Học hỏi Thánh Kinh 100 tuần – Tuần 112, 113 và 114 ( Hết )

Thứ sáu - 20/04/2018 05:06  7006

Tuần 112 TIN MỪNG GIOAN (Chương 6-12)

HOÁ BÁNH RA NHIỀU (6,1-15)

Lễ Vượt qua là lễ bánh không men, vì thế ghi chú về lễ Vượt qua (câu 4) có mục đích chuẩn bị cho chúng ta hiểu về dấu lạ hoá bánh ra nhiều sắp xẩy ra. Đây là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng kể lại (Marco kể hai lần 6,31-34 và 8,1-10; Matthêu kể hai lần 14,13-21 và 15,32-38; Luca 9,10-17). Sự kiện đó cho thấy tầm quan trọng của trình thuật này trong đời sống Giáo Hội sơ khai. Thật vậy, những gì Chúa Giêsu đã làm khi hoá bánh ra nhiều trở thành chuẩn mực cho việc cử hành Thánh Thể trong các cộng đoàn. Trong trình thuật của Tin Mừng nhất lãm, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra trao cho… Các thừa tác viên cũng làm như thế khi cử hành Thánh Thể. Trình thuật của Gioan cũng mang tính nghi lễ như thế, nhưng ngài thêm một chi tiết vốn là nét đặc trưng của Kitô giáo : Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, và phân phát (6,11). Trong tiếng Hi lạp, từ mà ta dịch làtạ ơneuc-haristeo, cũng là từ được dùng để nói về Thánh Thể. Thánh Gioan còn nhắc lại ý nghĩa này ở 6,23: “Có những thuyền khác từ Tibêria đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn.”

Thánh Gioan gọi phép lạ này là dấu lạ: “Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói…” (6,14). Dấu lạ này có mục đích làm cho mọi người khám phá ra Chúa Giêsu chính là Bánh ban sự sống, chủ đề sẽ được Gioan khai triển trong suốt chương 6. Phản ứng của dân chúng ở câu 14, “Hẳn ông này là vị tiên tri, Đấng phải đến thế gian”, nhắc nhớ đến vị tiên tri như Môsê (x. Đnl 18,15.18) mà người ta mong đợi sẽ xuất hiện vào thời cuối cùng. Như Môsê đã nuôi dân bằng manna trong sa mạc thì Chúa Giêsu cũng nuôi dân như thế.

Ghi nhận cuối cùng nên quan tâm là hai môn đệ được nêu tên trong trình thuật này là Philipphê và Anrê. Đây cũng là hai vị đã giới thiệu Nathanael và Simon Phêrô đến gặp Chúa Giêsu (Ga 1,41.45). Sau này, cũng chính hai vị này trở thành tông đồ cho người Hi Lạp (12,20-22). Như thế, vai trò của hai vị tông đồ này được quan tâm đặc biệt trong Tin Mừng Gioan. Đồng thời, những ghi nhận trên cũng thoáng mở chiều kích truyền giáo của dấu lạ hoá bánh ra nhiều : Chúa Giêsu làm phép lạ không chỉ để thoả mãn cơn đói chóng qua của con người nhưng để giúp người ta nhận ra Ngài là Bánh hằng sống.

NGƯỜI MÙ TỪ THUỞ MỚI SINH (9,1-41)

Trình thuật này được xây dựng rất công phu như một vở kịch sống động với 6 cảnh tuần tự diễn ra, với những cuộc đối thoại sâu sắc và những nhân vật đủ sắc màu. Điều quan trọng là cố gắng nắm bắt những giáo huấn mà thánh sử muốn trao gửi cho người đọc.

1. Ý nghĩa Phép Rửa

Điều chắc chắn là trình thuật này đã được vận dụng vào việc dạy giáo lý về Phép Rửa. Không phải vô tình mà thánh Gioan ghi chú rằng người mù đi rửahồ Siloe, ( Siloe có nghĩa là người được sai đến). Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu chính là người được sai đến. Như thế, thánh Gioan không chỉ kể chuyện người mù mắt được chữa lành nhưng qua đó, ngài còn muốn nói đến việc chữa lành sự mù loà thiêng liêng. Việc chữa lành này được ban cho những ai chịu Phép Rửa : họ được rửa trongĐấng được sai đến, nghĩa là chính Chúa Giêsu (chịu Phép Rửa là dìm mình vào trong Chúa).

Ngoài ra, nên ghi nhận sự khai mở từng bước nơi người mù được chữa lành : lúc đầu anh chỉ nói đến một người tên là Giêsu (câu 11), sau đó anh gọi ngài là tiên tri (câu 17), rồi là người từ Thiên Chúa mà đến (câu 33), rồi là Con Người (câu 35) và đỉnh cao là anh sấp mình xuống trước mặt Chúa Giêsu, một cử chỉ thờ phượng dành cho Thiên Chúa (câu 38). Cũng vậy, sau khi đã lãnh nhận Phép Rửa, người tân tòng từng bước được dẫn sâu hơn vào hành trình đức tin, khám phá nội dung đức tin, sống đời thờ phượng và đạo đức theo chuẩn mực của Tin Mừng. Nhân cơ hội này, ta cần xem xét lại cách dạy giáo lý dự tòng trong cộng đoàn giáo xứ của mình. Phải chăng nhiều khi ta đã làm quá vội vã, chưa giúp người dự tòng hiểu biết, yêu mến Chúa và thực hành cho đúng theo Lời Chúa dạy?

2. Chúa Kitô là ánh sáng muôn dân

Về mặt văn chương, câu chuyện về người mù vừa hài hước vừa thâm thuý. Những người tự cho là mình sáng mắt, thấy rõ, thì hoá ra lại mù, và mù chẳng phải vì tai nạn do ai gây ra nhưng do chính mình muốn thế : “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘Chúng tôi thấy’ nên tội các ông vẫn còn” (câu 41). Ngược lại, kẻ mù loà nhưng dám liều mình làm theo lời Chúa Giêsu (câu 6) thì lại “thấy”. Cái thấy này ban đầu chỉ là thấy bên ngoài (sight) nhưng rồi được dẫn đến cái thấy bên trong (in-sight). Chúa Kitô chính là ánh sáng muôn dân để trong Ngài, chúng ta nhìn thấy ánh sáng. Có nhiều thái độ khiến ta không đón nhận được ánh sáng và cứ ở mãi trong cảnh mù loà : từ nỗi sợ hãi như cha mẹ của anh mù (câu 23) đến những thành kiến và tính toán của người Pharisêu và giới cầm quyền (câu 13-17). Cần khiêm tốn nhận diện chính mình trong những nhân vật đó để có thể mở mắt mở lòng đón nhận ánh sáng của Chúa.

3. Cộng đoàn của Gioan

Câu truyện về người mù còn phản ánh kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn Giáo Hội đương thời. Câu 22 ghi nhận rằng “Người Do thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô.” Câu 34 ghi nhận sau khi được chữa lành và đối chất với những người cầm quyền, anh mù bị trục xuất khỏi hội đường. Những ghi nhận này phản ánh sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa các Kitô hữu và người Do thái. Vào thời Chúa Giêsu, kể cả thời thánh Phaolô đi rao giảng Tin Mừng, mối quan hệ này chưa đến nỗi nặng nề. Tuy nhiên, tình hình ngày càng xấu đi, nhất là khi các Kitô hữu nhấn mạnh Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa. Có thể thấy điều đó khi trong lời cầu nguyện tại hội đường Do thái, có cả lời nguyền rủa những kẻ rối đạo như những tên Kitô hữu! Không có Kitô hữu gốc Do thái nào có thể chấp nhận lời cầu nguyện như thế, và đó là lý do họ bị trục xuất khỏi cộng đoàn. Như thế, ở bất cứ thời đại nào, sống niềm tin vào Chúa Giêsu vẫn luôn là một thách đố. Nhưng chính những thách đố ấy có thể thúc bách ta dấn thân hơn và sống niềm tin sâu sắc hơn như anh mù trong câu truyện: “Anh nói : Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (9,38).

PHỤC SINH LADARÔ (11,1-54)

Chúa Giêsu vừa là sự sống vừa là sự sống lại (11,25) và phép lạ phục sinh Ladarô chính là dấu chỉ cho lời khẳng định đó.

1. Matta và Maria

Không chỉ trong Tin Mừng Gioan, hai chị em Matta và Maria còn được nhắc đến trong Luca 10,38-42, và cả hai tác giả đều cho thấy tính cách của mỗi người. Matta xuất hiện như một người năng động nên trong Luca 10,40, chị rất bận rộn trong chuyện đón tiếp Chúa Giêsu, và trong Gioan 11,20, chị cũng là người mau mắn ra gặp Chúa Giêsu trước. Còn Maria thì ngồi ở nhà, sau đó thì dưới chân Chúa (Ga 11,20. 32), cũng giống như Maria trong Luca 10,39 ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe lời Người.

2. Ladarô

Có điều lạ là Tin Mừng Luca không nói gì đến người em trai là Ladarô. Trong Luca có dụ ngôn về Ladarô nhưng Ladarô ở đây là một người nghèo, suốt đời khổ sở, cuối cùng được ở trong lòng Abraham. Dụ ngôn này kết thúc bằng lời cảnh cáo rất đặc biệt của Chúa Giêsu : “Nếu chúng không nghe theo Môsê và các tiên tri, thì dù có kẻ chết sống lại, chúng cũng không nghe đâu” (Lc 16,31). Nghĩa là cũng nói đến chuyện kẻ chết sống lại. Vậy có sự trùng hợp nào chăng giữa hai nhân vật Ladarô? Phải chăng thánh Gioan đã biến người hành khất trong Tin Mừng Luca thành người em trong gia đình của Matta và Maria? Không phải thế, những gì thánh Gioan kể lại đều là người thật việc thật, ở đây chỉ muốn ghi nhận sự gần gũi giữa hai bản văn.

3. Sự hồi sinh của Ladarô và sự phục sinh của Chúa Giêsu

Nếu so sánh trình thuật về sự hồi sinh Ladarô và trình thuật về sự phục sinh của Chúa (chương 20), có nhiều nét song đối với nhau :

– Maria than khóc ở gần mộ (11,31 và 20,11)

– Ngôi một bị tảng đá che kín (11,38 và 20,1)

– Khăn liệm và khăn che mặt (11,16 và 20,6-7)

– Vai trò đặc biệt của Tôma (11,16 và 20,24-28)

Như thế, thánh Gioan viết trình thuật hồi sinh Ladarô như để tiên báo về sự phục sinh của Chúa. Tuy nhiên sự phục sinh của Chúa Giêsu hoàn toàn khác với sự hồi sinh Ladarô:

– Ladarô được hồi sinh là trở lại với đời sống cũ để rồi sớm muộn cũng sẽ chết, còn Chúa Giêsu phục sinh là bước vào sự sống vĩnh hằng, trở thành Đấng hằng sống, sự chết không còn làm chủ được Người nữa.

– Ladarô được hồi sinh với thân xác cũ, còn Chúa Giêsu phục sinh với thân xác vinh hiển, thân xác không còn bị chi phối bởi những điều kiện không gian và thời gian như các trình thuật Thánh Kinh cho biết.

4. Giáo huấn

Câu 25-26 là trọng tâm của cả trình thuật : Chúa Giêsu là sự sống và sự sống lại của tất cả những ai giống như Matta, dám tin rằng Người là “Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa” (câu 27 và 31). Ai có đức tin thì cho dù phải chết cũng sẽ sống. Ai sống mà tin thì sẽ không bao giờ phải chết.

Lời của thượng tế Caipha được thánh Gioan giải thích như lời tiên tri mà chính ông ta không ngờ: “Chúa Giêsu phải chết cho dân, và không chỉ cho dân mà thôi nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa tản mác khắp nơi thành một mối” (câu 51-52). Lời này cũng trình bày thần học của Gioan về ơn cứu độ.

An sâu trong trình thuật này là chân lý cao cả về cuộc Vượt qua của Chúa Giêsu : Người hi sinh mạng sống mình để ban sự sống cho ta. Vì yêu thương Ladarô, Chúa Giêsu đi Bêtania để làm cho ông sống lại; nhưng khi làm như thế, Người phải chấp nhận hiểm nguy (x. các câu 7-8, 16, 50-53). Như đã nói, so sánh trình thuật phục sinh Ladarô và trình thuật về sự phục sinh của Chúa ở chương 20, ta sẽ thấy nhiều điểm tương đồng. Cả hai trình thuật đều nói đến Maria khóc lóc ở mồ (11,31 và 20,11), nấm mồ với tảng đá chắn bên ngoài (11,38 và 20,1), khăn liệm và khăn che đầu (11,44 và 20,6-7), vai trò đặc biệt của Tôma (11,16 và 20,24-28). Dường như thánh sử Gioan viết trình thuật này để báo trước cuộc phục sinh của Chúa. Vì thế, chương 11 chuẩn bị cho ta đọc chương 20.

Chúng ta có thể thắc mắc về sự trì hoãn của Chúa Giêsu (11, 4-7). Tại sao Chúa không lên đường ngay để ngăn cho Ladarô khỏi chết mà lại đợi ông ấy chết rồi mới ra tay? Thánh sử Gioan đã nhìn biến cố từ quan điểm của Thiên Chúa hơn là quan điểm của con người, và điều này được diễn tả qua lời của Chúa Giêsu: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh” (11,4). Dấu lạ đã bày tỏ vinh quang Thiên Chúa và sự hiện diện của Chúa nơi Người Con chí ái của Ngài. Dấu lạ là một cuộc thần hiện. Thiên Chúa, Đấng là Tình yêu chữa lành mạc khải chính mình qua công trình của Người Con. Như thế, khi bước theo Chúa Giêsu, chúng ta tin tưởng chắc chắn sẽ đạt đến sự sống trọn vẹn.

ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm

Tuần 113: TIN MỪNG GIOAN (Chương 13-17)

RỬA CHÂN CHO CÁC MÔN ĐỆ (13,1-30)

Với chương 13, chúng ta chuyển từ Sách của những dấu lạ sang Sách vinh quang, nghĩa là nói đến sự chết và sự phục sinh của Chúa. Sách này gồm những diễn từ ly biệt (chương 13-17), trình thuật về cuộc thương khó (chương 18-19), sự phục sinh (chương 20) và phần kết (chương 21). Ở đây chỉ tập trung vào trình thuật rửa chân (13,1-30).

1. Bài học luân lý

Một lần nữa, tác giả nói đến lễ Vượt qua nhưng đây sẽ là cuộc vượt qua của chính Chúa Giêsu, từ thế gian mà về cùng Cha (13,1.3). Trong trình thuật này, Chúa Giêsu vốn là tôi tớ của Thiên Chúa nay lại trở thành tôi tớ loài người. Giờ của Người đã đến và Người yêu thương những kẻ thuộc về Người đến cùng (13,1), đến cùng thời gian và đến cùng sức lực. Vì chính Chúa Giêsu đã làm nhiệm vụ người tôi tớ nên chúng ta, các môn đệ của Người, cũng được mời gọi rửa chân cho nhau: “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (câu 15). Bài học về phục vụ đã rất rõ ràng và đầy sức thuyết phục.

2. Ý nghĩa về cái chết của Chúa Giêsu

Tuy nhiên, trình thuật này còn chất chứa những giáo huấn sâu xa hơn nữa. Khi Phêrô phản đối, không chấp nhận để Thầy rửa chân cho (cũng như ông đã phản đối lời loan báo về cuộc thương khó của Chúa trong Mc 8,32), Chúa Giêsu đã cho các môn đệ thấy việc được rửa chân quan trọng thế nào, đến độ nếu không chấp nhận để Chúa rửa chân thì không được chung phần với Chúa (câu 8). Câu này cho thấy trình thuật rửa chân không chỉ hàm chứa một bài học luân lý nhưng còn nói lên nhiều giáo huấn quan trọng :
– Ám chỉ cái chết cứu độ của Chúa Giêsu trong tư cách người tôi tớ. Nếu so sánh trình thuật rửa chân với thánh thi trong thư Philip 2,5-12, ta sẽ hiểu việc rửa chân ở đây nói đến mầu nhiệm huỷ mình ra không (kenosis) của Chúa Giêsu, cũng là mầu nhiệm tôn vinh.
– Hơn thế nữa, trình thuật này còn là giáo huấn về bí tích thánh tẩy. Lãnh nhận bí tích thánh tẩy là được dự phần vào cái chết cứu độ của Chúa, được sạch và không cần phải rửa nữa. Thánh Phaolô diễn tả cách khác là được dìm vào trong sự chết của Chúa để được sống lại với Người. Hiểu như thế, lãnh nhận bí tích thánh tẩy không chỉ là làm một nghi thức mà là đón nhận một lối sống, lối sống yêu thương và phục vụ như Chúa Giêsu (câu 15).

LỜI NGUYỆN LINH MỤC (chương 17)

Chương 17 thường được gọi là Lời nguyện linh mục vì ở đây, Chúa Giêsu cầu nguyện trực tiếp với Chúa Cha cho các tín hữu hiện tại cũng như tương lai. Lời kinh chuyển cầu này nói lên chức năng tư tế, đồng thời sự “thánh hiến” mà Chúa Giêsu nói đến ở câu 19 cũng liên hệ đến vai trò tư tế dâng hy tế.

1. Phân đoạn và nội dung

Chúa Cha và Chúa Con (câu 1-5)

Trong 5 câu này, Chúa Giêsu nói trực tiếp với Chúa Cha. Giờ đã đến, giờ tôn vinh, nghĩa là giờ biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa. Sự sống đời đời chính là nhận biết sự hiện diện này, “nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô”. Chúa Giêsu đã biểu lộ sự hiện diện của Chúa Cha, đã hoàn tất công việc được trao phó. Bản chất đích thực của Thiên Chúa là Tình Yêu sắp được bày tỏ nơi cái chết hy tế của Chúa Giêsu.

Chúa Con và các môn đệ (câu 6-19)

Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ điều gì? Ngài xin Chúa Cha cho họ :
– được Chúa Cha bảo vệ: “Xin gìn giữ chúng trong Danh Cha mà Cha đã ban cho con” (câu 11)
– được hiệp nhất trên nền tảng và theo khuôn mẫu kết hợp sâu xa giữa Cha và Con: “để chúng nên một như chúng ta là một” (câu 11)
– để những đau khổ của họ được biến thành niềm vui: “để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con” (câu 13)
– được gìn giữ khỏi ác thần: “xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (câu 15)
– để họ được thánh hiến, hoàn toàn hiến thân phục vụ Chúa: “xin thánh hiến chúng trong sự thật” (câu 17)

Chúa Con và các môn đệ tương lai (câu 20-26)

Đối với các môn đệ trong tương lai, ân huệ duy nhất mà Chúa Giêsu khẩn nài là ơn hiệp nhất: “để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (câu 21-23). Chỉ với chứng tá hiệp nhất này, sứ vụ của Giáo hội mới có kết quả, bởi vì chỉ khi các môn đệ hiệp nhất yêu thương nhau thì thế gian mới tin, mới nhận biết rằng Chúa Cha đã sai Chúa Giêsu đến trong thế gian, và gặp được nơi các môn đệ chính tình yêu của Chúa Cha.

2. Những chủ đề chính

Chỉ trong một lời nguyện, Chúa Giêsu kêu lên “abba” (cha ơi) những 6 lần. Tên gọi này diễn tả sự kết hợp sâu xa và thân tình giữa Chúa Giêsu và Cha của Người.

Hiệp nhất là ân huệ được nhấn mạnh đặc biệt: hiệp nhất giữa các môn đệ trong hiện tại cũng như tương lai, sự hiệp nhất theo khuôn mẫu hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con, sự hiệp nhất bắt nguồn từ tình yêu của Ba Ngôi.

Tình yêu là từ ngữ thường xuyên được nhắc đến: tình yêu của Chúa Cha với Chúa Giêsu (câu 23-24), với các môn đệ (câu 23). Mạc khải lớn nhất của Tin Mừng chính là Tình yêu của Thiên Chúa. Như thế, Giáo hội phải là một cộng đồng tình yêu, dấu chỉ sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa thế gian.

“Thế gian” là từ ngữ được sử dụng 17 lần trong chương này. Theo nghĩa xấu, thế gian là nơi chốn của bất tín, hận thù, căm ghét, hoàn toàn ngược lại với tình yêu là đòi hỏi mà các Kitô hữu phải sống. Giuđa (được nhắc đến trong câu 12) là minh hoạ cụ thể về sự khước từ ánh sáng và sự sống để nộp mình cho đêm tối và chết chóc. Người môn đệ Chúa sống trong thế giới vật lý này nhưng không chấp nhận sống theo não trạng vô đạo của nó. Câu 21 và 23 cho thấy Chúa Giêsu tin tưởng rằng nhờ chứng tá hiệp nhất yêu thương của các môn đệ, thế gian sẽ tin và nhận biết rằng Chúa Giêsu là Đấng Cha sai đến.

 

Tuần 114: TIN MỪNG GIOAN (Chương 18-21)

CUỘC THƯƠNG KHÓ (18,1 – 19,42)

Trình thuật về cuộc thương khó của Chúa là trình thuật hết sức quan trọng. Tuy nhiên, vì bài tường thuật quá dài, ta hãy tạm bằng lòng với việc nhìn lại lược đồ tổng quát và một vài nét đặc trưng trong trình thuật của Gioan.
1.      Chúa Giêsu bị bắt (18,1-11)
2.      Chúa Giêsu ra trước toà Anna và Caipha, Phêrô chối Thầy (18,12-27)
3.      Chúa Giêsu trước toà Philatô (18,28 – 19,16)
4.      Đóng đinh vào thập tự (19,16-22)
5.      Chúa Giêsu bị lột áo (19,23-24)
6.      Mẹ của Chúa Giêsu và người môn đệ Chúa yêu (19,25-27)
7.      Chúa Giêsu tắt thở (19,28-30)
8.      Lưỡi đòng đâm thâu (19,31-37)
9.      Táng xác (19,38-42)
Mẹ của Chúa Giêsu và người môn đệ Chúa yêu (19,25-27)
Về mặt tự nhiên, đây là câu truyện cảm động về một người con trong giờ hấp hối vẫn ưu tư lo lắng cho mẹ già còn ở lại. Tuy nhiên, nếu câu truyện này được tác giả đặt vào thời điểm quan trọng nhất của Tin Mừng, thì ắt hẳn không chỉ là thế. Câu hỏi được đặt ra là: sự kiện này muốn diễn tả điều gì?
Đã có nhiều gợi ý và suy tư từ trình thuật quan trọng này. Ở đây xin đề nghị đặt trình thuật vào bối cảnh Chúa Giêsu trao ban Thần Khí (19,30) và máu cùng nước chảy ra từ cạnh sườn Người bị đâm thâu (19,34). Đặt mình vào bối cảnh trên, trình thuật này như muốn nói về sự sinh hạ cộng đoàn Kitô hữu. Đây là giờ Chúa Giêsu được tôn vinh – được giương cao – và khi Người chết, Người trao ban Thần Khí của Người. Dưới chân thập giá là hai người, cả hai đều không được gọi tên rõ ràng (là Maria và Gioan) như thể muốn nhấn mạnh tính biểu tượng. Người phụ nữ ở đây như hình ảnh của Mẹ Hội Thánh, và người môn đệ Chúa yêu là hình ảnh của tất cả các môn đệ được kêu gọi bước theo Chúa Giêsu. Thần Khí được trao ban cho Mẹ-Hội Thánh và người môn đệ Chúa yêu, máu cùng nước là dấu chỉ của Thánh Tẩy và Thánh Thể. Dĩ nhiên đây chỉ là một gợi ý suy nghĩ về trình thuật đặc biệt này của Gioan.
Cũng có một gợi ý khác về mối liên hệ giữa người phụ nữ trong trình thuật này với người phụ nữ trong Sáng Thế 3,15, cũng như mối thù nghịch giữa dòng giống người phụ nữ với dòng giống con rắn-ma quỷ. Thánh Gioan quan tâm đặc biệt đến sách Sáng Thế. Ngài bắt đầu  Tin Mừng thứ tư bằng lời gợi nhớ câu đầu tiên trong sách Sáng Thế: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời” (Ga 1,1) và “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (St 1,1). Ngài cũng trình bày cuộc xung đột giữa Chúa Giêsu và Satan: “Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài” (Ga 12,31). Và về con cái ma quỷ: “Cha các ông là ma quỷ và các ông muốn làm chứng về những gì cha các ông ham thích” (Ga 8,44). Nếu người phụ nữ trong trình thuật này ám chỉ về người phụ nữ trong St 3,15, thì phải nói là thánh sử Gioan đã tập hợp ở đây tất cả những yếu tố trong trình thuật của sách Sáng Thế: con rắn, dòng giống của nó, người phụ nữ, dòng giống của bà, và có lẽ cả chi tiết “khu vườn”. Câu chuyện sách Sáng Thế diễn ra ở vườn địa đàng, còn trình thuật thương khó của Gioan cũng bắt đầu từ một thửa vườn: “Sau khi nói những lời đó, Chúa Giêsu đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Cypron. Ở đó có một thửa vườn. Người vào đó với các môn đệ” (Ga 18,1). Và kết thúc ở một thửa vườn: “Nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Chúa Giêsu ở đó” (Ga 19,41-42).
Như thế, Tin Mừng Gioan trình bày Đức Maria dưới chân thập giá với hai vai trò:
–         Đức Maria là hình ảnh của Mẹ Hội Thánh. Người mẹ này chăm sóc các môn đệ Chúa, các môn đệ trở nên con của Mẹ và là anh chị em của Chúa Giêsu. Mối quan hệ của chúng ta với Chúa Giêsu không chỉ là quan hệ cá nhân nhưng bao hàm một cộng đoàn, một gia đình của những người anh chị em.
–         Đức Maria là hình ảnh người phụ nữ chiến thắng. Hình ảnh tiêu cực về người nữ nơi Eva đã được thay thế bằng hình ảnh tích cực của Đức Maria.

TIN MỪNG PHỤC SINH (20,1-31)
1. Các nhân vật
Thánh Gioan xây dựng trình thuật này rất công phu, và qua phản ứng của các nhân vật trong trình thuật, ngài gói ghém suy tư của ngài về Tin Mừng Phục sinh, tập trung vào câu hỏi: những nhân vật đó đã tiến đến niềm tin vào Đấng Phục sinh như thế nào?
Maria thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi cửa mồ và phản ứng của bà là “Người ta đã lấy xác Thầy rồi”. Bà chưa tin. Rồi trong cảnh kế tiếp (câu 11-18), bà vẫn giữ cách giải thích cũ (câu 13 và 15). Bà chỉ tin khi được nghe tiếng Chúa (câu 16) và thấy Chúa (câu 18). Chiên của Chúa nhận ra tiếng Chúa (x. Ga 10,4).
Phêrô và người môn đệ Chúa yêu chạy đến mộ. Họ thấy khăn liệm và khăn che đầu. Phêrô vẫn bối rối nhưng người môn đệ Chúa yêu thì tin: “Ông đã thấy và đã tin” (câu 8). Ông chỉ thấy một chút dấu chỉ nhưng ông tin. Ông lại là môn đệ được yêu và đang yêu. Phải chăng tình yêu ban tặng cho chúng ta cặp mắt mới?
Các môn đệ khác (câu 19-25): bắt đầu là sợ hãi rồi từ sợ hãi chuyển sang niềm vui khi thấy Chúa (câu 20). Đối với họ cũng thế, đức tin đến từ chỗ xem thấy.
Tôma là nhân vật nổi bật trong cảnh cuối (câu 19-25). Ông nhất định không tin cho đến khi tận mắt nhìn thấy và tận tay sờ được (câu 25). Và Chúa Giêsu đã thoả mãn yêu cầu của ông, nhưng Người mời gọi đi xa hơn (câu 27).
2. Niềm tin vào Chúa Phục sinh
Qua những nhân vật này, thánh Gioan muốn nói đến phản ứng và thái độ của những con người trong thời đại ngài trước niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Đây cũng là dịp để mỗi chúng ta tra vấn niềm tin của chính mình: Tôi bối rối như Phêrô? Hay như người môn đệ Chúa yêu, chỉ cần chút dấu chỉ là đủ tin rồi? Hay như bà Maria và các môn đệ khác, phải tận mắt thấy và nghe rồi mới tin? Hay cực đoan như Tôma, đại diện của chủ thuyết thực nghiệm? Ước gì ta mang lấy tâm tình của người môn đệ Chúa yêu, vì “phúc cho những ai không thấy mà tin” (20,29).
ĐOẠN KẾT (chương 21)
Đoạn kết này gồm những trình thuật quan trọng:
–         Mẻ lưới đặc biệt (21,1-14),
–         Simon Phêrô, người mục tử (21,15-23)
–         Kết thúc (21,14-25)

Rõ ràng chương 20 đã là phần kết sách Tin Mừng thứ tư, cho nên các học giả cho rằng chương 21 là phần được thêm vào sau này. Có thể là do một môn đệ thân tín của thánh Gioan. Tuy nhiên phần thêm vào này có giá trị quan trọng. Nếu 20 chương trước tập trung vào Chúa Giêsu, Đấng Mặc khải và Đấng Cứu độ, thì chương 21 là một bước tiếp nối từ Chúa Giêsu đến Giáo Hội của Người. Để Chúa Giêsu có thể tiếp tục công trình cứu độ của Người thì cần có những trung gian : Tiệc Thánh Thể ở đó Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện với Giáo Hội và trong Giáo Hội, nhiệm vụ mục tử của Phêrô và những người kế nhiệm, vai trò của người môn đệ Chúa yêu cũng như của Giáo Hội.

 

ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm

Nguồn: TGP Sài Gòn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

ducchasi
 
closedbible
 
suy 5
 
thanhthan06sm 1
 
gdphanxicoxavie
 
lichconggiao2
 
giolecacnhatho adv2 copy
 
giolecacnhatho adv2
 

Tin mới nhất

Kết nối

 

 

 

Thống kê

  • Đang truy cập127
  • Thành viên online1
  • Máy chủ tìm kiếm26
  • Khách viếng thăm100
  • Hôm nay20,295
  • Tháng hiện tại674,809
  • Tổng lượt truy cập52,843,757

Copyright © [2018] Giáo phận Nha Trang. All rights reserved.
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Nha Trang
Email: gpnhatrangbtt@gmail.com
Địa chỉ: 22 Trần Phú - HT 42, Tp. Nha Trang - Khánh Hoà
Phone: (84) 258.3523842 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây