Tuần 90 (Tuần 15 – T.Ư.) Tin Mừng theo Thánh Matthêu (Chương 1-7)
Truyền thống vẫn xem Matthêu, người thu thuế (9,9) đã trở thành tông đồ (10,3), là tác giả sách Tin Mừng này. Dựa vào những chỉ dẫn trong sách Tin Mừng, vd. biến cố tàn phá Giêrusalem vào năm 70 (x. 22,7; 21,41; 27,25), các học giả cho rằng Tin Mừng Matthêu được hoàn thành vào khoảng năm 85, có lẽ tại Antiochia thuộc Syria.
Cộng đoàn của Matthêu là cộng đoàn có đa số là các Kitô hữu gốc Do thái. Cho đến năm 85, rõ ràng không phải mọi người Do thái đều tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Mêsia họ mong đợi, vì thế đây là cánh đồng truyền giáo phải vươn tới. Thánh Matthêu giúp các Kitô hữu gốc Do thái khám phá ra rằng họ chính là những người thừa hưởng lời Thiên Chúa đã hứa với Israel. Đồng thời Matthêu cũng thúc đẩy họ truyền giáo cho cả dân ngoại.
Cũng vì nhắm đến đối tượng là người Do thái nên Matthêu thường xuyên minh chứng những biến cố trong đời Chúa Giêsu là sự thể hiện lời các tiên tri đã loan báo trong Cựu Ước. Tuy nhiên, ở một số điểm, xem ra Chúa Giêsu hủy bỏ hay đối nghịch lại những lề luật Cựu Ước (x. 5,21-48). Người làm như thế vì Người là Con Thiên Chúa, là Đấng có thẩm quyền giải thích truyền thống và đưa truyền thống đó đến chỗ thành toàn.
Khi biên soạn sách Tin Mừng, chắc chắn thánh Matthêu đã dựa vào Tin Mừng Marcô và những nguồn khác. Tuy nhiên, ngài cũng có những nét riêng của ngài khi đối chiếu với Marcô:
– Marcô bắt đầu sách Tin Mừng với sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, còn Matthêu lại bắt đầu từ thời thơ ấu của Chúa (chương 1-2).
– Marcô kết thúc Tin Mừng với cái chết của Chúa, sau đó là sự kiện ngôi mộ trống; còn Matthêu lại thêm vào sự kiện Chúa hiện ra với 11 môn đệ ở Galilê (28,16-20).
Ngoài ra, Matthêu còn ghi lại 5 bài giảng lớn của Chúa Giêsu. Chắc chắn đây không phải là những bài giảng được Chúa Giêsu giảng trực tiếp trong 5 dịp khác nhau; đúng hơn, Matthêu đã biên soạn lại dựa vào những chất liệu thu thập được.
Có thể nhìn vào Tin Mừng Matthêu cách tổng quát như sau:
1,1 – 2,23 Gia phả và thời thơ ấu của Chúa Giêsu
3,1 – 4,25 Khởi đầu sứ vụ công khai
5,1 – 7,29 Bài giảng trên núi
8,1 – 9,38 Những phép lạ
10,1-42 Bài giảng về truyền giáo
11,1 – 12,50
13,1-53 Các dụ ngôn về Nước Trời
13,54 – 16,4 Các phép lạ và những cuộc tranh luận
16,5 – 17,27 Đường dẫn đến cuộc khổ nạn
18,1-35 Giáo huấn cho đời sống cộng đoàn
19,1 – 23,39 Sự chống đối gia tăng
24,1 – 25,46
26,1 – 28,20 Sự chết và phục sinh của Chúa
II. GIA PHẢ (1,1-17)
Bản gia phả đặt Chúa Giêsu trong truyền thống Do thái. Người là con của Abraham và của Đavít cũng như là sự tiếp nối dòng dõi Đavít sau cuộc lưu đầy năm 587 trước Công nguyên. Trong bản gia phả này, lịch sử Israel được vẽ lại từ khởi đầu là Abraham (câu 2) đến đỉnh cao với vua Đavít (câu 6) rồi xuống thấp với cuộc lưu đầy ở Babylon (câu 11) và được kiện toàn nơi Chúa Giêsu (câu 16). Trong Tin Mừng thứ ba, thánh Luca nhấn mạnh tầm vóc phổ quát của Chúa Giêsu bằng cách đưa ngược bản gia phả lên đến Adam (3,23-38), còn thánh Matthêu lại quan tâm đến việc đặt Chúa Giêsu trong truyền thống của dân được tuyển chọn.
Bản gia phả của Matthêu có những nét lạ thường. Cụ thể là sự có mặt của 4 phụ nữ. Việc đưa tên phụ nữ vào gia phả là chuyện bất thường đối với người Do thái. Hơn thế nữa, 4 phụ nữ này lại là những nhân vật có thành tích đặc biệt. Tamar (câu 3) đóng vai gái điếm để ăn nằm với bố chồng nhằm có con nối dõi tông đường (x. St 38). Rahab (câu 5) là gái điếm ở thành Jericho, nhờ cộng tác với Joshua mà được sống khi quân Israel chiếm đóng thành (x. Joshua 2,6). Ruth (câu 5) là phụ nữ xứ Moab nhưng gắn bó với dân Israel qua gia đình nhà chồng. Vợ của Uria (câu 6) là bà Batsheba, người phụ nữ mà vua Đavít phải lòng và đã tìm cách giết chồng bà để chiếm đoạt (2Sam 11).
Như thế bản gia phả trong Matthêu vừa nhấn mạnh tính liên tục giữa Chúa Giêsu và các nhân vật lớn trong lịch sử Israel, vừa cho thấy tính độc đáo khác thường. Thật vậy, Chúa Giêsu xuất thân từ dòng dõi Đavít, đúng như lời các tiên tri loan báo về Đấng Mêsia. Đồng thời, Chúa Giêsu vượt xa những nhân vật này vì Người là Đấng cứu dân khỏi tội và là Emmanuel (x. 1,18-25).
III. BÀI GIẢNG TRÊN NÚI (5,1 – 7,29)
So sánh với bài giảng trên đồng bằng trong Luca 6,20-49, bài giảng trên núi trong Matthêu dài gấp 3 lần. Thánh Matthêu đã thu thập nhiều lời giảng dạy của Chúa Giêsu và tập trung lại trong bài giảng quan trọng này. Chủ đề chính ở đây là “Nếu sự công chính của anh em không vượt trên sự công chính của các luật sĩ và Pharisêu, thì anh em không vào được Nước Trời” (5,20).
Cấu trúc của bài giảng gồm:
– Phần mở đầu (5,1-20): Tám mối phúc (câu 3-12), vai trò của các môn đệ (câu 13-16), vai trò của Chúa Giêsu (câu 17-10)
– Phần thứ hai (5,21-48): Tương phản giữa sự công chính của các luật sĩ và sự công chính Chúa Giêsu dạy
– Phần thứ ba (6,1-18): Cảnh cáo lối sống đạo hình thức
– Phần thứ tư (6,19 – 7,29): Những lời nhắn nhủ các môn đệ
Bài giảng trên núi là một kho tàng vô cùng phong phú và đã được giải thích từ nhiều góc độ. Có người xem đây là những nguyên tắc đạo đức Kitô giáo. Có người lại coi đây là những lời khuyên đưa đến sự trọn lành và chỉ dành cho một số ít người. Điều hiển nhiên là thánh Matthêu muốn đề cao Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, là Con Thiên Chúa, và thẩm quyền của Người vượt xa các luật sĩ. Người không chỉ là kẻ giải thích lề luật như các luật sĩ mà là Đấng ban bố Lề luật: “Anh em đã nghe dạy người xưa rằng, còn Thầy, Thầy bảo anh em…”. Bài giảng trên núi là những chỉ thị của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ, những chỉ thị đó trình bày những đòi hỏi căn bản cho những ai muốn theo Chúa, đồng thời diễn tả những giá trị cao quý của Kitô giáo.
“Bài giảng trên núi không huỷ bỏ hay làm giảm giá trị các quy định luân lý của Luật cũ, nhưng khai thông những khả năng tiềm ẩn và làm nổi bật những đòi hỏi mới của các quy định ấy… Luật mới không thêm vào luật cũ những điều luật mới ở bên ngoài, nhưng canh tân tâm hồn là nơi phát xuất mọi hành vi, nơi con người chọn lựa giữa thanh khiết và ô uế, nơi hình thành đức tin, cậy, mến, và các nhân đức khác. Như thế, Tin Mừng (bài giảng trên núi) đưa luật cũ tới chỗ viên mãn khi dạy chúng ta nên hoàn thiện như Cha trên trời, tha thứ cho kẻ thù, cầu nguyện cho những người bách hại theo gương lòng cao thượng của Thiên Chúa. Luật mới dạy con người thực hành các hành vi tôn giáo như bố thí, cầu nguyện và chay tịnh, nhưng quy hướng về Cha là “Đấng thấu suốt những gì kín đáo” chứ không chỉ làm để vinh danh chính mình” (GLHTCG số 1968-1969).
Tuần 91: TIN MỪNG MATTHÊU (Chương 8-12)
Trong Bài giảng trên núi, thánh Matthêu đã trình bày Chúa Giêsu như Vị Tôn Sư giảng dạy với uy quyền của Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa. Tiếp theo, trong chương 8 và 9, Matthêu lại trình bày Chúa Giêsu như Đấng quyền năng, thể hiện qua những hành động phi thường. Ngài sắp xếp các trình thuật thành 3 nhóm, mỗi nhóm gồm 3 hành động phi thường của Chúa Giêsu, và mỗi nhóm được tách ra bằng lời giáo huấn về đời sống môn đệ Chúa.
Cách cụ thể, cấu trúc trong phần này được sắp xếp như sau :
– Nhóm 1: Quyền năng trên bệnh phong (8,1-4), trên bệnh bại liệt (8,5-13), trên cơn sốt và bệnh tật (8,14-17). Chuyển tiếp: Đòi hỏi của đời sống môn đệ (8,18-22)
– Nhóm 2: Quyền năng trên biển cả (8,23-27), trên ma quỷ (8,28-34), trên tội lỗi (9,1-8). Chuyển tiếp: Ơn gọi của Matthêu (9,9-17)
– Nhóm 3: Quyền năng trên sự chết (9,18-26), sự mù loà (9,27-31), câm điếc (9,32-34). Chuyển tiếp: Sứ mạng của các môn đệ (9,35-38)
Cái nhìn tổng quát trên giúp ta khám phá ý hướng của Matthêu. Ngài muốn đề cao Chúa Giêsu là Đấng có quyền trên thiên nhiên, bệnh tật, ma quỷ. Đồng thời Matthêu cũng làm nổi bật sứ mạng của Chúa Giêsu là sứ mạng chống lại cái ác đang khống chế con người về nhiều mặt mà sâu xa nhất là tội lỗi. Đối diện với Chúa Giêsu, người môn đệ phải có chọn lựa dứt khoát và triệt để đến mức độ khó chấp nhận, chẳng hạn mệnh lệnh: “Ai đã cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không xứng đáng với Ta,” và “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết” (8, 22). Chọn lựa này không chỉ xuất hiện trong những quyết định lớn mà còn được thể hiện qua những phản ứng trước các biến cố trong đời sống, những chọn lựa nho nhỏ hằng ngày và những thái độ trong cách ứng xử của ta với mọi người.
CHỈ THỊ TRUYỀN GIÁO (10,1-42)
Trong Tin Mừng Matthêu, đây là diễn từ lớn thứ hai của Chúa Giêsu. Thánh Matthêu đã thu thập nhiều lời nói của Chúa Giêsu trong nhiều dịp khác nhau, rồi ngài sắp xếp lại thành diễn từ dài. Trong diễn từ đó, Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải hành xử ra sao (10,5-15) và họ có thể được phần thưởng gì (10,16-42). Chủ đề chính của diễn từ là: “Môn đệ không hơn Thầy, tôi tớ không hơn chủ. Môn đệ được như Thầy, tôi tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (10,24). Cũng như các môn đệ được chia sẻ quyền năng với Thầy, thì họ cũng phải chia sẻ cách sống và cả đau khổ với Người.
Ở phần mở đầu (10,1-5), Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ đến, ban cho các ông quyền trên các thần ô uế và bệnh tật. Trong danh sách mười hai tông đồ, Matthêu đề cao vai trò của Phêrô: “đứng đầu là ông Simon, cũng gọi là Phêrô” (10,2) và xác định Matthêu là người thu thuế (10,3). Cũng có ông Tađêô mà trong Tin Mừng Luca gọi là Giuđa con ông Giacôbê (Lc 6,16).
Sứ vụ của các môn đệ được giới hạn cho dân Isarel và họ phải tránh không vào những làng mạc của dân ngoại và người Samari. Chỉ sau khi Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết thì sứ vụ mới mở ra cho những nhóm người này (Mt 28,19). Sứ vụ của các môn đệ tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu là rao giảng Nước Trời và chữa lành các bệnh nhân (Mt 4,23; 10,7-8). Sứ vụ ấy, họ đã đón nhận như một quà tặng, thì cũng hãy cho đi như một quà tặng.
Vào thời Chúa Giêsu, những nhà giảng thuyết thuộc các tôn giáo và triết thuyết khác nhau vẫn đi khắp nơi rao giảng. Các môn đệ Chúa Giêsu cũng thế. Người căn dặn các môn đệ đừng lo lắng về tiền bạc hay hành trang và nơi ăn chốn ở, nhưng cứ tùy theo lòng hảo tâm của người nghe (10,9-13). Thái độ đó cho phép họ tập trung vào sứ vụ, đồng thời nói lên sự tín thác của họ nơi Thiên Chúa. Nếu họ bị người ta khước từ hay xua đuổi thì đừng phản ứng bằng vũ lực nhưng chỉ “giũ bụi chân lại” như cử chỉ biểu tượng. Trong mọi hoàn cảnh, họ phải trung thành với sứ vụ và tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ xét xử mọi sự (10,15).
Chúa Giêsu không giấu giếm các môn đệ về sự thù nghịch họ phải đối diện (10,16-25). Họ được sai đi như “chiên đi vào giữa bầy sói”, cho nên phải “khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu” (10,16). Nếu họ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền, thì đó là họ được chia sẻ cuộc khổ nạn với Thầy (10,17-18; 22,57-68). Những khó khăn thử thách đang chờ đợi các môn đệ là: lo lắng không biết nói gì và nói làm sao (10,19), sự chia rẽ ngay trong gia đình (10,21), sự thù ghét của mọi người (10,22) và sự bách hại (10,23). Tuy nhiên Chúa Giêsu trấn an các môn đệ: “Anh em chưa đi hết các thành của Israel thì Con Người đã đến” (10,23). Trong viễn tượng của Matthêu, “Con Người đến” có nghĩa là “Nước Chúa đến”. Điều này được bắt đầu bằng mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, và sẽ kết thúc ở tận cùng thời gian.
Tiếp theo, Chúa Giêsu khuyến khích các môn đệ hãy can đảm tuyên xưng đức tin dù phải đối diện những chống đối. Mỗi lời bắt đầu bằng câu “Đừng sợ”: “Đừng sợ người ta” (10,26); “Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (10,28); “Đừng sợ, anh em còn quý giá hơn chim sẻ muôn vàn” (10,31).
Trong xã hội Do thái nói riêng và văn hóa phương Đông nói chung, mối giây liên kết giữa các thành viên trong gia đình rất chặt chẽ, nhất là so sánh với thời đại ngày nay. Tuy nhiên để trung thành với Chúa, người môn đệ có thể phải chấp nhận hi sinh cả mối liên hệ gia đình. Người không có ý tấn công đời sống gia đình, nhưng muốn nhấn mạnh đến sự trung thành của người môn đệ với sứ vụ đã lãnh nhận. Để theo Chúa, phải chấp nhận “vác thập giá” và “từ bỏ chính mình”.
Phần kết luận nhắc lại điểm căn bản của diễn từ: các môn đệ là đại diện của Chúa Giêsu. Đón nhận các môn đệ là đón nhận không những Chúa Giêsu mà cả Cha trên trời (10,40). Phần thưởng xứng đáng sẽ được ban cho những ai đón nhận “một trong những người bé mọn… vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy” (10,42).
ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Nguồn: WGPSG
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn