Học hỏi Thánh Kinh 100 tuần – Tuần 102 và 103

Thứ bảy - 25/11/2017 03:24  5302

Tuần 102: Sách Công vụ Tông đồ (chương 9 – 18)

CUỘC TRỞ LẠI CỦA THÁNH PHAOLÔ (9,1-9)

 Đối với những biến cố quan trọng, thánh Luca thường kể lại đến 3 lần, mỗi lần có khác nhau một chút về chi tiết. Cũng thế, Luca không những kể lại trình thuật Chúa kêu gọi Phaolô ở đây (9,1-9) mà còn ở chương 22,3-21 và chương 26,9-20. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của ơn gọi này cũng như ý nghĩa hàm chứa bên trong.

Khi so sánh ba trình thuật về ơn gọi của Phaolô, người ta thấy điều cốt lõi của sự kiện vẫn được giữ nguyên. Vị thượng tế truyền lệnh cho Saulê bắt và giải những người theo Đạo về Giêrusalem (9,2). “Đạo-Con Đường” có lẽ là tên gọi đầu tiên dành cho các Kitô hữu. Trên đường đi Damas, Saulê bị quật ngã ngựa, luồng ánh sáng từ trời bao phủ ông và ông nghe tiếng nói: ‘Saulê, Saulê, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Chỉ một mình Saulê thấy ánh sáng và nghe tiếng gọi, cũng giống như những lần Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức và Fatima, chỉ có những người trong cuộc mới nhìn thấy Đức Mẹ. Trong Cv 9,7, những người cùng đi với Phaolô chỉ nghe tiếng nói, còn trong Cv 22,9 và 26,13-14, họ chỉ thấy ánh sáng. Xem ra thánh Luca không bận tâm về những chi tiết này. Điều quan trọng là cả ba trình thuật đều nhấn mạnh Phaolô có sứ mạng làm chứng về Chúa cho dân ngoại.

“Saulê, Saulê, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Tiếng nói này khẳng định Đức Kitô tự đồng hóa mình với các Kitô hữu (có thể so sánh với Mt 25,31-46). Điều gì người ta làm cho các Kitô hữu là làm cho chính Đức Kitô. Trong cả ba trình thuật, thánh Luca đều nhắc đến chi tiết này, chứng tỏ tầm quan trọng hàm chứa bên trong. Thật vậy, đây là kinh nghiệm thiêng liêng sâu sắc với thánh Phaolô. Sau này, chính ngài – chứ không ai khác – sẽ khai triển suy tư về Hội Thánh là Thân Mình mầu nhiệm của Đức Kitô.

Một ghi nhận khác cần quan tâm: Chúa trực tiếp gọi và hiện ra với Phaolô. Dù Ananias có tìm cách ngăn cản (9,13-14) nhưng Chúa vẫn yêu cầu ông phải đi gặp Phaolô, cũng như dù thánh Phêrô có chống chế, Chúa vẫn yêu cầu phải đến gặp Cornêliô (Cv chương 10). Tuy nhiên Ngài đòi hỏi Phaolô phải chịu phép Rửa và gia nhập cộng đoàn Hội Thánh. Như thế, dù Phaolô có kinh nghiệm gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa, ông vẫn cần phải sống đức tin trong Hội Thánh và thi hành sứ mạng trong sự hiệp thông với Hội Thánh.

Ngoài ra, thánh Luca thường xuyên nhấn mạnh đến cầu nguyện. Thiên Chúa can thiệp và chỉ dẫn Phêrô, Ananias, Phaolô hành động khi các ngài cầu nguyện. Ghi nhận này giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của cầu nguyện: tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa khi chúng ta lắng nghe Ngài trong cầu nguyện.

MỞ RA CHO DÂN NGOẠI (10,1-43)

Chương 10 và 11 trong sách Công Vụ ghi lại những bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Hội Thánh. Hội Thánh không còn bị giới hạn trong cộng đồng người Do thái nhưng mở ra cho muôn dân. Chính Thiên Chúa là Đấng miễn chuẩn cho dân ngoại không phải chịu phép cắt bì theo luật Do thái. Bản thân thánh Phêrô cũng cảm thấy khó khăn khi đón nhận sáng kiến này, nhưng chính vì thế mới thấy rõ đây không phải là tư tưởng của loài người, mà là của Thiên Chúa. Thật vậy, chính Chúa đã truyền lệnh mọi nam nhân thuộc dân riêng của Ngài phải được cắt bì (St 17,10-14). Nay cũng chính Thiên Chúa rút lại lệnh truyền ấy vì đã đến thời cuối cùng, Thánh Thần được ban xuống tràn đầy trên mọi xác phàm (Cv 2,17-18; 10,44-47), và việc cắt bì trở thành không cần thiết. Cả hai thị kiến của Cornêliô và thánh Phêrô đều cho thấy sự can thiệp tỏ tường của Thiên Chúa trong bước ngoặt mới mẻ này.

Sau thị kiến của Cornêliô (10,1-8), thánh Phêrô có một thị kiến về thực phẩm. Ngài thấy những giống vật mà Cựu Ước cho là ô uế và cấm không được ăn (vd. Lêvi 11). Thế nhưng Chúa lại truyền lệnh hãy giết và ăn (10,13). Cũng như tiên tri Ezêkiel, Phêrô bày tỏ thái độ không chịu ăn những thứ ô uế. Chính lúc ấy, Thiên Chúa lên tiếng: “Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch thì ngươi chớ gọi là ô uế” (10,15). Và việc ấy xảy ra đến 3 lần, nghĩa là điều rất quan trọng. Câu 28 giúp ta hiểu được ý nghĩa của thị kiến này: “Quý vị thừa biết, giao du hay vào nhà một người khác chủng tộc là điều cấm kỵ đối với người Do thái. Nhưng Thiên Chúa đã cho tôi thấy là không được gọi ai là ô uế hay không thanh sạch”.

Những lời này cũng cho thấy những khó khăn mà các tông đồ nói chung, thánh Phêrô và Phaolô nói riêng, phải đối diện khi mở rộng vòng tay đón tiếp dân ngoại vào gia đình Hội Thánh. Theo truyền thống lâu đời, nhiều người bị cho là ô uế và không được tham dự những cuộc hội họp hoặc việc thờ phượng ở Đền thờ.. Họ là những người không giữ luật thanh tẩy, những người phong cùi, người Samari, người thu thuế và gái điếm. Tuy nhiên trong Tin Mừng Luca và sách Công Vụ, những người này lại được Chúa Giêsu và Thánh Thần thanh tẩy. Họ cũng được Thiên Chúa kêu gọi, nhưng trước hết họ phải được thanh tẩy để có thể đến gần Chúa. Việc thanh tẩy đó hàm nghĩa họ phải từ bỏ lối sống cũ: Lêvi không thu thuế nữa, người phụ nữ tội lỗi được yêu cầu không phạm tội nữa, dân ngoại phải bỏ lối sống vô luân. Chính Cornêliô cũng ý thức như vậy khi ông nói với thánh Phêrô: “Tất cả chúng tôi đang ở trước mặt Thiên Chúa, để nghe tất cả những gì Ngài đã truyền cho ông” (10,33).

CÔNG ĐỒNG GIÊRUSALEM (15,1-21)

Một số người Pharisêu gốc Giuđê đã gia nhập Kitô giáo nhưng họ chống đối việc đón nhận dân ngoại vào Hội Thánh mà không cần chịu phép cắt bì. Phaolô và Barnaba chủ trương ngược lại. Hội Thánh tại Antiôkia quyết định cử Phaolô, Barnaba và một vài người khác lên Giêrusalem gặp các Tông đồ và các kỳ mục để bàn về vấn đề này. Sự kiện này cho thấy ngay từ những thời kỳ đầu tiên, mọi người trong Hội Thánh đã nhìn nhận vai trò lãnh đạo của thánh Phêrô, và đã có sự hiệp thông chặt chẽ giữa các Hội Thánh địa phương với thánh Phêrô trong những vấn đề quan trọng của Hội Thánh.

Tại Công đồng Giêrusalem, các đại diện của Hội Thánh Antiôkia đã trình bày những thành quả, “những gì Thiên Chúa đã cùng làm với các ông” (15,4). Nhưng những Kitô hữu gốc Pharisêu yêu cầu “phải làm phép cắt bì cho người ngoại và truyền cho họ giữ luật Môsê” (15,6). Sau khi thảo luận sôi nổi, thánh Phêrô đưa ra quyết định. Ngài nhắc lại (lần thứ ba trong sách Công Vụ) rằng Thiên Chúa đã ban Thánh Thần cho các dân ngoại qua thừa tác vụ của ngài, và đã thanh tẩy tâm hồn họ bằng đức tin. Do đó họ không còn phải là những người ô uế hoặc không xứng đáng như một vài người Do thái nghĩ. Cuối cùng, ngài đưa ra khẳng định quan trọng: “Chính nhờ ân sủng của Chúa Giêsu mà chúng ta tin mình được cứu độ, cũng một cách như họ” (15,11). Khẳng định này là nguyên lý thần học hướng dẫn cách ứng xử của Hội Thánh đối với dân ngoại xin gia nhập Hội Thánh.

Thánh Giacôbê cũng đóng vai trò quan trọng trong công đồng. Ngài là anh em với Chúa Giêsu và là người lãnh đạo Hội Thánh tại Giêrusalem lúc ấy, được mọi người nhìn nhận là vị lãnh đạo mẫu mực. Vì thế tiếng nói của ngài có ảnh hưởng lớn với cộng đoàn. Trong diễn từ của mình, thánh Giacôbê cho thấy Kinh Thánh chấp thuận cách làm ở Antiôkia: “những lời của các tiên tri cũng phù hợp với điều ấy”, nghĩa là không bắt dân ngoại phải cắt bì khi họ gia nhập Hội Thánh. Ngài nhắc lời tiên tri Amos 9,11-12 để nhấn mạnh Kinh Thánh đã báo trước không những việc khôi phục Israel, mà cả sự hoán cải của “tất cả các dân ngoại” về với Chúa Giêsu. Tất cả đều ở trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Do đó, Kitô hữu không nên đặt những chướng ngại cho dân ngoại trở lại với Chúa, nhưng chỉ đề nghị họ kiêng cữ một số điều. Trong những điều kiêng cữ, có 3 điều liên quan đến thực phẩm: những thức ăn ô uế vì đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết, kiêng ăn tiết. Còn điều thứ tư liên quan đến vấn đề gian dâm (porneia trong tiếng Hi lạp). Từ porneia này có lẽ muốn nói đến việc hôn nhân giữa những người chung huyết thống và như thế là không hợp pháp theo luật Do Thái. Nhưng có những người khác lại cho rằng porneia muốn nói đến chuyện gian dâm mà người Do thái thường phê phán dân ngoại: ngoại tình, mãi dâm, đồng tính luyến ái…tất cả những thứ đó đều xói mòn đời sống gia đình.

Kết thúc Công đồng, các Tông đồ và các kỳ mục cùng với toàn thể Hội Thánh đã gửi một lá thư, có thể gọi là Quyết Nghị của các Tông đồ, cho Hội Thánh ở Antiôkia (15,23-29). Lá thư ấy đem lại niềm vui lớn cho cộng đoàn (15,31).

DIỄN TỪ CỦA PHAOLÔ TRƯỚC ĐỒI ARÊÔPAGÔ (17,16-34)

Ở Atêna, thánh Phaolô rao giảng Tin Mừng bằng hai cách: giảng cho người Do thái và những người kính sợ Chúa trong các hội đường, và thuyết trình ở nơi công cộng cho những người qua đường. Việc thánh Phaolô thuyết trình ở nơi công cộng cũng giống cách thế các triết gia thời đó thường làm, họ rao giảng cho bất cứ ai họ gặp trên đường.

Vào thế kỷ I, trong đế quốc Rôma, có nhiều tôn giáo và giáo phái mới xuất hiện, đặc biệt là từ phương Đông. Đối với người nghe, xem ra thánh Phaolô đang muốn giới thiệu một tôn giáo mới, tập trung vào nhân vật tên là Giêsu.

Thánh Phaolô đã có diễn từ nổi tiếng ở đồi Arêôpagô là nơi gặp gỡ của giới trí thức Atêna. Bài nói chuyện của ngài khác với nhiều bài giảng khác cho người Do thái. Khi giảng cho người Do thái, Phaolô lập luận khởi đi từ Thánh Kinh. Còn khi nói chuyện với các triết gia Hi Lạp, ngài trình bày những lập luận triết học nhưng vẫn bám rễ trong Thánh Kinh. Đây là điều mà các Kitô hữu phải học hỏi, nghĩa là vận dụng những bằng chứng trong thế giới tự nhiên để trình bày về Thiên Chúa. Trong Thánh Kinh Cựu Ước, không thiếu thứ “thần học tự nhiên” này, vì thế cả người Do thái lẫn các Kitô hữu đều không thấy gì là mâu thuẫn giữa thần học tự nhiên và chân lý mạc khải trong Thánh Kinh.

Mặc dù Cv 17,16 ghi nhận là Phaolô “nổi giận vì thấy thành phố nhan nhản những tượng thần”, nhưng trong diễn từ ở Arêôpagô, Phaolô lại ca tụng dân Atêna là sùng đạo (17,22). Từ đó, ngài nhắc đến bàn thờ “kính thần vô danh” và giới thiệu cho họ “Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ” (17,23). Ở đây Phaolô tỏ ra là một nhà hùng biện có tài!

Rồi thánh Phaolô giới thiệu vị Thiên Chúa siêu việt: “Đấng làm Chúa tể trời đất, không ngự trong những đền do tay con người làm ra…không cần được bàn tay con người phục vụ như thể Ngài thiếu thốn gì” (17,24-25). Đồng thời, vị Thiên Chúa siêu việt ấy lại là Đấng nội tại: “Ngài không ở xa mỗi người chúng ta…chính trong Ngài mà chúng ta sống, cử động, hiện hữu” (17,28).

Vị Thiên Chúa ấy, con người có thể nhận biết nhờ lý trí tự nhiên và nhờ mạc khải: “may ra họ dò dẫm mà tìm thấy Ngài” (17,27). Thế nhưng sự phục sinh của Chúa Giêsu quả là điều hoàn toàn mới mẻ, cho cả người Do thái lẫn Hi lạp. Cho nên khi Phaolô nói đến sự sống lại thì “có kẻ nhạo cười, có kẻ nói: để khi khác chúng tôi sẽ nghe ông nói” (17,32).

Tuần 103 SÁCH CÔNG VỤ TÔNG ĐỒ (Chương 18-28)

THÀNH LẬP HỘI THÁNH Ở CÔRINTÔ (18,1-11)

Thánh Phaolô gặp ông Aquila và vợ ông là Priscilla ở Côrintô, đôi vợ chồng được ngài gọi là “những người cộng tác để phục vụ Đức Kitô Giêsu, đã liều mất đầu để cứu mạng tôi” (Rm 16,3-5). Cùng với những người Do thái khác, hai vợ chồng đã bị nhà vua trục xuất khỏi Rôma. Họ cùng làm một nghề với Phaolô, nghề dệt lều, nên ngài ở lại nhà họ và cùng làm việc. Phaolô thường nhấn mạnh: “những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, thì đôi tay này tự cung cấp” (Cv 20,33-35).

Khi Sila và Timôthê từ Macêđônia tới thì tình hình thay đổi vì thánh Phaolô có thể dành trọn thời giờ cho việc rao giảng. Trong thư 2 Cor 11,8-9, thánh Phaolô đã nói với dân Côrintô rằng: “Hồi ở giữa anh em, những khi lâm cảnh túng thiếu, tôi đã chẳng phiền lụy ai, vì các anh em từ Macêđônia đến đã cung cấp đầy đủ những gì tôi cần”. Nhờ đó, thánh Phaolô có thể hiến trọn thời giờ cho việc rao giảng, “long trọng làm chứng cho người Do thái biết rằng Đức Giêsu chính là Đấng Kitô” (Cv 18,5). Ở thời nào và ở bất cứ đâu, người Kitô hữu có thể cộng tác vào việc loan báo Tin Mừng bằng nhiều cách, một trong những cách đó là giúp đỡ các sứ giả Tin Mừng về tinh thần cũng như vật chất.

Vì dân Côrintô chống đối lời rao giảng của Phaolô và vì họ nói lộng ngôn, nên ngài nói với họ hai điều (18,6). Một là “máu các ngươi cứ đổ xuống trên đầu các ngươi”; câu này nhắc lại lời trong Ezekiel 33,4 và Phaolô còn nhắc lại trong diễn từ từ biệt (Cv 20,26). Hai là “từ nay trở đi, tôi sẽ đến với người ngoại”. Trong sách Công Vụ, Phaolô đã nói điều này 3 lần: 13,51; 18,6; 28,25-28; hàm nghĩa một khẳng định quan trọng. Tuy nhiên, ngài không rời Côrintô ngay mà dọn đến ở nhà ông Titô Giustô, một người ngoại kính sợ Thiên Chúa. Ngài cũng đã cải hóa Crispô là trưởng hội đường cùng với cả nhà ông. Như thế, người Do thái vẫn tiếp tục là thành phần quan trọng trong Hội Thánh.

Cv 18,9-10, kể lại thị kiến, trong đó Chúa Giêsu hiện đến và nói với Phaolô: “Đừng sợ. Cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với con, không ai làm hại con được”. Một lời đầy an ủi. Chúa Kitô phục sinh luôn hiện diện và đồng hành với các môn đệ Người trên đường loan báo Tin Mừng.

DIỄN VĂN TỪ BIỆT CỦA THÁNH PHAOLÔ Ở ÊPHÊSÔ (20,17-38)

Thánh Luca cung cấp cho chúng ta hai diễn văn từ biệt: một là của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc ly (Lc 22,15-38), hai là của thánh Phaolô ở Ephêsô (Cv 20,17-38). Những yếu tố chính trong bài từ biệt của thánh Phaolô là :

- Triệu tập các trưởng lão (20,17);

- Nói đến sứ mạng đã thực hiện: “Khi phục vụ Chúa, tôi đã hết lòng khiêm tốn, đã nhiều lần phải rơi lệ, đã gặp bao thử thách” (20,19);

- Chứng minh đã chu toàn nhiệm vụ: “Tôi đã không bỏ qua một điều gì có ích cho anh em (20,20), “Nếu có ai trong anh em phải hư mất thì tôi vô can” (20,26);

- Nhắc đến cái chết cận kề: “Thánh Thần khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi” (20,23);

- Khuyến khích các trưởng lão chu toàn nhiệm vụ: “Hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc” (20,28);

- Cảnh giác về những nguy hiểm trong cộng đoàn: “Sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không tha đàn chiên. Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng” (20,29-30);

- Chúc lành cho các trưởng lão: “Xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Ngài” (20,32);

- Cùng cầu nguyện với họ: “Phaolô cùng với tất cả anh em quỳ gối xuống cầu nguyện” (20,36);

- Giã từ.

Mục đích chính của diễn văn từ biệt là nêu cao hình ảnh người lãnh đạo như mẫu gương cho mọi người noi theo. Trong lời từ biệt của Chúa Giêsu (Lc 22), thánh Luca đã làm nổi bật điều đó khi Chúa Giêsu căn dặn nhóm Mười Hai: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Ở đây cũng thế, thánh Phaolô được nêu cao như mẫu mực cho các giám mục và linh mục trong Hội Thánh. Họ phải phục vụ Thiên Chúa và đoàn chiên bằng những hi sinh cho công việc chung, giảng dạy giáo huấn chân chính, ân cần chăm sóc đoàn chiên. Họ không được tìm kiếm tư lợi và phải can đảm chống trả những tấn công từ bên ngoài cũng như bên trong.

Diễn văn từ biệt này cũng cho thấy tính liên tục trong đời sống Hội Thánh. Phaolô ra đi nhưng những người khác sẽ lãnh trách nhiệm tiếp nối. Các tông đồ qua đi nhưng những người kế vị sẽ tiếp nối. Hội Thánh hiện diện trong dòng lịch sử với những thay đổi qua từng thế hệ, nhưng mãi mãi vẫn là Hội Thánh Chúa Kitô.

Những lời từ biệt bao giờ cũng diễn tả mối quan tâm sâu xa nhất của người lãnh đạo. Trong lời từ biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ, Người để lại cho chúng ta bí tích Thánh Thể, quyền lãnh đạo của Nhóm Mười Hai trong Hội Thánh, và ý nghĩa đích thực của lãnh đạo là phục vụ chứ không phải thống trị (x. Luca 22). Còn lời từ biệt của thánh Phaolô nhấn mạnh sự chăm sóc mục vụ cách tận tình, can đảm đối diện với bách hại và tà giáo, gìn giữ giáo lý chính thống của Chúa Giêsu trước sự lan tràn của lạc giáo.

LÀM CHỨNG CHO THẦY Ở RÔMA (27,1 – 28,31)

“Đáng lẽ có thể tha bổng người này, nếu ông ta đã không kháng cáo lên hoàng đế Cêsarê” (26,32). Vua Agrippa đã phát biểu như vậy. Do đó, sau khi phải ra trước Thượng Hội Đồng (Cv 22,30 – 23,10) rồi ra trước tòa Tổng trấn Rôma (24,10-21), rồi vua Agrippa (25,13 – 26,30), thánh Phaolô được đưa đi Rôma, đúng như lời Chúa nói với ngài: “Hãy vững lòng, con đã làm chứng cho Thầy ở Giêrusalem thế nào, thì con cũng phải làm chứng như vậy tại Rôma nữa” (23,11).

Trong hành trình đi Rôma, chuyến tàu gặp bão và bị đắm. Trình thuật này làm cho người đọc liên tưởng đến chuyện của tiên tri Giôna. Tuy nhiên giữa hai câu truyện, có những khác biệt. Vì không tuân theo lời Chúa truyền đi rao giảng cho dân Ninivê mà lại đi nơi khác, tiên tri Giôna đã gây sóng gió cho cả con tầu và thủy thủ đoàn, còn thánh Phaolô lại là cứu tinh của cả con tầu: “Tôi khuyên các bạn cứ can đảm, vì không ai trong các bạn phải mất mạng đâu, chỉ mất tầu thôi…” (27,22). Lời thánh Phaolô khích lệ mọi người trên tầu “Không ai trong các bạn sẽ mất một sợi tóc trên đầu” (27,34) làm vọng lại lời Chúa Giêsu trong Luca 12,7 và 21,18. Trình thuật cũng kể lại: “ông cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn Thiên Chúa trước mặt mọi người, bắt đầu bẻ ra và ăn” (27,35). Xem ra thánh Phaolô cử hành Thánh Thể dù những người ngoại giáo trên tầu không hiểu gì.

Như thế, khi tường thuật vụ đắm tầu, thánh sử Luca có ý nhắc lại lời hứa của Chúa Giêsu và bí tích Thánh Thể. Mục đích là để nhắc nhở các Kitô hữu rằng trong những sóng gió cuộc đời, chúng ta nên nhớ lại lời hứa của Chúa Giêsu mà vững tâm, và Thánh Thể là nguồn sức mạnh cho chúng ta giữa thử thách.

Con tầu dạt vào đảo Manta. Luca gọi những người dân trên đảo là barbaroi (có lẽ là tiền thân của những từ trong ngôn ngữ Âu châu mà người Việt Nam dịch là mọi rợ). Trong sách Công Vụ, Luca đã cho thấy phản ứng của người Do thái, Hi lạp, Rôma đối với thánh Phaolô ra sao. Ở đây là phản ứng của những người không thuộc số người trên. Họ đơn sơ, tâm thành, ít học. Ở đó, thánh Phaolô không giảng giải điều gì nhưng ngài thực thi tác vụ chữa lành và nhiều người kéo đến để được chữa lành (28,8-10).

Cuộc hành trình tiếp tục từ đảo Manta và cuối cùng đến Rôma. Sách Công Vụ ghi nhận: “Các anh em ở Rôma nghe tin chúng tôi tới thì đến tận chợ Appiô và Ba Quán để đón” (28,15). Như thế, Kitô giáo đã có mặt ở Rôma rồi và thánh Phaolô không phải là người sáng lập Hội Thánh ở đây. Khi gặp gỡ các kiều bào Do thái ở Rôma, thánh Phaolô nhấn mạnh với họ rằng ngài không phản bội dân tộc và truyền thống Do thái, dù chính người Do thái đã nộp ngài cho chính quyền Rôma. Ngài thuyết phục họ rằng vương quốc mà người Do thái mong chờ nay đã thành hiện thực. Ngài vận dụng Kinh Thánh Cựu Ước để chứng minh cho họ thấy những lời Thiên Chúa hứa nay được thể hiện trong Đức Kitô Giêsu. Nhưng cũng như ở những nơi khác, có người tin, có người không tin.

Tại Rôma, suốt hai năm, thánh Phaolô “rao giảng Nước Thiên Chúa và về Chúa Giêsu Kitô một cách rất mạnh dạn, không gặp ngăn trở nào” (28,31).

ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Nguồn: tgpsaigon.net

 
 Tags: n/a

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

ducchasi
 
closedbible
 
suy 5
 
thanhthan06sm 1
 
gdphanxicoxavie
 
lichconggiao2
 
giolecacnhatho adv2 copy
 
giolecacnhatho adv2
 

Tin mới nhất

Kết nối

 

 

 

Thống kê

  • Đang truy cập109
  • Máy chủ tìm kiếm48
  • Khách viếng thăm61
  • Hôm nay22,769
  • Tháng hiện tại677,283
  • Tổng lượt truy cập52,846,231

Copyright © [2018] Giáo phận Nha Trang. All rights reserved.
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Nha Trang
Email: gpnhatrangbtt@gmail.com
Địa chỉ: 22 Trần Phú - HT 42, Tp. Nha Trang - Khánh Hoà
Phone: (84) 258.3523842 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây