NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ CON MÃNG XÀ (12,1-18)
1. Người phụ nữ
Từ lâu, hình ảnh người phụ nữ trong chương 12 đã được các Kitô hữu đồng hoá với Đức Maria, tuy nhiên nên hiểu là Gíao Hội, Dân Chúa, “những người còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của Đức Giêsu” (câu 17). Những chi tiết trong thị kiến như mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, triều thiên 12 ngôi sao… là những chi tiết được tác giả rút ra từ những truyền thuyết của các dân cũng như những hình ảnh Thánh Kinh (vd. Anh sáng Chúa, 12 chi tộc…). Người con được sinh ra là Đấng Mêsia, Đấng “sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân” (câu 5).
2. Mãng xà
Con mãng xá được mô tả ở đây giống như trong Daniel 7,7; 8,10 : nhiều đầu tượng trưng nhiều vương quốc; đuôi quét tinh tú nói đến tính huỷ diệt của nó. Mãng xà là biểu tượng sự thù nghịch chống đối Thiên Chúa.
3. Trốn vào sa mạc (12,6)
Tiên tri Elia ngày xưa nhiệt thành làm chứng cho Chúa và bị bà hoàng Jezabel săn đuổi, phải trốn vào hoang địa (1V 17,1-7; 19,5-7). Người phụ nữ ở đây cũng phải trốn vào sa mạc trước sự tấn công của con mãng xà, ở đó “Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở để bà được nuôi dưỡng ở đó” (12,6).
4. Giao chiến trên trời
Cuộc chiến của Kitô hữu với sự ác đã bắt nguồn từ cuộc chiến giữa Tổng lãnh thiên thần Micae và Satan. Satan bị đuổi khỏi trời nhưng nó tiếp tục tấn công tín hữu trên trái đất, là “những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của Đức Giêsu” (12,17). Vì thế, dù sống trong hoàn cảnh nào, nếu muốn thuộc về Chúa trọn vẹn, người Kitô hữu phãi chấp nhận chiến đấu, cuộc chiến nội tâm liên lỉ. Người Kitô hữu bước vào cuộc chiến đó với niềm tin tưởng lạc quan, vì nếu Tổng lãnh thiên thần Micae đã thắng Satan, thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ thắng. Micae vẫn được coi là người canh giữ Dân Chúa và là đối thủ của Satan (Dan 10,13,21; 12,1). Hình ảnh Người phụ nữ “được ban cho cánh đại để bay vào sa mạc” diễn tả sự che chở của Chúa (Xh 19,4; Dnl 32,11), và người Kitô hữu luôn vững tâm tin tưởng vào tình thương che chở này trong mọi hoàn cảnh.
TRỜI MỚI ĐẤT MỚI (chương 21)
1. Trời mới đất mới (21, 1-5)
Tác giả trình bày thị kiến về trời mới đất mới, thay thế thế giới cũ đã qua đi: “trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa” (Kh 21,1; xem Isaia 65,17). Đó là một thế giới lý tưởng: “Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21, 4). Trung tâm của thế giới mới là thành thánh Giêrusalem (x. Is 52,1-3), “nhà tạm Thiên Chúa ở giữa loài người” (Kh 21,3). Tiếng nói từ trên ngai phán rằng mọi lời hứa của Thiên Chúa nay được hoàn thành: “Này đây Ta đổi mới mọi sự” (21,5). Trong Isaia 43, 18-19, Chúa phán bảo Israel đừng nhớ lại những chuyện cũ vì Ngài đang thực hiện “điều mới”. Ở đây, sách Khải Huyền công bố lời hứa đó được hoàn thành.
2. Giêrusalem mới, tân nương của Chiên Con (21,9-21)
Những hình ảnh trong thị kiến này được rút ra từ sách Ezekiel: thành được xây trên núi (Ez 40, 2), tràn ngập vinh quang Thiên Chúa (43, 2-4), những chi tiết về tường thành (48, 31-35). Các thiên thần canh giữ cửa cũng đã có trong Ez 49,12. Trong sách Ezekiel, 12 cửa tượng trưng cho 12 chi tộc Israel, còn trong sách Khải Huyền, 12 cửa tượng trưng cho 12 tông đồ. Cũng giống như trong sách Ezekiel chương 40, thiên thần lấy thước đo cửa và tường thành. Việc đo đạc này muốn đề cao kích thước hoàn hảo của thành thánh.
3. Thiên Chúa hiện diện trong thành (21,22-27)
Cùng với những chi tiết được rút ra từ sách Ezekiel, ở đây, sách Khải Huyền trình bày một chi tiết hoàn toàn khác và là điều hết sức quan trọng, đó là “trong thành, không có đền thờ” (Kh 21, 22) vì “Đức Chúa, Thiên Chúa toàn năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành”. Sự hiện diện của Thiên Chúa và Chiên Con làm cho cả thành là đền thờ. Sau đó, tác giả vận dụng Isaia 60, 1-20 để mô tả: Vinh quang Chúa tràn ngập đến độ không cần các thiên thể chiếu sáng (Is 60,19-20); các vua chúa trần gian đem kho tàng vinh quang tới; cửa thành không đóng vì chẳng có đêm; những gì ô uế không được vào thành, chỉ có người công chính sống trong đó (21, 27).
4. Nước và cây sự sống (22,1-5)
Thị kiến về Giêrusalem mới được kết thúc bằng những hình ảnh về phúc lành và sự bất tử dành cho những người sống trong đó. Nước chảy ra từ ngai của Thiên Chúa và Chiên Con (22,1) nhắc lại dòng nước chảy ra từ đền thờ trong Joel 4,18 cũng như Ezekiel 47. Cây sự sống trong sách Sáng Thế 2,9 được phối hợp với cây bên dòng suối trong Ezekiel 47,12. Lá của những cây này được dùng làm thuốc chữa lành cho dân ngoại (22, 2). Cũng như những gì ô uế không được đưa vào thành thánh, thì cũng không còn lời nguyền rủa nào ở đây (22,3).
5. Sứ điệp cho đời sống đức tin
Thế giới này sẽ kết thúc. Lịch sử nhân loại sẽ đến điểm tận cùng. Điểm tận cùng ấy không phải là thế giới u buồn bị tội lỗi và sự dữ thống trị, nhưng là trời mới đất mới, tràn ngập vinh quang Thiên Chúa và là cõi bất tử. Hiến chế Vui Mừng và Hi Vọng viết: “Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng không biết cách thức biến đổi của vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh một thế giới lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng người. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Đức Kitô, và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại, và toàn thể thụ tạo mà Thiên Chúa dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân” (số 39).
Điều quan trọng là hãy bắt đầu từ hôm nay lối sống của người công chính, thay vì chỉ sống và hành động theo những tham vọng ích kỷ của xác thịt: “Đây, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến và Ta đem theo lương bổng để trả cho mỗi người tùy theo việc họ làm. Ta là Alpha và Omega, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng. Phúc thay những kẻ giặt sạch áo mình, để được quyền hưởng dùng Cây Sự Sống và qua cửa mà vào Thành! Những quân chó má, làm phù phép, gian dâm, sát nhân, thờ ngẫu tượng, cùng với mọi kẻ thích điều gian dối và ăn gian nói dối, hãy xéo ra ngoài” (Kh 22, 12-15).
ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Nguồn: Web TGP Sài Gòn
Tuần 111: Tin mừng Gioan (Chương 1 – 6)
1. Tác giả Tin Mừng thứ tư
Chỉ trong phần II của sách Tin Mừng thứ tư (13,23-25; 19,26; 20,2-8), đọc giả mới thấy nhắc đến “người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến” hoặc “người môn đệ khác”. Nhưng không có chỗ nào nói rõ tên người môn đệ ấy là Gioan. Tác phẩm chỉ cho biết người môn đệ này rất gắn bó với thánh Phêrô, ông ở bên cạnh Đức Maria trên đồi Golgotha, “ông đã thấy và đã làm chứng” (19,35). Dựa vào Tin Mừng nhất lãm, người ta biết ba môn đệ gần gũi Chúa Giêsu nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan (Mc 5,37; 9,2; 14,33). Giacôbê đã chết vào năm 44. Chỉ còn lại Phêrô và Gioan. Trong khi đó, sách Tin Mừng thứ tư cho biết Phêrô và “người môn đệ Chúa yêu” gắn bó với nhau, cho nên chắc hẳn người môn đệ này là Gioan.
Ngoài ra, truyền thống chưa bao giờ nghi ngờ việc thánh Gioan là tác giả sách Tin Mừng thứ tư. Thánh Irênê khẳng định: “Sau các môn đệ khác, đến lượt Gioan, người môn đệ Chúa Giêsu đã tựa đầu vào ngực ông, cũng đã viết sách Tin Mừng khi ở Ephêsô”. Còn thánh Clêmentê Alexandria (210) viết: “Khi thấy những người khác chỉ kể lại những sự kiện bên ngoài, thì Gioan, người sau cùng, được bạn hữu khuyến khích và được Thánh Thần linh ứng, đã viết Tin Mừng thiêng liêng”.
2. Lược đồ Tin Mừng Gioan
THÁNH THI MỞ ĐẦU (1,1-18)
PHẦN I : SÁCH CỦA NHỮNG DẤU LẠ (1,19 – 12,50)
I. Khi mạc khải khởi đầu (1,19-51)
1. Gioan tẩy giả làm chứng về bản thân (1,19-28)
2. Gioan tẩy giả làm chứng về Chúa Giêsu (1,29-34)
3. Các môn đệ của Gioan đến với Chúa Giêsu (1,35-51)
II. Từ Cana đến Cana (2,1 – 4,54)
1. Dấu lạ đầu tiên tại Cana : nước hoá thành rượu (2,1-12)
2. Thanh tẩy đền thờ (2,13-22)
3. Chúa Giêsu và Nicôđêmô (3,1-36)
4. Chúa Giêsu, người phụ nữ Samaria và dân Samaria (4,1-42)
5. Dấu lạ thứ hai tại Cana (4,43-54)
III. Chúa Giêsu và những ngày lễ lớn của người Do thái (5,1 – 10,42)
1. Chúa Giêsu và ngày sabát (5,1-47)
2. Chúa Giêsu trong dịp lễ Vượt qua : hoá bánh ra nhiều (6,1-15), đi trên biển (6,16-21), diễn từ về Bánh hằng sống (6, 22-71)
3. Chúa Giêsu trong dịp Lễ Lều (7,1 – 8,59) : Cảnh 1 (7,14-36), cảnh 2 (7,37-52), người phụ nữ ngoại tình (7,53-8,11), cảnh 3 (8,12-59)
4. Tiếp theo Lễ Lều (9,1-10,21) : người mù từ thưở mới sinh (9,1-41), Chúa Giêsu là mục tử nhân lành (10,1-21)
5. Chúa Giêsu trong dịp lễ Cung hiến (10,22-42)
IV. Chúa Giêsu đi đến Giờ của Ngài và vinh quang (11,1-12,50)
1. Phục sinh Lagiarô (11,1-44)
2. Chúa Giêsu bị lên án (11,45-57)
3. Những cảnh chuẩn bị : xức dầu tại Betania (12,1-11), Vào thành Giêrusalem (12,12-29), Giờ của Chúa (12,20-36), diễn từ cuối cùng (12,44-50)
PHẦN II. SÁCH VINH QUANG (13,1 – 20,31)
I. Bữa tiệc ly (13,1-30)
1. Dẫn nhập (13,1-3)
2. Rửa chân (13,4-20)
3. Loan báo sự phản bội (13,21-30)
II. Những diễn từ cuối cùng (13,31-17,26)
1. Diễn từ giã biệt lần I (14,1-31)
2. Diễn từ giã biệt lần II (15-16,33)
3. Lời cầu của Chúa Giêsu (17,1-26)
III. Bài tường thuật thương khó (18,1 – 19,42)
1. Bị bắt trong vườn Cây Dầu (18,1-11)
2. Tại nhà thượng tế Anna (18,12-27)
3. Trước toà Philatô (18,28-19,16)
4. Khổ hình thập giá (19,17-37)
5. Mai táng (19,38-42)
IV. Chúa Giêsu sống lại (20,1-31)
1. Những lần hiện ra (20,1-29) : Maria Madalena, Simon Phêrô và người môn đệ Chúa yêu (20,1-18), với các môn đệ nhưng thiếu Toma (20,19-23), với Toma (20,24-29)
2. Kết luận (20,30-31)
Lời bạt ở chương 21
Mẻ lưới bất thường (21,1-14)
Simon Phêrô và sứ mạng mục tử (21,15-23)
Lời phi lộ (21,24-25)
TIỆC CƯỚI CANA (2,1-12)
Đây là dấu lạ đầu tiên Chúa Giêsu làm (2,11). Vậy dấu lạ này có ý nghĩa gì? Chắc chắn ý nghĩa căn bản của dấu lạ là với Chúa Giêsu, thời đại Mêsia đã đến. Cái được biến đổi ở đây không chỉ đơn thuần là nước được sử dụng trong đời sống hằng ngày, nhưng là nước được dùng trong những nghi thức thanh tẩy thời Cựu Ước (2,6). Nước ấy không chỉ được biến đổi thành rượu chung chung mà là rượu hảo hạng và tràn trề (những sáu chum, mỗi chum chứa 80 hay 120 lít). Sự phong phú đó là hình ảnh thời đại mêsia (x. Amos 9,13-14; Joel 3,18). Việc biến đổi nước thời Cựu Ước thành rượu thời mêsia cho thấy bữa tiệc cưới không chỉ là tiệc cưới nhưng là hình ảnh bàn tiệc mêsia, và chú rể trong tiệc cưới này chính là Chúa Giêsu (x. 3,29).
Ở đây ta cũng có thể liên tưởng đến mầu nhiệm nhập thể, mầu nhiệm Thiên Chúa làm người để nâng con người lên. Trong cử hành phụng vụ Thánh Thể, khi linh mục đổ chút nước vào rượu, ngài thầm thĩ đọc lời nguyện: “Như chút nước này được hoà với rượu nho, xin cho nhân tính chúng con được hoà vào thần tính của Chúa.” Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã đảm nhận bản tính loài người và nâng bản tính đó lên tầm cao mới, làm cho con người được tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Điều đó không phải là kết quả của nỗ lực tự nhiên nhưng trước hết và trên hết là ân sủng của Thiên Chúa. Phần vụ của chúng ta là sẵn sàng đáp lại bằng lòng tin, mở rộng tâm hồn để đón nhận ân huệ Thiên Chúa ban như lời Mẹ Maria căn dặn các gia nhân trong tiệc cưới : “Người bảo gì, các anh cứ làm theo” (2,5).
Trình thuật này cũng thường được chọn đọc trong các thánh lễ hôn phối để giúp người Kitô hữu ý thức rằng Chúa Giêsu đã nâng hôn nhân lên thành bí tích, nghĩa là dấu chỉ diễn tả tình yêu giữa Đức Kitô và Gíao Hội, đồng thời ban ơn cho đôi vợ chồng để họ có thể sống tình yêu cao cả đó. Càng sống trong một thời đại mà đời sống gia đình bị đe doạ và đổ vỡ rất nhiều, các đôi vợ chồng công giáo càng cần phải làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa, và họ có thể làm được điều đó khi sống theo lời căn dặn của Mẹ Maria : “Người bảo gì, các anh cứ làm theo” (2,5).
Cuối cùng, Mẹ Maria xuất hiện trong trình thuật như người phụ nữ tinh tế và nhạy bén trước nỗi bối rối của gia đình chủ tiệc. Sự nhạy bén đó phát xuất từ tấm lòng chan chứa yêu thương của Mẹ, vì nhạy bén trước nhu cầu của người khác là nét tinh tế nhất của tình yêu (Jean Guitton). Hơn thế nữa, Mẹ còn tìm cách can thiệp để giúp gia đình đôi tân hôn thoát khỏi cảnh khó khăn. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, người tín hữu xác tín điều đó nên ở khắp nơi và trong mọi thời, họ chạy đến với Mẹ để xin Mẹ trợ giúp ủi an. Ước gì khi đến với Mẹ Maria, ta cũng học được nơi Mẹ sự nhạy bén của tình yêu, nhờ đó cuộc sống gia đình cũng như cộng đoàn sẽ gia tăng niềm vui và an bình.
NGƯỜI PHỤ NỮ XỨ SAMARI (4,1-42)
Sau trình thuật về tiệc cưới Cana, thánh Gioan kể về việc Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Giêrusalem ((2,13-22) và cuộc đối thoại của Chúa với Nicôđêmô (3,1-21). Những trình thuật này đều có mục đích giới thiệu sự mới mẻ mà Chúa Giêsu đem đến : rượu mới thời mêsia, đền thờ mới, sự sống mới trong nước và Thánh Thần. Trong trình thuật về người phụ nữ xứ Samari, thánh Gioan mô tả Chúa Giêsu như nguồn nước ban sự sống, và nói đến sự thờ phượng đích thực. Đây là một trình thuật được biên soạn rất công phu, có thể phân đoạn như sau để dễ thấy và dễ hiểu hơn :
Dẫn nhập (4,1-6) : Chúa Giêsu rời Giuđêa để đi Galilê; trên đường qua Samari, ngài
nghỉ ngơi bên bờ giếng.
Cuộc đối thoại thứ nhất (4,7-26) : giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ
– Nước hằng sống (câu 7-15) : từ nước giếng đến nước đem lại sự sống đời đời.
– Thờ phượng trong Thần khí và sự thật (câu 20-26)
Cuộc đối thoại thứ hai (4,31-38) : giữa Chúa Giêsu và các môn đệ
– Lương thực của Chúa Giêsu (câu 31-34) : Thánh ý của Đấng đã sai Thầy
– Mùa gặt (câu 35-38) : “Đồng lúa đã chín vàng…”
Kết luận (4,39-42) : niềm tin của dân Samari “Người thật là Đấng cứu độ trần gian”
Một vài ghi nhận để giúp hiểu bản văn dễ hơn:
Do hoàn cảnh lịch sử, giữa người Do thái và người Samari có mối quan hệ không tốt, nếu không nói là tồi tệ. Do đó người phụ nữ Samari rất ngạc nhiên khi Chúa Giêsu đến trò chuyện với chị, lại còn xin nước uống (4,6)!
Thông thường, thánh Gioan mô tả Chúa Giêsu bằng những từ ngữ đề cao thần tính của Chúa, nhưng ở đây, ngài lại mô tả Chúa Giêsu rất “người”: mỏi mệt, ngồi ngay bên bờ giếng (4,6). Cả người phụ nữ cũng được mô tả rất “đời” : chị đi kín nước vào giữa trưa (câu 6)! Các phụ nữ khác đã đi lấy nước từ sáng, còn chị này mãi đến trưa mới đi kín nước, chứng tỏ chị có lối sống không giống ai, có lẽ còn bận tiếp chuyện với các ông! Phần kế tiếp của câu truyện cho thấy chị sống khá buông thả. Thế nhưng chính người phụ nữ buông thả này, một khi gặp được Lời Chúa, đã trở thành người loan báo Tin Mừng cho cả thành. Lời Chúa có sức biến đổi lạ lùng!
Như đã được học, các sách Tin Mừng không chỉ đơn thuần là sách tiểu sử về Chúa Giêsu nhưng còn phản ánh kinh nghiệm sống đức tin của các cộng đoàn. Trình thuật này cũng phản ánh sứ vụ của Giáo Hội đem Tin Mừng đến cho dân Samari như được mô tả trong Cv 8,4-25.
Điều đáng quan tâm là dân Samari đã tin vào Chúa Giêsu không vì bất cứ dấu lạ nào nhưng chỉ vì sức mạnh của Lời: “Số người tin vì lời Đức Giêsu còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ : Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (câu 41-42).
Trình thuật này còn là bài học quý giá cho đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu, cách riêng trong mùa Chay. Chúa Giêsu đã dẫn đưa người phụ nữ Samari từ chỗ khát nước đến chỗ khám phá nỗi khát khao sâu xa hơn trong cuộc đời chị, nỗi khát khao mà chỉ một mình Chúa mới có thể lấp đầy. Cũng thế, trong mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta giữ chay không chỉ để chu toàn một vài lề luật hay để lập công với Chúa, nhưng ăn chay để khám phá cơn đói sâu xa hơn trong lòng ta, cơn đói mà chỉ một mình Chúa mới có thể lấp đầy. Vì thế, đây là thời gian thuận tiện để mỗi người nhìn lại lòng mình để khám phá nỗi khát khao : phải chăng chỉ là của cải vật chất? hay còn là tình yêu? Và còn là những gì sâu xa nhất? Ước gì trải nghiệm của thánh Augustino cũng trở thành trải nghiệm của mỗi chúng ta : “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con còn mãi băn khoăn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa.”
ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Nguồn: WGPSG
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn