Tuần 100: Tin Mừng theo Thánh Luca (chương 19 – 24)
CHÚA GIÊSU VÀ ĐỀN THỜ GIÊRUSALEM (19,45 – 20,8)
Với sự kiện Chúa Giêsu đến Giêrusalem, thảm kịch thập giá bắt đầu và diễn tiến rất nhanh cho đến cao điểm. Chúa Giêsu vào Đền thờ, thanh tẩy Đền thờ rồi giảng dạy tại đó. Trong bối cảnh này, cuộc xung đột với hàng lãnh đạo Do thái được đẩy lên cao trào (chương 20). Chúa nói đến ngày tận cùng của Giêrusalem và của thế giới (chương 21). Rồi đến những ngày khổ nạn của Chúa (chương 22-23) và cuối cùng là sự chiến thắng của cuộc xuất hành mới do Chúa Giêsu thực hiện (chương 24).
Trình thuật thanh tẩy Đền thờ không những được thánh sử Gioan mà cả Tin Mừng nhất lãm cũng ghi lại; trong đó, bài tường thuật của Luca ngắn nhất. Luca không mô tả những hoạt động mua bán và đổi tiền ở Đền thờ, cũng giảm nhẹ bầu khí xung đột. Ngài chỉ trích dẫn Isaia 56,7 và Giêrêmia 7,11 như lý do đủ để nói lên phản ứng của Chúa Giêsu: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành hang trộm cướp”.
Thanh tẩy Đền thờ là sự chuẩn bị nơi cho vị Thầy đích thực giảng dạy. Đền thờ trở thành trung tâm thi hành sứ vụ của Chúa Giêsu. Ngay ở đầu chương 20, thánh Luca ghi nhận sự thách thức của hàng lãnh đạo Do thái về quyền bính của Chúa: “Ong lấy quyền nào mà làm các điều ấy?” (20,2). Điều đó cho thấy Chúa Giêsu thi hành sứ vụ giảng dạy trong một bầu khí xung đột, không ngừng bị các đối thủ tấn công – nhóm Sađucê, Pharisêu, kỳ lão – và tìm cách triệt hạ.
Ở câu cuối của phần này, Luca cho biết: “Ban ngày, Chúa Giêsu giảng dạy trong Đền thờ, nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Oliu” (21,37), hàm nghĩa Chúa Giêsu ở đó cầu nguyện trong mối hiệp thông sâu xa với Chúa Cha. Đây quả là mẫu mực cho đời sống của tất cả những ai dấn thân vào các hoạt động tông đồ.
TIỆC VƯỢT QUA (22,7-20)
Cũng như Marcô và Matthêu, Luca trình bày bữa Tiệc Ly như là tiệc Vượt Qua. Còn trong Tin Mừng Gioan, bữa Tiệc Ly diễn ra vào đêm trước lễ Vượt Qua, và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá xảy ra vào thời điểm người ta sát tế Chiên Vượt Qua.
Phêrô và Gioan được sai đi chuẩn bị mọi sự: nơi chốn, thức ăn, những thứ khác. Có lẽ Chúa Giêsu không nói rõ địa điểm vì muốn đề phòng Giuđa nghe được. Người cho Phêrô và Gioan một dấu hiệu: gặp một người đàn ông mang vò nước. Thông thường phụ nữ mới mang vò nước, còn đàn ông thì xách thùng.
Chúa Giêsu biết rằng “giờ đã đến” (22,14). Hành động của Người diễn tả sự tự hiến làm Chiên Vượt Qua mới. Người sẽ không ăn lễ Vượt Qua nữa “cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa” (22,16). Hội Thánh hiểu những lời này nói về bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu sắp thiết lập (22,19-20), và về bàn tiệc Nước Trời: “để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương quốc của Thầy” (22,30).
Trong bữa tiệc Vượt Qua, người ta thay nhiều đĩa và chén, kèm theo những lời nguyện và nghi thức. Chúa Giêsu cắt ngang nghi thức quen thuộc đó để hiến dâng chính mình cho các môn đệ dưới hình bánh rượu: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em… Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, đổ ra vì anh em” (22,19-20). Hành động này cho thấy Chúa Giêsu thiết lập Giao Ước mới. Trong giao ước cũ, sự kết hợp giữa Thiên Chúa và Dân được biểu tượng hóa bằng việc rẩy máu của một con vật (Xh 24,5-8). Ở đây, sự kết hợp được nên trọn vẹn nhờ máu của Đấng là Thiên Chúa và là con người. Các môn đệ được nhắn nhủ : “hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (22,19). “Làm việc này” bao hàm cả hai ý nghĩa: làm lại cử chỉ Chúa đã làm, và thực hành sự tự hiến thân mình.
CHÚA GIÊSU TỰ HIẾN TRÊN THÁNH GIÁ (22,32-49)
Thánh sử Luca không dùng từ “Golgotha” trong tiếng Aram, nhưng chỉ gọi đơn sơ là “Đồi Sọ” ((23,33), nơi Chúa Giêsu bị hành hình. Người bị đóng đinh cùng với hai tên gian phi, như Chúa đã báo trước: “Cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm nhân” (Lc 22,37; Is 53,12). Khi mọi người nghĩ rằng trong cơn đau đớn cùng cực, Chúa Giêsu sẽ thốt lên những lời nguyền rủa và thóa mạ, thì Người lại cất lời cầu xin ơn tha thứ cho những kẻ làm khổ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (23,34). Lời cầu nguyện này trở thành mẫu mực và điểm son ghi dấu các vị tử đạo trong Kitô giáo, cụ thể là thánh Têphanô (Cv 7,60). Chi tiết “họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm” (23,34) gọi về lời Thánh vịnh 22,19 “Ao mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn”.
Trong cái chết của Chúa Giêsu, thánh Luca nhấn mạnh sự thù nghịch và ghen tị của hàng ngũ lãnh đạo Do thái: “Họ buông lời cười nhạo: Hắn đã cứu người khác thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn” (23,35). Luca không dùng từ “Vua Israel” như Marcô và Matthêu (Mc 15,32; Mt 27,42) nhưng dùng từ “người được tuyển chọn” là từ đã dùng trong trình thuật Chúa Giêsu biến hình (Lc 9,35). Lính tráng đưa giấm cho Người uống, một cử chỉ có thể được xem là tử tế dành cho phạm nhân bị đóng đinh và đang khát cháy cổ, nhưng cử chỉ này trở thành sự cười nhạo khi cùng với việc đưa giấm cho Người uống, họ nói: “Nếu ông là vua dân Do thái, thì hãy cứu mình đi” (23,37).
Trình thuật về người gian phi sám hối là trình thuật riêng của thánh Luca. Người gian phi trách mắng tên gian phi khác vì cười nhạo Chúa Giêsu, và anh ta nài xin Chúa Giêsu: “Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi” (23,42). Lời cầu xin này diễn tả vương quốc mêsia mà người Do thái trông mong, nay đã đến. Trong thần học của Luca, lời cầu này còn muốn nói đến Chúa Giêsu được tôn vinh qua sự phục sinh và thăng thiên. Đáp lại, Chúa Giêsu hứa cho anh được ở với Người, ngay hôm nay, trên Thiên Đàng; vì cái chết của Chúa là sự khởi đầu cuộc xuất hành mới (Lc 9,31).
Khi Chúa Giêsu sắp trút hơi thở cuối cùng, thì tăm tối bao trùm, màn trong Đền thờ bị xé ngay chính giữa (23,45). Đó là bức màn ở giữa Nơi Thánh và Nơi Cực Thánh; như thế, bằng cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã mở một con đường mới dẫn đến ngai Thiên Chúa. Người trút hơi thở cuối cùng với tâm tình hoàn toàn phó thác nơi Thiên Chúa: “Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con” (Tv 31,6; Lc 23,46).
Chứng kiến những gì xẩy ra, viên đại đội trưởng khẳng định Chúa Giêsu vô tội: “Ông này đích thực là người công chính” (23,47). Luca dùng từ “người công chính” thay vì “Con Thiên Chúa” như trong Mc 15,39 và Mt 27,54. Dân chúng “đấm ngực trở về” (23,48) hàm nghĩa vừa buồn phiền khi chứng kiến một người vô tội phải chết, vừa hối hận vì sự sai trái của mình. Thánh Luca không kể lại việc các môn đệ chạy trốn (Mc 14,50; Mt 26,56), ngài chỉ ghi nhận họ “đứng đàng xa” quan sát và theo dõi sự kiện. Lại chẳng phải là điều đáng cho mỗi Kitô hữu suy nghĩ sao, vì sự bàng quan, vô cảm, đứng đàng xa, của chúng ta khi chứng kiến những khổ đau mà Hội Thánh Chúa và bao nhiêu người vô tội đang phải chịu?
TRÊN ĐƯỜNG EMMAUS (24,13-35)
Hai môn đệ Emmaus đã cùng có mặt với Nhóm Mười Một vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, “cùng ngày hôm ấy” (24,13), nghĩa là họ đã nghe câu chuyện của các phụ nữ và của Phêrô. Thánh Luca biên soạn trình thuật này theo cùng một lược đồ như câu chuyện về viên thái giám người Ethiopia được Philip rửa tội: trên đường đi, giải thích Kinh Thánh, hành động đặc biệt, sự biến mất lạ lùng (Cv 8,26-40).
Chúa Giêsu xuất hiện như một khách hành hương từ Giêrusalem về. Hai môn đệ không nhân ra Người. Mắt họ “còn bị ngăn cản” (24,16). Đây là thuật ngữ diễn tả sự mù lòa thiêng liêng. Nhiều trình thuật về Chúa Kitô phục sinh cho biết Người nhìn rất khác (Mc 16,12; Ga 20,14; 21,4). Chắc chắn thân xác của Đấng Phục sinh đã được biến đổi, nhưng điểm chính yếu ở đây là cần phải có cặp mắt mới, cặp mắt của đức tin, mới nhận ra Người. Thật vậy, dù chúng ta có những chứng từ đáng tin cậy về sự gặp gỡ Chúa Phục sinh, nhưng cần phải hiểu rằng việc gặp Chúa, thấy Chúa, không phải là do cặp mắt tự nhiên, nhưng do đức tin.
Hai môn đệ buồn rầu vì cái chết của Chúa Giêsu và lấy làm lạ là tại sao một sự kiện kinh thiên động địa như thế mà ông khách bộ hành lại không biết (24,18). Trong số hai môn đệ, có một người được nêu tên là Cleopas; có lẽ sau này Cleopas nắm một vai trò quan trọng trong cộng đoàn Kitô hữu. Họ mô tả Chúa Giêsu là vị tiên tri đầy uy thế, vị tiên tri được mong chờ đã lâu ((Lc 24,19; Đnl 18,15; Cv 7,22). Họ còn hi vọng Người không chỉ là vị tiên tri mà còn là “Đấng sẽ giải thoát Israel” (24,21). Thế mà “các thượng tế và thủ lãnh đã nộp Người…” (24,20). Trách nhiệm của hàng lãnh đạo lại được nhấn mạnh.
Hai môn đệ cũng đã nghe kể về ngôi mộ trống, nhưng sự kiện ấy chỉ làm họ kinh ngạc chứ không làm cho họ tin rằng Chúa đã sống lại (24,22-24). Thật ra, sự phục sinh mà người Do thái trông mong là chiến thắng phổ quát của người công chính vào thời điểm tận cùng lịch sử, chứ không phải là sự phục sinh cá nhân trong thời gian của lịch sử.
Chúa Giêsu trách mắng hai môn đệ: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các tiên tri” (24,25). Họ đã đọc sách các tiên tri nhưng lại không nhận ra rằng trong chương trình của Thiên Chúa, phải đi qua thập giá mới đạt đến vinh quang. Cho nên Đấng phục sinh “giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (24,27).
Các môn đệ ngỡ ngàng khi nghe Chúa Giêsu giải thích Kinh Thánh và họ nài xin Chúa “ở lại” với họ (24,29). Động từ “ở lại” mang ý nghĩa rất phong phú, vd. trong Tin Mừng Gioan (Ga 14,17; 15,4-10). Khi dùng bữa với họ, Chúa Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ” (24,30). Cử chỉ này nhắc đến phép lạ hóa bánh ra nhiều (Lc 9,16) và Bữa Tiệc Ly (22,19). Chính trong “việc bẻ bánh” (tên gọi ban đầu của cử hành Thánh Thể – Cv 2,42,46) mà hai môn đệ nhận ra Chúa, nhưng Người biến mất khỏi tầm nhìn tự nhiên của họ. Họ nhớ lại lòng mình đã bừng cháy khi nghe Chúa giải thích Kinh Thánh (24,32) mà không biết tại sao. Bây giờ họ hiểu được là mình đã gặp gỡ Đấng Phục sinh. Cũng vậy, người Kitô hữu gặp được Đấng Phục sinh khi cử hành Thánh Thể và đọc Sách Thánh.
Kinh nghiệm gặp gỡ Đấng Phục sinh không thể giấu kín, nhưng phải được chia sẻ và loan báo (Cv 4,20). Khi hai môn đệ về đến Giêrusalem thì Tin Mừng Phục sinh đã được công bố: “Chúa sống lại thật rồi và đã hiện ra với ông Simon” (24,33). Thánh Luca không kể lại việc này, nhưng kết thúc trình thuật bằng việc nhấn mạnh đến bí tích Thánh Thể: “Hai ông huật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh” (24,35).
Tuần 101: Sách Công vụ Tông đồ (chương 1 – 8)
1. Tầm quan trọng của sách Công vụ
Sách Công Vụ là cuốn sách duy nhất trong bộ Tân Ước đã nối kết câu truyện về Chúa Giêsu với câu truyện về Giáo Hội sơ khai. Nhờ đó không những chúng ta có thêm thông tin về Giáo Hội sơ khai mà còn hiểu thêm về những sách khác trong Tân Ước.
Tuy nhiên, tầm quan trọng của sách Công Vụ không chỉ ngừng lại ở đây. Chúng ta tin rằng những gì được ghi lại trong Sách Thánh không chỉ là những lời liên quan đến quá khứ nhưng còn là lời Chúa nói với ta ngày nay. Vì thế những câu truyện trong sách Công Vụ là những mẫu điển hình, qua đó ta hiểu được cách thế Thiên Chúa hướng dẫn Dân Ngài, ngày xưa cũng như ngày nay. Dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, thánh Luca đã viết sách Công Vụ trong ý hướng này. Trong số rất nhiều câu truyện, ngài đã chắt lọc những gì quan trọng nhất để làm mẫu mực cho đời sống Kitô hữu. Ngài tập trung vào một số câu truyện và mô tả thật sâu. Ngài nối kết truyện kể với các diễn từ, nhờ đó làm nên tổng thể cho những vấn đề được trình bày. Khi viết như thế, thánh Luca không chỉ đóng vai một sử gia thuần tuý nhưng còn như một mục tử cung cấp mẫu sống đức tin cho cộng đoàn tín hữu. Vì thế sách Công Vụ không chỉ đơn thuần là một tư liệu lịch sử nhưng trước hết và trên hết, là bài tường thuật đức tin. Thật vậy, ta có thể coi sách Công Vụ là bản trình bày lối sống Kitô hữu bước theo Chúa Giêsu, được thể hiện cách sinh động nơi các Kitô hữu thuở ban đầu.
2. Lược đồ tổng quát
1,12 – 8,3 Giáo Hội tại Giêrusalem được khai sinh và phát triển trong tác động của Thánh Thần
8,4 – 9,31 Cuộc bách hại và sự phát triển của Giáo Hội tại Giuđêa và Samaria
9,32 – 15,35 Dân ngoại: Phêrô và Cornêliô, Barnabê và Saulê, Công đồng Giêrusalem
15,36 – 18,23 Sứ mạng của thánh Phaolô: hành trình truyền giáo lần II
18,24 – 21,14 Thánh Phaolô tại Giêrusalem: hành trình truyền giáo lần III
21,15 – 26,32 Tù nhân Phaolô làm chứng cho sự phục sinh
27,1 – 28,31 “Con sẽ làm chứng tại Roma”
NHỮNG CHỦ ĐỀ CHÍNH
1. Chương trình cứu độ được hoàn thành
Sách Công Vụ khởi đầu bằng sự kiện Thăng Thiên và Lễ Ngũ Tuần. Thánh Thần là sự thể hiện tối hậu những lời hứa cho Abraham. Chính Ngài xức dầu các vị thủ lãnh của Dân Chúa, ban sức mạnh cho các Kitô hữu để họ rao giảng, chữa lành, xua trừ thần dữ, và làm chứng cho Đức Kitô Phục sinh đến tận cùng trái đất. Như thế, Ngài khôi phục Israel và chúc phúc cho mọi dân tộc bằng cách đưa họ vào Dân Thiên Chúa mà không cần phải chịu phép cắt bì.
2. Đức Kitô Phục sinh hoạt động qua các môn đệ trong tác động của Thánh Thần
Sau khi về trời, Chúa Giêsu tiếp tục hoạt động qua các môn đệ của Người bằng cách ban Thần Khí của Người cho họ, để họ rao giảng và chữa lành nhân danh Người; cách riêng qua thánh Phaolô là người “rao giảng ánh sáng cho dân Do Thái cũng như cho dân ngoại” (26,23). Ai khước từ các môn đệ Chúa Giêsu là khước từ chính Chúa và bị loại ra khỏi sự hiệp thông với Dân Chúa (3,23).
3. Duy trì sự liên tục ngay giữa những thay đổi
Ngày nay, không ít Kitô hữu cảm thấy ngỡ ngàng và bực bội trước những thay đổi quá nhanh trong Giáo Hội. Vào thời thánh Luca cũng thế, cách riêng với những Kitô hữu gốc Do thái. Sách Công Vụ cho thấy chính Thiên Chúa khởi xướng những thay đổi lớn lao này, từ chỗ chỉ là một nhóm môn đệ người Do thái đến chỗ trở thành một Giáo Hội với đa số là người gốc dân ngoại, có mặt khắp đế quốc Rôma, nhất là khi thánh Phêrô và Phaolô đón nhận dân ngoại vào Giáo Hội mà không cần chịu phép cắt bì. Tuy nhiên, thay đổi mà vẫn duy trì tính liên tục. Nhóm Mười Hai và những Kitô hữu gốc Do thái là sợi giây nối kết hiện tại với truyền thống.
4. Kitô giáo phát triển vượt qua mọi trở ngại
Sách Công Vụ thường xuyên ghi nhận rằng “Lời Thiên Chúa tiếp tục được trải rộng”, bất kể bị bắt bớ hay bách hại thế nào.
5. Thiên Chúa hướng dẫn Dân Ngài
Toàn bộ sách Công Vụ làm nổi bật sự chỉ đạo của Thiên Chúa. Các tông đồ không tự ý đi đến nơi các ngài muốn. Chúa không cho phép Phaolô đi đến châu Á nhưng hướng dẫn ông đi Macêđônia và Hi Lạp (chương 16). Thiên Chúa chỉ đạo Dân Ngài qua Thánh Thần, những thị kiến, giấc mơ, các thiên thần, những lời tiên tri. Tất cả đều cho thấy những quyết định và hành động của Giáo Hội sơ khai không phải là ý tưởng nhân loại nhưng là hành động theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
6. Biện hộ cho Kitô giáo, cách riêng thánh Phaolô
Sách Công Vụ biện hộ cho thánh Phaolô và các Kitô hữu gốc Do thái (khi họ bị kết án là phản đạo) bằng cách nhấn mạnh sự trung thành của họ với Lề luật, đồng thời nhấn mạnh rằng việc đón nhận dân ngoại mà không cần cắt bì là quyết định của Thiên Chúa. Sách Công Vụ cũng biện hộ cho sự vô tội của Phaolô đối với luật Rôma. Việc các thẩm phán Rôma kết luận Phaolô “vô tội” (Cv 22-26) cho thấy các Kitô hữu không phải là mối đe dọa cho sự an ninh của đất nước.
PHÉP RỬA TRONG THÁNH THẦN (2, 1-21)
Cuối cùng, điều mà Chúa Cha đã hứa, điều mà Đức Kitô đã nói đến và các môn đệ trông mong (Cv 1,4), điều ấy đã đến, đó là Phép Rửa trong Thánh Thần.
Vào ngày lễ Ngũ Tuần, người Do thái đi hành hương lên Giêrusalem để kỷ niệm việc Thiên Chúa thiết lập Dân Ngài qua việc ban Lề luật trên núi Sinai. Trong ngày ấy, khi cộng đoàn các môn đệ Chúa Giêsu đang họp nhau cầu nguyện (x.1,14), thì “bỗng từ trời phát ra một tiếng động như tiếng gió mạnh ùa vào… Rồi họ thấy những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một” (2,2-3). Từ rất lâu trong Cựu Ước, người Do thái đã liên kết “gió” với “thần khí”. Gioan Tẩy giả đã nói tiên tri về lửa và Thánh Thần: Đấng đến sau tôi nhưng quyền năng hơn tôi, “sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3,16). Như thế, đây chính là lúc lời tiên tri được thực hiện.
Khi “ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói đến các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (2,4). Việc nói các thứ tiếng khác ở đây là ân huệ Thánh Thần nhằm thi hành sứ vụ truyền giáo. Thật ích lợi biết bao nếu các nhà truyền giáo có thể rao giảng Lời Chúa bằng nhiều ngôn ngữ! Ở đây xem ra thánh Luca không nghĩ đến điều mà thánh Phaolô gọi là “ơn ngôn ngữ” trong thư 1Cor 12-14. Thánh Phaolô không mô tả “ơn ngôn ngữ” như nói thứ tiếng nào của loài người, nhưng là cách thế cầu nguyện với Thiên Chúa mà không cần đến lời nói và lý luận.
Điều quan trọng trong trình thuật này là sự đảo ngược những gì đã xảy ra trong trình thuật tháp Babel (St 11,1-9). Ở Babel, người ta nói cùng một ngôn ngữ nhưng lại không hiểu nhau. Còn trong lễ Ngũ Tuần, cả những người sử dụng các ngôn ngữ khác vẫn hiểu được lời của các Tông đồ: “Tại sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?”
THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN (2,42-47)
Thánh Luca trình bày hình ảnh lý tưởng về cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên, và hình ảnh này vẫn là gợi hứng cần thiết cho Giáo Hội ngày nay. Khi một cộng đoàn Kitô hữu chân thành sám hối và mở lòng ra cho quyền năng Thánh Thần, thì sẽ có những thay đổi lạ lùng trong cộng đoàn và lôi kéo nhiều người khác đến với Chúa. Những yếu tố trong đời sống cộng đoàn được thánh Luca đề cao là: giáo huấn tông đồ, chia sẻ đời sống với nhau, bẻ bánh (Thánh Thể), cầu nguyện chung. Họ cảm nhận quyền năng của Thánh Thần qua những điềm thiêng dấu lạ (Cv 2,19; Joel 3,3).
“Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, để mọi sự làm của chung” (2,44). Điểm chính yếu ở đây là không ai phải thiếu thốn, không có cảnh người thì thừa mứa, kẻ lại thiếu ăn. Thánh Luca còn nhấn mạnh một hoa trái khác của Thánh Thần là niềm vui và sự ca tụng Chúa. Đừng quên rằng cộng đoàn đầu tiên này là Kitô hữu gốc Do thái. Họ vẫn gắn bó với truyền thống Do thái giáo, được người Do thái kính trọng và lôi kéo nhiều người Do thái khác vào cộng đoàn: “Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (2,47).
CUỘC TỬ ĐẠO CỦA THÁNH TÊPHANÔ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁO HỘI (7,54 – 8,3)
“Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa và thấy Chúa Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (7,54). Trong Tân Ước, Chúa Giêsu nhiều lần dùng từ “Con Người” để nói về Ngài. Nhưng đây là lần đầu tiên, một người khác ngoài Chúa Giêsu nói về Chúa bằng từ “Con Người”.
Thánh Luca xây dựng trình thuật này bằng cách đối chiếu cái chết của Têphanô với cái chết của Chúa Giêsu. Têphanô bị lôi ra ngoài thành (Cv 7,58) cũng như Chúa Giêsu bị đóng đinh ngoài thành Giêrusalem. Khi bị hành hình, Têphanô cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy linh hồn con” (7,59), giống như lời cầu của Chúa Giêsu: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Cả hai vị đều tha thứ cho những người giết hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34) và “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (Cv 7,60). Điều đáng quan tâm ở đây là Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, còn Têphanô cầu nguyện với Chúa Giêsu.
Với thánh Luca, lời cầu xin tha thứ này rất quan trọng. Ngài nối kết lời xin tha thứ của Chúa Giêsu với sự sám hối của người Do thái ở Giêrusalem (Cv chương 2 và 3). Cũng thế, lời cầu xin tha thứ của Têphanô gắn với ơn trở lại của Phaolô (Cv 9,4-6). Chính vì thế, ngay sau lời cầu xin tha thứ của Têphanô, thánh Luca đã nhắc đến Phaolô (8,1). Đây cũng là lý do ngay sau trình thuật về cuộc tử đạo của Têphanô, thánh Luca nói đến cuộc bách hại lan tràn: “mọi người đều phải tản mác về các vùng quê miền Giuđêa và Samari” (8,2). Tuy nhiên, đây lại là cơ hội cho Tin Mừng được lan rộng khắp nơi.
ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Nguồn: WGPSG
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn