người kia đi là họ đi. Nhưng Ông đã hoàn toàn khiêm nhượng, tin tưởng vào Chúa, Ông đã không dám mời Chúa tới nhà của Ông vì Ông cho rằng Ông không xứng đáng. Ông đã thưa với Chúa: “Lạy Ngài tôi không xứng để Ngài tới nhà của tôi. Nhưng xin Ngài chỉ phán một lời thôi, tôi tin thầy nhỏ của tôi sẽ bình phục”. Người đàn bà Canaan trong Tin Mừng hôm nay, đã được Chúa Giêsu đáp ứng lời nguyện xin bởi vì bà đã khiêm nhượng, hết lòng tin vào Chúa. Chính vì thế bà đã nhận được điều bà muốn xin. Tuy Chúa đã từ chối lời xin của bà: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israen” ( Mt 15, 24 ). Chúa còn hết sức nặng lời với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” ( Mt 15, 26 ). Cuối cùng, lòng tin tuyệt vời của bà đã chinh phục được lòng yêu mến và quảng đại của Chúa: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được như vậy” ( Mt 15, 28 ). Người phụ nữ Canaan quả thực khiêm tốn, kiên trì và phó thác nơi quyền năng tuyệt đối của Chúa, nên Ngài đã không nỡ từ chối lời bà khẩn xin, nguyện ước. Chúa Giêsu đã ban cho người đàn bà xứ Canaan điều khẩn khoản mong ước của bà nhưng Ngài còn đề cao và khen ngợi vì lòng tin mạnh mẽ, kiên vững của bà.
Tin Mừng hôm nay và ý lực Chúa nhật XX thường niên năm A, minh chứng người có lòng tin và người không có lòng hệ tại ở lòng tin, đức tin của họ, chứ không chỉ là danh hiệu bề ngoài. Người tin là người tín thác vào bàn tay uy quyền và quyền năng vô biên của Chúa. Tin là phó thác vào Chúa, vào tình yêu nhưng không, cao vời, tuyệt mỹ của Ngài. Tin là tin vào sự có mặt của Chúa trong lịch sử, trong đời người và như thế, con người tin cuộc đời này thật có ý nghĩa, tình người quả thực cao siêu và như thế, con người gặp gỡ được chính Chúa.
Vâng, đức tin của viên bách quản, lòng tin của người đàn bà ngoại giáo Canaan là tấm gương cho mọi người noi theo. Trong cuộc hành trình đức tin trần thế, người Kitô hữu không phải lúc nào cũng gặp may mắn nhưng con thuyền Giáo Hội và con thuyền dòng đời của mỗi người sẽ gặp sóng gió, sẽ gặp thử thách khó khăn, chúng ta được mời gọi nâng cao đức tin, như Phêrô chúng ta mau mắn thưa với Chúa: “Xin Thầy cứu vớt con”. Giữa một thế giới mà niềm tin nhiều khi bị lu mờ, người Kitô hữu được kêu mời sống yêu thương và thắp sáng tin yêu. Giữa một thế giới hầu như đang thất vọng, nếu không nói được là tuyệt vọng, chúng ta được mời gọi thắp lên niềm hy vọng.
Cầu nguyện đòi hỏi phải kiên trì. Hãy cầu nguyện với kinh Lạy Cha. Cầu nguyện một lần chưa đủ, cầu nguyện nữa, cầu nguyện liên lỉ, cầu nguyện không ngừng. Lời cầu nguyện miệt mài với lòng tin thẳm sâu, chắc chắn sẽ được Chúa nhận lời. Thánh Anphong Rodriguez viết: “Khi tôi cảm thấy một nỗi đắng cay, tôi đặt nó giữa Chúa và tôi, và tôi cầu nguyện ch tới khi Chúa đổi nó thành dịu ngọt”.
Lạy Chúa xin gia tăng đức tin cho chúng con để chúng con không bao giờ nản chán, không bao giờ tuyệt vọng nhưng luôn biết khiêm tốn phó thác vào bàn tay uy quyền và quyền năng tuyêt đối của Chúa. Amen.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn