Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 4 Phục Sinh – Năm A
CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
Cầu cho ơn thiên triệu Linh Mục và Tu sĩ
Lời Chúa: Cv 2,14a.36-41; 1Pr 20b-25; Ga 10,1-10
MỤC LỤC
**Chúa Nhật 4 Phục Sinh.
Giáo Hội dành riêng Chúa nhật IV Phục Sinh này để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Vì thế, Lời Chúa hôm nay xoay quanh chủ đề mục tử và chiên. Đức Giêsu gọi mình là mục tử thật, mục tử nhân lành. Ngài cũng muốn những ai tham dự vào chức vụ mục tử cũng hãy trở nên mục tử thật, mục tử nhân lành chứ không phải là mục tử giả. Còn những ai là chiên của Ngài thì cũng phải là chiên thật chứ không phải là chiên giả. Vậy, thế nào gọi là mục tử thật, mục tử nhân lành? Thế nào gọi là mục tử giả? Thế nào gọi là chiên thật hay chiên giả?
Mục tử thật là mục tử “đường đường chính chính” luôn yêu thương đàn chiên: hiểu biết và cảm thông với đàn chiên; lo lắng chăm nom đàn chiên; sẵn sàng hy sinh vì đàn chiên. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết thế nào là vị mục tử thật: “Ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy”(Ga 10, 1-4).
Đức Giêsu chính là mục tử thật. Ngài là vị mục tử nhân lành. Chính Ngài tuyên bố: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta”(Ga 10, 14 ). Thật vậy, Ngài là mục tử nhân lành: Vì Ngài không những biết từng con chiên mà Ngài còn đi tìm các con chiên bị thất lạc: “Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom đến chúng”(Ez 34, 10); Ngài chăm sóc và băng bó những con chiên bị xây xát, bệnh hoạn: “Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm. Chiên tản mác, Ta sẽ lùa về. Chiên xây xát, Ta sẽ băng bó. Chiên bệnh hoạn, Ta sẽ bổ sức”(Ez 34, 16); Ngài cho các con chiên được sống dồi dào: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”(Ga 10,10).
Điều này đã được chứng minh một cách cụ thể qua những hành động trong suốt ba năm đời sống công khai của Ngài: Chính Ngài đã từng gặp gỡ và chữa lành các bệnh nhân, tha thứ cho những người tội lỗi; chính Ngài là người cha trong “dụ ngôn người cha nhân hậu”(x. Lc 15, 11-32), là người chủ chiên trong “dụ ngôn con chiên bị mất”(x. Lc 15,4-7), là người đàn bà trong “dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất”(x. Lc 15, 8-10); chính Ngài đã chấp nhận hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,11). Không những thế, Ngài còn hơn hẳn các mục tử bình thường vì chỉ có Ngài mới cho đàn chiên được sự sống đời đời: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”(Ga 10,28).
Đức Giêsu cho chúng ta biết thế nào là mục tử giả: Đó là những mục tử “đường đường chính chính”, nghĩa là những kẻ không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác; đó là những kẻ đến chỉ để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ đàn chiên (x. Ga 10,10).
Thật vậy, mục tử giả là mục tử không có trách nhiệm với đàn chiên: “Con chiên nào mất, nó chẳng quan tâm; con thất lạc, nó chẳng đi tìm; con bị thương, nó không chạy chữa; con mạnh khoẻ, nó chẳng dưỡng nuôi” (Dc 11,16a); mục tử giả là mục tử không lo chăn dắt đàn chiên mà chỉ nghĩ đến mình, sẵn sàng bóc lột đàn chiên để phục vụ cho nhu cầu của mình, như tiên tri Êdêkiel đã nói: “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, mà đàn chiên lại không lo chăn dắt” (Ed 34,3); mục tử giả là mục tử thống trị đàn chiên “một cách tàn bạo và hà khắc” (x. Ed 34,3); mục tử giả là mục tử “đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến đàn chiên” (x. Gr 23,2b); mục tử giả luôn tác hại đến đàn chiên, có thể làm cho đàn chiên phải tan tác (x. Gr 23,2).
Tóm lại, mục tử giả không có tình thương với đàn chiên, không muốn mang vào mình “mùi chiên”, không chấp nhận hy sinh, thiệt thòi về mình vì đoàn chiên, trái lại coi đàn chiên như là phương tiện, bắt chúng phải hy sinh phục vụ cho lợi ích riêng tư và tham vọng của mình.
Chiên thật là chiên biết nghe tiếng của Chủ chiên. Đức Giêsu nói: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi, Tôi cho chúng được sống đời đời và chúng sẽ không bao giờ hư mất”(Ga 10, 27). Tiếng chủ chiên ở đâu? Đó là tiếng Chúa qua Kinh Thánh; đó là lời giáo huấn của Hội Thánh; đó là tiếng nói của lương tâm; đó là sự hướng dẫn dạy dỗ của những kẻ thay mặt Chúa như cha mẹ, thầy cô giáo, anh chị và những người khôn ngoan.
Chiên thật thì phải biết tin tưởng, phó thác và yêu mến Chủ chăn của mình. Vì Chủ chiên luôn quan tâm, chăm sóc và cho chiên được sống và sống dồi dào. Điều đó được diễn tả một cách cụ thể qua Thánh vịnh 22: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23).
Ngày hôm nay, Đức Giêsu mục tử nhân lành vẫn tiếp tục nuôi dưỡng chúng ta qua Lời của Ngài, qua các Bí tích. Ngài chăm sóc chúng ta qua Giáo hội của Ngài. Vì vậy, chúng ta phải đáp trả bằng việc lắng nghe, tin tưởng phó thác và yêu mến Ngài.
Đó là những người kitô hữu trên danh nghĩa nhưng không sống theo tinh thần của Bí tích Rửa tội là từ bỏ ma quỷ và tuyên xưng đức tin.
Đó là những kẻ không thực hành bác ái yêu thương như lời Đức Giêsu nói: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.” Nên gọi họ là dê (x. Mt 25,31-46).
Đó là những “giáo gian”, là những kitô hữu luôn bắt cá hai tay, bên nào có lợi cho mình thì theo bên đó. Họ có thể vì tiền, vì quyền, vì lợi ích của mình mà bán rẻ Giáo hội, bán rẻ anh chị em của mình.
Mỗi người chúng ta hãy tự xét mình xem: Tôi có phải là mục tử thật, mục tử tốt lành đối với những người Chúa giao phó cho tôi coi sóc không? Hay tôi chỉ là mục tử giả, là kẻ trộm cướp? Tôi có phải là con chiên thật, con chiên ngoan trong đoàn chiên của Chúa của Giáo hội không? Hay tôi chỉ là con chiên giả, thậm chí là con dê luôn phá hoại Giáo hội, làm hại anh chị em mình? Tôi đã đóng góp gì cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ ?
Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con trở thành những mục tử nhân lành khi chúng có có trách nhiệm với anh chị em mình. Đồng thời, xin cho chúng con luôn là con chiên ngoan hiền trong đàn chiên của Chúa và Giáo hội. Amen.
Chuồng chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái. Đó là một dãy hàng rào chắc chắn theo hình chữ nhật với một cửa ra vào duy nhất. Chiều đến, các mục tử lùa chiên vào chuồng qua khung cửa duy nhất này, rồi trao phó việc canh giữ cho một vài người nào đó. Và khi ngày mới trở về, họ đưa chiên ra khỏi chuồng để đi ăn nơi những đồng cỏ.
Chuồng chiên là nơi bảo đảm an toàn cho đoàn chiên. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc này khi so sánh mình với cửa chuồng chiên và với người mục tử tốt lành để mạc khải tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa đối với con người nói chung và nhất là sự bảo vệ của Ngài đối với những ai tin nhận Ngài nói riêng.
Phản ứng đầu tiên của dân chúng khi nghe qua hai hình ảnh này là không hiểu được ý Chúa Giêsu muốn nói gì, mặc dầu Người đã dùng những hình ảnh rất quen thuộc đối với họ. Phải chăng chúng ta ngày hôm nay đôi khi cũng phản ứng như thế, đó là chúng ta không hiểu không hoặc muốn hiểu những gì Chúa muốn nói với mình qua những dấu chỉ đơn sơ của cuộc sống thường ngày. Phải chăng chúng ta sợ hiểu được ý định của Thiên Chúa để rồi phải canh tân đời sống cho hợp với ý định cảo cả ấy? Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn kiên nhẫn giải thích cho họ: Ta là cửa chuồng chiên. Ai qua Ta mà vào thì sẽ được giải thoát. Ta là mục tử tốt lành, hiến mạng sống vì chiên. Ta biết các chiên Ta và các chiên ta biết ta.
Khi so sánh mình với hình ảnh cửa chuồng chiên và hình ảnh người mục tử tốt lành, Chúa Giêsu muốn mạc khải một sự thật tuyệt vời làm cho chúng ta thêm can đảm và hy vọng, đó là sự thật về mối tương quan thân tình không thể nào tách rời được giữa Ngài và những kẻ tin vào Ngài. Trước hết so sánh mình với cửa chuồng chiên, Chúa Giêsu cho mọi người chúng ta hiểu rằng: Người chính là tiêu chuẩn, chính là mẫu mực cho tất cả những ai muốn bước theo Người và cộng tác với Người để đem ơn cứu độ đến cho muôn dân.
Còn khi so sánh mình với người mục tử tốt lành, Người muốn mạc khải cho chúng ta biết: Người là mẫu mực duy nhất cho những chủ chăn được tuyển chọn. Chúa Giêsu vẫn luôn luôn là mục tử duy nhất chăm sóc đến từng con chiên, đến từng người trong đoàn chiên cũng nhưđến những ai chưa thuộc vào đoàn chiên, để một ngày nào đó cũng sẽ được bước vào trong cùng một đoàn chiên và cùng một chủ chiên.
Còn chúng ta thì sao, liệu chúng ta có chấp nhận để cho Chúa hướng dẫn và chăm sóc cuộc đời của chúng ta hay không, để bản thân chúng ta trở nên một con chiên trong đoàn chiên của Người hay không?
Ngày nọ, có một du khách viếng thánh địa, nhìn thấy một chuồng chiên ngoài đồng, anh ta bèn hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó rằng: Cửa chuồng của anh ở đâu? Người mục tử trả lời: Tôi chính là cửa chuồng. Đoạn người mục tử kể cho du khách nghe anh ta lùa bầy chiên vào chuồng mỗi khi chiều xuống như thế nào. Sau đó anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó. Không một chú chiên nào có thể bỏ chuồng mà đi ra, cũng chẳng thú rừng nào có thể đi vào mà không bước qua anh ta.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó Chúa Giêsu tự sánh ví mình như cửa chuồng chiên và như người mục tử nhân lành. Cả hai hình ảnh này đều nói lên sự hiểu biết, sự chăm sóc và sự bảo vệ Ngài dành cho chúng ta, là những con chiên được Ngài hướng dẫn.
Thực vậy, người mục tử thường phải hiện diện với bầy chiên của mình 365 ngày trong một năm, và 24 giờ trong một ngày. Người mục tử ấy phải biết rõ chiên mình: con nào đau, con nào mạnh, con nào có móng mềm, con nào bỏ bầy đi lạc.
Thế nhưng, hiểu biết về con chiên mà thôi chưa đủ, người mục tử ấy còn phải dám hiến thân cho bầy chiên của mình, thậm chí dám hy sinh cả mạng sống của mình nữa, trong những trường hợp hiểm nguy. Chính trong bối cảnh này mà chúng ta có thể hiểu rõ hơn lời xác quyết của Chúa, khi Ngài nói: Ta là mục tử nhân lành. Thực vậy, Ngài muốn cho chúng ta hay: mối tương giao và sự hiến thân của Ngài cho chúng ta cũng giống như mối tương giao và sự hiến thân của người mục tử cho bầy chiên của mình.
Giống như người mục tử, Chúa Giêsu luôn hiện diện giữa chúng ta 365 ngày trong một năm và 24 giờ trong một ngày. Ngài đã từng nói với chúng ta: Này, Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Giống như người mục tử, Chúa Giêsu cũng biết rõ mỗi người chúng ta một cách vừa thân mật lại vừa sâu xa. Ngài biết ai trong chúng ta đang yếu kém về đức tin, ai trong chúng ta thường ngã lòng, ai trong chúng ta hay bỏ bầy để đi hoang. Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Trái lại, Ngài luôn ở cạnh chúng ta để nâng đỡ, phù trợ. Và nếu như chúng ta có lầm đường lạc lối, thì chính Ngài sẽ tìm kiếm chúng ta.
Điều Thiên Chúa nói với dân riêng của Ngài qua môi miệng tiên tri Isaia, cũng chính là điều Chúa Giêsu muốn nói riêng với mỗi người chúng ta, đó là: Đừng sợ, Ta đã gọi ngươi bằng tên riêng của ngươi. Đừng sợ, ngươi rất quý báu đối với Ta. Và đừng sợ, vì này đây Ta ở với ngươi luôn mãi.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu hai hình ảnh. Hình ảnh thứ nhất đó là người mục tử.
Trong Cựu Ước, dân Do Thái thường dành tước hiêu này cho Thiên Chúa. Ngài chính là người mục tử, đã dẫn dắt họ qua sa mạc, qua biển Đỏ để tiến vào miền đất hứa. Ngài đã chăm sóc, dưỡng nuôi họ bằng manna, bằng chim cút, bằng suối nước vọt lên từ tảng đá. Như người mục tử gắn liền số mạng với đoàn chiên, thì Thiên Chúa cũng và đã luôn ở giữa dân Ngài để chia sẻ những buồn vui gian khổ với họ dưới sương sớm và nắng chiều.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng đã tự sánh ví mình như người mục tử nhân lành. Khác với những kẻ chăn thuê và giữ mướn, những kẻ trộm cướp và lợi dụng, người mục tử đích thực chỉ biết phục vụ đoàn chiên và giải thoát đoàn chiên khỏi mọi sự dữ. Đổi lại, con chiên nghe tiếng người mục tử, hăm hở đi theo và tỏ lòng yêu mến quyến luyến với người mục tử. Người ấy sẽ đi trước để bảo vệ đoàn chiên. Còn đoàn chiên thì theo sau một cách ngoan ngoãn, để rồi cuối cùng sẽ đến được nơi đồng cỏ xanh và nơi dòng suối mát. Chính Ngài đã phán: Ta đến để chúng được sống và được sống một cách dồi dào. Thực hiện mục đích ấy, Ngài đã phải trả bằng một giá rất đắt, bằng chính mạng sống của mình.
Hình ảnh thứ hai, đó là hình ảnh của chuồng chiên. Mỗi khi tổ chức Năm Thánh, thì trong ngày khai mạc và bế mạc, Đức Giáo Hoàng sẽ chủ sự một nghi lễ đặc biệt, đó là đóng và mở một cánh cửa lớn nằm bên phải đền thờ thánh Phêrô. Nghi lễ ấy có nền tảng trong Kinh Thánh tượng trưng cho ơn thánh đổ xuống nhân loại, cho cuộc trở về toàn thắng của đức vua, cho nơi gặp gỡ của sự bình an và hiệp nhất.
Với lời khẳng định: Ta là cửa chuồng chiên, ai qua Ta mà vào thì được cứu rỗi, người ấy sẽ tìm thấy của nuôi thân, Chúa Giêsu muốn nói lên rằng: Nơi Ngài, chúng ta sẽ gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Nơi Ngài, chúng ta được cứu rỗi và tìm thấy niềm hạnh phúc Nước Trời.
Còn chúng ta thì sao? Hãy đến với Đức Kitô và bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài, như lời Thánh Phaolô đã diễn tả: xưa kia anh em là những con chiên lạc, giờ đây anh em đã trở về cùng vị mục tử Đấng canh giữ linh hồn anh em.
Để kết luận, tôi xin kể lại mẩu chuyện sau đây: Trời mùa đông giá rét, một đêm nọ, vua thánh Venceslaô đi đến nhà thờ để viếng Thánh Thể. Viên thị vệ theo hầu xuýt xoa vì giá lạnh, nhưng thánh nhân bảo: Cứ chịu khó đi theo và đặt bàn chân ngươi lên vết chân ta. Viên thị vệ làm như vậy và cảm thấy ấm hẳn lên.
Với chúng ta cũng vậy. Theo dấu chân của vị mục tử nhân lành, chúng ta sẽ được bình an và hạnh phúc bởi vì Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.
Cửa có hai công dụng. Để đóng vào và để mở ra. Có những cánh cửa như cửa tù ngục để giam kín phạm nhân. Có những cánh cửa giam hãm, bưng bít con người không cho thông giao với thế giới bên ngoài. Có những cánh cửa lò sát sinh nhốt thú vật để giết chết. Đó là những cánh cửa đóng kín chết chóc, huỷ hoại. Có những cánh cửa mở ra đón gió mát, đón khí trong lành, đón ánh sáng mặt trời tươi vui. Có những cánh cửa mở ra những chân trời xa tắp, khơi lên trong tâm hồn mơ ước cao xa. Có những cánh cửa mở ra đón nhận anh em trong tình huynh đệ thân mến. Đó là những cánh cửa mở ra sự sống.
Hôm nay, Chúa Kitô nói: “Ta là cửa chuồng chiên”, Người đã tự nhận mình là cánh cửa. Chúa Giêsu là cánh cửa không phải để đóng kín giam hãm đàn chiên. Nhưng là cánh cửa mở ra.
Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra những chân trời vô tận.
Thỉnh thoảng ta nghe có dư luân xôn xao về ngày tận thế. Tất nhiên đó là một tin đồn thất thiệt, nhảm nhí, đượm mầu sắc mê tín dị đoan. Nhưng tin đồn đó cũng nói lên một sự thực là: Thế giới mà chúng ta đang sống là một thế giới hạn hẹp, sinh mạng con người là bèo bọt, kiếp sống con người là monh manh. Thật đáng buồn nếu con người chỉ có thế, bị kết án chung thân vào một thân xác mau tan rã, bị giam hãm trong một thế giới vật chất mau tàn tạ.
Chúa Giêsu Phục sinh đã phá vỡ vòng vây giam hãm đó. Khi tảng đá lấp cửa mộ lăn ra, Chúa Giêsu đã mở ra cho nhân loại một cánh cửa. Cánh cửa đó dẫn vào một không gian vô tận. Từ nay con người không còn bị kết án chung thân vào thân xác mau tan rã nữa, vì Chúa Giêsu phục sinh đã mặc lấy thân xác vinh hiển không bao giờ chết. Từ nay con người không còn bị giam hãm trong thế giới vật chất mau tàn tạ nữa, vì Chúa Giêsu Phục sinh đã mở lối ra thế giới thần linh, trong đó con người sống trong tự do, không còn bị ràng buộc trong không gian. Đó là một thế giới mới, thế giới vĩnh hằng, không bao giờ tàn tạ, thế giới vô biên chẳng có giới hạn.
Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã đẩy lùi ranh giới của thế giới vật chất đến vô hạn. Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã chắp cánh cho ước mơ của con người. Ước mơ ấy chẳng còn hạn hẹp trong những hạn chế của vòng vây thế giới, nhưng bay lên ngang tầm trăng sao để mơ những giấc mơ thần thánh. Khi mở cửa và thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã giải phóng con người khỏi cảnh ngộ nô lệ vật chất hư hèn, nâng con người lên cuộc sống tự do của con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra suối nguồn sự sống
Thật là vô lý nếu con người sống chỉ để chết. Thật là vô lý nếu chết là hết. Nếu định mệnh con người là như thế, thà không sống còn hơn. Mỗi khi vào bệnh viện, ta không khỏi suy nghĩ khi nhìn những bệnh nhân rên xiết, quằn quại đau đớn hoặc thấy những tấm thân gầy còm, những khuôn mặt hốc hác. Đó là cái chết đang sống hay là một sự sống đang chết? Đời sống như thế còn có ý nghĩa gì không?
Chúa Giêsu đã bước vào thế giới kẻ chết để chiến đấu chống lại thần chết. Người đã chiến thắng. Và khi Người mở cửa mộ bước ra, Người đã mở cánh cửa dẫn vào một cuộc sống mới. Cuộc sống mới là một cuộc sống trọn vẹn bởi vì không còn bóng dáng Thần chết. Cuộc sống mới là một cuộc sống sung mãn bởi vì chẳng còn vết tích của đau khổ, bệnh tật, đói khát. Cuộc sống mới là một cuộc sống siêu nhiên trong đó con người được nâng lên làm con Thiên Chúa, được tham dự vào chính sự sống của chúa. Cuộc sống mới là một cuộc sống hạnh phúc vì được kết hợp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong một tình yêu trọn hảo.
Như thế cuộc sống con người vẫn có một hướng đi lên, để được nâng cao, để được phong phú, để được hoàn hảo. Chính vì thế mà dù biết cuộc sống khổ đau, người ta vẫn vui mừng khi một em bé chào đời. Chính vì thế người ta vẫn ăn mừng sinh nhật, coi đó là ngày trọng đại trong đời người.
Chính Chúa Giêsu đã biến đổi thân phận con người. Con người sinh ra không phải để chết, nhưng để sống, sống sung mãn, sống trọn vẹn, sống vĩnh viễn trong suối nguồn sự sống.
Nhưng để mở ra cho ta những chân trời vô tận của con Thiên Chúa, chúa Giêsu đã chịu nhận lấy kiếp sống mong manh, phù du, bèo bọt của con người. Để mở ra cho suối nguồn sự sống, Người đã phải đón nhận cái chết đau đớn. Người chính là vị Mục tử chân chính đã thí mạng vì đàn chiên.
Chúa Giêsu quả thật là cánh cửa mở ra cho đàn chiên đi đến những chân trời xa rộng, đi đến những đồng cỏ xanh tươi, đi đến những dòng suối trong lành.
Chúa Giêsu quả là vị mục tử tốt lành luôn chăm sóc đoàn chiên, luôn nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực bổ dưỡng. Chúa Giêsu đã đến cho ta được sống và được sống dồi dào.
Đó là cánh cửa duy nhất dẫn đến sự sống, ta hãy theo sát gót Người. Đó là người mục tử duy nhất, ta hãy nghe tiếng Người. Hãy đến với Người để Người đưa ta đến những chân trời xa rộng. Hãy đến với Người để Người băng bó vết thương, xoa dịu nỗi đau và phục hồi sự sống. Hãy đến với Người để Người đổ tràn tình yêu và sự sống vào tâm hồn ta.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. Tôi có theo vào cửa Người hay tôi đã chọn nhầm cửa khác?
2) Chúa Giêsu là cánh cửa mở. Tôi có thường đóng cửa, ngăn không cho người khác vào?
3) Chúa Giêsu đã hiến mạng sống để mở cửa cho tôi. Tôi có sẵn sàng hi sinh để mở cửa thêm rộng không?
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Từ hơn ba mươi năm nay, cứ đến mỗi Chúa Nhật thứ tư Mùa Phục Sinh, Giáo Hội dành riêng một ngày để kêu gọi tất cả các tín hữu cầu nguyện cho ơn kêu gọi. Nói đến việc cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục và tu sĩ, thì có lẽ chúng ta nghĩ đến tình trạng hiện nay tại hầu hết các nước Tây Phương càng lúc càng có nhiều chủng viện phải đóng cửa, nhiều Dòng tu trống vắng, số linh mục và tu sĩ già nua thì càng gia tăng. Thế nhưng nói đến cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục và tu sĩ tại Việt Nam của chúng ta, thì chắc chắn ai trong chúng ta cũng nghĩ ngay đến không biết bao nhiêu chủng sinh phải chờ đợi có khi từ hơn hai mươi năm qua mà vẫn chưa được chịu chức. Không biết bao nhiêu người vì lý lịch mà không được nhận vào danh sách chủng sinh, không biết bao nhiêu người phải tu chui tu nhủi.
Giáo Hội tại Việt Nam của chúng ta quả thật không thiếu ơn gọi, Giáo Hội chỉ thiếu tự do để cho các sinh hoạt tôn giáo được bình thường, để cho cánh cửa các chủng viện và Dòng tu được mở rộng, để cho sự phục vụ không bị giới hạn. Như vậy đối với chúng ta ngày hôm nay, cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ thiết yếu là cầu nguyện cho tự do tôn giáo được nhìn nhận và tôn trọng một cách đầy đủ, để Giáo Hội qua các linh mục và tu sĩ được quyền phục vụ theo cung cách của Chúa Giêsu.
Chiếm độc quyền phục vụ là một điều bất công, phục vụ mà không theo Chúa Giêsu thì cũng chỉ là trò lừa bịp mà thôi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gọi cách phục vụ đó là trộm cướp. Chúng ta hiểu được giọng điệu gay gắt của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, nếu đặt vào trong bối cảnh toàn bộ bài diễn văn, thánh Gioan tác giả của bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rằng, Chúa Giêsu đã lên tiếng trước đám đông nhân ngày Lễ Cung Hiến Đền Thờ của người Do Thái, đây là Lễ tưởng niệm cuộc kháng chiến và chiến thắng vẻ vang của anh em nhà Macabê chống lại đế quốc Hy-Lạp vào thế kỷ II trước Công nguyên. Nhiều người lợi dụng dịp này để hô hào dân chúng đứng lên chống lại sự cai trị của đế quốc La-Mã, nhưng những người biệt phái lại bắt lấy cơ hội để xúi giục dân chúng chống lại Chúa Giêsu.
Chính trong bối cảnh này mà Chúa Giêsu đã đọc bài diễn văn về người mục tử nhân lành và đồng thời tố cáo các hành động mà Ngài gọi là trộm cướp của những người biệt phái. Quả thực, những người biệt phái cũng hô hào phục vụ và canh tân, nhưng như Chúa Giêsu đã điểm mặt là họ chỉ chất lên vai người dân không biết bao nhiêu là gánh nặng còn chính họ thì không lay đến ngón tay.
Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. Muốn đi vào đoàn chiên và phục vụ đoàn chiên thì người ta sẽ đi qua cửa chính mà vào, tất cả mọi lối đi vào khác đều là lối đi của quân trộm cướp. Qua hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, chỉ có một cung cách phục vụ duy nhất đó là phục vụ như Ngài đã phục vụ, nghĩa là sẵn sàng hiến thân cho và vì tha nhân mà thôi. Ai sống và phục vụ như Chúa Giêsu thì kẻ ấy thuộc về Ngài, còn ai sống ngược lại cung cách phục vụ của Ngài thì kẻ ấy chỉ là quân trộm cướp mà thôi.
Cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin cho Giáo Hội tại Việt Nam luôn được sống theo cung cách phục vụ của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy cầu xin cho các Giáo Xứ và các gia đình Việt Nam biết sống tinh thần phục vụ của Chúa Giêsu, ngõ hầu trở thành mảnh đất phì nhiêu trổ sinh nhiều ơn gọi phục vụ đích thực trong Giáo Hội. Amen.
Xã hội hôm nay thật lắm chuyện thị phi! Cuộc đời cứ như: “Vàng thau lẫn lộn”. Hàng thật – hàng già đã khó phân biệt mà người tốt, người xấu càng khó phân biệt hơn. Có những mặt hàng giả mà như thật. Có người phải ngậm đắng nuốt cay khi bỏ tiền mua hàng thật nhưng lại phải lấy đồ giả. Có người vì cả tin nghe người nên bị lừa đến thân bại danh liệt. Kẻ bị lừa tình mà ôm hận suốt đời. Kẻ bị lừa tiền mà tan hoang cửa nhà. Có kẻ giả nhân giả nghĩa để đánh lừa đồng loại và vun quén cho bản thân. Kẻ thất đức lại sống trên nhung lụa. Người công chính phải tù tội lầm than vẫn còn đó trong kiếp người hôm nay. Đó là kết quả tất yếu của chủ nghĩa thực dụng. Đặt quyền lợi cá nhân lên trên lợi ích tập thể. Con người lấy mình làm trung tâm nên mọi sự đều quy về mình. Tìm hạnh phúc cho mình. Tìm vinh danh cho mình. Vì hạnh phúc của mình nên sẵn sàng bỏ rơi đồng loại, cho dù đó là cha, là mẹ, cho dù đó là vợ chồng hay con cái. Sự thật phũ phàng đó đang là căn bệnh trầm kha của xã hội hôm nay.
Có biết bao cha mẹ đã đang tâm giết các thai nhi vì sợ đứa con sinh ra sẽ thêm phần ăn, thêm gánh nặng cho gia đình. Có biết bao vợ chồng đã đứt gánh giữa đường chỉ vì một mối tình riêng, một quan hệ bất chính. Có biết bao người con đã bỏ rơi cha mẹ trong đói khổ, già yếu, bệnh tật vì còn phải lo cho chính bản thân mình.
Xem ra thế giới hôm nay đang thiếu dần hai chữ hy sinh. Không có hy sinh làm sao có ân nghĩa. Không có ân tình, ân nghĩa nên người ta đâu cần hy sinh và đối xử tốt với nhau. Câu chuyện “Anh phải sống” của Khái Hưng không còn là văn học phản ánh hiện thực xã hội hôm nay nữa! Nó chỉ còn là huyền thoại, một dĩ vãng đã qua.
Chuyện kể rằng: có hai vợ chồng trẻ đi đốn củi vào mùa nước lũ. Chiều tối, khi trở về họ đặt củi trên chiếc thuyền lan mong manh, nhỏ bé để xuôi theo dòng nước trở về. Thình lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt tuôn xuống dòng sông, tạo thành một dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiếc thuyền lan nhỏ bé của họ bể vỡ tan tành. Người chồng cố níu kéo vợ khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Nhưng dòng nước xoáy mỗi phút giây trôi qua lại ồ ạt và mạnh mẽ. Sức lực của chồng xem ra càng đuối dần khi phải gồng mình để thoát thân và cứu vợ. Người vợ thấy sức chịu đựng của chồng đã cạn kiệt, nên đành buông tay ra để mặc cho dòng nước lũ cuốn trôi, chỉ kịp gào thét trong mưa giông và nước lũ: “anh phải sống để nuôi dạy đàn con”.
Tác phẩm “Anh phải sống” đã một thời đi vào lòng người, vì nó phản ánh quá trung thực về tình yêu của những con người dám hy sinh cho gia đình, cho xóm ngõ, cho dân tộc. Nhưng xem ra, tác phẩm này không còn chỗ đứng trong xã hội hôm nay. Vì giá trị con người hôm qua được đo bằng tấm lòng biết xả thân vì đồng loại, biết quên mình vì gia đình, vì dân tộc, còn giá trị của con người hôm nay được cân nhắc bằng tiền bạc và địa vị. Người càng có lắm tiền nhiều của càng được kính trọng, nể vì. Người càng có địa vị cao càng có nhiều kẻ hầu người hạ. Có mấy ai dùng quyền để phục vụ vô vị lợi cho tha nhân? Có mấy ai dùng tiền để mua lấy tình bạn? Thế giới đã đổi thay! Cách sống cũng đổi thay. Con người chạy theo lợi nhuận. Mọi quan hệ, mọi việc làm đều được cân nhắc thiệt hơn. Vì quyền lợi của mình mà bỏ rơi đồng loại. Vì lợi ích của mình mà chà đạp lên danh dự, nhân phẩm người khác. Lòng đại nghĩa hy sinh đã bị chôn vùi khi đặt quyền lợi mình trên lợi ích của anh em.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cái nhìn tương phản của hai loại mục tử. Mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tử giả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình. Họ sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên. Chúa Giêsu đưa ra khuôn mẫu mục tử nhân lành là chính Chúa. Cả cuộc đời không tìm an nhàn cho bản thân. Ngài dong duổi gió bụi để tìm từng con chiên lạc đưa về ràn. Vì sự sống của đàn chiên, Ngài sẵn sàng đối phó với sự dữ để bảo vệ đàn chiên. Ngài đã chấp nhận cái chết để đàn chiên được sống.
Đó cũng là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta đều là mục tử của Chúa khi chúng ta có nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ anh em mình. Mỗi người chúng ta đều phải có trách nhiệm trước sự an nguy của đồng loại. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận đẩy lùi sự dữ đang hoành hành trong môi trường sống của chúng ta. Không ai được phép bàng quan trước sự dữ đang bủa vây gia đình, xóm làng của mình. Không ai được phép vô trách nhiệm trước bữa no bữa đói của cha mẹ, con cái hay hàng xóm láng giềng. Nếu mỗi người chúng ta đều biết sống có trách nhiệm với anh em thì dòng đời này sẽ bớt đi những trái ngang, sẽ vơi đi những giọt nước mắt buồn đau, tủi hờn. Nếu mỗi người chúng ta đều biết đưa vai gánh đỡ gánh nặng cho anh em, và biết dùng đôi vai làm điểm tựa nâng đỡ anh em, thì cuộc đời này sẽ là một thiên đàng mà con người đang hưởng nếm những giây phút ngọt ngào nhất của tình người, của hạnh phúc yêu thương.
Đây cũng là điều kiện để có được sự sống trường sinh. Vì “ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sống muôn đời.
Nguyện xin Chúa Giêsu mục tử luôn phù hộ nâng đỡ và giúp chúng ta biết sống hiến thân mạng sống vì anh em. Amen.
Phúc âm Gioan triển khai đề tài Mục Tử nhân lành trong bầu khí căng thẳng của cuộc tranh luận giữa đức Giêsu và những người lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, đặc biệt các người thuộc nhóm Pha-ri-sêu. Sau những khảng định về sự khác biệt căn bản giữa mục tử làm thuê và mục tử chân chính (Ga 10, 1-18), Đức Giêsu long trọng công bố các yếu tố chính yếu trong tương quan giữa Ngài với các kẻ tin vào Ngài, giữa vị Mục Tử tốt lành với các chiên được trao cho Ngài chăn dắt. Chúng ta cùng suy niệm từng điểm một.
Về người Mục Tử:
“Tôi biết chúng”. Rất ít ai đề cập sâu rộng tới cái ‘biết’ của Người Mục Tử nhân lành đối với chiên của mình. Ngài không chỉ biết số lượng (100 con), con ở lại dàn và con đi lạc (99 và 01 con). Ngài biết từng con chiên của Ngài, với những tốt xấu, những mạnh yếu, những thiện chí và ác ý, những nỗ lực và sa ngã… Ngài rành về chiên, có lẽ, còn hơn cả chính chiên biết về mình. Nhưng sự ‘biết’ này khác xa một giám thị soi mói, một cảnh sát rình rập, một quan tòa xét xử. Nó gần giống với với cái biết của một bà mẹ âu yếm đối với đứa con dại. Đó chính là cái ‘biết’ của một Mục Tử nhân lành chăm sóc và tự hiến cho từng con chiên của mình.
“Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi… Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Lời khảng định của Mục Tử thật tuyệt đối: Ngài sẽ dùng tất cả sức lực Ngài để giữ chiên lại với Ngài. Và không chỉ Ngài mà thôi, Ngài còn làm việc đó nhân danh Chúa Cha, với tất cả uy quyền của Cha. Ngài không dùng dây để cột chiên lại, không xây chuồng, gài then để canh phòng, không rào cao, dậu dày để ngăn chặn. Ngài dùng chính tình yêu thương tha thứ và nhân ái để bao bọc. Dây cột, rào dậu duy nhất của Ngài là hiến mình thập giá. Và đó cũng là uy quyền của Cha, vì “Tôi và Chúa Cha là một”.
“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời… không bao giờ chúng phải diệt vong”. Công việc hoàn toàn nằm trong tay người Mục Tử. Ngài chủ động và quyết đoán tất cả. Ngài đảm bảo và tuyệt đối quyết tâm chu toàn như một ủy thác tối hậu từ Cha: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả…”
Về phía chiên:
Hình như không đòi một điều kiện tương xứng nào, ngoại trừ “ Chiên nghe tiếng… chiên theo tôi”.
Người ta vẫn thường giải thích, ‘nghe và theo’ chính là chấp nhận và thi hành những điều Chúa (và Hội Thánh) dạy bảo. Ta hình dung Mục Tử là một nhà thuyết giảng luân lý, đạo đức, đứng trên bục giảng…, và chiên là những tín hữu ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe.
Không, vị Mục tử nhân lành không coi dạy dỗ là chính. Ngài là (Ngôi) Lời trong bản thể của mình, trong đời sống và cái chết của Ngài. Chiên chỉ thật sự nghe tiếng Ngài khi chiêm ngắm thập giá và phục sinh. Lúc đó chiên nghe thấy Lời tình yêu nhân ái của một Thiên Chúa cứu độ giầu lòng xót thương. Qua việc lãnh nhận bí tích rửa tội, chiên quyết bước đi trong niềm tin vào Lời tình yêu giáng thế. Và cứ thế tiến bước theo Mục Tử nhân hậu và tự hiến suốt cả đời mình.
Chỉ cần có thế, và chiên được sống đời đời và không bao giờ phải diệt vong. Dầu tội lỗi và bất xứng, chiên tin nghe Lời nhân lành và quyết tâm bước theo Mục Tử tự hiến nhân hậu. Phải chăng Ki-tô hữu, trước nhất, phải là những chiên như thế?
Cách nói này của đức Giêsu quả đã gây sốc cho các Pha-ri-sêu, những đôi tai và con tim chỉ có biết mẫu mục tử như Mô-sê (rất chính trực và cao đẹp của Cựu ước, nhưng chưa phải là Ki-tô Giêsu). Xem ra, nó cũng đã từng gây sốc nhiều lần cho cả tôi và bạn nữa.
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử duy nhất nhân lành của tự hiến thập giá và phục sinh, xin cho con – Alter Christus của Chúa – được có một chút nét nhân lành và tự hiến quá độc đáo của Chúa. Xin cho con giảm bớt tính mô phạm trong đời mục vụ, và biết gia tăng nơi mình sự tự hiến và lòng thương xót, để các chiên nhận ra nơi con đôi chút hình bóng của Mục Tử Giêsu nhân lành. Amen.
Chương 10 Phúc Âm Gio-an chia thành hai mảng đề tài: Mục Tử nhân lành và Lễ Cung Hiến đền thờ. Mảng đề tài thứ nhất lại đưa ra hai hình ảnh: cửa ràn chiên (câu 1-10) và người mục tử nhân lành (câu 11-18). Phụng vụ ngày Chúa NhậtChúa Chiên Lành hôm nay triển khai hình ảnh thứ nhất là chính: “Tôi là cửa cho chiên ra vào”. Trong nội dung đó Đức Giêsu mới đề cập tới một hạng mục tử chân chính nào đó mà tiên quyết họ phải là những người ‘đi qua cửa’; ‘ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử’. Người xác định: chỉ những mục tử đi qua cửa mới có thể có các phẩm chất tốt đẹp như ‘chiên nghe tiếng anh…; gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra…; anh ta đi trước và chiên đi theo sau…; chúng nhận biết tiếng của anh…” Như vậy thì việc đi qua cửa trở thành dấu hiệu tiên quyết để Hội Thánh và mọi người nhận ra một mục tử chân chính; “người giữ cửa mở cho anh ta vào’, bởi vì bất cứ ai ‘trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp’.
Những ngày làm việc ở Mông Cổ đã cho tôi hiểu được thế nào là ràn chiên và cửa ràn chiên. Người chăn chiên chuyên nghiệp ở đó đều là dân du mục (tương tự như chăn vịt chạy đồng ở xứ ta) cứ tối đến họ lùa chiên vào ràn. Ràn không phải là một thứ chuồng trại cố định như heo bò của ta. Ràn (tiếng Anh chính xác dịch là ‘enclosure’, ‘stable’ chỉ là theo nghĩa rộng) là miếng đất trống gần lều trại được rào dậu bằng đá xếp hoặc cành cây. Chiên có thể thuộc nhiều đàn khác nhau được lùa vào ràn qua một lối mở duy nhất gọi là cửa. Sẽ có một người trực qua đêm canh gác bên đống lửa đốt ngay giữa lối ra vào được che chắn cách sơ sài. Sáng ra, các người chăn chiên sẽ vào lùa đàn chiên của mình ra dưới sự giám sát của người trực đêm. Chỉ khi nào thấy có những biểu hiện thuận thảo giữa chiên và người chăn dắt, anh giữ cửa hay trực đêm mới xác định được người chăn chiên đó quả thật là mục tử của đàn vật mình đang lùa đi ăn.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là: tại sao Đức Giêsu lại so sánh mình với cửa ràn chiên trước cả khi giới thiệu mình là mục tử nhân lành?
Hãy nhớ rằng đám thính giả chính của các lời tự giới thiệu này là các Pha-ri-sêu, “Thật, tôi bảo thật các ông…” Nhóm này trong Gio-an chương 9 đã có cuộc đối chất căng thẳng với Đức Giêsu về việc chữa lành người mù từ thuở mới sinh. Chính họ đã nêu lên lời phản bác: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” Phải, chính với nhóm lãnh đạo này mà Đức Giêsu muốn xác định: “Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm kẻ cướp”.
Các Pha-ri-sêu nói riêng, các thượng tế và trưởng lão kinh sư Do Thái nói chung, dựa vào luật pháp mà Mô-sê đã ban hành mà biện minh cho vị thế lãnh đạo của họ; trong tư thế đó họ không quan tâm tới gì khác hơn là làm sao luật được cặn kẽ tuân giữ. Nhiều giai thoại đã cho thấy thái độ này làm cho các Pha-ri-sêu thường xuyên có thái độ cực đoan, xét nét và khắt khe với đám quần chúng, tới độ Đức Giêsu đã phải nghiêm khắc lên án: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Phai-ri-sêu giả hình! Các người khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào các người cũng không để cho họ vào!” (Mt 23 13) Vấn đề chính ở đây là: đối với các Pha-ri-sêu, cũng như với bất cứ ai chăn dắt bằng luật pháp, sẽ không hề có cửa hoặc không thể có sự ra vào nào. Luật pháp tự nó bao giờ cũng đóng lại, cũng khép kín, và có khuynh hướng ngày càng chặt chẽ, bưng bít hơn.
Với những con người như thế, thật là ý nghĩa khi Đức Giêsu trịnh trọng tự giới thiệu: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào!” Đây quả là khác biệt một trời một vực giữa Tin Mừng cứu độ và tôn giáo của luật pháp: một bên là rộng mở, còn một bên là đóng chặt. Đức Giêsu đang giới thiệu mình như một Mô-sê mới, mới ở đây không có nghĩa là cùng một Mô-sê luật pháp được đánh bóng lại cho sáng đẹp hơn, nhưng là một tác phẩm hoàn chỉnh so với một phác thảo đầy những khiếm khuyết cần được chỉnh sửa, đôi chỗ là cơ bản; và có lẽ điểm cơ bản nhất chính là “Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ”. Luật pháp nào thì cũng không thể khảng định được điều này, trự phi đó là luật pháp của tình yêu, lòng nhân từ và cứu vớt. Thiết tưởng trước khi tự giới thiệu mình là Mục Tử nhân lành, Đức Giêsu đã sử dụng hình ảnh ‘cửa ràn chiên’ là để khảng định mình chính là luật pháp mới của lòng nhân từ và cứu vớt. Do đó Người lên tiếng quả quyết: “Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử”. Đương nhiên các Pha-ri-sêu không thể chấp nhận được lối lãnh đạo mới này, đơn giản là vì họ vẫn khư khư với luật pháp Mô-sê và không tin vào Đức Giêsu với thái độ ‘cứu vớt’ của Người (xem giai thoại chữa người mù từ thuở mới sinh Ga 9). Họ thậm chí lên tiếng kết án Người cách cay độc: “Ông ấy bị quỉ ám và điên khùng rồi, nghe ông ta làm gì!” (Ga 10,20)
Như thế đối tượng trước hết của bài Tin Mừng hôm nay chính là giới giáo sĩ chúng ta, được mệnh danh là linh mục, tức là mục tử của Đức Ki-tô. Là linh mục trong một Hội Thánh cứu độ thì luật pháp đối với tôi không được là gì khác hơn là Đức Ki-tô – ‘cửa ràn chiên’. Chính thông qua cửa đó, và chỉ qua cửa đó thôi mà công tác mục vụ của tôi được thi hành và triển khai. Giáo hội đã chẳng luôn nhắc nhở tôi: luật tối thượng của toàn bộ giáo luật chính là cứu vớt các linh hồn là gì? Chỉ có như thế tôi mới có thể là mục tử như lòng Chúa từ nhân mong muốn, “chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra; khi đã cho chiên ra hết, anh đi trước và chiên đi theo sau vì chúng nhận biết tiếng của anh!”
Lạy Chúa là ‘cửa ràn chiên’, dầu con đã được học giáo luật… nhưng chính Chúa mới đích thực là cửa ràn chiên, là ‘giáo luật’ mà con phải ra vào trong công tác mục vụ của mình. Nếu chỉ quan tâm tới luật pháp, kể cả luật Hội Thánh, con vẫn luôn có nguy cơ trở thành như các Pha-ri-sêu ‘khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào’. Xin ‘Người giữ của’ mở cho con được vào ràn mỗi sáng tối khi con dâng Thánh Lễ, để qua đó các chiên sẽ không còn thấy tiếng con xa lạ mà chạy trốn. Ước gì chúng cũng luôn nghe được tiếng nói của lòng nhân ái và tự hiến của Chúa vang vọng nơi con! Amen.
Chúa nhật hôm nay thường được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên lành. Gioan Thánh sử mời gọi chúng ta một vòng qua các ngọn đồi Galilê để chứng kiến một cảnh thanh bình: các mục tử dẫn bầy chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên giòng suối mát.
Trong lịch sử trước kỷ nguyên, các vì vua chúa và đại tư tế thường được gọi là mục tử. Pharaon được gọi là người chăn chiên nhân lành. Danh xưng ấy, dân du mục người Israel thường dành cho Thiên Chúa. Ngài dẫn đưa họ qua Biển Đỏ, qua sa mạc đến Đất Hứa, như người mục tử gắn liền số mạng với đoàn chiên, vui buồn gian khổ dưới sương sớm với nắng chiều. Đó là viễn ảnh của một vị mục tử mà Thiên Chúa sẽ gởi đến là Chúa Giêsu. Hôm nay, khi nhìn thấy cảnh bầy chiên trên đồi Galilê, Chúa đã tự mô tả mình như một người chăn chiên lành phúc hậu.
Nhiều lần, Chúa Giêsu tự ví mình là Người Mục tử, nhưng lần này Ngài đã nói tất cả ý nghĩ.
Khác với những người chăn thuê giữ mướn, những người lợi dụng và trộm cướp, người chăn chiên lành chỉ biết phục vụ đoàn chiên và cứu thoát đoàn chiên khỏi mọi sự dữ. Đối lại, con chiên nghe tiếng người chăn, hăm hở đi theo và tỏ tình yêu mến. Người mục tử đi trước để bảo vệ đoàn chiên, đoàn chiên theo sau ngoan ngoãn và tín nhiệm. Chúa phán: “Ta đến để mọi người được sống và được sống dồi dào”, cho dầu phải trả một giá rất cao, bằng chính mạng sống mình.
Sau khi đã tự mô tả là một người mục tử, Chúa Giêsu lại tự ví mình với cửa chuồng chiên.
Mỗi một khi Giáo hội tổ chức Năm Thánh, ngày khai mạc và bế mạc, Đức Giáo hoàng đã chủ sự nghi lễ và đóng một cánh cửa lớn nằm bên phải đền thờ Thánh Phêrô. Nghi lễ ấy có một quá trình trong Thánh Kinh tượng trưng cho Ơn Thánh Chúa đổ xuống trên nhân loại (Tv 78, 23; Ml 3, 10); cho cuộc trở về toàn thắng của đức vua (Tv 24, 7-10); cho nơi gặp gỡ của sự bình an và hiệp nhất (Tv 122).
Hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố: “Ta là cửa chuồng chiên… Ai qua Ta mà vào thì được cứu rỗi, người ấy ra vào và tìm thấy của nuôi thân”. Nơi Chúa Giêsu, loài người gặp gỡ Thiên Chúa và loài người cũng gặp gỡ anh em mình. Nhưng con người ta có kẻ tốt và người xấu, kẻ thánh thiện và người gian hiểm. Đối với đoàn chiên hiền lành, có kẻ không qua cửa mà đột nhập vào, họ là kẻ trộm cướp, đến để ăn cướp, để sát hại và phá hủy. Xưa nay, trong Giáo hội cũng có những tên ăn trộm, những sói dữ đột nhập vào giữa đoàn chiên, nhất là khi họ là sói dữ đội lốt chiên lành.
Thánh Phaolô kết luận: “Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử là Đấng canh giữ linh hồn anh em”.
Và Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Là con chiên tôi đi theo vết chân Chúa, tôi chẳng lo sợ gì. Vua Thánh Venceslaô xứ Tiệp Khắc (907-929) một đêm nọ trời đông giá rét đi đến nhà thờ viếng Thánh Thể. Viên thị vệ theo hầu xuýt xoa kêu giá lạnh. Thánh nhân bảo: Cứ chịu khó theo và đặt bàn chân ngươi lên vết chân ta. Viên thị vệ tuân theo và bỗng nhiên cảm thấy ấm áp lạ thường.
Theo vết chân của vị Mục tử ta sẽ thấy đời ấm áp.
(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Một vị mục sư trung thành, đạo đức, đang đau nặng. Anh em tín đồ quì cạnh giường bệnh, cầu xin Chúa cứu chữa ông. Họ nhắc với Chúa rằng ông coi sóc bầy chiên của Người rất tận tâm và họ lập đi lập lại câu ngày: “Chúa biết không mục sư yêu mến Ngài biết bao!”
Nghe vậy vị mục sư bèn xoay qua phía họ mà nói:
– Xin anh em đừng cầu nguyện như thế. Khi Maria và Macta sai người đi mời Đức Giêsu, thì họ không nói “Lạy Chúa, này kẻ yêu Chúa”, nhưng nói: “Lạy Chúa, này kẻ Chúa yêu đang bị đau nặng”. Tôi được yên ủi chẳng phải vì tôi yêu Chúa cách bất toàn, nhưng vì Chúa yêu tôi cách trọn vẹn.
***
Nhiều khi chúng ta tưởng mình yêu Chúa nhưng chính Chúa mới là người yêu chúng ta trước, yêu vô điều kiện, và yêu không bờ bến.
Đức Giêsu chính là mục tử tốt lành, Người luôn yêu thương đàn chiên, và yêu từng con chiên một. Chính Người yêu thương chăm sóc đàn chiên nên các con chiên mới được ăn trên đồng cỏ xanh, uống bên dòng suối mát. Chính Người lưu tâm bảo vệ đàn chiên, nên các con chiên mới an toàn khỏi kẻ bắt trộm, khỏi nanh sói dữ.
Nếu Người đã nói: “Tôi biết các chiên tôi”, thì phải hiểu là Người biết rõ chúng ta cần những gì cho linh hồn và thể xác, nên đừng băn khoăn xao xuyến. Hãy tin tưởng ở nơi Người.
Nếu Người đã nói: “tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”, là Người muốn chúng ta được sống tràn trề bên dòng suối Lời Chúa và sung mãn với lương thực Thánh Thể của Người.
Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ.
Chúng ta cần cầu nguyện cho có nhiều tâm hồn quảng đại, biết dấn than vô điều kiện, và phục vụ vô vị lợi cho đàn chiên Chúa. Vì đàn chiên không thể thiếu chủ chiên.
Chúng ta cần cổ vũ cho ơn gọi linh mục và tu sĩ bằng cách khích lệ tinh thần và hỗ trợ tài chính cho các mầm non ơn thiên triệu trong giáo phận và giáo xứ của mình.
Chúng ta cần tích cực dạy cho con cháu biết lắng nghe Lời Chúa, chuyên tâm cầu nguyện, hăng say làm việc tong đồ, và quan tâm phục vụ người nghèo. Nhờ vùng đất mầu mỡ này mà ơn gọi linh mục và tu sĩ sẽ nảy sinh.
* * *
Lạy Chúa, Chúa là mục tử tốt lành, xin dẫn dắt chúng con đi trên nẻo đường của Chúa, để chúng con được no thỏa ân tình của Ngài.
Xin ban cho chúng con những chủ chiên nhân lành, chỉ biết say mê Chúa và say mê con người, chỉ biết yêu thương, phục vụ, và chăm lo cho đàn chiên Chúa, để chia sẻ với Chúa nỗi bận tâm về một đàn chiên “được sống và sống dồi dào”. Amen.
(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Dương Ân Điển là đứa bé bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo vùng núi miền Nam, đảo Đài Loan. Câu chuyện thương tâm này xảy ra năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai cánh tay, chân phải thẳng đơ không thể co duỗi.
Thế mà 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở thành nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và miệng. Cô đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ và Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những người vẽ tranh bằng chân và miệng.
Cuộc đời co thay đổi nhanh chóng như thế, thành công rực rỡ như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận nuôi. Đặc biệt là ông Tưởng Kinh Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn chân phải, sửa đường làm cầu cho cô dễ dàng đi tới trường. Ông đã nói với cô: “Cháu không có tay, nhưng còn chân, và có thể làm được rất nhiều việc”. Chính tình thương, sự chăm sóc, và lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi số phận của một con người.
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10, 27). Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người yêu thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu cá biệt, cho dù chúng ta có què quặt đui mù, có xấu xa đốn mạt đến đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc nhất vô nhị trong tình yêu bao bọc của Chúa; mỗi người chúng ta đều có vị trí đặc biệt trong trái tim yêu thương của Người. Tấm lòng quảng đại yêu thương của ông Tưởng Kinh Quốc dành cho cô bé tàn tật Dương Ân Điển chỉ là hình bóng tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với chúng ta, những con chiên của Người.
Vâng, chiên của Chúa thì nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa.
– Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh Thánh, nơi giáo huấn của Giáo Hội, và những ơn soi sáng trong tâm hồn mình. Nghe Chúa chính là để có một mối tương giao thân tình với Người, vạ nhất là để tin vào Người. Thánh Phaolô viết: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10, 17).
– Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo nghĩa tri thức, mà chính là hiểu biết sâu xa, yêu mến thân tình, đến nỗi kết hợp cả thân xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho chúng ta nhận biết Chúa một cách đích thực, đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.
– Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình Người. Theo Chúa cũng chính là từ bỏ, từ bỏ con người cũ, nếp sống cũ, đường lối cũ: Các môn đệ đã bỏ mọi sự, Maddalêna đã bỏ đường tội lỗi, Augúttinô đã bỏ đời trụy lạc, để đi theo Người.
Nghe Chúa, biết Chúa và Theo Chúa để được những gì? Đức Kitô đã trả lời: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10, 28). Đoàn chiên đi theo chủ chiên nhân lành thì đồng cỏ xanh với dòng suối mát chắc chắn phải là đích đến của chúng, vì chủ chiên Giêsu chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Người không những ban cho chúng ta sự sống đời đời mà còn bảo đảm sự sống ấy chắc chắn không thể mất được.
Không chỉ Chúa Con mà cả Chúa Cha cũng gìn giữ, bảo vệ chúng ta trong bàn tay yêu thương của Người: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha” (Ga 10, 29). Chúa Cha đã trao ban đoàn chiên cho Chúa Con như quà tặng quí giá nhất, nên Chúa Con cũng gìn giữ và yêu mến đoàn chiên như Chúa Cha đã yêu mến và gìn giữ vậy. Như thế, chúng ta được bảo vệ an toàn tuyệt đối trong cả hai bàn tay, của cả cha lẫn mẹ, còn hình ảnh nào đẹp hơn thế nữa!
Lạy Chúa, xin cho chúng con trở nên nhỏ bé đơn sơ, để chúng con được nằm trong bàn tay yêu thương của Chúa.
Giữ một thế giới ồn ào vì tranh giành quyền lực, của cải, xin cho chúng con lắng nghe được tiếng Chúa.
Giữa một thế giới chỉ biết tôn thờ vật chất, xin cho chúng con hiểu biết Chúa thật sâu xa để yêu mến Người thiết tha.
Giữa một thế giới chỉ biết chạy theo danh lợi thú, xin cho chúng con luôn theo Chúa là chủ chiên nhân lành của đời chúng con mà thôi. Amen.
(Barbara E. Reid, nữ tu dòng Đaminh tại Grand Rapids, Michigan Hoa Kỳ. Bà là giáo sư môn Tân ước tại Đại học công giáo ở Chicago, bang Illinois. Cũng tại đây bà làm trưởng khoa và là phó viện trưởng. – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7)
Vài năm trước, trên truyền hình có trình chiếu một chương trình đố vui mang tên “Mời bạn tham gia trò chơi”. Người tham gia cuộc chơi sẽ có cơ hội trúng thưởng. Sự hồi hộp gay cấn xảy ra khi họ được hỏi phải chọn cửa nào trong ba cửa. Hai trong ba cửa không trúng giải, còn cửa thứ ba sẽ trúng một giải thưởng có giá trị, như một chuyến du lịch, một chiếc xe hơi hay một số tiền mặt khá lớn. Mỗi lần tổ chức như thế, sẽ có người may mắn trúng giải khi chọn đúng cánh cửa có giải thưởng.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu sánh ví mình như là “cánh cửa” đem đến cho ta quà tặng đắt giá nhất. Không giống như trò chơi đố vui ở trên khi người ta đánh lừa người tham gia để họ chọn sai cánh cửa có giải thưởng. Đức Giêsu đã minh thị Ngài chính là cánh cửa mở toang, để tất cả chúng ta có thể chọn đúng cánh cửa này.
Khởi đầu bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói về Ngài như là mục tử chăn dắt chiên. Ngài sẽ đến với đàn chiên qua cửa chuồng chiên. Ngài sánh ví mình với hình ảnh trái ngược về những người ăn trộm. Họ lần mò vào đàn chiên không bằng cửa chính, và sẽ không thể điều khiển đàn chiên theo họ đi ra ngoài. Họ là người xa lạ, và các con chiên sẽ chạy trốn, vì chúng không nghe được tiếng của họ. Sau đó, trong phần cuối của chương này, Chúa Giêsu đã đưa hình ảnh người chăn chiên nhân lành để nói về chính Ngài. Một khía cạnh khác khá quan trọng khi trưng dẫn hình ảnh này, đó là cánh cửa được mở ra cả hai hướng: Đi vào và đi ra. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay quy chiếu về Đức Giêsu như là cửa chuồng chiên. Các môn đệ không chỉ đến với đàn chiên qua Ngài, nhưng họ còn được Ngài dẫn ra ngoài đồng cỏ để bổ dưỡng.
Tất cả những ai được Ngài dẫn vào sẽ tìm được cho mình, giữa sự thân ái của cộng đoàn đức tin, một nơi để thư giãn và nghỉ ngơi, một nơi để được an dưỡng và chữa lành. Đó cũng là nơi chúng ta được nuôi dưỡng qua bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Nhưng bất cứ ai được dẫn vào cũng sẽ được dẫn ra, đi đến những đồng cỏ xanh tươi, những đồng cỏ mầu mỡ để thực hiện sứ mệnh. Đức Giêsu là cửa chuồng chiên, vừa dẫn chúng ta đi vào, vừa dẫn chúng ta đi ra.
Sau đó, trong Tin Mừng Gioan, hình ảnh cánh cửa mở toang cũng mang lấy một hình thái mới. Cạnh sườn Chúa Giêsu trên Thập giá được mở ra, khi người lính lấy giáo đâm Ngài (Ga 19, 34), cũng gọi mời chúng ta tiến vào, để bước ra trong sức mạnh của Đấng Phục Sinh. Tất cả những ai đi vào cuộc sống như Ngài đã sống, một cuộc sống trải rộng y hệt một đồng cỏ mênh mông đầy ắp những khinh miệt, những quên lãng, và những chống đối từ những con người đã đi vào chuồng chiên bằng con đường khác, thậm chí ngay cả mạng sống chúng ta cũng bị lấy đi, thì khi đó chính Đức Giêsu mở toang cạnh sườn Ngài ra để dẫn chúng ta ra ngoài đến một cuộc sống hồi sinh hoàn toàn mới mẻ. Trước cái chết, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ về cuộc khổ nạn Ngài sẽ kinh qua như một cơn đau quặn khi sinh nở để có được niềm vui lúc một sinh linh được chào đời (Ga 16,20-26). Máu và nước tuôn trào từ cạnh sườn mở toang ra, gợi nhắc chúng ta về những “dòng sông mang chở nước sự sống” mà Chúa Giêsu đã hứa. Những dòng sông đó sẽ tuôn trào từ nơi Ngài (theo nguyên ngữ là từ cõi lòng của Ngài) và từ con tim của những kẻ tin Ngài (Ga 7,38).
Ngôi mộ mở toang ngày Chúa Nhật Phục Sinh khép lại hình ảnh này. Cánh cổng sự chết đã bị bẻ gẫy bởi Đấng đã đến để “cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Cánh cổng sự sống bây giờ đã rộng mở ra cho mọi người. Lời mời gọi hãy đi vào cánh cổng này qua Ngài và qua cách sống của Ngài, đối với nhiều người cũng không dễ dàng để chấp nhận. Những người Pharisêu, đại biểu cho hạng người cứng lòng, đã không chấp nhận lời gọi mời đó để bước vào và bước ra cùng với Ngài và qua Ngài. Họ nghĩ rằng có một lối đường khác, chứ không chấp nhận đi qua cửa chuồng chiên là chính Đức Giêsu.
Chắc chắn, không có một kỹ xảo nào nhằm đánh đố chúng ta để chọn cho đúng cánh cửa. Cánh cửa Giêsu vẫn luôn mở toang ra chờ đón mọi người.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm:
Chúng ta vẫn ở trong mùa Phục sinh, mùa của sự sống tươi mới.
Đức Giêsu là người mục tử chăn chiên.
Khác với kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy, Ngài đến để chiên có sự sống, và có một cách dồi dào (c. 10).
Hãy nhìn những nét đặc trưng của người mục tử đích thực.
Anh đi vào ràn chiên hay chuồng chiên bằng cửa, đường đường chính chính, chứ không lén lút trèo qua tường rào (cc. 1-2). Người giữ cửa quen anh và mở cửa cho anh. Chiên cũng quen anh và quen tiếng của anh. Tiếng của anh là dấu hiệu quan trọng để chiên nhận ra và phân biệt anh với người lạ hay kẻ trộm (cc. 3-5).
Chiên nghe tiếng của anh (c. 3). nhưng không nghe tiếng người khác (c. 8). Anh trìu mến gọi tên từng con, vì anh biết rõ chiên của mình.
Khi dẫn chúng ra ngoài chuồng, anh đi trước dẫn đường, chúng yên tâm theo sau chứ không chạy trốn, vì chúng biết mình đang đi theo ai và sẽ được dẫn đến đâu. Rõ ràng có sự hiểu nhau, gần gũi giữa chiên và mục tử.
Nhưng Đức Giêsu không chỉ là Mục tử chăn chiên.
Ngài còn tự nhận mình là Cửa cho chiên ra vào (c. 7. 9).
Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Khi Ngài đưa ta đến với Cha, Ngài nhận mình là Cửa. Khi Ngài săn sóc ta, Ngài nhận mình là Mục Tử.”
Cửa chuồng chiên nhằm để chiên đi vào và tìm được sự an toàn. Cửa cũng nhằm để chiên đi ra và tìm được đồng cỏ nuôi sống.
Chỉ ai qua Cửa Giêsu mà vào mới được cứu độ.
Ai ra vào Cửa Giêsu mới tìm thấy đồng cỏ xanh tươi (c. 9). Cửa Giêsu cũng giúp phân biệt mục tử giả và thật.
Mục tử giả sẽ không dám đến với chiên qua Cửa Giêsu.
Mong sao cho Giáo Hội có nhiều mục tử gần gũi với chiên, biết gọi tên từng con chiên và đem lại cho chiên hạnh phúc. Và mong sao chiên có khả năng nhận ra tiếng nói của người mục tử.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa nhận mình là Tấm Bánh, vì Chúa muốn nuôi tâm linh chúng con.
Chúa nhận mình là Cây Nho, vì Chúa muốn trao cho chúng con dòng nhựa sống.
Chúa nhận mình là Mục tử nhân lành, vì Chúa muốn dẫn chúng con đến nơi đồng cỏ.
Chúa nhận mình là Cửa, vì Chúa mở cho chúng con sự phong phú của Nước Trời.
Chúa nhận mình là Con Đường, vì Chúa là Đấng duy nhất dẫn chúng con đến với Chúa Cha.
Chúa nhận mình là Ánh sáng, vì Chúa có khả năng khuất phục bóng tối trong thế gian này.
Chúa nhận mình là Sự Thật, vì Chúa vén mở cho chúng con khuôn mặt của Thiên Chúa.
Chúa nhận mình là Sự Sống và là Sự Sống Lại, vì Chúa không để cho chúng con bị cái chết chôn vùi.
Lạy Chúa Giêsu,
tạ ơn Chúa vì mọi điều Chúa định nghĩa về mình đều hướng đến hạnh phúc cho chúng con, và đều cho chúng con sự sống thâm sâu của Chúa. Xin cho chúng con chấp nhận Chúa là Anpha và Ômêga, là Khởi Nguyên và là Tận Cùng của cuộc đời mỗi người chúng con. Amen.
Người ta nói người mẹ có thể đọc được tâm tư của con. Dù con không nói nhưng mẹ vẫn biết con đang muốn gì? Bởi vì tình yêu của mẹ luôn quan tâm đến con cái một cách rất tỉ mỉ. Từng cử chỉ, từng hành động đều không qua được mắt mẹ.
Có một anh bạn nhà nghèo, chạy vạy mãi mới được một suất hợp tác lao động, anh coi đó như cách duy nhất để giúp đỡ gia đình. Nhưng ảo mộng chóng tan, xứ người chẳng phải thiên đường, anh chỉ còn biết làm quần quật và dành dụm từng đồng. Để nhà khỏi buồn, trong thư anh tô vẽ về một cuộc sống chỉ có trong mơ.
Ngày về, mọi người mừng rỡ nhận quà, anh lại tiếp tục nói về cuộc sống trong mơ.
Đêm. Chỉ còn mẹ. Hết nắn tay nắn chân anh rồi mẹ lại sụt sùi. Anh nghẹn ngào khi nghe mẹ nói:
– Dối mẹ làm gì. Giơ xương thế kia thì làm sao mà sung sướng được hở con!
Hóa ra tình mẹ thật sâu lắng. Sâu lắng đến độ có thể hiểu được con tim của con. Mẹ có thể hiểu được con đang nghĩ gì, muốn gì. Mẹ cũng có thể biết được phải làm gì để xoa dịu nỗi đau cho con.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của người mục tử tốt lành. Người mục tử luôn gắn liền đời mình với đàn chiên tựa như người mẹ gắn liền với định mệnh đời con. Người mẹ được Thiên Chúa sắp đặt để bảo vệ đứa con, chăm sóc đứa con, dậy dỗ và gìn giữ đứa con khỏi những nguy hiểm trong suốt hành trình cuộc đời. Không có mẹ đứa con sẽ không lớn nổi thành người. Đàn chiên cũng không thể có đồng cỏ xanh tươi, có suối mát ngọt ngào nếu không được người mục tử miệt mài tìm kiếm cho đàn chiên. Đàn chiên sẽ không thể sống an toàn khỏi cạm bãy, khỏi thú dữ rình chờ, nếu không có chủ chiên canh phòng với đầy đủ trách nhiệm và đầy yêu thương.
Chúa Giêsu sánh ví tình thương của mình như tình thương của người mục tử dành cho đàn chiên. Người mục tử tốt lành đầy yêu thương luôn gắn bó với đàn chiên, luôn sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình vì lợi ích đàn chiên. Ngài chính là vị mục tử mà bài đáp ca đã ca ngợi rằng: Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tuơi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính. Lạy Chúa, dầu qua thung lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có chúa ở cùng con”.
Ngày 27/04/2014, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã được Giáo hội tôn phong lên bậc hiển thánh. Người là một môn sinh đã hoạ lại rõ nét hình ảnh mục tử của Thầy Chí Thánh Giêsu. Người mục tử luôn làm việc không nghỉ ngơi. Cho dù tuổi đã cao lại thêm bệnh tật kéo dài, thế mà ngài vẫn đến với đàn chiên, vẫn cất cao tiếng gọi đàn chiên, vẫn là chỗ dựa thật vững chắc và an toàn cho đàn chiên. Đến nỗi khi ngài qua đời, Đức tổng Giám mục Leônardo Sandri, thứ trưởng Ngoại giao Toà Thánh đã nói với toàn thể thế giới rằng: “Hôm nay, chúng tôi như những đứa con mồ côi”.
Tại sao người ta thương tiếc một cụ già như thế? Có phải người ta ngưỡng mộ Ngài vì ngài nhiều tiền, nhiều quyền lực không? Thưa không phải thế. Người ta thương tiếc một mục tử hết mình vì đàn chiên. Một mục tử canh giữ hoà bình không chỉ cho đàn chiên mà cho hàng tỉ người trên khắp hành tinh này. Người mục tử với 26 năm chăn dắt đàn chiên của Chúa đã không ngừng bảo vệ quyền sống của con người, nhất là của các thai nhi. Người mục tử đã không ngừng đi đến tận cùng thế giới để gieo rắc an bình, công bình, tha thứ và yêu thương. Người mục tử đã đi đến cùng đường để quy tụ đàn chiên, để tìm kiếm các con chiên lạc đưa về một mối và cuối đời, trong những tiếng nấc hoà trộn với hơi thở bị ngắt quãng, ngài đã nói với đàn chiên đang canh thức cầu nguyện cho ngài trong giờ lâm chung rằng: “Ta đã đi tìm kiếm các con. Và bây giờ các con đã đến với Ta. Ta xin cám ơn các con”.
Hôm nay lễ Chúa chiên lành, chúng ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội luôn có những mục tử như lòng Chúa mong ước. Cám tạ Chúa đã thương chăm sóc, chở che và gìn giữ cuộc đời chúng ta trong tình thương quan phòng của Chúa.
Hôm nay cũng là Chúa nhật II trong tháng năm, được chọn là ngày của mẹ. Mẹ chính là một mục tử gần gũi nhất để chăm sóc chúng ta. Tình thương của mẹ là vô bờ bến. Tình thương của mẹ dám hy sinh đánh đổi cả cuộc đời của mình để cho con niềm vui, tiếng cười. Thế nên, khi nói về mẹ có lẽ chúng ta phải nói về những hy sinh của mẹ. Nói với mẹ chúng ta phải nói lời cám ơn mẹ đã sẵn lòng hy sinh cho chúng ta.
Người ta kể lại rằng trong nạn đói vào năm Ất Dậu 1945, có một bà mẹ đã cắn đứt ngón tay của mình để con được bú những giọt máu cuối cùng thay cho dòng sữa đã cạn kiệt vì cái đói kéo dài. Bà chỉ hy vọng đứa con sẽ được cứu khỏi chết. Bà không can tâm nhìn con chết đói mà mình không làm điều gì đó để cứu con. Bà đã chấp nhận cái chết để con được sống.
Tình thương của mẹ là thế. Yêu thương quên cả chính mình. Một tình thương dám hòa trộn mồ hôi trong những giọt nước mắt bể dâu để mang lại hạnh phúc cho con. Một tình thương không bao giờ giả dối nhưng luôn mộc mạc chân tình gần gũi như chuối ba hương hay như xôi nếp mật.
Thế nên, trong ngày của mẹ chúng ta hãy cám ơn mẹ đã cho chúng ta vào đời. Cám ơn mẹ đã thức trọn canh khuya để canh giữ giấc ngủ cho chúng ta, để gìn giữ chúng ta khỏi mọi hiểm nguy giữa cuộc đời. Cám ơn cuộc đời đã cho chúng ta có mẹ để được yêu thương. Cầu mong mẹ mãi ở với chúng ta để chúng ta mãi tận hưởng sự ngọt ngào của tình mẹ, và cầu Chúa ban hạnh phúc thiên đường cho mẹ vì cả một đời gian nan mẹ đã làm cho con cái. Amen.
Đàn chiên và người chăn dắt, đó là hai hình ảnh quen thuộc trong Kinh thánh. Hình ảnh người chăn chiên đi trước, đoàn chiên đi theo sau, hình ảnh đó là “độc nhất vô nhị”, là hình ảnh rất thân thương, nói lên mối ân tình sâu đậm giữa hai thực thể này.
Người chăn dẫn đoàn vật đến đồng cỏ xanh tươi, đến giòng suối mát trong, để bổ dưỡng, nghỉ ngơi; hình ảnh đó đã hằn sâu trong tâm trí dân Israen, được diễn tả rõ nét trong thánh vịnh 22:
Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi
Trên đồng cỏ xanh tươi, Người để tôi nằm nghỉ
Đàn chiên có béo tốt, khoẻ mạnh, là nhờ người chăn gần gũi yêu thương; Đàn chiên có cho nhiều thịt, sữa, nhiều lông để làm áo, là nhờ người chăn ân cần chăn nuôi, bồi dưỡng.
Đàn chiên được an toàn là nhờ người chăn dắt hết mình, trọn lòng bảo vệ. Vì đàn chiên nghe thấy người chăn gọi tên từng con vật. Vì đoàn chiên đi theo bước chân người chăn đến mọi chốn mọi nơi người chăn dẫn tới.
Như thế, giữa người chăn và đàn chiên có một mối tương quan tình cảm “đồng hành”, không phải tương quan “vua tôi”, “chủ-tớ”.
Nhưng, Đức Giêsu là Đấng chăn dắt đời tôi, Người gần gũi thân quen. Người kitô hữu được trở nên “Kitô thứ hai”, nên bạn Đức Kitô.
Đức Giêsu là Đấng ân cần chăn nuôi, bồi dưỡng tinh thần tôi; vì Người đã đem đến cho tôi Tin mừng. Tin mừng đó là sống làm người cho ra người, bằng “mến Chúa yêu người”.
Đức Giêsu là Đấng hết mình, trọn lòng bảo vệ tôi, vì Người đã chia sẻ thân phận con người của tôi, hiểu tôi, muốn tôi “sống và sống dồi dào”.
Trong một thời đại mà đặc trưng là khó phân biệt đâu là thật, đâu là giả, bạn đã chọn Đức Kitô là Đấng chăn dắt thật của đời bạn chưa?
Hãy mở sách Thánh, bạn sẽ hiểu Đức Giêsu là Đấng chăn dắt tôi, Người cho tôi “sống và sống dồi dào hơn”.
Lạy Chúa Giêsu,
Ngài là Đấng chăn dắt cuộc đời chúng con.
Xin ban cho chúng con ánh sáng soi đường,
để chúng con luôn đi trên đuờng ngay nẻo thật.
Xin dẫn dắt cuộc đời chúng con
để chúng con không bị lạc lối trong đêm đen mù mịt;
Xin đưa chúng con tới quê hương của sự sống,
để chúng con được ở gần bên Chúa.
Suy Niệm
Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu thường ví mình với điều cụ thể: “Tôi là bánh, là Ánh Sáng, là Đường…”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài ví mình như Mục tử.
Người mục tử chân chính đi qua cửa mà vào chuồng chiên. Anh gọi chiên của anh bằng một tiếng gọi riêng, chiên nhận ra tiếng của anh và đi theo.
Còn mục tử giả hiệu thì trèo tường mà vào chuồng. Chiên không theo anh ta, nhưng sợ hãi chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.
Đức Giêsu gọi những mục tử giả hiệu là trộm cướp. Họ chỉ đến để giết hại và phá hủy đàn chiên.
Còn Ngài đến để chiên được sống, và sống dồi dào. Giữa chiên và Ngài có một mối dây thân thiết: “Tôi biết chiên tôi và chiên tôi biết tôi.” Chiên đã trở thành điều vô cùng quý giá đối với Ngài, đến nỗi Ngài dám hy sinh mạng sống mình cho chúng.
Giáo Hội muốn đặc biệt dành Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh, để cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ.
Đây là vấn đề sống còn của Giáo Hội.
Nhiều nơi trên thế giới đang thiếu linh mục trầm trọng, nhiều nhà thờ phải giao cho giáo dân coi sóc. Cũng có những dòng tu phải đóng cửa cơ sở của mình vì không có lớp người trẻ kế tục.
Giáo Hội hôm nay cũng như mai ngày vẫn cần đến sự hướng dẫn của các mục tử để đoàn chiên được sống trong đồng cỏ xanh tươi.
Giáo Hội vẫn cần đến các tu sĩ sống đời thánh hiến, để thế giới hiểu được thế nào là tình yêu, thấy được những thực tại vô hình, và vươn lên khỏi cái tự nhiên, bình thường, hợp lý.
Được làm Kitô hữu là một ơn gọi của Thiên Chúa. Mọi Kitô hữu đều có nhiệm vụ làm chứng cho Tin Mừng, nhưng một số người được mời gọi đặc biệt để dấn thân cách trọn vẹn hơn cho Nước Chúa và bắt chước Đức Giêsu tận căn hơn.
Chúng ta băn khoăn trước câu hỏi tại sao Giáo Hội hôm nay thiếu ơn gọi linh mục, tu sĩ.
Vì đời tu không hấp dẫn người trẻ? Vì bầu khí của thời đại: thực dụng, hưởng thụ, Mất cảm thức về đức tin, xa lạ với Thiên Chúa? Hay vì chúng ta chưa có can đảm để cổ võ ơn gọi?
Trong sứ điệp năm 1996 về ơn gọi, Đức Thánh Cha đã nhắc đến việc phải chăm lo cho mảnh đất nơi hạt giống ơn gọi được nảy mầm và lớn lên. Mảnh đất đó là cộng đoàn giáo phận và giáo xứ. Ngài đã phác họa những nét chính của cộng đoàn này như sau:
Một cộng đoàn biết lắng nghe Lời Chúa. Khi đã quen nghe tiếng Chúa trong Thánh Kinh, người trẻ sẽ dễ nghe được tiếng Chúa mời gọi vang lên từ sâu thẳm của con tim mình.
Một cộng đoàn biết chuyên tâm cầu nguyện, dành ưu tiên cho đời sống tâm linh, coi trọng việc cầu nguyện riêng tư, lặng lẽ trước nhan Chúa. Chỉ trong bầu khí trầm lặng của cầu nguyện, người trẻ mới dám đáp lại tiếng Chúa kêu mời, quên mình để phục vụ cho lợi ích của tha nhân.
Một cộng đoàn biết hăng say làm việc tông đồ, khao khát làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa. Từ đó những bạn trẻ quảng đại sẽ được thúc đẩy dâng trọn đời mình để làm cho Chúa Kitô được nhận biết.
Một cộng đoàn quan tâm phục vụ người nghèo, chọn đứng về phía những người khổ đau, túng thiếu. Cộng đoàn này sẽ sản sinh những bạn trẻ biết phục vụ vô vị lợi và hiến thân vô điều kiện.
Như thế ơn gọi chỉ nảy nở từ vùng đất màu mỡ. Nó là hoa trái của một Giáo Hội đầy sức sống.
Một Giáo Hội mạnh mẽ sẽ cho nhiều ơn gọi. Nhiều ơn gọi sẽ làm cho Giáo Hội mạnh hơn.
Giới trẻ hôm nay không thiếu lòng quảng đại, không thiếu lý tưởng và những ước mơ cao cả.
Họ cần có ai đó giúp họ gặp được Đức Giêsu, say mê con người Ngài, và chia sẻ nỗi bận tâm của Ngài về thế giới.
Họ cần có ai đó giúp họ nghe được tiếng kêu của bao người đói khát chân lý và công lý, giúp họ cảm nhận được bổn phận lớn lao là xây dựng trái đất thành mái ấm yêu thương.
Giới trẻ cần những người thầy, người bạn dám sống điều mình tin giữa muôn vàn khó khăn và giúp họ đứng vững trước cơn lốc của cám dỗ.
Giáo Hội thiếu ơn gọi là do lỗi của mỗi người chúng ta.
Cần phải cầu nguyện và cũng cần phải canh tân cuộc sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim thuộc trọn về Chúa, nên cũng thuộc trọn về con người.
Xin cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu bằng tình yêu dâng hiến, một trái tim đủ lớn để chứa được mọi người và từng người, nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện, có tình bạn thân thiết với Chúa để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện, có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho, tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.
Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục có trái tim của Chúa, say mê Thiên Chúa và say mê con người, hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên và dẫn đưa chúng con đến với Chúa là Nguồn Sống thật.
“Tôi là Cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên tôi được sống và sống dồi dào”. (Ga 10, 9-10)
* * *
Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên
Cửa đóng lại để bảo vệ chở che
Ban đêm hầu như tất cả mọi nhà đều đóng cửa lại. Nhà có cửa đóng then cài chắc chắn thì chủ nhà ngủ mới yên giấc và tài sản trong nhà mới được bảo vệ. Vì thế, khi xây nhà, việc đầu tiên là lắp đặt cửa ngõ thật vững chắc rồi khoá lại kỹ lưỡng để người nhà được yên giấc về đêm và của cải được an toàn.
Nhưng tìm đâu trên đời nầy một thứ cửa đủ vững chắc và kiên cố có thể bảo vệ tâm hồn con người được bình an và giúp cho linh hồn họ được an toàn trước những đợt tấn công ác liệt của ác thần? Cửa nào có thể bảo vệ tâm linh con người khỏi bị công phá bởi vô vàn hung thủ của thế gian?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tỏ cho thấy Ngài là thứ Cửa như thế. Ngài nói: “Tôi là Cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu”, tức là được bảo vệ. Ngài là cửa đóng lại để bảo vệ đoàn chiên trong chuồng được an toàn, không bị trộm cướp và ác thú giết hại.
Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại lại có nhiều cạm bẫy của ác thần, nhiều nọc độc của văn hoá sự chết, nhiều cám dỗ tệ hại lôi kéo nhân loại vào vòng sa đoạ như trong thế kỷ hôm nay.
Vô vàn sách báo xấu xa, phim ảnh đồi trụy, tư tưởng độc hại, lối sống thác loạn; được quảng bá khắp nơi trên thế giới, được tung lên mạng lưới điện toán toàn cầu làm sai lệch méo mó lương tâm con người, khiến họ xem tội ác là chuyện bình thường, xem việc phá thai, mẹ giết con là điều chính đáng, xem hôn nhân đồng tính là lẽ tự nhiên, xem việc huỷ hoại đời sống chung thuỷ của vợ chồng là điều đơn giản và cần thiết…
Trước những nguy cơ khủng khiếp như thế đang đe doạ nhân loại trên khắp thế giới, chỉ có một lá chắn vững chắc, một cánh cửa an toàn, một thành trì kiên vững là Chúa Giêsu Chúa. Giáo huấn của Ngài là tấm Cửa che chắn đoàn chiên được an toàn không kẻ thù nào xâm hại được, nếu chiên của Ngài biết đón nhận giáo huấn của Ngài.
* * *
Cửa mở ra để dẫn đưa vào đồng cỏ thiêng liêng
Không chỉ đóng lại để bảo vệ chở che, Cửa Giêsu còn mở ra để mở lối cho nhân loại tiến vào đồng cỏ thiêng liêng.
Các vị đại thánh trong Giáo Hội như Phanxicô Át-xi-di, Phanxicô Xaviê, Têrêxa Hài Đồng Giêsu của những thế kỷ trước hay những nhân vật tầm cỡ như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Mẹ Têrêxa Calcutta thời nay, nhờ được dẫn vào nuôi ăn trong cánh đồng cỏ thiêng liêng nầy nên đã được trở thành những vĩ nhân của nhân loại và những thánh nhân sáng ngời trong Hội Thánh.
Nhân loại hôm nay như đàn chiên đói khát, đói khát lương thực tinh thần cách khẩn thiết, nhưng tiếc thay, còn lắm người chưa chấp nhận bước qua Cánh Cửa Giêsu để được dẫn vào đồng cỏ tốt tươi.
* * *
Lạy Chúa Giêsu,
Nhờ Chúa là Cửa đóng lại che chắn nên chúng con được bảo vệ khỏi sự xâm nhập và tàn phá của ác thần;
Nhờ Chúa là Cửa mở ra đồng cỏ xanh, chúng con được nuôi dưỡng sung mãn trong vô vàn ân phúc của Chúa.
Xin cho nhân loại hôm nay biết nhìn nhận Chúa là Cửa, là Thành Trì chở che bảo vệ tâm linh nhân loại và xin cho mọi người nương vào Chúa như Cửa rộng mở vào đồng cỏ thiêng liêng cho muôn người được lớn lên thành người có đạo đức và phẩm chất cao đẹp.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Nền văn minh cơ giới khiến chúng ta quen thấy các bãi đậu xe hơn là các chuồng chiên. Để hiểu rõ bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cần gợi lại trong trí tưởng tượng một trong những quang cảnh đời sống thôn dã quen thuộc vào thời Đức Kitô. Những người chăn chiên chiều đến lùa đàn súc vật của mình vào một ràng để cho một người trong bọn trông coi, canh giữ cửa ra vào suốt đêm. Kẻ toan tính vào trong ràng để giết trộm buộc phải trèo qua rào. Chiên thuộc các bầy khác nhau biết tiếng người chăn mình. Sáng đến, người ấy tới trước cửa, người canh mở cửa cho ông ta. Nghe tiếng gọi mà chúng nhận ra không lầm lẫn. Chiên mỗi bầy tụ lại chung quanh người chăn của mình rồi ra đi đến đồng cỏ. Chúa Giêsu tự ví mình như người chăn chiên và đoàn lũ đông đảo của gia đình nhân loại Ngài ví như đoàn chiên. Ngài biết toàn thể loài người, cũng như từng người riêng biệt. Đối với nhân loại đã không có ai và sẽ không có ai được như Ngài. Ngài không những là người chăn chiên mà còn là cửa ràn chiên. Người ta chỉ hiểu biết thâm sâu cộng đoàn nhân loại bằng cách nhờ vào sự thông hiểu của Đức Kitô. Có nhiều đường lối khác, nhưng ít hay nhiều đó là những đường đột nhập. Những lời mời gọi con người mà không có cung giọng, tiếng nói của Đức Kitô dẫn đưa họ đến những mục đích không có được sự toàn vẹn, như ơn cứu độ Đấng Kitô Cứu Chúa duy nhất mang lại.
1) Các chiên của Ngài, Ngài gọi từng con một.
Điều này có nghĩa là Chúa biết mỗi người riêng biệt. Ngài biết được vì Ngài là Thiên Chúa. Đó chẳng phải là một sự kiện khiến lòng ta phấn khởi sao? Chúng ta sống trong một xã hội giảm trừ dần dần con người vào chỗ vô danh của một lá phiếu điện toán. Vì hiện nay giá trị độc nhất của nhân vị càng tiêu tán dần, nên người ta phản ứng lại bằng việc học hỏi cách khoa học vấn đề các tương giao liên vị. Làm như thế, người ta lại phá huỷ thêm tính chất liên lạc hợp nhất của nhân vị. Còn lại được gì? Đối với người Kitô hữu còn lại việc Thiên Chúa biết đến mình, biết đến chỗ thâm sâu độc nhất và không thể thông truyền của mình. Khi trong đám đông có lúc chúng ta cảm thấy hết sức trơ trọi cô độc, hãy nhớ đến một Đấng thông hiểu chúng ta tường tận riêng biệt. Hãy nhớ đến một giọng nói hoà hợp với khả năng đón nghe bên trong chúng ta.
2) Ta đến để chúng được sống
Sự sống Đức Kitô mang lại cho chúng ta là điều mà người ta gọi là ơn thánh hoá, một sự thông phần vào chính cuộc sống của Thiên Chúa. Tại thế này chúng ta đang sống những chặng khởi đầu, chờ đợi hồi triển nở đầy đủ khi chúng ta được hoàn toàn thông hiệp vào sự phục sinh của Chúa. Ngay tự bây giờ trí khôn, ước muốn, tâm hồn chúng ta đã được hưởng nhờ hồng ân Thiên Chúa. Khả năng hiểu biết sự thật, ước muốn điều thiện được tăng cường đến một mức vượt quá sức tự nhiên. Không bao giờ một mình trí khôn chúng ta biết được mầu nhiệm Ba Ngôi chí thánh. Không bao giờ tâm hồn chúng ta tự mình khám phá được niềm hy vọng lớn lao. Chính Đức Giêsu Kitô mang sự sống của con cái Thiên Chúa đến cho chúng ta. Đó chẳng phải là sự sống đầy tràn quý nhất hay sao?
(Suy niệm của Lm. Phaolô Nguyễn Văn Châu)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hình ảnh người mục tử và đoàn chiên. Hình ảnh này đối với người Việt nam chúng ta thì không quen thuộc lắm vì dân tộc chúng ta sống chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp cây lúa, gắn bó với con trâu con bò: “Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.”
Nhưng đối với những dân tộc du mục ở xứ Palestina thì rất quen thuộc và dễ hiểu. Dân Israel nuôi chiên rất nhiều vì nơi đây có nhiều đồng cỏ thích hợp cho việc chăn nuôi chiên, cừu. Chăn chiên là một nghề rất quen thuộc đối với họ. Người mục tử rất yêu thương đoàn chiên, sống gần gũi với chiên, không muốn để một con chiên nào bị bệnh hay hư mất.
Vì thế, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người mục tử với đoàn chiên để nói về Người với nhân loại, cách riêng đối với Hội Thánh là từng người Kitô hữu chúng ta. Giống như người mục tử trong bài Tin Mừng là biết đích danh từng con một, đi trước đoàn chiên và không để cho chiên nghe tiếng người lạ…Chúa Giêsu cũng khẳng định Ngài là mục tử biết từng người chúng ta luôn chăm sóc chúng ta và tâm sự với từng con chiên một là từng người chúng ta để giúp chúng ta không nghe theo tiếng của ma quỷ, của thế gian, của những thế lực không thuộc về Thiên Chúa. Người mục tử đi trước đoàn chiên, nói lên tâm tình của Chúa Giêsu là đi trước nhân loại, bảo vệ nhận loại, không để cho nhân loại bị rơi vào tay của ma quỷ, của sự chết bằng cái chết thập giá và phục sinh của Người. Người đã mang lại sự sống dồi dào cho đoàn chiên là những kẻ thuộc về Người.
Khi chiêm ngưỡng dung mạo của vị mục tử đích thật là Chúa Giêsu, chúng ta được Người mời gọi lãnh nhận vai trò mục tử và đoàn chiên trong đời sống đức tin và đức ái của mình. Vì vậy, chúng ta sẽ sống như thế nào trước lời mời gọi này?
Trong cuộc sống ngày hôm nay, chúng ta đang bị ảnh hưởng bởi những trào lưu tục hóa của con người. Đó là: Chúng ta thích sống hưởng thụ, ăn chơi sa đọa, tôn thờ tiền bạc, của cải vật chất, tìm kiếm chủ nghĩa cá nhân… Nhiều vị mục tử cũng đã bị cuốn vào vòng xoáy thích sống sa hoa tiện nghi, chỉ biết chạy theo những lợi lộc trần thế mà quên đi nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên và hy sinh vì đoàn chiên.
Chúng ta không chỉ cầu nguyện cho các vị mục tử nói chung mà con phải cầu nguyện cho các giám mục, linh mục trong giáo phận Quy Nhơn chúng ta nói riêng, luôn biết sống dấn thân trọn vẹn, biết hy sinh xả kỷ vì quyền lợi của đoàn chiên để đoàn chiên được tràn đầy ân sủng, bình an và tình yêu của Thiên Chúa. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói về mục tử như sau: “Giám Mục không phải là Giám Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân. Cũng vậy, Linh Mục không phải là Linh Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân: để phục vụ, nuôi dưỡng, chăm sóc dân là đoàn chiên của ngài…” Ngài đòi hỏi phận vụ của linh mục là “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình.” Hiện nay trong giáo xứ của chúng ta, vẫn còn nhiều người chưa về với Chúa, đã chối bỏ Chúa, cố tình loại Chúa ra khỏi cuộc đời mình, đôi khi cũng bị bách hại bởi thế gian…Người mục tử nhân lành là Cha xứ cần phải tìm đến với họ để an ủi, chữa lành và mời gọi họ quay trở về với Chúa.
Trong năm Tân Phúc Âm hóa gia đình, chúng ta cũng cầu nguyện cho chính chúng ta vì mỗi người chúng ta cũng là mục tử trong giáo xứ, trong giáo họ và trong gia đình của chúng ta với vai trò chức việc, làm chồng, làm vợ, làm cha mẹ và làm con cái: Người làm chồng biết yêu thương và chung thủy với vợ, không ngoại tình, không bạo lực. Người làm vợ cũng vậy, biết yêu thương, chung thủy và phục tùng chồng để vợ chồng được hạnh phúc. Bậc làm cha, làm mẹ biết sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái mà Chúa ban cho, biết nuôi nấng, dạy dỗ con khôn lớn, biết chăm sóc gìn giữ từng người con khỏi những nguy hiểm trong cuộc sống hiện tại. Người làm con biết hiếu thảo, vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ để làm đẹp lòng Chúa; Người chức việc biết xây dựng tinh thần yêu thương, hiệp nhất và phục vụ để xây dựng một giáo xứ lớn mạnh về mọi mặt.
Xin anh chị em cũng cầu nguyện cho cha xứ của anh chị em luôn là vị mục tử nhân lành như lòng Chúa mong ước.
Nguyện xin Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử tối cao, xin chúc lành và thánh hóa cho những ước nguyện và quyết tâm của chúng con. Amen.
Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi
Chiều hôm qua tôi đi dâng lễ an táng cho một nữ tu dòng Đaminh Rosalima vừa mới qua đời vào buổi sáng cùng ngày, là cô của một người giáo dân trong giáo xứ của tôi đang phục vụ. Nữ Tu thọ 86 tuổi, trong đó 55 năm sống trong nhà Chúa, nghĩa là hơn nửa đời người sống trong đời thánh hiến, một cuộc đời hoàn toàn sống cho Thiên Chúa là Đấng Tình Quân của mình. Nhìn vào bề dầy đời sống thánh hiến của Nữ Tu này, tôi nhớ đến câu nói mà tất cả những ai là saledieng hay nhắc nhở nhau: “khi nào về với Chuá trên mộ có ghi là tu sĩ saledieng” lúc ấy chúng ta mới biết chúng ta trung thành. Đời sống thánh hiến là một cuộc đời dấn thân, tận hiến cho Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, là luôn trung thành sống theo lời mời gọi của Tin Mừng, mỗi ngày mỗi nên giống Đức Kitô hơn và sống cho người khác cho đến hơi thở cuối cùng.
Đời tu nhìn bên ngoài rất đẹp nhưng cũng có những hy sinh, từ bỏ để sống triệt để lời mời gọi của đời sống thánh hiến. Vì thế, trên thực tế ở Châu Âu Giáo Hội đang báo động tình trạng khan hiếm ơn gọi, đời sống thánh hiến không còn hấp dẫn nơi người trẻ nữa, nhiều dòng tu đã đóng cửa, nhiều dòng tu chỉ còn những Cha, Thầy, nữ tu đã già. Nếu so sánh ở Việt Nam, chúng ta vẫn còn cảm thấy phải tạ ơn Chúa vì chúng ta vẫn còn nhiều ơn gọi tuy đang trong tình trạng giảm sút so với trước đây, nhưng vẫn còn có nhiều bạn trẻ quảng đại, dấn thân trong đời sống thánh hiến. Nói như thế, tự bản chất đời sống thánh hiến là đẹp, là hấp dẫn, là ước mơ của bao người, là hồng ân của Thiên Chúa, Chúa yêu thương, Chúa mời gọi và thánh hiến, chỉ có điều là mỗi người chúng ta phải nhận ra tiếng Chúa mời gọi và quảng đại đáp trả lại tiếng gọi này.
Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ, trong sứ điệp gởi toàn thể dân chúa nhân ngày ơn gọi năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như sau: “Ơn gọi là hoa trái chín mọng trong một cánh đồng được canh tác tốt bởi tình yêu thương lẫn nhau thể hiện nơi việc phục vụ lẫn nhau, trong bối cảnh của một cuộc sống cộng đoàn thực sự. Không có ơn gọi nào được sinh ra chỉ cho riêng mình hay sống cho chính mình. Ơn gọi triển nở từ con tim Thiên Chúa và đâm hoa kết trái trong mảnh đất tốt của dân trung tín với Chúa, và từ những cảm nghiệm của tình huynh đệ. Chẳng phải là Đức Giêsu đã từng nói: “Cứ dấu này mà người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13:35) hay sao?”
Đây chính là câu trả lời cho những thao thức về tình hình ơn gọi giảm sút hiện nay, trả lời cho những chất vấn tại sao các bạn trẻ không cảm thấy bị thu hút nơi những người sống đời thánh hiến nữa? có nhiều lần tôi đã nghe nhiều bạn trẻ nói, nhìn vào cách sống của ông Cha này, ông Thầy kia hay bà Sr nọ con chẳng muốn đi tu chút nào, vì họ sống không triệt để lối sống mà họ đã chọn, vẫn còn lo cho chính bản thân mình, không quảng đại phục vụ người khác, không phải là một mục tử nhân lành….. rồi cũng có nhiều câu hỏi tự chúng ta đặt ra: tại sao giáo xứ, cộng đoàn của tôi ở đây bao nhiêu năm rồi mà chẳng có một mống ơn gọi nào? lỗi do ai? chắc có lẽ mỗi người chúng ta cần phải chất vấn chính mình, tôi có làm chứng một cách hùng hồn về đời sống thánh hiến của tôi để qua đó người trẻ có thể bị hấp dẫn, lôi cuốn muốn dấn thân trong đời sống tu trì hay không? cộng đoàn của tôi có làm chứng về đời sống hiệp nhất, yêu thương, vui tươi trong đời sống thánh hiến và phục vụ người khác hay không? vì ngày nay giới trẻ muốn tận mắt chứng kiến chứng tá của người tu sĩ hơn là qua tu phục, qua những lời giảng dạy. Người trẻ ngày nay bị thuyết phục hơn khi thấy người linh mục, tu sĩ sống khiêm tốn, hy sinh, khó nghèo, quên mình phục vụ người khác. Mẹ Têrêsa thành Calcuta là một mẫu gương sống động nhất về một chứng tá của người tu sĩ quên mình phục vụ những người đau khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi làm cho nhiều người trẻ bị hấp dẫn, lôi cuốn và thế giới phải thán phục.
“Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành, Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). Đức Kitô chính là Mục Tử nhân lành đã hy sinh tính mạng vì đàn chiên, Ngài yêu thương hết tất cả chúng ta và Ngài muốn hết thảy chúng ta đều là những con chiên dễ thương của Ngài, sống trong một ràn chiên của Ngài. Là những linh mục, tu sĩ chúng ta hãy cố gắng sống xứng đáng là những mục tử nhân lành, biết yêu thương, hy sinh, phục vụ, quan tâm đến giới trẻ, thanh thiếu niên để nhờ đó thanh thiếu niên, người trẻ sẽ cảm thấy được yêu thương, quan tâm, được đánh động bởi chứng tá đời sống thánh hiến của chúng ta, qua đó họ sẽ quảng đại dấn thân trong đời sống tu trì. Để có nhiều ơn gọi, mỗi người chúng ta phải quan tâm vun trồng, gieo hạt, Thiên Chúa sẽ cho lớn lên, vì Ngài chính là Chủ mùa gặt, chúng ta là cánh tay nối dài, khơi dậy nơi thanh thiếu niên và giới trẻ lòng quảng đại dấn thân. Amen.
Chúa Giêsu nói: ‘Ta là cửa chuồng chiên” (Ga 10,9); “Ta là mục tử tốt lành” (Ga 10,11.14).
Sách Giáo Lý Công Giáo số 754 giải thích hình ảnh này như sau: “Giáo Hội là chuồng chiên với Chúa Kitô, là cửa vào độc nhất và cần thiết. Giáo Hội cũng là đàn chiên mà chính Thiên Chúa đã công bố rằng Ngài sẽ là mục tử, và những con chiên, dầu có những mục tử loài người dẫn dắt, nhưng chúng luôn luôn có chính Chúa Kitô hướng dẫn va nuôi dưỡng, vì Ngài là chủ chăn tốt lành và là Ông Hoàng của các chủ chăn. Ngài đã thí mạng sống mình vì các chiên của Ngài”.
Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành với những nét đặc trưng sau đây:
– Vị Mục Tử Tốt Lành hết lòng yêu thương những người thuộc về mình. Vì yêu thương nên Người quan tâm đến mọi người và đến từng người. Càng quan tâm thì càng biết tường tận: biết họ muốn gì, họ cần gì, họ có thể gặp phải những nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào.
– Vị Mục Tử Tốt Lành luôn đi đầu, đi trước, hướng dẫn, lãnh đạo đoàn chiên, đứng mũi chịu sào, gánh chịu mọi khổ cực cho người thuộc về mình. Mục Tử Tốt Lành đem chiên đến những miền an toàn, có suối mát có cỏ xanh, cho chiên được ăn uống no nê, được nghỉ ngơi thoải mái. Chiên sẽ tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Mục Tử Tốt Lành dám hy sinh mạng sống vì chiên.
– Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến để yêu thương, chăm sóc, quy tụ mọi con chiên. Ngài biết tên từng con chiên như Cha Ngài biết Ngài ( Ga 10,14-15). Ngài gọi tên từng con chiên và dẫn đi (Ga 10,3). Mục Tử sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên: “Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” ( Ga 15, 13). Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là vị Mục Tử Tốt Lành, vị chủ chăn không bao giờ hèn nhát thấy sói tấn công chiên mà bỏ trốn, nhưng Ngài luôn cứu vớt, tập họp, chăn dắt ( Ga 10,9.16 ).
Chúa Giêsu là Mục Tử Tốt Lành đã luôn luôn hiện diện, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống để cứu chuộc chúng ta. Chúa Giêsu đã chọn các tông đồ các môn đệ tiếp nối sứ mạng mục tử của Ngài. Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và ơn gọi tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước.
Các mục tử của Giáo Hội đều được mời gọi sống theo mẫu gương Mục Tử Giêsu Tốt Lành là “Ông Hoàng của các chủ chăn” (GLCG #754).
ĐGM Bùi Tuần đưa ra những đặc tính của người mục tử tốt lành.
Lương thực thứ nhất là Lời Chúa. Chúa Giêsu phán: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bằng mọi lời do miệng Chúa phán ra” (Mt 4,4). Lời Chúa là hạt giống mang sự sống thiêng liêng (Lc 8,11).
Lương thực thứ hai là Phép Thánh Thể. Chúa Giêsu phán: “Ta là bánh trường sinh… là bánh bởi trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 5,48-51).
Lương thực thứ ba là thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu phán: “Lương thực của ta là thi hành thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Ta” (Ga 4,34).
Mục tử không tự mình làm ra những lương thực thiêng liêng này, và không được phân phát ra một cách máy móc, nhưng phải cộng tác chặt chẽ với Chúa Giêsu, kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, là mục tử tốt lành đứng đầu các mục tử.
Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Chúa Giêsu do đã gặp gỡ Ngài và sống với Ngài thực sự.
Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhânh lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11).
Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Để biết phân định sự thực và sự không thực về thánh ý Chúa Cha, người mục tử tốt lành rất cần ơn Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu phán: “Khi nào Thần Khí chân lý đến, Người sẽ dẫn anh em đến sự thật vẹn toàn” (Ga 16,13).Thần Khí chân lý là Chúa Thánh Linh. Khi Ngài đến, Ngài sẽ giúp cho mục tử làm mục vụ một cách rất mới, có hồn, đầy uy tín. Bởi vì Thánh Thần sẽ cho mục tử nếm được phần nào mùi vị ngọt ngào của sự sống Thiên Chúa trong Lời Chúa. Ngài sẽ cho mục tử nhìn thấy phần nào dung mạo đẹp đẽ của Thiên Chúa trong Phép Thánh Thể. Ngài sẽ cho mục tử cảm được phần nào lửa nồng nàn của tình xót thương Chúa ẩn tàng trong thánh ý Chúa. Những lúc đó, người mục tử sẽ phục vụ đoàn chiên với tất cả tâm hồn hòa tan trong quyền lực Thánh Linh, như thánh Phaolô xưa: “Khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run tẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn. Nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thánh Linh và quyền năng Thiên Chúa”. (1Cor 2,3-5).
Thời nay người mục tử rất cần ơn Thánh Thần. Như ơn sáng suốt khôn ngoan trong phân định việc nên làm với cách nên làm, và việc không nên làm với cách không nên làm, ơn tiên liệu, ơn đối thoại, ơn đào tạo, ơn biết an ủi nâng đỡ đoàn chiên.
Tôi cho là rất quan trọng, đó là ơn biết quên mình, biết cởi gỡ mình khỏi mọi nô lệ tội lỗi, biết sống tự do thực sự nội tâm, để đón nhận Nước Trời, ơn biết xây dựng sự hiệp nhất yêu thương trong sự trọng kính những khác biệt. Đặc biệt, tôi khát khao ơn cầu nguyện, ơn biết xót thương đoàn chiên và đồng bào mình, và biết giới thiệu Tin Mừng qua những diễn tả mới mẻ, dễ hiểu và có sức thuyết phục. Làm sao để khi gặp linh mục và thấy linh mục làm mục vụ và việc xã hội, ngay cả khi thấy ngài thinh lặng cầu nguyện, hoặc thinh lặng hiện diện với tuổi tác và bệnh tật, mọi người thiện chí đều có cảm tưởng là một Đấng thiêng liêng đang hiện diện một cách tích cực trong cuộc sống ngài, và qua ngài mà Đấng ấy đang đến với lịch sử hôm nay.Với Đấng thiêng liêng ấy, linh mục hiện diện và đến như một tình thương, một hy vọng, một sức mạnh đổi mới trong dáng vẻ tu thân hiền từ và khiêm tốn.
Nghĩ tới đây, tôi cảm thấy vui, khi thoáng nhìn các mục tử trong Hội Thánh. Bản thân các ngài có rất nhiều giới hạn, kể cả tội lỗi. Nhưng các ngài đáng được chúng ta kính trọng yêu thương, nhất là rất đáng mọi người chúng ta chân thành giúp đỡ bằng lời cầu nguyện. Nhận thức đó do đức tin, vượt qua những sự bề ngoài, sẽ đưa chúng ta đến vô vàn lợi ích, Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót sẽ ban thưởng cho chúng ta. (x. Thao Thức 3, trang 147-153, ĐGM Bùi Tuần).
Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 của HĐGMVN mời gọi các mục tử: “…Thánh Thể là trung tâm, nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống và sứ vụ của Giáo Hội. Do đó, các mục tử phải chú tâm đến việc cử hành Thánh Thể thật sốt sắng và xứng đáng, nhất là ngày Chúa Nhật, và hướng dẫn cộng đoàn tham dự Thánh Lễ cách ý thức, tích cực và sống động hơn. Các ngài cũng cần thúc đẩy và canh tân việc sùng kính Thánh Thể, vốn đã từng nổi bật trong truyền thống Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam.
Ý thức về thân phận tội lỗi của mình, các tín hữu cần khiêm nhường thống hối và đón nhận ơn tha thứ qua bí tích Giao Hòa, để xứng đáng là chi thể trong Nhiệm Thể Đức Kitô. Bí tích Giao Hòa vừa là bí tích của hiện tại qua việc tha tội vừa là bí tích của tương lai nhằm xây dựngtình hiệp thông giữa gia đình con cái Thiên Chúa.
Ước mong các mục tử luôn quảng đại và sẵn sàng hơn nữa trong việc giúp các hối nhân lãnh nhận bí tích Giao Hòa. (Số 12).
Lạy Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành.
Xin cho đoàn chiên của Chúa có thêm nhiều mục tử giống như Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’ – Radio Veritas Asia)
Anh chị em thân mến,
“Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa chọn để loan báo Tin Mừng và thông truyền Ơn Cứu Độ”, đó là tựa đề của Sứ Điệp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gởi đến cộng đoàn chúng ta trong ngày Lễ Chúa Nhật Chúa Chiên Lành cũng là Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ. Vậy hôm nay, tôi xin chia sẻ với anh em nội dung sứ điệp này của Đức Giáo Hoàng.
“Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa chọn để loan báo Tin Mừng và thông truyền Ơn Cứu Độ”. Vậy là chúng ta đều có một ơn gọi chung. Dù sống đời sống vợ chồng hay chịu chức thánh, linh mục hay tu sĩ, tất cả đều được Thiên Chúa chọn để công bố Tin Mừng và chuyển thông ơn Cứu Độ. Đây không phải là một trách vụ đơn độc, riêng lẻ mà là trách vụ chung của Giáo Hội (x. LBTM. 60). Đó là ơn gọi chung của Giáo Hội. Cùng với ơn gọi chung ấy, còn có ơn gọi đặc biệt với những trách nhiệm riêng biệt trong Giáo Hội. Đó là những ơn gọi tiến đến tác vụ linh mục, ơn gọi đời sống thánh hiến của các tu sĩ nam nữ hoạt động thừa sai và đời sống chiêm niệm.
Trong sứ điệp này, Đức Thánh Cha đặt trọng tâm của ơn gọi linh mục, tu sĩ, vào đời sống của cộng đoàn Kitô hữu. Vì “cũng như hạt giống trổ sinh dồi dào hoa trái nơi mảnh đất tốt thế nào thì ơn gọi cũng tăng triển và trưởng thành trong cộng đoàn Kitô hữu như vậy”. Chúng ta phải khởi đi từ các cộng đoàn để chuẩn bị cho một mảnh đất phì nhiêu, cho hạt giống ơn gọi nẩy mầm, trổ sinh hoa trái. Vì chỉ có các cộng đoàn Kitô hữu sống động mới có thể làm nẩy sinh các ơn gọi, vun trồng, chăm sóc các ơn gọi và làm cho các ơn gọi phát triển, như một người mẹ hằng lưu tâm đến hạnh phúc, đến sự tăng trưởng của các con cái mình. Vì thế, tác nhân chủ động và tiên phong trong việc cổ võ ơn gọi chính là cộng đoàn Giáo Hội: từ Giáo Hội toàn cầu cho tới Giáo Hội địa phương, cũng như từ Giáo Hội địa phương cho tới từng giáo xứ và từng thành phần Dân Chúa (x. Tông huấn Các Mục Tử, số 41).
Ngày nay, trước những thách đố của thế giới hiện đại, cần phải có nhiều lòng dũng cảm sống Tin Mừng hơn nữa, để dám dấn thân cổ võ ơn gọi; như Đức Kitô đã kêu mời hãy cầu xin không ngừng để có những thợ làm vườn nho, cho Nước Chúa được lan rộng khắp nơi (x. Mt 9,37-38). Hơn lúc nào hết, ngày nay cần phải làm cho mọi thành phần Dân Chúa nhận biết và xác tín rằng: tất cả mọi thành phần trong Giáo Hội, không trừ một ai, đều có ân sủng và trách nhiệm chăm sóc các ơn gọi (x. Tông huấn Các Mục Tử, số 41). Đức Thánh Cha kêu gọi các cộng đoàn giáo phận và giáo xứ phải dấn thân chăm sóc cho ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến, đặc biệt bằng việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện và phục vụ người nghèo.
Trước hết, cộng đoàn phải biết lắng nghe Lời Chúa để nhận ra ánh sáng hướng dẫn tâm hồn con người. Khi Kinh Thánh trở thành sách của cộng đoàn, chúng ta sẽ dễ dàng nghe và hiểu được tiếng nói của Chúa. Đấng kêu gọi chúng ta. Hơn nữa, cộng đoàn phải biết khẩn khoản cầu nguyện để có thể thực hiện được ý định của Thiên Chúa. việc cầu nguyện mang lại sức mạnh giúp ta đón nhận cách tích cực lời mời gọi của Chúa, để dấn thân phục vụ đời sống tinh thần và vật chất của anh em. Cộng đoàn cũng phải nhạy cảm trước sứ mạng truyền giáo để đem ơn Cứu Độ đến cho những người chưa nhận biết Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Nếu cộng đoàn hết lòng sống mệnh lệnh của Đức Kitô: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19) chắc chắn cộng đoàn đó sẽ không thiếu những người trẻ quảng đại muốn dâng hiến đời mình để đảm nhận trách vụ loan báo Tin Mừng cho con người thời đại. Cuối cùng, cộng đoàn phải biết mở ra cho việc phục vụ người nghèo. Một mẫu sống khiêm tốn và từ bỏ, thẳng thắn chọn lựa đứng về phía những người nghèo, dấn thân trợ giúp những anh chị em túng thiếu và đau khổ. Những điều đó góp phần tạo nên một môi trường thuận lợi cho ơn gọi nảy sinh, vì phục vụ Tình Yêu là ý nghĩa nền tảng của mọi ơn gọi.
Thưa anh chị em, trong phần cuối sứ điệp, một lần nữa, Đức Thánh Cha lại kêu gọi các giám mục, các linh mục Dòng cũng như Triều, các giáo lý viên và các bạn trẻ phải ý thức trách nhiệm chăm sóc mục vụ ơn gọi trong cộng đoàn Giáo Hội: Khi làm cho cộng đoàn Giáo Hội sinh động, các linh mục có thể khơi dậy các ơn gọi, cổ võ các thiếu niên nam cũng như nữ được Thiên Chúa kêu gọi, hướng dẫn các em qua những hướng dẫn tinh thần và cuộc sống vui tươi phục vụ anh em.
Các giáo lý viên là những người tiếp xúc trực tiếp với các thanh thiếu niên, nhất là suốt thời gian chuẩn bị lãnh nhận các Bí tích khai tâm Kitô giáo, các giáo lý viên cũng có trách nhiệm góp phần giúp các em sống trọn vẹn lời mời gọi của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha: “Cha muốn nói với các con, các con thân mến, cha trìu mến lập lại những lời này với các con: Hãy quảng đại hiến cuộc đời mình cho Đức Kitô. Đừng sợ hãi! Các con không có gì phải sợ, vì Thiên Chúa là Chúa của lịch sử và của vũ trụ. Hãy để những khát vọng về những kế hoạch vĩ đại và cao thượng lớn lên trong các con. Hãy nuôi dưỡng cảm thức về tình liên đới: đó là dấu chỉ Thiên Chúa hành động nơi tâm hồn của các con. Hãy sẵn sàng sử dụng các tài năng mà Đấng Quan Phòng đã trao ban cho các con, vì cộng đoàn của các con. Các con càng sẵn sàng dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa và tha nhân, các con sẽ càng khám phá ra ý nghĩa đích thực của đời sống. Thiên Chúa mong đợi nhiều nơi các con!”.
Thưa anh chị em, tôi xin kết thúc nội dung tóm lược sứ điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi bằng một lời nguyện của Đức Thánh Cha: “Lạy Chúa, xin gởi cho chúng con những người hướng dẫn tinh thần mà cộng đoàn chúng con đang cần: những linh mục thực sự của một Thiên Chúa sống động, những người được ánh sáng Lời Ngài soi chiếu, để có thể nói về Ngài và dạy người khác nói với Ngài. Xin hãy làm cho Giáo Hội của Ngài lớn mạnh nhờ sự phát triển của những con người thánh hiến, những người dâng hiến tất cả cho Ngài để Ngài cứu độ tất cả mọi người”. Amen.
Chủ chăn đi trước và đoàn chiên theo sau.
Một trong những việc người chủ chăn thường phải làm, đó là đi trước để tìm đường nẻo bảo đảm và an toàn cho đoàn chiên yên hàn theo sau.
Người chủ chăn cần nhìn xa trông rộng xem có thú dữ, trộm cắp gần kề hay không? Và nhất là phải để ý đến con đường ở trước mặt, vì có những con đường sẽ dẫn tới vực thẳm nguy hiểm hay rừng rậm vướng chân, có những con đường sẽ dẫn tới ngõ cụt không lối ra. Người chủ chăn cần phải nghiên cứu kỹ xem con đường mình sẽ đưa đoàn chiên đi qua đó có khúc quanh nào nguy hiểm, có hốc đá nào cheo leo, có cỏ dại nào cần nhổ.
Người chăn chiên ở Do Thái không dễ dàng như người chăn trâu chăn bò ở Việt Nam, vì đất nước họ có quá nhiều sỏi đá và cát nóng. Nhất là vào mùa hè, người chủ chăn phải dành hết thời giờ ban ngày để phấn đấu kiếm của ăn cho đoàn chiên.
Từ đó chúng ta đi vào đời sống riêng tư. Có bao giờ chúng ta cảm nghiệm được sự dẫn dắt của Chúa, có bao giờ chúng ta nhận ra Chúa hằng đi trước mặt chúng ta hay không? Biết bao nhiêu biến cố đã xảy đến trong cuộc đời và bàn tay Chúa đã dẫn dắt chúng ta vượt qua một cách bình an mà ngày hôm nay chúng ta vẫn chưa hay biết.
Đã bao nhiêu lần chúng ta thất bại trắng tay mà rồi tới ngày hôm nay vẫn chưa phải chết đói. Biết bao nhiêu lần chúng ta gặp phải những cảnh lo âu, nhưng rồi lại được tai qua nạn khỏi. Chúng ta có biết rằng đó là bàn tay nhân từ của Chúa đã chăm sóc chúng ta hay không?
Xét mình lại, chúng ta thấy mình không xứng đáng để được hưởng những ơn huệ to lớn đó mà Chúa đã ban, và chỉ ban riêng cho chúng ta mà thôi.
Chúng ta hãy nghĩ đến trường hợp của vua Đavid. Từ khi còn là một cậu bé chăn chiên đến khi lên làm vua, đã phải đương đầu với biết bao nhiêu khó khăn. Một mình tay không đánh nhau với sư tử, chiến đấu với Goliat, có lúc ông ở kề bên tử lộ nhưng Chúa kéo ông ra khỏi. Sau này nhớ lại ông mới thấy Chúa đã chăm sóc cho ông quá nhiều và ông đã viết lên thánh vịnh 23:
– Ngài dẫn dắt tôi qua những nẻo đường ngay chính.
Phải, Ngài muốn chúng ta làm những điều tốt lành. Nếu tuân theo, chúng ta sẽ không bao giờ bị lầm lạc và hối tiếc. Thế nhưng đôi khi vì thiển cận, vì những hào nhoáng bên ngoài, chúng ta không thấy được đường nẻo của Chúa, chúng ta chống đối Ngài và làm Ngài buồn lòng.
Có những khi càng xa Chúa, Chúa càng để chúng ta bị thất bại cay đắng. Trong trường hợp ấy, người con Chúa phải biết nhận ra mình đã dại dột đi theo ý riêng và phải sớm lo trở về cùng Chúa qua tâm tình ăn năn thống hối. Còn nếu chúng ta sống công chính mà lại gặp phải buồn khổ, thì hãy bình tĩnh vì Thiên Chúa đang tinh luyện chúng ta, đang cần sự đóng góp nhỏ bé của chúng ta.
Hẳn rằng giờ đây trong chúng ta có những người đang bị ngọn sóng khổ đau vùi dập. Trước mắt là màu đen của tang chế, màu tím của bệnh tật. Không biết ngày mai sẽ ra sao? Nào cơm ăn áo mặc, nào tương lai sự nghiệp, nào con cái.
Xin hãy đặt trót niềm tin tưởng vào Chúa, Người chủ chăn tốt lành, Ngài sẽ lo liệu tất cả nếu chúng ta nương cậy nơi Ngài như một con chiên bé nhỏ. Chúa biết chúng ta không đủ sức đạp đổ những khó khăn, như vậy Chúa bảo chúng ta hãy đứng vào bày chiên của Ngài, để thấy được Ngài thực sự là chủ chăn đã hiến mạng sống vì con chiên để nhờ đó con chiên được sống và sống dồi dào hơn.
Các Giám mục Brazil trong khóa họp thường niên tháng 11 năm 1995 lên tiếng báo động vì sự ra đi đáng kể của tín hữu. Số tín hữu quy thuận các giáo phái Tin Lành gia tăng đáng ngại. Hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ thì hờ hững với bổn phận. Tín hữu ham vật chất hưởng thụ đã ngã vào vòng tay tân tư bản, tân cường hào bá và tân địa chủ. Các giáo phái Tin Lành vung tiền lập xưởng, trả lương hậu hĩ và chỉ thu nhận những ai thuộc giáo phái của họ. Họ kỳ thị và lạnh lùng trả lời “không có việc” khi thấy cái mác “Công Giáo” trong đơn xin việc. Họ công khai hóa hứa hẹn cho việc làm nếu tự nguyện “gia nhập giáo phái chúng tôi”.
Chiên bị bỏ rơi nên đi hoang, bị thú dữ ăn thịt và kẻ cướp dẫn đi là chuyện đương nhiên phải xảy ra. Có trách là trách các chủ chăn đã không màng đến sự an nguy của chiên. Chuồng thì rách nát và tan hoang; cửa thì hư hỏng và bỏ ngỏ; thức ăn thì thiếu thốn và không hợp vệ sinh; sói chưa đến chủ chiên đã bỏ chạy. Với những điều kiện tồi tệ như thế, số phận của chiên thật thê thảm!.. Ý thức được vấn đề mất chiên mới là bước đầu. Bước quan trọng kế tiếp là duyệt xét và sửa sai vấn đề mục vụ, đời sống thiêng liêng, chương trình huấn luyện và vào đời theo mô hình Đức Kitô là Chúa chiên.
Chuyện kể rằng “trong giấc mơ diễm phúc, Loan được song hành với Chúa bên bờ biển. Chân dẫm trên cát mịn và êm ái; mặt được làn gió nhè nhẹ ban mai vuốt ve, phổi uống từng ngụm khí trong lành. Đi được một quãng, Loan nhìn lại sau lưng, thấy những dấu chân của Chúa và Loan xếp thành từng đôi rất đều đặn, nên hớn hở thưa “Chúa coi kìa, dấu chân của Chúa và của con sao mà khắn khít và đều quá”. Chúa nhìn Loan mỉm cười. Cơn giông bỗng xuất hiện và thổi mạnh, sóng biển gào thét và đưa những đợt nước toé tung lên bờ. Loan rùng mình khiếp sợ, nhưng Chúa vẫn bình tĩnh như không có chuyện gì. Nhìn lại phía sau, lạ quá! Loan không thấy hai dấu chân song hành nữa mà chỉ còn một nên thưa “Sao chỉ còn có một dấu chân thôi Chúa?” Chúa thân thương trả lời “Trước con vui vẻ và hạnh phúc. Ta để con bước theo Ta. Bây giờ con hoảng hốt và mất bình tĩnh nên Ta đã vác con trên vai. Dấu chân con thấy bây giờ là của Ta đó con ạ!”
Giấc mơ thần tiên này diễn tả tình phụ tử của Chúa qua hình ảnh Chúa Chiên Nhân Lành. Chúa chăm sóc, yêu thương và bảo vệ. Chúa thấy rõ tình trạng non yếu và bệnh hoạn, vững mạnh và trưởng thành của từng chiên. Chúa dẫn chiên đến bờ suối trong lành và vào đồng cỏ xanh tươi. Chúa xua đuổi sói dữ và hy sinh cứu chiên. Nếu không có cuộc khổ nạn, sự chết và phục sinh thì hình ảnh Chúa chiên nhân lành vẫn là một giả tưởng. Nhưng với thánh giá, máu đổ, mộ trống và thân xác hiển vinh, Chúa chứng minh tình lý tưởng và tuyệt vời của kẻ dám “thí mạng vì người yêu”. Đây là dạng thức tuyệt đỉnh của tình yêu cao thượng mà hàng giáo phẩm, tu sĩ, và giáo dân phải ước mơ và thực hiện.
Chúng ta thường trách khi Chúa thinh lặng quá lâu trước cơn khổ và làm ngơ trước những bất công. Chúng ta quên rằng ơn Chúa vẫn đủ để chúng ta vác thánh giá, chịu đau khổ và theo Chúa. Chúng ta lại trách oan Chúa khi đang được yên lành ngồi trên vai Chúa dù chưa hoàn hồn, vẫn còn đau và đang khóc. Chúng ta cướp công Chúa khi được thành công và gặp an ủi. Chúng ta quá dại khờ vì lời thánh không nghe, đường thánh không theo, lại tự chọn ngõ cụt, nẻo chết và nơi khổ đi vào. Rồi nhăn nhó chạy tội và đổ lỗi giống như đám trẻ thơ. Chúng bực bội vì không được leo cây, xài dao và lái xe, nên tố cha mẹ lỗi thời. Khi lỡ trẹo giò, gẫy chân, đứt tay và đụng xe thì “tại cha mẹ không cản, không dậy và không khuyên”. Chúng quên đi mặt phụng phịu, cái tâm bất mãn, và đôi mắt trách móc khi cha mẹ dậy dỗ và cấm cản.
Người trần nhận phép trời và người trần sống kiếp thần thánh là lý tưởng cao vời của tín hữu. Tất cả đang song hành với Chúa Kitô. Người khoẻ đang vực người yếu. Người lãnh đạo đang xả thân vì tập thể. Cha mẹ đang hy sinh cho đàn con. Đàn con đang ngoan hiền vâng lời cha mẹ. Tất cả cùng tiến vào trời là suối mát, là đồng cỏ xanh tươi, là nơi an nghỉ. Dù hiện giờ chúng ta phải đồng khổ với Chúa (bài đọc 2). Chúng ta hãy nghe lời chủ chiên để “được sống viên mãn” (Ga 10,10) sống kiên vững, can trường khôn ngoan và không lạc lối.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
“Đức Chúa phán thế này: Này Ta chống lại các mục tử, Ta sẽ đòi lại chiên Ta nơi tay chúng ” (Ez 34, 10). Các mục tử đã làm gì để Thiên Chúa nổi giận và đòi lại chiên đây? Qua miệng ngôn sứ Ezêkiel, Thiên Chúa còn nói mạnh hơn nữa: “Ta sẽ không để chúng chăn chiên Ta nữa. Các mục tử sẽ không còn được chăn nuôi lấy mình chúng nữa. Ta sẽ giựt lấy chiên khỏi mõm chúng, khiến chiên Ta không còn là mồi ngon cho chúng ăn thịt nữa ” (Ez 34, 10). À thì ra, các mục tử chỉ để ý đến lợi ích của mình, không dám xả thân vì để cứu chiên, nay Chúa đòi lại chiên và Ngài tuyên bố: “Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom đến chúng ” (Ez 34, 10). Thiên Chúa chăm nom chiên như thế nào? Ngài phán: ” Như người mục tử chăm nom đàn chiên của mình vào ngày nó ở giữa chiên phiêu bạt thế nào, cũng vậy Ta sẽ chăm nom chiên của Ta. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi nơi chúng tán loại, vào ngày mây mù đen tối. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân. Ta sẽ thâu họp chúng lại từ các xứ. Ta sẽ dẫn chúng về lại thửa đất của chúng. Và Ta sẽ chăn nuôi chúng trên núi Israel ” (Ez 34, 13-14).
Những “ngọn núi Israel ” theo các tác giả Thánh Kinh là nơi an nhàn, có suối nước trong lành, không có gì độc hại và nguy hiểm, nơi ấy có đồng cỏ non xanh tốt, màu mỡ (x. Ez 34, 13-15). Nếu ta muốn an toàn thoải mái, hãy đến đó tận hưởng. “Đức Chúa phán: Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm. Chiên tản mác, Ta sẽ lùa về. Chiên xây xát, Ta sẽ băng bó. Chiên bệnh hoạn, Ta sẽ bổ sức ” (Ez 34, 16). Những ngọn núi chúng ta vừa nói ở trên còn ám chỉ dòng suối chảy Tin Mừng được rao giảng từ các Tông Đồ cho đến tận cùng thế giới: ” Tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển ” (Ps 18, 5).
Thật là hình ảnh cụ thể tuyệt đẹp và đầy cảm động về một Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là những tạo vật, những con chiên của Ngài. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, được Chúa Cha phái đến, cũng tuyên bố: ” Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10, 14 ).
Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi: tôi có phải là chiên của Chúa không, nếu phải thì tôi có biết Chúa không, biết thì biết thế nào? “Biết” ở đây, không có nghĩa là “biết” nhờ đức tin, nhưng là “biết” nhờ đức mến. “Biết” không có nghĩa là “biết” được diễn tả qua thái độ tin, nhưng là “biết” được diễn tả qua việc làm. Chính thánh Gioan Tông Đồ đã viết điều này và làm chứng ở nơi khác: “Ai nói mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1 Ga 2, 4).
Chúa Giêsu còn nói về các con chiên: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi, Tôi cho chúng được sống đời đời và chúng sẽ không bao giờ hư mất” (Ga 10, 27).
Vậy, ai chân thành đi theo Chúa Giêsu thì được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Đồng cỏ của đoàn chiên đây là gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn niềm vui, nơi có Thiên Chúa luôn hiện diện, nơi đây chiên theo Chúa và làm theo ý Chúa sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với bao công dân Nước Trời.
Trên đây là những lý do với nhiều lý do khác mà Giáo hội gọi Chúa nhật thứ IV Phục Sinh là Chúa nhật Chúa Chiên Lành, đồng thời mời gọi con cái mình suy nghĩ đặc biệt về hình ảnh của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Vị Mục Tử Tối Cao đã hy sinh Mạng Sống Mình vì đoàn chiên. Chúa Giêsu muốn không chỉ có các mục tử tiếp bước, Người muốn những người nam nữ dâng mình cho Chúa trong đời thánh hiến, đến lượt mình, cũng xả thân mình để bảo vệ đàn chiên, đưa các con chiên lạc trở vể. Người mong ước các mục tử với ơn Người trợ giúp sẽ hoàn thành trách nhiệm dẫn dắt đoàn chiên đến đồng cỏ Nước Trời.
Chúa nhật Chúa Chiên Lành cũng là một Chúa nhật đặc biệt đối với các mục tử khi đặt mình vào vị trí của Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành duy nhất. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các mục tử thân yêu: nâng đỡ, cám ơn và khuyến khích các ngài! Chúng ta cũng cầu nguyện cho Giáo hội Việt Nam có thêm nhiều linh mục lành thánh. Ý chỉ này cũng thật khẩn thiết cho Giáo hội hoàn vũ.
“Ơn gọi, chứng tá cho sự thật” là chủ đề ngày thế giới cầu cho ơn kêu gọi năm nay. Đức Thánh Cha Phanxicô yêu cầu người Công Giáo hãy “mở lòng chúng ta ra cho những lý tưởng tuyệt vời, cho những điều cao cả với niềm tín thác rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi công nghiệp tay Ngài là chúng ta. “Chính Ngài là Đấng dựng nên ta, ta thuộc về Người; ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt ” (Tv 100, 3). Và cùng với Ngài, chúng ta có thể tiến bước, trở thành những môn đệ và những chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa, trong khi mở rộng con tim của chúng ta với những lý tưởng tuyệt vời, và những điều cao cả.
Đức Nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết rằng: “Ngày nay vẫn vậy, sống trong cộng đồng các môn đệ là Giáo Hội, Chúa Giêsu Kitô kêu gọi đi theo Người”. Ngài cũng đặc biệt mời giới trẻ “hãy trau dồi nét hấp dẫn các giá trị, các mục tiêu nâng cao, các chọn lựa triệt để, để có thể phục vụ tha nhân theo chân Chúa Giêsu”. Chúa Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại “Hãy đến! Hãy theo ta”. Theo Chúa Giêsu “có nghĩa là nhấn chìm ý muốn của chính mình vào thánh ý Chúa Giêsu, dành ưu tiên cho thánh ý Người và đặt Chúa Giêsu ở vị trí đầu so với tất cả những gì làm nên cuộc sống chúng ta: gia đình, công việc, những lợi ích ca nhân và bản thân”.
Xin cho giới trẻ hôm nay đang ở giữa biết bao những gợi ý nông cạn và phù phiếm, tạm thời, biết chuyên tâm trau dồi nét hấp dẫn đối với các giá trị, các mục tiêu cao thượng, những chọn lựa triệt để, hầu phục vụ tha nhân theo chân Chúa Giêsu. Đáp trả quảng đại và mau lẹ tiếng Chúa Kitô kêu gọi đi theo Người sát sao hơn nữa, đặc biệt với các thế hệ mới. Amen.
Câu hỏi gợi ý:
1) Đức Giêsu nói: “Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử”. Từ câu này, ta có thể suy ra phong cách của người mục tử chân chính phải như thế nào?
2) Người mục tử chân chính phải có đức tính cốt yếu nào khiến mục tử khác hẳn kẻ chăn chiên thuê hay bọn trộm cắp chiên?
3) Qua bài Tin Mừng này, Đức Giêsu muốn nói với chính bạn điều gì? Ngài muốn bạn làm gì và có thái độ nào đối với Ngài?
Suy tư gợi ý:
1) Người mục tử trong nếp sống của người Do Thái xưa
Để hiểu được ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần trở về với nếp sống của người Do Thái thời Đức Giêsu. Thời ấy, chiên được nuôi theo bầy hàng trăm con tại những đồng cỏ xanh. Mục tử hay người chăn chiên đi theo bầy chiên và cùng sống với chiên ngày này qua ngày khác. Ban ngày, mục tử dẫn đàn chiên đi từ đồng cỏ này đến đồng cỏ khác để chiên ăn cỏ. Ban đêm, để tránh trộm cướp hay thú hoang, và để tránh mưa tránh rét, mục tử đưa chiên vào một nơi an toàn được gọi là “ràn chiên”, thường là một hang đá hay một khu đất trống có hàng rào bằng đá hoặc bằng cây bao quanh. Người chăn chiên ngủ ngay trong ràn chiên để bảo vệ chiên, và thường ở ngay cửa ràn. Mục tử và đàn chiên vì thế gắn bó với nhau rất mật thiết. Mục tử chỉ biết có chiên của mình, và chiên cũng chỉ biết và chỉ đi theo mục tử của mình, không chịu theo bất kỳ ai khác.
2) Ý tứ của Đức Giêsu khi nói dụ ngôn này
Đức Giêsu nói dụ ngôn này với người Pharisiêu, sau khi đối chất với họ về việc Ngài chữa lành người mù từ thuở mới sinh (Ga 9). Nên nhớ: những người Pharisiêu là những người lãnh đạo tinh thần trong Do Thái giáo, tức đóng vai trò mục tử đối với đàn chiên. Qua dụ ngôn này, Ngài muốn cho họ thay hai thái độ trái nghịch nhau giữa Ngài và họ trong cách đối xử với dân chúng hay các tín đồ tôn giáo. Sự trái nghịch nhau đó được thể hiện qua cách ứng xử với người mù bẩm sinh.
* Cách ứng xử của người Pharisiêu:
Khi thấy người mù được chữa lành, thay vì mừng cho anh ta đã thoát khỏi điều bất hạnh vô cùng lớn lao, những người Pharisiêu lại có một thái độ thù nghịch và bực tức. Họ tỏ ra không có một chút tình yêu, lòng thương xót hay sự cảm thông nào đối với người mù được Đức Giêsu chữa lành. Trái lại, họ đã dùng lề luật để bắt bẻ vị ân nhân đã chữa lành bệnh cho anh ta, đồng thời gây khó dễ cho anh và gia đình anh vì việc được chữa lành ấy. Đối với dân chúng, họ không giống như người mục tử đích thực đối với đàn chiên, mà giống như người chăn chiên thuê. Kẻ chăn chiên thuê không yêu thương gì chiên, vì chiên không phải là của hắn (x. Ga 10,12-13).
Vì thế, trong tôn giáo, những người Pharisiêu lợi dụng chức vụ lãnh đạo, hướng dẫn để ăn trên ngồi trốc, đè đầu đè cổ dân chúng (x. Mt 23,5-6). Họ giảng dạy toàn những điều tốt nhưng chỉ để cho dân chúng làm chứ không phải họ làm (x. Mt 23,2-3). Họ giảng dạy điều tốt vì chức vụ họ đòi buộc phải làm như vậy, chứ không phải vì lòng yêu mến sự thiện mà giảng dạy. Đức Giêsu đã tố cáo việc họ lợi dụng tôn giáo để bóc lột người nghèo, người cô thân cô thế trong xã hội (23,4.14). Nhưng họ vẫn muốn được mọi người tôn trọng, ca tụng, suy tôn, nên phải giả bộ đạo đức, phải làm những việc tốt để khoa trương (23,5), và muốn mọi người gọi mình là “Rabbi” hay “Thầy” (23,6).
* Cách ứng xử của Đức Giêsu
Đức Giêsu có một thái độ khác hẳn, một thái độ nhân từ đầy yêu thương đối với mọi người, được thể hiện một cách cụ thể trong việc Ngài chữa lành người mù. Ngài sống và hành động vì tình yêu chứ không vì lề luật. Tình yêu và lòng thương xót của Ngài đã thúc bách Ngài bất chấp luật sa bát, bất chấp sự phản đối và bực tức của người Pharisiêu về việc lỗi luật của Ngài, bất chấp những hậu quả rất bất lợi có thể xảy đến cho Ngài. Ngài sẵn sàng hy sinh bản thân để xoa dịu đau khổ, để làm mọi người hạnh phúc.
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn cho người Pharisiêu thấy thái độ của họ đối với dân chúng, với các tín đồ tôn giáo mà họ dẫn dắt chẳng khác gì thái độ của kẻ trộm cướp, của kẻ chăn thuê đối với đàn chiên: chỉ muốn lợi dụng đàn chiên chứ không hề yêu thương chúng. Còn thái độ của Ngài mới là thái độ người mục tử đích thật: Ngài yêu thương đàn chiên đến nỗi sẵn sàng “hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). Nhưng rất tiếc là “họ không hiểu những điều Người nói với họ”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đưa ra một tiêu chuẩn để phân biệt mục tử và kẻ trộm cướp. Mục tử thì đi vào ràn chiên bằng cửa ràn, nghĩa là với phong thái “đường đường chính chính”. Còn kẻ trộm hay kẻ cướp thì không qua cửa nhưng trèo qua lối khác mà vào, với phong thái lén lút, giả dối, không đàng hoàng. Mà cửa ràn chiên, theo bài Tin Mừng hôm nay, lại cũng chính là Đức Giêsu: “Tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào”. Vậy để là mục tử đích thật, người mục tử phải qua Đức Giêsu mà đến với đàn chiên, nghĩa là phải là người yêu mến Thiên Chúa, và phục vụ đàn chiên vì Ngài, không vì một động lực nào khác.
Thật vậy, đã là mục tử chân chính thì tư tưởng, lời nói, hành động lúc nào cũng phải bộc lộ được tính “quang minh chính đại”, hay “đường đường chính chính”, luôn luôn thẳng thắn, trung thực, đáng tin. Người mục tử chân chính ít ra phải là một người quân tử. Nếu tư tưởng, lời nói và hành động như một kẻ tiểu nhân, thích quanh co, lén lút, dối trá, sợ sự thật… thì không xứng đáng làm mục tử. Hơn thế nữa, người mục tử chân chính phải có một tình yêu to tát, để có thể hy sinh đến tận cùng cho những người mà mình lãnh đạo, hướng dẫn.
Đương nhiên để thực hiện ý định của mình, kẻ trộm cướp – những kẻ không có tình yêu đối với chiên nhưng lại muốn hưởng những quyền lợi của người mục tử – phải giả làm mục tử. Hắn tìm đủ mọi cách để chiên đi theo mình. Nhưng chiên “không chịu theo người lạ, mà chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ”, không cảm nhận được tình thương của hắn. Vì mục tử giả hay kẻ chăn thuê chỉ biết nghĩ đến bản thân mình, đến cái lợi của mình, không nghĩ gì đến chiên, nên “khi thấy sói đến, hắn bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn” (Ga 10,12). Người mục tử đích thực thì yêu thương chiên, sống vì chiên, và sẵn sàng “hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11) “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (10,10).
Ngoài mục đích đối chất với bọn Pharisiêu, Đức Giêsu còn dùng hình ảnh rất quen thuộc ấy đối với người Do Thái để diễn tả sự yêu thương gắn bó giữa Ngài và chúng ta, những kẻ theo Ngài. Như mục tử tốt lành yêu thương và chăm sóc chiên mình thế nào, Ngài cũng yêu thương chăm sóc chúng ta như vậy. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã dùng hình ảnh người mục tử với đàn chiên để diễn tả tương quan giữa Đấng Mê-si-a và dân của Ngài: “Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt chúng; nó là tôi tớ của Ta: chính nó sẽ chăn dắt chúng; chính nó sẽ là mục tử của chúng” (Ed 34,23). Ngài chính là người mục tử được Thánh Vịnh mô tả: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23).
Vì thế, khi ý thức được Đức Giêsu luôn chăm sóc mình như người mục tử tốt lành chăm sóc đàn chiên, người Ki-tô hữu có thể hết sức an tâm trước tất cả mọi giông tố, thử thách trong cuộc đời. Chúng ta hãy tin tưởng vào tình thương vô biên và chân thật của Ngài, và an tâm phó thác mọi sự cho Ngài, kể cả mạng sống, hạnh phúc của mình. Nhờ đó cuộc đời ta luôn luôn bình an, vui tươi, hạnh phúc, và Tin Mừng chúng ta rao giảng mới đúng là tin mừng đích thực (=tin thật sự đem lại vui mừng!)
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin cho con nhận thức được tình thương vô bờ và quyền năng vô biên của Cha, của Đức Giêsu, để con có thể hoàn toàn tin tưởng và phó thác mọi sự cho Cha, cho Đức Giêsu. Nhờ đó, con luôn luôn bình an, hạnh phúc bất chấp cuộc đời có sóng gió đến đâu. Vì con luôn luôn tin tưởng rằng, con được một bàn tay quyền uy và yêu thương bảo vệ. Mọi biến cố xảy ra, dù thế nào, cuối cùng đều ích lợi cho con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Thomas Túy)
Thật khủng khiếp khi nghe một linh mục thuộc miền tây nam VN trả lời phỏng vấn một đài ngọai quốc. Ông giả làm khách “mua hoa” người Campuchia, hoàn toàn không nói được tiếng Việt, để thâm nhập các ổ nhện “nhí” ở biên giới Việt – Campuchia. Các em tuổi từ 9 đến 16 bị bán sang nước bạn để làm dịch vụ tình dục cho các khách “mua hoa” người bản địa và quốc tế. Cuộc sống của các em rất bị hạn chế, gần như tù lỏng. Một ngày phải “đi” khách không dưới 15 lần, bằng cả hai phương tiện, miệng và cơ quan giới tính. Ăn uống thiếu thốn và ít khi được phép ra khỏi “động”. Một hôm ông hối lộ chủ nhà để đưa các em đi chơi, khi ngang qua nhà thờ, ông đề nghị các em vô trong coi. Bất ngờ một em từ chối. Các em khác hỏi tại sao? Ngần ngừ một chút, em bảo mình là người Công giáo. Linh mục thấy đau nhói trong tim, nhưng không tỏ ra bề ngòai, vẫn giả vờ như không hiểu tiếng Việt.
Điểm xót xa là các em kể về việc đi khách của mình như một dịch vụ bình thường tuy ngôn ngữ bẩn thỉu nhưng như thể làm các việc hàng ngày cha mẹ sai bảo. Có em chỉ 9 tuổi, cha mẹ quá nghèo nên bán em đi lấy tiền nuôi các đứa nhỏ tuổi hơn.
Ông không có một giải pháp nào cả, các giúp đỡ từ những hội từ thiện quốc gia, quốc tế chỉ là hình thúc xoa dịu. Vấn đề cần bàn tay cương quyết của chính quyền, nhất là chính quyền địa phương. Nhưng việc này khó thực hiện vì đòi kinh phí. Mà kinh phí quốc gia chẳng có khỏan nào như vậy. Lại còn vấn đề luật pháp?
Khi nghe qua chuyện này, tôi lại nhớ đến cô dâu Việt nam tại Trung quốc, Đài loan, Nam hàn, Nhật bản. Số phận các cô xa xứ thật cô đơn, thảm thương. Một phụ nữ Mỹ mới đây báo động cho thế giới biết nạn nhân buôn bán phụ nữ, trẻ em ở Âu châu quá tệ hại. Bà coi đó là một hình thức nô lệ mới, nô lệ về tình dục và nhân phẩm: Riêng tại nứơc Mỹ, nhân dịp tháng chống lạm dụng tình dục trẻ em (April) người ta đưa ra bản thống kê, cứ 4 trẻ gái, thì một em bị lạm dụng. Tỷ lệ ở trẻ nam là 1/7 trươc khi các em được 18 tuổi. Tính tổng cộng tòan quốc là 60 triệu.
Trước tình hình này, Phúc âm hôm nay quả là một nhức nhối. Chúa Giêsu tự nhận là “Chúa chiên lành”, hơn nữa, lại còn là cửa chuồng chiên. Nhưng chiên của Ngài luôn tìm được của ăn áo mặc, đồng cỏ xanh tươi. Ngày nay thì các linh mục, hàng giáo phẩm thay thế Chúa chăn dắt đàn chiên Thiên Chúa. Chúng ta suy nghĩ làm sao đây? Chẳng lẽ giảng suông? hô hào rỗng tuếch? xưa nay đã như vậy rồi, thì có lẽ từ nay cũng “vũ như cẩn” thôi. Dao to búa lớn chỉ đánh bẹp một con tép riu. Người ta để bụng khinh chê cấp lãnh đạo Do thái là giả hình và sai lầm. Nhưng xét cho cùng thì đúng như câu ca dao VN:”Chuột chù chê khỉ rằng hôi, khỉ mới trả lời cả họ mày thơm”. Chúng ta nên sống trung thực với Lời Chúa và ơn gọi của mình, không nên nói một đàng, sống nẻo khác.
Vì bất cứ những ai đọc bài tin Mừng hôm nay đều cảm nghiệm xúc động. Chúa Giêsu không giảng bằng lời nói suông mà chính yếu cuộc sống, cái chết và lên trời của mình vì phần rỗi nhân lọai. Ngài làm điều ấy hòan tòan tự nguyện. Chẳng ai có quyền phép ép buộc Ngài, nhưng chỉ vì tình yêu chúng ta. Ngài là Chúa chiên lành trong cả hai nghĩa đen và bóng và nghĩa nào cũng đến tận cùng thực tại. Các học giả có khuynh hướng cắt nghĩa bóng mà họ gọi là “ẩn dụ” (allegory) nhưng như vậy người ta “hạn hẹp” ý nghĩa bản văn cho một số chức vụ. Thực ra bản văn nói về hết mọi tín hữu, từng người và từng thời đại của Giáo Hội. Một khuynh hướng khác, khá phổ thông hôm nay là không ưa “ẩn dụ” nữa mà cố gắng tìm xem “đàn chiên, kẻ trộm, kẻ làm thuê, cửa chuồng chiên” là gì trong thực tế và văn hóa Hy lạp – Do thái? Họ cố gắng tránh né nhưng hệ luận khó chịu nẩy sinh từ các hình ảnh Chúa Giêsu đã sử dụng.
Tính xác thịt lòai người, luôn ngại đối mặt với thực tế không am hợp với sở thích chóng qua. Chúng ta nên học hỏi các thánh tiến sĩ, hiểu thật, hiểu rõ và áp dụng lời Chúa nghiêm ngặt, dầu có phải chấp nhân hy sinh và cái chết. Theo thánh Gioan Kim Khẩu, cửa ở đây là Lời Chúa. Cửa ấy cho phép chúng ta vào Nứơc Trời, tức các đường lối Chúa muốn chúng ta đi. Các kẻ trộm, người làm thuê là các thày rao giảng giả hình gian dối, chỉ biết lừa đảo thiên hạ. Cửa sẽ lọai trừ tất cả ra ngòai, không cho xâm nhập đàn chiên. Nếu như chúng ta rời xa Kinh Thánh, mà trèo vào lối khác, lúc ấy đàn chiên sẽ bị cứơp bóc lương thực hằng sống. Thánh Gioan đưa ra ý tưởng này từ thế kỷ thứ 5, khi ngài làm Giám mục hành Antiokia. Nhưng vẫn đúng với tình hình rao giảng hôm nay. Nhất là sau Công đồng Vat.II, người ta tự tiện áp dụng lời Chúa theo ý riêng, rồi đả kích Giáo hội là cổ hủ, lỗi thời, hiểu sai lời Chúa. Các tín hữu thực sự bị tước đọat ý nghĩa linh thiêng để chạy theo thế tục. Phụng vụ và đời sống thiêng liêng bị bóp méo theo sở thích cá nhân của mấy thày gỉa hiệu. Liệu khó nghèo Phúc Âm còn ý nghĩa gì không giữa tráo lưu vật chất hiện thời? Liệu người ta còn đọc và cầu nguyện Lời Chúa, hay lời của tiền tài? Liệu lời rao giảng của chúng ta phản ánh nội dung sách thánh hay phản ánh tư tưởng trần tục? Nếu như thánh Gioan Kim Khẩu sống lại lúc này, ngài sẽ có nhận xét thế nào về việc chúng ta tìm vào Nứơc Trời qua cánh cửa Lời Chúa? Ông cũng sẽ giúp tín hữu phân biệt đâu là Chúa chiên thật, đâu giả hiệu, đâu là lợi dụng chức thánh?
Có lẽ nên biết chút ít tập quán chăn chiên thời Chúa Giêsu để rõ hơn dụ ngôn. Chuồng chiên có khi được thiết lập giữa cánh đồng với các bụi cây thấp và cành khô, có thể chứa chung vài đòan chiên cừu. Hay có thể là một lán rộng dựa lưng vào tường, mặt khác là rào che tạm thời. Các chủ chăn nhỏ có hể dùng chung một chuồng cho các đòan vật của mình, để bảo đảm an ninh ban đêm. Một ai đó có nhiệm vụ canh gác lối vào. Lối vào lán nhỏ và đơn sơ, người canh gác có thể đơn giản nằm chắn ngang như một “cánh cửa”. Phúc âm hôm nay gợi ý các chủ chăn đến sớm và anh gác cửa cho phép vào. Mỗi người gọi riêng đòan chiên của mình và khi nghe tiếng chủ, các con chiên chạy theo anh ta. Anh ta đi trước các con chiên theo sau. Lời Phúc âm phải hiểu theo nghĩa đen như vậy.
Cho nên thánh Gioan tông đồ dùng hình ảnh để mô tả liên hệ chặt chẽ giữa Chúa Giêsu và các kẻ theo Ngài. Đồng thời gợi ý cánh cửa “Người” ngăn cản các chủ chăn giả đến quấy phá dân Thiên Chúa. Họ là những “kẻ trộm, kẻ cướp” đối lập với chúa Giêsu và các tín hữu Thiên chúa. Họ vô tình dẫn đàn chiên đi lạc, đôi khi nổi lọan vô lý khiến quân đội Rôma giết hàng lọat dân đen vô tội. Ngày nay chúng ta có thể tưởng tượng những tiếng nói giả dối như sau:
Kẻ hô hào cực đoan giải quyết mới cũ bằng chiến tranh, sát hại chứ không bằng thương lượng hòa bình.
Lao động kiệt sức vì lợi lộc riêng tư, bè phái.
Dẫn dắt thiên hạ thỏa mãn nhu cầu vật chất làm cạn kiệt thiên nhiên.
Cô lập chúng ta khỏi những nhu cầu khẩn thiết đòi hỏi dấn thân để xây dựng hai chữ “bình an” giả tạo và ích kỷ..
Lợi dụng nhiệt thành, lòng tốt của thanh niên thiếu nữ cho danh thơm tiếng tốt, ngay cả lợi lộc cho bản thân.
Gây chán nản trong đòan thể, cộng đồng vì tư thù để đục nước béo cò..v.v…
Hậu quả là chúng ta mất đòan kết, không còn là cộng đòan duy nhất của Hội Thánh mà là đủ mọi thứ phe phái đi theo những chủ chăn khác nhau, những khuynh hướng ích kỷ, hẹp hòi. Tệ hơn nữa, vào những đồng cỏ xa lạ với những con đường nguy hiểm cho phần rỗi. Chẳng mấy tín hữu không gặp những lý thuyết này? Họ nhan nản khắp các báo chí, các ý thức hệ tiên tiến.
Vậy thì không lạ chi, Chúa nhật Phục sinh này chúng ta được nghe bài đọc Chúa chiên nhân lành và giáo thuyết của Ngài. Trong bài đọc 1 Phêrô đã vạch rõ đâu là Thiên sai thật, đâu là lừa dối đi lạc. Ông thẳng thắng tuyên bố:” Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này”. Bài đọc 2 khuyên nhủ:”Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người”. Đức Kitô Phục sinh đang hiện giữa các tín hữu, Người cũng làm những chi mô tả trong Phúc âm. Cuộc sống và phương hứơng của chúng ta được Hội Thánh Ngài bảo vệ và chăm sóc chống lại những kẻ chỉ biết trộm cứơp và giết hại. Điều này khiến chúng ta được yên ủi và an tâm. Đức Giêsu biết trứơc thế giới mà các môn đệ Ngài đi rao gỉang nên đã hứa ở với chúng ta luôn mãi như một mục tử nhân lành.
Mục tử nhân lành không chỉ là ngừơi lãnh đạo đòan chiên trên danh nghĩa, nhưng biết rõ từng con chiên một:” Ngài gọi tên từng con và dẫn chúng ra”. Phúc âm không nói chung chung, mà chi tiết nhu cầu từng con. Có những thời gian, mục tử phải biết tên từng con chiên một, vì đó là bổn phận cốt yếu của ông. Ngôn ngữ Kinh thánh, biết tên là biết ngôi vị ngừơi đó. Chẳng phải vô tình mà Chúa nhật 4 Phục sinh được dành riêng cầu nguyện cho ơn gọi linh mục. Không những để Giáo Hội thêm nhiều ơn gọi mới mà chủ yếu nhắc nhở bổn phận của các cha xứ, linh mục, chủng sinh. Ngày nay Giáo Hội cần nhiều mục tử thánh thiện biết bao.
Chúng ta phải biết lắng nghe bài Phúc âm và nhớ đến Đấng Phục sinh giữa Giáo Hội. Xin Ngài hướng dẫn và kiên cường đức tin cho mình. Vì Ngài chính là “cửa” mà thánh Gioan Kim Khẩu giải thích. Có những lúc chúng ta cảm thấy mệt mỏi, chán nản vì công việc, vì tuổi già sức yếu, vì chống đối hiểu lầm. Chúng ta cần nhìn lên Chúa, để nhận ra Ngài đã thi hành nhiệm vụ mục tử ra sao, ngõ hầu được khả năng bỏ đi những cám dỗ hưởng thụ, an nhàn. Chúng ta biết mình đang ở trong đường lối và phương hứơng tốt, tại sao không cố gắng. Câu truyện đầu bài suy gẫm hôm nay không cho phép chúng ta lơ là chức vụ.
Cho nên phải biết tên từng con chiên và nhu cầu của nó. Nghĩa là từng ngôi vị một. Không phải chỉ những quen biết qua đường hoặc vì lợi lộc. Chúng ta nên dành thời gian, sức lực, tiền bạc để đến với đàn chiên. Không có nghĩa cần thêm nhiều bạn hữu nhưng là vì bổn phận phải chu tòan. Nếu như đức tin dạy rằng Đức Giêsu biết rõ tên chiên của Ngài từng con một thì chúng ta, những mục tử, phải chu tòan bổn phận ra sao. Xin cho các mục tử suy gẫm lại vai trò của mình và giáo dân nên cầu nguyện nhiều cho họ. Amen.
“Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”. Đây là những lời nói phát xuất từ tình yêu và tấm lòng của người mục tử sống hết mình vì đoàn chiên của mình. Nhưng đồng thời khi nghe những lời yêu thương này có người sẽ tự hỏi: thế nào là sống và sống dồi dào nghĩa là gì? Nơi những người chưa có niềm tin hoặc niềm tin còn non kém thì có lẽ sẽ tự hỏi rằng: Nếu Ngài không đến thì chúng tôi sẽ chết hết hay sao? Đâu là ý nghĩa của vấn đề mà Chúa Giêsu nói với chúng ta? Chúng ta hãy tìm hiểu vấn đề với ý nghĩa đích thực của nó.
Nếu hiểu chữ sống là “có sinh khí và hoạt động” thì có lẽ nhiều người sẽ nói rằng: tôi đâu có tin Chúa và cũng chẳng cần Chúa đâu mà tôi vẫn sống và sống mạnh khoẻ đây. Thật ra, đó là thái độ của con người còn mê lầm và chưa nhận ra sự thật. Sự thật là Chúa đã dựng nên con người và ban cho họ sự sống trong tình yêu quan phóng của Ngài dù con người có nhận ra điều đó hay không?
Nhưng ở đây, khi Chúa Giêsu nói: “Ta đến để cho chúng được sống” thì từ “sống” mang một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều.Nó vượt lên trên ý nghĩa là “có sinh khí và hoạt động”. Sự sống mà Chúa Giêsu mang đến cho những ai tiếp nhận Ngài chính là sự sống đích thực và vĩnh cửu vì Ngài là nguồn của sự sống. Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định: “Ta là nước hằng sống, là Bánh trường sinh, là sự sống lại và là sự sống”.
Dân Do thái ngày xưa đã sống trong sa mạc 40 năm trường và được ăn bánh mà họ gọi là bánh bởi trời là Manna để trải qua thời gian sa mạc đó. Nhưng đó không phải là bánh bởi trời đích thực vì bánh đó không phải là bánh của sự sống và không có khả năng ban sự sống cho con người.Chính Chúa Giêsu mới là: “Bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời” (Ga 6, 58).
Đức Giêsu cũng tỏ ra cho người phụ nữ xứ Samaria rằng: chính Ngài là Nước hằng sống khi chị này đến lấy nước tại giếng mà họ tự hào là của tổ phụ Giacop để lại.. Chúa nói: “ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ còn khát nữa và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4, 14).
Với phép lạ Chúa Giêsu phục sinh cho Lazarô, Ngài cũng tỏ cho chúng ta thấy Ngài chính là sự sống: “Ta là sự sống và là sự sống lại” (Ga 11,25).
Như vậy, Chúa Giêsu đến với con người trong tư cách là mục tử nhân lành, mục tử hiến mạng sống mình vì đoàn chiên là chúng ta, để qua Ngài là nước hằng sống, là bánh trường sinh, là sự sống… Chúng ta có được sự sống đích thực. Với sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu, Ngài đã ban cho chúng ta tất cả những gì Ngài đã phán với chúng ta: Ta là Nước hằng sống, là Bánh trường sinh, là sự sống, là Sự sáng trần gian…
Nếu chúng ta nghĩ rằng sống dồi dào là sống tiện nghi, dư ăn dư để… thì có lẽ chúng ta cũng không thấy cần Chúa Giêsu đến với chúng ta làm gì. Vì thực tế, có nhiều người không hề tin Chúa mà họ vẫn sống giàu sang, của cải dư đầy, không thấy thiếu một thứ gì cả.
Nhưng “sống dồi dào” theo ý của Chúa Giêsu là sống vui tươi, hạnh phúc và tự do dù có thể họ không giàu sang và thành đạt theo kiểu thế gian.
Sống dồi dào là sự sống của những con người tràn đầy Thần Khí của Thiên Chúa. Mà Thần Khí vốn là tự do “Gió muốn thổi đâu thì thổi”. Vì thế, ai còn bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì dù là tiền của, công việc, gia đình, luật lệ… thì họ quả là người đáng thương dù cho họ có đầy đủ mọi thứ của cải trần gian.
Tự do là phẩm giá cao trọng quí nhất của con người. Vậy chúng ta có thật là người tự do chưa? Hãy kiểm điểm xem điều gì còn làm cho chúng ta bận tâm hay đang trói buộc chúng ta, khiến chúng ta chưa có được sự sống dồi dào của Chúa. Hãy chạy đến với Đức Giêsu để chính Ngài sẽ ban lại cho chúng ta sự sống đích thực và được sống dồi dào.
Hôm nay cũng là ngày mà Giáo hội dành cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ. Chúng ta hãy cầu xin cho Hội thánh Chúa có nhiều người biết quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa để sống đời hiến dâng vì Chúa, vì Nước Trời và vì hạnh phúc của con người.
Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa cho các vị đang có trách nhiệm hướng dẫn và lãnh đạo dân Chúa biết noi gương Chúa Giêsu đến để làm cho chiên được sống và sống dồi dào qua đời sống hy sinh, dấn thân và phục vụ.
Ta là chủ chiên lành.
Trong một cuộc giao tranh đạo quân của đại tướng Monmouth bị thua chạy một cách thê thảm. Riêng ông cũng phải lẩn trốn. Ban ngày ông đến náu trong những hang núi, đến đêm mới dám ra đi. Sau cùng, địch quân cũng đuổi kịp. Ông bí quá, chạy vào căn lều của người chăn chiên.
Thay vì đóng cửa không cho ông vào, người chăn chiên đã làm một nghĩa cử cao đẹp. Anh đã đổi áo của mình cho ông mặc trá hình, rồi thân chinh ra gặp địch quân của đại tướng.
Người chăn chiên đã chiến đấu rất anh dũng và cố ý kéo dài cuộc giao tranh để Monmouth có giờ tẩu thoát. Với thanh kiếm, anh đã cầm chân địch quân trong vòng ba tiếng đồng hồ, cho đến khi mệt lả, không còn đủ sức chiến đấu nữa thì bị địch quân giết chết. Lúc đó đại tướng Monmouth đã đi xa rồi.
Trong trận chiến chống trả tội lỗi, chúng ta luôn bị ma quỉ đuổi bắt, nhưng Chúa Giêsu đã xuống thế làm người. Ngài đã chiến đấu thay cho chúng ta suốt ba tiếng đồng hồ trên thập giá, cho đến lúc chính Ngài đã phải chết. Trong khi Ngài chiến đấu với ma quỉ, con người tội lỗi chúng ta được thoát khỏi quyền lực của ma quỉ. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã có lý khi tự xưng mình là chủ chiên nhân lành, đã hiến mạng sống vì con chiên.
Ngài nói đi nói lại với chúng ta, Ngài là chủ chăn nhân lành có nhiệm vụ dẫn dắt linh hồn chúng ta:
– Nếu một người có một trăm con chiên chẳng may lạc mất một con, người ấy lại không bỏ 99 con lại mà đi tìm con chiên bị lạc mất hay sao. Ta còn nhiều chiên khác chưa thuộc về đàn này, cả chúng nữa ta cũng phải đem chúng về.
Linh hồn của chúng ta đáng giá chừng nào, vì Chúa Giêsu đã sẵn sàng hiến mạng sống để cứu lấy nó.
Chúng ta phải luôn ghi lòng tạc dạ điều này: Trong chúng ta có một cái gì rất giá trị, một cái gì chúng ta phải chăm sóc và bảo tồn. Để chăn dắt chúng ta, Chúa Giêsu đã phải giáng trần.
Nếu chúng ta cần gì thì hãy đến với Ngài.
Cần đồ ăn ư? Ngài đã ban chính mình Ngài trong Bí tích Thánh Thể để làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta.
Cần nước uống ư? Ngài đã ban cho chúng ta dòng nước trong lành của Bí tích Rửa tội.
Cần băng bó ư? Ngài sẽ chữa lành những vết thương do tội lỗi gây nên bằng Bí tích Giải tội.
Cần hướng dẫn ư? Ngài sẽ đưa chúng ta trở về với Ngài như người chủ chăn đưa con chiên lạc trở về đàn của mình.
Cần che chở ư? Ngài hiến mạng sống để bảo vệ chúng ta và cho đến ngày hôm nay Ngài còn thực hiện biết bao việc lạ lùng để nâng đỡ chúng ta.
Linh hồn chúng ta thực là quí giá biết bao, chính vì thế, chúng ta phải gìn giữ nó, đừng làm những gì khiến nó mất đi vẻ đẹp tuyệt vời, khiến Chúa Giêsu phải đau lòng.
Người chăn chiên đã chết để cứu mạng sống cho vị đại tướng. Chúa Giêsu đã chết trên thập giá để cứu rỗi linh hồn chúng ta, bởi vì Ngài chính là chủ chăn nhân lành đã hiến mạng vì đoàn chiên.
(Suy niệm của Lm Bùi Quang Tuấn)
“Ta đến để chúng được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10)
Chúa nhật 4 Phục sinh thường được gọi là Chúa nhật kính Chúa Chiên lành. Các bài đọc nhấn mạnh đến Chúa Giêsu như người Mục Tử nhân ái hằng chăm sóc lo lắng cho đoàn chiên, đến độ dám thí mạng để chiên “được sống và sống dồi dào”.
Chúa nhật hôm nay cũng được gọi là Chúa nhật Ơn Thiên Triệu. Giáo hội kêu mời mọi người Kitô hữu hãy để tâm nâng đỡ, khuyến khích, và cầu nguyện đặc biệt cho ơn gọi, hầu có nhiều người can đảm dâng hiến đời mình cho sự sống phong phú của Dân Chúa.
Khi Giáo hội kêu mời giáo dân cầu nguyện cho Ơn Thiên Triệu là hàm ẩn trong đó một nhu cầu khẩn thiết. Không phải các nơi đã có đủ linh mục cho đoàn chiên; nhiều chỗ còn đang thiếu hụt, thậm chí thiếu hụt trầm trọng. Không phải các linh mục đều đã là mục tử tốt lành dám thí mạng như Đức Giêsu mong muốn; có người khô khan, đào ngũ, thậm chí còn giống như “kẻ chăn thuê hay trộm cướp.”
Thế nên cần lắm thay những lời cầu nguyện trợ lực liên lỉ để các linh mục tu sĩ được trung thành, chân thành, và nhiệt thành hơn trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên của mình.
Mặc dầu linh mục là những con người được tác thánh để thuộc về Thiên Chúa và làm công việc của Ngài, họ vẫn mang trên mình thân phận con người với bao cảm xúc và suy nghĩ rất người, họ vẫn phải chiến đấu gian nan với bao thách đố khó khăn để đáp trả đến cùng ơn gọi, họ vẫn phải nỗ lực mỗi ngày để nên giống Đức Kitô hơn trong đời sống mục tử nhân lành. Thế nên một tâm tình mến yêu và xây dựng của người tín hữu sẽ như bàn tay khai mở cho dòng ơn thánh chảy tuôn tràn hơn lên trong cuộc đời linh mục.
Ơn gọi dấn thân là ơn gọi tuyệt đẹp. Hạt giống thiên triện là hạt giống vô cùng cao quí. Nhưng hạt giống ấy lại rất cần thời gian để nảy mầm và phát triển. Hạt giống càng được gieo vào tâm hồn sớm bao nhiêu càng có hy vọng trổ sinh hoa trái đúng mùa bấy nhiêu. Biết bao Kitô hữu bước vào đời sống linh mục hay tu sĩ vì đã nhận được hạt giống ơn gọi từ thuở ấu thơ. Những hình ảnh tốt lành thánh thiện của các vị chủ chăn, những khuyến khích hướng dẫn chân thành của ông bà cha mẹ, những việc làm dấn thân phục vụ của bao Kitô hữu đã hun đúc tâm hồn và chuẩn bị con em mình thành các tông đồ tương lai cho Nước Trời.
Tất nhiên những gương xấu của người có trách nhiệm, thái độ ngại khổ sợ khó của kẻ chăn thuê, lời nói hành vi quá khích với hàng mục tử, đều làm thui chột biết bao hạt giống ơn gọi cao quí trong tâm hồn tha nhân.
Người mục tử tốt lành phải cương quyết ngăn ngừa sói dữ giết hại đàn chiên. Người mục tử ấy sẽ “đi trước” và “chiên theo sau.” Ơn gọi của người mục tử bao giờ cũng là ơn gọi trở nên gương mẫu như người “đi trước” cho chiên bước theo. Đây là một thách đố gay go đòi hỏi nhiều từ bỏ hy sinh. Nhưng nếu không dám “thí mình” chấp nhận thách đố sẽ không bao giờ trở thành mục tử tốt lành.
Có thí mạng cho chiên chứng tỏ mục tử có lòng thương chiên. Tình thường mầu nhiệm và cao cả này chỉ phát xuất từ cung lòng Thiên Chúa. Thế nên gắn bó với Thiên Chúa để đón nhận “Tình Yêu Mục Tử” phải là hành trình thường xuyên của người chăn chiên. Khi ham mê công việc mà bỏ bê đời sống nguyện cầu, người mục tử khó lòng thương yêu cho đúng nghĩa, nếu không phải là dễ rũ áo ra đi.
Thường khi nói tới “mục tư”, người ta hay liên tưởng đến các giám mục, linh mục. Điều đó rất đúng. Nhưng trong chiều kích “bí tích Rửa tội”, tất cả mọi Kitô hữu đều mang chức vị mục tử, và trong chiều kích thực tế cuộc sống thì mọi người đều là mục tử: cha mẹ là mục tử của con cái; thầy cô là mục tử của học sinh; ông chủ là mục tử của công nhân…
Đặc tính của người mục tử tốt không thuần túy ở nơi cung cấp cơm ăn, áo mặc, kiến thức, công việc, nhưng còn phải thông chuyển tình thương như sức sống dồi dào cho đoàn chiên; không chỉ giúp tăng trưởng thân xác nhưng còn phải làm phong phú tâm hồn. Song nếu đời mục tử không ngay chính, tâm hồn đầy u mê thì chiên sẽ nhận được điều chi?
Không thể nào cho đi điều tôi không có. Không có yêu thương, bình an, niềm vui, tôi chỉ có thể mang lại hận thù, bất an và u sầu. Nhưng để có được yêu thương và sự sống, tôi phải biết lắng nghe sự hướng dẫn của chính Chúa, chứ không phải của thế gian; bước theo lời dạy bảo của Giáo hội chứ không phải của đam mê trần tục.
Lạy Chúa, xin ban cho Giáo hội hôm nay có nhiều mục tử tốt lành, nhưng trước hết, xin ban cho các gia đình là những Giáo hội thu nhỏ có được các mục tử nhân ái và kiên trung.
Trong buổi học giáo lý vào ngày Chúa nhật, một em đang cắm cúi vẽ hình. Thầy giáo hỏi em đang vẽ gì thế. Em trả lời đang vẽ hình của Thiên Chúa. Thầy giáo nói, “Không ai nhìn thấy Thiên Chúa như thế nào, làm sao vẽ được?” Em bé đã trả lời, “Sau khi em vẽ xong bức hình này thì ta sẽ biết”.
Chúng ta không biết bức hình của em vẽ Thiên Chúa ra sao. Tuy nhiên, bài Phúc âm hôm nay và đáp ca, đã vẽ ra một hình ảnh của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh của người Mục Tử. Chúa Giêsu đã nói: “Ta là cửa chuồng chiên” và “Ta là mục tử tốt lành”.
Sách Giáo lý Công giáo giải thích hình ảnh này như sau: “Giáo Hội là chuồng chiên với Chúa Kitô là cửa vào độc nhất và cần thiết. Giáo Hội cũng là đàn chiên mà chính Thiên Chúa đã công bố rằng Ngài sẽ là mục tử, và những con chiên, dầu có những mục tử loài người dẫn dắt, nhưng chúng luôn luôn có chính Chúa Kitô hướng dẫn và nuôi dưỡng, vì Ngài là chủ chăn tốt lành và là ông hoàng của các chủ chăn. Ngài đã thí mạng sống mình vì các chiên của Ngài”.
Theo William Barlay, vào thời Chúa Giêsu, có hai loại chuồng chiên. Trong các làng xã thường có một chuồng chiên công cộng, nơi tập trung tất cả các bầy chiên lại khi những người chăn chiên trở về nhà vào ban đêm. Những con chiên này được bảo vệ bằng một cái cửa rất vững chắc mà chỉ có người canh giữ chiên mới có chìa khóa để mở cửa. Loại chuồng này được Chúa Giêsu đề cập đến trong câu Gioan 10, 2-3 “Ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào…”
Khi đàn chiên đi ăn cỏ ở nơi xa vào mùa ấm, chúng không trở về làng vào ban đêm, mà qui tụ lại trong một chuồng chiên ở giữa lưng chừng đồi hay ngoài cánh đồng. Những chuồng chiên ở ngoài trời này là một bức tường bằng đá vây chung quanh, có một lối ra vào không có cánh cửa. Ban đêm người mục tử nằm chận ngang lối ra vào, không có con chiên nào có thể bỏ chuồng đi ra, hoặc con thú hoang nào có thể đi vào mà không bước qua người mục tử. Nói một cách khác, người mục tử là cửa chuồng chiên. Chúa Giêsu đã đề cập đến loại chuồng này trong Gioan 10, 7-10 “Tôi là cửa cho chiên ra vào…”
Chúa Giêsu dùng hình ảnh này để nói lên tương quan của Ngài với chúng ta. Một sự gắn bó chặt chẽ giữa người mục tử và đàn chiên với các đặc tính:
Trước khi về trời Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ rằng: “Ta sẽ luôn ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Trong khi thi hành mục vụ, tôi đã có nhiều dịp viếng thăm các bệnh nhân ở bệnh viện và xức dầu cho họ. Lời cầu nguyện được các bệnh nhân ưa chuộng nhất trên giường bệnh là Thánh vịnh 23 chúng ta đọc trong phần đáp ca hôm nay: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì”.
Tôi nhớ đã vài lần viếng thăm một người phụ nữ nằm bệnh viện gần 2 tháng. Một ngày nọ khi vào thăm bà, tôi thấy cả gia đình đã qui tụ đầy đủ vì họ đã được thông báo cho biết và gần ra đi rồi. Căn phòng bệnh nhân đầy ắp người, nhưng không ai đề cập đến số phận của bà. Họ nói về những chuyện xảy ra trong cộng đoàn, về thời tiết, về tin tức… Tôi đi ra ngoài một chút rồi trở lại thăm bà vào đúng lúc cả gia đình đã đi ăn trưa. Chỉ còn một mình tôi với bà, bà nói: “Thưa cha, cha biết rằng con sắp chết rồi!” Theo tâm lý tôi tự nghĩ trong đầu: “Không đâu! Bà sẽ vượt qua được cơn bệnh. Bà sẽ còn sống lâu thêm nữa”. Nhưng rồi tôi lại nghĩ rằng tốt hơn hết cứ nói, “Phải, tôi biết!” Rồi tôi hỏi bà thêm: “Bà nghĩ sao về điều này?” Bà nói: “Phải, con cũng sẵn sàng để chết. Con đã chuẩn bị”. Tôi đề nghị, “Tôi có thể làm gì để giúp bà được không?” Bà nói: “Xin cha làm ơn đọc cho con nghe Thánh vịnh 23”. Tôi đã đọc thật chậm để cùng cầu nguyện với bà. Lúc đó chúng tôi đã cảm nghiệm được một sự bình an lớn lao khó diễn tả bằng lời, cả hai chúng tôi đều cảm thấy Chúa Giêsu đang hiện diện cùng với chúng tôi trong phòng bệnh nhân. Chỉ một thời gian ngắn sau đó bà đã ra đi bình an.
Hình ảnh của người mục tử tốt lành gợi cho chúng ta một Thiên Chúa luôn luôn hiện diện với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, lúc bệnh tật hay khỏe mạnh, lúc vui tươi hay đau buồn hoặc ngay trong sự chết.
Cách đây đã lâu, bà Ann Landers viết trên trang báo do bà phụ trách và được đăng lại nhiều lần như sau:
“Từ khi tôi bắt đầu phụ trách cột báo này, tôi đã học hỏi được rất nhiều – gồm cả điều có ý nghĩa nhất mà Leo Rosten đã mang trong tâm trí khi ông nói: “Mỗi người chúng ta là một kẻ cô đơn nhỏ bé, tận sâu thẳm bên trong tâm hồn, và đã khóc lên để được thông cảm”. Tôi đã biết được điều đau khổ xảy ra như thế nào đối với những người không có ai để nói chuyện. Đối với tôi, sự thành công của cột báo là đã nhấn mạnh đến sự bi ai chính yếu của xã hội chúng ta, sự cô độc, cảm giác bất ổn, nỗi sợ hãi đang ám ảnh, gây tê liệt và làm tổn thương quá nhiều người trong chúng ta. Tôi đã biết được rằng sự thành công về tiền bạc, đạt được bằng cấp học vấn, và địa vị chính trị cũng như xã hội không mở ra những cánh cửa dẫn tới sự bình an trong tâm trí hay sự an toàn nội tâm. Tất cả chúng ta là những kẻ đi lang thang trên hành tinh này giống như những con chiên”.
Phải, xét về mặt tâm lý, con người cũng giống như những con chiên mang nhiều nỗi lo âu sợ hãi, rất dễ bị tổn thương, và cần được mục tử săn sóc, chăn dắt, hướng dẫn. “Ta chính là mục tử tốt lành. Ta biết các chiên của Ta và chiên của Ta biết Ta”.
Họa sĩ vẽ hình phim hoạt họa nổi danh, Jules Pfeiffer đang thảo luận về một loạt hình hí họa ông đã thực hiện cho các tờ báo. Trong số đó, có hình một em bé trai không muốn đi học đến trường vì sợ ba mẹ sẽ dọn ra khỏi nhà đang khi em đi học. Nó không muốn đi ngủ vì sợ ba mẹ sẽ chết trong khi nó ngủ. Đối diện với những nỗi sợ hãi này “giống như một người canh gác đang trực hai mươi bốn giờ liền”, Pfeiffer đã phát biểu như vậy.
Hình ảnh sợ hãi của em bé trai chính là hình ảnh của chúng ta đang bước đi trong cuộc đời. Dù chúng ta có đi lạc, Chúa Giêsu là mục tử tốt lành vẫn sẵn sàng bỏ tất cả 99 con chiên khác, ra đi tìm kiếm con chiên lạc. Người sẽ vác chúng ta lên vai, yêu thương và săn sóc, vì Người là mục tử tốt lành.
Có một câu chuyện huyền thoại Do Thái nói về Môsê. Ngày xưa khi Môsê đang chăn dắt đàn chiên của nhạc phụ ở Jethro, ông thấy một con chiên nhỏ chui qua bụi rậm và trốn mất. Môsê đã bỏ hết mọi sự đuổi theo con chiên nhỏ đó vì sợ nó đi lạc sẽ bị thú dữ ăn thịt. Sau cùng ông đã đuổi kịp con chiên nhỏ khi nó dừng lại bên giòng suối nước. Thì ra con chiên khát nước, nên nó chạy ra giòng suối để uống. Sau khi uống nước xong, Môsê ẵm chiên lên và nói: “Cưng ơi, ta đâu có biết ngươi chạy đi là vì ngươi khát nước. Bây giờ chân của ngươi mỏi mệt lắm rồi”. Nói như vậy rồi Môsê vác chiên lên vai và mang nó về đàn.
Khi Thiên Chúa nhìn thấy sự tận tình yêu thương của Môsê như thế, Ngài liền nói, “Rốt cuộc Ta cũng đã tìm ra được con người mà Ta đang tìm kiếm. Ta sẽ đặt Môsê là người chăn dắt Israel dân Ta”.
(Suy niệm của Lm Đaminh Đặng Văn Cầu)
Cách đây vài tuần, một bạn trẻ Công giáo đến nói với tôi: Thưa Cha, khi con hát bài “Chúa là Mục tử Người dẫn lối chỉ đường cho con đi…”, có mấy bạn không công giáo ở cùng phòng với con thắc mắc: Chúa là Mục Tử nhân lành ở chỗ nào? Đâu là đồng cỏ, là suối mát cho bạn được an nghỉ thảnh thơi? Nhiều người Công giáo, “con chiên” của Chúa, vẫn đói, vẫn nghèo, vẫn rách, “chạy bữa sáng mất bữa tối”, họ đâu có được sung sướng no thỏa? Hay như chính bản thân bạn, cơm áo gạo tiền của bạn là do cha mẹ bạn cung cấp chứ có do Chúa chiếc gì ban cho đâu?
Đúng là thời @, thời di động, thời thực dụng, thời giá cả leo thang có khác, người ta chỉ nghĩ tới cơm-áo-gạo-tiền mà ít nghĩ đến những yếu tố cao hơn, quý hơn, cần hơn, có thể đem lại hạnh phúc hơn những thứ đó.
Tôi trả lời bằng cách kể cho bạn đó nghe một câu chuyện tại thành phố quê tôi:
Có hai vợ chồng nọ là cán bộ về hưu, cả hai là người Công giáo đã đóng góp tuổi thanh xuân của mình nơi chiến trường rồi sau đó về làm cán bộ tại địa phương: Chồng làm kế toán, vợ làm cán bộ phụ nữ phường. Lấy nhau muộn nhưng họ cũng có được một hoàng tử và một công chúa (Họ vẫn gọi chúng như thế). Họ được phân một căn phòng tại một căn hộ tập thể. Gia cảnh nghèo với những bữa cơm đạm bạc nhưng trong nhà không thiếu những tiếng cười của cả trẻ con lẫn người lớn. Đến bữa cơm, những người bên cạnh thường nghe chị vợ mời anh chồng: “Anh ăn miếng đùi gà này đi” hoặc “các con ăn miếng cá thu này nhé”. Anh chồng mời lại: “Thì em cũng phải ăn đi cho nóng chứ”. Những người hàng xóm bảo nhau: Nhà ấy nghèo mà ăn sang thật, ngày nào cũng thịt với cá.
Một hôm những đứa con của họ sang hàng xóm chơi, họ hỏi chúng: Hôm nay nhà cháu ăn cơm với gì? Chúng đáp: Nhà cháu ăn cơm với rau muống, tương bần và cá khô. Họ lại hỏi chúng: Các bác vừa thấy bố mẹ các cháu và các cháu mời nhau ăn thịt, ăn cá cơ mà? Chúng đáp: Đó là bố mẹ cháu và chúng cháu muốn động viên nhau ăn cho ngon miệng nên đã nghĩ ra trò chơi đó. Mẹ cháu gắp một miếng rau hay miếng cá khô cho bố cháu và nghĩ ra một món ăn nào đó thật ngon để mời bố cháu hay chúng cháu. Thế là mọi người cứ ăn miếng rau đó và tưởng tượng ra những thức ăn khác nên rất ngon miệng.Họ mới vỡ lẽ: À ra thế. Chả bù cho nhà các bác, thức ăn ngon mà cứ mạnh ai người nấy ăn chứ chẳng ai mời ai bao giờ.
Vừa lúc đó có một vật gì bay qua chỗ hai đứa bé và rơi ra hành lang. Thì ra đó là chiếc bánh Chô-cô-pie của mấy đứa trẻ nhà giàu. Sau khi đã ăn chán chê, chúng cãi nhau rồi dùng những chiếc bánh đó để ném nhau. Một lúc sau, hai đứa bé xin phép ra về. Ra tới hành lang, đứa anh thò tay ra ngoài ban công, cố gắng với lấy cái bánh của những đúa con nhà giàu vừa vứt đi. Nó lau sạch rồi đưa cho em nó. Đứa em không chịu: Công anh nhặt lên, anh phải ăn chứ. Đứa anh đáp: Em ăn đi, anh ăn rồi, thỉnh thoảng đi học bọn bạn anh vẫn cho anh mà. Đứa em vẫn không chịu: Vậy thì anh phải ăn với em một nữa. Nói rồi nó bẻ chiếc bánh làm đôi đưa cho anh nó một nửa và hai đứa cùng ăn trong tiếng cười vui vẻ.
Nhìn thấy cảnh này, mấy người hàng xóm rất cảm động. Một người trong bọn họ nói: Tôi sẵn sàng đổi cả cái nhà ba tầng cùng với tiền tỷ để có được hai đứa con như hai đứa trẻ này.
Tôi nói với bạn trẻ: Bạn thấy đấy, tiền bạc bạn có thể làm ra nhưng có những cái bạn không thể làm ra và cũng không thể dùng tiền bạc để mua hay đánh đổi được.
Chúa không trực tiếp đưa cho bạn cơm áo gạo tiền nhưng Chúa ban cho chúng ta cả vũ trụ này với nhứng tài nguyên phong phú, tiền rừng bạc bể. Nhìn vào vũ trụ này bạn có thể thấy Chúa quả là vị Mục Tử nhân lành, tài tình và chu đáo.
Cái bạn có thể làm được, sản xuất ra được như cơm áo gạo tiền thì Chúa không làm thay bạn nhưng Chúa trợ giúp bạn vì bạn là con người có lý trí và tự do chứ không phải là con vật. Nhưng có những cái bạn không thể sản xuất ra được, thí dụ “không khí”, thì Chúa cho bạn và bạn có thể thở thoái mái mà không mất tiền.
Chúa ban cho bạn có cha mẹ, anh em, bạn bè để bạn yêu và được yêu. Ngài thông ban cho bạn và cho mọi người tình yêu của Ngài nên trong mỗi người luôn có khát vọng yêu và được yêu.
Chúa qua cha mẹ và những người thân của bạn để hướng dẫn săn sóc bạn.
Nếu Chúa trực tiếp ban cho bạn tất cả mọi thứ mà không qua cha mẹ và người thân của bạn thì thử hỏi mối quan hệ của bạn với họ sẽ ra sao?
Nhưng trên những thứ đó, Chúa còn ban cho bạn, tôi và mọi người một vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng dầy An Sủng và Chân Lý, Đấng hy sinh chính mạng sống để tôi, bạn và cho mọi người được sống dồi dào phong phú trong An Sủng và Lời của Ngài. Đó cũng chính là điều mà tác giả Thánh Vịnh 22, TV mà bạn vẫn hát, đã cảm nghiệm và tiên báo.
Đồng cỏ xanh và suối mát là Tình Yêu, Ơn Thánh và Lời Chúa
Đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát ở ngay trong tâm hồn bạn, nơi gia đình, bố mẹ và bạn bè của bạn.
Đồng cỏ xanh và dòng suối mát ở ngay chunh quanh bạn, trong thiên nhiên, trong môi trường mà bạn tiếp xúc.
Gia đình hạnh phúc mà tôi kể trên đây đã nhận ra điều đó. Họ biết họ không thể sống mà không có Tình Yêu, không có Chúa ở với họ và trong họ.
Họ chiêm ngưỡng và cảm nghiệm tình yêu của Vị Mục Tử Nhân Lành để đến lượt họ, họ cũng hy sinh cho người khác giống như Ngài.
Đấng Mục Tử nhân lành “biết” các chiên của mình và các chiên cũng “biết” mục tử của mình thì họ cũng vậy, họ biết nhau, biết Chúa hiện diện trong nhau, biết nhu cầu của nhau, biết những điểm mạnh điểm yếu của nhau để chia sẻ và giúp nhau thăng tiến.
Mỗi ngày Chúa Nhật, mỗi buổi tối, họ đến kín múc Tình Yêu và sức sống nơi Ngài qua việc cầu nguyện và lắng nghe Lời Ngài để trải rộng Tình Yêu và sức sống đó cho nhau, để tắm mát trong dòng sông Yêu Thương, để nuôi dưỡng nhau bằng chính Tình Yêu của Chúa Giêsu Thánh Thể và như vậy họ chính là NHỮNG MỤC TỬ ĐỜI THƯỜNG, hình ảnh của Đấng Mục Tử Nhân Lành.
Tôi và bạn, chúng ta đều được mời gọi trở nên những người mục tử đó để rồi từ cái căn bản, cái môi trường yêu thương đó sẽ có những người dấn thân mạnh hơn, sâu hơn, xa hơn trong ơn gọi tận hiến.
Có thể nói ưu tư lớn nhất của con người là sự sống. Chính vì sự sống này mà ngày ngày con người phải tất bật lo toan để kiếm cho được chén cơm, manh áo. Vì sự sống ấy nên mỗi khi ra đường ngồi trên xe gắn máy hai bánh chúng ta buộc phải đội nón bảo hiểm. Cũng vì sự sống ấy mà nhiều lúc các bác sĩ gần như phải chiến đấu với thần chết từng giây phút cho bệnh nhân của mình. Vì thế, cái quý nhất của con người đó là sự sống.
Hơn nữa, người Công giáo chúng ta còn tin sự sống của mỗi người là quà tặng cao quý mà Thiên Chúa ban cho. Hay nói khác hơn sự sống của con người chúng ta phát xuất từ Thiên Chúa. Cho nên, muốn bảo đảm được sự sống của mình không cách nào khác là chúng ta phải cậy dựa vào Thiên Chúa. Hiểu được tâm trạng ấy nên hôm nay Chúa Giêsu nói với từng người chúng ta: “Ta đến để cho chiên đ ược sống và sống dồi dào ” (Ga 10, 10). Chúa Giêsu đã tự ví mình như người mục tử nhân lành đem lại sự sống cho chúng ta là những con chiên của Người. Đây là hình ảnh rất quen thuộc với người Do thái.
Thật vậy, chúng ta biết Chúa Giêsu được sai xuống trần gian này là để hoàn tất ý định yêu thương ngàn đời của Chúa Cha. Bởi lẽ, ý định yêu thương ngàn đời của Thiên Chúa là muốn con người được sống dồi dào và hạnh phúc. Đáng tiếc là con người đã đánh mất. Dù vậy, Thiên Chúa vẫn không chịu thua. Thiên Chúa đã tìm mọi cách để giúp con người tìm lại sự sống trọn vẹn ấy.
Chúng ta đang sống trong Mùa Phục sinh. Mùa Phục sinh nhắc ta nhớ đến chính Chúa Giêsu đã chịu đau khổ và sự chết nhưng chính Người đã sống lại. Đó là niềm tin căn bản của mỗi người chúng ta. Do đó, nếu chúng ta biết đi theo sự hướng dẫn của Người và nhất là biết sống như Người chắc chắn chúng ta sẽ tìm lại được sự sống thật.
Hôm nay cũng là ngày cầu cho ơn thiên triệu. Trước hết chúng ta hãy nhớ cầu nguyện cho những người được chia sẻ sứ mạng mục tử của Chúa Giêsu: các Linh mục của Chúa biết sống theo gương của Người. Đó là biết tận tâm, tận lực để hiến trọn cuộc đời phục vụ những người được trao phó. Đồng thời chúng ta cũng cầu nguyện cho ngày càng có nhiều bạn trẻ dám can đảm dấn thân vào đời sống tu trì.
Ngày 20.4.2002, nhật báo Chicago Sun Times đăng tin về linh mục Gary Graf, 43 tuổi, thuộc tổng giáo phận Chicago, vị mục tử giầu tình thương đối với những người di dân nói tiếng Tây Ban Nha thuộc giáo xứ Holy Family, Waukegan, Illinois. Ngài đã bình phục sau một cuộc giải phẫu dâng hiến 60/o lá gan của mình cho một người giáo dân đang cần thay gan để sống thêm một thời gian nữa. Người giáo dân này tên là Miguel Zavala, một người đàn ông khoảng 40 tuổi.
Trước cử chỉ hy sinh và lòng bác ái cao cả này của cha chính xứ, một giáo dân trong giáo xứ đã phát biểu: “Cha Gary thật là vị mục tử nhân lành. Ngài hy sinh mạng sống của mình cho con chiên bằng bất cứ giá nào có thể”. Trong lá thư gửi cho giáo dân, cha Gary đã viết: “Ơn gọi độc thân, cùng với sự hy sinh vì nước trời, đã cho phép tôi trở nên một thành phần của gia đình to lớn hơn, bởi vì tất cả các anh chị em trong giáo xứ là gia đình của tôi”.
Các bác sĩ cho biết rằng loại gan cha Graf dâng tặng được coi là rất hiếm. Và công việc ban tặng như thế tuy giúp ích được cho nhiều người, nhưng cũng rất nguy hiểm cho tính mạng của cả hai người, người cho lẫn người nhận.
Qua cách ban tặng một phần lá gan của mình cho giáo dân, cha Graf đã phản ảnh ý nghĩa của dụ ngôn về người mục tử tốt lành như chính Chúa Giêsu đã làm: “Ta chính là Mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên. Noi gương Chúa Giêsu, vị mục tử tốt lành, nhiều giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ và các bậc cha mẹ cũng đang hy sinh cuộc đời của mình cho đàn chiên. Sự hy sinh của họ không phải một lần là xong, nhưng kéo dài mỗi ngày suốt cuộc đời!
Trong niềm hy vọng sống lại của Mùa Phục Sinh, hôm nay chúng ta nhìn vào gương mẫu của Chúa Giêsu Kitô, Người mục tử tốt lành đã luôn luôn hiện diện, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống để cứu chuộc chúng ta. Sách Giáo lý Công giáo số 754 đã gọi Ngài là “Ông Hoàng của các chủ chăn”. Xin Ngài giúp chúng ta biết sống theo sự hướng dẫn của Ngài. Xin Ngài giúp cho Giáo Hội và các gia đình có những mục tử tốt lành theo khuôn mẫu của Ngài.
Chúa Nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, là ngày dành cầu nguyện đặc biệt cho ơn gọi giáo sĩ và tu sĩ. Hình ảnh mục tử chăn dắt đàn chiên thường được dùng để diễn tả những người có trách nhiệm lãnh đạo Giáo hội, có nhiệm vụ chăm do đời sống giáo dân. Hình ảnh này được bắt nguồn từ trong Cựu Ước. Tiên tri Ezêkiel đã dùng hình ảnh đàn chiên và chủ chiên để báo trước rằng Chúa sẽ đến dẫn dắt Israel như mục tử chăn dắt đàn chiên. Đến thời Tân Ước, Chúa Giêsu cũng tự xưng Thầy là mục tử tốt lành.
Hình ảnh mục tử có vẻ xa lạ đối với người Việt nam hôm nay. Nhưng đối với người Palestine thời ấy, đầy là hình ảnh rất đẹp. Nó diễn tả sự gần gũi, quan tâm chăm sóc hết mình trong liên hệ chủ chăn và đàn chiên. Sự hiện diện gắn bó của mục tử đối với đàn chiên là không thể thiếu.
Đời sống của mục tử tại Palestine rất vất vả. Không có bầy chiên nào dám ăn cỏ nếu không có người chăn chiên bên cạnh. Vì thế, người chăn chiên không hề được nghỉ ngơi. Những vùng cỏ ít, chiên phải đi dông dài, không hàng rào bảo vệ, người chăn phải luôn luôn dõi theo đàn không rời mắt. Công việc của người chăn chiên không chỉ có tính cách thường trực mà còn có khả ngăn gặp nhiều nguy hiểm nữa. Phải tìm cách chống trả với những bầy thú dữ như sói , hay những lần phải đối mặt với những tên trộm cướp đến bắt chiên. Có thể nói những đặc điểm nổi bật nhát của người chăn chiên là: thường xuyên canh thức theo dõi, can đảm không sợ hãi, khiên nhẫn yêu thương bầy chiên mình.
Vì những đặc điểm ấy, Chúa Giêsu đã lấy người chăn chiên để nói về chính bản thân Ngài. Ngài đến trần gian và hy sinh tất cả cho đàn chiên là những con người yếu hèn, tội lỗi. Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành. Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống để tìm và cứu vớt những con chiên đi lạc xa đàn ( Mt 18,12; Lc 15,4). Ngài động lòng thương xót dân chúng vì họ như chiên không có người chăn dắt (Mt 9,36; Mc 6,34). Chúa Giêsu chính là vị mục tử trung thành của Thiên Chúa. Ngài đã tự nguyện đón nhận săn sóc bầy chiên chứ không phải làm cách miễn cưỡng, làm vị nhiệt tình chứ không vì ham lợi, không lạm dụng địa vị để đánh đập ức hiếp đàn chiên nhưng nều gương lành yêu thương trìu mến.
Người ta bảo, mối liên hệ giữa chiên và người chăn chiên ở Palestine rất khác ở Anh quốc. Ở Anh người ta nuôi chiên để giết lấy thịt. Còn ở Palestine thì không, nuôi chiên để lấy lông làm len. Vì thế mà chiên được sống nhiều năm hơn vớichủ nên có mối liên hệ thân tình. Thân tình đến độ chiên biết rõ tiếng chủ và chủ biết rõ đắc điểm của từng con chiên. Đối với chủ chăn Giêsu, Ngài không chỉ biết nhưng còn quan tâm, tích cực hơn nữa Ngài còn ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ diệt vong. Đây là một ân huệ lớn lao cho những chiên nào thuộc đàn của mục tử Giêsu.
Ngày nay, Giáo hội có những người tiếp tục công việc chăn dắt của Chúa Giêsu. Đó là những Giám mục, Linh mục, tu sĩ. Họ là người tự nguyện dấn thân bước theo vị mục tử Giêsu. Chúng ta cầu nguyện cho họ có nhiều nghị lực trung thành phục vụ Hội thánh Chúa. Giáo hội ngày nay rất cần những mục tử, nhất là những mục tử tốt lành: những mục tử sẵn sàng xả thân vì đàn chiên, những mục tử quan tâm chăm lo đàn chiên, những mục tử luôn thao thức phục vụ đàn chiên để “chiên được sống và sống dồi dào”.
Thực tế, giới trẻ ngày nay dường như chẳng mấy quan tâm đến ơn gọi làm linh mục tu sĩ. Có nhiều lý do khiến các bạn trẻ chẳng màn gì đến ơn gọi: Chính từ nhận thức và hoàn cảnh sống làm cho họ ngại ngùng khi nói đến dấn thân hay từ bỏ. Trong gia đình ít con, con cái có học vị cao thì cha mẹ không dễ gì cho con cái đi tu. Vì sợ chúng phải khổ sở và không muốn chúng bị “xuống đời”. Giới trẻ cũng quên nếp sống tự do, tự lập nhiều sáng tạo, sáng kiến. Chính vì thế, họ sợ gặp căng thẳng với nếp sống kỷ luật và hình thức tu trì hiện nay. Nhiều bạn trẻ cảm thấy tiến trình thành người linh mục, tu sĩ quá nhiêu khê, đòi hỏi phải từ bỏ nhiều thứ quá và họ sợ không thể làm nổi. Do đó, dù cho họ có tinh thần dấn thân phục vụ đi chăng nữa nhưng trước những khó khăn, thách đố cuộc sống dễ làm cho họ ngó lơ, miễn bàn khi nhắc đến đời sống tu trì dấn thân.
Chúa Giêsu luôn mời gọi mỗi người tiếp bước theo Ngài trong nhiệm vụ chăn dắt. Hình ảnh Mục tử nhân lành Giêsu sẽ không mờ nhạt đi nếu Giáo hội vẫn còn những con người dám xả thân phục vụ vì hạnh phúc con người, vì tương lai của Giáo hội và vì lý tưởng cao đẹp là mỗi ngày có thêm nhiều người nhận biết Thiên Chúa là tình yêu.
Hình ảnh chuồng chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với người dân sinh sống tại vùng Palestine thời Chúa Giêsu. Đó là những dải hàng rào chắc chắn được quây lại theo hình vuông hay hình chữ nhật với một cửa ra vào duy nhất. Cứ chiều đến, các chủ đoàn chiên lùa chiên vào chuồng qua cửa duy nhất này, rồi trao phó việc canh giữ chuồng chiên cho những người được thuê mướn làm công việc này. Sáng sớm hôm sau, các chủ đoàn chiên lại đến để đưa chiên ra khỏi chuồng đi ăn nơi những đồng cỏ. Chuồng chiên là nơi bảo vệ an toàn cho đàn chiên.
Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc này khi so sánh Ngài với cửa chuồng chiên và người chăn chiên tốt lành để mạc khải lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa đối với con người nói chung, và nhất là sự chăm sóc bảo vệ của Ngài đối với những ai tin nhận Ngài nói riêng, vì Ngài là mục tử tốt lành. Thế nào là một mục tử tốt lành? Chính Chúa Giêsu đã phác họa bằng ba vẻ đẹp:
Ân cần chăm sóc các chiên của mình: Vẻ đẹp này đã được diễn tả bằng hình ảnh một người thanh niên đang chăn chiên trên một cánh đồng lớn, có những cỏ non xanh, có những dòng suối mát, và người thanh niên ấy vác trên vai một con chiên đau bệnh. Sự chăm sóc của Chúa Giêsu mục tử đó là một vẻ đẹp có sức hấp dẫn.
Sẵn sàng hy sinh, liều mạng cho đoàn chiên: vẻ đẹp này thường được diễn tả bằng hình ảnh con bồ nông mẹ, nhỏ từng hạt máu của mình vào miệng những đứa con non nớt để nuôi dưỡng chúng cho đến hạt máu cuối cùng rồi lăn ra chết. Mẹ chết để cứu đoàn con. Sự hy sinh của Chúa Giêsu mục tử là một vẻ đẹp có sức đánh động những trái tim khô cứng.
Hiểu biết từng con chiên mình: Vẻ đẹp này đã được diễn tả bằng hình ảnh một người cha ôm hôn đứa con ngỗ nghịch trở về. Bởi vì mắt cha nhân từ, hiểu biết sự yếu đuối, dại khờ, nông nổi của đứa con, và hiểu thiện chí tối thiểu của đứa con mình. Đây là một vẻ đẹp phản ảnh tình yêu cứu độ của Chúa.
Ba vẻ đẹp trên đây đều nói lên vẻ đẹp duy nhất của Thiên Chúa, đó là tình thương xót. Tình thương xót là chân dung của Chúa, là dung mạo của Chúa, là khuôn mặt của Chúa.
Vì thế, khi so sánh mình với người mục tử tốt lành, Chúa Giêsu muốn cho mọi người hiểu rằng: Ngài chính là tiêu chuẩn, là mẫu mực để xác định sứ mạng đích thực của những người được gọi và tuyển chọn cộng tác với Ngài trong sứ mạng coi sóc đoàn chiên là cộng đoàn những kẻ tin Chúa. Những người được chọn cho sứ mạng chăn dắt đoàn chiên nếu không vào qua cửa là Chúa Giêsu thì không phải là những chủ chăn đích thực. Nói rõ hơn, những chủ chăn đích thực phải được chính Chúa tuyển chọn.
Điều này đã được thực hiện từ khi Chúa thiết lập Giáo Hội cho đến ngày nay, như Công đồng Vaticanô II, trong hiến chế về Giáo Hội đã tuyên bố: “Chúa Giêsu đã chọn các tông đồ và Ngài muốn các người kế vị, tức là các giám mục, làm chủ chăn trong Giáo Hội cho đến tận thế”. Nhưng để chức giám mục được duy nhất và không bị phân chia, Chúa đã đặt thánh Phêrô làm thủ lãnh các tông đồ khác. Vì thế, các Đức Giáo Hoàng là những người kế vị thánh Phêrô là thủ lãnh hữu hình của toàn thể Giáo Hội. Như vậy, quyền bính trong Giáo Hội được Chúa trao phó cho Đức Giáo Hoàng, Đấng kế vị thánh Phêrô, và các Giám mục kế vị các tông đồ. Tuy nhiên, gần gũi chúng ta hơn cả còn có các linh mục, là những cộng tác viên đã được các giám mục ủy quyền chăm sóc đoàn chiên.
Do đó, chúng ta thấy sự tương quan giữa chúng ta và hàng giáo phẩm, tức là giữa đoàn chiên và các vị chủ chăn: qua linh mục chính xứ, chúng ta liên hệ với giám mục giáo phận. Qua Đức giám mục, chúng ta liên hệ với Tòa Thánh, với Đức Giáo Hoàng. Như vậy, linh mục là người thi hành nhiệm vụ chủ chăn trực tiếp với chúng ta, là người sống gần gũi chúng ta, đáng cho chúng ta thông cảm, chia sẻ, cộng tác và cầu nguyện cho các ngài.
Hy vọng rằng sự liên lạc mật thiết giữa giáo dân và chủ chăn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho Giáo Hội. Nhờ sự liên lạc đó giáo dân ý thức trách nhiệm của mình hơn, lòng hăng say được phát triển và góp sức dễ dàng hơn vào công việc của chủ chăn. Phần chủ chăn, nhờ giáo dân, có thể phán đoán minh bạch và đúng đắn hơn về những vấn đề thiêng liêng cũng như trần thế. Như vậy, toàn Giáo Hội được vững mạnh và càng ngày càng tốt đẹp hơn.
Một vị mục sư trung thành, đạo đức, đang đau nặng. Anh en tín đồ quì cạnh giường bệnh, cầu xin Chúa cứu chữa cho ông. Họ nhắc với Chúa rằng ông coi sóc bầy chiên của Người rất tận tâm và họ lập đi lập lại câu này:”Chúa biết không mục sư yêu mến Ngài biết bao!”.
Nghe vậy vị mục sư bèn xoay qua phía họ mà nói:
– Xin anh em đừng cầu nguyện như thế. Khi Maria và Matta sai người đi mời Đức Giêsu, thì họ không nói “Lạy Chúa, này kẻ yêu Chúa” nhưng nói: “Lạy Chúa, này kẻ Chúa yêu đang bị đau nặng”. Tôi được yên ủi chẳng phải vì tôi yêu Chúa cách bất toàn, nhưng vì Chúa yêu tôi cách trọn vẹn.
Nhiều khi chúng ta tưởng mình yêu Chúa nhưng chính Chúa mới là người yêu chúng ta trước, yêu vô điều kiện, và yêu không bến bờ.
Đức Giêsu chính là mục tử tốt lành, Người luôn yêu thương đàn chiên, và yêu từng con chiên một. Chính Người yêu thương chăm sóc đàn chiên nên các con chiên mới được ăn trên đồng cỏ xanh, uống bên dòng suối mát. Chính Người lưu tâm bảo vệ đàn chiên, nên các con chiên mới an toàn khỏi kẻ băt trộm, khỏi nanh sói dữ.
Nếu Người đã nói:”Tôi biết các chiên tôi”, thì phải hiểu là Người biết rõ chúng ta cần những gì cho linh hồn và thể xác, nên đừng băn khoăn xao xuyến. Hãy tin tưởng ở nơi Người.
Nếu Người đã nói:”Chiên tôi thì nghe tiếng tôi”, là Người muốn chúng ta chỉ lắng nghe duy nhất tiếng gọi yêu thương của Người. Đừng nghe theo một tiếng gọi nào khác. Nó có tên là ma quỉ, thế gian và xác thịt.
Nếu Người đã nói:”Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”, là Người muốn chúng ta được sống tràn trề bên dòng suối Lời Chúa và sung mãn với lương thực Thánh Thể của Người. Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ.Chúng ta cần cho có nhiều tâm hồn quảng đại, biết dấn thân vô điều kiện, và phục vụ vô vị lợi cho đàn chiên Chúa. Vì đàn chiên không thể thiếu chủ chiên.
Chúng ta cần cổ vũ cho ơn gọi linh mục và tu sĩ bằng cách khích lệ tinh thần và hỗ trợ tài chánh cho các mầm non ơn thiên triệu trong Giáo phận và Giáo xứ của mình.Chúng ta cần tích cực dạy cho con cháu biết lắng nghe lời Chúa, chuyên tâm cầu nguyện, hăng say làm việc tông đồ, và quan tâm phục vụ người mhèo. Nhờ vùng đất màu mỡ này mà ơn gọi linh mục và tu sĩ sẽ nảy sinh.
Lạy Chúa, Chúa là mục tử tốt lành, xin dẫn dắt chúng con đi trên nẻo đường của Chúa, để chúng con được no thỏa ân tình của Ngài.
Xin ban cho chúng con những chủ chiên nhân lành, chỉ biết say mê Chúa và say mê con người, chỉ biết yêu thương, phục vụ, và chăm lo cho đàn chiên Chúa, để chia sẻ với Chúa nỗi bận tâm về một đàn chiên “được sống và sống dồi dào”.
Trong khuôn viên Đại Chủng Viện Thánh Quý – Cần Thơ có một tiểu cảnh với chủ đề “nương tựa”. Tiểu cảnh nầy 80% được tạo nên từ phế liệu: một khung bê-tông của tường rào hư bỏ ra, một ống cống không còn sử dụng được nữa, những đoạn dừa, những cây cao sâm banh chết… Tất cả chúng được sơn chút màu và được xếp tựa vào nhau thành những hình tam giác, hình mái nhà… Chúng cùng tựa vào nhau để tồn tại, để làm nên tiểu cảnh đẹp. Nếu thiếu một thứ trong chúng, người ta không thể hiểu được đó là gì. Tiểu cảnh này được các chủng sinh rất yêu thích vì nó nhắc nhớ tinh thần yêu thương nâng đỡ nhau mà mục tiêu đào tạo của chủng viện luôn đặt hàng đầu.
Vâng, con người mang xã hội tính, cần nương tựa vào nhau để tồn tại. Tuy nhiên, con người chưa phải là điểm tựa lý tưởng cho con người. Chỉ có Thiên Chúa mới là điểm tựa an toàn nhất, như một danh nhân đã nói: “Đừng dựa vào cây, cây sẽ đổ; đừng dựa vào người, người sẽ chết. Hãy dựa vào Thiên Chúa”. Hay nói khác đi, Đức Kitô Phục Sinh là nơi tựa nương không hề ngã đổ, vì “Đức Kitô đã chết nhưng Người đã sống lại, cái chết không còn quyền chi đối với Người nữa” (Rm 6,9).
Phúc Âm hôm nay nêu lên cho chúng ta hình ảnh một người chủ chăn tốt lành. Người chủ chăn đó không ai khác hơn là Đức Kitô – Đấng “Thiên Chúa đã đặt lên làm Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2,36), “Đấng chăm sóc linh hồn anh em” (1 Pr 2,25). Người đã tuyên bố: “Ta là cửa chuồng chiên… Ta đến cho chiên được sống và sống dồi dào” (Gn 10,10). Bạn có vui không khi có được một chỗ dựa an toàn như thế? Chỉ có chủ chăn tốt mới nhẫn nại chăm sóc chiên. Ngài quan tâm đoàn chiên đến nỗi biết tên từng con một. Ngài đi trước hướng dẫn đoàn chiên trong cuộc hành trình. Trong lúc chiên nghỉ ngơi thì Ngài là người canh cửa, bảo vệ đoàn chiên khỏi hiểm nguy của kẻ thù.
Trong cuộc sống đời thường, giữa những khó khăn thất bại, tôi cứ nghĩ rằng do mình bất tài, do mình thiếu cố gắng. Tôi cay cú và bực dọc, than thân trách phận. Thỉnh thoảng được thành công, tôi tự hào, tự mãn đó là sức lực của tôi, là phần tôi đáng được hưởng. Cuối cùng, dẫu được hay thua thì tôi vẫn là tôi với thân phận mỏng giòn, chỉ lanh quanh với những sự ảo huyền. Tôi đã không biết đặt hy vọng của mình nơi Chúa. Tôi cao ngạo nghĩ rằng tự sức mình làm được mọi sự. Ở bên Chúa ngọt ngào êm ái biết là đường nào mà tôi đâu biết.
“Hãy đến với Ta hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng nề, Ta sẽ bổ sức cho… Ách của Ta thì êm ái, gánh của Ta thì nhẹ nhàng” (Mt 11,28). Tựa vào Chúa, tôi đâu phải hụt hẫng, hoang mang. Ngài luôn bao bọc tôi, ôm ấp tôi trong bóng cánh của Ngài. Đôi lúc Ngài tập cho tôi bước đi trên chính đôi chân của mình, Ngài để tôi vấp ngã để tôi cứng cáp hơn, nhưng không bao giờ Ngài đẩy tôi vào chỗ hiểm nguy.
“Chúa là nơi con nương tựa, con còn sợ gì ai” (x. TV 22). Đức Phật cho rằng: “Đời là bể khổ”. Điều này không sai. Tuy nhiên, chúng ta – các Kitô hữu – không lo âu, sợ hãi vì chúng ta có Chúa. Người luôn nâng đỡ chăm sóc cho chúng ta. Ước gì bạn không phải bận lòng với những thách đố của cuộc sống, vì Chúa luôn cùng đi và cùng làm với bạn.
“Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Ngài, Ngài sẽ ra tay” (Tv. 37)
“Ta đến để anh em được sống và sống dồi dào”.
Phải chăng Đức Giêsu đang nói về sự sống đời đời, hoặc Người cũng nói về cuộc sống này nữa? Tôi không còn nghi ngờ gì nữa, những lời nói này được áp dụng cho cả cuộc sống của chúng ta trên trái đất, cũng như cho cả niềm hy vọng của chúng ta đối với cuộc sống đời đời.
Có một giai thoại dễ thương của Tây Ban Nha như sau: Khi người ta đi đến cổng thiên đàng, và đang tìm cách đi vào, thì thánh Phêrô hỏi họ bằng một câu hỏi xa lạ. Ngài nói với mỗi người:”Hãy nói cho ta nghe. Trong khi còn sống trên mặt đất, người có biết tận dụng tất cả những thú vui trần thế, mà do lòng nhân lành, Thiên Chúa đã dành sẵn cho ngươi không?”.
Nếu người nào đáp lại là “Thưa ngài, không ạ”, thì thánh Phêrô liền lắc đầu buồn bã và nói “Than ôi, hỡi bạn, ta không thể để cho ngươi vào được, không thể vào bất cứ cổng nào. Làm sao ngươi có thể trông mong mình sẵn sàng vui hưởng được những vui thú trên thiên đàng, nếu ngươi không tự chuẩn bị cho mình biết đón nhận được những thú vui đó, thông qua trung gian là những thú vui trần thế? Ta bắt buộc phải gửi trả ngươi xuống mặt đất, cho đến khi ngươi học hỏi được một cách tốt hơn”.
Trong quá khứ, người ta có khuynh hướng đồng nhất đạo Công giáo với những giới hạn và cấm đoán. Nhiều người trong chúng ta đã được giới thiệu một nền thần học về tách rời khỏi thế giới. Người ta coi cuộc sống hiện nay như thời gian thử thách. Tính cách thiêng liêng này đã ngăn chặn niềm vui sống. Tính cách này đưa đến tâm trạng nửa vời, làm cho chúng ta như thể luôn luôn lưu giữ điều gì đó tụt hậu, luôn luôn sống một cách quá cẩn thận, đầy sợ hãi, tủn mủn.
Trong khi nỗ lực sống tận tụy, đạo đức chúng ta cũng phải có khả năng vui sống đến mức độ trọn vẹn nhất. Tuy nhiên, vui sống trọn vẹn không phải là sống phóng túng.
Cuộc sống là một quà tặng mỏng giòn. Mỗi giây phút đều dứt khoát mang tính cách duy nhất. Khi ý thức như vậy, chúng ta sẽ tập trung chú ý vào sự việc đang diễn ra bây giờ. Nhưng mỗi giây phút cũng rất mau qua. Dòng đời trôi nhanh chóng biết bao! Tính cách mau chóng này tạo cho cuộc sống nét sâu sắc của nó, và làm cho tất cả mọi nét trong cuộc sống trở nên càng quí giá hơn.”Bởi vì chúng ta không được vĩnh viễn vui hưởng thế gian này, mà chỉ được vui hưởng một cách chóng vánh; cuộc sống của chúng ta giống như việc đem lại sự ấm áp cho chính mình dưới ánh mặt trời”.
Chúa Chiên Lành mong muốn cho chúng ta có sự sống. Do đó, chúng ta đừng nên quá nhút nhát và sợ hãi. Hãy sống bất cứ điều gì tự xảy đến với chúng ta, bởi vì mọi sự đều là một món quà từ Thiên Chúa. Cuộc sống luôn quảng đại với những ai biết đưa cả hai bàn tay ra nắm bắt nó.
“Nếu chỉ hiện hữu mà thôi thì chưa đủ. Trong cuộc sống, ý nghĩa không hệ tại ở điều mà con người tìm kiếm, mà là ở cảm nghiệm do được sống – đó là trạng thái phấn khích vì được sống”. Chúng ta được dành cho cuộc sống này. Đây là một sự kiện mà ai cũng biết rằng những người nào đã vui sống một cách trọn vẹn và sôi nổi, thì khi chết đi, sẽ không cảm thấy bị lãng phí cuộc đời.”Bạn đừng sợ hãi rằng cuộc sống của bạn sẽ chấm dứt, cho bằng hãy sợ hãi rằng không bao giờ được bắt đầu cuộc sống.
Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ của Người bằng những lời sau đây “Hãy tin vào Tin Mừng”. Mà Tin Mừng là gì? Tin Mừng chính là “Ta đến để cho anh em được sống và sống dồi dào”.
Hình ảnh cậu bé chăn cừu, chăn trâu, chăn bò, canh bầy vịt ngoài đồng là hình ảnh quen thuộc trong xã hội, trong dân gian, đôi khi còn là hình ảnh thơ mộng trong thi ca, văn chương. Nhất là hình ảnh mục đồng chăn chiên, bò, lừa đóng vai trò quan trọng trong khung cảnh ngày lễ Thiên Chúa Giáng Sinh làm người (Lc 2,1-20).
Hình ảnh người chăm sóc đàn súc vật ngoài đồng là hình ảnh thật đẹp, phác họa tình liên đới giữa người và đàn vật, và cũng nói lên sự cần thiết hỗ tương giữa hai bên.
Mối tương quan giữa mục đồng và đàn súc vật có thể phân biệt làm hai: Một người chăm sóc chúng với chủ đích lấy lông, lấy da bán làm đồ quý giá đắt tiền; và một người với chủ tâm nuôi súc cho béo tốt, để bán thịt. Súc vật cần cho cuộc sống kinh tế. Và con người cũng đóng vai trò quan hệ trong việc làm cho súc vật có giá trị kinh tế.
Còn mối tương quan giữa con người với nhau thì sao? Không còn gì thất vọng buồn thảm, nhẫn tâm hơn nữa, nếu một người cảm thấy mình bị bỏ rơi, khi không còn mang lại lợi ích gì cho người khác nữa, hay đã bị lợi dụng vào mục đích tư lợi ích kỷ!
Ai là người cũng có khát vọng được kính trọng yêu mến, được nhìn nhận có giá trị, được trọng dụng. Nếu những khát vọng căn bản này không được đáp ứng, hay bị khinh miệt, con người sẽ rơi vào tình trạng bị khủng hoảng tinh thần, đến độ thành người bệnh hoạn cả tâm thần lẫn thể xác.
Chúa Giêsu ví mình là “mục đồng” chăm sóc đời sống con người. Ngài không làm việc này với chủ đích kinh tế, bán lông, bán thịt. Ngài là người “mục đồng” để ý đến đời sống của con người. Ngài chăm sóc đến những nhu cầu căn bản của đời sống: an vui, hạnh phúc trong tâm hồn, đời sống được no đủ, được bảo vệ: “Ta là mục đồng tốt lành, ta biết chiên của ta, và các chiên của ta biết ta… Ta hy sinh đời sống ta cho đoàn chiên.” (Ga 10,14-15)
Chúa Giêsu tự nhận: “Ta là người mục đồng tốt lành” (Gioan 10,11). Lời xác quyết này muốn nói lên: “Tôi quan tâm đến đời sống tâm hồn con người. Nỗi băn khoăn lo âu đè nặng tâm hồn họ, là băn khoăn của tôi. Tôi muốn giúp họ thoát khỏi gánh nặng nầy.” Và tên Giêsu có nghĩa: Thiên Chúa, Đấng chữa lành, Đấng cứu độ, Đấng làm mọi sự nên hoàn chỉnh.
Chúa Giêsu là Mục đồng chăm sóc đời sống con người. Ngài không nhắm đến lợi nhuận, nhưng quan tâm đến nhân vị của họ.
Những người Tin theo Ngài, là môn đệ của Ngài, cũng phải sống là nhân chúng cho lòng bao dung tha thứ. Mang bình an, niềm Vui, niềm Hy vọng đến cho đồng loại.
Người mục tử nhân lành phải được thể hiện qua hành động với đoàn chiên, nghĩa là phải đi qua cửa mà vào, chiên nghe tiếng của anh ta; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra… anh đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng anh. Còn ngược lại, nếu ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm. Theo toàn thể văn mạch, Chúa Giêsu muốn nhắm đến các người biết phái và ký lục là những kẻ tự cho mình là lãnh đạo dân, hướng dẫn về đời sống thiêng liêng, nhưng thực ra họ chỉ là những kẻ háo danh và chỉ quan tâm đến thiện ích riêng tư của họ.
Thông thường chúng ta hay nghĩ mục tử là những người lãnh đạo, là những người hướng dẫn trong cộng đoàn họ đạo. Nhưng thực ra mục tử cũng có thể được hiểu rộng ra là các bậc cha mẹ trong gia đình. Chúa Chiên Lành hôm nay chính là mẫu gương cho các bậc cha mẹ noi theo. Ta cũng được Chúa trao cho những linh hồn để trông coi, dẫn dắt, là những người mục tử nhưng hành động của chúng ta có giống Chúa Giêsu Nhân Lành hay chúng ta vẫn còn đang hành động giống như kẻ trộm?
Vậy cha mẹ phải ăn ở thế nào cho đáng là chúa chiên lành của con cái mình.
Tự trong sâu thẳm đáy lòng với khuynh hướng tự nhiên cha mẹ dễ dàng chăm sóc hy sinh vì hạnh phúc của chính con mình. Trong thực tế có rất nhiều cha mẹ đã yêu thương con, chăm sóc cho con, lo cho con đầy đủ không để con cái thiếu thứ gì, như thế có thể gọi là mới làm tròn phận sự về phần xác. Còn về phần hồn thì sao? Ta đã quan tâm đủ đến con cái chưa? “gọi tên từng con” để chúng không bị lạc vào thế giới hiện đại của công nghệ thông tin, với những trò chơi và hình ảnh không thích hợp với tuổi của chúng. Ta có Ta có tránh cho chúng chơi với những bạn bè xấu, ta có cất bỏ những dịp đưa chúng đến sự xa hoa, truỵ lạc không? Nếu ta không làm như vậy thì ta không phải là chúa chiên lành, vì người mục tử nhân lành thì anh ta “đi trước và chiên đi theo sau” biết chỗ nào nguy hiểm để cho chiên tránh, biết chọn ngọn cỏ tốt cho chiên ăn, chỗ an toàn cho chiên nằm.
Hơn thề, ta có sẵn sàng hy sinh những tham vọng của ta, nếu Chúa gọi con cái chúng ta dâng mình cho Chúa hay không? Hay chúng ta chỉ ích kỷ muốn cho con cái chúng ta vâng theo những tính toán đời này của chúng ta, mà không cho chúng theo ơn Chúa kêu gọi. Nếu chúng ta làm như vậy, thì chúng ta không hành động như Chúa Chiên Lành, vì Chúa Chiên Lành sẵn sàng hy sinh vì con chiên chứ không cần lời lãi ở con chiên. Nếu làm như thế chúng ta có khác gì các Kinh sư và người Pharisêu. Chúng ta có biết từng con chiên của ta như Chúa không? Ngài có thể gọi “đích danh từng con” chứng tỏ Ngài rất hiểu và biết nằm lòng sự khác của các con để không bị nhầm lẫn con này với con kia. Trong đoàn chiên gia đình cũng thế, cha mẹ là những người chăn chiên cũng phải hiểu rõ tính nết từng đứa con mình, để mà sửa đổi những tính hư nết xấu, biết dẫn chúng đến những đồng cỏ nhân đức cho chúng ăn, có như vậy chúng mới có thể trở thành những con chiên mập, béo tốt và giúp ích cho tương lai được.
Trong một cộng đoàn, không chỉ có mục tử mới có bổn phận với con chiên, mà con chiên cũng có bổn phận với người mục tử. Nếu mục tử nhân lành biết chiên của mình, thì con chiên cũng phải “biết tiếng của anh”. Ta là con chiên của Chúa, ta có thật sự biết Chúa và đi theo Chúa chưa? Hỡi ơi nhiều người Công Giáo thú nhận mình biết Chúa rất hời hợt. Có lẽ họ chỉ biết có Chúa. Còn những lời Người dạy qua các bài Giáp lý, Kinh Thánh đã được học từ nhỏ thì nay không còn nhớ gì hết. Không những thế, con chiên còn phải nghe lời và theo Người nữa. Khi nhìn lại mình chúng ta phải lấy làm xấu hổ vì đã không vâng lời Người bằng đoàn chiên vâng lời kẻ chăn. Trong khi Chúa hằng đi trước để chỉ lối cho ta. Vì thế nếu ta luôn “đi theo sau” chân Người, thì không bao giờ bị lạc đường sai lối. Nếu chúng ta có gặp nguy hiểm, hoạn nạn gian khổ, thì hãy nhớ rằng Chúa đã trải qua và chúng ta chỉ đi theo Người.
Lạy Chúa Giêsu là Mục Tử nhân lành, xin cho con được biết Chúa, nghe Chúa, theo Chúa và trở nên giống Chúa để cùng được đoàn tụ trên nước thiên đàng với Chúa. Amen.
Qua dụ ngôn về “Cửa chuồng chiên” trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã giới thiệu vai trò độc đáo của Người và phải qua Người mới được ơn cứu độ, vì Người là Đấng ban sự sống và nuôi dưỡng nhân loại.
Để giúp hiểu ý nghĩa dụ ngôn này, chúng ta nên biết rằng:
– Cựu Ước đã báo trước Đấng Thiên sai sẽ đến như một mục tử Người sẽ chăn dắt (Mk 5, 3) ” Ta sẽ cho chỗi dậy một mục tử duy nhất, Người sẽ chăn dắt chúng” (Ed 34, 23).
– Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã áp dụng hình ảnh mục tử cho mình. Ngài tự xưng là chủ chăn được sai đến với các chiên lạc của Israel (Mt 15,24; Lc 19,10). Riêng trong Tin Mừng thánh Gioan, bài giảng về người chủ chăn nhân lành đã mở đầu Giáo Hội để rồi sau này thánh Phêrô tiếp tục sứ mệnh chăn dắt đó (Ga 21,16).
1) “Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi”:
Đây là một kiểu nói mà thánh Gioan thường dùng, để nhấn mạnh tính xác thực của một điều gì đã có trước, thực vậy, dụ ngôn “cửa chuồng chiên” là nối tiếp câu chuyện người mù từ bẩm sinh được Chúa Giêsu chữa lành, là để minh chứng Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian, vì vậy phải qua Người mới được ơn cứu độ.
“Ai không qua cửa mà vào chuồng chiên…”:
+ Chuồng chiên là hình ảnh quen thuộc của đời sống dân Do thái du mục. Ở đây Chúa Giêsu nói đến Giáo Hội ở trần gian và nước Chúa ở trên trời, tức là nước siêu nhiên.
+ Cửa chuồng chiên: mỗi chuồng chiên chỉ có một cửa chính để chiên ra vào, ai muốn được vào Giáo Hội để hưởng Nước Trời là ơn cứu độ thì phải qua duy một cửa chính mà thôi, cửa này chính là Chúa Kitô như Người đã tự nhận: “Ta là cửa chuồng chiên”. Ở đây khi nói đến các mục tử giả hiệu, và theo toàn thể mạch văn, Chúa Giêsu có ý nhắm tới các người Biệt phái và Ký lục là những kẻ từ lâu đã tự đặt mình làm thủ lãnh và linh hướng của dân chúng mà không qua vị canh giữ tối cao, không lãnh nhận từ Thiên Chúa một uỷ nhiệm nào để thi hành sứ mệnh mục tử, như bọn trộm cướp, họ đã chiếm đoạt đám tín hữu vì háo danh và óc thống trị hơn là quan tâm đến thiện ích thiêng liêng của tín hữu.
2) “Còn ai qua cửa mà vào là kẻ chăn chiên”:
Ở đây có ý nói đến những mục tử chân chính vào cửa đàng hoàng vì đã lãnh sứ mệnh.
+ “Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho…”:
Người mục tử chân chính là người đã được uỷ nhiệm chính thức. Ở đây Chúa Giêsu muốn nói đến chính sứ mệnh của Người, vì Người chỉ đến theo lệnh và uỷ nhiệm thần linh mà Người đã nhận từ Chúa Cha khi chịu phép rửa (Ga 1, 31-34).
+ “Và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy…”:
Chỉ có chiên là những tín hữu đích thực, mới biết ngoan ngoãn nghe theo tiếng vị mục tử của mình là Đức Giêsu, vì “Phàm ai nghe và học nơi Cha thì đến với Đức Giêsu bằng đức tin” (Ga 6, 45; 8,47).
+ “Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên”
Ở đây muốn nói đến những kẻ thực sự thuộc về chủ chăn và đáp theo tiếng Người gọi và chỉ theo một mình Người, điều này được biểu lộ qua ơn gọi của các vị tông đồ (Ga 1,35-49) như khi Chúa gọi Philippê “Hãy theo Ta” (1,43). Qua tiếng gọi đặc biệt này Người “dẫn ra” tức là kéo họ ra khỏi thế gian (Ga 15,19)
+ ” Khi đã lùa chiên mình ra ngoài…”
Khi đã kéo họ ra khỏi thế gian, Người tiên phong dẫn họ tới đồng cỏ là Giáo Hội và tới Chúa Cha. Đặt trọn niềm tin tưởng vào Người, các con chiên “theo Người” “làm tông đồ Người” và họ biết tiếng Người: tức là đức tin cho họ một nhận thức thiêng liêng, nhờ đó họ phân biệt trong tiếng nói của vị mục tử, Chúa Giêsu, một âm vang trung thực của tiếng nói Cha trên trời, và biết rằng qua miệng của Chúa Giêsu, chính Chúa Cha đang nói (Ga 14,10).
+ “Chúng sẽ không theo người lạ…”:
Chính sự nhận thức thiêng liêng này, tức là đức tin, khiến họ không làm môn đệ những kẻ chăn chiên xa lòng, chẳng hề được Thiên Chúa uỷ nhiệm vì không nhận ra nơi họ giọng nói của những kẻ này âm vang của lời Thiên Chúa, nên họ chạy chốn, họ chạy chốn vì những kẻ chăn chiên giả này đến để mưu sát trộm cắp và tiêu diệt đàn chiên. Ở đây muốn ám chỉ đến những người lãnh đạo dân Do Thái như các Biệt phái Luật sĩ đã gieo rắc tai hại cho dân vì những gương xấu và lầm lạc của họ.
3) “Chúa Giêsu phán dụ ngôn này…”
Những người Biệt phái mà dụ ngôn này nhắm tới không nhận ra được bài học Chúa Giêsu dậy họ: bởi vì chiên lạ không nghe tiếng của mục tử chính danh “Các ngươi không tin vì các ngươi không thuộc đàn chiên của Ta” (Ga 10, 26).
4) “Ta là cửa chuồng chiên”:
Vì những người nghe không nhận thức được bài học dụ ngôn nên Chúa Giêsu nói thêm và Ngài giải thích bằng cách Ngài tự nhận mình là cửa chuồng chiên để nêu lên chân lý phải tin nhận vào Ngài mới được cứu độ, vì chỉ có Ngài là cửa duy nhất của chuồng chiên.
5) “Tất cả những kẻ đã đến trước…”:
+ “Đến trước” ở đây không có ý nhắm tới thời gian cho bằng nhắm tới thái độ của việc làm, bình thường thì sáng sớm người chăn chiên đi thăm chuồng chiên, nếu có ai đến trước đó, nghĩa là khi còn ban đêm, thì đích thực họ là kẻ trộm cướp, tìm những lúc tăm tối để là những việc ám muội.
+ Dùng kiểu nói “Những kẻ đến trước” ở đây Chúa Giêsu có ý nói đến các Tiên tri Cựu Ước vì theo thời gian, họ đã xuất hiện trước Chúa Giêsu. Nhưng có thể Chúa nhắm những người Do thái hoặc dân ngoại tự phụ dùng sức mình mà đem lại cho nhân loại sự hiểu biết về Thiên Chúa và ơn cứu độ. Nhưng cũng có thể Chúa nhắm tới những người Biệt phái (Mt 23, 1-36; 9,36; Mc 6,34) và các thủ lãnh tôn giáo Israel đã gạt dân của họ xa con đường sống, tức là các Do thái đã tàn sát các Tiên tri, các Tiến sĩ thời Chúa Giêsu để ngăn chận không cho thế hệ của họ đáp lại lời mời gọi Nước Trời.
6) “Ta là cửa, ai qua Ta mà vào…”:
Chủ đề ‘cửa’ là một chủ đề rất phổ thông trong truyền thống Do thái (St 28,17; Tv 78,23; Mt 7,13-14).
+ Kiểu “Ta là cửa” ở đây Chúa Giêsu muốn nói đến tính cách của ơn cứu độ vì Ngài nói “Ta là cửa” chứ không nói “Ta là cửa chuồng chiên” như ở trên.
+ Chữ “Cửa” ở đây muốn nói lên ý nghĩa như một lối dẫn đưa vào các thực tại Thiên Quốc. Khi mở thì chữ “Cửa” diễn tả một thái độ mời gọi, đón nhận. Khi đóng, đối với bên trong thì diễn tả một sự che chở bảo vệ, đối với bên ngoài thì diễn tả sự từ chối, thanh lọc.
+ “Người ấy sẽ ra vào”; “Ra vào” là kiểu nói Do thái có nghĩa là đi lại tự do.
Ở đây muốn nhấn mạnh sự cần thiết và quan trọng của việc phải tin vào Chúa Giêsu Kitô mới đem dân Chúa vào sự sống bằng cách cho họ tái sinh bởi nước và Thánh Thần (Ga 3,16-17)
Dân Chúa được cứu thoát nhờ Đức Giêsu giải phóng họ khỏi ách nô lệ của tội lỗi và ma quỷ, họ được vui hưởng tự do đích thực của con cái trong nhà Cha (Ga 8, 33-34). Cũng trong Chúa Kitô dân chúng tìm được thức ăn no thoả là bánh và Nước Hằng Sống, có sức dập tắt vĩnh viễn cơn đói khát thiêng liêng của con người (Ga 6,35; 4,14).
7) “Kẻ trộn có đến thì chỉ đến để ăn trộm…”
+ Ở đây Chúa Giêsu có ý nhắm tới các Ký lục và Luật sĩ. Họ là những mục tử giả hiệu, dù không được Thiên Chúa uỷ nhiệm, họ vẫn tự cai trị dân Chúa vì họ ưa tìm vinh quang và quyền lợi bản thân hơn là ưu tiên đến tiện ích cho dân Chúa (Mt 23,4-7).
+ Họ sát hại và phá huỷ dân Chúa vì những gương xấu của họ, như chính Chúa Giêsu đã tuyên bố với họ “khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời, chận người ta lại…” (Mt 23,3-13).
8) “Còn Ta, Ta đến để chúng được sống…”:
Chúa Giêsu được sai đến để cứu chuộc dân Chúa và ban cho dân Chúa của nuôi là Bánh và Nước Hằng Sống.
* Cần lưu ý:
Sau khi về trời công việc chăn dắt đoàn chiên của Chúa vẫn được tiếp tục “Chúa là mục tử hằng hữu không bỏ rơi đoàn chiên Chúa, nhưng nhờ các tông đồ Chúa luôn che chở giữ gìn, để đoàn chiên được hướng dẫn nhờ các vị lãnh đạo Chúa đã đặt làm mục tử coi sóc đoàn chiên thay thế Con Chúa (Kinh tiền tụng lễ các Tông Đồ).
III) ÁP DỤNG:
* Áp dụng theo Tin Mừng:
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn dậy chúng ta phải tin tưởng vào sự nuôi dưỡng che chở và giữ gìn của vị mục tử tối cao là Chúa Giêsu Kitô, và đồng thời phải biết tuân phục sự hướng dẫn và chăm sóc của các vị lãnh đạo Chúa đã đặt làm mục tử coi sóc đoàn chiên thay thế Con Chúa.
* Áp dụng thực hành:
Nghe Lời Chúa nói:
1) “Ai không qua cửa mà vào chuồng chiên”: Chúa dạy chúng ta phải biết phân biệt những người chăn chiên “không qua cửa mà vào” tức là những người không được Giáo Hội chính thức uỷ nhiệm như những giáo sĩ giả, những giáo sĩ không tuân phục Giáo Hội, hoặc những vị phá giới, đồng thời cũng cần phân biệt những lý thuyết những ý thức hệ ngược với đường lối Chúa.
2) Vị mục tử đích thực là người được Giáo Hội chính thức bổ nhiệm đồng thời phải có tư cách như tận tâm chăm sóc yêu mến đoàn chiên, sẵn sàng hy sinh cho đoàn chiên và nhất là biết hướng dẫn đoàn chiên theo giáo huấn của Chúa.
3) “Ta là cửa chuồng chiên” Chúa đòi hỏi ta phải tin và sống theo Chúa Kitô mới được cứu độ. Chỉ có Chúa Kitô là con đường duy nhất dẫn ta vào sự sống đời đời.
4) Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Những ai hướng dẫn ta, lôi kéo ta, cai trị ta mà không theo đường lối của Chúa, không thông hiệp với Giáo Hội, thì đều là những kẻ nguy hại cho phần rỗi của ta, nên phải đề phòng và canh chừng những người đó.
5) Hãy tin tưởng và phục tùng những người lãnh đạo đã được Chúa uỷ thác trong Giáo Hội để chăm sóc đoàn chiên Chúa.
6) Cầu nguyện trong ngày Ơn Thiên Triệu.
+ Xin Chúa cho nhiều người quảng đại đi theo tiếng Chúa gọi.
+ Xin Chúa cho linh mục, tu sĩ trung thành với ơn gọi.
+ Xin Chúa hướng dẫn lớp trẻ về với ơn gọi.
Đối với người Việt Nam chúng ta thì hình ảnh “người chăn chiên” là một hình ảnh rất xa lạ, vì nước ta không chăn nuôi chiên như những người Do thái thời xưa. Hơn nữa, trong khi cả đất nước đang nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại câu chuyện “đàn chiên và mục tử” thì e rằng chúng ta bị coi là người quê mùa, lạc hậu. Nhưng đối với người công giáo chúng ta, thì hình ảnh “chiên và mục tử” là một hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, nói lên mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người, Thiên Chúa luôn yêu thương, quan tâm, tận tình chăm sóc dân của người không chỉ về vật chất mà còn về tâm linh, không chỉ ở đời này mà còn cả đời sau nữa. Bài Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng cụ thể, Chúa Giêsu ví mình như một Mục Tử Nhân Lành, luôn quan tâm, chăm sóc, yêu thương đàn chiên của mình.
Mục Tử Nhân Lành đi qua cửa chính mà vào chuồng chiên. Anh gọi chiên bằng một tiếng gọi riêng, chiên nhận ra tiếng anh và đi theo. Còn mục tử giả hiệu thì trèo tường mà vào chuồng, chiên chẳng những không theo mà còn sợ hãi, chạy trốn, vì chúng không biết tiếng người lạ. Chúa Giêsu gọi những mục tử giả hiệu này là trộm cướp. Họ đến chỉ để giết hại và phá huỷ đàn chiên, còn Chúa Giêsu đến để chiên được sống và sống dồi dào, giữa chiên và Ngài có một mối dây thân thiết “Tôi biết chiên tôi và chiên tôi biết tôi”. Chiên đã trở thành điều vô cùng quý giá đối với Ngài, đến nỗi Ngài dám hy sinh mạng sống mình cho chúng.
“Ta là Mục Tử Nhân Lành”, Chúa Giêsu đã nói như thế. Các bạn muốn được nuôi dưỡng, được chăm sóc, được hướng dẫn thì như Chúa Giêsu đã nói “Hãy theo Ta”, nhưng các bạn hãy cảnh giác, đừng có bắt cá hai tay, nghĩa là các bạn không thể vừa nghe theo tiếng gọi của Mục Tử Nhân Lành lại vừa nghe theo tiếng gọi của thế gian. Vì chính Chúa Giêsu đã cảnh cáo “các ngươi không thể làm tôi hai chủ được”. Tiếng của Mục Tử Nhân Lành luôn luôn đối nghịch với tiếng của thế gian và chúng ta sẽ chọn một trong hai “Ngươi sẽ ghét chủ này và yêu chủ nọ hoặc sẽ bỏ chủ này mà theo chủ kia” (Lc 16,13).
Chúa Nhật thứ IV PS hằng năm, còn gọi là Chúa Nhật Chúa Chăn Chiên Lành, Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện cho ơn thiên triệu, nghĩa là cầu xin Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều người trẻ biết hy sinh, biết quãng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu để dâng mình cho Chúa trong ơn gọi làm Linh mục, làm tu sĩ. Đây là vấn đề sống còn của Giáo Hội. Giáo Hội hôm nay cũng như trong tương lai vẫn luôn cần đến sự hướng dẫn của các mục tử để đoàn chiên được sống trong đồng cỏ xanh tươi. Vì thế, suốt chiều dài lịch sử của Giáo Hội, Chúa Giêsu vị Mục tử tối cao đã chọn các Mục Tử là các Đức Giáo Hoàng, các Giám mục, các Linh mục, Ngài trao phó cho họ tất cả với điều kiện là phải trở nên vị Mục Tử tốt lành như Ngài.
Để có những ơn gọi cho Giáo Hội, để có những thợ gặt cho cánh đồng truyền giáo, thì ngay từ hôm nay các bạn phải biết tập lắng nghe tiếng gọi của Chúa Giêsu, hãy tập sống theo gương Chúa Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành bằng cách cố gắng thực hiện 3 việc sau đây:
Biết sống hy sinh: sự khác biệt giữa người Mục Tử Nhân Lành và người chăn thuê ở chỗ là có dám hy sinh vì đàn chiên của mình hay không? Sự hy sinh của các bạn hôm nay sẽ là dấu chỉ cho thấy tương lai các bạn trở nên Mục Tử như lòng Chúa mong ước. Sự hy sinh đó được thể hiện bằng những việc cụ thể như: tham dự thánh lễ mỗi ngày, mỗi tuần, tích cực tham gia các phong trào thiếu nhi thánh thể và giới trẻ trong họ đạo của mình. Biết giúp nhau vượt khó, hy sinh tiền quà bánh, tiền mua sắm để giúp bạn có điều kiện đến trường.
Biết quan tâm đến người khác: Từ nhỏ cho tới lớn các bạn được cha mẹ quan tâm nhiều, từ việc ăn uống tới học tập, từ việc ăn mặc tới nghỉ ngơi. Điều này có thể dẫn các bạn đến chỗ đánh mất ý thức là chính các bạn phải quan tâm đến người khác. Quan tâm tức là nhìn thấy công ơn to lớn của cha mẹ mà cảm ơn, sống tốt. Quan tâm là biết trở thành đứa con ngoan trong gia đình qua việc cố gắng phụ giúp cha mẹ, cố gắng học hành cho thật tốt. Quan tâm là biết giúp đỡ, biết quên mình để phục vụ cho lợi ích tha nhân, biết vui với niềm vui và buồn với nỗi khổ của người khác.
Sống có lý tưởng, có ước mơ: Sống là phải có lý tưởng, phải có ước mơ. Ước mơ làm Linh mục, làm thầy giáo, làm kỹ sư, làm bác sĩ… chính những ước mơ đó sẽ là động lực giúp các bạn phấn đấu vượt khó để vươn lên. Những ước mơ đó sẽ thôi thúc các bạn học và thực hành theo vị Mục Tử Giêsu đã làm là: hy sinh, quan tâm tới tha nhân và sống theo lý tưởng cao đẹp mà Chúa đã mời gọi. Amen.
Các vỉa hè và những con đường trong thành phố Manhattan thường trở nên thật nhộn nhịp ồn ào vào giấc trưa bởi người ta tấp nập vội vã tìm quán ăn trưa, xe cộ bấm còi inh ỏi cùng những tiếng thắng xe nghe đến rợn người, thêm vào đó là tiếng còi hụ rền rĩ. Có hai người đàn ông đang cùng đi với nhau chen lẫn giữa đám đông. Một người là thổ địa ở New York còn người kia là dân vùng quê ở Kansas đến thăm. Bất thình lình, người dân quê dừng lại và nói với người kia rằng: “Khoan đã, tôi nghe có tiếng dế gáy đâu đây”. Ông kia trả lời: “Bộ anh giỡn chơi hả? Ở đây thường không có dế đâu, mà dù có đi nữa thì làm sao anh có thể nghe được tiếng nó gáy giữa sự quá ồn ào này?” Anh bạn nhà quê giữ im lặng lắng nghe trong một vài giây rồi bước tới một góc có bồn xi-măng trồng mấy cây trong đó. Anh ta lật vài chiếc lá ra và nhìn thấy một con dế đang núp mình trong đó. Anh bạn ở tỉnh thấy vậy thì rất ngạc nhiên và khâm phục nên nói: “Tai anh thật là thính!” Anh bạn quê trả lời: “Không phải vậy đâu, tai anh cũng thính như tai tôi vậy thôi. Chẳng qua tai mỗi người làm quen với tiếng động mà họ thường lắng nghe mà thôi. Đây, để tôi chứng minh cho anh xem”. Nói xong anh liền móc ra một nắm tiền cắc rồi quăng nó lên lối đi. Khi tiếng vang do nắm đồng cắc chạm mặt đường thì hầu hết mọi người đang đi đều quay nhìn về hướng đó. Anh bạn ở quê liền nói: “Anh thấy không, chẳng qua là nguời ta muốn nghe những gì họ muốn nghe mà thôi. “
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cùng một bài học đó bằng cách dùng hình ảnh người chăn chiên và bầy chiên. Vào thời của Ngài (ngay cả bây giờ nơi Đất Thánh cũng vậy), khi chiều tàn thì những mục tử lùa bầy chiên của họ từ ngoài đồng cỏ về và nhốt chung lại với nhau trong một chuồng. Rồi đến sáng hôm sau những mục tử trở lại chuồng và tuần tự gọi những con chiên thuộc về mình mà dẫn chúng đi ăn. Điều đặc biệt là những con chiên nhốt chung đó tự tách ra khỏi bầy mà theo tiếng gọi riêng của chủ nó. Chúng không bị lẫn lộn bởi tiếng gọi của những mục tử nhưng tự chờ đến khi đúng tiếng của chủ nó mới đi ra.
“Ta là Mục Tử Tốt Lành,” Chúa Giêsu đã nói như thế. Các bạn muốn cuộc sống được nuôi dưỡng, chăm sóc, và hướng dẫn đến mức sung mãn thì như Chúa Giêsu đã nói “Hãy theo Ta!” Có một điều không thể xảy ra đó là các bạn vừa nghe theo tiếng gọi của Mục Tử Nhân Lành vào ngày Chúa Nhật và lại vừa đi nghe theo tiếng gọi của chủ chăn khác cả nguyên tuần được. Vì chính Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Các ngươi không thể làm tôi hai chủ được… các ngươi không thể vừa thờ phượng Thiên Chúa mà lại thờ tiền của được”. Tiếng của Chủ Chăn Nhân Lành luôn luôn đối nghịch với tiếng của thế gian, và chúng ta phải chọn một trong hai vì như: “Ngươi sẽ ghét chủ này và yêu chủ nọ hoặc sẽ bỏ chủ này mà theo chủ kia” (Lk 16:13).
Gia đình chúng ta bị những tiếng khuyến dụ của thế gian quấy rầy cả bảy ngày trong một tuần bởi hằng triệu Đôla được bỏ ra làm chuyện đó; chúng ta được rỉ tai liên lỉ là: “Này bạn ơi nghe đây, bạn sẽ có một cuộc sống thoải mái nếu như bạn mua thứ này, mặc thứ nọ, ăn của kia, uống thức khác”. Ví dụ như để xúi dục các bạn thanh niên uống bia nhiều hơn thì họ đã bỏ ra một số tiền khổng lồ để làm ra một quảng cáo thật hấp dẫn trình chiếu trên truyền hình. Hầu hết những diễn viên trong mục quảng cáo đó rất xinh đẹp trẻ trung, và ý tưởng của quảng cáo là hãy uống bia nếu như muốn cuộc đời mình hạnh phúc. Đây là câu chính quan trọng trong pha quảng cáo: “Không còn gì tốt và hay ho hơn điều này!” Thế nhưng đồng thời, thống kê cho biết là cứ mười trong một ngàn người bị chết hoặc tàn tật suốt đời bởi tai nạn là do say rượu lái xe.
Cứ tuần tự mỗi tuần lễ chúng ta tụ họp nơi đây và được nghe các vị Mátthêu, Mátcô, Luca, Gioan và Phaolô loan báo cho chúng ta biết rằng Ngôi Lời Thiên Chúa đã mặc xác phàm đi vào thời gian nhưng hiện tại Ngài đã đi vào biên giới của nhịp điệu vĩnh cửu.
Bạn đang lắng nghe đó chứ? Lời Chúa nói cho chúng ta biết về Đấng Tình Yêu vượt quá mọi đo lường. Lời Chúa loan báo cho chúng ta một Hy Vọng vượt quá mọi suy tưởng. Lời Chúa cho chúng ta biết về một cuộc sống toàn hảo sẽ ban tặng cho những ai bước vào gianh giới của vĩnh hằng. Đừng để tiếng động nhỏ của đồng tiền lôi chúng ta ra khỏi ranh giới đời đời!
Năm 1964 dư luận thế giới xôn xao bàn tán về kịch bản tựa đề “Vị Đại Diện” Trong đó, soạn giả Hóc-hút kết án Đức Giáo Hoàng Piô XII là đồng lõa với Đức Quốc Xã nên đã không hề lên tiếng bênh vực người Do Thái trong thời thế chiến II. Rồi tất cả những người thù nghịch Tòa Thánh Vatican đã nhao nhao hùa vào bôi nhọ gương mặt của Đức Piô XII và đả kích Giáo Hội. Nhưng một năm sau đó, linh mục Rosaria Espuslto đã cho xuất bản cuốn sách tựa đề “Vụ án Vị Đại Diện” thu thập rất nhiều tài liệu và chứng từ chứng minh cho thấy cái sai lầm của những lời kết tột nói trên.
Thật ra, qua các Tông huấn và hàng trăm thư từ và cả các sứ đíệp đọc trên đài Vatican, Đức Piô XII đã nhiều lần kết án Đức Quốc Xã về quyền con người và các vụ tàn sát do Đức Quốc Xã chủ mưu cũng như bênh vực và cứu hàng ngàn người Do Thái khỏí chết. Và hình ảnh khó quên nhất là khi thủ đô Rô-ma bị quân Đức Quốc Xã bỏ bom, Đức Piô XII đã rời thành Vatican đến uỷ lạo dân chúng bí chết và bị thương trên quảng trường trước nghĩa trang Pam-pu-pi-ra-nô giữa tiếng bom đạn nổ chung quanh. Trong tình hình chiến sự nguy ngập và với những phương tiện eo hẹp của thơì thế chíến II, Đức Piô XII đã hành động như một Vị Mục Tử nhân lành.
Mục Tử nhân lành hiến mạng sống mình cho đoàn chiên. Đây cũng là đề tài nổi bật của các bài đọc Phụng vụ CN IV Phục Sinh Năm A.
Trong bài Tin Mừng: Chương 10 Tin Mừng Gio-an vẫn được gọi là Tin Mừng Mục Tử nhân lành được khai triển theo một lược đồ quen thuộc trong nền văn chương Khải huyền. Lược đồ đó gồm ba nhịp: Lời Mạc khải – Thái độ không hiểu của cử tọa – Lời Mạc khải mới. Khác với các Tin Mừng Nhất Lãm nhấn mạnh trên việc săn sóc đoàn chiên và niềm vui của sự hoán cải, Tin Mừng theo thánh Glo-an nêu bật các mối liên hệ cá nhân, thân tình của vị Mục Tử và từng con chiên. Tất cả những hình ảnh Thánh kinh: Mục Tử,.., đoàn chiên và các chiên cũng như các động từ để diễn tả mối tương giữa Thiên Chúa với loài người với cộng đoàn Giáo Hội, dân riêng của Thiên Chúa, trong nhãn quan Kitô.Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhắc nhở hình ảnh Thiên Chúa Mục Tử hướng dẫn dân Do Thái ra khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập và đưa họ vào Đất Hứa như được tường thuật trong sách Xuất hành.
Mạc khải thứ nhất trong chương 10 Tin Mừng theo thánh Gio-an nêu bật sự khác biệt giữa Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành và các người chăn thuê: Chúa Giêsu đi vào qua cửa chính chứ không đột nhập chuồng chiên bởi vì Người là chủ chăn có các mối liên hẹ thân tình với đoàn chiên, bằng chứng là Người biết và gọi trên từng con chiên một và các chiên biết tiếng gọi của Người. Động từ “biết” ở đây theo ngôn ngữ Thánh Kinh ám chỉ các liên hệ thân tình liên bản vị như liên hệ sâu thẳm khắng khít giữa hai vợ chồng.
Và Chúa Giêsu Mục Tử dẫn đưa đoàn chiên đi ra tới các đồng cỏ xanh tươi, Người hướng dẫn và đồng hành với đoàn chiên. Đây là một hình ảnh tuyệt đẹp diễn tả cuộc Xuất hành mới do Chúa Giêsu lãnh đạo Cộng đoàn của những người đi theo Người trong cuộc giải phóng này là cộng đoàn Phục Sinh, là Giáo Hội đã được Chúa Giêsu giải thoát khỏi tội lỗi và khỏi mọi sự dữ và cái chết. Sau phản ứng không hiểu của cử tọa, Chúa Giêsu tuyên bố mình là Cửa chiên. Lúc đó trong khi giảng dạy, Chúa Giêsu nhìn Cửa chiên là một hình ảnh của cửa thành thánh Giê-ru-sa-lem và đoàn tín hữu tiến qua cửa chiên đó để vào Đền thờ cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa. Vì thế khi tuyên bố mình!à Cửa chiên, Chúa Giêsu có ý nói Người là nơi mà qua đó con người bước vào trong tương quan trọn vẹn với Thiên Chúa. Người là ngôi lều bằng thịt nơi Thiên Chúa ngự trị và sống giữa dân người, đồng thời là trung gian cần thiết, nghĩa là Cửa chính qua đó con người tới được với Thiên Chúa.
Kiểu nói “Ta là” ám chỉ tên gọi của Thiên Chúa đã mạc khải cho ông Mô-sê trong sa mạc xưa kia: ‘Ta là Đấng Hằng Hữu. Nói cách khác Chúa Giêsu tự xưng mình là Thiên Chúa. Chính vì thế nên ai tin vào Người, chấp nhận và sống Tin Mừng của Người sẽ được ơn Cứu độ. Lòng tin đó vào Chúa Gìê-su, Đền Thờ toàn vẹn của Thiên Chúa Cha bao gồm ba kết quả quan trọng:
Thứ nhất: nếu ai bước vào trong đó sẽ được cứu rỗi, nghĩa là ai chọn tôn thờ Thiên Chúa trong Thánh Thần và trong sự thật, tức là trong Chúa Giêsu Kitô, thì được thông phần trọn vẹn vào sự sống thần linh của Người, và vì thế được ơn cứu rỗi.
Thứ hai: người đó sẽ “vào, ra”. Theo klểu nói của người Do Thái, hai động từ đối chọi này ám chỉ hai cực của cuộc sống con người: là ra khỏi lòng mẹ để chào đời, để bước vào trong lòng thế giới; là ra khỏi cuộc sống ở trần gian này để đi vào lòng đất. Nói cách khác, ‘vào ra, ra vào’ diễn tả toàn bộ cuộc sống của người tín hữu với Chúa Kitô, một cuộc sống của sự hiện diện và đồng hành với Chúa Kitô, một cuộc sống kết hiệp với Người trong mọi sự.
Thứ ba: tín hữu sẽ tìm thấy đồng cỏ xanh. Chúa Giêsu Kitô sẽ đáp ứng mọi khát vọng và chờ mong của họ và cho họ hưởng nếm những phút giây hạnh phúc trên đồng cỏ xanh tươi là Nước của Người. Điều đó còn có nghĩa là Người luôn luôn chăm sóc cho đoàn chiên của Người khác với “những kẻ trộm trèo qua cửa sổ” để cướp bóc và tàn sát đoàn chiên.
Chúa Giêsu Kitô Mục Tử nhân lành đến để trao ban cuộc sống của chính Người và niềm vui dồi dào cho những ai tin vào Người. Nhưng để có niềm tin trao ban sự sống và niềm vui ấy chúng ta phải làm gì?
Trong bài giảng cua thánh Phêrô trong ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, như ghi trong chương hai sách Công vụ Tông đồ, thánh Phêrô đề nghị với mọi người một chương trình hoán cải bao gồm các đểm giáo lý nền tảng như được rao giảng trong cộng đoàn Kitô tiên khởi. Muốn được hưởng ơn Cứu độ, người tín hữu phải lựa chọn Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người, nghĩa là lựa chọn Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người làm kim chỉ nam cho toàn cuộc sống. Quyết định này dẫn tín hữu đến chỗ thay đổi tấm lòng, thay đổi lối sống từ cách suy tư và hành xử, để cho Chúa Giêsu Kitô biến đổi toàn cuộc sống của mình.
Tiến đến cần lãnh nhận bí tích Rửa tội và Chúa Thánh Thần để được ơn tha tội và bước vào cuộc sống kết hiệp thân tình với Thiên Chúa. Như thế, khi được tràn đầy Chúa Thánh Thần, tín hữu trở thành một thụ tạo mới vì có trong mình một nguyên lý sự sống mới thần thiêng, siêu việt. Dân riêng mới phát sinh từ những người biết tìếp nhận Lời Chúa.
Nơi bài đọc II trích từ thư I của thánh Phêrô chỉ cho chúng ta một bí quyết khác giúp tín hữu đón nhận được sự sống mới, đó là chiêm ngắm dung mạo của Chúa Giêsu Kitô khải hoàn, vinh híển được diễn tả trong Kính thánh Cựu Ước là “Chiên Con” của Lễ Vượt Qua, là “Người Tôi Tớ Đau Khổ của Gia-vê Thiên Chúa” và là con dê đền tội trong lễ nghi xá giải xưa kia. Việc chiêm ngắm gương sống của Chúa Giêsu Kitô khiến cho tín hữu dấn thân sống xác tín bằng lòng tin sâu đậm hơn. Khổ đau mà họ phải gánh chịu trong cuộc sống thường ngày không còn là một lời chúc dữ tối tăm nữa nhưng chất chứa môt mầu nhiệm phong phú cần phải khám phá ra với đôi mắt đức tin. Nếu chính câc vết thương đớn đau và khổ nhục của Cllúa Giêsu cbịu chết treo trên thập giá chữa chúng ta khỏi các thương tích do tội lỗi gây ra trong tâm hồn và cuộc đời chúng ta, thì giờ đây chúng ta có thể dùng mọi đau khổ trong đời để tiếp tục phổ biến ơn lành Cứu độ phát xuất từ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Và đó là hoa trái tuyệt diệu và bất ngờ nhất của đức tin Kitô.
(Suy niệm của Lm Trần Xuân Lãm)
Mục tử là thuật ngữ Cựu ước dùng để chỉ về Chúa. Trong Sáng thế ký, Gia-cóp tuyên xưng Chúa là Vị mục tử của ông từ lúc ông sinh ra. Trong thánh vịnh 23, David nói: “Chúa là mục tử của tôi, tôi chẳng còn thiếu thốn chi”. Tiên tri Isaia nói Chúa sẽ dẫn đưa Do thái khỏi chốn lưu đầy, như mục tử vác chiên trên vai (40:11). Trong Cựu ước, đã có những mục tử chính danh làm đúng ý Chúa như David, Mô-sê. Nhưng cũng có những mục tử xấu không làm tròn bổn phận. Với hạng này, tiên tri E-zê-ki-en đã cảnh cáo: “Khốn cho những mục tử nhà Is-ra-en là những kẻ, thay vì chăm sóc đàn chiên, lại chỉ chăm sóc chính mình” (Ez 34:2)
Có nhiều hình ảnh và tính cách chỉ về mục tử, cần làm rõ nét:
Tại Palestine, người ta thường vây hàng rào cao để lùa chiên vào và canh giữ. Cửa được mở ra mỗi buổi sáng. Chiên xem ra sợ sệt lúc ra khỏi chuồng cũng như khi trở về buổi chiều. Chỉ khi chúng nghe tiếng mục tử, chúng bắt đầu tiến lên, và khi chúng nghe mục tử gọi tên, chúng bước ra. Chúa yêu chúng ta, Chúa gọi đích danh từng người, chúng ta theo Chúa và chúng ta sẽ được cứu thoát.
Nhiều nơi, như ở Australia, mục tử dùng gậy hoặc dùng chó để hướng dẫn chiên. Nhưng ở Palestine, mục tử đi trước, chiên bước theo sau. Hình ảnh này nói lên Chúa dẫn dắt ta, không phải Ngài lùa ta đi. Ngài đi trước ta, ta tin tưởng bước theo Ngài.
Khi chiều buông, đàn chiên không kịp về chuồng trước nửa đêm, thì mục tử lùa chiên vào trong hang, rồi anh ta nằm chắn ngay lối vào. Chiên sẽ không lang thang đi ra ngoài. Và thú dữ cũng chẳng có thể vào hang bắt chiên. Mục tử tự làm cho mình thành cửa chuồng chiên. Không một ai ra hay vào mà không bước qua anh ta. Qua hình ảnh tuyệt đẹp này, Chúa Giêsu cho ta biết chẳng có ai đến được với Thiên Chúa mà không qua Ngài.Ta chỉ được cứu thoát vì tin và đi theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Những ai không qua cửa mà vào thì không phải mục tử mà là kẻ trộm và kẻ sát hại. Ai không qua Chúa Giêsu thì kẻ ấy kéo bày chiên xa rời Thiên Chúa. Thánh Gioan ám chỉ các lãnh đạo Do-thái. Bởi họ đã trục xuất Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài ra khỏi hội đường của họ. Gio-an ví họ những kẻ bỏ mặc đoàn chiên cho trộm cắp và sát thủ.
Quả thực Chúa là Mục tử: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” (Tv. 23).
Mấy năm trước đây, một bé gái 5 tuổi được đưa vào viện mồ côi. Mấy ngày trước đó, bố mẹ của em đã cãi vã với nhau, rồi bố em đã bắn chết mẹ em, rồi quay súng lại mà tự vẫn. Tất cả xảy ra trước sự chứng kiến của em. Đến ngày Chúa Nhật sau đó, em được đưa đến Nhà thờ Công Giáo để tham dự thánh lễ và sau đó, dự lớp Giáo lý. Vì sợ cô giáo không hiểu hoàn cảnh của em, người coi sóc viện mồ côi đã phải căn dặn cô giáo: Bố mẹ của em là người vô thần, nên chắc chưa bao giờ bé được nghe về Thiên Chúa, vì vậy, xin cô giáo nhẫn nại với em. Trong buổi học đầu, cô giáo đã giơ cao một bức hình Chúa Giêsu và hỏi cả lớp: “Có em nào biết đây là ai không?” Cô bé giơ tay trả lời: “Em biết, đó là người đã ôm em vào lòng sau khi ba má em chết.”
Câu chuyện của em bé trên đây chỉ là một trong ngàn vạn câu chuyện thương tâm khác đang xảy ra trong xã hội ngày nay. Chồng giết vợ, mẹ giết con, con giết bố mẹ, bạn bè thanh toán nhau, nhân công ám hại nhau, là những mẩu tin chúng ta thường đọc thấy trong báo hằng ngày. Trong những ngày tháng gần đây, nạn khủng bố đã gây tang tóc thương đau cho biết bao gia đình. Những lá thư hăm dọa đã khiến cho con người sống trong lo sợ. Quân khủng bố đã bất chấp thủ đoạn khi hành động. Tháng Giêng vừa qua tại Do Thái, lần đầu tiên một phụ nữ đã nổ bom tự sát để giết người. Sau đó, người ta tìm ra chị ta là một trong những nhân viên cứu thương của thành phố. Hôm trước cứu người; hôm sau giết người. Thật là khó hiểu. Hơn nữa, họ còn coi đây là thánh chiến. Lắm lúc nghĩ cũng thấy buồn. Ba tôn giáo lớn trên thế giới: Kitô giáo, Hồi giáo, Do thái giáo cùng tôn thờ một Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, thế mà đã mười mấy thế kỷ chém giết nhau. Con cháu tổ phụ Abraham ngày nay đã đông như sao trên trời như cát dưới biển, đúng như Lời Chúa đã hứa, nhưng tiếc thay con cháu tổ phụ lại cắn xé nhau, để rồi gây tan tác cho đoàn chiên của Chúa.
Khi xưa, Chúa Giêsu sống trong một xã hội tuy không hận thù khủng bố, nhưng cũng mang đầy những thù ghét, chia rẽ, kỳ thị và bất công. Những người Samaritanô, tuy cũng mang giòng máu Do thái, nhưng lại bị người Do thái coi là dân ngoại; những người thu thuế bị coi là người tội lỗi, nên tuyệt đối bị những người “ngoan đạo” xa tránh; những người phong cùi bị đuổi ra sống bên ngoài xã hội. Đứng trước thảm trạng đó, Chúa Giêsu đã đến và đã ví mình như gà mẹ túc con dưới cánh để bảo vệ và vỗ về. Chúa đã tỏ tình thương và mối quan tâm đặc biệt đối với những người tội lỗi, nghèo khó, bệnh tật, những người sống bên lề của xã hội. Chúa cũng ví mình như một Chủ Chiên đến để qui tụ đoàn chiên đã bị chia ly phân tán, và để đem lại sức sống và niềm hy vọng cho đoàn chiên: “Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào.”
Với hiện trạng của thế giới, Lời Chúa vẫn còn mang một ý nghĩa đặc biệt cho con người ngày nay. Thật vậy, Chúa Giêsu, Chúa Chiên của chúng ta, đã đến để chúng ta được sống, nhưng không phải sống trong chán chường tẻ lạnh, một cuộc sống vô nghĩa. Chúa đến là để chiên của Ngài được sống một cách dồi dào, nghĩa là một cuộc sống đầy yên vui, an bình, và yêu thương. Đó là điều Chúa đã hứa ban cho mỗi người chúng ta, và Ngài đã và đang thực hiện lời hứa của Ngài nơi những con chiên đáp lại lời mời gọi của Ngài và vâng theo sự hướng dẫn của Ngài.
Với tình thương bao la của người, Chúa đã đến kêu gọi mỗi người chúng ta hãy tiến bước theo Ngài, hãy nhập đoàn chiên của Ngài. Đây không phải là lời mời gọi một cách chung chung, nhưng là lời mời có tính cách cá nhân và trực tiếp. Cũng như ngày xưa Chúa đã đến gặp Nicôđêmô, Giakêu, Matthêu, người đàn bà Samaritanô bên bờ giếng Giacob, và người bất toại bên bờ Bếtsaiđa, thì ngày nay Chúa cũng vẫn còn đến để phù trợ, chữa lành, gặp gỡ, hướng dẫn, và chỉ bảo chúng ta trong cuộc sống. Ngài ban Thánh Thần của Ngài cho chúng ta để an ủi, nâng đỡ, giúp sức, và sự khôn ngoan, để chúng ta có đủ sức đối diện với mọi khó khăn trong cuộc đời. Qua Lời Chúa và các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, Ngài bảo vệ và ban ơn giúp chúng ta thoát khỏi nanh vuốt của thần dữ, như những kẻ trộm, đang bày trò hãm hại chúng ta. Và những khi chúng ta vấp ngã, qua Bí tích Xá giải, Ngài sẵn sàng ôm chúng ta vào lòng để tha thứ yêu thương, như người cha nhân lành đối xử với đức con phung phá.
Ước chi chúng ta hãy đáp lại lời mời của Ngài. Hãy luôn nhận Ngài là Chúa Chiên của mình và luôn tin tưởng vào sự hướng dẫn phù trợ của Ngài. Có Chúa ở cùng, cho dù bất cứ điều gì xảy ra, tâm hồn chúng ta vẫn tìm được sự bình an. Không phải là chúng ta sẽ hết phải đau khổ, nhưng vì chúng ta có Chúa là sức mạnh và là nguồn ủi an cho chúng ta, nên không gì lấy mất đi niềm hy vọng và sự bình an trong tâm hồn chúng ta được. “Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng tôi” (Tv 23)
(Suy niệm của Lm. Trần Ngọc Nhơn)
Ngụ ngôn “Chúa chiên lành” này có liên quan với đoạn Tin Mừng trước. Khi Chúa Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh, những người Pha-ri-sêu nệ luật, sợ mất ảnh hưởng của dân chúng đã kết án Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sa-bát. Họ chưa đối mặt với Chúa Giêsu mà chỉ gây khó dễ và cuối cùng đã trục xuất người mù được sáng mắt ra khỏi cộng đoàn. Thái độ của người mù thật đáng khâm phục!Anh đã can đảm biện hộ cho Chúa Giêsu và đã tin nhận Ngài là Đấng Ki-tô.
Bối cảnh đó rất thích hợp để Chúa Giêsu nói đến ngụ ngôn “Mục Tử Nhân Lành” này. Anh mù chính là “con chiên” đã “nghe tiếng” và đã?”nhận biết tiếng” của Mục Tử của mình. Lấy “thái độ của chiên đối với Mục Tử” làm tiêu chuẩn, Chúa Giêsu đã phân biệt đâu là “Mục Tử” và đâu là “kẻ trộm, kẻ cướp”. Chúa Giêsu cũng dùng “hành vi của Mục Tử đối với chiên” để nhận chân Mục Tử và kẻ trộm: “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”. Như thế, chủ điểm thần học của đoạn Tin Mừng này là “mối tương giao” giữa Mục Tử và đàn chiên, cũng là giữa Thiên Chúa và con người, mà chúng ta cần chiêm ngắm và sống trong mùa Phục Sinh này.
Trong tương giao đó, chúng ta thấy rõ nét hơn cả là hình ảnh Chúa Giêsu, Mục Tử Nhân Lành, mẫu gương cho tất cả những ai có trách nhiệm lãnh đạo cộng lớn nhỏ, đặc biệt là các chủ chăn. Vì thế, Chúa nhật này cả Giáo Hội hướng về việc cầu nguyện và cổ võ cho ơn Thiên triệu. Và cầu nguyện, cổ võ cho ơn Thiên triệu là gì, nếu không phải là cầu nguyện cho mọi phần tử trong Giáo Hội, cách riêng cho một số chọn ơn goi cao hơn, cho các chủ chăn sống thật tốt tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân? Bởi vì, một khi sống tốt tương quan “mến Chúa” chúng ta sẽ có một tương quan “yêu người’ như “lòng Chúa mong ước”.
Đây là một ngụ ngôn hơn là một dụ ngôn, vì trong đó có nhiều ẩn dụ thật sát nghĩa. Dân Chúa bị nhốt trong chuồng lề luật nặng hình thức của Do-thái giáo đang chờ Vị Mục Tử Nhân Lành đến dẫn đến “đồng cỏ” Giáo Hội để “được sống và sống dồi dào” nhờ các Bí Tích do việc “hy sinh mạng sống cho đoàn chiên” đem lại.
Chúa Giêsu, Mục Tử Nhân Lành đã diễn tả được Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Chúa biết rõ tên từng người một trong chúng ta với một tình yêu cá nhân, riêng tư. Ngài không đẩy chiên đi trước mình, nhưng Ngài đi trước và dẫn đường cho chiên. Ngài nói với từng người, thu hút hơn là hướng dẫn. Đàn chiên luôn bị sói dữ rình rập, Ngài sẵn sàng đương đàu với chúng vì mỗi con chiên đối với Ngài đều quí già vô ngằn. Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên. Ngài dẫn đàn chiên đến đồng cỏ xanh tươi để chẳng những chiên được sống mà được sống dồi dào. Để thỏa mãn ước nguyện đó, Ngài đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Với một Mục Tử Nhân Lành như thế +đàn chiên hết lòng đáp lại bẳng thái độ nghe tiếng, nhận biết tiếng và đi theo sau Mục Tử của mình.
Như những người lãnh đạo Do-thái giáo lúc bấy giờ, lãnh đạo cộng đoàn dễ bị cám dỗ dùng quyền lực áp chế người dưới quyền chứ không dùng gương sáng, đạo dức để lôi kéo, thuyết phục họ. Nhưng như ông bà chúng ta thường hay nói “hữu xạ tự nhiên hương” đáng cho chúng ta suy nghĩ. Phải chăng người lãnh đạo mất ảnh hưởng đối với người dưới là vì lối sống của họ chứ không phải do bất kỳ một lý do nào khác? Vì thế, điều cần hơn cả là lo điều chỉnh lại lối sống của mình, chứ đừng cách chống chế bằng quyền lực. Đây quả là một dịp tốt để các người có trách nhiệm lãnh đạo xét mình lại lối sống của mình. Trong Giáo Hội, lãnh đạo là phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Theo gương Chúa Giêsu, Mục Tử tốt lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên, để cho chiên được sống và sống dồi dào, người lãnh đạo cũng biết hy sinh quên mình mới có thể yêu thương phục vụ được.
Ngày nay, ơn gọi dâng hiến ngày càng giảm trong lúc nhu cầu phục vụ ngày càng tăng. Lời kêu gọi của Đức Ki-tô – Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt” – trở nên khẩn thiết hơn bất cứ lúc nào khác. Cho nên mọi Ki-tô hữu đều có trách nhiệm cầu nguyện và cổ võ cho có nhiều ơn gọi trong Giáo Hội, đặc biệt là các vị chủ chăn, các hội đoàn và các bậc phụ huynh.
Để sống ơn gọi cao hơn, ơn gọi quên mình để yêu thương phục vụ, thì phải có ơn Chúa dồi dào. Ơn Chúa có được nhờ sự hy sinh cầu nguyện của rất nhiều người. Bản thân ngưới sống đời dâng hiến phục vụ phải cố gắng và nỗ lực nhiều, nhưng sự hỗ trợ của cộng đồng cũng rất cần thiết cho họ. Thế nhưng, nhiều khi giáo dân chỉ mong muốn cho chủ chăn của mình đạo đức, thánh thiện mà quên hay ít khi cầu nguyện cho các ngài. Cũng như làm sao có nhiều tâm hồn biết dâng hiến cuộc đời mình để phục vu nếu như cộng đoàn không gia tăng việc hy sinh cầu nguyện cho ơn Thiên triệu. Có thể nói, cộng đoàn hy sinh cầu nguyện để có nhiều người phục vụ cộng đoàn. Như thế, cầu nguyện cho ơn Thiên triệu cũng không là gì khác hơn là ý thức và sống mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo Hội vậy.
Mặt khác, vì “cây tốt mới sinh quả tốt”, “lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, cho nên, thiết nghĩ việc dấn thân và hướng dẫn cho giới trẻ tham gia các công tác từ thiện bác ái của các vị chủ chăn và phụ huynh là cách thế hiệu quả nhất để cổ võ Ơn Thiêu Triệu. Con người muốn hưởng thụ chừng nào thì càng số người bị bỏ rơi, cần được yêu thương phục vụ ngày càng đông chừng ấy, bởi hố cách biệt giữa người giàu và người nghèo ngày càng lớn. Vì thế, yêu thương, quên mình, phục vụ phải là chọn lựa đúng nhất của người Ki-tô hữu trong xã hội ngày nay. Và đó cũng không phải là điều gì mới lạ đồi với mẫu gương Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành. Như thế, cổ võ cho ơn Thiên triệu cũng là lời mời gọi mọi Ki-tô hữu biết sống tinh thần phục vụ của Chúa.
Tóm lại, hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành là tấm gương yêu thương phục vụ mà tất cả mọi Ki-tô hữu cần cố gắng noi theo mỗi ngày, nhất là các chủ chăn.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Hằng năm cứ vào ngày Chúa nhật IV Phục Sinh, Hội Thánh mời gọi chúng ta, Kitô hữu đặc biệt cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Qua các con số thống kê, chúng ta nhận ra đây là một nhu cầu vừa chính đáng và hợp lý lại vừa mang tính cấp thiết. Tuy nhiên, dù có cấp thiết đến mấy thì Hội Thánh vẫn kiên trì chủ trương rằng cần “chất hơn là lượng”. Chính vì thế mà không thể vì lý do thiếu hụt linh mục hay tu sĩ mà hạ thấp tiêu chí cũng như các yêu cầu của việc đào tạo. Xin được góp một vài suy nghĩ về vấn đề này dựa trên các bản văn Lời Chúa của ngày Chúa Nhật IV Phục Sinh. Cụ thể, xin chia sẻ đôi nét về biện chứng mục tử nhân lành và con chiên ngoan hiền.
Nói đến biện chứng là nói đến một trong những “học thuyết mang tính triết học về các mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển, hay là khoa học về các quy luật vận động và phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy” (Tự Điển Bách Khoa Việt Nam-1995). Biện chứng pháp được xây dựng chủ yếu trên quy luật vận động, sự biến đổi của sự vật, hiện tượng và những ảnh hưởng tương tác giữa chúng. Cái nhìn này không phải là mới lạ với khám phá của Hégel hay Karl Marx, nhưng đã bàng bạc sẵn có trong các hệ tư tưởng Đông phương như quy luật âm dương, bát quái, ngũ hành hay sắc sắc không không… Không muốn đi sâu vào lãnh vực chuyên môn mang tính triết học, nhưng xin góp cái nhìn theo một góc độ cha ông chúng ta cảm nghiệm: “có con rồi mới có cha; có cháu rồi mới có ông, có bà”.
Chúa Kitô đã minh nhiên khẳng định Người chính là mục tử nhân lành (Ga 10,11). Tuy nhiên, để đảm nhận vai trò mục tử thì trước tiên Người đã vuông tròn vị thế con chiên hiền ngoan. Thánh Phêrô giới thiệu Đức Kitô như là con chiên tinh tuyền, hiền lành, gánh tội gian trần. “Người không hề phạm tôi; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe, nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình. Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá…” (1P 2,21-24). Thánh Tông đồ cả kết luận rằng chính khi đảm nhận phận việc ấy thì đức Kitô đã chu toàn trách vụ “vị mục tử, Đấng chăm sóc linh hồn chúng ta” (c.25).
Chiên không đi theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn. Trái lại, chiên nhận biết tiếng mục tử và đi theo mục tử. Dưới cái nhìn này thì Chúa Kitô là một con chiên đích thực vì “lương thực của Người là thi hành thánh ý Cha trên trời” (x.Ga 4,34). Cho dù mồ hôi tuôn ra pha lẫn máu, Con chiên tinh tuyền Giêsu Kitô vẫn một mực “xin đừng theo ý con, một vâng theo thánh ý Cha mà thôi” (x.Lc 22,39-44).
Chúa Kitô không minh nhiên giới thiệu mình là con chiên, nhưng cuộc đời của Người, đặc biệt cuộc hiến tế thập giá của Người mặc nhiên khẳng định Người là con chiên vượt qua của giao ước mới. Trong khi đó vị ngôn sứ cao trọng hơn mọi ngôn sứ là Gioan Tẩy giả đã long trọng giới thiệu Chúa Kitô là “Chiên Thiên Chúa” (Ga 1,36).
Để thực thi phận vụ “Con Chiên Thiên Chúa”, Chúa Kitô đã sống tình một mục tử tốt lành, nhân hậu. Người chạnh lòng thương xót khi thấy đoàn lũ đông đảo như chiên không người chăn (x.Mc 6,34). Người nhiệt thành đến quên cả ăn uống để băng bó thương tích cho đoàn chiên (x.Mc 3,20), để dẫn chiên đến đồng cỏ xanh, nguồn suối mát. Người hiến dâng mạng sống vì đàn chiên và mong sao không một con chiên nào lạc đàn (x.Ga 10,11;14). Lẽ sống của người mục tử chính là sự sống, sự phát triển của từng con chiên và của đàn chiên. Chính vì thế, người mục tử là người “biết” chiên tức là gắn bó mật thiết với chiên, sẵn sàng chung thân, đồng phận với chiên, lấy sự sống của chiên làm nguồn sống của mình.
Vài tâm tình hướng đến các mục tử (giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ):
Diễn ý câu nói của Thánh Giáo phụ Âugustinô: Cho anh em, tôi là mục tử (giám mục). Cùng với anh em, tôi là con chiên (tín hữu). Để các ngài, các vị chu toàn bổn phận mục tử Chúa giao phó thì ta hãy cầu xin cho các vị, các ngài trước hết biết sống vuông tròn vị thế con chiên:
– Hiền lành: Trưởng thành nhân cách, vững vàng các nhân đức nhân bản. Điều này không phải được ngay một sớm một chiều hay nhờ lãnh nhận chức này, vụ kia. Nhưng cần phải trau dồi, luyện tập liên lĩ. Học xong một giáo trình các nhân đức nhân bản với điểm số tối đa mà vẫn là người thiếu nhân bản là chuyện rất bình thường.
– Vô tì tích: Dĩ nhiên, ngoại trừ Mẹ Maria được Chúa giữ gìn thì phận người khó tránh lỗi lầm. Để ngày càng thêm thanh sạch, vô tì tích, thì không gì hơn “hãy đem những cái bên trong ra mà phân phát (lòng quảng đại)” (x.Lc 11,41).
– Ngoan ngoãn: biết luôn vâng theo ý Chúa. Để sống và hành động theo thánh ý Chúa thì tiên vàn cần có một đời sống cầu nguyện chuyên chăm và một tâm hồn “dễ bảo” dưới tác động của Thánh Thần.
Vài tâm tình hướng đến những ứng viên ơn thiên triệu linh mục, tu sĩ:
Khi nhận ứng viên vào Tu viện hay Chủng viện, các vị hữu trách thường dò xét các ý hướng của ứng viên. “Con đi tu để làm gì?” Một câu hỏi thường gặp nhằm lượng giá ý hướng các ứng viên. Các vị hữu trách thường dễ hài lòng trước các câu trả lời mang tính cống hiến, phục vụ vị tha hơn là những câu trả lời hàm chứa sự vị kỷ cho dù đó là lợi ích cá nhân rất là thiêng thánh như đi tu để được rỗi linh hồn. Thánh Công Đồng dạy: “Việc giáo dục toàn diện các chủng sinh nhằm huấn luyện cho họ thực sự thành những vị chăn dắt các linh hồn… (tức là các mục tử)” (ĐT số 4). Ước gì các tu sinh, chủng sinh có được chút tâm tình của người mục tử ngay khi còn mài đũng quần ở tu viện hay chủng viện. Đó là tâm tình của người mục tử:
– Biết cống hiến hơn là hưởng thụ: “Con Người đến không phải để cho người ta hầu hạ nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,46; x. Ga 13,12-17).
– Nhiệt thành: Sẵn sàng đi trước trong các việc khó mà đó là những việc phải làm, đáng làm và nên làm.
– Biết đồng cảm, đồng phận với tha nhân, đồng loại và nhất là với những người nghèo, người bất hạnh… “Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người trong các mối tương quan với Thiên Chúa để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối…” (Dt 5,1-3).
Có thể nói rằng hơn bao giờ hết, nhân loại chúng ta hiện nay đang vào giai đoạn thích hưởng thụ và tìm đủ cách đủ kiểu để hưởng thụ. Chính vì thế, đời sống cống hiến dường như đang vắng bóng dần. Một điều chắc chắn là nhân loại, xã hội mọi thời, đặc biệt hôm nay đang rất cần những con người sẵn sàng cống hiến, những cuộc đời biết hiến dâng. Chính vì thế ơn thiên triệu linh mục, tu sĩ vẫn mãi là ơn chúng ta cần kiên trì cầu xin. Tuy nhiên sự cầu xin của chúng ta không được phép dừng lại ở thái độ thầm thỉ, chấp tay hay móc túi để góp tiền, mà còn phải biết mở miệng, nắm tay để dệt xây những mục tử biết vuông tròn phận vụ con chiên hiền ngoan và những con chiên luôn ắp đầy tâm tình mục tử tốt lành.
(Suy niệm của Lm Đặng Xuân Thành)
Các bạn hãy thử hình dung: nhà thờ này là một phòng hội, ở giữa có đặt một thùng phiếu, các bạn được yêu cầu viết tên người nào mình hâm mộ nhất; và chắc là khi khui thùng phiếu, chúng ta sẽ nhận được rất nhiều cái tên khác nhau, tùy theo mỗi người chấm và tùy theo mỗi người đứng ở góc độ nào để chấm. Nếu là nhạc sĩ thì có thể có những cái tên như Hoài An, Võ Thiện Thanh, Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên… Nếu là ca sĩ thì có thể có những cái tên như Hồng Nhung, Mỹ Linh, Mỹ Tâm, Hồ Ngọc Hà, Lam Trường, Đan Trường, Đàm Vĩnh Hưng… Nếu là diễn viên điện ảnh thì có thể là Lí Liên Kiệt, Lương Gia Huy, Củng Lợi, Chung Tử Di, Jan Do Gun, Kim Nam Ho… Nếu là những cầu thủ thì có thể có David Bechkam, Thierry Henri, Roger Federer, Michael Jordan… Nếu là những doanh nhân thành đạt thì có thể có Bill Gates, J.K. Rowling… Nếu là những người đấu tranh cho quyền con người thì có Mahatma Gandhi, Mẹ Teresa Calcutta, Abbé Pierre, Somaly Mam… Và còn nhiều cái tên khác nữa. Thậm chí biết đâu trong số lá phiếu ấy cũng có thể có lá phiếu dành cho cha Vũ Khởi Phụng, cha Nguyễn Chấn Hưng, cha Nguyễn Xuân Thủy, cha Mai Xuân Lâm, cha Lê Trọng Cung, cha Tạ Xuân Hòa đang có mặt tại đây, hay một cha, một thầy, một soeur hoặc một bạn nào đó…
Thế nhưng, tất cả những cái tên ấy chỉ thỏa mãn một vài sở thích hay một vài khát vọng của bạn: âm nhạc, điện ảnh, thể thao, kinh tế, xã hội, tôn giáo, học tập… Chẳng ai trong số đó và trong nhiều người khác nữa có thể đem lại hạnh phúc trọn vẹn cho bạn, cả về thời gian lẫn về nội dung. Càng không có ai cho bạn hưởng một hạnh phúc vượt lên cả sự chết và sự dữ. Hôm nay Giáo Hội giới thiệu cho chúng ta nhân vật ấy để chúng ta dồn phiếu chọn Ngài. Đó chính là Giêsu người Nadarét, nước Do-thái, đã sống cách đây hơn 2000 năm, đã làm và nói biết bao điều kì diệu, đã chết và đã sống lại vì chúng ta, và bây giờ đang hiện diện giữa chúng ta.
Một hình ảnh rất tuyệt vời có thể giúp ta hình dung về Đức Giêsu ấy: Đức Giêsu Chúa Chiên Lành, Đức Giêsu Người Mục Tử Tốt Lành. Người Chăn Chiên tốt lành không chỉ là người quan tâm đến sức khỏe của bầy chiên: tìm đồng cỏ màu mỡ và nguồn nước tinh khiết nhất cho chiên ăn uống, tìm nơi che nắng che sương và tránh mưa tránh lũ. Người Chăn Chiên tốt lành còn là người gần gũi chiên tới mức ăn ở chung với chiên, biết chiên tường tận tới tên của từng con một hay tới cái hay cái dở của mỗi con. Đáng kể nhất là Người Chăn Chiên tốt lành dám liều lĩnh vì đàn chiên: luôn luôn đi trước đàn chiên để hứng “hòn tên mũi đạn”, liều bỏ tất cả để đi tìm cho bằng được con chiên lạc, hy sinh tới cả thân mình để bảo vệ chiên trước bầy sói (Bài Tin Mừng)
Những hình ảnh vừa kể không phải chỉ là những hình ảnh bóng gió, mà sự thật còn đi xa hơn thế nữa. Như thánh Phê-rô cho biết: “Đức Giêsu đã chịu khổ vì chúng ta. Ngài không hề phạm tội; chẳng ai thấy Ngài nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Ngài không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe, nhưng một bề phó thác cho Chúa Cha. Tỗi lỗi chúng ta, Ngài mang vào thân thể để đưa lên thập giá, và nhờ đó, một khi tội của chúng ta đã tiêu tan, chúng ta được sống đời công chính” (Bài đọc 2), Đức Giêsu làm tất cả những điều ấy, không chỉ để chúng ta có thêm cỏ tươi để ăn, nước mát để uống, thảo nguyên bát ngát để chạy nhảy, sạch bóng chó sói để an tâm nhởn nhơ… Ngài chịu chết và sống lại là để thổi Thần Khí của Ngài vào trong chúng ta, biến chúng ta thành con người mới và bắt đầu sống một cuộc đời mới. Đúng là sự CỨU ĐỘ của Thiên Chúa: chúng ta vừa được tha tội vừa được sung mãn mọi mặt; và không chỉ một nhóm người nào đó ngoan đạo được hưởng mà là tất cả mọi người, kể cả những người trước đây không lâu đã từng hô hào đòi giết Ngài (Bài đọc 1).
Đứng trước một Chúa Chiên Lành quá đẹp và quá tốt như thế, bạn sẽ làm gì nào?
Có những người cảm kích trước tình thương của Chúa và nghe thấy trong lòng mình tiếng Ai đó mời gọi mình hãy lấy tình yêu đáp lại tình yêu ấy, không phải ở mức vừa vừa mà càng nhiều càng tốt, không phải cho riêng mình mà tìm cách lôi kéo nhiều người về với đàn chiên của Chúa để cũng được nếm trải tình thương của Chúa. Họ không coi việc làm này là chuyện gặp chăng hay chớ, “khi vui thì làm, khi buồn thì thôi”, mà coi đây là nghiệp là nghề của mình. Họ cam kết trước mặt Chúa và Giáo Hội sẽ làm chiên ngoan của Chúa và học tập làm người chăn chiên tốt lành của Chúa. Nếu có sống khó nghèo và giản dị, độc thân và khiết tịnh, vâng phục và khiêm tốn, huynh đệ và cộng đoàn, nếu có thinh lặng và nguyện cầu, phục vụ và làm việc… thì đó cũng là để làm chiên của Chúa và học tập làm người chăn chiên của Chúa, hoặc nói cho cùng, để lấy tình yêu đáp lại tình yêu. Chúng ta gọi đó là những người đi tu, những người dâng mình cho Chúa.
Xem ra như thế đời tu rất phong phú và sinh động, chứ không cằn cỗi và tẻ nhạt như nhiều người lầm tưởng. Hai chữ TÌNH YÊU – dù là yêu Chúa hay yêu loài người – cũng đã làm cho tâm hồn bao nhiêu người rạo rực, trí óc bao nhiêu người bừng tỉnh, tay chân bao nhiêu người khua động… Chỉ có điều, như đức giáo hoàng Benedictô XVI nói trong thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” (“Deus caritas est”), tình yêu ấy phải luôn được thanh lọc và nâng cao, đi từ tình yêu có phần nào vị kỉ và nặng tình cảm tiến tới tình yêu ngày càng vị tha và siêu nhiên, đi từ tình yêu hay đòi quà tặng đến tình yêu của trách nhiệm và hy sinh. Đồng thời nói tới quá trình thanh lọc và nâng cao tình yêu là nói tới một hành trình, kéo dài cả đời, trong đó có vui có buồn, có thăng có trầm, có thành công và thất bại, có điều đáng khen và điều đáng tiếc, có thánh thiện và tội lỗi… Chính vì thế, người đi tu không những phải nỗ lực thật nhiều, mà còn cần đến những nâng đỡ của người chung quanh, những lời cầu nguyện của người khác.
Có điều lạ là dù thế giới hôm nay có ghét những gì là thiêng liêng và có nghi ngờ những gì là vô vị lợi, có điều là lạ dù ở nhiều nơi trong Giáo Hội các ki-tô hữu ngày càng sa sút trong đức tin và ở một số nơi Giáo Hội nói chung và đời tu nói riêng đang bị bách hại, vẫn luôn luôn có người đi tu, vẫn luôn luôn có những ki-tô hữu muốn làm chiên ngoan của Chúa và tập làm chủ chăn của Chúa. Thậm chí Chúa Thánh Thần vẫn luôn luôn khơi dậy những sáng kiến bất ngờ, những hình thức mới mẻ cho đời tu hôm nay. Có người còn nói: chính vì thế giới lạnh lùng với những gì là thiêng liêng và siêu nhiên, chính vì Giáo Hội đang sa sút trong đức tin, chính vì Giáo Hội đang gặp khó khăn, mà vẫn còn người đi tu, luôn có người đi tu. Đức cố giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã từng nói trong tông thư của ngài về “Đời Tu” (‘Vita consecrata”): đời tu là một khía cạnh thiết yếu của Giáo Hội, đến nỗi người ta thật khó hình dung Giáo Hội không có đời tu. Đời tu vừa là công cụ giúp Giáo Hội thể hiện tình thương của Thiên Chúa cho con người qua biết bao hoạt động của các tu sĩ, vừa là lời nhắc nhở Giáo Hội không quên ơn gọi hay sứ mạng trước hết của Giáo Hội chính là lấy tình thương đáp lại tình thương Thiên Chúa, chính là trở thành đàn chiên ngoan của Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, chăn dắt nhân loại.
Các bạn trẻ thân mến,
Nói tới đây, có thể nhiều bạn trẻ cho rằng đời tu thật là tuyệt vời, nhưng dành cho ai đó chứ không phải cho tôi. Tôi còn quá nhiều bận tâm để lo toan, nhiều giấc mơ phải hoàn thành. Vả lại, Chúa có đâu bắt buộc mọi người phải đi tu. Đó là chưa nói: ở đâu không rõ, chứ tại các giáo phận miền Bắc này số người đi tu vẫn còn đông lắm! Hay phải nói thành thật và khiêm tốn, tôi vừa bất tài vô tướng vừa lắm điều xấu xa, có tham gia đời tu thì chỉ chuốc thất bại cho mình và làm hỏng người khác.
Phải, bạn có nhiều bận tâm để lo toan và nhiều giấc mơ phải hoàn thành. Thì cứ lo toan những bận tâm nào cần thiết và hãy hoàn thành những giấc mơ nào chính đáng đi. Nhưng xin đừng dập tắt lời mời gọi này, xin hãy nuôi dưỡng nó cho tới khi nào thấy phải trả lời dứt khoát, xin hãy thỉnh thoảng dừng lại suy nghĩ thêm về lời mời gọi ấy.
Phải, đời tu không phải là nếp sống bắt buộc đối với mọi ki-tô hữu. Nhưng bạn có nỡ lòng nào bịt tai không nghe lời mời gọi réo rắt của Chúa: “Con hãy theo Ta”. Bạn có đành lòng khi thấy tận mắt biết bao con chiên lạc bầy, biết bao con chiên ốm yếu tình thương, biết bao con chiên nhơ nhớp phẩm giá, biết bao con chiên thậm chí không biết có một Mục Tử hết sức yêu thương mình…
Phải, đời tu ở Việt Nam vẫn còn sung túc, “không có mợ thì chợ vẫn đông”. Nhưng bạn có biết đâu chỉ có 6% người Việt Nam là Công Giáo – chưa kể trong số đó có mấy phần trăm là Công Giáo chính hiệu! Trong tổng số dân của các tỉnh thành tổng giáo phận Hà Nội có mặt là 6 triệu người chỉ có hơn 300.000 người Công Giáo, chỉ được 89 linh mục và hơn 300 tu sĩ phục vụ! Bạn có biết đâu số người không tin và số người hưởng ứng nếp sống vô thần và duy vật đang tăng theo cấp số nhân, thậm chí cấp lũy thừa; đang khi đời tu đang tăng theo cấp số cộng, thậm chí tại các thành phố lớn số người đi tu đã đi xuống từ lâu và tại nông thôn số người đi tu đã chững lại. Đó là chưa kể những nhu cầu của con người và xã hội hôm nay cần sự phục vụ của Giáo Hội lại càng ngày càng phức tạp, càng ngày càng cấp thiết!
Phải, đời tu là một nếp sống lí tưởng. Nhưng có ai sinh ra là đã thành linh mục hay tu sĩ đâu. Đời tu là một hành trình dài cho phép chúng ta nhận ra và biết quẳng đi dần những gì làm cản trở bước đi, cho phép chúng ta nhận ra và tích lũy dần những công cụ cần thiết cho đời tu. Có mấy ai nghĩ Augustinô, Phanxicô Assisi, Inhaxiô Loiôla… sẽ hoán cải và đi tu, khi đã chìm ngập trong những triết lí sai lạc, những thú vui đáng trách và những tham vọng điên cuồng. Đó là mới chỉ kể ra vài người đi tu thời trước. Còn biết bao tâm hồn tận hiến cho Chúa ngày hôm nay cũng đã bắt đầu và tiếp tục hành trình tu trì của mình cách vất vả, có lúc phải “te tua, tơi tả” vì hành trình tu trì ấy. Thật ra, nguyên việc dám theo đuổi một giấc mơ thánh thiện và cao cả, lại sẵn sàng đầu tư công sức cho điều ấy, cũng đã là một điều hết sức đáng khen rồi với các bạn trẻ ngày hôm nay.
Để kết thúc, tôi xin mượn một hình ảnh rất quen thuộc với các bạn trẻ chúng ta: Banh đã được tung lên. Phần còn lại là của bạn – những người đang ở trên sân chơi của cuộc đời, sân chơi Nước Trời. Bạn hãy đá thế nào để banh vào lưới, để banh đến đích phải đến. Amen.
Chi Tiết Hay
Trong đoạn Phúc Âm này, Đức Giêsu là cửa ràn, còn đoạn Phúc Âm sau (Gioan 10,11-16) mới nói tới Đức Giêsu là mục tử nhân lành.
Vậy ở đây ai là người mục tử? Đó là những người chăn dắt Hội Thánh.
Người chăn chiên thường đi sau đàn chiên để hối thúc chiên đi tới, nhưng cũng có người lại đi trước đàn chiên và dùng tiếng hú đặc biệt để gọi chiên đi theo vì các con chiên nhận ra tiếng hú này.
Trong sách Dân Số 27,17 Môsê đã xin Chúa cho dân một người lãnh đạo để dân khỏi bị như chiên không người chăn dắt.
Một Điểm Chính
Thời đó mỗi gia tộc thường giữ chiên của các gia đình chung vào một ràn. Người giữ cửa ràn phải biết hết mọi người trong gia tộc. Người nhà dẫn chiên ra vào cửa ràn này, còn kẻ trộm thì leo tường.
Suy Niệm
Một ràn chiên, một cộng đoàn nếu sống theo tình Chúa thì sẽ ra sao?
Tôi ra vào cử tình thương của Chúa, hay leo tường một cách ích kỵ, tự kiêu, tự mãn như kẻ trộm?
Trong Chúa nhật IV Phục Sinh này, Giáo Hội mời gọi chúng ta “cầu nguyện cho các ơn gọi” và mỗi năm đề nghị chúng ta đọc một đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan về “Vị mục tử nhân lành”
Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp
Trên những đồi núi vùng Galilê và Giuđê, người ta thấy khắp nơi có những người chăn chiên, những mục tử. Ban ngày họ cho đàn chiên ăn cỏ trên những đồng cỏ hiếm hoi mọc ở giữa những đống đá của các ngọn đồi. Ban đêm, nhiều mục tử đồng ý với nhau tập họp đàn chiên của họ vào chung một khu đất có vây tường, làm bằng những tảng đá nhỏ ở đây, Đức Giêsu giới thiệu với chúng ta hai nhân vật rất tương phản: mục tử và kẻ trộm. Chính cách họ vào ràn chiên mà người ta phân biệt được họ! Kẻ trộm trèo qua rào. Còn người mục tử đi qua cửa mà vào. Ngay từ đầu chúng ta không thấy những hình ảnh thơ mộng nào cả như vẫn thoáng thấy ở các đề tài về đồng quê!
Chuồng cừu đối với Đức Giêsu không phải là một nơi ngọt ngào và thơ mộng mà là một nơi phải tự bảo vệ chống lại trộm cướp. Chúng ta chớ quên rằng bài giảng này của Đức Giêsu rất bút chiến. Đây là phần tiếp nối cuộc đối đầu bi đát khi Người chữa lành một người mù từ thuở mới sinh. Anh này bị đối xử tệ hại như một con chiên đáng thương bị người ta đánh đập chỉ vì nó tật nguyền.
Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh
Vậy, Đức Giêsu đặt đối lập những “mục tử giả hiệu” kẻ trộm cướp, khoe rằng mình hướng dẫn những người khác nhưng không được ủy nhiệm chân chính, với “mục tử chân thật” đi qua cửa để vào một cách quang minh chính đại, được người gác đã cho vào. Chúng ta chớ vội bỏ qua người gác cửa này. Tất cả Tin Mừng nói với chúng ta về người đó! Đó là Chúa Cha, Đấng đã sai Đức Giêsu đến (Ga 8,16-42), Đấng đã giao mọi sự trong tay Người (Ga 3,35; 5,22-26). Đấng đã ban cho Người những con chiên của Người (Ga 17,6-9).
Anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.
Được tập trung vào chung một chỗ có vây tường ban đêm để được các mục tử bảo vệ, buổi sáng các mục tử thu hồi các con chiên của họ, vì các con chiên nhận biết tiếng của mục tử của chúng. Những con chiên này theo bản năng biết được mục tử yêu thương chúng từng con một: Chúng đi theo và lắng nghe mục tử. Người tín hữu chân chính, là người “lắng nghe” tiếng Đức Giêsu và “đi theo” Đức Giêsu. Động từ “lắng nghe” được lặp lại năm mươi tám lần trong Tin Mừng của Thánh Gioan: Đức Giêsu là “lời” là “Ngôi Lời” sự “mạc khải” được nói vào lỗ tai chăm chú của các bạn hữu Người “điều mà Người đã nghe từ Chúa Cha” (Ga 3,31; 8,40; 15,15). Bạn đang suy niệm bài Tin Mừng này, bạn có biết lắng nghe Lời Chúa, tiếng nói của Tình Yêu và Chân Lý?
Đức Giêsu kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.
Họ không hiểu bởi vì họ không muốn hiểu, bởi vì họ cảm thấy mình bị chỉ trích. Là những người Pharisêu, họ tự hào hướng dẫn những người khác, nhưng mà người ta chạy trốn bởi vì họ là những mục tử xấu, những kẻ trộm cướp.
Vậy, Đức Giêsu lại nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ.
Những sự tự phụ của Đức Giêsu nếu Người chỉ là một con người quả là thái quá! Người tự giới thiệu như người hướng dẫn duy nhất của nhân loại! “Tất cả những ai đến trước tôi” đều là trộm cướp. Con người nói điều đó là một người điên; hoặc giả người ấy mang trong người một sứ điệp triệt để nhất, tuyệt đối nhất, siêu việt nhất, cách mạng nhất mà nhân loại chưa bao giờ nghe thấy. Than ôi, chúng ta có thể đi theo những người hướng đạo khác nếu chúng ta chịu nổi họ và nhiều người tự giới thiệu với chúng ta như những “cứu tinh do Thiên Chúa an bài”; nhưng Đức Giêsu đã mạnh mẽ báo trước cho chúng ta biết: Các kẻ ấy đều là trộm cướp và phá hoại; mọi người đưa ra những lời hứa hẹn hay đẹp đều là những kẻ trộm cướp. Một thứ tuyệt đối thuyết như thế chỉ có thể đụng chạm đến tâm thức của thời đại chúng ta, mong muốn sự khoan dung, lo lắng đến “tính đa nguyên”. Vậy ai là người dám nói với một sự bảo đảm và một sự loại trừ như thế? còn Đức Giêsu vốn khác với ‘mọi người khác’, Người hứa hẹn chúng ta điều gì?
Tôi là cửa.
Đức Giêsu thích trình bày tư tưởng của Người dưới những hình ảnh. Người đã tự giới thiệu Người như vị Mục tử độc nhất, ở đây, sử dụng những ý nghĩa tượng trưng như các nhạc sĩ thường làm khi các chủ đề của họ đan kết với nhau. Đức Giêsu đưa vào một hình ảnh thứ hai, tinh tế hơn, mầu nhiệm hơn. Người nói: “Tôi là cửa”, cái cửa duy nhất, cái cửa độc nhất! Những tác giả Phúc Âm nhất lãm cũng đã đặt vào miệng Đức Giêsu sự so sánh ấy khi nói về cái “cửa hẹp” dẫn đến Nước Chúa (Mt 7,13-14; Lc 13,24). Nhưng ở đây từ ngữ chứa đựng một ý nghĩa thần học sâu xa hơn, theo nghĩa mà Đức Giêsu không bao lâu nữa sẽ nói; “Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Trong Kinh Thánh đã có một thứ thần bí về cái cửa. Giacóp ở giữa sa mạc đã nhìn thấy một cầu thang là cửa của thiên đàng (St 28,17). Những cái cửa của Giêrusalem được mô tả như những con đường đưa vào nơi bình an, công bằng, đến nhà của Thiên Chúa (Is 60,11; Tv 122,2; l18,19-20).
Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.
Như thế, Đức Giêsu có ý thức Người là môt con đường đi qua, một cái cửa, dẫn đến một nơi mới, một không gian mới! Để cảm nhận ân huệ của đề nghị này nới Đức Giêsu, chúng ta phải cảm nghiệm mình đang bị giam hãm trong một thứ “căn hầm đóng kín” như Jean Paul Sartre đã mô tả. Vâng, nhân loại như bị cầm tù bởi những điều tất định khắc nghiệt nào đó: Sinh ra rồi chết đi, sản xuất rồi tiêu thụ, ăn, làm, ngủ rồi lại bắt đầu lại!”. Viễn cảnh của con người lẽ nào lại dừng lại ở vòng tròn chật hẹp này? có phải nhân loại bị kết án quay vòng tròn như thế trong khi chờ đợi cơn đắm tàu sau cùng? Có chăng một lối thoát cho con người?
Chính tại đây Đức Giêsu can thiệp và nói với chúng ta rằng Người là một cái cửa, một lối thoát. Những hình ảnh nói lên nhiều điều: “Các bạn có thể ra vào, lui tới”; đây là hình ảnh của sự tự do! Các bạn sẽ tìm thấy một đồng cỏ, hình ảnh của sự sống và sự tươi trẻ!
Tại sao chúng ta không thử mượn cái cửa mầu nhiệm ấy để đi một vòng hít thở khí trong lành, trong những đồng cỏ tắm nắng mặt trời? Đức Giêsu nói với chúng ta rằng nhân loại không thể khép kín lại với chính mình một cách tuyệt vọng: Trước mắt nhân loại, một không gian được mở ra, một không quan vô tận, một sự sống còn ở phía trước. Thiên Chúa đề nghị dành không gian của Người cho con người. Tại sao chúng ta không muốn cái cửa ấy để đến đó mà hít thở? Cánh cửa này mở ra vô tận và không chỉ mở vào ngày sau cùng, vào giờ lâm tử của chúng ta, điều đó tùy thuộc vào mỗi người chúng ta. Cánh cửa ấy hướng về Thiên Chúa, tại sao chúng ta không bước qua nó ngay từ bây giờ?
Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ.
Đức Giêsu trở lại những viễn cảnh tiêu cực này để giúp chúng ta hiểu rõ hơn đề nghị tích cực của Người. Trong các lãnh vực kinh tế, chính trị, kỹ thuật, con người đã thực hiện nhiều cuộc giải phóng mà chúng ta không thể coi thường và mọi Kitô hữu phải tham gia. Nhưng Đức Giêsu nhắc chúng ta chỉ có duy nhất một cuộc giải phóng triệt để mà Thiên Chúa đề nghị với chúng ta. Mọi lời hứa khác về giải phóng, về hạnh phúc đều là lừa bịp, một thứ trộm cắp. Nhân loại được dựng nên không phải để bằng lòng với không khí ngột ngạt của mọi thứ chủ nghĩa duy vật. Các chủ nghĩa vô thần chỉ đem lại cho con người một hình ảnh bị cắt xén. Đối với Đức Giêsu, nếu chỉ đưa ra cho con người các viễn cảnh hạn chế thì đó chính là “Giết chết và Phá hủy” con người chỉ sống viên mãn khi con người mở ra với Thiên Chúa. Và Đức Giêsu là cái cửa! Nếu người nào đi qua cửa đó, người ấy sẽ được cứu!
Không đi qua lối đó, con người sẽ hư mất. Môi trường sống tuyệt đối duy nhất của con người, chính là môi trường của Thiên Chúa. Chỉ có nơi đó mới là không gian của con người. Chỉ có nơi đó, con người thật sự được tự do. Chỉ có nơi đó con người thật sự hít thở và phát triển đến vô tận.
Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Ở đây chúng ta gặp lại một chủ đề mà Thánh Gioan ưa thích. Rượu nho ở tiệc cưới Cana được ban cho một cách dồi dào: 600 lít! (Ga 2,6-7). Nước sự sống ban cho người phụ nữ Samari vọt lên để sau cùng làm mọi cơn khát phải chấm dứt (Ga 4,14). Bánh được hóa ra nhiều và rất dồi dào và còn dư lại mười hai giỏ đầy (Ga 6,10-12). Sự đánh cá mầu nhiệm làm chiếc thuyền đầy cá (Ga 21,6). Nhưng đó chỉ là những hình ảnh. Thực tế còn đẹp hơn nhiều. Có một sự sống “dồi dào”: Sự sống của Thiên Chúa!
Quả thật, rõ ràng chỉ có Đức Giêsu mở ra một không gian vô cùng, vô tận cho con người. Bên ngoài Người, nhân loại hoàn toàn “bị giam hãm” trong chính mình: không một ý thức hệ, một lãnh tụ chính trị hay xã hội, một khám phá khoa học nào giải thoát chúng ta khỏi số phận “Chỉ là những con người và vì thế phải chết”. Nhưng chính Đức Giêsu, vừa là người vừa là Thiên Chúa, lôi kéo ta ra khỏi sự bất lực của chúng ta để đưa chúng ta vào lãnh địa của Thiên Chúa. Cái Cửa ấy mở ra cái vô cùng vĩnh cửu.
ĐỨC GIÊSU: MỤC TỬ NHÂN LÀNH VÀ CỬA CHUỒNG CHIÊN
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1) Đức Giêsu, mục tử nhân lành.
Bài Phúc âm hôm nay nằm trong văn mạch của một cuộc luận chiến tiếp sau việc chữa lành người mù bẩm sinh vẫn ngồi ăn xin bên cửa đền thờ, (Phúc Âm Chúa nhật thứ bốn mùa chay, năm A) những người biệt phái tự xưng là sáng mắt và tự nhận là những bậc linh sư trong dân, thực ra, ngày càng chìm sâu trong sự mù quáng của mình, trong khi đó, người mù được chữa lành, không ngừng được khai sáng đến độ dám tuyên xưng mầu nhiệm Đức Giêsu, nhìn nhận Ngài là “Con Người” và là “Đấng Thiên sai bị người do thái trục xuất khỏi hội đồng và được Đức Giêsu đón nhân, ông trở thành mẫu mực của người có niềm tin, điển hình của con chiên nhận ra Người mục tử để được dẫn về cùng Chúa Cha (X. Dufour, “Đọc Tin Mừng Gioan ” Tập 2, Seuil, 1990, tr. 348).” Đức Giêsu kết luận” ta đến trần gian chỉ là để cho những kẻ không thấy được thấy là những kẻ thấy trở nên đui mù” Thế rồi, tác giả Tin Mừng chuyển thẳng sang dụ ngôn vị mục tử nhân lành, một hình ảnh quen thân trong Kinh Thánh. Thật vậy, trong suốt lịch sử Do thái, Thiên Chúa luôn tự giới thiệu như là vị Mục Tử của dân người, Đấng đã chọn lấy cho mình những tôi tớ, cũng được gọi là “mục tử “, để trao cho họ trách nhiệm dẫn dắt dân Chúa theo người. Tiếc thay họ thường bất xứng với sứ vụ này và vậy các tiên tri đã loan báo một thời đại mà chính Thiên-Chúa, qua Đấng Thiên Sai, sẽ nắm quyền lãnh đạo dân người.
Ở đây Đức Giêsu tự giới thiệu mình là vị Mục Tử nhân lành, vị Mục Tử thiên sai, người gọi “tên từng con chiên một và “dẫn chúng đi ăn”! khác hẳn những tên trộm đạo đến trấn lột đoàn chiên hay những kẻ chăn thuê không bao giờ dám mạo hiểm vì đoàn Chiên. Nên đặc biệt chú ý đến kiểu nói này vì trong Thánh kinh, nó gợi lên: cuộc xuất hành đầu tiên, khi Chúa “dẫn đưa” Israel ra khỏi nhà nô lệ. (Ex 3.10; 6, 27; Lev. 19,36)
Lời cầu nguyện của Môsê, xin Chúa chọn người kế vị mình “một người sẽ lãnh đạo cộng đoàn,..sẽ đưa chúng ra đi và dẫn chúng trở về để chúng không trở thành những con chiên không người chăn giữ” (Nom. 27, 17)
Cuộc xuất hành mới là quyết định được các tiên loan báo “ta sẽ đưa đoàn chiên ta ra khỏi muôn dân, sẽ qui tụ chúng lại từ muôn nước và đưa chúng về cố hương” (Ez.34,l3)
Thành toàn những lời tiên tri trong Cựu Ước, Đức Giêsu là Mô-sê mới đến qui tụ đoàn dân mới của Thiên- Chúa và “dẫn đầu “,”đưa họ ra đi” trong cuộc xuất hành mới, trên đường về miền đất hứa.
Đức Giêsu dùng dụ ngôn này để nói vớí người “biệt phái” là những người, theo tác giả Tin Mừng, không hiểu được điều Ngài muốn nói với họ” khiến Ngài phải đề cập đến một chủ đề mới, đó là cửa chuồng chiên.
2) Đức Giêsu là cửa chuồng chiên
“Cửa chuồng chiên” khi nói thế, Đức Giêsu muốn minh định mình là lối vào duy nhất để gặp được đoàn chiên. “để đến với đoàn chiên, hình ảnh của dân Thiên-Chúa, phải đi qua Đức Giêsu. Ngoài ngài ra, không còn cách nào để đến với dân Chúa và với sự sống. ” A. Marchadour, “Tin Mừng theo thánh Gioan”, Centturion, 1992,p.143).
“Cửa chuồng chiên” khi nói thế, Đức Giêsu minh ảnh mình là cửa mà mọi con chiên phải đi qua nếu muốn được tự do và đạt được sự sống viên mãn. A. Machadour viết tiếp ngoài Ngài ra, không ai có thế tự xưng là người mang ơn cứu độ cho nhân loại được. Đức Giêsu là cửa vì qua Ngài, con người đạt được ơn cứu độ và được sống, khung cảnh đền thờ cho phép ta lấy đơn vị (cửa) để cắt nghĩa tổng thể (đền thờ) Đức Giêsu tự giới thiệu mình như đền thờ mới trong đó con người tìm được tự do và sự sống”.
BÀI ĐỌC THÊM
1) Chúa là mục tử của tôi. (H. Denis, trong “100 từ ngữ để nói lên niềm tin”. Desclée de Brouwer,1993, p.149-l50)
Chúa Mục tử, Chúa là Đấng mà với Ngài, trong cảnh nghèo khó cùng cực, người ta có thể cảm nghiệm và hiểu biết được sự phong phú của Thiên Chúa, đây chính là niềm ủi an mới của mùa phục sinh này, các bạn đã là những con chiên lạc, nhưng giữa các bạn, Con Chiên không tì vết đã hiến mình, và hóa thân thành mục tử, thành người chăn giữ mạng sống quí giá của các bạn.
Mục tử, một từ dân dã, một nghề gần như đã mai một còn chăng chỉ có những du khách lâu lâu gặp thấy những người chăn cừu vùng sơn cước. Tuy nhiên chúng ta còn nhạy cảm với hình ảnh của người mục tử với chiếc tù và đang tập họp đoàn chiên, hơn thế nữa, người ta còn xúc động khám phá ra tấm lòng của Thiên Chúa, khi nhìn thấy người mục tử mệt lả vác con chiên lạc trên khi đưa trở về bầy.
Đức Giêsu chính là người muốn qui tụ về đàn chiên duy nhất của Ngài toàn cá nhân loại được thánh tẩy trong máu con Chiên, điều đó khiến ta khiêm tốn. Tôi muốn nói rằng Đức Giêsu không bao giờ quả quyết Ngài, chỉ là mục tử của các tín hữu, và chuồng chiên của Ngài chỉ gồm các Hội thánh công giáo. Trong Tin Mừng của Thánh Gioan. Ngài tự giới thiệu mình như là Đấng đưa dẫn mọi người thiện chí về đồng cỏ xanh, là đấng mà mọi người đều có thể nhận ra tiếng Ngài.
Các linh mục hay các mục tử không thể trở thành sở hữu chủ của những người mà họ phục vụ được. Vì thế, từ mọi đồng cỏ, mọi tôn giáo, mọi nền văn hóa đều có thể hướng về trời cất tiếng ca: “Chúa là mục tử tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi”.
2) Loan báo những kỳ công Chúa đã thực hiện nơi ta và nhờ ta (Tài liệu của Uỷ ban khuyến khích ơn gọi toàn quốc) Cầu nguyện cho ơn kêu gọi, ngày thế giới cầu nguyện cho ơn kêu gọi… những bản văn được đề nghị cho ngày này mời gọi ta vừa tiến bước, vừa đi theo con đường hòa nhập vào một cộng đoàn thuộc về Đức Giêsu và mời gọi ta làm theo thánh ý Thiên Chúa, nghĩa là làm lành, sống trong tình yêu nồng nàn và thực sự của Đức Giêsu đối với thế giới bằng cách sống chiến đấu cho công bằng và qua đó biểu tỏ tất cả! niềm hi vọng trong chúng ta. Đức Kitô đã ban lời Ngài để nó thấm nhập, tăng trưởng, đâm rễ và triển nở trong đời sống chúng ta. Lời Chúa mở cửa, mời gọi đón nhận và nhận biết sự tùy thuộc vào Thiên Chúa tình yêu, Thiên Chúa của Đức Kitô Đấng biết rõ từng tên, từng người chúng ta. Ngài kêu gọi chúng ta, không phải để nhốt ta trong vòng rào mênh mông, hầu gìn giữ hay che chở chúng ta, nhưng như những con chiên mà Ngài kêu gọi, “Ngài đưa chúng ra ngoài” để nghe rõ tiếng Ngài hơn, và nhận ra con đường mà chính Ngài đã mượn, trên đó, Ngài dấn bước, ra đi và khơi dậy niềm tự do để người ta được sống và sống dồi dào.
Tất cả những điều này đều có thể thành toàn nhờ cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Đức Kitô, nhờ mối dây tình yêu thương hằng và liên tục giữa lòng với lòng, vì thế cầu nguyện cho ơn gọi có nghĩa là cầu nguyện cho con người, chia sẻ cuộc sống của Thiên Chúa, trở nên những cộng đoàn, xây dựng những cộng đoàn Kitô hầu sống động và tích cực. Còn về ơn gọi linh mục, tu sĩ, đừng mong những phép lạ, không phải chỉ cầu nguyện là có nhiều ơn gọi đâu… điều đó chỉ có được nếu chúng ta cầu nguyện trong chân lý, bằng cách xây dựng những cộng đoàn Kitô hữu thực sự, lúc bấy giờ, tự nhiên sẽ có những lời đáp trả. Nếu hôm nay, 5 triệu tín hữu Pháp tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô đã chết và phục sinh, thì sẽ có 5 triệu “ơn gọi” vì thế ngày nay, cần phải nói lên điều mình sống, điều mình tin, loan báo những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi ta và qua ta.
CỬA CHUỒNG CHIÊN
“Kẻ nào ngang qua cửa mà vào, kẻ đó mới là người chăn chiên”. Câu này phải dịch vậy vì bản văn Hy lạp không có mạo từ trước chữ. “Người chăn chiên”, nhưng đúng hơn nên dịch: “là một người chăn chiên”: vì như thế mới thích hợp với hoàn cảnh thực tế của xứ Palestine, bởi có nhiều người chăn cùng nhốt chiên của mình trong cùng một chuồng.
“Kẻ ấy gọi tên từng con”. Bản văn Hy lạp viết: katonoma, mà có lẽ đôi khi người ta dịch quá sát chữ là “từng con bằng tên của nó”. Thực ra, ngay cả thời bây giờ, mục tử xứ Palestine chỉ đặt tên cho những con chiên chính của đàn. Cha Jaussen có kể ra nhiều thí dụ điển hình trong cuốn Naplouse, tr. 305. Thành thử ở đây nói rằng mỗi con chiên có một tên riêng thì hơi quá đáng. Một vài tác giả ưa dịch “Kat onomat” là từng con một” (BJ) hoặc là “riêng từng con” (Jouon). Dù chọn cách giải thích nào đi nữa, thì ý tưởng chính vẫn là Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến chiều kích cá vị trong mối tương quan giữa Người với các môn đồ, ngược lại với kẻ mị dân chỉ đối xứ với người ta như những đám đông không tên tuổi.
“Bao nhiêu kẻ đã đến, thảy đều là trộm là cướp”: Đây không có ý nói về các ngôn sứ của Cựu Ước, nhưng là về những người, trong xã hội Do thái cũng như trong thế giới lương dân, thường tự hào là kẻ mang lại cho con người sự hiểu biết về các thực tại thần linh và ơn cứu độ bằng các phương thế riêng của họ.
KẾT LUẬN
Giữa lòng Israel cũng như giữa lòng Giáo Hội, có hai hạng người: những kẻ thực sự thuộc về đấng chăn chiên, biết đáp lại tiếng gọi của một mình Người, và những kẻ không hề lại vì họ chẳng bao giờ thuộc về Đấng ấy.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Thánh Gioan kể lại cho ta một ám dụ, một kiểu so sánh, điều họa hiếm trong Tin Mừng của ngài. Do đó có thể nghĩ rằng ngài muốn gán cho ẩn dụ này một tầm quan trọng đặc biệt. Dụ ngôn được nói cho người Biệt phái và muốn gởi đến họ một sứ điệp thiết yếu.
Biệt phái tự phụ mình là người hướng dẫn kẻ khác nhân danh Thiên Chúa; họ rất ghen với Chúa Giêsu vì Người được lòng dân và làm họ mất uy tín. Thành thử giữa Chúa Giêsu và họ, có một sự tranh chấp ảnh hưởng. Chúa Giêsu sắp nói rõ cho họ biết họ đã ảnh hưởng ra sao và chính Người đã ảnh hưởng thế nào trên đàn chiên Israel.
2) Chúa Giêsu là cửa vào, Người không loại bỏ một ai khỏi ơn cứu rỗi. “Người đến để tất cả nhân loại có sự sống dồi dào”, ngay cả những kẻ Biệt phái vốn từ khước Người. Khi xưng mình là cửa vào, Chúa Giêsu không còn cách nào rõ hơn để xác quyết độc quyền của Người trong việc thông ban ơn cứu rỗi. Người khẳng định rằng người ta không thể tranh chấp với Người được, vì Người là cửa cứu rỗi duy nhất mà tất cả phải chấp nhận đi qua, và không ai có đặc ân được miễn, ngay cả những kẻ xem ra được trao phó một chức quyền thiêng liêng trong cộng đoàn tín hữu.
3) Giáo huấn này rất quan trọng và khẩn yếu. Chúng ta có thật sự tin rằng không có một người hướng dẫn nào khác, một vị Thầy nào khác, một lối đi nào khác cho con người ngoài Chúa Kitô không? Có nhiều Kitô hữu, khi phải nói lên điều này hôm nay, đều cảm thấy hầu như lúng túng; họ có cảm tưởng rằng mình tự gán cho mình nhiều đặc ân và đặc quyền trên những người khác. Vì ước mong hiệp nhất thiếu sáng suốt, vì khoan dung thiếu quân bình hoặc vì lẫn lộn các giá trị nên họ cảm thấy hầu như hổ thẹn về lòng tin của họ vào Chúa Giêsu Kitô. Thật vậy, người ta chẳng bảo rằng mọi tôn giáo đều có giá trị như nhau, mọi học thuyết và mọi Giáo Hội đều chính đáng miễn là ta thành thật đó sao? Nhưng khi xưng mình là cửa duy nhất, Chúa Giêsu đã dẹp tan mọi lối biện luận hồ đồ này. Chẳng phải là tất cả mọi người không mang danh hiệu Kitô hữu cách chính thức đều bị ở ngoài chuồng chiên cả đâu nhưng, Chúa Giêsu muốn nói rằng ngay cả người ngoại giáo nào có thiện chí, người vô thần nào cố gắng sống ngay thẳng theo lương tâm, đều đã chỉ nhờ một mình Chúa Kitô mà được như vậy. Thành ra những ai, thuộc về chuồng chiên của Chúa Kitô mà không ý thức rõ ràng, đều phải qua cửa vào là chính Người vậy.
4) “Chiên Người, Người gọi từng con một”. Có nghĩa là Chúa biết mỗi một người cách đặc biệt. Người có thể biết như vậy vì Người là Thiên Chúa. Đó chẳng phải là một sự kiện đánh động chúng ta cách mãnh liệt đó sao?
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu Đức Giêsu vừa là mục tử vừa là cửa chuồng chiên:
– Là mục tử thật sự của dân Israel: Vì Người đi qua cửa chính mà vào chuồng chiên và được người giữ cửa là Gio-an Tẩy Giả giới thiệu. Do đó, Người được đàn chiên là dân chúng nghe theo. Còn các đầu mục Do thái chỉ là người lạ, nên chiên chạy trốn và không đi theo họ.
– Là cửa cho chiên ra vào: Các kinh sư và Pha-ri-sêu không tin Đức Giêsu và không được Thiên Chúa ủy nhiệm coi sóc đàn chiên. Họ leo rào mà vào chuồng nên chỉ là hạng trộm cướp. Kẻ trộm đến chỉ để giết hại và phá huỷ đàn chiên. Còn Đức Giêsu đến để đem lại cho chiên sự an toàn, tự do, lương thực và sự sống dồi dào.
CHÚ THÍCH:
– C 1-3: + Ràn chiên: hay chuồng chiên, nơi nuôi giữ chiên cừu của dân Do thái vốn là một dân du mục. Ở đây ràn chiên là hình ảnh ám chỉ Giáo hội là Nước Trời hay Nước Thiên Chúa. + Cửa vào: Mỗi chuồng chiên chỉ có một cửa chính để chiên ra vào. Ai muốn được công nhận là mục tử đích thực của Chúa phải qua cửa chính là Đức Giêsu mà vào Hội Thánh. Họ phải được Người tuyển chọn và trao sứ mạng chăn chiên. Còn kẻ trèo qua lối khác mà vào, như các kinh sư hay Pha-ri-sêu, thì chỉ là mục tử giả hiệu và được xếp vào hạng trộm cướp. + Người giữ cửa mở cho anh ta vào: Đức Giêsu chính là Mục tử đích thực, vì đã được người giữ cửa là Gio-an Tẩy Giả làm chứng là “Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,31-34). + Và chiên nghe tiếng của anh: Đàn chiên chỉ nhận biết và nghe theo một chủ chăn duy nhất, như các tông đồ đã nghe lời và đi theo một mình Đức Giêsu (x. Ga 1,35-51). + Anh gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra: Trong ràn có nhiều đàn chiên. Ban chiều, mỗi mục tử sẽ đưa đàn chiên của mình vào ràn, rồi sáng sớm lại đến đưa đàn chiên ấy ra khỏi chuồng để dẫn đến đồng cỏ cho chúng ăn cỏ uống nước. “Gọi tên từng con” trong câu này là kiểu nói cường điệu. Thực ra các mục tử chỉ đặt tên và gọi tên một con chiên đầu đàn và các con khác sẽ theo sau con chiên đầu đàn ra ngoài. Ở đây Đức Giêsu nhấn mạnh tinh thần trách nhiệm của Người là Mục tử tốt lành, khác với các Pha-ri-sêu và kinh sư là những kẻ chăn thuê vô trách nhiệm.
– C 4-6: + Anh ta đi trước và chiên đi theo sau: Câu này nhắc đến sứ mệnh Mục tử của Đức Giêsu: Khi đã kéo Môn đệ ra khỏi thế gian (x. Ga 15,19). Người đi tiên phong dẫn họ tới đồng cỏ non là Hội Thánh. Chiên sẽ nhận biết tiếng nói và chỉ đi theo Mục tử Giêsu, vì Người luôn nói Lời của Thiên Chúa cho họ (x. Ga 14,10). + Chúng sẽ không theo người lạ,..: Người lạ là những kẻ không do Thiên Chúa sai đến, nhưng là kẻ trộm leo rào mà vào. Người lạ ám chỉ các đầu mục Do thái đương thời. Vì không phải là mục tử đích thực, nên chiên không đi theo mà còn lẩn trốn họ.
– C 7-8: + Tôi là cửa cho chiên ra vào: Vì thính giả không hiểu ý nghĩa dụ ngôn, nên Đức Giêsu phải giải thích rõ ràng: Người chính là cửa chuồng chiên tức là cửa vào Nước Trời, mà ai muốn vào Nước Trời đều phải đi qua Người. + Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ: Mọi kẻ đến trước ở đây không nhằm nói về các ngôn sứ Cựu ứơc, mà chỉ nhắm nói về những kẻ không được Thiên Chúa sai như các Pha-ri-sêu và kinh sư Do thái (x. Mt 23,1-8). Họ bị Đức Giêsu quở trách là bọn đạo đức giả, cản đường người khác gia nhập Nước Trời, có lòng tham lam, ăn ở bất công, dẫn dường đui mù và đã từng giết hại nhiều vị ngôn sứ chân chính (x. Mt 23,13-32).
– C 9-10: + Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu: Đức Giêsu là con đường mà người ta phải đi qua để vào Nước Trời. Tương tự như câu: “Thầy là đường… Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). + Người ấy sẽ ra vào: Ra vào nghĩa là tự do đi lại. + Gặp được đồng cỏ: Trong Đức Giêsu, các tín hữu sẽ được cứu khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và ma quỷ. Họ sẽ được hưởng tự do đích thực (x. Ga 8,31-36). Nhờ Đức Giêsu, họ sẽ tìm được của nuôi thân là Nước hằng sống và Bánh trường sinh (x. Ga 4,14; 6,35). + Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy: Kẻ trộm ám chỉ các đầu mục Do thái, vì không được Thiên Chúa sai phái nhưng leo rào mà vào. Họ chỉ tìm kiếm lợi ích cho bản thân hơn là lợi ích của đàn chiên (x. Mt 23,4-7). + Tôi đến cho chiên được sống và sống dồi dào: Nhờ lương thực Đức Giêsu ban là Lời Chúa và Thánh Thể, mà đức tin của các tín hữu sẽ trở nên vững mạnh và được sự sống đời đời.
CÂU HỎI:
1) Ràn chiên nghĩa là gì và là hình ảnh ám chỉ điều gì? Cửa vào ám chỉ ai?
2) Đức Giêsu là Mục Tử thực sự của đàn chiên vì đã được Gio-an Tẩy Giả là người giữ cửa làm chứng thế nào?
3) Đàn chiên chỉ nhận biết tiếng nói và đi theo ai? Phải chăng mọi con chiên đều được đặt tên và mỗi buổi sáng người mục tử phải gọi tên từng con chiên để dẫn chúng ra khỏi chuồng?
4) Ý nghĩa của câu: anh ta đi trước và chiên đi theo sau… là gì?
5) Tại sao đàn chiên không nghe theo người lạ? Người lạ nói đây ám chỉ những ai?
6) Những kẻ đến trước được liệt vào hạng trộm cướp là những người nào?
7) Đức Giêsu tự nhận mình là cửa chuồng chiên mà ai muốn vào chuồng chiên phải đi qua, tương tự như câu nào?
8) Kẻ trộm là các đầu mục dân Do thái khác với Mục Tử tốt lành là Đức Giêsu như thế nào?
Thời Hội thánh sơ khai, tại Rô-ma bạo vương Nê-rông đã bách hại các tín hữu công giáo cách rất tàn khốc. Biết bao tín hữu đã ngã xuống chết dưới bàn tay cuả ông vua điên loạn và tàn bạo này. Hội thánh non trẻ tại đây dường như sắp bị tận diệt. Bấy giờ các tín hữu đã yêu cầu tông đồ Phêrô phải mau chạy trốn khỏi thành để tiếp tục lãnh đạo đàn chiên trong cơn bách hại. Ông Phêrô tỏ ra phân vân, vì quả thật nếu bị mất đi người lãnh đạo thì đàn chiên Hội Thánh làm sao có thể đứng vững? Đàng khác, chính Đức Giêsu đã chẳng khuyên các môn đệ: “Khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác” đó sao? Cuối cùng Phêrô quyết định hóa trang thành một người khác và trốn thoát thành công ra ngoài thành Rô-ma. Nhưng sau đó Phêrô đã gặp Chúa Giêsu Phục Sinh đang đi vào thành. Ông lên tiếng hỏi: “Quo vadis, Domine?” – “Thưa Thầy, Thầy đi đâu?” Chúa Giêsu liền đáp: “Thầy vào thành Rô-ma để chịu đóng đinh một lần nữa” rồi Chúa biến mất. Ông Phêrô hiểu ý Chúa muốn ông trở vào trong thành để động viên tinh thần của đoàn chiên. Rồi sau đó ông đã bị bắt bớ và bị kết án chết giang tay trên cây thập giá đúng như lời Đức Giêsu đã tiên báo trước đó: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: Lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn” Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào đẻ tôn vinh Thiên Chúa” (Ga 21,18). Tuy nhiên, ông đã yêu cầu được treo thập giá ngược đầu xuống đất vì nghĩ mình không đáng chịu khổ hình cùng một cách thế giống như Thầy mình.
1) Có hai loại mục tử:
Mục tử là người lãnh đạo chăn dắt đàn chiên. Đức Giêsu đã phân biệt hai loại mục tử là mục tử đích thực là chủ chiên và mục tử giả hiệu là người chăn thuê như sau:
– Hạng thứ nhất là mục tử tốt hay là chủ chiên thực sự của đàn chiên noi gương Đức Giêsu như Người đã khẳng định: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (10,14). Đức Giêsu đã thể hiện chức vụ mục tử của loài người qua việc hy sinh quên mình để nghĩ đến đàn chiên: Người đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời (x Mt 13,1-9), làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, sẵn sàng chịu chết trên cây thập tự đền tội thay cho đàn chiên như Người đã nói: «Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên» (Ga 10,11). Điều Đức Giêsu luôn quan tâm là lo cho «chiên được sống và sống dồi dào» (10,10). Đây cũng là điều các mục tử hôm nay cần quan tâm thực hiện noi gương Mục Tử Giêsu là lo phục vụ đàn chiên Hội Thánh được sống và sống dồi dào: dồi dào về mặt tinh thần qua việc hăng say rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Dồi dào cả về phạm vi thể chất qua việc chữa lành các bệnh tật của dân chúng (x. Mt 8,16-17), xua trừ ma quỷ (x. Mt 9,32-34) và nhân bánh ra nhiều để nuôi đám đông đang bị đói (x. Mt 14,15-21; 15,32-38).
– Hạng thứ hai là mục tử giả hiệu hay những người chăn thuê, ám chỉ các đầu mục dân Do Thái đương thời gồm các kinh sư, người Pha-ri-sêu và các tư tế phục vụ Đền thờ. Những người này không phải là chủ chiên thực sự nên «không thiết gì đến chiên» (10,13). Họ vô trách nhiệm trước sự an nguy của đàn chiên: «nên khi thấy sói đến, đã bỏ chiên mà chạy», để «sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (10,12). Đối với hạng mục tử này, đàn chiên chỉ có giá trị lợi dụng để phục vụ cho họ như ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm lời Đức Chúa trách cứ các mục tử dân Ít-ra-en như sau: «Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Sữa chiên thì các ngươi uống, len thì các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, nhưng đàn chiên thì lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc» (Ed 34,2-4).
2) Hai loại mục tử hôm nay:
Ngày nay trong Hội thánh cũng luôn có hai loại mục tử như thời Đức Giêsu xưa kia:
– Các mục tử tốt lành là những người thành tâm đáp lại ơn Chúa kêu gọi để gia nhập chủng viện, được huấn luyện, tuyển chọn lên lãnh tác vụ linh mục và được sai đi chăm sóc đàn chiên Hội Thánh. Đặc điểm của mục tử tốt lành là nhiệt tình và khiêm tốn phục vụ đàn chiên vô vụ lợi noi gương Đức Giêsu. Họ luôn vui vẻ đón tiếp mọi người không phân biệt giàu nghèo sang hèn khi làm các công tác mục vụ như rao giảng Tin Mừng, an ủi các người đau khổ, chia sẻ cơm bánh và khiêm tốn phục vụ người nghèo với tình thương noi gương Mục Tử Giêsu.
– Bên cạnh những mục tử tốt lành nói trên, vẫn còn một số mục tử không tốt. Những người này coi việc mục vụ như một nghề kiếm sống. Họ cũng rao giảng Tin mừng, cũng dạy giáo lý, cũng khuyên bảo mọi người… nhưng chính họ lại không nêu gương thực hiện trước, như lời Đức Giêsu đã phê phán về các đầu mục dân Do thái: «Tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng làm theo, vì họ nói mà không làm» (Mt 23,3). Họ thường tỏ ra kính nể săn đón người giàu và khinh thường bạc đãi người nghèo. Họ có lối sống xa hoa hưởng thụ thể hiện qua nhà ở sang trọng, quần áo thời trang, xe cộ đời mới đắt tiền… mà không quan tâm đến những nhu cầu của người nghèo khổ và các bệnh nhân bên cạnh đang cần được trợ giúp. Họ có thái độ kiêu căng khi tìm cách trả thù những ai dám lên tiếng phê phán các việc làm sai trái của họ. Họ quá quan tâm đến những công việc ngoài đời hơn là những việc thuộc phạm vi chức năng mục tử của mình, và chỉ làm việc phục vụ nếu được trả công xứng đáng…
3) Kiểm điểm đời sống:
Hiện nay có hiện tượng ngày càng có nhiều tín hữu chủ trương “Tin Chúa chứ không tin Giáo Hội”. Thực tế tại các nước Nam Mỹ, một số khá đông tín hữu công giáo đã từ bỏ Hội Thánh để đi theo các giáo phái có lối ứng xử có tình người hơn và phù hợp với lời Chúa dạy hơn. Ngày lễ Chúa Chiên nhân lành hằng năm chính là dịp để các tín hữu chúng ta, nhất là các người đang có trách nhiệm chăn dắt đàn chiên kiểm điểm đời sống, xét lại về cung cách phục vụ của mình. Có thể chúng ta đã “nói mà không làm” như kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình đã bị Đức Giêsu nặng lời quở trách như sau: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,2-4). Có thể một số mục tử đã có thái độ thiếu bác ái khi giải quyết giấy tờ hôn phối theo ý riêng vượt quá quy định của giáo luật, nên đã gây trở ngại cho công việc làm ăn sinh sống, thiệt hại về tiền bạc và thời giờ, gây bức súc cho những người di dân. Một số các mục tử khi giải quyết công việc đã không đặt mình vào hoàn cảnh của người khác nên đã có lối hành xử “vụ lề luật”, thiếu tình người, hoặc có lối ứng xử thiếu nhân bản và không thân thiện, gây bất mãn cho các người lương khi có dịp tiếp xúc.
4) Mục tử lý tưởng theo Đức Thánh Cha Phanxicô:
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô quan niệm mục tử lý tưởng phải là “người gần gũi với dân chúng, là người cha, người anh em, với sự hiền dịu, kiên nhẫn và thương xót. Là những người yêu sự khó nghèo, sự khó nghèo nội tâm trước mặt Chúa, cũng như khó nghèo bên ngoài như sự đơn sơ và khắc khổ trong cuộc sống. Là những người không có “tâm lý của các ông hoàng”. Là những người không tham vọng và là các phu quân của Giáo Hội. Là những người có khả năng thức tỉnh đoàn chiên được giao phó, và quan tâm duy trì sự hiệp nhất, canh giữ đoàn chiên, chú ý tới các hiểm nguy có thể đe dọa đàn chiên. Nhất là, làm cho niềm hy vọng được lớn lên. Ước gì các Mục Tử luôn có mặt trời và ánh sáng trong trái tim. Là những người có khả năng hỗ trợ Thiên Chúa nơi dân Người, với tình yêu thương và lòng kiên nhẫn. Và cuối cùng vị mục tử có ba vị trí trong đàn chiên của mình để thi hành sứ vụ mục tử như sau:
– Một là ở đàng trước để dẫn đường.
– Hai là ở giữa để duy trì sự hiệp nhất và giữ vững tinh thần của đàn chiên.
– Ba là ở đàng sau để tránh cho chiên khỏi đi tụt hậu, và tạo điều kiện để đàn chiên đánh hơi hầu tìm ra một hướng đi mới.
5) Ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu:
Hiện nay trên thế giới nhất là tại các nước Âu Mỹ đang thiếu ơn gọi linh mục tu sĩ cách trầm trọng. Nhiều nhà thờ không có linh mục coi sóc, nhiều tu viện to lớn bị bỏ hoang vì không còn tu sĩ trẻ. Nguyên nhân của tình trạng này rất nhiều. Nhưng có lẽ nguyên nhân chính là do lỗi của mỗi người tín hữu chúng ta: Vì chưa ý thức được tầm quan trọng của sứ vụ truyền giáo nên chúng ta chưa thiết tha nài xin Thiên Chúa sai thêm thợ gặt đến, chưa canh tân đời sống để làm chứng nhân tình thương của Chúa Giêsu trước mặt người đời; Các bậc cha mẹ công giáo chưa quảng đại dâng con cho Chúa và không khuyến khích chúng đi tu làm linh mục và tu sĩ để phục vụ Chúa và Hội Thánh hữu hiệu hơn.
Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II trong sứ điệp về ơn gọi năm 1996 cũng nhắc đến vai trò của giáo xứ trong việc vun trồng ơn thiên triệu như sau: “Phải làm sao để mỗi giáo xứ trở thành một cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa, cộng đoàn cầu nguyện, hăng say làm việc tông đồ và luôn quan tâm phục vụ những người nghèo khổ. Giới trẻ hôm nay vẫn không thiếu những tâm hồn quảng đại, không thiếu những người trẻ muốn sống cuộc đời lý tưởng và có ý nghĩa. Họ cần được Hội thánh hướng dẫn để gặp được Đức Giêsu, để nghe lời Người và đi theo làm môn đệ của Người, sẵn sàng chia sẻ sứ mạng cứu độ của Người. Giới trẻ hôm nay cũng cần được nghe những tiếng kêu than của bao người đói khát chân lý hay đang cần được công lý bảo vệ. Hội Thánh phải giúp giới trẻ cảm nhận được bổn phận lớn lao là xây dựng thế giới này trở thành một ngôi nhà của tình thương và hạnh phúc. Giới trẻ cũng cần có những người thầy, người bạn dám sống điều mình tin giữa muôn trở lực khó khăn, và luôn đứng vững trước sức mạnh của các cám dỗ muốn thỏa mãn các đam mê tội lỗi bất chính”.
1) Bạn sẽ làm gì giúp Hội Thánh có thêm nhiều linh mục tình nguyện dấn thân phục vụ dân Chúa? 2) Cùng nhau hát bài: “Lạy Chúa, xin hãy sai đi…” để xin Chúa sai thêm thợ gặt lành nghề đến cánh đồng lúa đã chín vàng ở khắp nơi.
– Lạy Chúa Giêsu. Xin ban cho chúng con những linh mục biết quảng đại, hy sinh phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu thương bằng tình yêu của Chúa, một trái tim mở rộng để sẵn sàng đón nhận hết mọi người, nhất là những người đau khổ và bị bỏ rơi. Xin ban cho chúng con những linh mục có đức tin vững mạnh, luôn sống kết hiệp mật thiết với Chúa, để giúp chúng con gặp được chính Chúa. Xin ban cho chúng con những linh mục biết nhiệt tình rao giảng Lời Chúa, có sức làm bùng cháy ngọn lửa yêu thương trong lòng chúng con, giúp chúng con thêm đức tin để nhìn thấy Chúa trong mọi người. Cuối cùng xin Chúa ban cho chúng con những linh mục là những vị chủ chăn tốt lành noi gương Chúa xưa, đến để cho chiên “được sống và sống dồi dào”.
– Lạy Chúa. Xin cho các gia đình Công giáo trở thành một môi trường tốt ươm trồng ơn thiên triệu, bằng việc tạo bầu khí đạo đức và yêu thương giữa các thành viên với nhau. Xin cho chúng con luôn kính trọng yêu mến các linh mục coi sóc chúng con, thành tâm cộng tác với các ngài, sẵn sàng giúp đỡ các ngài chu toàn nhiệm vụ. Ước gì giáo xứ chúng con trở thành một cộng đoàn luôn hiệp thông giữa chủ chăn và đàn chiên, là điều kiện để giáo xứ phát triển cả về vật chất cũng như tinh thần. Nhờ đó chúng con sẽ chu toàn được sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa giữa lòng xã hội Việt Nam hôm nay.
Nhân loại đang xâu xé vì quyền lợi khác nhau. Thực tại càng trở nên phức tạp vì những cái nhìn trái ngược nhau. Giữa cảnh đời như thế, làm sao tìm được hướng sống? Đức Giêsu là câu trả lời đúng nhất cho ai muốn tìm hạnh phúc đích thực.
SỐNG DỒI DÀO.
Thế giới như một căn nhà nhiều cửa. Có những cửa dẫn đến hang trộm cướp. Nếu mở sai cửa, con người có thể chui vào những căn hầm chật chội thiếu ánh sáng và nguy hiểm cho mạng sống. Nhưng nếu được soi dẫn và chuẩn bị, con người có thể chọn đúng cửa dẫn đến hạnh phúc. Đức Giêsu đã tự xưng: “Tôi là cửa.” (Ga 10:9) Nhân loại có nghe thấy tiếng Người không? Người là cửa dẫn đến nguồn sống đích thực là Thiên Chúa Cha. Không những là cửa dẫn đến bến bờ bình an, Đức Giêsu còn là “Vị Mục Tử” (1 Pr 2:25) dẫn tôi vào “đồng cỏ xanh tươi, tới dòng nước trong lành và bổ sức tôi.” (Tv 22:2-3a) Nhờ đó, tôi có thể “nghe tiếng” (Ga 10:3) và “nhận biết tiếng” (Ga 10:4) Người. Tương quan giữa Người và tôi ngày càng đậm đà thắm thiết như giữa mục tử và con chiên. Người biết tôi không như một con số vô hồn, nhưng biết rõ tôi như một đối tượng tình yêu chiếm một vị thế độc đáo trong tim Người. Quả thực, khác với những nhà lãnh đạo trần thế, Vị Mục Tử “gọi tên từng con” (Ga 10:3) như đã gọi đích danh cô Maria buổi sáng phục sinh. Nhờ thế Người mới có thể “chăm sóc linh hồn anh em” (1 Pr 2:25) với một tình yêu vô cùng sống động và cụ thể. Thực vậy, “tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính.” (1 Pr 2:24) Không còn gì bảo đảm cho tôi hơn khi “Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 22:3b) Bởi vậy, “dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.” (Tv 22:4) Trong khi đó, vì không “có Chúa ở cùng”, biết bao người tư bề khốn khổ.
Giữa cảnh trộm cướp đang hoành hành khắp nơi, muốn được cứu sống, con người cần phải tìm một nơi an toàn. Chẳng có ngả nào an toàn hơn Đức Giêsu, Đấng từng quả quyết: “Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu.” (Ga 10:9) Tìm đến những ngả khác, con người sẽ bị mắc vào mưu mô ác thần và bị tiêu diệt. Thực tế kinh hoàng đó chính Chúa phơi bày ra ánh sáng: “Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Kẻ trộm đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy.” (Ga 10:1.10) Trộm cướp chỉ biết trục lợi. Trái lại, Vị Mục Tử chân chính là “Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe.” (1 Pr 2:21.23) Người đành mất tất cả vì chúng ta. Người hiền lành như Con Chiên bị đem đi giết (Is 53:7). Nhưng Người cũng là vị Mục tử oai hùng như Giavê (Tv 23; Is 40:11; Ed 34:1-16), Đấng nuôi sống dân thời giao ước mới (Lc 15:4-7; Mt 18:10-14).
Chính vì thế, “Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2:36) của toàn thể vũ trụ. Từ nay, sống dưới “côn trượng Người bảo vệ, con vững dạ an tâm.” (Tv 22:4) Đó là lý do tại sao Đức Giêsu đã hứa: “Thầy để lại bình an cho anh em.” (Ga 14:27) Muốn hưởng được sự bình an, tức ơn cứu độ đó, “anh em phải sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần.” (Cv 2:38) Nhờ đó, chúng ta mới “được sống, và sống dồi dào.” (Ga 10:10) Nhờ sức sống vô cùng mãnh liệt đó, Giáo Hội mới có thể vượt lên trên mọi thách đố và đáp ứng những đòi hỏi của nhân loại hôm nay.
THÁCH ĐỐ HÔM NAY.
Một trong những thách đố hôm nay đó là quyền sống của con người. Nhân loại hôm nay đang xa dần nguồn sống. Bởi thế, nhiều người không tôn trọng sự sống. Thế nhưng, mới đây ĐHY Nguyễn văn Thuận lại cho rằng “từ lâu chủ đề nhân quyền vẫn là nền tảng các cuộc chạm trán giữa Giáo Hội và văn hóa thời đại, nay lại trở nên điểm gặp gỡ những người cam kết bảo vệ và cổ động cho nhân phẩm, bất kể họ là những người tin hay không tin.” (Zenit 15/04/02) Nhưng như thế không có nghĩa thách đố đã chấm dứt. Vẫn còn đó những người ồn ào đòi quyền phá thai, tạo sinh vô tính, an tử, đồng tính luyến ái v.v. Đó là những cửa tử thần dắt nhân loại vào trong cõi chết. Văn hóa tử thần đang hoàng hành khắp nơi.
Trong nền văn hóa tử thần đó, giới trẻ bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Bởi vậy, cần phải giới thiệu cho họ Đức Giêsu như cửa dẫn đến sự sống. Đức Giêsu muốn gởi một sứ điệp cho giới trẻ biết về chiều hướng hiện tại và tương lai con người. Đồng thời, Người cũng muốn cho các bạn thấy giá trị đích thực nâng cao nhân loại không nằm ở phía những lực lượng tử thần, nhưng nằm trong tay Đấng “là sự sống lại và là sự sống.” (Ga 11:25) Chính vì thế, “nội dung Tin Mừng mang theo một sứ điệp tôn giáo và thần học, nhưng cũng là một sứ điệp về nhân loại và nhân chủng học” và mối hiệp nhất hai phương diện ấy “đặt nền tảng trên Đức Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật.” (ĐHY Tettamanzi: Zenit 15/04/02)
Khi trình bày sứ điệp đó cho nhân loại, Giáo Hội cho mọi người thấy nền tảng nhân quyền là “nhân phẩm của từng người”, bắt nguồn từ chính nhân tính Đức Kitô. Đó là đóng góp lớn nhất Giáo Hội cống hiến cho nhân loại (Gianni Letta: Zenit 15/04/02). Phải trình bày làm sao để những giá trị lớn lao đó thu hút giới trẻ. Mỗi một quyết định hôm nay đều ảnh hưởng lớn tới nếp sống tương lai nhân loại. Phải làm sao để giới trẻ có thể lựa chọn con đường sống. Nếu không, lúc nào cũng có lực lượng tử thần phục kích giới trẻ và đưa vào những ngưỡng cửa diệt vong.
Muốn giúp giới trẻ tránh xa những nguy cơ đen tối đó, theo Tân Bề Trên Tổng quyền Dòng Salesien trước hết cần nhận định: “Giới trẻ có những giá trị cao cả khác với thế hệ tôi, nhưng mãnh liệt. Thế nhưng, họ có những mặt yếu, chẳng hạn thiếu cương quyết trong việc chọn lựa những quyết định tối hậu trường kỳ hay vĩnh viễn. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng như vậy, vì có những nhóm theo đuổi cuộc hành trình trưởng thành nhân bản và thiêng liêng, giữ những cam kết với Giáo Hội.” (Pascual Chávez Villanueva,: Zenit 15/04/02) Theo cha, chắc chắn chúng ta có thể hấp dẫn giới trẻ. Vì càng chiêm ngắm Đức Kitô càng thấy rõ sức sống vô cùng mãnh liệt trào dâng từ tình yêu vô biên nơi trái tim Chúa.
Tương lai thuộc về những ai đem lại cho tuổi trẻ hôm nay niềm hi vọng và sức sống dồi dào. Sức sống đó chắc chắn phải bắt đầu từ việc “chiêm niệm Đức Kitô, tìm kiếm một kinh nghiệm thần bí cho phép chúng ta vượt quá lòng đạo đức và đưa tới một cuộc dấn thân sâu xa vào cuộc sống, khởi đầu lại từ Đức Kitô và nhìn vào thế giới, nhưng đặt nền tảng trên niềm xác tín vào niềm hi vọng Kitô.” (Pascual Chávez Villanuev,: Zenit 15/04/02) Đó chính là sứ mạng lớn lao của chứng nhân Tin Mừng trong một thời đại đầy những thách đố. Thế nhưng, không thách đố nào có thể làm chùn bước người môn đệ Đức Kitô. Trong khi dấn thân, họ luôn ý thức sứ mạng làm chứng là một hồng ân vĩ đại. Thật vậy, “nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban. Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế.” (1 Pr 2:20-21) Đức Giêsu đã sống trọn vẹn hồng ân và ơn gọi lớn lao đó để trở thành niềm hi vọng và sự sống duy nhất cho toàn thể nhân loại. Cũng thế, “nếu anh em cố gắng kiên tâm ghi dấu tình yêu Tin Mừng trên công việc của anh em, anh em sẽ có thể thực hiện sứ mạng đầy hiệu quả và vui tươi. Hãy sống thánh! Như anh em quá rõ, sự thánh thiện là công tác nòng cốt của anh em, cũng như của mọi Kitô hữu,” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 15/04/02) để làm cho Đức Kitô thành nguồn sống hấp dẫn nhân loại, nhất là giới trẻ hôm nay.
(Suy niệm của Fr. Jude Siciliano)
Thưa quý vị.
Tôi vẫn thích suy tư một lần nữa về sách Tông Đồ Công Vụ. Nhiều nhà chú giải thời nay gọi nó là Phúc âm của Chúa Thánh Thần. Bởi sách thuật lại rất nhiều hoạt động của Ngài trong Giáo Hội sau ngày Chúa Giêsu phục sinh. Công cuộc truyền giáo của các tín hữu tiên khởi rất có hiệu quả nhờ những hoạt động này và ngày nay còn là gương mẫu cho Hội Thánh toàn cầu noi theo.
Trong các tuần lễ vừa qua, các sách Tin Mừng cho ta những gương sáng rực rỡ về các nhà rao giảng đạo mới. Trước hết, chính Chúa Giêsu, sau đó là Gioan Tẩy giả, rồi đến người đàn bà ở giếng Giacóp. Bà ta đã mang tin vui về Chúa Giêsu cho các dân làng của bà (CN 3 Mùa Chay). Maria Magdala loan tin mừng Chúa Phục sinh. Ông Phêrô rao giảng công khai cho dân thành Giêrusalem (bài đọc 1 tuần vừa qua và tuần này). Tất cả những nhà rao giảng đó đều rất thành công trong cương vị của mình. Phêrô thành công hơn nữa trong bài giảng ngày lễ Ngũ Tuần. Sự thành công đó hoàn toàn là nhờ bởi ơn Chúa Thánh Linh. Chưa hết, Thánh Linh còn hoạt động vượt xa hơn khả năng của các nhà giảng thuyết, Ngài khích động linh hồn các thính giả, đổ tâm tình ước ao xuống lòng họ để họ háo hức nghe lời Chúa và sẵn sàng đáp trả. Bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta ý niệm rằng, đám đông nghe Phêrô không chỉ có ấn tượng về tài hùng biện của ông hoặc ngạc nhiên về những tư tưởng mới lạ, hợp lẽ phải hay chiều sâu trí thông minh của ông mà còn khơi dậy trong linh hồn họ tâm tình thống hối ăn năn: “Thưa các ông, vậy chúng tôi phải làm gì?” Lời đáp trả thật quá lòng mong đợi của Phêrô và các Tông Đồ. Thực ra, lúc ấy Phêrô chỉ giãi bày cho dân chúng biết câu chuyện về Chúa Giêsu. Những gì Thiên Chúa đã thực hiện nơi Ngài, một vị tiên tri vĩ đại. Nhưng dân chúng đã động lòng ăn năn và quyết định thay đổi lối sống cũ. Điều đó hoàn toàn là do ơn Chúa Thánh Linh, Phêrô không nhắm tới và cũng chẳng dự trù trước, ông hoàn toàn bị động.
Như vậy lời Thiên Chúa không chỉ đơn giản soi sáng chúng ta hay cho chúng ta thêm kiến thức, mà nó còn thúc giục ăn năn hối cải và ban ơn tha thứ, đưa chúng ta tới gần Thiên Chúa, thiết lập lại mối tương giao con thảo với Ngài. Khi được chịu phép Thánh tẩy chúng ta bước vào tâm tình thống hối và sự sống siêu nhiên. Đời sống này tăng trưởng suốt cả quá trình sống của mỗi tín hữu, khi chúng ta lắng nghe lời Chúa, sẵn sàng chấp nhận lời Ngài, chúng ta lớn lên một bước. Nhưng là bởi ơn Chúa Thánh Linh. Ngài hoạt động trong chúng ta để mang lại hoa trái. Sách Công Vụ các Tông Đồ được viết ra, không phải chỉ để cho chúng ta kiến thức về các tín hữu tiên khởi và công cuộc truyền đạo của họ, nhưng còn để nhắc nhớ Hội Thánh về hoạt động của Chúa Thánh Linh trong thời hiện tại và bổn phận của chúng ta đối với hoàn cảnh mình đang sống. Chúa Thánh Linh vẫn còn hoạt động hữu hiệu ngày hôm nay đúng như Ngài đã thực hiện các dấu lạ thời các Tông Đồ, nhất là ngày lễ Ngũ Tuần khi Phêrô lên tiếng trước đám đông ở Giêrusalem. Không có chi khác biệt. Bởi Ngài là Thiên Chúa đời đời và vẫn hằng hiện diện trong Giáo Hội. Chỉ do tính ươn lười hoặc tự mãn của chúng ta mà các hoạt động của Ngài kém hiệu quả. Vương quốc của Satan ngày một bành trướng. Tội ác, chiến tranh, xì ke, đĩ điếm, mưu mẹo lan rộng khắp hang cùng ngõ hẻm.
Bổn phận nên thánh là bắt buộc: “Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5, 48). Trong Thánh kinh có tất cả 11 lần mệnh lệnh này được nhắc tới. Bắt đầu từ sách Xuất hành, rồi đến Lêvi ký v.v… Nhưng chẳng mấy khi được tôn trọng. Dân Chúa cứ theo thói thế gian mà ăn ở cho thỏa chí, toại lòng, rồi đưa ra các lý luận để hợp thức hóa tội lỗi của mình. Tin cậy vào Thánh Thần Chúa. Hôm nay chúng ta lắng nghe lời Thiên Chúa, được tuyên đọc trong thánh lễ, rồi cũng đặt cho mình câu hỏi tương tự: “Tôi phải làm gì bây giờ để đáp trả lời Chúa?” hay “Còn gì thiếu sót trong bổn phận của tôi?” Sau đó lắng nghe Chúa Thánh Linh dạy bảo trong lương tâm.
Sách Công Vụ Tông Đồ lưu giữ những lời ca ngợi và những việc diệu kỳ, Chúa Thánh Linh đã thực hiện và các tín hữu cảm nghiệm rõ ràng, sắc nét về những công việc đó. Họ nghe Phêrô giảng và nhận ra rằng không thể tư duy và hành động như cũ được nữa. Họ đang sống trong một thời đại mới có Chúa Giêsu ngự trị. Ngài đã được Thiên Chúa đặt làm “Đức Chúa và làm Đấng Kitô”. Ngày hôm nay, chúng ta chấp nhận sứ điệp của Phêrô, thì cũng phải hành động như các tín hữu tiên khởi. Thay đổi não trạng và cuộc sống, tiến sâu hơn vào ơn Bí tích Rửa tội. Những tiêu chuẩn cũ của thế gian không thể còn ý nghĩa nào trong cộng đoàn giáo xứ. Không ai còn tự coi mình có đặc quyền, đặc lợi vì thuộc về thành phần này, nọ trong xã hội. Thiên Chúa đã ban Thánh Thần và trật tự mới, “Cho anh em, con cháu anh em, tất cả những người ở xa mà Thiên Chúa đã kêu gọi”. Ngài ban ơn sủng và hành động rất tự do vì lợi ích của những kẻ được Ngài tuyển chọn. Một học sinh khi bước vào Trung Học đã nhằm tới Đại học, phải làm sao để có đủ khả năng trúng tuyển các kỳ thi Đại học. Một sinh viên Đại học cũng phải hành động tương tự để có thể kiếm được một chỗ làm tốt trong các cơ quan, xí nghiệp… nhưng Thiên Chúa, bất kể đến các công nghiệp của chúng ta Ngài chú ý đến chúng ta theo chương trình Ngài đã tiền định. Thánh thần là quà tặng Ngài đổ xuống linh hồn mỗi người để thay đổi nếp sống tội lỗi cũ: “Chúng tôi phải làm gì, thưa anh em?”
Thánh Phêrô trả lời chúng ta hôm nay, như Ngài đã trả lời các người thành Giêrusalem: “Quý vị hãy sám hối và chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được tha tội.” Đêm vọng Phục sinh vừa qua, chúng ta đã tuyên xưng lại việc dấn thân của mình trong ơn Thánh Tẩy. Chúng ta hành động ra sao để làm tròn lời tuyên hứa đó? Chút nữa quý vị sẽ rời thánh đường này, làm dấu thánh giá trên mình với chút nước thánh, xin nhớ lại lời hứa rửa tội của mình mà thầm thì cầu xin Chúa Giêsu cho được trung thành với Phúc âm. Đôi khi có nhưng câu Kinh thánh thật ý nghĩa, nhưng vì lặp lại nhiều lần quá hóa thành trống rỗng, tỷ như được vác thập giá theo chân Chúa Giêsu, chúng ta không còn hiểu nội dung của nó ra sao. Vậy xin hãy chân thành hồi tỉnh, để nhờ Đức Thánh Linh soi sáng, chúng ta áp dụng nó sốt sắng trong cuộc đời.
Đó cũng là trường hợp của bài đọc thứ 2 thánh lễ hôm nay, tức thơ I của thánh Phêrô: “Vì vết thương của Ngài, mà anh em đã được chữa lành.” Ý nghĩa của nó thật là tối tăm, dù chúng ta có đọc đi đọc lại nhiều lần. Nhưng nhờ ơn Chúa, nó sẽ sáng tỏ cho những ai nhìn lên tượng chuộc tội. Chỉ nhờ cuộc khổ nạn của Chúa mà toàn thể nhân loại được cứu rỗi để được sống muôn đời. Những ai sống ngoài ý nghĩa của câu nói này, đời đời sẽ chẳng được trông thấy ơn sống lại.
Trong Đại chiến thế giới lần thứ hai (1939-1945) quân đồng minh đổ bộ vào một thành phố nước Đức. Quân Đức không kịp trở tay, tháo chạy. Nhưng ban đêm họ giả trang ăn mặc như quân đồng minh, lẻn vào thành phố quay ngược mọi bảng chỉ đường, sáng hôm sau họ mở cuộc phản công. Quân đồng minh mất phương hướng, thua trận thê thảm. Binh lính bị quân Đức giết chết hết, toàn bộ vũ khí bị tịch thu.
Kinh thánh cũng là bảng chỉ đường cho chúng ta về nước trời. Chúa Giêsu là tướng lãnh. Nếu chúng ta không theo Kinh thánh, không theo Chúa Giêsu. Thất trận là điều chắc chắn. Vì vậy thánh Phêrô đã lớn tiếng nói với người Do thái rằng: “Đức Giêsu mà anh em treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô”. Ngài không giải thích rõ ý nghĩa của câu nói đó, nhưng phàm đã là người Israel ai cũng hiểu rằng: Đức Chúa tức là Thần linh có quyền hành trên kẻ sống cũng như kẻ chết, làm Đấng Kitô tức làm Thiên sai chỉ đường cứu rỗi cho nhân loại.
Cho nên hôm nay, Hội Thánh đặt tên chúa nhật này là chúa nhật Đấng Chăn Chiên Lành. Chúa Giêsu đã chịu khổ hình, bị giết chết và sống lại, để chăn dắt mọi linh hồn đi theo đường lối của Ngài mà được sống muôn đời. Như thế chúng ta được chữa lành và cứu chuộc nhờ những vết thương của Ngài. Cây thập giá đã cưu mang hết tội lỗi, yếu đuối, sự chết và án phạt của nhân loại. Bên kia thánh giá là ánh sáng, vinh quang và hạnh phúc. Chúa Giêsu đã bước vào đời sống của mỗi thành viên nhân loại qua sự vâng phục Thánh ý Đức Chúa Cha, đúng như thơ gởi tín hữu Do thái: “Dẫu là Con Thiên Chúa, Ngài đã trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, và khi trở nên tới mức thập toàn Ngài là nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai thần phục Ngài” (5,8-9). Mùa Phục sinh là cơ hội tốt nhất để chúng ta chiêm ngắm quá trình thánh thiện của Đấng đã sống lại vì chúng ta để làm Chúa tể kẻ sống, kẻ chết. Và nhờ kết hiệp với Ngài chúng ta hy vọng sẽ được sống muôn đời. Amen. Alleluia.
(Suy niệm của Fr. Jude Siciliano)
Thưa quý vị,
Tôi sinh ra và lớn lên ở thành thị. Tôi có thể mô tả hầu quý vị các trò chơi trên đường phố như đá ống bơ, banh nhựa, cầu lông, v.v. Còn về trâu bò, chiên cừu thì dốt đặc. Nhưng Tuần thánh vừa qua, tôi có cơ hội giảng thuyết ở một giáo xứ miền quê, bắc California, nên đôi lần được ngắm các con vật ngặm cỏ khắp các cánh đồng. Tôi nhận xét chúng thường tụ họp với nhau, mặc dù đôi lúc cũng có những con đi ăn riêng lẻ ở những đám cỏ xanh non mùa xuân. Như vậy những con đó tự mình đi lạc. Phỏng cuối tuần người chăn chiên xuất hiện và lùa chúng vào một đàn rồi dẫn sang cánh đồng bên cạnh. Ông đi sau đàn vật, dùng còi hoặc tiếng la hét để thâu gom chúng, bắt đầu từ những con xa nhất. Cuối cùng, chúng gom thành đàn và qua cổng chuồng. Đàn vật phải quen chủ nhiều lắm, bởi chúng không hề xôn xao sợ hãi khi chủ vào cánh đồng. Chúng bình tĩnh gặm cỏ như không có chi đe doạ mình. Trái lại, lúc đầu tuần tôi toan tính vượt ngang qua mặt đường để quan sát chúng gần hơn, nhưng chúng nhốn nháo chạy xa, vừa nhìn tôi vừa gặm cỏ, kiểu như canh chừng nguy hiểm.
Vào thời Chúa Giêsu, đàn chiên cừu quả là một gia tài. Cuộc sống của người mục tử hoàn toàn lệ thuộc vào đàn vật. Thu nhập chính của gia đình là từ chúng. Cho nên từ thơ ấu, trẻ con đã được giáo dục về tầm quan trọng này. Các em được nuôi nấng bên đàn súc vật, thường xuyên tiếp xúc với chúng, chơi đùa nhảy nhót bên chúng. Lớn lên các em theo chúng ra cánh đồng coi chừng và chăm sóc đàn vật của gia đình. Như vậy, các em học nghề chăn chiên cừu từ rất sớm. Chẳng ai dám giao chiên cừu của mình cho những người vô trách nhiệm. Nếu có điều chi xảy đến cho những con vật nhút nhát, người chăn cừu phải lo lắng cho chúng được an toàn, nếu không sẽ bị trừng phạt, trừ phi chứng minh được rằng mình không có lỗi. Đàn chiên cừu quan trọng đến như vậy đối với gia đình và cộng đồng. Cho nên, bất cứ người chăn nào cũng phải cẩn trọng, xua đuổi những con vật dữ tợn toan làm hại chúng, nhất là bọn trộm cắp, cướp tay trên nguồn lợi của gia đình. Việc chăn giữ chiên cừu có khi nguy hiểm đến cả tính mạng. Do đó, chúng ta hiểu được tấm lòng của Chúa Giêsu tự xưng mình là Chúa chiên nhân lành trong bài Tin mừng hôm nay. Đàn chiên quả là đáng giá, Chúa chiên chẳng thể để chúng tan tác hoặc bị tiêu vong.
Lúc ngắm các đàn vật gặm cỏ trong cánh đồng ngang qua con đường, tôi liên tưởng ngay tới Chúa Giêsu và việc Ngài chăn dắt chúng ta như thế nào! Nhưng có điều dị biệt là Chúa Giêsu không đi sau đàn chiên mà đi phía trước, dẫn dắt và dạy dỗ chúng ta khi cùng di chuyển. Ngay từ lúc khỏi đầu sứ vụ, Ngài đã dẫn đầu trong mọi tình huống, giảng dạy và cứu chữa nhân loại. Ngài vào thẳng cuộc sống mỗi người và nói với họ về một Thiên Chúa tình yêu. Khác với các thầy dạy thế gian, Ngài không đứng ngoài lề chìa tay năm ngón chỉ đàng cho chúng ta phải sống ra sao cho đẹp lòng Thiên Chúa. Ngài đi trước làm gương để chúng ta sống như Ngài đã sống, đau khổ như Ngài chịu thương khó vì phần rỗi các linh hồn và tình yêu nhân loại. Ngài không hề phạm tội (Ga 8, 46), tội lỗi không bén mảng đến Ngài (Dt 4, 15). Nhưng đã chịu khổ nạn đến tận cùng vì tội lỗi chúng ta. Chỉ những linh hồn thanh sạch mới gớm ghét sự nhơ bẩn, chỉ những bậc thánh thiện mới ghê tởm tội lỗi. Đấng Thánh vô cùng mới hiểu tội lỗi là tai hoạ ghê gớm, làm thiệt hại linh hồn loài người.
Cho nên, trong tiến trình sống mỗi người, Chúa Giêsu liên tục mặc khải sự thánh thiện của Ngài, ngõ hầu chúng ta nhận ra sự nhơ bẩn của linh hồn mình mà cải hoá tự tân. Kẻo chúng ta tưởng mình là cái chi chi, rồi ăn ở trác táng nhung lụa, bất cần lề luật của Thiên Chúa. Trong buổi phụng vụ hôm nay, chúng ta lắng nghe lời Ngài trong nguyện cầu. Chúng ta suy nghĩ về những giáo huấn của Hội thánh và những gì thiên hạ bàn tán lọt vào tai mình. Chúng ta phân định đâu là ý Chúa, đâu là tiếng gọi của thế gian, xác thịt và satan. Lời Thiên Chúa luôn có nội dung củng cố tinh thần đạo đức, khuyến khích tiến xa hơn trên con đường thánh thiện, hướng dẫn bước theo gương sáng của các bậc hoàn hảo, đặc biệt là của Đức Giêsu Kitô, chủ chiên hợp pháp duy nhất của các linh hồn (le seul légitime Pasteur des âmes), do Thiên Chúa chỉ định. Sau khi phục sinh, Ngài đổ Thần khí vào nhân loại để ban cho họ khả năng sống thánh thiện như Ngài, luôn đi theo con đường Ngài vạch ra, rao giảng những chân lý Ngài truyền dạy.
Xin lưu ý, thánh Gioan không xác định thính giả của Chúa Giêsu, có thể là đám đông, có thể chỉ là các môn đệ. Tuy ở đoạn trên, Ngài có nhắc tới các Pharisêu, nhưng câu chuyện liên quan đến việc đui mù thiêng liêng chứ không nói gì về vấn đề mục tử chăn dắt đàn chiên. Vậy chúng ta được rộng đường suy đoán. Có lẽ thánh nhân nhường chỗ trống để chúng ta điền tên mình vào, trở thành thính giả thực thụ của Chúa Giêsu hôm nay. Ở buổi phụng vụ này, chúng ta lắng nghe Chúa Giêsu như cộng đoàn Hội thánh hay từng cá nhân. Nhiều tác giả chú giải cho đây không phải là dụ ngôn mà là những hoàn cảnh khác nhau của bổn phận mục tử. Nó thay đổi tùy theo nhu cầu. Chúng ta không nên bị trói buộc vào logic văn chương. Ngược lại được tự do suy nghĩ dựa theo sự dẫn dắt của Chúa Giêsu. Thí dụ, Ngài dạy về tính hợp pháp và phẩm chất của các mục tử. Rõ ràng, thời nào ở đâu, Hội thánh cũng cần đến các mục tử tốt lành, biết hy sinh vì đàn chiên, không sa đoạ, trác táng, đạo đức kém, lối sống tồi tệ. Ngựơc lại, đáng tin cậy và nhiều gương sáng. Họ lấy Ngài làm gương mẫu, dám tố cáo tội lỗi, giả hình, bất công. Họ sẵn sàng chỉ lối tốt lành cho đàn chiên đang háo hức nghe theo. Chúng ta hy vọng tuần tới các Đức hồng y sẽ thành công trong việc lựa chọn một giáo hoàng mới đúng như vị mục tử Tối Cao đòi hỏi, để Chúa tiếp tục chăn dắt Hội thánh trên mọi nẻo đường trần gian. Bởi vì đã có thời, có lúc người ta bầu các vị giáo hoàng không xứng đáng, chia phe kéo đảng, khiến Hội thánh đã một thời khốn đốn.
Nhiều lần trong Phúc âm hôm nay, Chúa tự xưng mình là chủ chăn, là cửa chuồng chiên. Nơi khác Ngài nói: “Tôi là con đường, là sự thật và là sự sống, Tôi là bánh trường sinh, Tôi là nước ban sự sống.” Hai lần Ngài ví mình là “cửa”. Vậy đó là hình ảnh quan trọng thứ hai, chúng ta cần quan tâm. Tại sao Ngài lại cố ý gây lộn xộn: Vừa là chủ chiên, vừa là cửa chuồng chiên hay kẻ giữ cổng chuồng. Làm sao một lúc có thể là tất cả ba thứ đó? Theo suy nghĩ tân thời thì chỉ một mà thôi. Cả ba một trật không hợp lý.
Cho nên, thánh sử Gioan cũng phải nói thêm: “Nhưng họ không hiểu những gì Ngài nói với họ.” Xin nhớ thánh Gioan rất phóng khoáng trong văn phong của mình. Có thể nói, ngài gần giống như một thi sĩ viết thi ca, không bị gò bó trong quan niệm và hình ảnh của mình. Ngược lại, với ơn linh hứng, ngài rất giàu tưởng tượng, và chuyển tải sự phong phú đó trong Tin mừng của mình để chúng ta rộng đường suy tư. Theo các nhà chú giải: Cửa ở đây mang tính biểu trưng (allegory) chứ không phải so sánh tỷ giảo (analogy). Hình bóng chứ không phải song song. Chúa là nguyên lý của ơn cứu độ. Ngài mang đến cho chúng ta sự an toàn trong đồng cỏ xanh tươi. Qua Ngài chúng ta tìm thấy sự sống và của ăn nuôi thân. Ngài che chở khỏi mọi nguy hiểm thiêng liêng, là con đường duy nhất để chúng ta tiến về Thiên Chúa. Ngài rao giảng một lối sống phải theo để đẹp lòng Thiên Chúa. Chẳng triết gia nào, chẳng nhà mô phạm nào, chẳng đấng sáng lập tôn giáo nào có thể dẫn dắt chúng ta một cách hợp pháp về thiên đàng. Đúng như thánh Phêrô nói trước hội đồng kỳ mục Do thái: “Ngoài Ngài ra không ai đem lại ơn cứu độ.” (Cv 4, 12)
Thánh Gioan viết diễn từ Chúa Chiên lành vào khoảng cuối thế kỷ thứ nhất, khi mà Hội thánh đang trong cơn bách hại dữ dội. Ngài khích lệ các tín hữu trung thành triệt để với Chúa Giêsu, vị mục tử Tối cao. Lời lẽ của đoạn văn thật tha thiết, khuyên nhủ họ đừng nao núng trong những cơn gian nan, thử thách. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi họ. Nhưng luôn đồng hành với các tín hữu, dẫn dắt và chỉ bảo họ con đường phải vượt qua. Ngày nay cũng vậy, bản văn của thánh nhân vẫn còn nguyên giá trị, chúng ta phải chú tâm lắng nghe để nhận ra tiếng của Chúa.
Hình ảnh chuồng chiên thật là một không gian an toàn. Ơ đó, chiên được bảo vệ khỏi những nguy hiểm bên ngoài. Có các ngăn ô, cửa ra vào. Người giữ cổng chỉ chấp nhận các chủ chăn chuyên nghiệp, loại trừ mọi kẻ xảo trá giả hình. Đúng là một hình ảnh ủi an khi chúng ta gặp sóng gió trong Hội thánh. Những khó khăn và căng thẳng lúc nào cũng có. Nhưng Người Mục tử Tối cao chẳng bao giờ lìa bỏ chúng ta, ngay cả những lúc gương mù ngập tràn Giáo hội và các lãnh đạo sợ sệt không dám lên tiếng tố cáo những lạm dụng và bê tha. Người mục tử nhân lành luôn thí mạng sống mình vì đàn chiên, mặc cho những phản bội và hèn nhát. Ngài luôn ở với Giáo hội, nâng đỡ Giáo hội, bất chấp gương mù, gương xấu của các phần tử thoái hoá, hay những chủ chăn bất xứng sa đoạ, miệng rao giảng đạo đức nhưng nếp sống bê tha, nhung lụa. Hình ảnh người mục tử chân chính hôm nay khích lệ chúng ta, làm mọi người an lòng: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên tôi được sống và sống dồi dào.”
Nghĩa là Chúa không thất vọng về chúng ta. Nhưng luôn đồng hành với Hội Thánh và từng linh hồn trên đường ngay nẻo chính, lãnh đạo và chỉ dạy những nội dung cần thiết khi sóng gió luân thường đạo lý nổi lên. Khác với đàn súc vật, luôn được an toàn trong những đồng cỏ xanh tươi, chúng ta phải sống giữa những biến động của biển đời trần gian, với bao nhiêu bão táp thét gào: Bên này cấp tiến, bên kia bảo thủ, phe A hô hào cải tổ, phe B phàn nàn sa sút. Không hiểu bao nhiêu thanh niên thiếu nữ bị cướp đi khỏi đàn chiên Giáo hội? Biết bao gia đình không còn lưu giữ lời Thiên Chúa Thay vào đó là những thôi thúc của nếp sống văn minh vật chất, con cái dần dần lìa xa đức tin. Chúng ta không luôn ở trong những hoàn cảnh thuận lợi. Trái lại phải trà trộn với môi trường ô nhiễm luân lý. Những dụ dỗ của thế gian, xác thịt, satan bủa vây tứ phía: Chay tịnh làm chi? Lỗi thời rồi, hãy chú ý đến sức khoẻ của bạn. Tội gì phải sống bất tiện, hãy tận hưởng cuộc đời, nay mai bạn sẽ chết. Tích luỹ của cải, bạn sẽ có một cuộc sống sung sướng. Coi đó ông Y bà X hãm mình ép xác, chết rồi người ta cũng đưa ra cánh đồng, phí uổng cả đời không? Ở thế gian này, không ăn cũng thiệt, không chơi cũng hoài… Những thông điệp tương tự có nguy cơ lấn át lương tâm người công giáo tân thời. Hy sinh hãm mình không còn giá trị. Các thanh niên nam nữ chạy theo tiếng gọi của dục vọng nhiều hơn tiếng Chúa. Vô tình chúng ta buông theo họ quên bẵng giáo huấn của vị Mục tử tối cao.
Lời Chúa tuyên bố: “Tôi là mục tử nhân lành, là cửa cho chiên ra vào.” Có sức nặng luân lý quan trọng. Nó cảnh giác linh hồn lắng nghe lời Ngài. Thánh Gioan thụât lại: Người Pharisêu “không hiểu lời Ngài nói với họ.” Còn chúng ta thì sao? Liệu có hiểu không? Tôi dám chắc phần lớn không hiểu, bởi nếu hiểu thì chúng ta đã hành động khác đi rồi, không còn giữ nếp sống cũ nữa. Ngược lại, chúng ta sẽ nhiệt thành cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu, tẩy trừ tội lỗi khỏi thế gian. Chết đối với tội và sống trong sự thánh thiện của Thiên Chúa. Bởi vì mỗi khi phạm tội là khinh dể ơn cứu độ của Ngài, là đóng đinh Con Thiên Chúa vào thập tự một lần nữa, chà đạp dưới chân Thân mình Ngài và tục hoá Máu thánh Ngài. Tự tuyên bố là kẻ thù của thập giá Đức Kitô (Pl 3, 18). Đúng là một tai hoạ khủng khiếp, nhưng ít ai ý thức được.
Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi tu sỹ, chúng ta hãy tỉnh dậy, dâng hy sinh để đền tội mình và đền tội cho toàn thể nhân loại. Trừ những linh hồn sa đoạ ra, còn thì hằng ngày, Hội thánh vẫn vác thánh giá theo chân Chúa, vẫn cương quyết trong đường lối thánh thiện của mình, vẫn làm tròn trong thân xác những đau khổ còn thiếu xót nơi thân thể Chúa Kitô (Cl 11, 24). Bởi lẽ, không đổ máu thì nhất định không được ơn cứu độ. Hội thánh vẫn trung thành theo tiếng Chúa gọi cho đến ngày tận cùng thế giới.
Cho nên, thánh Gioan khuyên nhủ chúng ta hãy chú tâm lắng nghe tiếng Chúa, kẻo hiểu sai sứ điệp của Ngài, sứ điệp nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng trọn lành, chứ không nghe theo tiếng gào thét của ma quỷ chung quanh. Chúng ta thường có khuynh hướng bẻ cong Lời Chúa để an tâm làm những điều xằng bậy hợp với dục vọng của mình. Thực tế nhiều lần chúng ta đã nói với Chúa: Xin theo ý con chứ đừng theo ý Cha. Bởi ý Cha đòi hỏi hy sinh, mà con thì không thể hy sinh hãm mình được. Con phải thoả mãn dục vọng của con. Đại khái có những loạn âm như vậy trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, nơi làm việc, chợ búa, học đường, gia đình, tu viện, đường phố, sân chơi, v.v.
Nhưng Chúa Giêsu hôm nay kêu gọi lắng nghe lời Ngài. Bởi chỉ nơi lời Ngài, chúng ta mới tìm thấy sự sống, an toàn và hạnh phúc. Chúng ta cầu xin Thần khí Chúa mở linh hồn mình ra, đón nhận lời Chúa, ngõ hầu hiểu và sống theo Ngài chỉ dạy, không giả đò, không phân tán, không lầm lẫn. Chúng ta cũng nhớ tới bổn phận tín hữu của mình mà sốt sắng cầu xin Chúa Thánh Thần đổ ơn soi sáng cho các đức hồng y ở Rôma, chọn được đại diện của vị Chủ chăn Tối cao xứng đáng. Amen.
(Ghi chú: Bài năm viết tháng 4 năm 2005… hồng y đoàn đang họp Cơ Mật Viện và sẽ bầu ra đức Bênedictô 16)
(Suy niệm của John W.Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Chính Ngài mang lấy tội của chúng ta nơi thân thể Ngài, đưa lên cây Thập giá” (1P 2,24).
Trong thế giới Hy Lạp- Rôma ngày xưa, những nô lệ đôi khi cũng được đối xử tử tế, nhưng hoàn toàn do tùy thích của người chủ, chứ luật pháp không đòi buộc. Ngay cả những nô lệ tại nhà, như được nói tới trong thơ thứ nhất của Thánh Phêrô, vẫn có thể bị bạo hành theo ý của ông chủ. Thánh Phêrô trong thơ thứ nhất của Ngài đã khuyên những người nô lệ đó hãy phục tùng quyền bính của người chủ, cả khi họ tử tế cũng như lúc họ khắc nghiệt. Người nô lệ không có một quyền gì trên cuộc sống của họ, tất cả hoàn toàn lệ thuộc vào chủ. Thánh Phêrô đưa ra lời mời gọi này, hàm ngậm sự nhẫn nhục chịu đựng, ngay cả khi thân xác họ bị khai thác hay bị lạm dụng tình dục.
Khi đọc lại những lời khuyên đó trong bối cảnh xã hội thế kỷ đầu tiên, chúng ta hôm nay sẽ hiểu sứ điệp đó như thế nào? “Nếu anh em hứng chịu những đánh đập khi anh em sai lỗi, thì dễ hiểu, nhưng khi anh em làm đúng mà vẫn phải chịu đựng những bất công, thì có Thiên Chúa chứng giám cho anh em”. Khuyên nhủ tín hữu như thế, dường như Thánh Tông đồ đòi hỏi phải biết cam chịu trong câm nín trước những tàn bạo và bất công, lại còn có vẻ gián tiếp tán thưởng những hành vi gian ác đó. Không phải vậy đâu. Quả thật, khi chúng ta nhìn vào thực trạng xã hội ngày hôm nay, chúng ta sẽ thấy có một hình thái nô lệ mới đang nở rộ quanh ta. Sứ điệp mà Thánh Phêrô nói ở trên hàm ngậm điều gì, để ngỏ trao cho con người thời đại này?
Rất quan trọng, chúng ta phải nhớ rằng, vào thế kỷ đầu tiên, việc mua bán nô lệ là một định chế xã hội hợp pháp. Việc sang tay trao đổi nô lệ, hoàn toàn tùy thuộc vào cá nhân các ông chủ. Nếu có ai giúp các nô lệ trốn thoát, nguời đó sẽ bị pháp luật trừng trị. Chính những nô lệ bỏ trốn sẽ bị đối xử bằng những cực hình rất kinh sợ, và đương nhiên điều đó hợp pháp lúc bấy giờ. Giáo hội thời sơ khai chỉ là một thiểu số nhỏ nhoi, hầu như cũng chẳng có tiếng nói gì về mặt xã hội và chính trị. Chính vì thế, các Kitô hữu thuở ban đầu đứng trước tình trạng này, chỉ biết khuyến khích các nô lệ hãy noi gương Chúa Giêsu, chịu đựng những bất công và chấp nhận để tiếp bước theo Ngài.
Đoạn văn trong thơ thứ nhất của Thánh Phêrô, (1P2,22-24), theo ý kiến của một vài học giả, là một phần trong thánh thi của các tín hữu thời sơ khai. Thánh thi này quy chiếu vào cuộc khổ nạn Đức Giêsu, như ngôn sứ Isaia nói tới (Is53, 4-12). Đó là bài ca về “ Người Tôi Tớ Đau Khổ”. Những bi thương của các nô lệ trong thế kỷ đầu tiên là một điều rõ rệt, không cần bàn cãi, và những khổ đau đó được gắn kết với những kinh nghiệm trong nỗi thống khổ của chính Đức Giêsu. Quả thật, những ai hứng chịu đau khổ cách bất công, cả trong thời đại ngày hôm nay, vẫn có thể suy tưởng trạng huống đời mình liên đới với Đức Giêsu, “Đấng đã bị đối xử tàn bạo, phũ phàng, nhưng không oán thù, hoàn toàn tín thác vào Đấng sẽ giải oan cho mình”. Đau khổ ngày nay, được mặc lấy một ý nghĩa linh thánh, để những khốn khó Đức Giêsu đã gánh chịu được hiện lộ rõ nét nơi tất cả những ai chấp nhận khổ đau trong thân thể mầu nhiệm của Ngài.
Tuy nhiên, có một nguy cơ ở đây, đó là chúng ta cứ thụ động thinh lặng đứng ngoài lề, khi thấy những bóc lột và lạm dụng người khác gây ra cho những kẻ yếu thế, khiến họ phải chịu đựng cách bất công và vô lý. Không phải vậy. Thánh giáo phụ Chrysolomo, trong khảo luận “Bàn về hư danh” (số 69) đã chỉ dạy các người trẻ hãy chấp nhận những bất công xảy đến, nhưng “tuyệt đối không để điều đó tiếp tục xảy ra”. Khi nào những đau thương và bất công xảy đến, bổn phận chúng ta là phải cố gắng đẩy lùi tình trạng đó bằng chứng tá của chính mình. Dầu sao, có những lần chúng ta cố ngăn chặn những bất công mà người khác phải gánh chịu, nhưng không cách nào làm được, chúng ta vẫn phải cam chịu. Ở đây, mẫu gương của Chúa Giêsu sẽ giúp chúng ta hiểu được rằng chính Ngài là đấng vô tội đã hứng chịu mọi phũ phàng và gian ác, để qua những khổ đau đó, Ngài chữa lành mọi thương tích nơi chúng ta. Tôi không muốn hứng chịu khổ đau. Tôi cũng không muốn những người tôi yêu thương phải lãnh lấy đau khổ. Tôi cũng chẳng muốn ai chịu đựng như thế. Nhưng mổi lần chúng ta đón nhận những bầm dập và nghiệt ngã, điều quan trọng là chúng ta ý thức được Đức Kitô, vị Mục Tử Nhân Lành thấu rõ những khổ đau nơi thân phận con người chúng ta. Thánh Phêrô trong thơ thứ nhất của Ngài đã viết: “Chúng ta bị tan tác như chiên non tan đàn xẻ nghé, nhưng chúng ta sẽ được chủ chăn dẫn về, và Ngài cũng là Đấng chăm sóc linh hồn chúng ta”. Đoạn văn trong Is 53,6 nói rõ hơn: “ Vị Mục tử Nhân lành đã chuốc lấy khổ đau, để khơi nguồn cứu độ, vì chúng ta là những con chiên lang thang mỗi người mỗi ngả, nhưng đức Chúa đã đặt mọi tội khiên chúng ta trên đầu Ngài”.
Nỗi thống khổ của đức Giêsu vô tội giúp chúng ta nhận thức được ý nghĩa của những đau khổ chúng ta đã và đang kinh qua, đồng thời hướng việc chặn đứng những bất công của chúng ta đến một mục đích linh thiêng. Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu ngày xưa, cũng cho phép chúng ta thông dự với những ai đang gánh chịu đau khổ ngày hôm nay, đang bị bách hại sống kiếp nô lệ, đang bị lạm dụng thân xác, bị áp bức hay bị tổn thương bởi muôn vàn lý do khác nhau. Khi chúng ta chịu đựng đau khổ, hoặc cố gắng ngăn chặn những khổ đau người khác gánh chịu, điều quan trọng là chúng ta nhận ra rằng Đấng Chăn Chiên Nhân Lành không muốn tạo ra những khổ đau cho ta, nhưng Ngài muốn cất đi những đau khổ đó. Chúng ta sẽ làm chứng tá rằng vị Mục Tử Nhân Lành đó đã đến trần gian để cho ta “được sống và sống dồi dào”(Ga 10,10), và Ngài mong muốn đưa chúng ta trở về với đàn chiên trong an lành.
Dựa vào các bài đọc trong phụng vụ Lời Chúa, Chúa nhật IV Phục Sinh hôm nay được gọi là “Chúa nhật Chúa Chiên lành”. Đấng Chăn Chiên Lành đó chính là Đức Kitô, một vị Mục Tử sẵn sàng hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Toàn bộ Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta thấy rõ khuôn mặt của Đức Kitô. Ngài là vị Mục tử nhân lành của tất cả chúng ta, của ông bà anh chị em và của tôi. Đồng thời, khi chiêm ngắm khuôn mặt của Đức Giêsu Mục tử, Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta dành ngày Chúa Nhật hôm nay để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục, tu sĩ, với ước mong, trong Giáo Hội ngày càng có nhiều “vị mục tử như lòng Chúa mong ước” (x. Pastores dabo vobis).
Trước hết, chúng ta cùng trở lại với các bài đọc để chiêm ngắm hình ảnh Đức Giêsu, Vị Mục tử nhân lành. Khi nhận mình là người mục tử được Thiên Chúa sai đến để dẫn dắt dân Người, Đức Giêsu đã dẫn đưa thính giả của Ngài đến một hình ảnh rất gần gũi và quen thuộc đối với dân Do-thái, vốn sống bằng nghề du mục. Đất nước Do-thái nằm trong một vùng đất bán sa mạc, nên các đồng cỏ không nhiều. Do đó, người mục tử thường phải cho chiên đi ăn ở những nơi rất xa, có khi hàng tuần lễ, hoặc cả mấy tháng trời mới về nhà. Trong thời gian cho chiên đi ăn, người chăn chiên coi như “cùng ăn, cùng ở” với chiên. Mối tương quan giữa họ và chiên thật thân thiết. Người mục tử chân chính biết rõ từng con chiên của mình và chiên cũng biết tiếng của họ. Họ gọi chiên của mình và chiên đi theo tiếng gọi của chủ. Có con nào bị lạc, họ liền đi tìm, con nào bị thương tích, họ hết lòng cứu chữa, và để giúp những con chiên nhỏ, yếu đuối đi kịp với cả đàn chiên, người mục tử cũng không ngần ngại vác chiên lên vai của mình.
Chính trong những tâm tình đó, Đức Giêsu đã tự ví mình là “cửa ràn chiên”, là “mục tử tốt lành” được Chúa Cha sai đến để bảo vệ, gìn giữ và chăm sóc cho đàn chiên là toàn thể nhân loại. Ngài nói: “Ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên… và chiên nghe theo tiếng người ấy… Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra”. Và quả thực, là người mục tử đích thực, Đức Giêsu biết rõ từng con chiên một. Ngài không chỉ biết con người bên ngoài, nhưng biết rõ tận cõi thâm sâu của từng người chúng ta. Ngài biết rõ từng nỗi ưu tư, từng nỗi băn khoăn lo lắng của chúng ta. Ngài cũng biết rõ lòng nhiệt thành cũng như những yếu đuối của chúng ta. Cảm nghiệm điều này, tác giả Thánh vịnh đã kêu lên: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết” (Tv 139, 1-4).
Không chỉ biết rõ, Người Mục tử nhân lành còn hết lòng chăm sóc để đàn chiên của mình không bị thiếu thốn, nhưng luôn được no thỏa, như lời Thánh vương Đavít trong bài đáp ca: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng”.
Mặt khác, là người Mục tử tốt lành, Đức Giêsu còn sẵn sàng hy sinh mạng sống mình, để bảo vệ đàn chiên khỏi sự tấn công của kẻ thù. Ngài đã chấp nhận đi trọn con đường khổ giá trước, để chúng ta bước theo sau Ngài, đúng như lời Ngài đã nói trong bài Tin mừng: “Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau”. Đức Giêsu đã đi trước và đi trọn vẹn con đường thập giá, để đem lại cho mỗi người chúng ta một sự sống mới, như lời thánh Phêrô trong bài đọc hai: “Đức Kitô đã chịu đau khổ cho chúng ta,… Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó mình cho Đấng xét xử công minh; chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người, trên cây khổ giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành”.
Như thế, với sự hiến thân mình làm hy lễ đền tội dâng lên Chúa Cha, Đức Giêsu đã thực sự chứng tỏ mình là Người Mục Tử nhân hậu, được Chúa Cha đã sai đến, để nhờ Ngài, mỗi người chúng ta “được sống và sống dồi dào”.
Đức Giêsu chính là vị Mục Tử nhân hậu đến trong thế gian, chấp nhận hiến thân mình, để “thâu họp con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một” (Ga 11, 52). Xác tín điều đó, sau ngày lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô đã lớn tiếng kêu gọi: “Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha tội”. Còn trong bài đọc hai, thánh nhân đã so sánh chúng ta, là những kẻ tin vào Đức Kitô, như những con chiên lạc, giờ đây đã trở về lại với đàn chiên: “Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em”.
Trở về lại với vị Chủ chiên duy nhất và nhân hậu là Đức Kitô, mỗi người chúng ta không còn phải buồn sầu, thất vọng, cho dù cuộc sống vẫn còn đó những khó khăn, thử thách, như lời tâm sự của vua Đavít trong bài Đáp ca: “Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi. Cây roi và cây gậy của Người, đó là điều an ủi lòng tôi”. Vâng, có Chúa ở cùng, chúng ta không còn lo mắc nạn, không còn lo phải bước đi trong đêm tối của gian nan một cách cô đơn nữa.
Nhận lãnh bí tích Rửa tội, được gia nhập vào Giáo Hội, mỗi người chúng ta được vinh dự trở nên một thành viên trong đoàn chiên của một mục tử duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hết lòng yêu thương chúng ta. Do đó, chúng ta cần lắng nghe lời dạy của Đức Giêsu Mục tử qua các đại diện của Ngài nơi trần gian, cụ thể là các giáo huấn của Giáo Hội, trong các vấn đề về luân lý như phá thai, chống bất công, tham nhũng… Và để xứng đáng là một con chiên trong đàn chiên của Đức Giêsu, Mục Tử, chúng ta cũng cần loại bỏ khỏi bản thân mình những thói hư tật xấu như: tham lam, say sưa, bài bạc, nói hành, nói xấu, chửi thề, nói tục…
Đồng thời, trong ngày cầu nguyện cho ơn Thiên triệu, chúng ta cũng nhớ cầu nguyện cho những người dấn thân trong đời sống tu trì, bởi lẽ, họ cũng là những con người yếu đuối, đầy sai phạm lỗi lầm, thậm chí còn hơn cả chúng ta. Và cùng với lời cầu nguyện, chúng ta cần hỗ trợ bằng chính sự cộng tác, và thái độ góp ý chân thành, để xây dựng và củng cố cho cộng đoàn chúng ta ngày càng phát triển, trở nên một cộng đoàn hiệp nhất, yêu thương.
Đặc biệt, ngày mai 18/4/2005, là ngày Hồng Y đoàn bước vào Mật viện để bầu Tân Đức Giáo Hoàng, chúng ta hãy cùng hiệp ý cầu nguyện, xin Thiên Chúa tuôn đổ ơn Thánh Thần xuống trên các vị Hồng Y, để các ngài sáng suốt lựa chọn một Tân Giáo Hoàng theo đúng Thánh Ý của Thiên Chúa. Và dù chưa biết vị Tân Giáo Hoàng là ai, chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho Ngài luôn sống đúng là một vị “Mục Tử như lòng Chúa mong ước”. Amen.
Hôm nay Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Hội Thánh cho chúng ta đọc Tin Mừng của Thánh Gioan, nói về người Mục Tử. Hình ảnh người mục tử ở Israel, cũng như nơi nhiều các dân tộc thuộc địa bàn văn hóa du mục là hình ảnh cổ điển, quen thuộc. Vì thế, ngay trong Cựu Ước chúng ta sẽ thấy nhiều tác gỉa dùng hình ảnh mục tử để chỉ các thủ lãnh của họ như Moisen (x.Hs.12,14; Is.63,11), như Davit (x.2Sm.5,2; 24,17), nhất là chỉ Giavê trong lịch sử (x.Kn48,15; Tv.74,1) hoặc Messia trong tương lai (x.Ez.34,11-16), hay chỉ vị vua Messia (x.Jer.23,4-5).
Sang Tân Ước, Chúa Giêsu nhiều lần sử dụng hình ảnh Mục Tử này:
Để mô tả Israel vào thời của Người như là một đòan chiên bị bỏ rơi (x.Mt.9,36; Mc.6.34) hay chiên lạc (x.Mt.10,6; Lc.15,4-7).
Để chỉ thị nhóm môn đệ của Người như là một Israel mới (x.Mc.14,27; Lc.12,32).
Để diễn tả chính vai trò của Người trong tuần khổ nạn (x.Mc.14,27) hoặc Phục Sinh (x.Mc.14,28) và thẩm phán (x.Mt.25,31-46).
Đối với đòan chiên, mục tử biết tên, gọi tên từng con chiên, chiên biết tiếng mục tử. Mục Tử dẫn đường, chiên bước theo. Đây chính là đặc điểm của người chủ chăn tốt, và người Mục Tử này qua cửa mà vào, người canh cửa mở cho Mục Tử vào, còn kẻ trộm thì trèo qua lối khác mà vào. Ràn chiên nghĩa bóng là dân Do Thái, là các tín hữu, Người qua cửa là chủ thực sự, chăn dắt chiên hay người được Giavê trao phó sứ mạng. Người không qua cửa là người cướp lấy chiên. Chúa Giêsu có ý tố cáo những người lãnh đạo Do Thái, tỏ ra bất trung với sứ mạng của mình, bỏ bê đàn chiên, để đàn chiên lạc lõng và phân tán, chỉ lo uống sữa, xén lông chiên để cầu lợi cho mình.
Đó chính là những thủ lãnh chính trị của Israel, các ác vương thời xưa, các người gây chiến, họ coi quyền hành của họ như một phương tiện để thỏa mãn sở thích hiếu chiến, thỏa mãn tính kiêu căng và các tham vọng của họ. Đồng thời Chúa Giêsu cũng muốn ám chỉ đến các thủ lãnh tôn giáo Isarel đã gạt dân của họ xa con đường sống, các người Do Thái đã tàn sát các Ngôn Sứ, các tiến sĩ thời Người đã ngăn chặn không cho thế hệ của họ đáp lại lời mời gọi của Nước Trời, các người thuộc phe Quốc Gia mơ ước một cuộc nổi lọan chống lại Rôma. Còn Chúa Giêsu thi Người trao ban sự sống.
Vâng, Chúa Giêsu chính là Người Mục Tử hướng dẫn dân Người đến với ơn cứu độ, Người là Mục Tử tốt lành gọi tên từng con chiên, biết rõ từng con, săn sóc, thuốc thang. Gọi tên không phải để “dò xét” theo kiểu con người, mà là dò xét theo kiểu của người yêu ” Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ..” (x.Tv.138).
Đồng thời Chúa Giêsu cũng là cửa để chiên ra vào, để giữ cho chiên an tòan, bảo vệ chiên, ban sự sống dồi dào cho chiên, thí mạng vì chiên. Ngài không lọai trừ ai ra khỏi ơn cứu độ ” Ngài đến để tất cả mọi người được có sự sống một cách dồi dào…”(x.Jn.10,10b). Ngài là cánh cửa duy nhất đưa con người vào ơn cứu độ. Mọi người thiết yếu phải đi qua Ngài, không ai được ưu tiên chuẩn miễn khỏi đi qua Ngài.
Và chính Ngài trao sứ mạng cho những Mục Tử khác, và họ phải là mục tử như Ngài. Phải để cho Ngài là Mục Tử đối với đàn chiên qua mình. Phải làm cho chiên nhận biết Đức Kitô là Mục Tử của họ. Việc dẫn lộ cũng phải làm sao cho họ hiểu rằng không phải tôi dẫn lộ mà Đức Kitô dẫn lộ, như Gioan Tẩy Gỉa ” Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” ( x.Jn.3,30).
Là chiên chúng ta phải lắng nghe để nhận ra tiếng của Chúa Giêsu và đáp lại tiếng ấy là đi theo Ngài, sống như Ngài sống. Đây là một giáo huấn khẩn thiết và quan trọng, chúng ta phải thực sự xác tín rằng không có một vị hướng dẫn nào khác, một vị thầy nào khác hay một con đường nào khác ngòai Đức Kitô. Mà muốn đi theo đường của Ngài thì phải yêu kẻ thù, tha thứ cho kẻ thù và chết cho người yêu… Muốn làm được điều này phải nhờ sự hướng dẫn và nhờ sức mạnh của Thần Khí.
Lạy Chúa, Chúa đã ưu ái kêu gọi đích danh và dẫn đưa từng người chúng con vào đời sống Ktiô hữu, xin cho chúng con luôn là những con chiên ngoan hiền biết lắng nghe tiếng Chúa và mau mắn tuân theo ý Chúa qua các vĩ Mục Tử trong Hội Thánh, để không bao giờ chúng con bị tách khỏi tình thương hải hà của Chúa.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Một trong những hình ảnh gây ấn tượng và mãi ghi khắc trong tâm hồn của tôi là hình ảnh Chúa Chiên Lành. Tôi đã thấy hình này trên một bức tranh khá lớn lúc tôi còn nhỏ bé. Tuy nhiên, bức tranh Chúa Chiên Tốt đã làm cho tôi xúc động, đáng yêu và giữ mãi trong tâm trí. Bây giờ lớn lên là linh mục tôi càng cảm thấy hình ảnh Chúa Chiên Lành thật đáng quí, đáng yêu biết bao.
CHÚA YÊU CHÚNG TA:
Chúa yêu thương nhân loại, yêu thương con người, yêu thương mỗi người chúng ta. Điều kỳ diệu vẫn là Chúa yêu thương chúng ta trước, Chúa đi bước trước đến với chúng ta trái ngược với ý nghĩ chúng ta tưởng mình yêu thương Chúa trước. Chúa yêu thương con người vô điều kiện, yêu thương vô bờ bến. Tình yêu của Ngài đối với chúng ta là tình yêu vô vị lợi, tình yêu tự hiến:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu mến”( Ga 15, 13 ). Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, Người biết chiên của Người và chiên của Người biết Người ( Ga 10, 14 ). Người yêu thương đàn chiên và yêu thương từng con chiên một. Đọc Thánh Vịnh 22 ( 23 ), Thánh Vịnh ” Chúa Chiên Lành “, chúng ta như được ấm áp lên vì Chúa yêu thương chiên của Người, dẫn chiên đến các cánh đồng cỏ xanh tươi và những dòng suối mát trong lành. Chúa hiểu biết đàn chiên và từng nhu cầu của mỗi con chiên. Người biết những gì con người cần cho linh hồn cũng như thể xác của họ. Do đó, con người không sợ sệt, không lo âu, không xao xuyến, con người phải tin tưởng nơi Người. Chúa muốn mỗi người, mọi người chỉ nghe tiếng gọi yêu thương duy nhất của Người, tiếng gọi cứu độ và ơn giải thoát của Người. Chúa luôn yêu cầu con người, mỗi người hãy đặt sinh mạng, cuộc đời của mình trong bàn tay nhân từ của Người, đừng nghe theo bất cứ tiếng gọi nào vì có thể đó là tiếng gọi của tiền tài, danh vọng, tình dục, thế gian và ma quỷ.Chúa nói:” Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”( Ga 10, 10 ). Chúa muốn chiên của Người được sống tràn trề bên dòng suối Lời của Chúa và được Chúa nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Thánh của Người. Chúa là cửa ràn chiên, Chúa quả quyết Người là Đấng cứu thế đến cứu chuộc mọi người, ai muốn được cứu độ phải đến với Người, tin vào Người và sống theo lời Người dạy.
NGÀY CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI:
Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ nam nữ. Vâng, Chúa cũng đã đến trong một gia đình có cha có mẹ để dạy cho nhân loại hiểu rằng con người phải phát xuất từ một gia đình trân thế. Chúa đã đến từ trời, từ gia đình của Thiên Chúa ngang qua một gia đình được Thiên Chúa Cha tuyển chọn từ đời đời. Người đã lớn lên, rồi tới giờ Chúa Cha định, Người đã mời gọi các môn đệ, các tông đồ đi theo Người. Chính vì thế, công cuộc cứu chuộc của Người cần được nhiều người cộng tác. Chúa mời gọi có nhiều tâm hồn quảng đại, tự nguyện đi theo Người để góp tay vào công việc cứu thế của Người. Nhân loại và đặc biệt mỗi người chúng ta cần cầu nguyện để cho có nhiều thanh niên nam, nữ dấn thân vô điều kiện, vô vị lợi để phục vụ đàn chiên của Chúa, bởi vì chiên không thể nào thiếu chủ chiên được. Mọi Kitô hữu phải siêng năng cầu nguyện, cổ vũ ơn gọi linh mục và tu sĩ, khích lệ, động viên tinh thần và góp tài chánh để các Chủng Viện, các Đại Chủng Viện, các Nhà Dòng có thêm vật chất để nuôi dưỡng và đào tạo ơn gọi. Đặc biệt các giáo xứ, giáo họ phải nâng đỡ ơn gọi và góp phần vào công việc đào tạo linh mục và tu sĩ cho giáo phận, cho nhà dòng. Giáo xứ, giáo họ và từng gia đình cần gây nên bầu khí đạo đức, đặc biệt từng gia đình cần khơi lên lòng ước ao cho con mình biết dâng mình cho Chúa bằng chính đời sống gương mẫu của gia đình mình. Nhờ đời sống gương mẫu, nhờ sự khuyến khích động viên của từng gia đình, ơn gọi sẽ nẩy sinh từ những gia đình đạo đức và biết cổ vũ ơn gọi. Chúa là cửa Chuồng Chiên và Chuồng Chiên là Giáo Hội, cửa đi vào Hội Thánh là tin vào Chúa Giêsu. Chuồng Chiên cũng là Nước Trời mà cửa chính phải qua cũng là Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho có nhiều thanh niên nam nữ biết dấn thân làm linh mục và trở nên tu sĩ thánh thiện nhiệt thành để nhiều người được nhận biết Chúa là Mục Tử Tốt Lành, là Chuồng Chiên, là Nước Trời. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Hình ảnh người chăn chiên đang dẫn đàn chiên đi ăn cỏ trên các cánh đồng cỏ xanh tươi, hay đưa đàn chiên tới các dòng suối nước trong lành làm cho ta gợi nhớ tới xã hội Do Thái khi xưa, nhớ tới khung cảnh Chúa Giêsu sống trong đất nước Do Thái cách đây 2002 năm. Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên ở đất nước Do Thái, nên Ngài đã được thừa hưởng nền văn hoá và quan niệm tôn giáo Do Thái vì thế Ngài đã dùng những dụ ngôn, những ví dụ rút ra từ những hoàn cảnh cụ thể của người Do Thái để dậy dỗ, giáo huấn các môn đệ và nhân loại. Chúa Giêsu đã dùng chính ngôn ngữ của người Do Thái, đã dùng những hình ảnh quen thuộc nhưng rất ấn tượng để nói lên một sứ điệp, một lệnh truyền hay để giới thiệu về chính Ngài. Hình ảnh người chăn chiên tốt lành là hiện thân của Ngài. Qua hình ảnh sống động, gợi cảm và hết sức ấn tượng của người chăn chiên can đảm, nhiệt thành, nhân từ, chạnh lòng thương xót, Chúa Giêsu muốn nói lên sứ mạng cứu thế của Ngài.
Xuyên suốt lịch sử dân Do Thái, Thiên Chúa luôn tự giới thiệu mình như là vị mục tử của dân Người Hình ảnh Đavít mà sách 1 samuen đoạn 17, câu 34 tới 36 diễn tả là hình ảnh tiên trưng của Chúa Giêsu trong Tân ước.Đavít chăn dắt đàn chiên, yêu thương từng con chiên một, Người sẵn sàng chống lại thú dữ khi chúng tấn công bầy chiên. Sau này, Đavít đã chiến thắng Golíat bằng một chiếc ná cao su, nhắm bắn ngay vào trán Golíat hung hăng, kiêu ngạo. Hình ảnh của một Đavít nhỏ bé, với tóc hoe vàng đã trở nên dũng mãnh, cao trọng khi Thiên Chúa cất nhắc Đavít lên làm vua,xức dầu phong vương để Đavít làm vua lãnh đạo dân Thiên Chúa. Hình ảnh mục tử còn được diễn tả cách tỉ mỉ, gẫy gọn khi tiên tri Ezékiel nhân danh Chúa nói lên: “…Ta,vị Chủ tể tối cao,Ta tuyên bố rằng…Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi…Ta sẽ giao chúng cho một vì vua giống như Đavít tôi tớ ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng ” ( Ez 34, 23 ). Vâng, chính Thiên chúa sẽ chọn cho mình những tôi tớ, những môn đệ cũng gọi là “mục tử ” để Ngài trao cho họ trách nhiệm chăn dắt dân theo ý của Người. Tuy nhiên, vì các mục tử đã bị băng hoại, họ chỉ lo cho lợi ích riêng, tìm lợi nhuận cho mình và cho thân nhân, gia đình của mình, họ trở nên bất xứng với sứ vụ đã lãnh nhận, nên Thiên chúa đã sai các ngôn sứ loan truyền sẽ tới thời chính Đấng Thiên sai là Chúa Giêsu sẽ đến để lãnh đạo dân Người.
Chúa Giêsu đã tuyên bố với dân Do Thái: “Ta là mục tử tốt lành” ( Ga 10, 11 ).Ngài là hiện thân của Thiên Chúa,Người được Chúa Cha sai đến để yêu thương, chăm sóc, qui tụ mọi con chiên. Người biết tên từng con chiên như Cha Ngài biết Ngài ( Ga 10, 14-15 ). Ngài gọi tên từng con chiên và dẫn đi ( Ga 10, 3 ). Điều hết sức quan trọng là Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên:”Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu ” ( Ga 15, 13 ) hoặc ” Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta “. Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là vị mục tử tốt lành, vị chủ chăn không bao giờ hèn nhát thấy sói tấn công chiên mà bỏ trốn, nhưng Ngài luôn cứu vớt, tập họp, chăn dắt ( Ga 10, 9 và 16 ).
Khi minh định Ngài là cửa chuồng chiên, Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng bất cứ con chiên nào không qua Ngài không thể tới Chúa cha được. Dân Thiên Chúa phải đi qua cửa duy nhất là Đức Giêsu. Đi qua Ngài, dân Chúa mới có tự do và đạt được cuộc sống viên mãn. Bước qua ngưỡng cửa là Đức Giêsu, dân Chúa hay con người mới
nhận được ơn cứu độ, sự sống mới, sự sống sung mãn Chúa ban cho. Ngoài Chúa Giêsu, nghĩa là không bước qua cửa chuồng chiên, con người không có sự sống dồi dào. Như vậy, người chăn chiên đích thực nào cũng phải ngang qua Chúa Giêsu, vì Ngài là hàng rào bảo đảm sự an bình, an toàn cho chiên của Ngài. Kẻ nào không ngang qua Ngài, chiên sẽ không biết, không nghe và không theo kẻ đó vì họ là kẻ lường gạt, trộm cắp.
Chúa Giêsu phục sinh vẫn hiện diện với nhân loại, Người không còn có mặt bằng xương bằng thịt như trước nữa, nghĩa là không còn như lúc Người sống với các tông đồ, cùng ăn, cùng làm cùng chia sẻ những ưu tư, suy nghĩ. Nay, Chúa đã chịu chết, đã phục sinh, Người là Đấng vô hình dù rằng Chúa Giêsu vẫn còn mang dấu tích của cuộc thương khó. Đời sống cụ thể của nhân loại cần phải có sự dìu dắt, chăm sóc cách hữu hình. Sứ mạng ấy, chúa phục sinh đã trao cho Hội Thánh. Phêrô là vị tông đồ, Chúa trao làm nền tảng của Giáo Hội sau lời tuyên tín đầy sáng suốt của Phêrô mà Chúa nói là do Chúa Cha mạc khải ( Mt 16, 18 ). Thánh Gioan nhấn mạnh thêm khi Phêrô thưa ba lần với Chúa rằng Ong yêu mến Chúa, Chúa trao trách nhiệm chăm sóc đàn chiên, chăm sóc Giáo Hội của Chúa ở trần gian ( Ga 21, 15-17 ).Tuy nhiên khi trao sứ mạng nặng nề, cao quí cho Phêrô và các tông đồ, Chúa muốn các Ngài trở nên những kẻ hầu hạ,những người phục vụ ( Mc 10, 41-45 ). Chúa nhấn mạnh: “Hãy học cùng ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng “. Hiền lành và khiêm nhượng là đức tính căn bản, tối cần của các mục tử Chúa Kitô. ” Người chăn chiên tốt chính là Ta “( Ga 10, 14 ).Các vị mục tử phải là những người gắn bó mật thiết với Chúa Kitô, nghe tiếng Người, giảng dậy, cắt nghĩa giáo lý, chân lý của Người. Hình ảnh người chăn chiên cầm tù và, thổi tụ họp đàn chiên, mệt lả vác chiên lạc trên vai khi tìm thấy, luôn phải là hình ảnh sống động của các mục tử Chúa, đang nối tiếp sứ vụ của Chúa phục sinh giữa trần gian này. Đức tính căn bản của người mục tử tốt lành là tình yêu tự hiến của Chúa Giêsu,một tình yêu luôn ước ao và chờ đợi con người đáp trả.
III. MỖI NGƯỜI CHÚNG TA ĐỀU CÓ MỘT ƠN GỌI PHẢI ĐÁP TRẢ VÀ ĐƯỢC KÊU MỜI TRỞ NÊN NGƯỜI CHĂN CHIÊN TỐT LÀNH:
Là người Kitô hữu,chúng ta có Đức Kitô là Vị Mục Tử duy nhất luôn muốn qui tụ tất cả về đoàn chiên duy nhất của Người, nghĩa là không phân biệt dân được tuyển chọn hay dân ở ngoài lề. Ngài muốn tụ họp tất cả vào Giáo Hội của Ngài, Ngài muốn ban ơn cứu rỗi cho mọi người dù họ là dân ngoại hay dân của chúa. Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên chúa Cha luôn kéo mọi người về với Ngài, dẫn mọi người thành tâm thiện chí về đồng cỏ xanh để mọi người có thể nhận ra tiếng của Ngài.
Trong thánh lễ sáng nay, thánh lễ dành riêng cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ chúng ta ý thức rằng mỗi người chúng ta phải nhiệt thành cầu nguyện cho các mục tử Chúa luôn noi gương bắt chước Chúa là mục tử mẫu mực, lý tưởng. Vị mục tử can đảm,nhân hậu, đầy lòng trắc ẩn hay rộng tình thương xót, vị mục tử thánh thiện, hoàn hảo, chân thành, luôn kết hợp mật thiết với Thiên chúa cha và mọi người, vị mục tử đầy tình yêu, tình yêu bền bỉ, vững chắc, yêu cho đến cùng ( Ga 15, 13 ).Và như thế,chính chúng ta cũng được mời gọi đáp trả lại tình yêu vô biên của vị mục tử tốt lành, đồng thời ta cũng được kêu mời học hỏi và tập những đức tính cao đẹp, quí báu nhất của Đức Kitô nhân hậu và trở nên muôn người như một thành những vị mục tử tốt Như Chúa Giêsu.
Chúng ta có thể cùng với tác giả thánh vịnh 23 ca ngợi và hướng về trời cùng cất tiếng ca: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Trên đồng cỏ xanh rì,Ngài cho tôi nằm nghỉ…Chúa là mục tử tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi”. Đồng thời, chúng ta cảm nghiệm rằng sứ điệp cao cả, sứ điệp cứu độ Chúa Giêsu muốn loan báo cho nhân loại, cho mọi người: “Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy,Thiên Chúa sai con của Người đến thế gian,không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”. ( Ga 3, 16-17 ).
Vâng, sứ mạng chúa trao phó cho Giáo Hội là qui tụ, cứu vớt mọi người như chúa Giêsu Kitô đã làm. Sứ mạng ấy sẽ mang lại kết quả tốt đẹp nếu mỗi người chúng ta biết qui tụ, phục vụ như Chúa Giêsu là Đấng chăn chiên nhân hậu.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Hình ảnh chuồng chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với người dân sinh sống tại vùng đất Pa-lét-tin thời Chúa Giêsu. Đó là những dải hàng rào chắc chắn được quây lại theo hình vuông hay hình chữ nhật với một cửa ra vào duy nhất. Cứ chiều đến, các chủ đoàn chiên lùa chiên vào chuồng qua cửa duy nhất này, rồi trao phó việc canh giữ chuồng chiên cho những người được thuê mướn làm công việc này. Sáng sớm hôm sau, các chủ đoàn chiên lại đến để đưa chiên ra khỏi chuồn đi ăn nơi những đồng cỏ. Chuồn chiên là nơi bảo vệ an toàn cho đoàn chiên.
Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc này khi so sánh Ngài với cửa chuồn chiên và với người chăn chiên tốt lành để mạc khải lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa đối với con người nói chung, và nhất là sự chăm sóc bảo vệ của Ngài đối với những ai tin nhận Ngài nói riêng, vì Ngài là Mục tử tốt lành. Thế nào là một mục tử tốt lành? Chính Chúa Giêsu đã phát họa bằng ba vẻ đẹp:
Ân cần chăm sóc các chiên của mình: Vẻ đẹp này đã được diễn tả bằng hình ảnh một người thanh niên đang chăn chiên trên một cánh đồng lớn, có những cỏ non xanh, có những giòng suối mát, và người thanh niên ấy vác trên vai một con chiên đau bệnh. Sự chăm sóc của Chúa Giêsu mục tử đó là một vẻ đẹp có sức hấp dẫn.
Sẵn sàng hy sinh, liều mạng cho đoàn chiên: vẻ đẹp này thường được diễn tả bằng hình ảnh con bồ nông mẹ, nhỏ từng hạt máu của mình vào miệng những đứa con non nớt để nuôi dưỡng chúng cho đến hạt máu cuối cùng rồi lăn ra chết. Mẹ chết để cứu đoàn con. Sự hy sinh của Chúa Giêsu mục tử là một vẻ đẹp có sức đánh động những trái tim khô cứng.
Hiểu biết từng con chiên mình: Vẻ đẹp này đã được diễn tả bằng hình ảnh một người cha ôm hôn đứa con ngỗ nghịch trở về. Bởi vì mắt cha nhân từ, hiểu biết sự yếu đuối dại khờ, nông nổi của đứa con, và hiểu thiện chí tối thiểu của đứa con mình. Đây là một vẻ đẹp phản ảnh tình yêu cứu độ của Chúa.
Ba vẻ đẹp trên đây đều nói lên vẻ đẹp duy nhất của Thiên Chúa, đó là tình thương xót. Tình thương xót là chân dung của Chúa, và dung mạo của Chúa, là khuôn mặt của Chúa.
Vì thế, khi so sánh mình với người mục tử tốt lành, Chúa Giêsu muốn cho mọi người hiểu rằng: Ngài chính là tiêu chuẩn, là mẫu mực để xác định sứ mạng đích thực của những người được gọi và tuyển chọn cộng tác với Ngài trong sứ mạng coi sóc đoàn chiên là cộng đoàn những kẻ tin Chúa. Những người được chọn cho sứ mạng chăn dắt đoàn chiên nếu không vào qua cửa là Chúa Giêsu thì không phải là những chủ chăn đích thực. Nói rõ hơn, những chủ chăn đích thực phải được chính Chúa tuyển chọn.
Điều này đã được thực hiện từ khi Chúa thiết lập Giáo Hội cho đến ngày nay, như Công Đồng Vaticanô II, trong hiến chế về Giáo Hội đã tuyên bố: “Chúa Giêsu đã chọn các tông đồ và Ngài muốn các người kế vị, tức là các giám mục, làm chủ chăn trong Giáo Hội cho đến tận thế”. Nhưng để chức giám mục được duy nhất và không bị phân chia, Chúa đã đặt thánh Phêrô làm thủ lãnh các tông đồ khác. Vì thế các Đức Giáo Hoàng là những người kế vị thánh Phêrô là thủ lãnh hữu hình của toàn thể Giáo Hội. Như vậy, quyền bính trong Giáo Hội được Chúa trao phó cho Đức Giáo Hoàng, Đấng kế vị thánh Phêrô, và các giám mục kế vị các tông đồ. Tuy nhiên, gần gủi chúng ta hơn cả còn có các linh mục, là những cộng tác viên đã được các giám mục ủy quyền chăm sóc đoàn chiên.
Do đó, chúng ta thấy sự tương quan giữa chúng ta và hàng giáo phẩm, tức là giữa đoàn chiên và các vị chủ chăn: qua linh mục chính xứ, chúng ta liên hệ với giám mục giáo phận. Qua Đức Giám Mục, chúng ta liên hệ với Tòa Thánh, với Đức Giáo Hoàng. Như vậy, linh mục là người thi hành nhiệm vụ chủ chăn trực tiếp với chúng ta, là người sống gần gũi chúng ta, đáng cho chúng ta thông cảm, chia sẻ, cộng tác và cầu nguyện cho các ngài.
Hy vọng rằng sự liên lạc mật thiết giữa giáo dân và chủ chăn sẻ đem lại rất nhiều lợi ích cho Giáo Hội. Nhờ sự liên lạc đó giáo dân ý thức trách nhiệm của mình hơn, lòng hăng say được phát triển và góp sức dễ dàng hơn vào công việc của chủ chăn. Phần chủ chăn, nhờ giáo dân, có thể phán đoán minh bạch và đúng đắn hơn về những vấn đề thiên liêng cũng như trần thế. Như vậy, toàn Giáo Hội được vững mạnh và càng ngày càng tốt đẹp hơn.
(Suy niệm của Phêrô Phạm Văn Hoành)
Theo truyền thống của Giáo Hội, chúa nhật thứ tư phục sinh được gọi là “Chúa Nhật Chúa Chiên Lành”. Yếu tố cơ bản trong ngày lễ hôm nay, Giáo hội mời gọi nơi mỗi người chúng ta hãy hướng về hình ảnh Người Chủ Chăn với đàn chiên. Người chủ chăn hiền lành và tốt bụng đã theo sát đàn chiên của mình trong hơn hai ngàn năm qua.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan đã cho chúng ta thấy cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người Do thái. Mấu chốt của cuộc đối thoại là Chúa Giêsu đã chân nhận mình là CỬA của đoàn chiên. Người đến thế gian để rao truyền chân lý, những lời Người nói, những việc Người làm không phải để lên án thế gian, nhưng để kiện toàn. Hầu làm cho thế gian được sống và sống dồi dào. Bên cạnh đó, bài Tin Mừng cũng cho chúng ta thấy thái độ của Chúa Giêsu với dân Do Thái, một dân tộc chỉ dựa vào lề luật cứng nhắc của mình để thờ phượng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã lên án họ và cho họ là kẻ trộm, kẻ cướp. Họ thích ngồi trên toà của ông Môsê mà giảng dạy, họ quan niệm rằng, mình là những người có trách nhiệm hướng dẫn nhân danh Chúa, không ai có được quyền hành đó. Họ được phép ra luật, “Bó những gánh nặng mà chất lên vai người khác”. Họ là cửa để mọi người đi vào, theo họ, những người công chính là những người biết giữ trọn lề luật, vai trò ngôn sứ và giữ những tập tục cha ông. Nhưng thái độ của họ không xứng đáng trước mặt Thiên Chúa, thiếu trung thực và gian dối. Chúa Giêsu đã thẳng thắn nói với họ rằng “Các ngươi khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không thể để cho họ vào” (Mt 23,13).
“Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10, 7). Đức Kitô đã khẳng định mình chính là cửa, trong cánh cửa đó Người luôn mời gọi con chiên của Người, bởi vì, Người là đường, là sự thật và là sự sống. Chúng ta chỉ có cuộc sống đích thực, khi chúng ta biết đi trong con đường của Người, chúng ta chỉ có thể biết được chân lý về Người, nghĩa là chúng ta chỉ có thể biết được mình bởi đâu mà hiện hữu, rồi sẽ đi về đâu và phải sống như thế nào? Đó là chúng ta chỉ có sự sống trong và nhờ vào Đức Kitô mà thôi.
Trong thế giới ngày hôm nay, con người vẫn khát khao tìm kiếm Chúa, thế nhưng, ở thời đại nào cũng có tiên tri giả, thời đại nào cũng tồn tại những thứ mà Tin Mừng hôm nay được Chúa Giêsu gọi là quân trộm cướp. Họ không qua cửa là Chúa Giêsu để dẫn đến cuộc sống đích thực, mà chỉ sống trong sự dối trá, hay những thực tại trần thế .
“Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào” (Mt 10,10). Hình ảnh Người Chủ Chăn đang dẫn đàn chiên đến một đồng cỏ xanh tươi, đến bên dòng suối mát để cho chiên tha hồ bổ dưỡng. Và theo năm tháng, những con chiên đó được lớn lên khoẻ mạnh trong bàn tay yêu thương và tận tuỵ của Vị chủ chăn vì: “chiên của tôi thì nghe tiếng tôi” (Ga 10,27). Vậy, khi chúng ta khước từ Chúa, loại trừ Người ra khỏi cuộc sống, thì chính là lúc chúng ta tự kết liễu đời mình, cuộc sống trở thành vô vị, mất điểm tựa, chạy theo những thứ hư ảo, để rồi cuộc sống cứ trượt dài trong thế sự.
Đức kitô là vị mục tử nhân lành, nơi Người ẩn chứa một tình yêu cao cả. Tình yêu đó được kết tinh trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Người đã thể hiện tình yêu đó qua cái chết và sự Phục Sinh của Người để cho nhân loại tin vào Người để được cứu độ. Thánh Phêrô đã không ngần ngại khi nói về Người rằng: “xưa kia, anh em như những con chiên lạc, nhưng giờ đây anh em đã về cùng với vị mục tử đấng canh giữ linh hồn anh em”
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, khi soi chiếu Lời Chúa hôm nay vào tâm hồn chúng con, chúng con nhận thấy rằng, có những lúc mình như những con chiên lạc, đang ngơ ngác giữa dòng đời, chúng con như đang xa rời Vị Chủ Chăn, bởi lối sống buông thả và thực dụng. Cái tôi bành trướng đang che phủ lấy con, nhiều lúc đã làm cho chúng con bất hoà hay kiêu căng với người khác. Và hơn thế nữa, chúng con đâu có biết Vị chủ chăn đang cất tiếng gọi và cánh tay không ngừng vẫy gọi chúng con trở về.
Ước gì, lời chúa qua bài Tin Mừng hôm nay, là lời mời gọi và thôi thúc chúng con đi theo Chúa Giêsu và sống như Người, để chúng con không những tìm được cuộc sống đích thực mà trở thành ánh sáng soi dẫn cho không biết bao nhiêu người chưa nhận biết Chúa và đang mò mẫm tìm kiếm đời sống vĩnh hằng.
Hôm nay, Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Trong tâm tình đó, chúng ta cầu nguyện cho những vị mục tử đang sống và rao truyền chân lý của Chúa trong lòng giáo hội, luôn hướng đến sự trọn lành như lòng Chúa mong ước, để hướng dẫn cộng đoàn dân chúa đi qua cửa cứu độ đến cửa Nước Trời. Amen.
(Suy niệm của Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn)
Ngay sau khi chữa cho anh mù từ thưở mới sinh được sáng, Chúa Giêsu liền giới thiệu Người chính là Cửa ràn chiên, là Mục tử nhân lành. Điều này không có gì lạ. Lý do là bởi vì, anh mù kia đã không được những người Pharisêu – vốn được xem là chủ, là lãnh đạo- chăm sóc; trái lại, còn hắt hủi, trục xuất anh ra khỏi cộng đoàn; thì nay, Chúa Giêsu đã đưa anh về, băng bó, chăm sóc và chữa chạy bệnh tật cho anh. Chính vì thế, cách gián tiếp, thánh sử Gioan không chỉ cho thấy Chúa Giêsu chính là Cửa ràn chiên, là Vị mục tử nhân lành mà còn cho biết ai là kẻ chăn thuê chăn mướn đoàn chiên.
Chúng ta biết miền Paletine là nơi dân chúng nuôi chiên rất nhiều. Mỗi một đàn chiên được chăm sóc bởi một hay vài chủ chiên tuỳ theo số lượng nhiều hay ít. Vì chiên là loài vật hiền lành, rất dễ bị thú dữ ăn thịt hoặc bị trộm cướp và do không thể làm chuồng trại kiên cố cho từng đàn chiên nên các chủ chiên ban ngày dẫn chiên đi ăn, đêm về thường gửi chúng vào trong một trại lớn được gọi là ràn, có tường bao bọc kiên cố và có người canh gác cho an toàn.
Chính vì cách bố trí này nên chúng ta thấy ràn chiên và cửa ràn chiên chiếm một vị trí rất quan trọng. Thật vậy, chỉ có một ràn chiên và chỉ có một cửa chiên, còn mục tử và đàn chiên thì nhiều. Lẽ dĩ nhiên sẽ không có gì phải bàn nếu như các mục tử cứ đường đường chính chính bước qua cửa mà vào để dẫn dắt đàn chiên mình. Nhưng vì có những mục tử giả, tức là những kẻ trộm kẻ cướp, muốn bắt chiên để thịt nên thực tế đã có nhiều kẻ trèo qua lối khác mà vào hòng lôi kéo chiên về với mình. Cũng may, chiên là loài vật rất nhậy cảm với tiếng chủ, nên ngoài đồng cỏ hoặc ở trong ràn, chúng có thể đi tứ tán để kiếm ăn hoặc nghỉ ngơi, nhưng khi nghe tiếng gọi của chủ, ngay lập tức chúng chạy về, ngoan ngoãn bước theo chủ.
Như thế, vị mục tử có một sứ mệnh rõ ràng, là chăn dắt đàn chiên, lo lắng và chăm sóc cho chiên, tự do ra vào cửa ràn chiên mà không sợ người canh giữ. Người mục tử đưa chiên qua cửa để chiên được nghỉ ngơi bồi dưỡng và đồng thời bước qua cửa đó để cùng đàn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, đến suối mát trong lành. Cánh cửa đó như có phép mầu khiến cho tất cả mục tử và đàn chiên đều cảm thấy an bình thư thái, nhưng ngược lại, cũng khiến cho những kẻ không qua cửa đó đều trở nên đầu trộm đuôi cướp, không đáng để chiên bước theo. Chúa Giêsu tự ví mình là Cửa cho chiên ra vào- nơi mà ở đó, cả chủ chiên và chiên đều cảm nếm được nguồn bình an đích thực. Vâng, Chúa Giêsu chính là Cửa ràn chiên. Và Người hứa rằng, tất cả những ai bước qua cửa ấy đều được no đầy ân sủng, lương thực và sự sống đời đời.
Chúng ta thấy gì qua hình ảnh Chúa Giêsu là “Cửa ràn chiên cho chiên được ra vào”? Đây là hình ảnh thật tuyệt vời, là bài học quý giá cho tất cả chúng ta. Theo đó, bước qua Cửa ràn chiên, tức là kinh qua Lời giáo huấn của Chúa Giêsu đã dạy; bước qua Cửa ràn chiên là bước theo con đường Người đã đi trong tình yêu và vâng phục; bước qua Cửa ràn chiên cũng chính là bước qua Khổ nạn thập giá mà Người đã chấp nhận; cuối cùng, bước qua Cửa ràn chiên cũng chính là bước đến vinh quang- nơi Chúa Cha ban tặng triều thiên sự sống. Như thế đã rõ, những ai không đi qua Cửa ấy, tức là những người xa rời Thiên Chúa, đi ngược lại giáo huấn của Chúa Giêsu và sống bất chính sẽ được xem là những mục tử bất lương, trèo tường trộm cướp.
Chúa Giêsu là Cửa ràn chiên. Điều đó thật hiển nhiên. Chúng ta cầu nguyện cho Giáo hội, cầu nguyện cho các vị mục tử và cũng cầu nguyện cho chính chúng ta nữa được bước đi, bước qua và bước đến với Chúa Giêsu trong tình yêu dâng hiến, chấp nhận hy sinh và tận hưởng nguồn sung mãn vinh quang.
Chúa nhật thứ 4 phục sinh được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên lành và cũng là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ.
Vì sao lại gọi Chúa nhật thứ 4 phục sinh được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên lành và vì sao lại gọi hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ?
Hình ảnh mà các bài đọc hôm nay trình bày cho chúng ta là hình ảnh người mục tử nhân lành. Chúa Giêsu đã tự ví mình là vị mục tử đó: “Ta là người mục tử nhân lành” (Ga 10, 11). Ngài đã dùng hình ảnh quen thuộc để mạc khải lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa đối với con người và nhất là sự chăm sóc bảo vệ của Ngài đối với những ai tin nhận Ngài.
Thế nào là một mục tử nhân lành? Chính Chúa Giêsu đã chỉ rõ cho thấy người mục tử nhân lành phải có những ưu phẩm như là biết chiên, mục tử phải biết tâm tính của từng con chiên, biết rõ tình trạng hiện tại của chúng khoẻ mạnh hay đau bệnh tật. Biết rõ từng con, biết từng đặc điểm của chúng nên dễ dàng gọi đúng tên từng con. Bên cạnh đó, mục tử phải biết chăm sóc chiên, mục tử dẫn chiên đến đồng cỏ xanh, đến suối nước mát trong; giữ chiên tránh xa chỗ hiểm nguy của hố sâu, của sói dữ hay thác ghềnh. Mục tử phải lùa chiên vào chuồng cho kịp trời tối. Quan tâm càng nhiều thì đòi hỏi sự nhạy bén và vất vả càng cao. Hơn nữa, mục tử phải có tinh thần hy sinh là dám hiến mạng cho đàn chiên. Hy sinh để bảo vệ cho đàn chiên, bảo vệ cao độ đến nỗi không còn nghĩ ngợi về bản thân mình cho đàn chiên, quan tâm sự sống của chiên con, đặt lợi ích sự sống của chiên trên mạng sống của mình. Có dấn thân trong hy sinh mới hy vọng mang lại kết quả tích cực. Có yêu mến đàn chiên thì mới mong có hy sinh. Đàn chiên Chúa đang và luôn cần những con người biết yêu thương và hy sinh như Mục tử Giêsu.
Mục tử nhân lành hy sinh bản thân mình để chăm lo cho đàn chiên được phát triển tốt. Xuất phát từ tấm lòng nhân hậu và đầy yêu thương của người mục tử đối với đàn chiên mình, Mục Tử Giêsu quan tâm, để hết tâm huyết, đặt hết tình cảm của mình vào đàn chiên. Ngài xứng đáng là mục tử nhân lành gương mẫu, Ngài chăm sóc đàn chiên không nhằm mục đích làm kinh tế, không nhằm để bán lông, bán thịt. Ngược lại, Ngài quan tâm chăm sóc hết từng con chiên: “Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta”, Ngài quan tâm chăm sóc đến những nhu cầu căn bản của đời sống của chiên con để chúng được no đủ và được bảo vệ, được an vui và hạnh phúc: “Ta đến để chúng được sống và sống đời đời.” (Ga 10,14-15 )
Vì thế, khi so sánh mình với người mục tử tốt lành, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng: Ngài chính là tiêu chuẩn, là mẫu mực để xác định sứ mạng đích thực của những người được gọi và tuyển chọn cộng tác với Ngài trong sứ mạng coi sóc đoàn chiên là cộng đoàn những kẻ tin Chúa.
Hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Từ nhiều năm nay, Giáo Hội dành riêng Chúa Nhật thứ tư Mùa Phục Sinh để kêu gọi người Kitô hữu cầu nguyện cho ơn kêu gọi. Thật thế, ngày nay nhiều nơi trên thế giới đang cần linh mục, tu sĩ. Giáo Hội luôn cần đến sự chăm sóc của các mục tử nhân lành để đoàn chiên được sống trong đồng cỏ xanh tươi. Giáo Hội vẫn cần đến các tu sĩ sống đời thánh hiến, để thế giới hiểu được thế nào là tình yêu, thấy được những thực tại vô hình, và vươn lên khỏi cái tự nhiên, bình thường, hợp lý. Được làm Kitô hữu là một ơn gọi của Thiên Chúa. Mọi Kitô hữu đều có nhiệm vụ làm chứng cho Tin Mừng, nhưng một số người được mời gọi đặc biệt để dấn thân cách trọn vẹn hơn cho Nước Chúa và bắt chước Đức Giêsu tận căn hơn. Khi đã quen nghe tiếng Chúa trong Thánh Kinh, người trẻ sẽ dễ nghe được tiếng Chúa mời gọi vang lên từ sâu thẳm của con tim mình. Biết chuyên tâm cầu nguyện, dành ưu tiên cho đời sống tâm linh, coi trọng việc cầu nguyện riêng tư, lặng lẽ trước nhan Chúa, người trẻ mới dám đáp lại tiếng Chúa kêu mời, quên mình để phục vụ cho lợi ích của tha nhân, khao khát làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa. Từ đó những bạn trẻ quảng đại sẽ được thúc đẩy dâng trọn đời mình để làm cho Chúa Kitô được nhận biết. Một Giáo Hội mạnh mẽ sẽ cho nhiều ơn gọi. Giới trẻ hôm nay không thiếu lòng quảng đại, không thiếu lý tưởng và những ước mơ cao cả. Họ cần có ai đó giúp họ gặp được Đức Giêsu, say mê con người Ngài, và chia sẻ nỗi bận tâm của Ngài về thế giới. Họ cần có ai đó giúp họ nghe được tiếng kêu của bao người đói khát chân lý và công lý, giúp họ cảm nhận được bổn phận lớn lao là xây dựng trái đất thành mái ấm yêu thương. Giới trẻ cần những người thầy, người bạn dám sống điều mình tin giữa muôn vàn khó khăn và giúp họ đứng vững trước cơn lốc của cám dỗ. Vì thế bổn phận truyền giáo là của mỗi người, hơn nữa, cộng đoàn cố gắng sống đức tin là vườn ươm ơn gọi để phục vụ Giáo Hội Chúa Kitô mà mỗi người đều có trách nhiệm cộng tác.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim mục tử nhân lành như Chúa. Xin cho mỗi người tín hữu chúng biết sống đức tin, cậy, mến và cho chúng con có những ơn gọi như Mục Tử Giêsu nhân lành. Amen.
Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào…
Anh chị em thân mến,
Chúa nhật hôm nay được gọi là chúa nhật:Chúa chiên lành; chủ đề này dựa vào bài Phúc âm trong thánh lễ, nhất là dựa vào lời tự xưng của Chúa Giêsu: “Ta là Mục tử tốt lành…Ta biết các chiên Ta, và chiên Ta biết Ta”. Có người nói: Chúa Giêsu nói như thế là quá lố, vì họ không tin Chúa…Thực ra, Chúa Giêsu là Chúa của Sự Thật, làm sao Người có thể nói thêm nói bớt, làm sao Người có thể dối gạt ta được? Con người do ảnh hưởng tội nguyên tổ, nên tánh còn xấu xa, con người mới dối gạt, lừa đảo nhau… Đây chính là chủ đề mà Hội Thánh muốn chúng ta suy niệm trong ngày chúa nhật hôm nay…
a/. Có một vài điều chúng ta cần lưu ý: Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, nên Người:
Luôn hiện diện bên đàn chiên: Chúa Giêsu thực là vị mục tử tốt lành, vì chính Chúa nói: “Thầy sẽ luôn ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế..” Sau khi Chúa về trời cho đến hôm nay, Hội thánh luôn cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong Hội Thánh, tuy là sự hiện diện không hữu hình như xưa khi Chúa đi giảng dạy bên các tông đồ; nhưng rõ ràng các thánh, cả các người tín hữu luôn thấy Chúa hiện diện ngay trong cuộc sống của mình….
Cha Phaolô Mừng, sau năm 1975, được về làm sở Cái Đôi, một họ đạo ven biển của tỉnh Trà Vinh, nay gọi là Huyện Duyên Hảị Trong một thời gian khá lâu, có đến 10 năm, Cha không bao giờ đi đâu cả, ngay cả khi cuối năm, phải đi tĩnh tâm hàng năm, chung với các Cha, Cha cũng không đi nữa… Có người hỏi Cha: Tại sao vậy Cha cười cười và trả lời: “nước đổ ra biển, có khi nào nước đổ trở lên nguồn?” Sau này, sau những năm 1990, có người mới hỏi lại Cha về chuyện cũ, Cha lúc đó mới trả lời rõ ràng: “đó là thời kỳ bao cấp, rất khó khăn, mình là chủ chăn mà, bỏ họ đạo mà đi coi chừng mất nhà thờ, mất họ đạo, ai thường cho mình. Thà là…cứ bám trụ, có chết cùng chết với họ đạo….” Rõ ràng đây là một tấm gương mục tử sáng chói luôn hiện diện vui buồn, sướng khổ với họ đạo….
Biết rõ từng con chiên: Chúa Giêsu, vị mục tử tốt lành, nên Người biết rõ từng con chiên: con nào đau ốm – con nào bị tật nguyền – con nào thiếu thốn… Không có bất cứ điều gì khác lạ nào nơi con chiên mà vị Mục tử Giêsu không biết; chính vì lẽ đó mà Chúa Giêsu đã nói, không hề có chút kiêu kỳ: “Ta biết con chiên của Ta, và chiên của Ta cũng biết Ta”.
Trong đời cha Thánh Curé D’Ars, ngài có thói quen hầu như mỗi khi viếng Chúa hay nguyện gẫm, ngài thường đem theo quyển sổ các gia đình công giáo trong họ đạọ Người ta nói ngài lật từng trang, xem qua các gia đình và cầu nguyện cho họ. Cha Thánh họ Ars hầu như biết rõ từng con chiên trong họ đạo của cha….
Hy sinh tính mạng mình vì đàn chiên: Ai đã đọc qua thiên hồi ký ghi lại cuộc hành trình truyền giáo của các cha Thừa sai Paris, cho người Thượng (ngày hôm nay là địa phận Kontum và Buôn ma Thuột), sẽ thấy vô cùng cảm phục vì sự hy sinh, vì sự bỏ mình vì đàn chiên của các ngàị Sống giữa rừng thiêng nước độc, đủ mọi thứ hiểm nguy, ăn uống thiếu thốn, dã thú, bệnh tật kiết lỵ, rét rừng, triều đình rình rập bắt bớ, thái độ e dè của kẻ ngoại cuồng tín. Vậy mà các ngài vẫn không sợhãi, vẫn sẳn sàng chết cho Chúa Kitô và các linh hồn. Gương hy sinh liều mình như thế, thử hỏi ngày nay chúng ta có gì để so sánh bằng các ngài không? Rõ ràng các ngài muốn bắt chước gương cao cả của Thầy Chí Thánh mình…..
b/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Kitô thực sự là Mục tử tốt lành. Các thánh cũng là những mục tử tốt lành, theo gương Chúa Kitộ Còn phần chúng ta, chúng ta có muốn là những con chiên tốt lành của Chúa Kitô không?
Ngày 15.04.2008 ĐGH Bênêđictô XVI sẽ tông du Hoa kỳ. Nhân dịp này , giám mục Thomas Wenski, chủ tịch Ủy ban về Chính Sách Quốc tế của các giám mục Hoa Kỳ, nhận định: “ĐGH không phải là một chính trị gia, nhưng là Giám Mục Roma và là mục tử của Giáo Hội Công giáo toàn cầu. ĐGH Bênêđictô XVI sẽ xuất hiện trước Liên Hiệp Quốc như một nhà lãnh đạo tôn giáo, một nhà lãnh đạo tinh thần – và là một nhà lãnh đạo duy nhất am hiểu tình hình. Người sẽ nói với các người Công giáo cũng như ngỏ lời với Liên Hiệp Quốc và thế giới.”[i] Giám mục Wenski hy vọng “ĐGH cũng sẽ thách đố các nhà lãnh đạo chính trị thế giới nữa. Nhiều bất an trên thế giới chính trị hôm nay bắt nguồn từ việc tách biệt niềm tin khỏi lý trí và mất niềm tin trong hoạt động lý trí. Như ĐGH Gioan Phaolô II, Người sẽ dựa trên đức tin để bênh vực lý trí. Làm thế, chắc chắn ĐGH sẽ lại giới thiệu luật luân lý phổ quát cho các nhà lãnh đạo thế giới.”[ii]
Trong chuyến tông du của ĐGH Bênêđictô XVI, các vị lãnh đạo thế giới sẽ là đối tượng quan trọng nhất của ĐGH . Vấn đề nổi cộm nhất là vấn đề an ninh thế giới, phần lớn do việc không tôn trọng nhân quyền. Dầu vậy, ĐGH cũng thấy đây là cơ hội lớn để nói lên niềm hy vọng. “Thật vậy, thế giới đang cần niềm hy vọng nhiều hơn bao giờ: hy vọng hòa bình, công lý, và tự do. Nhưng hy vọng này có thể không bao giờ được lấp đầy nếu không vâng theo luật Thiên Chúa do Đức Kitô đẩy tới mức toàn hảo trong giới luật yêu thương. Hãy làm cho người khác những gì bạn muốn người khác làm cho bạn, và đừng làm những gì bạn không muốn người khác làm cho bạn. “Luật vàng” này đã có trong Kinh Thánh, nhưng có giá trị cho mọi dân tộc, kể cả những người vô tín ngưỡng. Đó là luật được viết trong tâm hồn con người. Tất cả chúng ta đều đồng ý như thế, để khi trình bày những vấn đề khác, chúng ta có thể làm một cách tích cực và xây dựng cho toàn thể cộng đồng nhân loại.”[iii]
Phải chăng đây là cơ hội lớn cho chúng ta suy nghĩ về chiều hướng mục vụ của Giáo Hội trong thế giới hôm nay?
TIÊU CHUẨN
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa nêu bật hai hình ảnh trái ngược: mục tử và kẻ trộm. Đâu là tiêu chuẩn để có thể nhận ra khuôn mặt của hai hạng người đó?
Tùy thái độ đối với đoàn chiên, hai hạng người đó sẽ lộ nguyên hình. Tự bản chất, tên trộm bao giờ cũng rình mò xâm phạm đến của cải và tính mạng người khác. Họ không biết luật công bình là gì. Bất chấp luật pháp, “kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ.” (Ga 10:10) Họ không biết tôn trọng của cải, mạng sống và những giá trị tinh thần cũng như vật chất. Tất cả đều phải hy sinh cho cái lợi bản thân và phe đảng họ. Thật là một bất công khủng khiếp!
Trái lại, không những tôn trọng công lý, mục tử đích thực còn hy sinh bản thân vì người khác. Họ hy sinh tất cả cho hạnh phúc tha nhân. Có nhìn thấy mục tử chăn chiên trên đồi Palestine, mới thấy họ hy sinh cho đoàn chiên tới mức nào. Họ mất ngủ, mệt mỏi đứng dựa trên gậy, theo dõi từng động thái của đàn chiên. Tối đến, sau khi lùa đàn chiên vào chuồng, họ nằm chắn ngang bực cửa để bảo vệ đoàn chiên khỏi thú dữ. Mục tử như một chiếc cửa mở ra cho chiên ra vào và che chở đoàn chiên khỏi thú dữ sát hại. Có được bảo vệ an toàn như thế, đoàn chiên mới “sống và sống dồi dào.” (Ga 10:10) Mục tử không còn nghĩ tới bản thân. Họ quên mình để bảo về sự sống cho đoàn chiên. Không những tôn trọng sinh mạng con chiên, họ còn lo phát triển đoàn chiên. Đó là nét nổi bật của một mục tử đích thực. Sở dĩ mục tử có thể hy sinh tất cả cho đoàn chiên, vì họ rất gần gũi con chiên. Quả thực, khi vào trong chuồng chiên, họ có thể “gọi tên từng con,” (Ga 10:3) khi chúng quây quần chung quanh. Cảnh sinh hoạt rất thân mật.
Dù lúc ở trong chuồng hay khi ra ngoài, đoàn chiên luôn an tâm vững lòng vì người mục tử luôn sẵn sàng đối phó với mọi thách đố để bảo vệ con chiên. Khi dẫn chiên ra ngoài kiếm ăn, ông “đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng” (Ga 10:4) của ông. Trái lại, bọn trộm cướp không bao giờ được hưởng hạnh phúc đó. Chúng hoàn toàn xa lạ với đoàn chiên. Làm sao chiên có thể nghe theo chúng? Chương 9 trong Tin Mừng Gioan đưa ra một ví dụ cụ thể: mặc dù những nhà lãnh đạo Do thái dùng đủ mọi kỹ thuật thuyết phục, nhưng anh mù vẫn khẳng khái trả lời không tố cáo Chúa. Cuối cùng, anh đã bị trục xuất ra khỏi hội đường. Nói chung, những nhà lãnh đạo Do thái đương thời không chú tâm tới đàn chiên. Họ chỉ muốn thỏa mãn tham vọng quyền lực.
Làm sao tiếng nói mục tử có thể vang động trong con chiên? Đây là lúc bắt đầu phân biện được tiếng gọi của Thiên Chúa. Nếu mục tử không sinh hoạt thân mật với con chiên, làm sao chiên có thể nhận ra tiếng ông mà đi theo? Do đó thời giờ theo sát và quan tâm đến đoàn chiên thật quan trọng. Nếu không, dù là mục tử, tiếng nói cũng chẳng lọt tai con chiên. Tiếng nói Vị Mục Tử Nhân Lành đụng tới miền sâu thẳm nhất trong con chiên.
Vai trò mục tử vô cùng quan trọng trong lịch sử Israel đến nỗi Kinh thánh tôn xưng Giavê là Mục Tử quy tụ đoàn chiên tản mác từ muôn dân nước. Ngôn sứ Êdêkien tiên báo Vị Thiên Sai sẽ đến và gọi Người là một Mục tử (Ed 34:23). “Ngược với tên trộm, Người ban ngay sự sống cách phong phú, dồi dào và toàn vẹn. Ngay bây giờ sự sống vĩnh cửu bắt đầu. Sự sống trong Chúa Kitô ở trên một mức độ cao hơn, vì tràn ngập tình yêu, ơn tha thứ và được định hướng.”[iv] Con người sẽ sống hạnh phúc, bình an, tự do, vượt xa những gì người Do thái vẫn mơ tưởng.
VAI TRÒ LÃNH ĐẠO HÔM NAY
Mục tử là người lãnh đạo dân Chúa. Vai trò lãnh đạo một phần quyết định thành bại của cộng đoàn. Vậy muốn lãnh đạo thành công, mục tử phải có những đức tính gì? Như Chúa Giêsu đã dạy, mục tử phải liều thân trong mọi trường hợp. Lúc ở trong nhà hay khi ra ngoài, họ luôn hiên ngang liều mạng vì đoàn chiên. Nếu là người đang lãnh đạo dân Chúa, họ dám có những thay đổi tích cực. Họ khuyến khích các thành viên tìm ra những giải pháp mới, xem xét những phương cách thực hiện chỉ tiêu và dự liệu thay đổi. Người lãnh đạo giỏi không sợ thay đổi. Họ biết những lợi điểm thành công vượt quá những thất bại có thể gặp thấy trên đường.
Sở dĩ thành công vì mục tử biết lắng nghe “con chiên.” Thời đại thông tin và đối thoại hôm nay luôn đòi thông tin hai chiều, chứ không thể bắt con chiên nghe tiếng mục tử mà thôi. Mục tử tài giỏi luôn lắng nghe mọi ý kiến. Ông không bác bỏ những ý kiến mới lạ. Làm sao có thể đối thoại kết quả? Giáo hội dạy “các tín hữu nên ‘cố gắng đối thoại chân thành trong tinh thần yêu thương nhau và trên hết phải quan tâm tới lợi ích chung.”[v] Không có lòng bác ái và chỉ nhắm tư lợi, không thể nào đối thoại với nhau.
Một trong những điểm nổi bật nhất của mục tử là lòng say mê mục vụ. Trên bình diện công lý, đây là một bằng chứng lòng nhiệt thành của họ đối với giới trẻ, các nạn nhân, công lý, công bình và bình đẳng. Cái nhìn hay ý hướng của họ về công lý lôi kéo người khác đến với Chúa Kitô. Đó là việc rao giảng Tin Mừng thực sự. Thật vậy, Không thể rao giảng Tin Mừng, nếu không cổ động sự tiến bộ thực sự của con người về công lý và hòa bình. Lý do vì “không có gì liên quan tới cộng đồng nhân loại lại xa lạ với việc rao giảng Tin Mừng – như những hoàn cảnh và vấn đề công lý, tự do, phát triển, tương quan giữa các dân tộc, hòa bình. Có một liên hệ sâu xa giữa việc Phúc Âm hóa và thăng tiến con người.”[vi]
Giữa cộng đồng đầy những vấn đề như thế, việc Phúc âm hóa có thành công hay không cũng tùy thuộc một phần vào thái độ của mục tử. Họ phải là những người lạc quan, tin tưởng vào những việc khả thi và không để những trở ngại hôm nay hay những thất bại hôm qua trói tay. Trái lại, những kinh nghiệm đó càng thúc đẩy họ hành động hơn nữa. Một mục tử bi quan chỉ tìm bắt lỗi những người dưới quyền. Chính vì thế, họ không thể hành động hữu hiệu cho công cuộc xây dựng Nước Chúa. Chúa muốn “khi nhìn vào thiên nhiên, thời tiết và con người, các môn đệ của Chúa đầy lòng tin tưởng phó thác như trẻ em, vì biết rằng họ không bao giờ bị Cha quan phòng bỏ rơi (x. Lc 11:11-13). Thay vì bị lệ thuộc vào vạn vật, người môn dệ Chúa Giêsu phải biết làm cách nào xử dụng chúng để chia sẻ và gây dựng tình huynh đệ (x. Lc 16:9-13).”[vii]
Khi hành động, mục tử có thể chia sẻ kiến thức, quyền lực và cần tín nhiệm người khác. “nếu thực thi quyền bính với những đức tính, như kiên nhẫn, cần kiệm, chừng mực, bác ái, nỗ lực chia sẻ, giới hữu trách sẽ biến quyền lực thành phương tiện phục vụ, một thẩm quyền do những người có khả năng thực thi, nhắm công ích như mục tiêu của công việc, chứ không nhắm gây thanh thế hay tư lợi.”[viii] Một mục tử làm việc hiệu quả không quan tâm xem công việc mình có được ai truy nhận hay không. Trái lại, ông cố gắng nhận biết thành quả của người khác và nhấn mạnh đến thành công của nhóm hơn của những cá nhân đặc biệt. Có như thế mới có thể tạo được bầu khí hứng khởi cho mọi người làm việc cho lợi ích chung là hạnh phúc con người.
NHÂN LOẠI ĐI VỀ ĐÂU
Chính vì muốn cho nhân loại sống hạnh phúc hơn, ĐGH Bênêđictô XVI muốn nối tiếp bước chân mục vụ của các vị tiền nhiệm tông du Hoa Kỳ trong tuần lễ từ ngày 15 đến 20 tháng 04 năm 2008. Trong cuộc tông du này, ĐGH sẽ viếng thăm LHQ sáng thứ Sáu, 18 tháng 4, nhân dịp kỷ niệm 60 năm bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền. ĐGH sẽ đọc diễn từ trước một cử tọa khoảng 3000 thính giả, đại diện của 192 quốc gia thành viên LHQ. Cha Lombardi cho biết: “Người ta trông đợi bài diễn văn sẽ đặt trọng tâm vào các quyền của con người, về căn bản, sự hiệp nhất và tính chất không thể chia cắt [của các quyền này]. Đó là những chủ đề rất gần gũi trái tim của Đức thánh cha Bênêđictô XVI.”[ix] Có nhân quyền, con người mới sống hạnh phúc.
Nhưng những người lãnh đạo trong các nước cộng sản có muốn con người hạnh phúc không? Nếu có tại sao họ vẫn bóp méo hay chà đạp nhân quyền? Vấn đề nhân quyền trong các nước đó vẫn gây nhức nhối cho nhân loại rất nhiều. Một tháng sau khi Tây Tạng bị quân đội Trung Hoa đàn áp đẫm máu, chủ đề nhân quyền nổi cộm trong dịp cây đuốc Thế Vận đi vòng quanh thế giới. “Cách đây bảy năm, khi Ủy Ban Olympic Quốc Tế quyết định trao cho Bắc Kinh vinh dự tổ chức cuộc tranh tài thể thao lớn nhất thế giới, chính các thành viên thuộc Ủy Ban Vận Động do Bắc Kinh thành lập đã đưa ra lời cam kết, đảm bảo thế giới sẽ nhìn thấy một nước Trung Hoa hài hòa hơn, nhân quyền được tôn trọng hơn, đáp ứng những đòi hỏi mà cộng đồng quốc tế trông đợi.”[x] Trung Hoa muốn khoe với cả thế giới về thành tích nhân quyền. Nếu họ đã nỗ lực tạo lập thành tích đó, tại sao ngọn đuốc thế vận đi đến đâu bị phản đối tới đó? Người ta không phản đối ngọn đuốc Thế vận hội hay dân tộc Trung Hoa, nhưng chống lại nhà cầm quyền cộng sản Trung Hoa đang chà đạp nhân quyền.
Chính quyền và những người lãnh đạo đảng cộng sản Trung hoa chắc chắn không vui khi nhìn thấy những cảnh tượng “những tấm biểu ngữ thật lớn được treo ngay trên nóc Tháp Eiffel ở Paris, ở cầu Golden Gate tại San Francisco, mang những hàng chữ đòi hỏi nhà cầm quyền Bắc Kinh phải thực thi nhân quyền, ngưng ngay cuộc đàn áp và phải trả lại độc lập cho người dân Tây Tạng. Chưa bao giờ chương trình rước ngọn đuốc thiêng Thế Vận Hội lại gặp khó khăn đến thế. Ở Luân Đôn và Paris, có những người trong đoàn biểu tình tìm cách cướp và dập tắt ngọn đuốc trên tay người được vinh dự cầm ngọn đuốc chạy trên đường phố. Trước con số hàng chục ngàn người chống đối ở San Francisco, Ban Tổ Chức đã phải dời cuộc rước đuốc đến một địa điểm không thông báo trước cho dân chúng biết, đồng thời cắt ngắn chương trình.”[xi] Ngọn đuốc bị cô lập và phải trốn chui trốn nhủi, chỉ vì nhân quyền chưa được tôn trọng tại Trung hoa.
Tóm lại, nhìn vào hai lớp người lãnh đạo trong Giáo hội cũng như ngoài xã hội, chúng ta mới thấy rõ tiêu chuẩn phân biệt mục tử đích thật của Chúa. Mục tử đích thực luôn hy sinh cho hạnh phúc con người. Còn những người lãnh đạo chuyên lạm dụng quyền bính để ăn cướp, giết chóc và phá hoại đều là những tên trộm cướp. Làm sao nhân loại có thể sống hạnh phúc và bình an giữa những tên trộm cướp như thế?!
Lạy Chúa, xin ban Thần Khí cho những lãnh đạo Giáo hội trên khắp thế giới. Xin Chúa ban cho các nhà lãnh đạo thế giới biết tôn trọng nhân quyền hầu mọi người được sống và sống dồi dào. Amen.
——————————–
[i] http://www.zenit.org/article-22237?l=english
[ii] Ibid.
[iii] http://www.zenit.org/article-22232?l=english
[iv] Life Application Study Bible, Zondervan, 1991:1897.
[v] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 574.
[vi] Ibid., 66.
[vii] Ibid., 453.
[viii] Ibid., 410.
[ix] http://www.vietcatholic.net/News/Html/53865.htm
[x] http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2008/04/11/IssueOfTheWeek-Olympic_Torch_Relay_NKhanh/
[xi] Ibid.
(Lm. Jude Siciliano, OP – Anh Em Nhà Học Đa Minh Gò Vấp chuyển ngữ).
Thưa quý vị,
Tôi thấy bài Tin mừng hôm nay thật phức tạp. Tôi muốn nói với Đức Giêsu: “Xin Ngài quyết định đi. Ngài là “người giữ cửa” hay là cánh cửa”? Hay có lẽ Ngài là “Mục Tử.” Ra như chỉ có mỗi hình ảnh mục tử mà chúng ta không nghe được trong đoạn văn hôm nay lại là hình ảnh chúng ta mong đợi, “Tôi là Mục Tử Nhân Lành.” Là một người giảng thuyết, hình ảnh này cứ khiến tôi phân vân: làm thế nào có thể tập trung vào thông điệp hôm nay đây?
Có lẽ tôi quá khắt khe. Tôi muốn mọi thứ ngăn nắp và trật tự. Thế nhưng những hình ảnh này lại lung tung và chồng chéo lên nhau. Tin mừng của Gioan không phải là kiểu “một cỡ vừa cho tất cả”, hay cung cấp những hình tượng vừa khít như trên những hộp giày. Ngài là một thi sĩ và như một thi sĩ sử dụng hình ảnh, bẻ cong và gọt đẽo những hình ảnh cũng như ngôn từ sao cho có thể dẫn ta đi sâu hơn vào trong Tin mừng của ngài. Chắc chắn ngài cho chúng ta đủ những chọn lựa để có thể dễ dàng đi vào bên trong! Thế nên, đừng có mà cố gắng sắp xếp những hình ảnh của ngài cách cứng nhắc. Thay vì vậy, hãy tiếp cận những hình ảnh của ngài với cặp mắt và đôi tai rộng mở để thấy được đa tầng ý nghĩa mà ngài muốn gửi đến cho chúng ta.
Ngay phần trên của đoạn văn hôm nay, chúng ta được nghe Đức Giêsu nói đến các Pharisêu, những người đã phản đối Người vì đã chữa một người mù trong ngày Sabbat (Ga 9,40-41). Vì thế, trong đoạn Tin mừng hôm nay, có lẽ Người tiếp tục phê phán họ khi ám chỉ “kẻ trộn và kẻ cướp.” Những ngôn sứ như Ezekiel cũng rất hay sử dụng kiểu nói này; họ lên án những nhà lãnh đạo tôn giáo sai lầm và đồi bại (“các mục tử”) về việc đã không chăm lo chu đáo cho dân (những con chiên). Nhưng các người nghe thông điệp này cũng là các môn đệ của Người, đặc biệt là trong phần thứ hai của trình thuật hôm nay. Thánh Gioan là một tác giả tài năng nên những mơ hồ trong văn phong của ngài quả không phải là một sự ngẫu nhiên hay do kết quả của việc biên soạn cẩu thả.
Nếu như không thấy nói đến thính giả thì thông điệp của ngài chính là để mở ra cho giáo hội của ngài trong thế kỷ đầu của Hội thánh. Và cũng nói với cả chúng ta ngày nay nữa. Đức Giêsu không chỉ phê phán giới lãnh đão Pharisêu sai trái kia; nhưng còn nhắm đến tất cả mọi lãnh đạo giáo hội cách lầm lạc trong mọi thời. Nói ra thật buồn, nhưng mỗi thế hệ và triều đại của các nhà lãnh đạo Giáo hội đều có những sai lỗi và gây ra biết bao hậu quả tệ hại, cả cho cộng đoàn tín hữu của họ cũng như những người bên ngoài Giáo hội, những người biết về các nhà lãnh đạo bất tài này qua truyền thông cũng như qua các phương tiện thông tin khác.
Trong suốt Tin mừng của mình, thánh Gioan còn có một cách trộn lẫn những hình ảnh để mô tả Đức Giêsu: những kiểu khẳng định “Tôi là”. “Tôi là đường, là sự thật và là sự sống,” “Tôi là sự sống lại,” “Tôi là nước hằng sống”… Thánh Gioan cho thấy rằng Đức Giêsu không muốn làm một cái thùng thư công cộng; như chúng ta thấy trong cuộc trao đổi sau khi chữa lành người mù (chương 9). Những người Pharisêu muốn những giải thích rõ ràng, nghiêm túc và tôn trọng lề luật cũng như truyền thống cách nghiêm ngặt. Tin mừng phong phú của thánh Gioan không chấp nhận hay tuân theo kiểu nghiêm khắc đó. Mầu nhiệm Thiên Chúa trong Đức Giêsu quá lớn nên không thể nào tóm kết trong một kiểu như thế. Mệnh đề “Tôi là” là một ví dụ rất hay về kiểu mở của Tin mừng Gioan giúp chúng ta diễn giải ý nghĩa của Đức Giêsu trong cuộc đời chúng ta.
Có một số lãnh đạo giáo hội và một số thành viên muốn thu hẹp và giản lược những thực hành cũng như niềm tin tôn giáo. Chẳng hạn như trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh vừa rồi, một số giáo phận cấm không cho phụ nữ được rửa chân trong nghi thức truyền thống. Nhưng những hạn chế như thế có vẻ như không giống như lối mở của Tin mừng Gioan và những cách thức ngài muốn nói cho mọi thế hệ – kiểu mà các môn đệ đầu tiên, trong đó có cả Gioan, có lẽ chẳng thể tưởng tượng ra. Vì thế, nếu thánh Gioan đã chủ ý để mở ngôn ngữ cũng như hình ảnh của ngài, thì chúng ta có thể tự do áp dụng trong thời gian và không gian của chúng ta.
Hôm nay, có một kiểu khẳng định khác của mệnh đề “Tôi là”. Đức Giêsu nói: “Tôi là cửa.” Tôi gặp khó khăn, buồn nản, xáo trộn và đói khát tinh thần nơi đâu? Thánh Gioan giải thích rõ ràng: Người mời chúng ta lại chọn Đức Giêsu, để bước vào cánh của mang lại nguồn sống. Bước vào con đường hẹp, một cánh của, lúc đầu có vẻ như bị hạn chế. Nhưng không hạn chế chút nào nếu cánh của đó dẫn chúng ta đến một nơi an nghỉ và bước vào một nơi được no đủ. Một cánh cửa có thể khóa đoàn chiên trong đó. Nhưng, cánh cửa là Đức Giêsu thì mở cho đàn chiên đi vô và đi ra.
Tương quan của chúng ta với Đức Giêsu không phải kiểu chung chung. Chúng ta không đơn giản chỉ là những gương mặt trong đám đông. Người biết tên từng con chiên của mình và chúng ta biết tiếng của Người. Có khi chúng ta quên hay lờ đi không nghe tiếng Người và chúng ta bị lạc lối. Nhưng Người tìm kiếm chúng ta, rồi tìm cách kêu gọi chúng ta trở về: có thể qua lời khuyên của một người bạn, một đoạn trong quyển sách đang đọc dang dở, hay một lời trong bài giảng. Rồi, sau khi nghe được lời Người, chúng ta làm một bước ngoặt khác trong đời mình và quay đầu về phía cánh cửa của Đức Giêsu đang rộng mở đón chúng ta bước vào trong sự tha thứ, nghỉ ngơi và canh tân.
Quả là hôm nay Đức Giêsu sử dụng nhiều hình ảnh khác nhau để tự mô tả chính mình cho chúng ta. Nhưng thông điệp được nhắc lại trong mỗi hình ảnh cho thấy Người quan tâm đến hạnh phúc của chúng ta. Người muốn chúng ta cẩn trọng với các mục tử dẫn chúng ta lạc lối và gây tổn hại cho đạo lý của chúng ta bằng gương mù gương xấu và khả năng lãnh đạo tồi của họ. Họ có thể đánh cắp cuộc đời chúng ta, Người nói cho chúng ta biết thế. Người hướng dẫn chúng ta quay về với Người, chúng ta biết tiếng của người và tin tưởng vào lời Người. Người muốn rằng chúng ta “được sống và sống dồi dào.”
Làm sao chúng ta có thể cảm nhận được sự chăm sóc độc nhất mà Đức Giêsu dành cho chúng ta? Hôm nay hãy biết ơn các ngôn sứ cũng như những người thánh thiện trong lịch sử Giáo hội đã gợi hứng cũng như nuôi dưỡng chúng ta. Làm sao chúng ta có thể kể ra được những ân nhân của mình; những người đã hướng dẫn chúng ta trong cuộc đời này? Chúng ta cũng biết ơn vì những lời mục tử mà chúng ta nghe được nơi các thành viên của gia đình, các thầy cô, nghệ sỹ, cha sở, các tác giả, người hướng dẫn tĩnh tâm, thầy giảng, giáo lý viên,… Qua những người này, Mục Tử nói với chúng ta và chúng ta biết ơn vì nhận ra tiếng của Người và đáp lại.
Thánh Phêrô nhận ra tiếng gọi của Mục Tử khi Đức Giêsu lần đầu tiên gọi ông khi ông đang trên thuyền. Ngài “bước vào cổng” và theo tiếng gọi của Mục Tử khi lắng nghe lời dạy của Đức Giêsu cũng như chứng kiến các hành động chữa lành của Người trên hành trình tiến về Giêrusalem. Dù Phêrô có quay lưng lại với vị Mục Tử và bỏ rơi Người khi Người cần đến, thì ngài vẫn nghe được lời tha thứ khi Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ đang sợ hãi trong căn phòng đóng kín và nói: “Bình an cho anh em.” Thánh Phêrô quay lại với thầy Giêsu, ngài bước vào cánh của tha thứ đang rộng mở.
Hôm nay, trong bài đọc một, chúng ta nghe một phần bài giảng của thánh Phêrô trong ngày Lễ Hiện Xuống. Ngài đề cập đến “toàn thể nhà Israel” (Cv 2,36). Nhân danh Đức Giêsu, giờ đây Phêrô là lời của Mục Tử kêu gọi đàn chiên của Người. người ta nghe thấy lời của Mục Tử trong bài giảng của Phêrô và đáp lại “Chúng tôi phải làm gì đây?” Liên quan đến bài Tin mừng hôm nay, Phêrô kêu gọi người ta quay trở lại và lãnh nhận phép rửa nhân danh Chúa Giêsu – để bước qua của vào chuồng chiên. Rất nhiều người đã thực hiện điều đó, 3000 người đã nghe lời Mục Tử và bước vào.
Bước vào “chuồng chiên” có thể giống như bước vào một thế giới khép kín và cô lập. “Hãy đến và gia nhập vào nhóm nhỏ và riêng tư của tôi”. Thật khó! Thánh Phêrô là một thí dụ của một người đã bước qua cửa vào chuồng chiên. Ngài nhận được ân sủng của Thánh Thần, là những gì mà ngài hứa các thính giả cũng sẽ nhận được và rồi ngài bước qua cánh cửa rồi tiến ra thế giới bên ngoài. Sau khi Đức Giêsu bị bắt, Phêrô đã từ chối Đức Giêsu. Giờ đây ngài xác nhận mối liên hệ giữa ngài với Đức Giêsu, liều lĩnh và công khai tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Giêsu là “Đức Chúa và là Đấng Kitô”.
Bài giảng của thánh Phêrô hôm nay chỉ là một phần của bài giảng trong ngày Lễ Hiện Xuống. Các bản văn Kinh thánh từ Phục sinh và trong tháng tới hướng chúng ta đến cử hành Lễ Hiện Xuống vào ngày 12 tháng 6. Chúng ta vẫn còn thời gian để lắng nghe và canh tân tiếng của Mục Tử Nhân Lành. Người sẽ lại quy tụ chiên của mình vào chuồng, làm chúng ta nên mới bằng Thánh Thần của Người và rồi Đấng tự nhận mình là “cửa” sẽ dẫn đưa chúng ta bước ra thế giới bên ngoài – như Người đã thực hiện nơi Phêrô và các Kitô hữu đầu tiên. Ở đó, chúng ta cũng sẽ can đảm làm chứng cho danh Đức Giêsu bằng lời nói và việc làm của chúng ta. Hy vọng rằng qua cuộc sống của chúng ta, người khác có thể nghe được tiếng của Mục Tử đang mời gọi họ bước qua cánh của rộng mở cho mọi người đi vào đời.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn