LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Thưa quý ông bà và anh chị em, tất cả các bài đọc hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta chiêm ngắm lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa, và từ đó ước gì tất cả chúng ta được nghiệm ra và trở nên nhân hậu, xót thương và tha thứ cho nhau, đặc biệt những ai lầm đường lạc lối, xa lìa Thiên Chúa và Giáo Hội. Trên hết, điều này duy chỉ bắt đầu từ việc nhìn nhận con người yếu hèn của bản thân chúng ta, do đó, hơn ai hết, chúng ta cần được Thiên Chúa xót thương, và tha thứ.
Lòng thương xót Chúa bắt nguồn từ tình yêu nhưng không của Người. Ngài yêu thương nhân loại đến nỗi chẳng tiếc gì, kể cả trao ban chính Con Một yêu dấu của mình làm giá chuộc cứu độ chúng ta – những con người tội lỗi, đáng phải chết. Thêm nữa, lòng xót thương của Ngài biểu lộ cụ thể qua Bí tích Thánh Thể - Bí tích Tình yêu – nơi đó Thiên Chúa hiến trao sự sống thần tính của Ngài làm của ăn nuôi sống chúng ta. Ông bà, anh chị em chúng ta thử hồi tưởng lại suốt dòng lịch sử của Giáo Hội, đặc biệt cuộc đời cá nhân, chúng ta sẽ nghiệm thấy rõ một điều: tình yêu, lòng thương xót của Thiên Chúa lớn lao hơn gấp bội lòng hận thù, ganh ghét, sự bất tuân phục, bất tín, bất trung và tội lỗi của con người. Điều này tỏ hiện cụ thể trong 3 bài đọc ngày hôm nay. Trong bài đọc Xuất Hành, trước sự phản bội, quay lưng, bội tín và khước từ của dân Is-ra-en, Thiên Chúa đã không trừng phạt họ theo như họ đáng phải bị trừng phạt, mà trái lại, Thiên Chúa thương xót và hứa sẽ không giáng phạt dân Người (x. Xh 32, 14).
Lòng thương xót của Chúa không dừng lại nơi lời hứa, mà được diễn tả một cách cụ thể, sống động qua lời nhắn nhủ của Thánh Phao-lô cho ông Ti-mô-thê: “...Đức Giê-su Ki-tô đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất. Vì thế, cha được hưởng nhờ ơn thương xót, là Đức Ki-tô tỏ ra tất cả lòng khoan dung trong cha trước hết, để nêu gương cho những ai sẽ tin vào Người hầu được sống đời đời” (1Tm 1, 15-16). Lòng xót thương của Thiên Chúa không dựa trên công trạng, thành tựu, thành công, cái gọi là nhân đức của chúng ta, nhưng lòng khoan dung vô bờ bến ấy đặt trên ước muốn, thánh ý của Thiên Chúa, đó là: cứu độ nhân loại tội lỗi lầm lạc biết quay về, ăn năn sám hối và tin vào lòng yêu thương vô điều kiện của Người.
Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựa trên những con số có thể cân, đo, đong, đếm, nhưng đặt trên nền tảng quên mình, vị tha và chia san. Trong bài Phúc Âm, thánh Lu-ca trích dẫn 3 dụ ngôn (x. Lc 15, 1-32) rất quen thuộc đối với chúng ta, và những dụ ngôn này dường như rất nghịch lý đối với lối suy nghĩ, tính toán của con người. Chẳng ai mà dại bỏ 99 con chiên mà đi tìm cho ra 1 con chiên lạc! Vả lại, tìm ra rồi, bỏ công sức, tiền bạc làm tiệc thếch đãi bạn bè, chia sẽ niềm vui mừng ấy! Rồi kế đến, chẳng ai mà bỏ công, lặn lội thắp đèn, tìm khắp cả nhà cho đến khi tìm ra 1 đồng quan bị mất trong khi còn 9 đồng quan! Và khi tìm được, mời bạn bè, hàng xóm chung vui với mình! Tuy nhiên, như chúng ta biết: đường lối, ước muốn của Thiên Chúa thì khác xa và cao vời so với cách thức, ước vọng của con người (x.Is 55, 8-9). Lòng khoan dung của Thiên Chúa trải rộng, bao la hơn cả tâm tư con người. Tình yêu thương của Thiên Chúa thâm sâu, chẳng đặt ra điều kiện nào so với tình yêu vô vàn điều kiện của con người...và cao trào của lòng thương xót Thiên Chúa được diễn tả rõ ràng qua câu chuyện về người cha nhân hậu giang vòng tay yêu thương đón nhận đứa con hoang đàng trở về, cũng như hết mực khoan dung, tha thứ cho nó và dịu hiền với đứa con cả. Chúng ta thấy, kết thúc mỗi dụ ngôn, thánh sử Lu-ca đều khẳng định một điều, rằng: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là chín mươi chín người công chính không cần hối cải” (Lc 15, 7) hay “các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải” (Lc 15, 10) và “...nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (15, 32). Lòng thương xót của Thiên Chúa chính là câu trả lời sống động trước thái độ ‘tự tôn, tự cao, tự tạo’ trước hết của nhóm Biệt phái (Pha-ri-sêu), sau nữa, của mỗi chúng ta – tự cho mình là người công chính, không cần ăn năn sám hối và do vậy không cần đến lòng tha thứ, xót thương bao dung của Thiên Chúa, và với thái độ ấy, chúng ta trở nên khắt khe, khép kín tâm hồn, bảo thủ, cố cựu, kết án, thành kiến...với anh chị em trong cộng đoàn!!!
Cảm nghiệm được lòng nhân hậu, thương xót của Thiên Chúa, hy vọng chúng ta trở nên khí cụ của sự khoan dung, tha thứ của Chúa Tình yêu, để rồi, mỗi chúng ta biết nhìn nhận tính ương hèn, yếu đuối của bản thân, mà biết ăn năn, sám hối, biết tha thiết lãnh nhận lòng thương xót, khoan nhân của Thiên Chúa, và trở nên bao dung hơn, cảm thông hơn với anh chị em. Xin Thiên Chúa đầy lòng lân tuất thương xót đến con cùng, và nâng đỡ đức tin yếu hèn của mỗi người chúng con. Amen!
Lm. Xuân Hy Vọng
LINH MỤC LÀ AI? (13)
Đối với các Thánh nhân, Linh mục là ai? Dưới đây là một số tư tưởng cũng như nhận định của các Thánh về căn tính và vai trò Linh mục:
Thánh Ma-ri-a Gô-rét-ti (Maria Goretti): Mặc dù là một thiếu nữ tử đạo, ngài gián tiếp đề cao vai trò của linh mục qua lòng kính trọng các bí tích, đặc biệt là Bí tích Hòa giải. Ngài xem linh mục là “người thông truyền ơn tha thứ”, giúp các linh hồn được thanh tẩy và hòa giải với Thiên Chúa. (Nguồn: Godfrey Poage, St. Maria Goretti: In Garments All Red, TAN Books, 1998; tham khảo Acta Apostolicae Sedis (Vatican, 1950)).
Thánh Al-phong-sô Li-gô-ri (Alphonsus de Liguori): Ngoài những điều đã đề cập trước kia, ngài nhấn mạnh linh mục là “người cầu nguyện cho dân chúng”, có trách nhiệm dâng lời cầu nguyện và hy lễ hằng ngày để cầu xin ơn cứu độ cho cộng đoàn. Ngài khuyến khích các linh mục sống đời khắc khổ và trung thành với sứ vụ cầu bầu. (Nguồn: The Dignity and Duties of the Priest trong The Complete Works of Saint Alphonsus de Liguori, do Redemptorist Father xuất bản 1889 (bản gốc tiếng Ý, sau đó được dịch sang tiếng Anh), được TAN Books tái bản 1992; tham khảo The Holy Eucharist trong Ascetical Works, do Redemptorist Fathers xuất bản 1887. Bản tái bản: TAN Books, 1994).
Thánh Bê-nê-đíc-tô Nur-si-a (Benedict of Nursia): Ngài dạy rằng linh mục, đặc biệt trong các cộng đoàn đan viện, là “người dẫn dắt đời sống thiêng liêng”, giúp các tu sĩ và giáo dân sống theo luật thánh thiện và cầu nguyện. Linh mục phải là gương mẫu về sự vâng phục, khiêm nhường và yêu mến Thiên Chúa. (Nguồn: The Rule of St. Benedict in English (bản dịch của Timothy Fry), Liturgical Press, 1981; bản dịch khác của Carolinne White do Penguin Classics xuất bản 2008; tham khảo Life of St. Benedict được Thánh Grê-gô-ri-ô Cả viết trong Dialogues, sách 2, cũng như trong The Fathers of the Church, tập 39, do The Catholic University of America Press xuất bản 1959).
Thánh Tô-ma More (Thomas More): Là một giáo dân và tử đạo, ngài coi linh mục là “người bảo vệ chân lý trong thời kỳ thử thách”. Ngài nhấn mạnh rằng linh mục phải can đảm đứng lên bảo vệ đức tin Công giáo, ngay cả khi đối mặt với áp lực từ quyền lực thế gian, và sống đời chính trực để làm chứng cho Chúa. (Nguồn: A Dialogue of Comfort Against Tribulation (Đối thoại về sự an ủi trong cơn thử thách), trong The Complete Works of St. Thomas More, tập 12, do Yale University Press xuất bản 1976; tham khảo Letters from the Tower, trong The Sadness of Christ and Final Prayers and Instructions, do Ignatius Press xuất bản 1993, và Peter Ackroyd, The Life of Thomas More, Anchor Books, 1999).
Lm. Xuân Hy Vọng