Lời Chúa: Dnl. 8, 2-3.14b-16a; 1Cr. 10, 16-17; Ga. 6, 51-58
MỤC LỤC
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
I/ “Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được sống muôn đời”. Lời giảng đó của Chúa Giêsu chỉ rõ về phép Thánh Thể. Thịt máu Chúa Giêsu là toàn diện con người Chúa gồm thiên tính và nhân tính. Xét về thiên tính, Người là Ngôi Hai Thiên Chúa, nên Người nói “Tôi là Bánh Hằng sống từ trời xuống”. Xét về nhân tính, Người có thịt máu, hồn xác, nên Người nói “Thịt Tôi thật là của ăn, máu Tôi thật là của uống”. Khi rước Mình Máu Người là rước chính Chúa Giêsu trót thiên tính và nhân tính, là rước Ngôi Hai xuống thế làm người, là rước chính Đức Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh, cho nên Mình Máu Người là của ăn, là bánh hằng sống, ban cho kẻ ăn được sống lại và được sống muôn đời.
Dân Do Thái không hiểu như thế. Họ chỉ hiểu theo góc độ ăn uống thịt máu vật chất loài người như ta ăn thịt heo, thịt cá và uống tiết canh. Họ hiểu như câu hát thề phanh thây uống máu quân thù, thì làm sao ai dám lấy thịt máu mình cho kẻ khác ăn. Họ chỉ thấy Đức Giêsu là con ông Giuse, anh thợ mộc, chứ không phải từ trời xuống. Họ mới được Chúa làm phép lạ cho bánh hóa nhiều nuôi bao nhiêu ngàn người ăn khỏi đói, thế mà họ cũng không tin Người là Thiên Chúa. Họ càng thấy chói tai ghê tởm và cãi nhau dữ dội khi Người nói: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta”, họ tưởng như những bè đảng “uống máu ăn thề” nên họ thấy chói tai quá, họ đã bỏ đi và một số môn đệ cũng bỏ Thầy. Đây là một thử thách lòng tin, một thách đố lý trí vô phương giải cứu, thử thách này kinh khủng hơn thử thách cha ông họ đã nếm mùi khổ nhục trong “sa mạc mênh mông khô cằn khủng khiếp, đầy rắn lửa, bọ cạp, núi non hiểm trở …” (Bài đọc 1: Dnl, 8, 2-3, 14b-16)
Trong sa mạc, chỉ có Môsê vững tin Thiên Chúa ông đã vượt mọi thử thách cam go để tuân hành lệnh Ngài truyền và Thiên Chúa đã khiến nước chảy ra từ tảng đá cho dân uống và ban manna cho dân ăn (Dnl. 8, 3. 16)
Trong hoang địa, nơi Chúa Giêsu đang giảng chỉ có Phêrô đứng ra tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga. 6, 68-69)
II/ Tại sao Đức Giêsu dùng kiểu nói ăn thịt và uống máu như vậy?
Thứ nhất, đối với người Do Thái: ăn thịt và uống máu, nhắc họ nhớ tới thịt máu con chiên vượt qua, máu chiên bôi lên cửa nhà họ làm dấu cứu con cháu họ khỏi bị tiêu diệt, còn nhà dân Ai Cập không có dấu máu chiên thì các con đầu lòng từ người đến vật và các thần đều bị tiêu diệt (Xh. 12, 1-14). Máu chiên vượt qua sẽ giúp họ thấy máu Người đổ ra trên Thập giá là dấu cứu họ vượt qua cõi chết để sống muôn đời. Còn thịt chiên vượt qua làm của ăn tăng sức mạnh cho họ ra đi thoát khỏi ách nô lệ Ai cập để trở về đất Hứa, miền đất quê hương tự do. Thịt của Đức Giêsu chẳng những ban cho họ sức mạnh thoát khỏi nô lệ, tội lỗi mà còn giúp họ thẳng tiến về quê trời vinh phúc muôn đời.
Thứ hai, đối với cả loài người: Thịt và máu Đức Giêsu thể hiện lễ hy sinh của Người trên Thánh giá. Sự hy sinh mạng sống là luật hy sinh trong vũ trụ này, con vật này phải chết đi làm của ăn cho con vật khác. Sự chết hy sinh cho sự sống, sự chết của hàng trăm sinh vật như tôm, cá, heo, gà, rau cỏ… đã hy sinh chết đi cho sự sống của tôi. Chúng phải chịu bắt, đánh đập, mổ xẻ, cắt chặt, nghiền nát, nung đốt để trở thành của ăn của uống cho tôi ăn để tôi sống, tôi khỏe mạnh, tôi phát triển.
Đức Giêsu muốn cho chúng ta được sống và được sống dồi dào muôn đời, Người phải hy sinh mạng sống để nuôi chúng ta sống, mạnh mẽ, sống sinh nhiều hoa trái tồn tại đến muôn đời.
Sau hết, đối với Đức Giêsu, kiểu nói: “Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống” là kiểu nói duy nhất chỉ về sự thương khó, về lễ hy sinh trên Thánh giá, về lễ truyền phép bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Người làm của nuôi linh hồn ta đời đời, để cho ta được sống liên kết chặt chẽ với Người như những chi thể trong một thân thể Đức Kitô (Bài đọc II. 1Cr. 40, 16-17).
III/ Trong đoạn Tin mừng hôm nay chỉ có chín câu ngắn gọn mà Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến 12 lần về sự sống: Bánh hằng sống, được sống muôn đời (3 lần), được sống (2 lần), không có sự sống, sống lại, sống mãi (2 lần), Cha là Đấng hằng sống, tôi sống nhờ Cha, chứng tỏ Người thiết tha chăm lo đến sự sống chúng ta vô cùng. Người sẵn sàng hiến mạng sống mình cho chúng ta. Hơn nữa Người còn hạ mình xuống như một thứ đồ vật vô tri vô giác làm đồ ăn cho chúng ta được sống, sống lại, sống mãi, sống muôn đời như Cha là Đấng hằng sống, như Con sống nhờ Cha.
Tình yêu của Chúa không lời nào của loài người diễn tả nổi, không việc làm nào của loài người có thể cảm tạ đẹp lòng Thiên Chúa, chỉ có cách duy nhất là: “Hãy siêng năng nâng chén lễ tạ ơn mà cảm tạ Thiên Chúa, để dự phần vào máu Đức Kitô. Hãy sốt sắng cùng nhau bẻ bánh thánh, để dự phần vào thân thể Người” (1Cr. 10, 16).
Vậy chỉ có cách siêng năng, sốt sắng rước lấy bánh hằng sống mới làm thỏa lòng Chúa tha thiết yêu ta.
Lạy Chúa Giêsu, không một người cha nào nuôi con bằng thịt mình, nhưng Chúa đã lấy thịt mình nuôi con, không một người mẹ nào nuôi con bằng máu mình, nhưng Chúa đã ban máu mình cho con làm của uống, không cha mẹ nào vui lòng chết khổ nhục vì con, nhưng Chúa đã chịu chết treo trên Thánh giá thay con. Xin Chúa cho con biết suốt đời dâng lễ cảm tạ Chúa, suốt đời dự phần vào Mình Máu Chúa, để thỏa lòng Chúa yêu con.
Thế giới chiến tranh lần thứ hai kết thúc với hai trái bom nguyên tử, gây cảnh đổ vỡ tan thương cho thiên nhiên và sinh mạng đến độ người ta đã nghĩ rằng: Con người, phải chấm dứt chiến tranh bằng không chiến tranh sẽ chấm dứt con người.
Ngày nay ở khắp nơi người ta đều quan tâm đến môi trường với tiếng kêu khẩn cấp: Trái đất đang lâm nguy. Vì vậy con người phải dừng lại để tìm kiếm phương thế cứu nguy địa cầu, bằng không địa cầu sẽ là nấm mồ không những chôn những người đã chết mà còn chôn cả những người đang sống, nước giàu cũng như nước nghèo.
Trong những cuộc hội nghị gần đây, ngoài những vấn đề có liên quan đến môi trường thiên nhiên, còn có vấn đề chênh lệch giữa những nước giàu và những nước nghèo, biến thiểu số những nước giàu tiêu thụ hoang phí những tài nguyên thiên nhiên mà các nước nghèo phải tàn phá để sinh tồn hầu cung phụng cho những nước giàu. Trong bối cảnh địa cầu đang lâm nguy vì bị con người khai thác bừa bãi và làm ô nhiễm trầm trọng để sản xuất, để hưởng thụ, thiết nghĩ lễ Mình và Máu Thánh Đức Kitô có thể gợi lên cho chúng ta một vài suy tư hữu ích.
Thực vậy đoạn Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của bí tích Thánh Thể. Qua những động từ diễn tả các hành vi của Chúa Giêsu thực hiện trong phép lạ hoá bánh ra nhiều, tiên báo những cử chỉ sau này khi Ngài lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn bẻ ra, trao cho các môn đệ phân phát, chia sẻ để mọi người cùng ăn no nê. Đó là con đường Chúa Giêsu vạch ra phải được thực hiện từng bước nhưng liên tục để mọi người được thông phần vào việc bánh hoá nhiều. Ngày nay những nước giàu thường không muốn đi trên con đường này. Họ lấy các tài nguyên thiên nhiên và không xem đó là hoa màu ruộng đất và lao công con người, nhưng chỉ là những vật sở hữu họ bỏ tiền ra mua vì thế họ không bao giờ biết cám tạ Chúa và cám ơn thiên nhiên và người khác. Họ giữ lấy tài nguyên cho mình mà không biết bỏ ra, và càng không biết chia sẻ vì bỏ ra đối với họ là hư hao và chia sẻ là mất mát. Trong phạm vi cá nhân cũng vậy. Cử chỉ của Chúa Giêsu là một lời mời gọi. Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và chia sẻ cho mọi người cùng ăn no nê.
Chúng ta cũng vậy, hay lấy cơm bánh của hoa màu ruộng đất, lấy các tài nguyên thiên nhiên, lấy khả năng và trọn con người mình để cảm tạ Thiên Chúa, cám ơn ruộng đất thiên nhiên, cám ơn công lao của con người. Rồi bẻ ra để sản xuất, để sinh lợi và sau cùng là chia sẻ. Chia sẻ kiến thức kỹ thuật, máy móc lợi nhuận để mọi người đều có cơ hội đồng đầu mà phát triển, nhờ đó cùng được thịnh vượng và hạnh phúc.
Thế nhưng liệu đây có phải là phương pháp mỗi người chúng ta phải sử dụng để cứu nguy địa cầu và đem lại hạnh phúc cho những người chung quanh hay không?
Một trận động đất kinh hoàng đã xảy ra tại Arménie hổi tháng 12 năm 1987. Trong số hàng ngàn người bị chôn vùi dưới đống gạch vụn, co hai mẹ con bà Suzana. Cả hai may mắn lọt vào một khoảng trống nhỏ, nên còn sống sót. Tất cả lương thực của họ chỉ là một hũ mứt, nhưng chẳng mấy chốc, hũ mứt cũng hết. Lúc đó cô con gái mới bốn tuổi đã kêu lên: Mẹ ơi, con khát quá, mẹ cho con uống nước nhé. Người mẹ lúng túng, biết tìm đâu cho ra nước bây giờ. Một ý nghĩ táo bạo bỗng nảy sinh trong đầu óc bà, đó là phải lấy những giọt máu cuối cùng của mình cho con uống, để cầm cự với tử thần. Bà tìm được một mảnh kính vỡ, cắt đầu ngón tay và bảo con mút. Đứa bé mút những giọt máu từ đầu ngón tay của người mẹ. Sau khi hai mẹ con được cứu sống, người mẹ kể lại rằng: Lúc bấy giờ tôi chỉ có một ý nghĩ, đó là phải làm thế nào cho con tôi được sống.
Với chúng ta cũng vậy. Trong suốt cuộc đời trần gian, Chúa Giêsu cũng chỉ có một ý nghĩ, cũng chỉ có một mục đích, đó là phải làm thế nào cho chúng ta được sống, không phải chỉ sự sống phần xác, mà còn là sự sống phần hồn. Chính vì sự sống phần hồn của chúng ta, mà Ngài đã chấp nhận cái chết tủi nhục trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta. Và hơn thế nữa, Ngài còn thiết lập bí tích Thánh Thể, để làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta và để ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, bởi vì hiện nay với bí tích Thánh Thể và với Thánh Lễ được cử hành, hy lễ tiến dâng lên Chúa Cha và của ăn trao ban cho chúng ta không ngừng được tiếp diễn.
Thế nhưng, chúng ta đã có thái độ nào đối với bí tích Thánh Thể cũng như đối với Thánh Lễ? Tại nhiều nước Tây Phương, số giáo dân tham dự Thánh Lễ ngày Chúa nhật giảm sút một cách đáng kể. Điển hình tại Pháp, chỉ có 10% giáo dân tham dự mà thôi. Còn tại Việt Nam, mặc sù số người tham dự còn nhiều, nhưng có một số lại đứng ngoài nhà thờ, nói chuyện và hút thuốc trong khi Thánh Lễ đang được cử hành. Họ đi lễ chỉ vì sợ lỗi luật, sợ phạm tội, chứ chẳng có lấy một chút tâm tình và một chút yêu mến.
Trong Thánh Lễ, không phải chỉ có vai trò của vị chủ tế, mà hơn thế nữa, vai trò của người tín hữu cũng không kém phần quan trọng. Họ không phải chỉ xem lễ, như một khán giả xem đá bóng, xem cải lương, nhưng họ tham dự và cùng cử hành Thánh Lễ. Nói cho cùng, chẳng có hai Thánh Lễ giống hệt nhau, vì chính cuộc sống của người tham dự đã thay đổi.
Mỗi Thánh Lễ, tôi cảm thấy có một điều gì đó cần thống hối cách đặc biệt. Mỗi Thánh Lễ, tôi cảm thấy mình muốn đặt trên đĩa thánh một chút cố gắng, một chút đau khồ, một chút ước mơ riêng tư của tôi. Tôi không dự lễ với đôi bàn tay trắng, nhưng tôi dự lễ với lễ vật của riêng tôi. Lễ vật ấy là chính cuộc đời tôi.
Đồng thời trong Thánh Lễ, lời Chúa tác động trên tôi, rồi mỗi khi lên rước lễ, tôi nhớ rằng Ngài đã trở nên tấm bánh được bẻ ra cho tôi, thì tôi cũng phải trở nên tấm bánh được bẻ ra cho anh em tôi.
Thánh Lễ sẽ không nhàm chán, khi chúng ta biết nối dài Thánh Lễ trong cuộc sống. Và mỗi khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta mang đến nơi bàn thờ của lễ xuất phát từ lòng cuộc đời mỗi người chúng ta.
Chúa Giêsu đến trong trần gian này cũng chỉ có một ý nghĩ, cũng chỉ có một mục đích, đó là phải làm thế nào cho chúng ta được sống, không phải chỉ sự sống phần xác, mà còn là sự sống phần hồn. Chính vì sự sống phần hồn của chúng ta, mà Ngài đã chấp nhận cái chết tủi nhục trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta. Và hơn thế nữa, Ngài còn thiết lập bí tích Thánh Thể, để làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta và để ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Trong tư cách là Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai đến, Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hiệp thông vào sự sống với Người. Nếu chúng ta tin vào Người, chúng ta được đi vào trong sự sống với Người, trong sự sống vĩnh cửu. Ở đây Người giải thích cặn kẽ Người là bánh ban sự sống cho chúng ta như thế nào: Trong cái chết trên thập giá, Người hiến mình cho thế gian được sống và Người ban cho chúng ta thịt và máu Người làm của ăn của uống.
Chúa Cha chính là nguồn phát xuất ra mọi sự: Ngài gửi Chúa Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (6, 32.44), nhưng cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu trong tư cách là “bánh ban sự sống” (cc. 37.44.65). Thiên Chúa là Cha “hằng sống”, là chính sự sống, là sức sống viên mãn không bao giờ cạn kiệt, là Thiên Chúa hằng sống. Đức Giêsu được sai phái đi bởi Chúa Cha và có sự sống bởi Chúa Cha; Người cũng có thể thông ban sự sống thần linh. Bánh ban sự sống đến từ Chúa Cha hằng sống và nhận từ Chúa Cha tất cả sức mạnh ban sự sống. Bởi vì Người phát xuất từ Chúa Cha hằng sống, Đức Giêsu là bánh ban sự sống, là bánh từ trời xuống.
Trong kinh nghiệm của quá khứ, ta thấy người Do Thái bị vấp phạm nặng nề vì lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”. Với mức độ Chúa Giêsu mạc khải rõ ràng hơn, sự đối kháng cũng tăng theo. Lúc đầu, còn là những xầm xì, nay đã trở thành tranh luận. Nếu cố gắng ép nghĩa, thì cũng có thể hiểu lời khẳng định của Chúa Giêsu theo nghĩa ẩn dụ: ăn và uống đây chính là học hỏi Lề Luật. Nhưng dựa theo giọng điệu của Chúa Giêsu, những lời Người nói, người Do Thái đã hiểu rằng phải hiểu mọi sự theo nghĩa chữ.
Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu cầm bánh trong tay và nói trước mặt các môn đệ: “Đây là Mình Thầy”, lập tức mọi người hiểu rằng tấm bánh kia là thân thể Chúa, nghĩa là tấm bánh kia, bên ngoài có hình thù, mầu sắc, hương vị của bánh nhưng bản thể của bánh đã biến sang bản thể của Thiên Chúa.
Bí tích Thánh Thể đã được Chúa Giêsu thiết lập trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa Giêsu đã cầm và phân chia cho các môn đệ chính là bánh của bữa ăn hằng ngày nơi Ngài sống. Chén rượu cũng vậy, và bánh ấy, rượu ấy, đã được biến đổi thành Mình Máu Ngài. Do đó mầu nhiệm Thánh Thể còn là mầu nhiệm chia sẻ, chia sẻ để mọi người cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ, và chính việc chia sẻ này đã được Chúa Giêsu dùng như dấu chỉ các môn đệ làm để nhớ đến Ngài: Hai môn đệ đi Emmau đã nhân ra Đấng Phục Sinh và chính lúc Ngài “cầm lấy bánh chúc tụng, đoạn bẻ ra trao cho hai ông…” (Lc 24,30-31).
Bí tích Thánh Thể là trung tâm đời sống Kitô hữu. Trước hết vì ở đây cử hành mầu nhiệm Cứu độ. Chúa Giêsu đã chết để cứu chuộc nhân loại. Người chết vì yêu thương chúng ta. Ngoài việc chết một lần trong lịch sử, Chúa còn dùng Thịt và Máu nuôi dưỡng ta, để biểu lộ Tình yêu của Chúa, để ta thông hiệp với sự sống vô biên của Chúa, của một vị Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta cho đến muôn đời. Những thực tại này được thể hiện trong bí tích Thánh Thể, trong Thánh Lễ. Sống cuộc sống thế trần chúng ta cốt đem sự sống tới cho loài người và bí tích Thánh Thể chính là suối nguồn sự sống. Chúng ta cần năng tiếp xúc với nguồn sống đó, chúng ta mới có sự sống để có thể chuyển thông sự sống ấy cho người khác.
Bí tích Thánh Thể đáp ứng những nhu cầu về linh hồn và thân xác. Chúng ta tin Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. Có nhiều nơi, các tín hữu có thói quen thay phiên nhau Chầu Mình Thánh Chúa suốt ngày đêm. Có những người quỳ lặng cầu nguyện trước Nhà Tạm hàng giờ để kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu Thánh Thể là nguồn suối ủi an và nơi nương tựa. Chính Chúa Giêsu đã phán: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).
Ta ăn thịt và uống máu Đức Giêsu, ta đón nhận các quà tặng của chính Người và tuyên xưng niềm tin rằng Người hiện diện trong bánh và rượu đã được truyền phép và chỉ nhờ Người, Đấng được giương cao và chịu đóng đinh, chúng ta mới có sự sống đời đời. Khi đó, chúng ta cũng được mời gọi nhận ra rằng Thịt và Máu Người chính là bằng chứng cao cả nhất về tình yêu của Chúa Cha và của chính Người đối với nhân loại, đồng thời cũng là bảo chứng về sự sống đời mà Người muốn ban cho chúng ta.
Đã hiệp thông vào thịt và máu Đức Kitô, chúng ta trở thành “Đức Kitô toàn thể”. Do đó, chúng ta cũng phải trở thành “lương thực” nuôi dưỡng anh chị em chúng ta. Mãi mãi chúng ta sẽ thấy mình bất xứng, muốn co lại, khép kín trên chính mình, nên cứ phải để cho Đức Giêsu giúp biết hy sinh hầu phục vụ sự sống của anh chị em mình.
Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến việc hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là kết hiệp mật thiết với chính Chúa Kitô, nghĩa là đồng hoá với Ngài, nên giống Ngài trong tư tưởng, ngôn ngữ và cuộc sống: “Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu tôi, người ấy sẽ ở trong Tôi và Tôi ở trong người ấy”. Không bí tích nào giúp chúng ta sống “với Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa” bằng bí tích Thánh Thể. Từ đó, Thánh Phaolô dám khẳng định: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).
Từ việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ đưa chúng ta đến việc hiệp nhất với các anh chị em tín hữu. Vì liên kết với Chúa Kitô, nên chúng ta cũng liên kết với nhau để làm thành một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô, điều mà Thánh Phaolô gọi là “Nhiệm thể Chúa Kitô”. Ăn Thịt và uống Máu Chúa Kitô là lãnh nhận một động lực mạnh mẽ nhất để dẹp bỏ và xua tan những mối bất đồng, những mâu thuẫn sâu xa nhất để chỉ còn trở nên với Chúa Kitô một thân xác và một linh hồn. Sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô hữu trong Bí tích Thánh Thể có sức mạnh thu phục những khách bàng quan, những người xa lạ đến với Giáo Hội, như các tín hữu thời sơ khai đã từng chinh phục và đem lại ảnh hưởng lớn lao cho thế giới ngoại giáo:
Bánh sẽ chẳng còn ý nghĩa nếu chỉ để trưng bày cho người ta chiêm ngắm. Bánh chỉ có ý nghĩa khi được sử dụng. Được sử dụng là bị bẻ ra, bị nghiền nát, bị tan biến, bị tiêu hoá. Vì thế, trở thành tấm bánh là chấp nhận chịu đau đớn, chịu huỷ hoại. Đây không phải là một chấp nhận bất đắc dĩ, vì tấm bánh bao giờ cũng mời mọc tiêu thụ.
Khi xưng mình là bánh bởi trời, Chúa Giêsu bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa chịu chết cho ta được sống. Chúa chịu huỷ hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa bé nhỏ đi cho ta được lớn mạnh.
Kết hợp với Chúa trong Bí tích Thánh Thể sẽ mang lại nguồn tươi mát và dịu êm. Giáo Hội mời gọi chúng ta năng kính viếng và lặng quỳ bên Thánh Thể Chúa. Chúng ta sẽ gặp gỡ một Chúa thật có trái tim biết cảm thông và yêu thương.
Và như vậy, ta hãy xin Chúa thêm ơn khiêm hạ cho ta khi ta đón nhận Chúa vào tâm hồn ta. Xin cho ta biết mau mau tìm đến bên Chúa là nguồn mạch sự sống, lương thực nuôi dưỡng tâm hồn của ta.
Palestine là một vùng đất hiện vẫn còn rất đông người theo đạo Hồi. Ngày nọ có một vị thầy, lãnh đạo một cộng đoàn Hồi giáo, mời một linh mục Công giáo đến để công khai tranh luận về bí tích Thánh Thể trước sự hiện diện của các tín hữu đôi bên. Vị thầy hỏi:
– Làm sao một miếng bánh nhỏ lại có thể trở thành Đức Kitô được?
Vị linh mục trả lời:
– Được chứ sao lại không? Tôi xin minh chứng cho thầy biết bằng một thí dụ đơn sơ. Nếu thầy ăn cơm, thầy có thể biến cơm thành máu thịt của thầy, có thật thế không nào? Chớ thì tại sao Chúa lại không biến tấm bánh nhỏ trở thành máu thịt Chúa được.
Bậc thầy đó lại hỏi tiếp:
– Làm sao Đức Kitô to lớn như thế lại có thể ở trong miếng bánh nhỏ xíu?
Vị linh mục trả lời:
– Thầy hay nhìn trời, nhìn núi và các thôn làng. Bầu trời thì mênh mông. Ngọn núi thì cao lớn hùng vĩ, còn thôn làng thì rộng rãi bao la, thế mà con mắt nhỏ xíu của thầy có thể chứa được tất cả. Nếu con mắt của Thầy làm được chuyện đó thì tại sao Thiên Chúa lại không thể làm cho miếng bánh nhỏ xíu chứa đựng được Đức Kitô.
Bậc thầy không chịu thua lại hỏi thêm:
– Làm sao có thể cử hành nhiều thánh lễ cùng một lúc tại nhiều nơi trên thế giới, mà mỗi thánh lễ lại có Mình và Máu của Đức Kitô được?
Vị linh mục đáp:
– Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được.
Rồi để chứng minh cho câu trả lời này, vị linh mục lấy một tấm gương ném xuống đất khiến nó bể tan thành rất nhiều mảnh nhỏ. Tiếp đến, vị linh mục giơ tay chỉ cho bậc thầy đang ngạc nhiên và nói:
– Trước đây trong tấm gương này, thầy trông thấy gương mặt mình có phải không nào. Và bây giờ thầy cũng trông thấy gương mặt mình trong từng mảnh nhỏ. Thế thì tại sao Thiên Chúa lại không thể hiện diện tại nhiều nơi trong cùng một lúc được.
Cuộc tranh luận trên giúp chúng ta hiểu được phần nào mầu nhiệm Mình Máu Thánh Đức Kitô mà Giáo Hội cử hành mỗi ngày trong bí tích Thánh Thể. Vậy chúng ta phải có thái độ nào khi đi tham dự Thánh lễ?
Thánh lễ không phải là nơi trình diễn thời trang hay văn nghệ. Vì thế xén đầu bớt đuôi không tham dự đầy đủ, biến Thánh lễ thành buổi trình diễn chỉ có ca đoàn độc tấu từ đầu đến cuối, còn cộng đoàn thì yên lặng, là tỏ ra không hiểu gì về ý nghĩa phụng vụ và tinh thần cộng đoàn của Thánh lễ.
Nếu thánh lễ là một bữa tiệc, thì chúng ta phải cố gắng để Lời Chúa đúng là một món ăn thừa thãi. Tuy nhiên khi dọc tiệc, Thiên Chúa muốn chúng ta được ăn uống no say ơn thánh của Ngài. Nhưng vì Bí tích Thánh Thể là bàn tiệc thánh, nên muốn, tiếp nhận Chúa vào cõi lòng, thì linh hồn chúng ta cũng phải ở trong tình trạng ơn thánh, nghĩa là sạch tội trọng. Và hơn thế nữa mỗi khi tham dự Thánh lễ chúng ta hãy duyệt xét lại mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta xem có phù hợp với Tin Mừng và nhất là chúng ta đã thực sự sống bác ái yêu thương hay không. Bởi vì chúng ta phải làm hoà trước đã, rồi mới đến mà dâng Thánh lễ sau.
Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay đã cho chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu khẳng định cho chúng ta: “Ngài chính là Bánh Hằng Sống từ Trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời…”. Ngày xưa, tổ tiên, cha ông của người Do Thái được Chúa ban cho man-na nhưng rồi cũng sẽ chết. Còn với Chúa Giêsu, Ngài là Bánh Hằng Sống, Bánh Hằng Sống chính là Bí Tích Thánh Thể, là Mình và Máu Chúa ban cho con người.
Có người tin và có người không tin. Những người Do Thái không tin nên đã tranh luận sôi nổi sau khi nghe Chúa nói Chúa là Bánh Hằng Sống. Họ không dừng lại ở chuyện tranh luận nhưng họ đã đi quá xa cái chuyện tranh luận và cuối cùng đã dẫn họ đến chuyện kết án tử cho Chúa. Đặc biệt trong giờ phút chia ly, trong giờ phút trước khi chịu án tử, Chúa Giêsu đã trối lại cho các môn đệ Bí Tích Tình Yêu. Bí Tích Tình Yêu của Chúa đã lập hơn 2000 năm qua và Ngài vẫn còn mở ngõ cho sự đón nhận của con người. Ngày xưa vẫn thế và ngày nay vẫn vậy. Có những người không tin đã đành, có những người tin, vẫn đi tham dự Thánh lễ nhưng vẫn chưa sống mầu nhiệm Thánh Thể mà Chúa mời gọi.
Khi được nâng lên thành một Bí Tích, bữa ăn với lương thực chính là Đức Giêsu càng có giá trị vô song, đó là cho con người có chính sự sống của Thiên Chúa, và nhờ đó dần dần được tham dự vào thế giới Thiên Chúa, thế giới của vĩnh hằng và sung mãn. Sự sống ấy đã là cơ nghiệp Chúa Giêsu để lại cho ta rồi, như Ngài đã nói: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết”(Ga 6, 54), cũng như cho con người sống với những kích thước lớn nhất và sâu nhất. Được mang lấy Đức Kitô trong mình, người kitô hữu cũng phải sống tinh thần của Ngài, mà Đức Kitô không sống cho riêng mình nhưng sống cho Chúa Cha và cho nhân loại. Ta trở nên một với Ngài không chỉ trong lúc cử hành Thánh Thể, nhưng cuộc đời của ta phải là một thánh lễ nối dài, đang khi trở về với cuộc sống thường nhật, mỗi người hãy ngợi khen và chúc tụng Chúa.
Chỉ xin đưa ra ba chiều kích nhỏ của việc sống Bí Tích Tình Yêu.
Hiệp thông với Thiên Chúa.
Trong cuộc lữ hành trần thế, Giáo Hội được gọi gìn giữ và cổ võ sự hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa và sự hiệp thông giữa các tín hữu. Vì mục tiêu ấy Giáo Hội có được lời Chúa và các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể, nhờ đó Giáo Hội luôn sống động, tăng triển. Thánh Thể xuất hiện như đỉnh cao của tất cả các Bí Tích, vì nó làm cho nên hoàn thiện mối hiệp thông của chúng ta với Chúa Cha, bằng đồng hoá với Người Con yêu dấu của Người, nhờ hoạt động Chúa Thánh Thần với một đức tin sâu sắc.
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã viết: “Khi bạn không được rước Mình Thánh Chúa và không tham dự thánh lễ, bạn có thể rước lễ thiêng liêng, đây là một thực hành đem lại nhiều ơn ích, qua đó tình yêu Thiên Chúa sẽ ấn dấu mạnh mẽ trên bạn”.
Việc trở nên chi thể Đức Kitô do Bí Tích Thanh Tẩy thực hiện, không ngừng được đổi mới và củng cố nhờ tham dự vào hy lễ tạ ơn, nhất là việc thông hiệp trọn vẹn qua việc rước lễ. Chúng ta có thể nói rằng không những mỗi người chúng ta tiếp nhận Đức Kitô, nhưng Đức Kitô tiếp nhận mỗi người chúng ta. Người thắt chặt tình bằng hữu với chúng ta: “Anh em là bạn hữu của Thầy” (Ga 15, 14). Quả thật, chính nhờ Người mà chúng ta có sự sống: “Ai ăn Ta sẽ nhờ Ta mà được sống” (Ga 6,57). Việc rước lễ thể hiện cách tuyệt đỉnh việc “ở trong nhau”, giữa Đức Kitô và mỗi môn đệ của Người: “Anh em hãy ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong anh em” (Ga 15, 4). Nhờ cử hành Bí Tích Thánh Thể, ngay từ bây giờ chúng ta được kết hợp với phụng vụ trên trời và tiền dự vào sự sống vĩnh cửu, khi Thiên Chúa có toàn quyền trên mọi sự (1Cr 15, 28).
Bởi thế, thánh Augustino đã kêu gọi: “Chúng ta hãy đến hiệp lễ, với lòng xác tín hiệp thông Mình và Máu Chúa Kitô. Vì dưới hình thức bánh, chính thân xác Người được ban cho bạn, còn dưới hình rượu thì có Máu Người, bạn chỉ còn là một Mình và một Máu với Người”.
Vậy ăn lấy Đức Kitô trong tâm hồn là gì? phải chăng là sự lãnh nhận tinh thần và sự sống của Người, một sự quyện lấy nhau, người này ở trong người kia. Nơi Chúa chỉ có một sự sống duy nhất là sống cho nhau và cho người khác.
Chia sẻ và trao ban.
Trao đổi, chia sẻ trong Bí Tích Thánh Thể được đẩy đến mức tận cùng. Bánh ơn trời, hoa màu của ruộng đất và công lao của con người, xin dâng lên Thiên Chúa! Con người dâng lên và Thiên chúa trao lại tất cả. Chính trong Bí Tích Thánh Thể mà người Kitô Hữu sống lấy giây phút hiện tại, điều mà thánh Gioan đã thốt lên: Thiên chúa đã yêu thương thế gian như thế đó, đến nỗi đã thí ban Người Con Một… (Ga 3,16); và cũng chính trong Bí Tích Thánh Thể mà chúng ta có thể “trút cả mọi lo âu cho Chúa, vì Người chăm sóc chúng ta” (1Pr 5,7). Trong Bí Tích Thánh Thể, chia sẻ không còn chỉ là lời lẽ hay quà tặng bên ngoài, mà là chia sẻ đến mức không tưởng: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy…”. Quà tặng Người trao chính là thân mình tự hiến của Người. Đó là tuyệt đỉnh của tình yêu.
Thân mình tự hiến cho chúng ta, phải chăng chính là để chúng ta biết tự hiến thân mình cho anh em? Chắc hẳn đó mới là sự trao đổi và cũng là sự tưởng nhớ mà Đức Giêsu mong muốn: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Đón nhận tấm bánh bẻ ra, thúc giục người Kitô Hữu phải chia sẻ bánh trong cuộc sống hằng ngày, đó là chia sẻ bánh bác ái, những gì chúng ta là và những gì chúng ta có, nó phải biến đổi chúng ta thành những người đồng bàn trong Giáo Hội và với từng con người, nó cũng dạy chúng ta cách phục vụ Giáo Hội qua anh chị em mình.
Việc cử hành Thánh Thể kêu gọi ta thực thi đức ái cách mãnh liệt, bằng cách lưu tâm đặc biệt đến anh em túng thiếu, những người được miêu tả như “bí tích hiện diện của Đức Kitô”. Như thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: “Bạn muốn tôn kính thân mình Chúa. Bạn đừng khinh thường khi thấy thân mình này được bao phủ bởi những giẻ rách, sau khi tôn vinh thân mình trong nhà thờ, được vận toàn lụa là, bạn đừng để thân mình bên ngoài bị lạnh, đừng để thân mình này lâm cảnh khốn cùng… Đấng đã nói: “Đây là Mình Tôi”, và bảo đảm với bạn những điều đó là thật, Đấng ấy cũng nói: Điều mà ngươi không làm cho kẻ bé mọn nhất này là chính người cũng không làm cho Ta.
Bí tích Thánh Thể đòi buộc chúng ta phải chăm sóc người nghèo. Để thực sự lãnh nhận Mình và Máu Đức Kitô đã nộp vì chúng ta, chúng ta phải nhận# ra Người trong những người nghèo nhất. Thánh Thể thực sự dẫn đến yêu thương và thái độ phục vụ mà Đức Kitô yêu cầu các môn đệ thực hiện (Lc 22, 24-27; Ga 13, 14). Đáp lại sự tranh chấp của các môn đệ, là hành vi cúi xuống rửa chân của Đức Giêsu. Người đã trở nên gương mẫu yêu thương phục vụ tha nhân cách khiêm nhường (Ga 13, 14-17). Một tình yêu khiến Người trở nên của ăn “Đây là Mình Thầy hiến tế vì anh em” (Lc 22, 19). Một tình yêu được nâng lên thành một luật nền tảng, đúng hơn là một lối sống, làm mô phạm cho mọi người, mọi tương quan trong Giáo Hội “Các con hãy làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13, 15). Điều này được thực hiện sống động nơi cộng đoàn tiên khởi: hiệp thông, chuyên cần bẻ bánh, cầu nguyện không ngừng, giúp đỡ người nghèo, những khách hành hương, thăm viếng các tù nhân và nuôi dưỡng những ai túng thiếu (Cv 2, 42- 47; 4, 32-35; 5, 14, 46).
Đức ái Kitô Giáo chỉ thực hiện được, nếu tình yêu Thiên Chúa được chuyển từ Đấng Cứu Thế sang cho người khác.
Biến đổi và thăng hoa cuộc sống.
Một câu hát có lẽ đã đi sâu vào ký ức nhiều người:
“Chúa đến thăm con, thăm con mỗi sáng ngày
Linh hồn thấy lại tuổi thơ ngây…”.
Cuộc viếng thăm đích thực nào cũng động chạm tới cõi lòng và làm biến đổi cuộc sống. Biến đổi sẽ đến mức trọn vẹn khi ta có thể thốt lên: “Tôi sống nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).
Đức Kitô đến thăm viếng tâm hồn mỗi người Kitô Hữu, nhưng điều quan trọng là sự biến đổi nơi người kitô hữu, người đón nhận cuộc viếng thăm. Nếu sự biến đổi bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô là trên bình diện thân thể, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, thì cũng dưới tác động của Chúa Thánh Thần, người Kitô Hữu biến đổi tận bình diện nào khi lãnh nhận Thánh Thể? Nói khác đi Thiên Chúa viếng thăm, chấp nhận ra khỏi chính mình để mang lấy những gì thuộc về con người, vậy con ngườiù liệu có ra khỏi chính mình để nhận lấy những gì thuộc về Thiên Chúa hay không? Câu trả lời tất nhiên thuộc về Thánh Thần và thái độ tâm hồn của mỗi người chúng ta.
Tham dự Thánh Lễ là tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể, là cảm nếm trước bàn tiệc Nước Trời, nơi đó Chúa Kitô mời gọi mọi tín hữu đến rước lấy Ngài để có sự sống đời đời. Do đó mỗi khi tham dự Thánh Lễ, người tín hữu sẽ rước Thánh Thể để nuôi dưỡng đời sống đức tin. Đức ấy phải được hiện tại hóa qua đời sống hằng ngày. Thánh Phaolô đã lưu ý mọi Kitô Hữu về sự kết hợp với Thiên Chúa qua tất cả thụ tạo và việc làm, như một cách hiểu Thánh Thể nối dài trong cuộc sống: “Dù ăn, dù uống hay bất cứ làm việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10, 31). Đồng thời ngài cũng cảnh cáo sự chia rẽ giữa các tín hữu với nhau. Nói khác đi, Phaolô lên án việc cử hành Bí Tích Thánh Thể cắt đứt với cuộc sống thật: Tất cả cùng hiệp thông với một thân mình Chúa Kitô qua tấm bánh và chén rượu duy nhất, nhưng lại phân biệt giàu nghèo và chia rẽ nhau” (1Cr 11, 17-34).
Bữa tiệc Thánh Thể phát sinh một hiệu quả thánh hóa thân xác ta. Thánh Thể tác động một cách thần thiêng, gây ảnh hưởng không phải bằng sự đụng chạm khả giác nhưng bằng sự lan tỏa Chúa Thánh Thần, mà Mình Thánh Chúa đang mang theo. Phẩm giá của xác thịt nhân loại ngày càng trở nên cao trọng nhờ việc rước Thánh Thể. Một cách mầu nhiệm, Đức Kitô đến che giấu sự cao cả của xác thịt Ngài trong xác thịt hèn hạ của chúng ta, và muốn cho xác thịt ta tham dự vào việc thần hóa nhân tính. “Thân xác ta là đền thờ của Thiên Chúa”. Chính vì thế, thân xác ta phải được biến đổi và tinh sạch. Vì nó thuộc về một ngôi vị con người và chia sẻ sự cao trọng của ngôi vị ấy. Nhất là nó đã trở nên nơi ở của Thiên Chúa, khi ta đón rước Chúa Ba Ngôi ngự vào lòng. Đối với người hấp hối, khi rước của ăn đàng, họ đón nhận được Đức Kitô là Đấng sẽ đưa linh hồn họ sang cõi sống bên kia, và đồng thời trong thân xác sắp tan rã, họ cũng nhận được sự bảo đảm có một sự sống trổi vượt, sẽ thắng được sự chết vào ngày thế mạt. Của ăn đàng đưa linh hồn vào hạnh phúc trên trời và đưa thân xác đến phúc sống lại.
Như thế, Thánh Thể là suối nguồn bình an sâu thẳm, vì nó xác nhận việc con người hòa giải cùng Thiên Chúa. Thánh Thể còn phát sinh ra sự bình an, bởi lẽ nó mang lại cho con người điều thiện hảo duy nhất có thể làm cho con tim thỏa mãn, là chiếm hữu được chính Thiên chúa. Nhờ đó khi gặp cơn cám dỗ, sự bình an ấy giúp con người được bình tĩnh và tín thác vào sự che chở của Thiên Chúa.
Nhớ lại câu dẫn vào Thánh lễ rất quen thuộc của một cha giáo: “Anh em thân mến! Mỗi một lần chúng ta tham dự Thánh lễ là mỗi một lần chúng ta biến đổi cuộc đời chúng ta nên một với Đức Giêsu. Sau mỗi lần tham dự Thánh lễ mà chúng ta không để cho cuộc đời chúng ta nên một như Đức Giêsu thì Thánh lễ chúng ta tham dự trở nên vô ích”.
Nghe một lần chưa thấm, nghe nhiều lần rồi thấm và phải suy nghĩ. Đúng như vị linh mục ấy nói. Nếu cứ tham dự Thánh lễ xong rồi cuộc đời đâu lại vào đấy thì quả là chán vì khi ta tham dự Thánh Lễ, ta được kết hợp với Thiên Chúa là nguồn vui, nguồn bình an, nguồn hạnh phúc thật của đời ta.
Và bài hát rất quen thuộc của linh mục nhạc sĩ Thành Tâm: “Ta về thôi vì Thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, mang tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để thành chứng nhân!”. Thánh lễ nào cũng kết thúc, cũng chia tay, cũng tạm biệt nhưng Thánh lễ sẽ không kết thúc, không tạm biệt, không chia tay với cuộc sống của ta. Hoa quả của Thánh Lễ, hoa quả của Bí Tích Thánh Thể chính là lối sống, hành vi, lời ăn tiếng nói, cách cư xử của mỗi người chúng ta với anh chị em đồng loại.
Thánh Phaolô mời gọi chúng ta sống kết hiệp với Chúa như Ngài đã kiết hiệp: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Ước gì mỗi Kitô hữu cũng mặc lấy, cũng sống lấy tâm tình của Thánh Phaolô để mọi người xung quanh chúng ta nhìn vào chúng ta họ thấy có một Đức Giêsu đang hiện diện với họ.
Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể đến và ở lại với mỗi người chúng ta và xin Ngài làm chủ cuộc đời mỗi người chúng ta. Xin Chúa nuôi dưỡng và gìn giữ chúng ta đi qua cuộc lữ hành trần thế này để mai kia chúng ta được cùng hưởng nhan Thánh của Ngài trên Thiên Quốc.
(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
“Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết nhưng tôi muốn con tôi được sống”. Đó là lời của bà Susanna sau khi được cứu trong trận động đất ở Ácmêni vào tháng 12-1987.
Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch, có hai mẹ con bà Susanna may mắn còn sống sót. Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước. Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra? Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩ táo bạo, đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu người mẹ. Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu. Câu truyện trên giúp ta hiều phần nào bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu đã chết để chúng ta được sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá, và Ngài muốn máu Ngài trở nên thức uống cho chúng ta.
Trong các nhà thờ, vào dịp lễ Giáng sinh, thường có những người ngoài Kitô giáo đến dự lễ. Cũng có ít người tò mò lên “ăn bánh thánh”. Họ ngạc nhiên vì tấm bánh mỏng manh, nhạt nhẽo. Nhưng họ sẽ ngạc nhiên hơn nhiều nếu chúng ta bảo họ: “Ăn tấm bánh đó là ăn thịt Chúa, uống chén rượu đó là uống máu Chúa”. Thật là kinh khủng, làm sao có chuyện như vậy?
Đây là mầu nhiệm đức tin, không dễ giải thích cho người ngoài.
Tất cả bắt đầu từ ước muốn lạ lùng của Đức Giêsu. Ngài muốn nuôi nhân loại bằng chính con người Ngài. Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho nhân loại: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy. Các con hãy cầm lấy mà uống, đây là Máu Thầy.”
Mình và Máu tượng trưng toàn thể con người Đức Giêsu. Nên khi rước lễ, ta không chỉ rước thịt mình Ngài, mà rước lấy cả con người Ngài dưới dạng tấm bánh.
Rước lễ là gắn bó với một ngôi vị: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy (c.56).
Rước lễ không phải là đón nhận một xác chết, nhưng là gặp gỡ Đức Giêsu đã chết và nay đã phục sinh. “Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy” (c.57).
Rước lễ là đón lấy sự sống từ Đấng đang sống, cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.
Hôm nay, Đức Giêsu phục sinh có một lối hiện diện mới mẻ. Ngài không hiện diện dưới dạng một con người, nhưng dưới dạng đồ ăn, đồ uống.
Như thế cả vật chất bất động cũng được nâng lên, cả lao công của con người cũng được thánh hiến. Vật chất trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh. Vật chất có chỗ trong thế giới của Thiên Chúa.
Ước gì thế giới vật chất ở quanh ta cũng nên thánh, nhờ được chia sẻ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bài Tin Mừng hôm nay có 10 từ “sống”. Bí tích Thánh Thể là bí tích ban sự sống. Bạn có thấy thánh lễ đem lại sức sống cho bạn không? Nếu không, tại sao?
Bạn nghĩ gì về thái độ của bạn khi rước lễ? Đó có phải là một cuộc gặp gỡ thân tình không? Bạn có chuẩn bị gì khi rước lễ? Bạn có dành những giây phút lặng lẽ để tâm sự với Chúa sau rước lễ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm, ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân, và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp nơi, để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp, nơi lớp học tình thương lúc chiều tà, nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm, nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ, nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ, nơi các tiệm cho mướn băng video, nơi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ…
Nhưng lạy Chúa, trước hết, xin cho đời con là một ngọn đèn, xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ, mời người ta dừng lại, trầm tư, và gặp được Chúa.
Vào năm 1263, tại nhà thờ thánh Catherine, thành Bolsène nước Ý, có một linh mục trong khi dâng lễ, sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa. Xảy ra là Máu Thánh chảy ướt khăn thánh và khăn bàn thờ. Đức Giáo Hoàng nghe tin và đã rước khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette. Sau đó, xây nhà thờ để thờ kính Máu Chúa nơi Khăn Thánh này. Ngày 8 tháng 9, 1264, Đức Giáo Hoàng Urbanô IV (1262-1268) đã ban hành tự sắc Transiturus, lập lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô và cử hành sau tuần 8 ngày của lễ Chúa Thánh Thần. Thánh Tôma Aquinô đã sáng tác bài Pange Lingua và Adoro Te để tôn kính Mình Máu Thánh Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ muôn loài và quan phòng mọi sự một cách lạ lùng. Mọi thụ tạo trong hoàn vũ đều thay đổi mỗi giây phút. Các loài có sự sống từ thực vật, động vật đến sinh vật đều theo một tiến trình phát triển, có sinh và có tử. Trong mọi loài Chúa đã dựng nên, được phát triển và nẩy nở theo thời gian năm tháng tùy theo mỗi loại. Nơi mọi loài có sự sống, đều phải hấp thụ dưỡng chất qua môi trường chung quanh để sinh tồn. Có nghĩa mọi loài hiện hữu cần có ăn uống, hấp thụ, tiêu hóa, đào thải, phát triển, già nua và tiêu diệt. Ăn uống là nhu cầu cần thiết để sống và sinh tồn. Ngày xưa dân Do-thái lữ hành trong sa mạc trên đường về miền Đất Hứa, Thiên Chúa đã nuôi dân bằng Manna, thịt chim cút và nước nguồn. Chúa đã nuôi dân suốt thời gian: Trong hoang địa, Người đã nuôi các ngươi bằng Manna mà cha ông các ngươi chưa từng biết tới (Đnl 8, 16a). Manna lương thực nuôi dưỡng hằng ngày là hình ảnh của bánh trường sinh.
Khi ra rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Cả bốn phúc âm đều kể lại sự kiện biến hóa 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ. Chúa Giêsu đã cầm bánh và cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn và bẻ ra trao cho các tông đồ và các tông đồ trao cho hơn năm ngàn người ăn no nê và còn dư thừa. Chúa rộng ban một cách dồi dào dư giả. Chúa Giêsu nhận biết các nhu cầu cả tâm linh lẫn thể xác của những người đang đi theo Chúa. Chúa Giêsu đã dậy dỗ họ và đã nuôi dưỡng họ. Nhưng chúng ta biết Chúa đến trần gian không nhằm đáp ứng mọi nhu cầu đòi hỏi về thân xác của con người. Chúa làm phép lạ để minh chứng về sứ mệnh cứu độ của Chúa và để chuẩn bị tinh thần họ đón nhận của ăn cao quí hơn. Đó chính là của ăn nuôi hồn và là thần lương tinh tuyền. Chúa muốn dùng chính thân mình Ngài làm của ăn ban sự sống đời đời.
Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly, trước khi Ngài chịu chết. Như đã hứa, Chúa Giêsu đã chọn bánh miến và rượu nho làm của ăn nuôi hồn. Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể: Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con. Rồi Ngài cầm lấy chén rượu, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống, vì này là chén máu Thầy, máu giao ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được ơn tha tội. Và truyền: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Khi Chúa nói: Đây là Mình Thầy và đây là Máu Thầy, thì bản thể của bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Chúng ta hiểu Chúa Giêsu nói: Đây là Mình Thầy, chứ không phải là dấu chỉ của Mình Thầy.
Chúng ta có thể nhận biết hình dáng bên ngoài của bánh và rượu như mầu sắc, mùi vị, hình thù và kích cỡ. Trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta không thể nhìn thấy Chúa Kitô với con mắt trần. Chúng ta chỉ có thể nhìn với con mắt đức tin. Chúng ta tin rằng Chúa Kitô hiện diện trọn vẹn trong hình bánh rượu, bởi vì Chúa đã sống lại và không còn chết nữa (Rm 6, 9). Với quyền năng vô biên, Chúa đã biến đổi bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Chúng ta học biết chính Chúa đã tạo dựng vũ trụ muôn loài từ hư vô. Chúa hóa bánh nuôi năm ngàn người. Chúa biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana. Chúa cho kẻ chết sống lại. Chúa đã làm rất nhiều phép lạ để chứng minh quyền năng vô biên. Bí tích Thánh Thể là sự lạ vượt trên tầm trí hiểu của con người. Đây là mầu nhiệm của đức tin.
Chúng ta có thực sự tin Chúa Giêsu ngự thật trong Bí tích Thánh Thể không? Chúng ta có tin bánh và rượu thực sự trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô sau khi linh mục đọc công thức truyền phép trong thánh lễ không? Trong cuộc thăm dò ý kiến (Gallup poll) mới đây về thái độ của một số người Công giáo về Bí tích Thánh Thể. Kết qủa làm cho nhiều người Công giáo bị lo lắng xôn sao về một trong những niềm tin căn bản nhất của Giáo Hội. Nói rằng chỉ có 30 phần trăm những người được hỏi ý kiến, tin là họ đã lãnh nhận Mình và Máu Thánh, linh hồn và thần tính của Chúa Giêsu Kitô dưới hình bánh và rượu trong khi rước lễ.
Trải qua truyền thống của hai ngàn năm, lời Kinh Thánh và giáo huấn của Giáo Hội luôn dậy rằng Bí tích Thánh Thể chính là Mình và Máu của Giêsu Kitô, không còn là bánh và rượu bình thường. Phúc âm thánh Gioan chương 6 đã nêu rõ: Bấy giờ, Chúa Giêsu nói với họ: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Người, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi (Ga 6, 53). Chúa Giêsu nhấn mạnh về Thịt và Máu, chứ không phải chỉ là biểu tượng. Vì có một số môn đệ nghe lời Chúa nói về ăn thịt và uống máu Ngài, họ đã không thể chấp nhận và đã bỏ đi. Chúa Giêsu không kêu gọi các ông trở lại để giải thích rằng Ngài chỉ có ý nói một cách biểu trưng. Chúa Giêsu xác tín lời thật: Ai ăn thịt và uống Máu Ta, thì có sự sống đời đời và Ta, ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết (Ga 6, 54).
Thời kỳ Giáo Hội sơ khai đã khắc cốt ghi tâm những lời truyền này một cách rất cẩn thận. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu thành Corintô đã làm rất sáng tỏ: Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa (1Cor 11, 27). Phaolô đã tin nhận bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô thực sự. Giáo Hội luôn luôn dạy rằng qua lời truyền phép của linh mục trong Kinh Nguyện Thánh Thể, bánh và rượu đã được biến đổi bản thể. Mặc dầu hình dạng bề ngoài vẫn là bánh và rượu, nhưng bởi quyền năng của Chúa, bánh rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Làm sao chúng ta có thể hiểu biết điều này? Đòi hỏi niềm tin. Sau khi truyền phép, linh mục nâng Mình Máu Chúa và tuyên xưng: Đây là mầu nhiệm đức tin. Là mầu nhiệm, giống như tình yêu, chúng ta không bao giờ hiểu thấu hoàn toàn. Tất cả mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thần tính của Chúa Giêsu, sự Chết và Sống lại của Chúa Kitô đều là những mầu nhiệm.
Nhận lãnh Bí tích Thánh Thể, chúng được thông hiệp với Chúa và với nhau: Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông hiệp vào Mình Chúa đó sao?(1Cor 10, 16b). Thánh Thể liên kết chúng ta nên một. Thánh Phaolô diễn tả rất rõ: Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh (1Cor 10, 17). Chúa Giêsu đã dùng của ăn cụ thể nuôi thân xác để biến đổi trở thành của ăn nuôi hồn. Chúa hiện diện với đoàn con cái mọi nơi và mọi lúc qua Bí tích Thánh Thể trong Nhà Tạm.
Lạy Chúa, với quyền năng vô biên, Chúa đã nuôi dưỡng chúng con bằng bánh hằng sống. Xin cho chúng con biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để lãnh nhận của ăn thiêng liêng và hồng phúc này. Xin cho chúng con đáng hưởng phần gia nghiệp Chúa hứa ban: Ai ăn thịt và uống Máu Ta, thì có sự sống đời đời.
Sau mỗi trận đấu bóng đá, chúng ta thường thấy các cầu thủ đổi áo cho nhau để làm kỷ niệm, hoặc những người lính trước khi ra chiến trận, hay tặng cho nhau chiếc lược, cây viết, để sau này còn nhớ đến nhau, nhớ lại thời kỳ oanh liệt đã qua. Lãng mạn hơn nữa, là những người vợ, người chồng hoặc hai người yêu nhau, trước khi đi xa cũng thường trao cho nhau những chiếc nhẫn để khi nhớ đến nhau nhìn vào kỷ vật như đang thấy được người yêu, người vợ bên cạnh, cho dù lúc đó họ đi xa, hay đã mất. Cũng thế, trước khi về trời, trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu cũng để lại cho con người một kỷ vật tình yêu, đó là việc Chúa lập phép Thánh Thể để lưu lại cho loài người một bằng chứng tình yêu vĩ đại. Thật vậy, kỷ vật mà Thiên Chúa để lại cho chúng ta không giống như kỷ vật mà con người để lại cho nhau. Kỷ vật của Ngài không phải vàng bạc, cũng chẳng phải tiền của, nhưng kỷ vật mà Đức Giêsu lưu lại cho loài người hết sức đặc biệt, mà từ xưa đến nay tôi chưa thấy ai làm, đó chính là bản thân Ngài, chính Mình Ngài, là một kỷ vật tình yêu huyền nhiệm với hai đặc tính:
Thứ nhất, là kỷ vật được phát xuất từ tình yêu cao thượng
Kỷ vật mà con người trao cho nhau cũng được phát xuất từ tình yêu giữa hai người bạn, hai người thân, hai người yêu hay hai vợ chồng, nói chung tình yêu này được phát xuất giữa con người với con người. Còn kỷ vật mà Đức Giêsu để lại phát xuất từ tình yêu giữa Thiên Chúa với con người, giữa Đấng Tạo Hoá với loài thụ tạo. Vậy có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu khiêm hạ như thế, có ngôn từ nào để diễn tả cho hềt tình yêu đó. Hơn nữa, kỷ vật mà Thiên Chúa trao ban chính bằng xương bằng thịt Ngài, một kỷ vật sống chứ không phải như những kỷ vật chết mà con người trao cho nhau. Thật là một sáng kiến lạ lùng mà chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới nghĩ ra được điều đó, là lấy máu thịt Ngài để làm của ăn, của uống nuôi sống chúng ta
Thứ hai, kỷ vật từ trời và hằng sống
Trước khi trao kỷ vật cho con người thiên Chúa đã chuẩn bị từ ngàn xưa và được manh nha khá rõ khi dân Do Thái đi trong sa mạc, đã được Thiên Chúa cho thứ lương thực Manna “bánh từ trời”. Đó chính là hình ảnh tiên báo về thứ Bánh Hằng Sống Thiên Chúa sẽ ban chính là Mình và Máu Chúa, Bánh Ngài ban chính là Bánh từ trời, như chính Đức Giêsu đã khẳng định: “Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết”. Đúng vậy, bánh mà Chúa ban chính là Chúa Giêsu, Đấng “từ Chúa Cha mà ra” đã trở thành kỷ vật trường tồn giúp cho con người sống khoẻ, sống mạnh, sống đẹp ở đời này, vừa bảo đảm cho sự sống lại và cuộc sống vĩnh cữu vì “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì Tôi sống trong người ấy và Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết và được sống đời đời”.
Như vậy, kỷ vật mà Thiên Chúa để lại cho loài người không phải là do công trạng của con người, mà là do sáng kiến tình yêu của Thiên Chúa, kỷ vật này không phải ở trần gian mà là từ trời xuống, kỷ vật này cũng không như Manna ăn mà vẫn chết, nhưng được sống đời. Do đó, ai biết đến với Chúa nhận lấy kỷ vật mà Ngài trao ban sẽ thuộc về Chúa ngay từ đời này và mai này sẽ thuộc về Ngài mãi mãi. Vì kỷ vật này là dấu chỉ cho đời sống vĩnh cữu đã khởi sự, và là bảo chứng cho sự sống lại vào ngày sau hết. Đó là ý nghĩa mầu nhiệm Mình máu Thánh Chúa mà chúng ta long trọng cử hành hôm nay.
Vì yêu mà con người trao kỷ vật cho nhau, ngày ngày họ quý trọng và nâng niu kỷ vật như chính người yêu đang sống với họ vậy. Còn Bí Tích Thánh Thể, một kỷ vật tình yêu Thiên Chúa, đã ban cho loài người thì sao? Ngài cũng muốn chúng ta nâng niu quý trọng và sống mật thiết với Ngài, nghĩa là đồng hoá với Ngài, nên giống Ngài trong tư tưởng lời nói và hành động. Để làm dược điều đó cần có đức tin và lòng khao khát, vì thiếu đức tin mà trong bài Tin Mừng hôm nay người Do Thái trở nên bỡ ngỡ không thể chấp nhận điều Đức Giêsu nói, có lẽ vì họ hiểu theo nghĩa qua vật chất, nên không còn thấy cái thiêng liêng nữa. Đúng là: “khi người ta tham lam những cái phù vân, người ta sẽ trở nên lạnh nhạt với những cái vĩnh cữu” hay “quá chăm chú về phần xác sẽ nhếch nhác về phần hồn”.
Vậy, để sống tốt với kỷ vật mà Thiên Chúa để lại, chúng ta cần có đức tin và lòng khao khát được thể hiện qua việc năng tham dự Thánh Lễ và Rước Lễ, vì “phúc cho ai được mời đến dự tiệc chiên Thiên Chúa” tất cả chúng ta đều được mời đến dự tiệc Thánh Thể, thế nhưng có khá đông người tham dự Thánh Lễ mà không rước lễ, có khác chi được mời đến dự tiệc mà chẳng ăn uống gì, chỉ ngồi đó “nhìn miệng” người khác ăn rồi ra về sao. Về việc đi lễ, cha mẹ càng phải trở nên tấm gương cho con mình hơn vì “cha nào con nấy”, chúng ta không thể làm biếng mà con mình trở nên siêng năng được. Như câu truyện Thầy Thỏ mở lớp dạy học…. Vì thế, cha mẹ phải trở nên gương sáng thì con mình sẽ làm theo.
Ngoài việc đi lễ, rươc lễ còn phải đi tham dự tham lễ cách tích cực, thưa kinh ca hát với cộng đoàn có tâm tình và lòng sốt mến, chứ không phải kiểu đi lễ cho có, đi cho khỏi mắc tội, hoặc ngồi dửng dưng thờ ơ kiểu “hồn con đây mà xác con đâu”, hay kiểu:
“khen ai khéo đúc chuông chì
dáng thì có dáng, đánh thì không kêu”
Chỉ có bề ngoài mà không có bên trong. Nếu chỉ tham dự thánh lễ như thế thì chúng ta quá dửng dưng với kỷ vật mà Thiên Chúa đã ban, nghĩa là chúng ta đang dửng dưng với Chúa, vì kỷ vật là chính Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa mà chúng ta đang cử hành trong thánh lễ hôm nay.
Vậy, mỗi người hãy nhìn lại xem mình đến với Chúa bằng tâm tình nào? Đang đi xem một vật triển lãm chăng? Hay đang đi thư giãn vì một tuần làm việc vất vả? Không! Như vậy thì thật sai lầm, vì Chúa để lại kỷ vật cho con người không phải để nhìn, để xem, mà là để sống, sống với Chúa, sống cách chân tình, không những bằng thể xác, tâm hồn, con tim mà bằng cả con người biết kết hiệp mật thiết với Chúa và trở thành một với Ngài như thánh Phaolô đã từng thốt lên: “Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Đức kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Amen.
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Cả các Kitô hữu cũng ngỡ ngàng trước bí tích Thánh Thể. Ăn thịt và uống máu người mình yêu là điều khủng khiếp chẳng ai dám nghĩ tới. Nhưng Đức Giêsu lại muốn nuôi cả nhân loại bằng Thịt và Máu Ngài. Và thực sự Ngài đã nuôi ta bằng cái chết thập giá – ở đó Ngài đã hy sinh Máu Thịt mình.
Đúng hơn, Ngài nuôi chúng ta bằng sự sống của Ngài: sự sống được trao đi qua cái chết tự nguyện, và sự sống được lấy lại qua phục sinh vinh quang.
Đức Giêsu ban cho ta Tấm Bánh (c.51). Ngài còn tự nhận mình là Tấm Bánh (cc.48.51): Tấm Bánh có sự sống và Tấm Bánh ban sự sống. Tôi là Tấm Bánh: đó là định nghĩa của Đức Giêsu về mình.
Định nghĩa này có làm ta ngạc nhiên không? Bánh là cái gì ăn được và đem lại sự sống. Bánh không sống cho mình, nhưng cho người khác.
Chấp nhận là bánh có nghĩa là chấp nhận mất mình, mà chỉ khi mất mình như thế, bánh mới thật là bánh, mình mới thật là mình. Thật ra bánh vẫn hiện diện và nên một với người ăn. Đức Giêsu là Tấm Bánh đặc biệt. Khi tôi ăn, Ngài thành tôi và biến tôi thành Ngài. Một sự ở lại hai chiều, một sự hiệp thông sâu thẳm.
“Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (c.56).
Rước lễ là đón lấy dòng sự sống, chấp nhận sống nhờ. Đức Giêsu sống nhờ Cha và chúng ta sống nhờ Đức Giêsu (c.57). Như cành nho sống nhờ thân cây nho, chúng ta cũng sống nhờ, nghĩa là sống trong và sống cho Chúa.
Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh đã từng có thái độ nhìn và thờ lạy Thánh Thể hơn là cầm lấy mà ăn. Động từ ăn được nhắc đến 8 lần trong bài Tin Mừng này, như một lời mời gọi tha thiết của Đức Giêsu.
Ngày nay, người ta rước lễ nhiều hơn trước. Tiếc thay lắm khi cuộc gặp gỡ này khá vội vã, thiếu chuẩn bị và cũng thiếu đối thoại thân tình.
Tôi lên rước lễ chỉ vì mọi người trong hàng ghế đã lên. Phút thinh lặng sau rước lễ cũng bị cắt ngắn. Tôi phải về ngay vì phải lấy xe, vì nhà thờ đóng cửa… Chính vì thế rước lễ chẳng gây được âm vang nào nơi tôi. Nó trở thành một thói quen, một nghi thức thuần tuý.
Tôi lên ăn một vật thánh, thay vì đón một người.
Ít khi có vị khách quý nào bị thường xuyên tiếp đón lạnh nhạt như thế! Rốt cuộc chẳng có cuộc gặp gỡ nào xảy ra, nên tôi vẫn cứ là tôi như trước.
Hãy dự lễ như người đi dự tiệc Lời Chúa, Mình Chúa.
Chỉ ai biết ăn, biết thưởng thức và nghiền ngẫm, người ấy mới gặp được sự sống và gặp được Giêsu.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa đến với chúng con dưới dạng tấm bánh bình thường.
Tấm bánh chẳng nói gì, chỉ biết lặng lẽ chờ đợi.
Tấm bánh hiện diện là để phục vụ cho con người.
Tấm bánh quá đỗi mong manh, nhỏ bé, có thể bị ẩm mốc làm hư hoại,
và tan rất mau sau khi được nhận lãnh.
Lạy Chúa Giêsu,
có cái gì tương tự giữa phận làm người và phận làm bánh của Chúa.
Xin cho chúng con biết cách đến với con người hôm nay:
đơn sơ, khiêm hạ, không chút vinh quang hay quyền lực.
Nhờ ăn tấm bánh của Chúa,
chúng con cũng trở nên tấm bánh ngon,
được bẻ ra để đáp ứng khẩu vị của nhiều người.
Ước gì chúng con dám rước Chúa đi vào mọi vùng mờ tối của lòng mình,
để sự hiện diện của Chúa trong con được lớn lên.
Và ước gì chúng con trở thành những Nhà Tạm di động,
đem Chúa đến cho đồng bào và quê hương chúng con. Amen.
Mỗi khi chiêm ngắm Thánh Thể Chúa, tôi không ngừng ngỡ ngàng trước tình yêu của Người. Tình yêu ấy vô cùng cao cả nhưng lại rất đỗi đơn sơ. Đơn sơ như hình ảnh tấm bánh.
Tấm bánh, tình yêu gần gũi.
Sao Chúa không hoá thân làm viên kim cương quý giá mà lại làm một tấm bánh? Tấm bánh bình thường, quen thuộc quá. Từ khi kinh tế phát triển, bánh càng ngày càng xuống giá, bớt được quý trọng.
Tuy bình thường, nhưng bánh vẫn là lương thực cần thiết cho con người. Cũng như khí trời, như nước, bánh đi vào sinh hoạt hằng ngày của con người. Bình thường lắm nhưng không có không được.
Chúa trở thành tấm bánh để gần gũi với loài người, để đi vào sinh hoạt đời thường của con người. Con người có thể đến với Chúa dễ dàng, không e ngại, sợ sệt. Chỉ là một tấm bánh vừa tầm tay mọi người. Chỉ là một tấm bánh sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của con người. Thật khiêm nhường mà đầy ý nhị.
Thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu xa vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến.
Tấm bánh, tình yêu tự hiến.
Bánh sẽ chẳng còn ý nghĩa nếu chỉ để trưng bày cho người ta chiêm ngắm. Bánh chỉ có ý nghĩa khi được sử dụng. Được sử dụng là bị bẻ ra, bị nghiền nát, bị tan biến, bị tiêu hoá. Vì thế, trở thành tấm bánh là chấp nhận chịu đau đớn, chịu huỷ hoại. Đây không phải là một chấp nhận bất đắc dĩ, vì tấm bánh bao giờ cũng mời mọc tiêu thụ.
Khi xưng mình là bánh bởi trời, Chúa Giêsu bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa chịu chết cho ta được sống. Chúa chịu huỷ hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa bé nhỏ đi cho ta được lớn mạnh.
Tấm bánh bị tiêu hoá để thực hiện một tình yêu hiệp thông.
Tấm bánh, tình yêu hiệp thông.
Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp thông. Người không ngừng mời gọi con người đến sống thân mật với Người. Người tự nhận mình là cây nho và mời gọi mọi người hãy trở thành cành nho gắn kết với cây nho.
Hôm nay, Người còn chủ động trở thành tấm bánh để hoà vào từng giòng máu, từng thớ thịt của con người trong một kết hiệp sâu xa. Người tự tiêu huỷ mình để trở thành thịt máu của con người. Không còn sự kết hợp nào sâu xa khăng khít hơn nữa.
Tấm bánh gợi lên một bàn tiệc tại đó anh em quây quần trong tình thương, chia sẻ lương thực và chia sẻ tâm tình. Không còn gì đẹp hơn. Chính Chúa Kitô tự hiến mình để quy tụ chúng ta. Chính Chúa Kitô bị bẻ ra để cho tình huynh đệ nhân loại được mặn mà thắm thiết.
Với những gợi ý như thế, Chúa hướng dẫn tôi trong tình yêu mến, trong cử hành và trong cách sống Bí tích Thánh Thể.
Yêu mến Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là trở nên hiền lành khiêm nhường, sống gần gũi với những người nhỏ bé nghèo hèn?
Cử hành Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là chấp nhận hao mòn, quên mình, thiệt thòi vì Chúa và vì anh em?
Sống Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là xây dựng tình đoàn kết, tình huynh đệ với những người sống quanh ta, trong mọi môi trường cuộc sống?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Con chúc tụng ngợi khen Chúa muôn đời. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Khi dâng lễ, tấm bánh có gợi lên cho bạn điều gì về tình yêu của Đức Giêsu không?
2) Khi bạn rước lễ, bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa không?
3) Phép Thánh Thể thôi thúc bạn làm gì?
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc, con người ở mọi nơi mọi thời vẫn hằng khao khát sống sống trường sinh. Thế nên, người ta ra công tìm mọi cách để kéo dài sự sống bao lâu có thể. Một trong những thứ đó là “Bánh” mà phụng vụ lễ Mình Máu Thánh Chúa năm A đề cập đến: bánh vật chất, bánh Giêsu và bánh Thánh Thể.
Manna của ăn trong sa mạc
Trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân mà Ngài đã cưu mang và dẫn ra khỏi Ai cập. Trên hành trình về Đất Hứa để chứng tỏ tình thương và lòng thành tín của Chúa đối với dân giữa xa mạc khô cằn, Ngài đã ban cho họ Manna, theo Môsê, “Đó là bánh Thiên Chúa ban… làm của ăn” (Xh 16, 16), không chỉ làm lương thực đi đường mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương vô cùng của Chúa.
Thật đáng ngưỡng mộ, Thiên Chúa đã làm mưa Manna từ trời xuống mỗi ngày cho cha ông chúng họ ăn no thỏa thích. Đó là lý do tại sao người ta nói: “Bánh Thiên Thần phàm nhân được hưởng” (Tv 77, 25). Nhưng cho dù là Manna từ trời xuống nuôi dân Israel trong sa mạc, hay bánh Thiên Thần mang đến cho Êlia nuôi sống người ta 40 ngày cùng lắm là 40 năm đi nữa, thì những thứ bánh đó cũng chỉ nuôi sống con người cách rất tạm bợ, kẻ ăn những thứ bánh ấy vẫn đói, vẫn khát và vẫn phải chết. Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta bánh bởi trời xuống là chính Chúa, Người đến làm no thỏa cái đói tinh thần con người, ai ăn chính Người sẽ khỏi đói muôn đời, và nhất là khỏi chết đời đời: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51).
Bánh Giêsu
Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống, là hồng ân bởi trời, có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi. Người là lương thực ban sự sống đời đời, bởi vì Người là Con Một Thiên Chúa, ở cung lòng Thiên Chúa Cha, đến để trao ban cho con người sự sống tràn đầy, dẫn con người vào trong chính sự sống của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã thất bại, gặp phải điều cấm kỵ trong dân Israel khi tuyên bố: “Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51 ). Người dẫn chứng: “Cha ông các ngươi đã ăn Manna trong sa mạc và đã chết”, khiến họ tranh luận với nhau: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được? ” (Ga 6, 52). Họ không vượt qua được nguồn gốc trần thế của Chúa Giêsu, vì thế họ khước từ tiếp nhận Chúa Giêsu như Lời nhập thể của Thiên Chúa. Và như một hệ quả, họ đã mang án tử để đi vào cõi chết vì không tin. Họ còn quá xa bánh bởi trời và không cảm thấy đói bánh ấy.
Thế giới ngày nay có rất nhiều người đói và cần bánh. Có người cam chịu chết đói, chết vì cô đơn, vì thiếu hy vọng, nhưng cũng có nhiều người cần đến Chúa Giêsu. Có ba cái đói và ba phương thế để chuyển hóa ba loại bánh: bánh vật chất, bánh Giêsu và bánh Thánh Thể.
Bánh Giêsu là bánh quan trọng nhất. Nếu không có Chúa Giêsu, chúng ta không thể sống như lời Chúa nói “Không có Thầy, anh em không thể làm gì được” (Ga 15,5). Tuy nhiên, Chúa muốn nuôi dưỡng những người đói khát. Có lẽ Chúa nghĩ rằng đó là một cách tốt để mạc khải và biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa là Đấng Cứu Thế. Nhưng Chúa cũng muốn trở thành bánh cho chúng ta, để nuôi dưỡng chúng ta trong hành trình dương thế, ngõ hầu chúng ta được ở lại trong tình yêu của Chúa mà được sống đời đời. Người khuyên chúng ta phải tìm kiếm và sống trong Người. Khi nuôi dưỡng những kẻ đói khát, Chúa chỉ cho chúng ta tình yêu tự hiến của Chúa trong Bí tích Thánh Thể: “Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời” (Ga 6,58). Theo thánh Augustinô thì “khi chúng ta ăn Chúa Kitô, là chúng ta ăn sự sống (…), thật vậy, giả như, anh em tự tách mình ra không ăn thịt và uống máu Chúa nữa, anh em sẽ không có sự sống”.
Muốn sống đời đời, hãy ăn Bánh Giêsu
Xưa kia Chúa Giêsu mời gọi những người Do thái, giờ đây Chúa bảo chúng ta hãy đến mà ăn cho no uống cho thỏa. Nếu chúng ta khao khát sự sống trường sinh, thì đây là cơ hội tốt để có được mầm sống ấy. Hãy đến gặp Chúa Giêsu và đón nhận Người, bởi chính Người: “Là Bánh Hằng Sống” (Ga 6,51).
Thật hạnh phúc khi được mời gọi ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu để được sống đời đời: “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6, 54) và hơn thế nữa còn được Người đến cắm lều ngay nơi lòng kẻ ấy: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Ga 6, 56). Chúa Giêsu là bánh bởi trời xuống làm no thỏa cái đói, cái khát, nhất là cái ước vọng lớn nhất của con người mọi nơi mọi thời là sự sống đời đời.
Thánh Thể thần lương vượt thế trần
Nếu như trong sa mạc, Manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, lương thực cứu đói tạm thời, nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời hưởng phúc vinh quang.
Trong sa mạc, manna chứng tỏ Chúa không bỏ dân của Chúa, ngày nay Chúa ở giữa Hội Thánh và trong thế giới bằng chính mình trong bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích ThánhThể, người cô đơn tìm được nguồn an ủi ; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ ; người đau yếu tìm được sự chữa lành ; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần ; người hấp hối tìm được sự đỡ nâng ; người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm… Và còn một ý nghĩa rất quan trọng, manna ngày xưa của ăn trong sa mạc, Thánh Thể thần lương vượt thế trần.
Lạy Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, xin cho con biết ra đi tìm kiếm của ăn không hư nát là chính Chúa và đón rước Chúa hầu được sống muôn đời. Amen.
Này là Mình Thầy… Này là Máu Thầy hiến tế vì anh em (Ga 6, 51-59)
Theo truyền thống từ thế kỷ XIII, vào ngày thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, tức 60 ngày sau lễ Phục sinh, Giáo hội cử hành lễ kính Mình Máu Thánh Chúa. Lễ này do Đức Ubanô IV thiết lập ngày 11 tháng 8 năm 1264 còn gọi là lễ của Chúa, lễ Mình Máu Thánh Chúa. Vì hôm nay, Giáo hội không chỉ cử hành lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, Festum Corporis Christi, mà còn rước kiệu trọng thể Mình Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi trên các nẻo đường, vừa đi vừa hát bài: “Chúa nuôi dân bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, Người cho hưởng thỏa thuê” (Ca nhập lễ – lời của thánh Tôma Aquinô). Để loan truyền công khai rằng: Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể và Hy tế của Chúa Kitô là ơn cứu độ cho toàn thế giới.
Cử hành Thánh Thể
Giáo hội công khai cách long trọng Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, mầu nhiệm được thiết lập trong bữa Tiệc Ly và hằng năm được tưởng nhớ vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, nay được biểu lộ cho hết mọi người, bởi đức tin sốt mến và lòng sùng kính của cộng đoàn Giáo hội.
Trên bàn thờ Chúa, chúng ta đã thấy tận mắt Bánh và Rượu được truyền phép. Nhưng cần phải được soi sáng, chúng ta mới nhận biết và tin rằng Bánh chính là Mình Chúa Kitô và Rượu là Máu Chúa Kitô. Thật không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết niềm tin của chúng ta: Làm sao Bánh lại có thể là Mình Chúa Kitô và Rượu lại là Máu Chúa Kitô được?
Chúng ta tin Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Mình Thánh. Bánh thánh trở thành Bí tích cần thiết để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, và dẫn dắt chúng ta trên đường về tới thiên đàng! Trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Người ở lại với chúng ta thế nào? Bí tích Thánh Thể là kho tàng cao quí thực hiện lời hứa trên.
Chúa Giêsu hiện diện thật sự giữa chúng ta. Giáo hội quả quyết rằng: Sự hiện diện thật của Người trong Bí tích Thánh Thể là chân lý cơ bản của Đức tin Công giáo. Chúng ta phải tôn thờ, Tấm Bánh truyền phép được đặt trước mặt chúng ta nói về quyền năng vô cùng của tình yêu được bộc lộ trên Thánh Giá vinh hiển. Bánh Thánh nói cho chúng ta về sự hạ mình khó tin của Đấng đã biến mình, hiện diện khiêm tốn dưới hình bánh và hình rượu.
Thánh Tôma Aquinô cho chúng ta biết: Con độc nhất của Thiên Chúa, muốn cho chúng ta thông phần vào thiên tính của Chúa, đã làm người. Để cứu chuộc con người, Người đã đổ máu mình ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa Cha trên bàn thờ Thập Giá.
Đây không phải là máu chiên, bò, nhưng là Máu Châu Báu của Chúa Kitô, Thiên Chúa thật. Bánh và rượu trở nên Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Vì thế, Người được các tín hữu ăn: “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống” (Ga 6,55-56). Từ phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông trong hoang địa. Chúa Giêsu đã chính thức hứa ban cho chúng ta của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta (Lc 9, 11b-17).
Bí tích Thánh Thể là Tình Yêu tột đỉnh của Người đối với chúng ta: “Trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn…”. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén và phán: “Các con hãy cầm lấy mà uống. Chén này là Tân Ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” (1 Cr 11, 23-26). Thật là niềm an ủi cho những người đã buồn vì sự vắng mặt của Chúa” (Bài giảng của Thánh Thomas Aquinas, Booklet 57).
Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Anh em hãy để tâm suy nghĩ về vinh dự khi anh em được cất nhắc lên đồng bàn tham dự tiệc thánh. Điều mà các thiên thần run sợ khi chiêm ngắm Ánh Huy Hoàng chói lọi, Đức Kitô lại ban cho chúng ta làm của ăn, bằng mọi cách, Người lấy chính máu mình nuôi dưỡng chúng ta, Người kết hợp chúng ta với Người, để chúng ta được hợp cùng Đức Kitô và hiệp nhất cùng nhau như một thân mình và một xác vậy”. (Thánh Gioan Kim Khẩu)
Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh về lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với chúng ta: “Chúa Kitô tháp nhập vào mỗi tín hữu nhờ Bí tích này. Những kẻ Người đã sinh ra thì Người nuôi dưỡng bằng chính bản thân Ngài, qua Bí tích Thánh Thể, Người làm cho ta vững tin rằng Người đã mang lấy chính xác thân của ta”. Người tan biến trong chúng ta, “làm một với chúng ta, làm cho chúng ta trở nên thân mình của Ngài” (Thánh Gioan Kim Khẩu).
Việc biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, là nguyên tắc cho việc thần thiêng hoá tạo vật. Vì thế, lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô có đặc điểm hết sức riêng biệt là rước kiệu Mình Thánh Chúa.
Rước kiệu Mình Thánh Chúa
Khi kiệu Mình Thánh Chúa và đưa Chúa ra khỏi nhà thờ. Giáo Hội tuyên xưng Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, mang Chúa vào trong đời ta, với mong ước nhà ta là nhà dành cho Chúa, đường đời ta là đường của Chúa Giêsu. Xin Chúa Giêsu luôn hiện diện trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta!
Khi đặt Mình Thánh vào Mặt nhật, dưới dạng mặt trời, ngụ ý rằng Chúa Giêsu là “Mặt Trời”: Ngài là ánh sáng của lòng ta (đó là ý nghĩa của từ “mặt nhật”)
Bình khói hương thơm nghi ngút vừa đi vừa xông, tượng trưng cho lời nguyện cầu của chúng ta tỏa bay lên trước tòa Chúa.
Các em bé rắc trên đường nhắc lại cuộc Rước Chúa Giêsu vào Thành Thánh, và những lời tụng ca của các em rất làm Chúa hài lòng.
Qua cuộc rước kiệu, chúng ta thấy Chúa và chắc chắn Chúa thấy tất cả những khổ đau của những bệnh nhân; những nỗi cô đơn của những người trẻ và của những người già; những cám dỗ, những nỗi lo lắng trong cuộc sống của chúng ta. Cuộc rước kiệu này còn có ý nghĩa là xin Chúa chúc lành cho chúng ta và cho toàn thế giới.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự trong phép Mình Thánh, là Bánh đích thực nuôi dưỡng chúng con trên mặt đất này, xin hướng dẫn chúng con đến bàn tiệc trên Trời, trong vinh quang các thánh của Chúa, có Mẹ Maria là Mẹ chúng con.
Lạy Mẹ Maria, Trinh Nữ Chí Thánh, Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng đầu thai Vô Nhiễm, từ hai ngàn năm nay, đã chấp nhận, hiến dâng mọi sự, hiến dâng thân xác Mẹ hầu rước lấy thân xác Đấng Sáng Tạo, xin giúp chúng con chiêm ngưỡng, xin giúp chúng con thờ lạy và yêu mến, Đấng đã yêu thương chúng con dường ấy, hầu chúng con được sống đời đời với Người. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có những hình ảnh, những vật đã trở thành biểu tượng của tình yêu. Nó giúp cho người đang yêu bày tỏ tình yêu một cách lãng mạn mà không cần nói bằng lời. Với một trái tim đỏ thắm hoặc hình trái tim bị mũi tên đâm xuyên qua đều là biểu tượng cho tình yêu. Trái tim đỏ thắm nói: tôi xin dâng tặng cả trái tim này! Một trái tim có mũi tên đâm qua như muốn nói: Tôi đã yêu đơn phương! Hai trái tim có mũi tên xuyên qua diễn tả: Chúng mình đã gắn kết với nhau bởi tình yêu!
Hoa hồng cũng là biểu tượng tình yêu. Theo truyền thuyết kể rằng: có một thiếu nữ tên Rodanthe. Nàng đẹp kiều diễm nên rất nhiều chàng trai theo đuổi. Thấy nàng bị dồn ép quá mức, nữ thần săn bắn Diana biến nàng thành một bông hồng rực rỡ và ngát hương, biến những chàng trai yêu cô thành những gai nhọn tua tủa. Một truyền thuyết khác lại cho rằng những bông hoa hồng này sinh ra từ những giọt rượu tiên mà Thần Tình Yêu Cupid đã vô tình đánh rớt xuống mặt đất. Tình yêu đẹp, tình yêu nồng nàn nhưng cũng đầy đau khổ…
Bí tích Thánh Thể cũng là biểu tượng tình yêu mà chính Chúa Giêsu đã thiết lập. Ngài không dùng những hình tượng bên ngoài nên dấu chỉ tình yêu mà Ngài dùng chính Thân Thể Ngài trở thành tình yêu tự hiến cho con người. Thật cụ thể. Thật gần gũi. Qua tấm bánh Chúa ở lại với con người và hiến dâng thân mình nên thần lương nuôi sống cho con người. Thánh Thể Ngài thực sự trở thành một biểu tượng tình yêu tự hiến đến tan biến cho người mình yêu.
Quả thực, không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người tự hiến vì người mình yêu. Tình yêu của Chúa Giêsu không dừng lại ở việc chết cho người mình yêu mà còn hiến ban chính Thánh Thể Ngài nên nguồn sức sống cho con người. Vì yêu con người nên Ngài đã nhỏ những giọt rượu tiên ân phúc xuống cho dương gian. Từ đây “Ai ăn và uống máu Ngài thì sẽ có sự sống đời đời”. Từ đây qua bí tích Thánh Thể Ngài sẽ ở cùng con người mọi ngày cho đến tận thế.
Điều tâm huyết mà Chúa muốn nơi chúng ta thực thi đó chính là “hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Khi Chúa cầm bánh và rượu dâng lên và trao ban cho các môn đệ Ngài đều tha thiết mời gọi: “hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Đó là việc của hiến tế, việc của yêu thương đến trao ban chính máu thịt mình cho anh em. Chúa muốn người môn sinh của Chúa lập lại hằng ngày trên mọi nẻo đường dương gian hành vi của yêu thương và tự hiến cho người mình yêu.
“Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” chính là hãy bẻ đời mình ra như tấm bánh đem lại niềm vui, sức sống, hạnh phúc cho tha nhân. Có lẽ ai cũng đã từng nâng niu chiếc bánh. Ai cũng từng vui sướng khi mẹ trao cho tấm bánh. Tấm bánh nào cũng có những giá trị riêng. Tấm bánh nào cũng mang lại niềm vui cho người được nhận vì tấm bánh tự bản thân là tự hiến cho con người. Do đó, cuộc đời người tín hữu cũng được mời gọi hãy là tấm bánh mang lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Cuộc đời người tín hữu cũng trở nên tự hiến để yêu thương và phục vụ con người. Không có yêu thương phục vụ thì đời người tín hữu không có giá trị như tấm bánh đã hết date hay đã không còn sử dụng làm của ăn cho con người.
Có lẽ chúng ta còn nhớ tới vụ động đất tại Nhật Bản vào tháng 3 năm 2011 với một câu chuyện thật cảm động về tình mẹ. Chuyện kể rằng: Sau khi động đất qua đi, lực lượng cứu hộ bắt đầu các hoạt động tìm kiếm cứu nạn. Và khi họ tiếp cận đống đổ nát từ ngôi nhà của một phụ nữ trẻ, họ thấy thi thể của cô qua các vết nứt. Nhưng tư thế của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện; cơ thể nghiêng về phía trước, và hai tay cô đang đỡ lấy một vật gì đó. Ngôi nhà sập lên lưng và đầu cô.
Đội trưởng đội cứu hộ đã gặp rất nhiều khó khăn khi anh luồn tay mình qua một khe hẹp trên tường để với tới thi thể nạn nhân. Anh hy vọng rằng, người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Thế nhưng cơ thể lạnh và cứng đờ cho thấy cô đã chết.
Cả đội rời đi và tiếp tục cuộc tìm kiếm ở tòa nhà đổ sập bên cạnh. Không hiểu sao, viên đội trưởng cảm thấy như bị một lực hút kéo trở lại ngôi nhà của người phụ nữ. Một lần nữa, anh quỳ xuống và luồn tay qua khe hẹp để tìm kiếm ở khoảng không nhỏ bên dưới xác chết. Bỗng nhiên, anh hét lên với vẻ đầy ngạc nhiên: “Một đứa bé! Có một đứa bé!”.
Cả đội đã cùng nhau làm việc; họ cẩn thận dỡ bỏ những cái cọc trong đống đổ nát xung quanh người phụ nữ. Có một cậu bé 3 tháng tuổi được bọc trong một chiếc chăn hoa bên dưới thi thể của người mẹ. Rõ ràng, người phụ nữ đã hy sinh để cứu con mình. Khi ngôi nhà sập, cô đã lấy thân mình làm tấm chắn bảo vệ con trai. Cậu bé vẫn đang ngủ một cách yên bình khi đội cứu hộ nhấc em lên.
Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khỏe của cậu bé. Sau khi mở tấm chăn, ông nhìn thấy một điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn trên màn hình, viết: “Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con”.
Một tin nhắn thật cảm động. Cảm động vì nó nói lên một tình yêu hy sinh cao đẹp mà người mẹ dành cho con. Qua bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu cũng để lại cho chúng ta một tin nhắn: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. Chúa Giêsu không chỉ muốn chúng ta hãy nhớ rằng Ngài rất yêu thương chúng ta mà Ngài còn mời gọi chúng ta hãy tiếp tục thi thố tình yêu ấy đến cho anh em.
Ước gì là người ky-tô hữu chúng ta hãy làm cho tình yêu của Chúa được hiện tại hóa qua đời sống yêu thương phục vụ của mình. Ước gì từng lời nói, từng việc làm của chúng ta cũng để lại một tin nhắn cho anh em chính là tin nhắn của tình yêu tự hiến cho anh em. Amen.
Theo giáo lý của Hội thánh “Bản chất của Bí tích Thánh Thể không chỉ là bữa ăn chung, mà còn và trước tiên là hiện tại hóa hy lễ thập giá. Thiếu giá trị hy tế, Mầu Nhiệm Thánh Thể không có ý nghĩa và chỉ có giá trị như là một buổi gặp gỡ giao hảo và huynh đệ” (BT cứu độ).
Vì thế, hôm nay chúng ta cùng nhau khơi gợi lại ý nghĩa và những giá trị thiêng liêng của thánh lễ để qua đó chúng ta sẽ tham dự thánh lễ một cách tích cực và sốt sắng hơn. Vậy, thánh lễ là gì?
Thánh lễ là diễn lại cuộc hy tế của Chúa Giêsu ngày xưa trên thập giá, là bàn tiệc Nước Trời mà chúng ta được mời gọi tham dự; là thông phần khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, vì thế, khi chúng ta tham dự thánh lễ, là chúng ta đóng vai trò của:
– Đức Trinh Nữ Maria: Mẹ dâng lên Thiên Chúa Cha lời xin vâng trọn vẹn qua sự hiệp thông với Con yêu qúy để cứu độ trần gian. Chính Mẹ đã kết hợp đau khổ từ trái tim của mình với đau khổ máu đổ tuôn rơi của Con để mang lại mùa xuân cứu rỗi cho trần gian.
Cũng vậy, khi chúng ta đi dâng thánh lễ, là chúng ta đem những lao công vất vả trong ngày của mình, những khổ đau trong tâm hồn, đem những tâm tình vui tươi, lạc quan của mình, hợp với của lễ trên bàn thờ là Đức Kitô dâng lên Thiên Chúa Cha, để nhờ Đức Kitô, xin Ngài ban ơn cho chúng ta, tha tội cho chúng ta và xin ơn cứu độ cho toàn thể thế giới. Một sự hy sinh vất vả của một đời lao nhọc để đem lại nguồn sống và hạnh phúc cho mái ấm gia đình, là một lễ vật tuy không đổ máu nhưng cô quặng trong những giọt mồ hôi, những giọt nước mắt chảy ngược vào tim. Đó là một hiến tế mà bổn phận đòi hỏi chúng ta phải chu tòan. Đó là lễ vật mà hằng ngày chúng ta có thể thưa lên với Chúa: “Xin Chúa nhận lễ vật bởi tay cha để tôn vinh danh Chúa và sinh ơn ích cho toàn thể Hội thánh Người.
– Chúng ta cũng đóng vai trò của thánh Gioan Tông đo, đã gan dạ đứng kề bên thập giá như một chứng nhân cho cái chết hiến tế của Thầy Chí Thánh Giêsu. Gioan không chạy trốn như bao môn đệ khác. Gioan không bàng quang như bao người khách qua đường, nhưng ông đứng dưới chân thập giá như muốn nói lên tấm lòng sẵn lòng cùng Thầy trải qua cuộc thương khó đau thương.
Cuộc sống của chúng ta luôn có thánh giá, thánh giá trong bổn phận, trong trách nhiệm, trong những lao nhọc của công ăn việc làm, trong những ưu tư lo lắng cho con cái, cho hạnh phúc gia đình. Đó là thánh giá mà Chúa đang cần chúng ta ôm lấy vào cuộc đời mình. Không trốn tránh thập giá, nghĩa là không lẩn trốn đau khổ, lẩn trốn trách nhiệm. Cuộc đời này ai cũng muốn an nhàn nhưng để được hưởng những tháng ngày an nhàn thì cần phải có những ngày tháng lao động cực khổ. Có gieo – có gặt. Có trồng mới có ngày hưởng nếm những thành quả của mình.
– Cuối cùng, khi tham dự thánh lễ là chúng ta thông hiệp vào Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Chúng ta được kết hợp nên một trong Chúa Kitô. Chúa Kitô là Đầu Hội Thánh đã dâng chính mình làm tế lễ, còn chúng ta là những chi thể trong nhiệm thể của Người, chúng ta cùng ăn một bánh, cùng uống một chén thánh là chính Mình Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta có cùng chịu hiến tế chính mình như Đức Kitô là Đầu của Hội thánh hay không? Liệu rằng, chúng ta có thể đứng nhìn Chúa chịu sát tế, còn mình không chịu làm gì cả, hay chỉ đứng đó như những khách bàng quang, đứng bên vệ đường nhìn xem máu Chiên Con vô tội đang đổ ra vì loài người, mà lòng mình không cảm thấy một chút hổ thẹn hay ái ngại lương tâm? Chúa Kitô vẫn đang đổ máu vì tội lỗi loài người. Giáo hội vẫn đang hiệp thông với đau khổ của Con Chiên Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ đóng góp phần vụ gì trong việc đền tội cho thế giới và cứu độ trần gian?
Chúng ta biết rằng, trên bàn thờ tế lễ Giáo hội buộc phải có tượng Chúa chịu nạn, chính là để nhắc nhở chúng ta phải hy sinh, phải dâng hiến mình như Chúa Giêsu đã hiến dâng. Phải đóng góp phần chúng ta như Mẹ Maria đã đóng góp chính nỗi đau khổ xé nát lòng mình, hiệp thông với đau khổ của Chúa Giêsu để dâng lên Chúa Cha. Phải đóng góp phần chúng ta như Gioan đứng sát cây thập giá để nói lên tình yêu thuỷ chung sắt son với Thầy, cho dù phải cùng Thầy trải qua những cam go của đỉnh đồi Calve.
Thiết tưởng để thánh lễ thực sự mưu ích cho phần rỗi chúng ta và cho toàn thể nhân loại. Mỗi người chúng ta cũng phải biết gom góp hy sinh mỗi ngày như những hạt lúa bị nghiền nát, như trái nho ép thành chén rượu mới có của lễ để dâng trên bàn thờ. Đó chẳng phải là mồ hôi nước mắt trong lao công con người làm nên hay sao? Đó chẳng phải là những hy sinh, những chén đắng trong cuộc đời mà mỗi người chúng ta đang chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa hay sao?
Lạy Chúa, xin nhận lấy hạt lúa chấp nhận phân huỷ, mục nát là cuộc đời chúng con. Dưới cối xay của bổn phận trong bậc sống của mình, của những thập giá đắng cay trong những thất bại, bị bỏ rơi, bị hiểu lầm,… Xin cho con được nghiền nát cho Chúa, cho dẫu tâm hồn và thân xác của con có tan nát nhưng xin cho ngọn lửa tình yêu mến làm con trở nên một tấm bánh tinh tuyền hiến dâng cho Thiên Chúa. Amen.
(Trích “Như Thầy Đã Yêu”)
Tại Tây Ban Nha có một cậu bé tên là Macxilano. Mới sinh ra cậu bị người ta quăng trước cửa tu viện, và đã được các tu sĩ đem về nuôi.
Vốn tính hay nghịch ngợm, nên thầy đầu bếp không cho cậu leo lên gác. Nhưng vì tò mò, một ngày kia Macxilano lén leo lên, cậu ngạc nhiên thấy một người khổng lồ bị treo trên thập giá. Nghĩ rằng người ấy chắc là đói lắm, nên đêm hôm ấy Macxilano vào bếp ăn cắp bánh mang lên cho ông Người khổng lồ đưa tay nhận bánh và mỉm cười với cậu.
Từ đó, ngày nào cậu cũng đem bánh cho người ấy. Ngày kia, ông âu yếm ôm lấy cậu bé và hỏi:
– Con thích nhất điều gì trên trần gian nầy?
Cậu mau mắn thưa:
– Con muốn được gặp mẹ con.
Người ấy liền nói với cậu bé:
– Con sẽ được gặp mẹ con ngay tức khắc nếu con chấp nhận phải chết đi.
Hôm sau các thầy tìm thấy cậu nằm chết như đang ngủ say trong vòng tay thương mến của Chúa Giêsu.
***
Vì yêu thương mẹ, muốn được ở bên mẹ, mà Macxilano đã bằng lòng chịu chết. Vì yêu thương con người, Đức Giêsu cũng đã sẵn lòng chịu chết để cho con người được sống. Hơn nữa, Người còn có sáng kiến là hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, để được ở lại mãi với con ngưồi, để làm của ăn của uống, như lương thực nuôi dưỡng con người trên cuộc hành trình về quê trời. Người đã hứa: “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,58).
Thánh thể là Bí tích tình yêu.
Khi mời gọi: “Con con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, Đức Giêsu muốn các Kitô hữu hãy lập lại cái chết tự hiến vì yêu thương của Người, bằng cả cuộc sống dấn thân và trao ban.
Khi lãnh nhận bánh Thánh Thể, người tín hữu ý thức mình đang lãnh nhận tình yêu Chúa. Và như dòng suối ân tình, họ lại tuôn trào tình yêu Chúa sang cho anh em đồng loại.
Khi chia sẻ bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu cũng muốn chia sẻ cơm bánh cho tha nhân, chia sẻ hồng ân của Đức Kitô cho những kẻ đói nghèo, túng thiếu, không nơi nương tựa.
Chính khi nhận lãnh Thánh Thể để rồi chia sẻ trao ban, người tín hữu lại nhận được sự sống trường sinh và niềm vui lại tràn ngập tâm hồn.
Vì thế, sống bí tích Thánh Thể chính là sống yêu thương, sống bí tích Thánh Thể là sống cho và vì Đức Kitô, sống bí tích Thánh Thể là sống như Đức Kitô đã sống và đã hiến trao cách quảng đại cho tha nhân.
Người tín hữu không lãnh nhận bánh Thánh Thể để cất giữ cho riêng mình, nhưng là để biến con người mình thành lương thực nuôi dưỡng anh em.
Việc chia nhau một tấm bánh nhắc nhở chúng ta sống là phải chia sẻ và trao ban, sống là yêu thương và hy sinh cho nhau.
Trong thánh lễ bế mạc Đại Hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 45, Đức Thánh Cha kêu gọi: “Chúng ta không thể rước Mình Thánh Chúa Kitô mà đồng thời lại sống xa lạ với những người đang đói khát, kẻ bị bóc lột, tù đầy hay đau yếu”.
*
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, khi chúng con sống yêu thương là chúng con đang làm chứng rằng: Chúa chính là sức sống mãnh liệt của chúng con.
Xin cho chúng con khi lãnh nhận bánh Thánh Thể cũng đón nhận được sức sống mới của Chúa, để chúng con ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa trong cuộc sống chúng con. Amen.
“Bánh hằng sống chính là Ta… Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời” (Gn 6, 51 – 58).
Theo sinh vật học, khi cơ thể con người thiếu đi những chất dinh dưỡng cần thiết, lúc bao tử không đủ cung cấp cho các tế bào những sinh tố căn bản thì tay chân run lên, tai ù đi, mắt mờ lại. Các hoạt động của mọi cơ phận khác cũng bị trì trệ. Lý trí dễ mất khả năng cảm nhận, suy xét và quyết định chính xác. Hậu quả là người ta mất dần những cảm quan và tương giao với tha nhân và với môi trường chung quanh. Khi bị cơn đói dày xéo, con người có thể trở nên tàn nhẫn với người khác hay bán đứng nhân phẩm của mình.
Trong Tân ước, hình ảnh của “người con hoang đàng” cũng đủ cho thấy cơn đói không những dễ khiến người ta đánh mất nhân quyền, nhưng còn nhân phẩm, và danh dự dân tộc. Vì đói anh ta chấp nhận đồng hàng với… heo.
Người Do thái coi heo là con vật ô uế bẩn thỉu. Lịch sử chứng nhận có người thà mất mạng sống còn hơn ăn thịt heo, như trường hợp “Cụ Già Elêaza” hay “Bà Mẹ Với Bảy Người Con” trong sách Macabêô. Truyền thống oai hùng xa lánh loài heo là thế. Vậy mà, vì đói người con hoang đàng chẳng màng chi nhân phẩm hay danh dự; anh chỉ mong ngốn cho đầy bụng đồ ăn của heo, một sản phẩm còn dơ nhớp hơn cả thịt heo. Thật là nhục nhã!
Người đói, kẻ nghèo không chỉ thuần tuý chịu đựng những hành hạ của thiếu thốn, nhưng lắm khi còn bị đồng loại khinh miệt và đối xử kém thua loài vật. Hình ảnh Lazarô và ông phú hộ trong Phúc âm Luca đã phác hoạ hố sâu ngăn cách giữa hai con người và hai cảnh sống. Lazarô thì nghèo quá và đói quá. Nhà phú hộ lại giàu quá và no đủ quá, cứ ngày ngày “yến tiệc linh đình”. Khoảng cách giữa hai con người còn bị đào sâu bởi thái độ lạnh lùng thờ ơ của nhà phú hộ. Tâm hồn ông dường như không chút dao động trước con người sắp chết vì đói. Riêng Lazarô, không được dự phần bàn tiệc với người giàu đã đành, ngay như muốn dự phần với chó mà đợi hoài cũng chẳng thấy chi.
Đói nghèo đúng là kẻ thù của nhân phẩm, nhân quyền và sự sống. Thế nên, Giáo hội không thể ngồi yên khi phẩm giá con người bị đe doạ và tổn thương. Giáo hội Chúa Kitô không bao giờ chấp nhận vì giàu nghèo mà có cảnh con người bị đối xử như con thú.
Từ thuở khai sinh, Giáo hội không ngừng lên tiếng kêu gọi con cái mình đối xử công bằng và tôn trọng lẫn nhau, đừng khinh nghèo chuộng giàu, đừng thấy người ăn mặc bảnh bao mà xun xoe: “Mời ông an toạ nơi này”, “mời ngài ngự tới nơi kia”, còn người nghèo thì: “Hãy ngồi dưới bệ chân tôi” hay “anh hãy đứng đó” (Gc 2).
Nhưng do đâu có cảnh giàu nghèo? Phải chăng vì lòng ích kỷ, tham lam, và bất công của con người. Vì ích kỷ nên không muốn mất đi những gì đang có, sợ phải chia sẻ trao ban. Vì tham lam nên mạnh tay thu vét, bất chấp đúng sai, miễn sao có càng nhiều càng tốt.
Lòng ích kỷ, tính tham lam, sự bất công là những nguyên nhân trực tiếp tạo nên đói nghèo. Nhưng suy cho cùng, nguyên do chính yếu khiến cho con người trở nên hà tiện, gian dối, tàn ác, bất công là vì thiếu yêu thương.
Thiếu yêu thương nên khoá lòng khi gặp người đói khổ, không muốn san sẻ với kẻ chẳng may, đối xử với nhau mất hết tình người, và đánh mất nhân phẩm của mình cũng như đồng loại.
Vì thiếu yêu thương mà đói nghèo nảy sinh, không chỉ về thân xác vật chất, song con cả linh hồn thiêng liêng.
Đức Giêsu đã đến trong thế gian để rao giảng cho con người Tin Mừng Tình Yêu và cũng là Tin Mừng Sự Sống. Ngài mời gọi con người chia cho nhau những nén bạc hồng ân mà Thiên Chúa ban tặng, làm phong phú sự sống tha nhân trong tinh thần yêu thương sẻ chia.
Không chỉ mời gọi, Đức Giêsu còn là mẫu gương của thương yêu và trao ban tận cùng. Ngài trao ban chính mình để thế gian được sống và sống dồi dào (Gn 10:10). Ngài tự hiến toàn thân làm lương thực xoa dịu cơn đói khát của tâm hồn nhân thế.
Làm no thoả cơn đói sâu thẳm nơi con người là mục tiêu căn bản trong hành trình rao giảng của Đức Giêsu. Qua tấm bánh vật chất, Ngài hướng nhân loại đến với tấm bánh thần linh: “Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống… cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn Bánh này sẽ sống đời đời” (Gn 6:51-59).
Như thế, tấm bánh thần linh chính là Ngài. Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể sẽ xoa dịu cơn đói khát tận cùng nhất của con người là yêu và được yêu.
Khi yêu thương người ta muốn hoà chung sự sống trong nhau để không còn là hai nhưng là một. Phải chăng đó cũng là lý do nhiều người hôn nhau mà cứ như ăn nhau? Có những bà mẹ thương con, vừa hôn vừa nựng: “Mẹ muốn ăn con”.
Phải chăng yêu thương cũng chính là động lực khiến Thiên Chúa hủy mình, trở nên tấm bánh đơn sơ để được ăn và nên một với con người. Bài Phúc âm trong Chúa nhật Mình Thánh Chúa tuần này không dài nhưng động từ “ăn” lại được lập đi lập lại đến 9 lần.
Thiên Chúa không ăn con người nhưng lại để con người ăn Thiên Chúa. Song khi ta ăn Chúa thì không thuần tuý là ta rước Chúa vào lòng, nhưng đúng hơn, Ngài rước ta vào cung lòng yêu thương bao la của Ngài.
Trong Bí tích Thánh Thể, bạn và tôi được mời gọi nên một với Thiên Chúa bằng tình yêu đón nhận, đồng thời nên một với tha nhân trong tinh thần chia sẻ trao ban, hầu tất cả cùng được sung túc trong tình Chúa và tình người.
Con người là xác và hồn. Con người gồm có vật chất, tinh thần và những yếu tố thuộc tính linh thiêng. Là con người, chúng ta không thể chỉ sống bằng cơm bánh, chúng ta còn được nuôi dưỡng bằng những của ăn tinh thần như học tập, giải trí, lao động nghệ thuật…Hơn nữa, chúng ta còn phải đón nhận lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đời sống linh hồn của mình nữa. Thấu hiểu điều đó nên Chúa Giêsu đã nói: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban tặng là thịt Ta đây để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51)…Như thế, chính Mình Máu Chúa Giêsu là lương thực thiết yếu nuôi dưỡng con người chúng ta, để cho chúng ta sống, tồn tại và can đảm tiến bước trên đường lữ thứ về quê hương đích thực. Chính Mình Máu Chúa đang làm thỏa mãn niềm khao khát của tâm hồn của chúng ta.
Bởi vì Thiên Chúa yêu thương con người nên Ngài đã dựng nên con người, dựng con người “theo hình ảnh Ngài, theo hoạ ảnh Ngài” (St 1, 27). Thiên Chúa yêu thương con người nên đã cho Ngôi Con xuống trần gian mạc khải cho con người biết tình thương của Thiên Chúa và Ngài đã chết vì yêu thương nhằm để cứu chuộc con người, Ngài đã mang lại phẩm giá cao sang mà con người đã đánh mất vì nguyên tội bất tuân. Hơn nữa, trước khi đi vào cuộc thương khó và phục sinh, Ngài đã lập bí tích Thánh Thể để lại ân huệ của sự sống cho con người, Ngài muốn cho con người đón nhận ngài bằng việc “ăn uống” chính Thịt Máu của Ngài để được hiệp thông với Ngài, hiệp thông với sự sống vĩnh cửu, để con người còn có thể hiệp thông với nhau nhờ “ăn uống” Mình Máu Ngài. Do đó, Ngài cho con người thông dự vào bản tính thần linh của Thiên Chúa nhờ việc đón lấy Mình Máu Chúa, thông dự trước vinh quang Nước Trời, nếm trước nguồn hạnh phúc vĩnh cửu. Nhờ đón lấy Mình Máu Chúa Kitô, con người được kết hợp mật thiết với Ngài và với nhau làm nên Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Kitô mà Chúa Kitô là Đầu và là Thủ lãnh của một dân tộc mới, dân tộc thánh thiện làm nên dân thánh của Ngài.
Bí tích Thánh Thể là bí tích Tình Yêu, là trung tâm của đời sống yêu thương của con người. Vì yêu thương Chúa Kitô đã có sáng kiến thiết lập bí tích Thánh Thể, Ngài dùng chính Thịt Máu Ngài để nuôi dưỡng loài người chúng ta. Ngày xưa dân Do Thái đi trong sa mạc sống nhờ ăn manna từ trời và uống nước từ tảng đá vọt ra nhưng họ vẫn phải chết. Còn hôm nay, con người sống trong thời đại mới, thời đại giao ước mới của Chúa Kitô, người kitô hữu được nuôi dưỡng bằng chính Thịt Máu Chúa Kitô, Thịt Máu con Vua Trời,…nơi bàn tiệc Thánh Thể. Của ăn Thịt Máu Chúa Kitô sẽ làm cho chúng ta được sự sống đời đời như Chúa giêsu đã nói “Ai ăn Thịt Ta sẽ được sự sống đời đời”. Chúng ta sẽ sống chứ không phải chết nhờ ăn uống Thịt Máu Ngài. Chính Chúa Kitô đã xác quyết mạnh mẽ: “Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống” (Ga 6, 55). Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn và của uống là những thứ thường tình nhất của đời sống con người để đưa con người vào sự sống đời đời.
Từ việc được kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ đưa chúng ta đến việc hiệp nhất với tha nhân. Nhờ đón rước bí tích Thánh Thể, chúng ta sẽ có thêm tình yêu và nghị lực để sống tinh thần hiệp thông, chia sẻ với tha nhân. Mình Máu Chúa Kitô giúp chúng ta yêu thương Thiên Chúa nhiều hơn và cũng biết yêu thương tha nhân nhiều hơn. Yêu mến Thiên Chúa giúp chúng ta tránh lỗi phạm đến những giao ước, lề luật và tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Yêu thương tha nhân giúp chúng ta dễ gần gũi, dễ thông cảm, dễ sẻ chia và dễ tha thứ cho tha nhân. Khi đó tình yêu của Thiên Chúa nơi Mình Máu Chúa là động lực thúc đẩy chúng ta sống yêu thương một cách trọn vẹn và chân tình, cụ thể và thâm sâu.
Mở rộng tâm hồn đón nhận Mình Máu Chúa, con người sẽ mở rộng trái tim và đôi bàn tay để đón nhận Ngài nơi tha nhân. Chúa Giêsu từ trời xuống thế cũng nhằm mục đích lôi kéo con người trở về với Thiên Chúa Cha. Người Kitô hữu cũng có trách nhiệm lôi kéo anh em mình trở về với Thiên Chúa như vậy. Khi được chia sẻ mình Máu Chúa Kitô, người Kitô hữu cũng đưỡc mời gọi chia sẻ cơm bánh hằng ngày cho tha nhân. Và kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ với tha nhân, con người cảm nhận được sự sống và niềm hạnh phúc vĩnh cửu trong tâm hồn ngay trong chính cuộc sống này.
Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con lương thực trường sinh chính là Mình Máu Thánh Chúa. Xin cho chúng con siêng năng rước Chúa, thường xuyên tâm sự với Chúa bằng việc viếng Thánh Thể. Chúa đã tự hiến vì yêu thương chúng con, xin giúp chúng con cũng biết sống yêu thương tha nhân bằng việc chia sẻ, giúp đỡ, tha thứ và giúp đỡ tha nhân thăng tiến đời sống con người và đạt được hạnh phúc đời đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)
Nếu đặt câu hỏi: “Tại sao ông bà (anh chị) tham dự Thánh Lễ?”, chúng ta sẽ có nhiều câu trả lời khác nhau: nào là để gặp lại anh chị em Kitô hữu làm thành một cộng đoàn, hiệp nhất trong một niềm tin, nào là để cầu nguyện, để nuôi dưỡng đức tin, để lắng nghe Lời Chúa… Qua tất cả những câu trả lời này, chúng ta thấy rằng đi lễ đem lại rất nhiều lợi ích. Tốt! Nhưng chúng ta chưa đề cập đến điểm chính yếu của thánh lễ.
Thánh lễ là một bí tích, một hiện thực cứu độ trong đó Chúa Kitô tự hiến mình cho chúng ta qua nghi thức phụng vụ. Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ai bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Khi Chúa Giêsu nói về thịt Người làm lương thực, đó không phải là xương, thịt, gân cốt hoặc một phần thân thể nào đó, mà là toàn diện bản thân Người. Khi Chúa Giêsu nói đến việc cho máu của Người làm thức uống, không phải Người nói đến thứ chất lỏng màu đỏ mà là sự sống làm cho con người được sống. Nói đến mình và máu Chúa Giêsu tức là nói đến chính bản thân và sự sống của Người.
Chính bởi thân thể và máu của mình, Chúa Giêsu đã đi vào lịch sử loài người. Thánh lễ là sự nhập thể luôn tiếp diễn. Thánh Tôma Aquinô có nói: “Thánh lễ là phép lạ lớn nhất của Chúa Giêsu”.
Trong thánh lễ, chúng ta cử hành việc hiến mình của Chúa Kitô làm lễ dâng lên Chúa Cha, và cùng với Người, chúng ta dâng hiến bản thân của mình. Chúng ta dâng bánh và rượu, là hoa màu ruộng đất và cũng là thành quả lao động con người. Bánh và rượu là những thức ăn thuộc về con người. Do đó, khi dâng lên Chúa Cha bánh và rượu để trở thành mình và máu Chúa Kitô, chúng ta dâng lên Người những hoạt động chân tay và tinh thần, dâng lên Người đời sống của chúng ta với tất cả nỗi vui buồn. Kết hợp với hy lễ của Chúa Kitô, Chúa Cha làm cho của lễ này có tầm vóc thần linh và vĩnh cửu. Từ đó, bánh và rượu biểu tượng cho cuộc sống toàn diện của chúng ta. Tóm lại, bánh và rượu đại diện cho chính chúng ta. Trong đức tin, bánh và rượu này, tuy không thay đổi thành phần vật lý và hóa học, bấy giờ trở thành chính Chúa Kitô, bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Thánh lễ là sự chuẩn bị cho hiệp lễ (communion, kommunion), hay nói một cách chính xác hơn, toàn thánh lễ trở thành hiệp lễ. Thánh lễ phát triển tác động của Chúa Kitô làm cho chúng ta trở thành thân thể huyền nhiệm của Người, tức là Giáo Hội. Vậy là chúng ta đã hiểu hiệp lễ quan trọng như thế nào: hiệp lễ tóm lược toàn bộ thánh lễ.
Nhiều lúc chúng ta không dám lên rước lễ vì nghĩ rằng mình không xứng đáng. Thực ra, rước lễ không phải là một công trạng hay phần thưởng cho những ai sống gương mẫu, thánh thiện. Rước lễ là một lương thực. Chúng ta hãy nhớ lại câu mà cộng đoàn đọc trước khi rước lễ: “Lạy Chúa, con chẳng (xứng) đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”. Qua câu nói này, điểm chính yếu không phải là việc nêu lên phẩm giá của mình, mà ngược lại, ý thức được rằng rước lễ không phải là một quyền lợi, nhưng là một ân huệ. Hơn nữa, thánh lễ không phải là một ân huệ trong số những ân huệ khác. Thánh lễ là chính Chúa, Đấng ban ân huệ. Khoảng cách giữa sự thánh thiện của Chúa và của chúng ta lớn đến mức không thể nào nêu lên vấn đề chúng ta có xứng đáng hay không để rước Chúa Kitô vào lòng.
Lời nguyện trên lập lại lời của viên sĩ quan đã không dám tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà mình: “nhưng xin Ngài phán một lời” (Lc 7,7). Trong Chúa Giêsu, Lời và bản thân Người chỉ là một. Để ý đến lời mời của Chúa Giêsu “Hãy cầm lấy mà ăn” quan trọng hơn là việc tìm kiếm phẩm cách của chúng ta.
Tuy nhiên, có một vài ngoại lệ. Ngoài vấn đề những người bị vạ tuyệt thông hoặc phạm tội nặng không được rước lễ, có thể vào lúc rước lễ, chúng ta cảm thấy thực sự chưa sẵn sàng trong tâm hồn để tiến lên đón nhận Mình thánh Chúa. Rước lễ là một cử chỉ biểu hiện đức tin cao độ, vì thế phải cố gắng làm sao tránh rước lễ một cách máy móc và nhàm chán.
Tuy nhiên, cử hành thánh lễ mà không thể rước lễ là một thái độ đáng tôn trọng. Đức Cha Jacques Jullien, trong tác phẩm “Demain la famille” (Gia đình ngày mai) đã viết: “Có một số người không thể rước Chúa một cách trọn vẹn, đó là nỗi khổ của họ. Nhưng họ có thể rước Lời Chúa, kết hiệp với Chúa, với nhiệm thể của Người là Giáo Hội và hoạt động theo ân huệ của họ”.
Khi chia sẻ tấm bánh duy nhất, Chúa Kitô thực hiện ý muốn của Người là làm cho chúng ta thành một thân thể, thân thể của chính Người. Rồi Người sai chúng ta đến với anh chị em. Chúa cần và mong chờ chúng ta xây dựng một thế giới công bằng và bác ái.
Ước gì trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta luôn kết hiệp với Thiên Chúa và kết hiệp với nhau. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Minh)
Năm 1264, Đức Giáo Hoàng Urbanô ra sắc dụ lập lễ kính Thánh Thể trong toàn Giáo Hội mà chúng ta mừng kính hôm nay, đó là lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô. Mục đích của việc thiết lập lễ này là để long trọng tạ ơn Chúa Giêsu Kitô đã dùng quyền năng siêu việt mà lập Bí tích Thánh Thể để ban bánh trường sinh cho nhân loại.
Trong ngày lễ trọng tôn vinh Mình Máu Thánh Chúa Kitôhôm nay vốn được gọi là bí tích Tình yêu: Thánh Thể, tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô; Thánh Thể diễn tả mầu nhiệm hiệp thông trong Hội Thánh để mời gọi Kitô hữu sống tình bác ái huynh đệ.
Trong bài đọc thứ nhất trích sách Đệ Nhị Luật, kể lại dân Itrael sau khi rời đất Ai Cập đã lâm vào tình cảnh đói khát, liền kêu than với Môsê. Môsê vừa trình bày thì Chúa tỏ lòng thương dân bằng cách cho bánh Manna từ trời rơi xuống, cho nước từ tảng đá vọt ra, dân hết đói hết khát trong suốt thời gian rong ruổi trong sa mạc.
Bài Tin Mừng trong Thánh Lễ hôm nay, Thánh Gioan đặt bài diễn từ dài của Đức Giêsu về bánh sự sống vào phép lạ hoá bánh ra nhiều (Ga 6, 35-58). Bài diễn từ này gồm 2 phần. Phần thứ nhất gồm các câu 35-50, phần thứ hai gồm các câu 51-58. Trong phần thứ hai này diễn từ về chủ đề Thánh Thể được Chúa Giêsu làm nổi bật khi liên kết bánh hằng sống với thịt và sự sống của Người, để làm nên lời loan báo và hình dung trước về mầu nhiệm Thánh Thể mà Người sẽ thiết lập.
Khởi từ nguồn mạch tình yêu của Chúa Cha, Chúa Giêsu đến để công bố và trao ban tình yêu ấy cho nhân loại. Cho nên mọi hành vi và lời nói của Người đều thể hiện một mục đích duy nhất ấy. Chúa giảng dạy vì thương con người đi trong u mê lầm lạc của tội lỗi cần được khai sáng; Chúa chữa lành vì thương muốn giải thoát bệnh nhân khỏi gánh nặng của đau khổ; Chúa hóa bánh ra nhiều vì thương, Chúa muốn cho người đói khát được no nê. Và trên hết Người đã dâng hiến chính bản thân mình, chính máu mình như lời Người dạy: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống.Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (cc54 – 56). Lương thực này tặng hiến cho nhân loại để họ được sống và sống dồi dào như lời hứa của chính Người. Để thể hiện lời hứa, Người đã trở nên tấm bánh bẻ ra cho nhân loại để nuôi sống thể xác lẫn tâm hồn, cùng với đời sống tâm linh của dân Người. Sự dâng hiến xác thân của Con Thiên Chúa được gọi là Bí tích Thánh Thể, đó là sự dâng hiến tình yêu cho đến tận cùng của Thiên Chúa qua Người Con Một yêu dấu là Đức Giêsu Kitô.
Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn trao ban tình yêu của Thiên Chúa Cha cho chúng ta trong hiến tế Thánh Thể. Đón nhận Thánh Thể là đón nhận tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Kitô, là sống mối tình của Thiên Chúa, để rồi sẽ trải lòng ra yêu thương mọi người.
III. Thánh Thể mời gọi Kitô hữu sống hiệp thông và bác ái huynh đệ:
Khi các môn đệ đề nghị Chúa Giêsu giải tán dân chúng để họ đi tìm kiếm thức ăn thì chính Người đã nói với các ông: “Các con hãy cho họ ăn đi”. Điều này cho thấy Chúa Giêsu muốn mời gọi sự cộng tác của con người vào trong công việc của Người. Trong Bí tích Thánh Thể cũng thế, Mình Thánh Chúa được biến đổi từ chính của lễ do con người dâng hiến là bánh và rượu, là hoa màu ruộng đất, là sản phẩm của cây nho và lao công của con người. Xin dâng lên để bánh và rượu trở nên Mình Máu Thánh Chúa.
Công đồng Vaticanô II đã khẳng định: “Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo” (Lumen Gentium). Vì thế, Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ yêu thương và hiệp nhất là trung tâm của đời sống Kitô hữu. Tiệc Thánh Thể là cuộc họp mặt của các tín hữu. Cộng đoàn phụng vụ hiện diện, mặc dù, bao gồm nhiều thành phần đa dạng, nhưng với tiệc Thánh Thể chúng ta trở nên duy nhất trong Chúa Kitô. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côrintô đã viết: “Bởi vì chỉ có một tấm bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một tấm bánh ấy, nên tuy nhiều người chúng ta cũng chỉ là một thân thể”. Do đó còn gì gần gũi hơn, thân thiết hơn khi trong chúng ta đều luân lưu một của ăn và một thức uống, đều có chung một nguồn sống là Chúa Kitô. Nhưng từ đó, nguồn suối mang sự sống của Chúa Kitô cũng phải được chuyển thông cho anh chị em đồng loại của mình. Thế giới chung quanh ta ngày nay có rất nhiều tiến bộ, với những phát minh khoa học kỹ thuật tiên tiến; nhưng thống kê của cơ quan lương thực thuộc Liên Hiệp Quốc cho biết mỗi ngày có khoảng 400.000.000 người phải đi ngủ với bụng đói, không có gì để ăn và 15.000 người phải chết đói hàng ngày. Những người này cần được thương xót tinh thần lẫn vật chất, cần có cơm ăn, áo mặc, cần có nơi cư trú, cần tình thương, cần nâng đỡ ủi an. Vậy “hãy thương xót như Cha trên trời”.
Để thể hiện tình yêu thương của Chúa đối với nhân loại, người tín hữu hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đến đốt cháy lửa mến yêu trong lòng chúng ta, để chúng ta nhận ra chúng ta đói khát Mình Chúa và Lời Chúa, là quà tặng vô giá Chúa ban cho nhân loại. Và xin Chúa Thánh Thần đào luyện con tim chúng ta trở nên con tim biết “chạnh lòng thương” như Chúa Giêsu, để chúng ta cũng trở nên tấm bánh bẻ ra cho muôn người.
Xin Chúa giúp mỗi người tín hữu trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn nhờ việc tham dự vào tiệc Thánh Thể, cũng như qua việc được chia sẻ sự sống của Chúa. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con được lớn lên, được trưởng thành trong đức ái, sẵn sàng đóng góp phần của mình để phục vụ anh chị em, để rồi trong cuộc đời lữ hành trần gian chúng con sẽ được no đủ và vững bước tiến về quê trời mà không lo sợ phải mệt lả dọc đường.
Anh chị em thân mến.
Trong tác phẩm Anh phải sống của cố tác giả Khái Hưng có viết một câu chuyện cảm động như sau:
Nơi một làng quê, có một gia đình nghèo, chỉ có một khu vườn nhỏ để trồng tỉa, nên hằng ngày nếu có giờ thì hai vợ chồng cùng lên thuyền để vớt những cành củi đang trôi nổi trên dòng sông, mang về bán kiếm thêm chút thu nhập cho gia đình. Một hôm hai người đang vớt củi như bao nhiêu ngày khác, bỗng bầu trời dường như tối lại, gió mạnh thổi đến, cơn mưa đổ xuống. Chiếc xuồng nhỏ không chịu nổi cơn sóng dữ, nó bị nhận chìm, hai người đang cố sức để bơi vào bờ, nhưng người vợ càng ngày càng kiệt sức, chồng mới cố gắng để cho vợ bám vào, vừa bơi vừa la to “cố lên”. Trong lúc nguy hiểm như thế, người vợ bỗng nhớ đến đứa con thơ, cô tự nhủ “nếu cả hai cùng chết thì đứa con thơ của mình sẽ ra sao? Như vậy anh phải sống.” Thế rồi cô từ từ rời xa chồng và trôi theo dòng nước đang chảy xiếc cách giận dữ. Người chồng không biết lý do gì mà mình dường như nhẹ hẳn lên, anh bơi nhanh vào bờ để thoát hiểm. Anh chỉ còn biết nghỉ ngơi, nhưng bất chợt anh không còn nhìn thấy vợ mình nữa. Nhìn dòng nước đang hung hãn và được tiếp sức bởi những tiếng thét gào của cơn gió mạnh, anh chỉ còn biết ôm đầu than khóc và quay trở về với đứa con thơ của mình. Đứa con được sống và lớn lên nhờ mạng sống của người mẹ, nhờ tình yêu cao cả, dám chết cho người mình yêu thương, nên đứa con đã được sống.
Sau nầy khi người con biết được sự hy sinh cao cả đó, nó sẽ sống như thế nào cho xứng đáng?
“Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ được sống đời đời”.
Chúa Giêsu không chỉ chịu chết cho con người được sống, nhưng Ngài còn nhìn thấy, con người cần được nuôi dưỡng để kéo dài sự sống. Người đã để lại một phương tiện tuyệt vời cho con người được nuôi sống, đó là chính Thịt và Máu của Người. Ngài không để cho con người phải khổ cực đi tìm của ăn nuôi sống, nhưng Ngài ban cho con người thức ăn để con người được sống mà đến với Ngài trong tình yêu thương bao la tuyệt vời.
Nhưng những người đã được cứu sống và được nuôi dưỡng, có nhận ra được tình yêu bao la nầy chăng? Hay họ không hề hay biết gì về sự sống của mình bởi đâu mà có và tại sao mình được sống đến ngày hôm nay?
Mỗi người trong chúng ta để ra một ít phút suy nghĩ về con người và sự sống của chính mình: Biết bao người đã từ giã cõi đời, người ra đi trong hạnh phúc, người ra đi trong bất hạnh, người ra đi trong vui mừng, người ra đi trong ưu phiền sầu lo. Họ ra đi và đi về đâu? Đi đến sự sống hay đi tìm cái chết. Còn chúng ta vẫn còn hiện diện trên trần gian, chúng ta cũng sẽ ra đi như họ. Vậy chúng ta đi tìm sự sống hay đi tìm cái chết? “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ sống đời đời và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”. Lời Chúa Giêsu đã hướng dẫn chúng ta đến con đường sự sống. Biết bao người đã đi trên con đường sự sống vì họ biết dùng của ăn nuôi sống cho mình.
Chúng ta cũng nghe Lời nầy nhiều lần, chúng ta cũng biết đến của ăn nầy rất nhiều vì chúng ta cũng đã ăn rất nhiều, nhưng chúng ta có cảm nhận được sức mạnh từ của ăn mà chúng ta hưởng dùng không? Sức mạnh của Tình Yêu Thương, vì yêu thương mà Thiên Chúa dám chết để cho chúng ta được sống và cũng vì yêu thương mà Ngài đã ban của ăn nuôi sống là Chính Thịt và Máu Mình cho người mình Yêu được sống. Người mẹ đã cho đứa con mạng sống khi bà hy sinh mạng sống của mình, còn người cha thì nuôi dưỡng đứa con. Còn chúng ta, chúng ta được cho mạng sống và được nuôi dưỡng bởi Đấng yêu thương, nhưng chúng ta vẫn không cảm nhhận được để sống cho xứng với tình yêu được sao?
Nếu chúng ta biết yêu thương qua cử chỉ của hành động trong cuộc sống đời thường, nếu tất cả mọi việc làm của chúng ta biết làm vì yêu thương, thì những việc làm của chúng ta đang đưa chúng ta đến con đường sự sống. Nếu chúng ta biết siêng năng đến để ăn của ăn mà Đấng Yêu Thương đã ban thì chúng ta đang sống trong tình yêu, thì chúng ta đang đi trên con đường sự sống. Đó là chúng ta đang đáp lại Tình Yêu.
Xin cho chúng con biết siêng năng đến rước Chúa để chúng con được sống trong tình yêu thương và con đường sự sống.
(Suy niệm của Phêrô Trần Đình Phan Tiến)
Sự sống nhân thế hệ tại ăn và uống, uống ăn, ăn uống cứ quẩn quanh và sinh ra rất nhiều phiền toái. Ăn thế nào cho ngon, cho sang, cho bổ, cho khỏe. Đó là công việc của nhân thế, thế nhân thường sử dụng lời nói “làm ăn”. Làm lụng vất vả để có cái ăn, điều ấy thật tốt lành, “cũng như lao động là vinh quang”, dùng sức lao động tạo ra cái ăn là vinh quang.
Từ đầu sáng thế, Thiên Chúa tạo dựng nên con người, chưa cần làm lụng vẫn có cái ăn. Qủa thật là thiên đàng, nhưng rồi vì án phạt con người phải làm lụng vất vả mới có cái ăn, cuối cùng con người phải “chết”. Vì thân xác con người đã mang án phạt, nên con người phải chết, nghĩa là cái ăn của trần thế chỉ mang lại sự sống nơi thế gian, cho dù nhân thế có ăn uống cao lương mỹ vị, sơn hào hải sản quý đến đâu đi nữa, con người cũng không thể duy trì sự sống trên trần gian, như vậy tại sao con người phải chết? rõ ràng là án phạt nguyên tổ. Như vậy nhân thế chờ mong điều gì nơi Đấng Tạo Thành. Há chẳng phải là ơn cứu độ sao? Ơn cứu độ để làm gì? Há chẳng phải là để được sống và sống muôn đời sao?
Sống muôn đời mà phải làm lụng vất vả, tìm kế sinh nhai, lao động là vinh quang vì cái ăn, thì sống đời đời để làm gì? Có khác gì với đời sống thế trần đâu?
Như vậy ăn uống luôn gắn liền với sự sống của con người, ngay cả khi họ chết rồi, họ cũng được thân nhân cúng cơm, cúng nước và cúng giỗ hằng năm. Cái ăn, cái uống không thể tách rời nhân thế khi sống ở thế trần hay khi về âm phủ, chầu âm ty.
Thật đáng thương cho nhân thế, nếu không có lương thực vĩnh cửu, trường tồn, thì họ chỉ biết lấy cái ăn làm chuẩn mực cho cuộc sống trên dương thế cũng như âm phủ. Triết lý sống trần thế chỉ có thế thôi!
Nhưng, “Thiên Chúa đã yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian, để ai TIN vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Như vậy rõ ràng, Thiên Chúa không bỏ mặc thế gian. Thiên Chúa đã ban sự sống từ Thiên Chúa cho thế gian một lần nữa, sau lần sáng thế. Nhưng sự sống nơi Thiên Chúa được trao ban qua Con MỘT của Ngài là Đức Kitô Giêsu. Chỉ có đấng từ trời mới ban cho Lương thực bởi trời, tức là Thần Lương, Thần Lương tức không còn là lương thực tự nhiên như cơm bánh, nước và rượu nữa, vì những thứ đó tự bản chất không phải là Thần Lương. Thần lương tức lương thực siêu nhiên, chỉ ăn một lần mà sống mãi, đó là Niềm TIN. Thật vậy, khi nhân thế chỉ TIN vào Đấng cứu thế Giêsu một lần là đủ cho họ, nhưng niềm tin cũng cần nuôi dưỡng để nó lớn lên và trưởng thành, như vậy, chúng ta cần kết hiệp với Đấng Cứu thế thường xuyên, liên tiếp khi nào có thể, để Thần lương huyền nhiệm vì tình yêu sẽ nâng đỡ chúng ta trong mọi nơi, mọi lúc, cho đến khi chúng ta được Chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay, được Đấng Giêsu Kitô quả quyết cách xác thực chính Thần Lương từ trời là “THỊT và MÁU” của Người, nghĩa là phần nhân tính hữu hình của Đấng thiên sai không phải là sự hư nát, tiêu hao như phần nhân tính của phàm nhân. Bởi vì, Người là Thiên Chúa, ăn THỊT và uống MÁU Chúa Giêsu là Tin tuyệt đối vào mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa làm Người, ở giữa nhân loại. Sự sống Người mang đến cho nhân loại là mầu nhiệm nhập thể và làm Người cùng với phần Thiên tính là Thiên Chúa của Người. Bí tích Thánh Thể không thể hiểu theo nghĩa hẹp, khi Chúa Giêsu còn ở trần gian, mà là khi Người đã hoàn tất mầu nhiệm cứu độ. Mầu nhiệm cứu độ bao gồm sự nhập thể – nhập thế làm Người, tử nạn và phục sinh. Bánh và rượu thánh không mang lại sự cứu độ vì nó không phải là Thần Lương, nó không cho sự sống trường sinh, ví nó là phương tiện hữu hình của trần gian. Không có giá trị nào thay thế THỊT và MÁU Chúa Giêsu được. Vì chính Thân Thể hữu hình “ấy” được treo lên, thì THỊT và MÁU “ấy” sẽ trở nên Thần Lương CHO NHỮNG AI TIN VÀO NGƯỜI LÀ THIÊN CHÚA.
“Vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” (c 55), chứ không phải bánh và rượu là của ăn và của uống nữa. Thịt và Máu của Chúa Giêsu chính là lương thực đích thực nuôi sống nhân thế đời đời và những ai đón nhận thì không hề đói khát, vì Thần lương vĩnh hằng chính là Thiên Chúa duy nhất. Đến đây, xin nhớ đến linh hồn thân phụ tôi, người mà luôn thì thầm bên tai tôi, mỗi khi tham dự Thánh lễ Misa, khi tôi còn thơ ấu.
Khi linh mục đọc lời truyền phép và dâng bánh lễ lên: Thầy cả làm gì khi dâng bánh? Thầy cả lấy dĩa thánh có bánh lễ dâng lên, bánh ấy trở nên Mình Thánh Đức Chúa Giêsu. Thầy cả làm gì khi dâng rượu? thầy cả rót rượu nho vào chén Thánh, rượu nho trở nên Máu Thánh Đức Chúa Giêsu và một chút nước lã,hai chất ấy chỉ Máu và Nước bởi cạnh nương long Chúa đã chảy ra khi Người chịu treo trên cây Thánh Giá. Thầy cả rửa tay thì kẻ giúp làm gì? Kẻ giúp đổ nước trên ngón tay thầy cả để chỉ lòng ăn năn sám hối, ta cũng phải rửa linh hồn ta cho sạch và ăn năn thảm thiết về tiền khiên ta đã phạm, để xứng đáng dâng thánh lễ cực trọng nầy.
Như vậy, bánh và rượu là hình thức tượng trưng cho THỊT và MÁU Chúa Giêsu Kitô, Đấng từ trời mà đến, đem lại sự sống vĩnh cửu cho những ai tin và đón nhận và làm no thỏa mọi khao khát của nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, con tin vào Chúa, xin Chúa trợ giúp lòng tin yếu kém của con. Amen.
Không ai có thể tuyên bố một cách thẳng thừng như Chúa Giêsu: “Tôi là bánh bởi trời xuống. Ai ăn bánh nầy sẽ được sống muôn đời. Và bành tôi ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Một lời tuyên bố thẳng thừng không úp mở. Nếu chúng ta có mặt lúc bấy giờ, chúng ta có ngạc nhiên không? Người Do thái ngạc nhiên và tranh luận với nhau: “Làm sao ông nầy có thể cho chúng ta ăn thịt ông được?” Họ ngạc nhiên là phải, vì lời tuyên bố đó quá lạ lùng! Vượt xa tất cả những gì người ta có thể tưởng tượng. Trước sự ngạc nhiên của đám đông, Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống trong mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”. Khi nói tôi bảo thật các ông, là một cách xác quyết mạnh mẽ nhất của người Do thái, Chúa Giêsu khẳng định rõ ràng những gì Ngài nói là sự thật. Chúa muốn dẫn họ đến đâu? Ngài muốn đưa họ đi từ ngạc nhiên đến niềm tin. Tin vào một mình Ngài vì chỉ có Ngài mới là sự sống thật, vì chỉ có Ngài là Thiên Chúa, là Đấng được sai đến để mang lại sự sống cho con người.
Trước khi tuyên bố những lời lạ lùng đó, Chúa Giêsu đã làm những phép lạ cả thể trước đám dân chứng tỏ Ngài là Đấng phải đến, Đấng mọi người đang trông đợi: Ngài chữa lành người bất toại ở hồ Bêdatha, và đứa con của viên sĩ quan cận vệ nhà vua. Hơn nữa, Ngài đã nuôi hơn năm ngàn người với năm chiếc bánh và hai con cá và họ vừa muốn tôn Ngài làm vua đó sao? Những phép lạ đó vẫn còn rành rạnh trong trí của đoàn dân nầy. Bao nhiêu đó không đủ dể chứng minh cho Ngài sao? Nhưng họ vẫn không thể nào tin được. Họ chỉ tìm Ngài để được ăn no thôi. Con người vật chất vẫn che khuất con người linh thiêng! Còn chúng ta, chúng ta có tin không? Những lời đó hôm nay vẫn được lặp lại nơi bàn thờ, và chúng ta được mời dự vào bàn tiệc Mình Máu Thánh Chúa, và chúng ta có tin thật không? Đức tin của chúng ta mong manh quá! Biết bao nhiêu lần, chúng ta đã ăn lấy Bánh Hằng Sống, là Thịt và Máu Thánh Chúa, đức tin của chúng ta không tiến triển được bao nhiêu. Có lẽ con mắt phàm trần chúng ta thấy được dấu chỉ bánh rượu, nhưng con mắt tâm hồn chúng ta vẫn chưa sáng được để nhận ra Chúa thực sự hiện diện trong Thánh Thể. Chúng ta chưa thật lòng tìm Chúa.
Chúa Thánh Thần mới có thể giúp chúng ta tin vào Chúa trong Bí Tích Thánh Thể. Chính Chúa Thánh Thần mới mở được con mắt tâm hồn chúng ta để chúng ta tin thật. Ai cũng dám nói rằng, con tin thật Chúa ngự trong bí tích Thánh Thể, nhưng trong thực tế chúng ta vẫn còn rất mù mờ. Thánh Gioan Maria Vianey đã từng nói: “Nếu ai biết Thánh Thể là gì, người đó sẽ chết ngay, vì quá vui mừng”. Đúng thế, vì đó là dấu hiệu của một tình yêu không thể nào có trong thế gian. Thiên Chúa đã đến với chúng ta, mang lấy hình thức một tấm bánh để chúng ta ăn lấy Ngài, sống làm một với Ngài. Ngài sống thực sự trong xương thịt chúng ta, trở nên một xương một thịt với chúng ta. Có cái gì trên trần gian nầy có thể so sánh được không? Có mối tình nào làm cho chúng ta tan biến trong người yêu như Chúa tan biến trong chúng ta không? Tình yêu chân thật là như thế đó. Yêu là muốn nên một với người mình yêu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài là chủ muôn loài. Ngài sử dụng quyền năng của Ngài để thực hiện ý muốn tình yêu của Ngài. Chỉ có việc ăn uống mới có thể làm cho chúng ta hoàn toàn ở trong Ngài và Ngài ở trong chúng ta. Chỉ có Ngài mới đạt tới đỉnh tình yêu đó.
Đây là “mầu nhiệm đức tin”. Là một mầu nhiệm thì làm sao chúng ta có thể hiểu được một cách đầy dủ được? Chúng ta chỉ tin thôi, tin vào chính lời Chúa chứ không chỉ là lời của một con người. Biết bao nhiêu nhà thần học đã tìm cách giải thích về sự hiện diện của Chúa trong bí tích thánh nầy, và đã giúp cho chúng ta tin và yêu mến Chúa Giêsu trong bí tích nầy, nhưng vẫn chưa đủ, nếu chúng ta không cố gắng tìm mãi và cầu xin liên lỉ để được niềm tin cần thiết.
Tin vào Thánh Thể là tin vào tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa, một tình yêu không phai tàn, không giảm sút và luôn tràn đầy đến kinh ngạc, một tình yêu hi sinh đến tận cùng. Chúng ta được yêu đến như thế, chúng ta đáp trả thế nào? Với tất cả niềm tin, với tất cà sức lực? Phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự… Tình yêu của chúng ta đã đến mức độ nào? Hãy vui mừng vì chúng ta được yêu, hãy yêu mến trước hết bằng cách cố gắng đến ăn lấy Chúa càng nhiều càng tốt để Ngài dẫn chúng ta vào tình yêu của Ngài. Hãy để Ngài dìu chúng ta đi, đừng cản trở những hoạt động của Ngài bằng những ước muốn riêng tư, nhưng luôn nhìn vào Ngài và tuân theo những chỉ dẫn của Ngài. Chúng ta sẽ được biến đổi trong Ngài và sẽ được sống trong Ngài không ngơi. “Ai ăn Ta sẽ được sống trong Ta và Ta sẽ sống trong người ấy”.
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà
Không gì trên đời quý bằng sự sống. Dù có bị thiên tai mất hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, nhưng chưa phải chết thì vẫn còn may.
Được sống là một hồng phúc lớn nhất, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Theo nhà văn Jack London thì “thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết”. Làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Thế nên người ta thường nói: “Mạng sống quý hơn đống vàng”.
Vì yêu thương con người trên hết mọi sự, nên Thiên Chúa muốn dành cho họ quà tặng cao quý hơn tất cả mọi quà tặng, đó là sự sống; nhưng Thiên Chúa không chỉ ban sự sống sinh vật mà còn thông ban cả Sự Sống của chính Thiên Chúa cho con người nữa.
Thông ban sự sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự Sống. Sự Sống bắt nguồn từ Chúa Cha. Người thông ban Sự Sống của Người cho Chúa Con (Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con). Chúa Giêsu xác nhận sự sống của Người từ Chúa Cha mà đến: “Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha” (Ga 6, 57)
Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha, Chúa Giêsu không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống cao quý ấy cho nhân loại.
Bằng cách nào?
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Thế nên, Chúa Giêsu lập nên bí tích Thánh Thể, hiến ban Thịt và Máu Người, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Người thì được nên một với Người, được ở lại trong Người: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.”
Những ai “ở lại trong Chúa Giêsu và có Chúa Giêsu ở lại trong người ấy”, thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giêsu thông ban, qua việc tiếp nhận Mình Máu Người, không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.
“Đức Giêsu nói với người Do-thái rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 51)
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6, 54)
Thế là thông qua việc ăn Mình và Máu Chúa Giêsu, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu” với Chúa Giêsu và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho họ.
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà.
Biến đổi con người thành Chúa Giêsu
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong Bí Tích thánh thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giêsu khác. Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định:
“Thực thế, chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa Kitô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy” (trích bài giảng của thánh Lê-ô cả giáo hoàng, trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư, tuần 2 phục sinh)
Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho biết nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa:
“Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân. Nhờ vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa.” (trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong bài đọc kinh sách ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giêsu,
Hồng ân Chúa ban thật vô cùng lớn lao và quý báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ.
Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.
Vào năm 1263, một Linh Mục người Đức cử hành Thánh Lễ tại Nhà Thờ kính thánh Christiana. Lúc bẻ bánh, đột nhiên cha thấy Mình Thánh Chúa không còn là hình tấm bánh trắng, mà đã biến thành Thịt và Máu thật sự ngay trước mắt cha và toàn thể giáo dân. Những giọt Máu Thánh loang ra thấm ướt tấm khăn thánh lớn trải trên bàn thờ. Cha vội nhanh tay gấp khăn lại, nhưng hễ vừa gấp tới đâu thì Máu Thánh lại thấm ra tới đó, tất cả qua 25 lần vải trắng.
Vừa xúc động vừa kính sợ, cha không thể tiếp tục dâng Thánh Lễ được nữa. Sự việc kỳ lạ này sau đó được cha đích thân xin yết kiến và tâu trình lại với Đức Giáo Hoàng Urbano. Đức Giáo Hoàng liền cử ngay một vị Giám Mục đến rước Mình Thánh Chúa cùng với tấm khăn đẫm Máu Thánh về Tòa Thánh, đặt ở Nhà Thờ Chính Tòa cho giáo dân đến tôn kính. Ngày 8 tháng 9 năm 1264, Đức Thánh Cha ra sắc dụ thiết lập Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu trong toàn Giáo Hội Công Giáo (Nguồn câu chuyện: Sưu Tầm trên Internet).
Hôm nay, chúng ta mừng trọng thể lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu. Đây là Bí tích cao trọng nhất trong bảy Bí tích chính Đức Giêsu đã thiết lập, chúng ta thường gọi là Bí tích Tình yêu. Bởi vì, không có một tình yêu nào cao qúy hơn thế nữa. Thánh Augustinô khẳng định rằng: “Dầu Thiên Chúa quyền phép vô cùng, cũng không thể cho ta điều gì hơn nữa, dầu Thiên Chúa khôn ngoan vô cùng cũng không biết cho ta điều gì hơn nữa, và dầu Thiên Chúa giàu có vô cùng cũng không còn có gì cho ta hơn nữa.” Thánh Bênađô cũng nói: “Thánh thể là tình yêu vượt trên mọi tình yêu trên trời dưới đất.” Vì thế, Bí tích Thánh Thể đã trở thành nguồn cảm hứng cho biết bao bài hát ra đời. Chẳng hạn, trong bài hát CÙNG THỜ LẠY CHÚA, có đoạn: “Cùng thờ lạy Chúa, trong phép Thánh thể nhiệm mầu, ân tình cao sâu, ngàn đời ai hiểu được đâu, Chúa trở nên Bánh thánh, lương thực nuôi muôn dân;” hay trong bài hát THÁNH THỂ CAO SIÊU, có đoạn: “Qua Thánh thể cao siêu con ngợi ca tình yêu của Chúa, một tình yêu bao la vời vợi, tình yêu có từ bao đời…”
Thật vậy, vì yêu thương nhân loại nên Đức Giêsu đã lập nên phép Thánh Thể để ở lại với nhân loại mọi ngày cho đến tận thế. Trong bữa tiệc ly, Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói: “Tất cả các con cầm lấy mà ăn: Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con.” Rồi Ngài cầm lấy chén rượu, cũng tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: “Tất cả các con cầm lấy mà uống: Này là chén Máu Thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22,19-20; Mt 26, 26 -28; Mc 14, 22 -24; ICor 11, 23 -25 ).
Bí tích Thánh Thể trở nên nguồn mạch và tột đỉnh của mọi sinh hoạt Hội Thánh. Vâng lệnh Đức Giêsu, Hội Thánh không những cử hành mà mời gọi mọi thành phần tham dự, yêu mến và tôn thờ Bí tích Thánh Thể. Đồng thời, Thánh Thể là của ăn chính của linh hồn, cho nên Hội Thánh mời gọi mọi Kitô hữu năng dọn mình rước lễ và rước lễ mỗi ngày. Nhưng để rước lễ nên cần phải biết dọn mình. Thánh Phaolô nói: “Ai nấy hãy tự xét mình rồi hãy ăn” (1Cr 2,28). Về thể xác: phải ăn mặc sạch sẽ, thái độ phải nghiêm trang, giữ chay thánh thể đúng theo luật. Về phần linh hồn: phải trong trạng thái ân sủng, tức là phải sạch tội trọng; có lòng tin; có lòng khiêm nhường như viên sĩ quan trong Tin mừng thánh Mathêu: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con” (Mt 8,8); phải có lòng ước ao được rước Chúa vào lòng “Như Nai rừng khao khao nguồn nước, hồn con khát Chúa trời…” (Tv 41).
Nếu có được những điều kiện trên thì rước lễ sẽ được những ơn ích trọng đại sau đây:
Thứ nhất, được tăng thêm ơn thánh hóa. Khi chúng ta lãnh các Bí tích: Thêm sức, Giao hòa, Xức dầu, Truyền chức thánh và Hôn phối, chúng ta cũng được tăng thêm ơn thánh hóa. Nhưng khi nhận lãnh Bí tích Thánh Thể chúng ta được tăng thêm ơn thánh hóa nhiều nhất, vì không phải chúng ta chỉ lãnh thêm ơn thánh hóa mà là lãnh nhận chính Đấng ban ơn thánh hóa, là chính nguồn mạch ơn phúc.
Thứ hai, được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu. Đức nguyện Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nói: “Khi chúng ta ăn bất cứ thứ gì thì chúng ta biến nó trở nên thịt máu của chúng ta, nhưng khi chúng ta ăn Thịt và Máu Chúa Giêsu thì ngược lại, chính Chúa Giêsu biến đổi chúng ta thành chi thể của Ngài nhờ đó chúng ta được ở lại trong Ngài.” Đồng thời, Đức Giêsu sẽ sống trong chúng ta, như Ngài đã nói: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi và Tôi ở trong người ấy” (Ga 6,56). Khi đó, chúng ta có thể nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Thứ ba, được hiệp nhất với anh chị em tín hữu trong Hội Thánh. Bởi vì, chúng ta cùng chia sẻ một lương thực là cùng chia sẻ một sự sống, nên chúng ta hiệp thông và hiệp nhất với nhau, như Thánh Phaolô đã khẳng định trong bài đọc 2 hôm nay: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,17). Do đó, khi chúng ta được hiệp nhất với Đức Giêsu thì chúng ta cũng được hiệp nhất với nhau.
Thứ tư, được tha các tội nhẹ. Hằng ngày chúng ta phạm nhiều tội nhẹ trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Có những tội nhẹ vô tình nhưng cũng có những tội nhẹ cố tình. Những tội nhẹ này không những không ngăn trở chúng ta rước lễ, mà chính việc rước lễ sẽ tha các tội đó cho chúng ta.
Thứ năm, giúp bảo vệ chúng ta khỏi phạm tội trọng. Việc rước lễ như là tấm lá chắn ngăn chúng ta phạm tội trọng. Công đồng Trentinô đã nói: “Việc rước Chúa là một liều thuốc gìn giữ chúng ta khỏi sa ngã phạm tội trọng.”
Thứ sáu, bảo đảm cho chúng ta có sự sống đời đời. Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã khẳng định: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (x. Ga 6,54). Đức Giêsu không nói người ấy “sẽ được sống muôn đời” nhưng Ngài nhấn mạnh người ấy “được sống muôn đời.” Còn việc bảo đảm sẽ được sống lại sau này thì chính Đức Giêsu đã khẳng định: “…Tôi sẽ cho kẻ ấy sống lại vào ngày sau hết” (x. Ga 6,54). Như vậy, phép Thánh Thể, sự phục sinh và cuộc sống vĩnh cửu có tương quan với nhau, nghĩa là bây giờ nhờ rước Chúa, chúng ta có đời sống ân sủng, sau khi chết, linh hồn chúng ta được hạnh phúc trường cửu, và ngày tận thế thân xác chúng ta sẽ được đồng vinh hiển cùng với linh hồn.
Rước lễ được nhiều ơn ích như thế. Vậy mà, trong thực tế đời sống đạo, vẫn có nhiều người bỏ rước lễ. Họ bỏ rước lễ có thể do thái độ lãnh đạm, thờ ơ hay kiêu ngạo. Cũng có thể, họ bỏ rước lễ vì sự cao trọng của Bí tích Thánh Thể nên họ mặc cảm, tự ti, sợ sệt vì tội lỗi của mình mà không ăn năn thống hối để rước lễ. Nhưng dầu có vịn vào lý do nào đi chăng nữa thì: Bỏ rước lễ là khinh dễ, xúc phạm đến tình yêu và làm trái lệnh Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu đã nói: “Ai không ăn thịt con người và uống máu Ngài thì không có sự sống nơi mình.” (Ga 6,53); Bỏ rước lễ là coi thường Giáo hội vì Giáo hội là kẻ sắm, bảo quản, ban phát Thánh Thể cho chúng ta; Bỏ rước lễ trong những trường hợp sau đây là lỗi luật của Giáo hội: trong vòng một năm không rước lễ, khi hấp hối và nguy tử (có cơ hội mà không rước lễ); Bỏ rước lễ cũng có thể trở thành gương mù gương xấu: Cha mẹ bỏ rước lễ trở thành gương xấu cho con cái. Thầy cô giáo lý viên bỏ rước lễ trở thành gương xấu cho học sinh. Người lớn bỏ rước lễ trở thành gương xấu cho trẻ em…; Người xưng mình là Kitô hữu, tin Chúa Giêsu, mà bỏ rước lễ thì tự phản lại lí lịch của mình và làm người ta hồ nghi về bản chất kitô hữu của mình.
Bên cạnh nhiều người bỏ rước lẽ thì lại có những người rước lễ không nên như: rước lễ khi còn mắc tội trọng; rước lễ khô khan khi không dọn mình trước, cám ơn sau; không có thái độ khiêm tốn, cung kính khi lên rước lễ hay trước Thánh Thể Chúa…
Còn thái độ của của chúng ta lâu nay đối với Bí tích Thánh Thể như thế nào? Có siêng năng tham dự thánh lễ không? Có siêng năng dọn mình rước lễ sốt sắng không? Hay chúng ta lại lười biếng bỏ rước lễ? Rước lễ trong khi mắc tội trọng?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, vì yêu thương nên Chúa lập Bí tích Thánh Thể để ở lại với chúng con mọi ngày cho đến tận thế, xin cho mỗi người chúng con biết năng dọn mình rước lễ sốt sắng để được những ơn Chúa ban qua Bí tích Tình Yêu này. Amen.
Vào một ngày đẹp trời, một chiếc xe Limousine bóng loáng tự nhiên chạy đến và đậu ngay trước cửa nhà tôi. Một chàng trai trong mộng, một người dưng khác họ, bước xuống. Anh đi thẳng vào nhà và dìu tôi ra xe. Chúng tôi trực chỉ nhà thờ. Trước mặt cộng đoàn và linh mục, anh cầm lấy tay tôi và đọc: “Anh nhận em làm vợ và hứa giữ lòng chung thủy với em… để yêu thương và tôn trọng em suốt đời anh.” Lời gì mà êm ngọt quá! Lời hôn ước đó chỉ kéo dài mười lăm giây, nhưng dư âm còn vang vọng cả cuộc đời. Hôn ước như thấm vào từng thớ thịt đường gân. Tôi như run lên. Niềm vui truyền khắp thân thể. Tôi cảm thấy tê tê nơi đầu ngón tay và nơi tận con tim. Nỗi sung sướng chỉ nổi lên ít phút. Nhưng tôi đã phải trả giá bằng bao nhiêu mồ hôi, nước mắt.
Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy hôn ước của chúng tôi giống giao ước của Chúa quá. Thiên Chúa đã cưới dân Do Thái. Chúa Giêsu đã chọn Giáo hội làm hiền thê. Chúa đã phải trả một giá quá mắc để hoàn thành một giao ước tuyệt vời. Chúa đã chết để giao ước thành sự thật. Chết đi để đem lại sự sống cho nhân loại. Cũng thế, tôi cũng phải “chết” đi mỗi ngày để cho tình yêu triển nở và gia đình vươn lên. Sự sống thăng hoa…
Sự sống vô cùng huyền nhiệm. Nhưng những gì đang xảy ra trong cuộc sống thường phủ che phần huyền nhiệm đó, đến nỗi con người dễ lãng quên hay đánh mất khả năng khám phá độ sâu của sự sống.
Hôm nay Chúa Giêsu muốn mạc khải một huyền nhiệm còn sâu hơn huyền nhiệm của sự sống tự nhiên. Đó là sự sống Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động mãnh liệt trong trần gian. Không dễ gì nhìn được sự huyền nhiệm siêu việt đó.
Làm sao có thể moi lên tự cõi thẳm sâu của cuộc sống một giá trị và ý nghĩa lớn lao như những thực tại Chúa mạc khải hôm nay? Thực tại đó hoàn toàn bị che dấu và đã gây kinh ngạc cho mọi người. Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Chúa Giêsu trở thành thịt và máu nuôi sống muôn dân trong hiện tại và tương lai vĩnh hằng (x. Ga 6:53-54).
Trước hết, có thực trong Thánh Thể, Chúa thực sự hiện diện bằng xương thịt như khi Chúa còn sống nơi trần gian không? Không! Vì sự hiện diện ấy luôn mang tính bí tích. Nói khác, sự hiện diện nóng bỏng đó vẫn bị một lớp vỏ bất động là bánh rượu che phủ bên ngoài. Tuy thế, cũng không thể nói sự hiện diện đó chỉ có ý nghĩa biểu tượng.
Vậy Chúa Giêsu có ý gì khi quả quyết: “Đây là mình Thầy. Đây là máu Thầy”(Mt 26,26-28)? Phân tích cú pháp công thức truyền phép, người ta thường khẳng định có Chúa hiện diện thực sự trong Thánh Thể. Thực tế, trong công thức truyền phép đó, động từ “là” không loại trừ ý nghĩa biểu tượng (x. Ed 5,5). Không thể thuyết phục người ta tin nhận thực tại Thánh Thể, qua những cấu trúc ngữ pháp.
Vậy căn cứ vào đâu để có thể quả quyết Chúa Giêsu hiện diện đích thực bằng Huyết Nhục trong Thánh Thể? Nên nhớ, chính Chúa đã quả quyết Thánh Thể là một giao ước mới (x. Lc 22,19-20). Theo văn hóa Sêmít, muốn lập giao ước, đòi phải có lễ vật thực sự. Nếu chỉ có những dấu chỉ hay biểu tượng của những lễ vật đó, không thể lập giao ước (x. St 15,9-18; Xh 24,5; New Catholic Encyclopedia 2003:5, 411). Theo kinh nghiệm bản thân, tôi cũng thấy cả hai đứa chúng tôi phải là những con người thật, hôn ước mới thành sự. Tôi không thể cầm lấy tay của một tượng đồng hay gỗ để nói lời hôn ước. Dù tượng đó bằng vàng hay kim cương cũng chẳng giá trị gì đối với lời hôn ước của tôi. Tương tự, nếu Chúa Giêsu không hiện diện thực sự, Thánh Thể không thể trở thành giao ước nối kết Thiên Chúa với nhân loại.
Giao ước này chắc chắn phải vượt xa giao ước trong Cựu ước và đưa tất cả những lễ xóa tội thời Cựu ước tới mức viên mãn (x. Nhóm Phiên Dịch Các giờ Kinh Phụng Vụ: Lời Chúa Cho Mọi Người, tr. 446). Vì là giao ước, Thánh Thể trở thành nơi Chúa Giêsu dâng hiến chính mình để vinh danh Chúa Cha và cứu độ toàn thể nhân loại. Sở dĩ Thánh Thể có một năng lực vô cùng lớn lao vì Thần Khí đã biến đổi Mình Máu con người phục sinh của Chúa Giêsu thành của ăn nuôi sống dân Chúa. Như thế, khi rước Mình Máu Chúa, con người đón nhận vào huyết mạch sự sống Thiên Chúa và trở nên một với Người. Như thế, Chúa không chỉ hiện diện trong Thánh thể, nhưng trong chính con người đã ăn thịt và uống máu Người. Sự sống con người được hòa nhập và trở thành một với Chúa (x. Ga 6,56-57). Không còn phân biệt đâu là Chúa, đâu là dân Chúa nữa (x. Ga 6,57).
Sự sống đó thấm sâu vào tận xương tủy và kéo dài đến đời đời. Chỉ có sự hiệp nhất viên mãn với Chúa mới có thể giúp tín hữu vượt qua những giới hạn cuộc sống và bảo đảm cho họ sống mãi trong cõi vĩnh hằng. Nếu lương thực bình thường còn đem lại sức mạnh, niềm vui và hạnh phúc, thì làm sao lương thực thiên thần lại không nhân lên ngàn lần những hiệu quả tốt đẹp tương tự?! (Our Sunday Visitor’s Encyclopedia of Catholic Doctrine, ed. by Russell Shaw, p. 207: “Thánh Thể duy trì và tăng cường ân sủng trong người rước lễ; Thánh Thể có quyền tha tội nhẹ và làm cho con người vững mạnh để chống lại tội lỗi; Thánh Thể là niềm vui thiêng liêng cho những tâm hồn sốt sắng.”) Bởi đó, Thánh Thể góp phần, nếu không nói là nguyên nhân, làm cho cuộc đời thêm tươi sáng.
Đó là những hiệu quả vô cùng lớn lao Thánh Thể có thể làm cho cá nhân. Nhưng không phải chỉ dừng lại ở đó. Thánh Thể còn có khả năng quy tụ tất cả tín hữu và làm cho họ trở thành một thực tại lớn lao trên thế giới hôm nay và tương lai (Our Sunday Visitor’s Encyclopedia of Catholic Doctrine, ed. by Russell Shaw, p. 207: “Thánh Thể làm cho Giáo hội trở thành một cộng đoàn tín hữu, Dân Thiên Chúa, khiến Giáo hội thành toàn như thành đô Thiên Chúa, Giêrusalem mới.”). Con mắt đức tin nhìn thấy những nét cực kỳ huyền diệu và sức mạnh vô song của Thánh Thể đang hoạt động trong cộng đoàn Dân Chúa và biến Giáo hội thành một chứng nhân và trung gian hòa giải giữa nhân loại.
Tất cả mọi năng lực Giáo hội đều nằm trong Thánh Thể. Nhưng không thể quên Thánh Thể là một giao ước. Đó là một sáng kiến của Chúa Giêsu, kết quả của một tình yêu nhưng không và vĩ đại. Nếu Chúa không quan tâm tới phần rỗi đời đời của chúng ta, nhất định Người đã không lập bí tích Thánh Thể. Nếu không có “bánh hằng sống,” thế gian vẫn phủ màu tang tóc của thần chết và đầy những địch thù Thiên Chúa. Rất may Thánh Thể đã hiện diện để đem lại sự sống và phục sinh những gì đã tiêu vong trong biển trần gian.
Khi rước lấy Thánh Thể, Kitô hữu trở thành Thánh Thể giữa trần gian. Họ có mặt ở đâu, Thánh Thể hiện diện ở đó. Thật vậy, “tất cả bản tính nội tại của Giáo hội đều được mạc khải trong Thánh Thể. Khi tham dự các Mầu Nhiệm Thánh, các tín hữu trở thành ‘các người thân thuộc’ của Chúa Kitô. Đồng thời, ngay từ bây giờ họ cảm nghiệm trước công cuộc thần linh hóa trong giao ước đang nối kết bền chặt thiên tính với nhân tính” (Gioan Phaolô II: Tông thư Orientale Lumen, 02/05/1995) Thật là tuyệt vời!
Không phải đợi tới đời sau mới thấy được công cuộc thần linh hóa kỳ diệu trong giao ước đó. Ngay từ bây giờ, giao ước đó đang tìm thấy bóng dáng của mình trong giao ước hôn nhân. Nói khác, giao ước đó củng cố và là mẫu mực cho giao ước hôn nhân. Nhưng để lập giao ước mới trong bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu phải đổ đến giọt máu cuối cùng (x. Mt 26,28). Chính vì thế, muốn giao ước hôn nhân tồn tại và sinh hoa kết quả, Kitô hữu cũng phải trả giá bằng chính cuộc sống đầy hy sinh. Làm sao có đủ đức tin để thấy được tất cả bản chất và vẻ đẹp của giao ước Thánh Thể trong giao ước hôn nhân hôm nay? Làm sao có thể xác định vị thế và vai trò của mình để biến giao ước đó thành hiện thực trong gia đình cũng như ngoài xã hội? Khi rước lễ, họ làm mới lại giao ước giữa Thiên Chúa và con người, giữa Chúa Kitô và Giáo hội. Khi sống đời gia đình, họ làm cho giao ước mới ngày càng mới hơn.
Lạy Chúa, xin cho con luôn tin tưởng vào giao ước Chúa đã ký kết bằng Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể, để mỗi ngày con càng trở nên giống Thánh Thể hơn. Amen.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Bài Phúc Âm này là phần chính của bài giảng về bánh sự sống, được Chúa dạy sau phép lạ hoá bánh ra nhiều và bước đi trên nước. Qua những phép lạ ấy, Chúa Giêsu đã chứng tỏ quyền năng của Ngài trên thiên nhiên, trên thân thể của Ngài và quyền phân phát vô tận lương thực thần linh, mà bánh hoá nhiều là biểu tượng. Như đối với phần đông các bản văn của thánh Gioan, đoạn này đòi hỏi sự suy niệm và đón nhận chăm chú hơn là lời bình giải. Chính để giúp suy niệm, mà một vài ghi chú sau đây được đề ra.
1) Ta là bánh sự sống từ trời xuống. Chúng ta có thể giải thích lời này như một mệnh đề phát biểu sự kiện Nhập thể. Sự sống đời đời hứa cho ai ăn bánh ấy là sự sống siêu nhiên, do Đức Kitô mang đến cho kẻ nào tin vào Ngài như là Đấng được Chúa Cha sai đến. Nhưng lời ấy còn có ý nghĩa khác. Bánh Ta sẽ ban là thịt Ta chịu nộp cho thế gian được sống. Ở đây Chúa Giêsu nói về tương lai. “Bánh” cho đến đây có thể chỉ Chúa Giêsu lương thực đức tin, nay mang một ý nghĩa mới… Đức Kitô – Bánh ăn – đã trao nộp thịt mình cho thế gian được sống. Điều ấy có nghĩa là nếu phép Thánh Thể là một lương thực, đồng thời cũng là lễ hy sinh. Đức Kitô tự nộp làm của lễ hy sinh trong cuộc Tử nạn và trên thập giá, Thánh Thể đồng hoá hy lễ ấy và tiếp nối cho đến mãi mãi. Chúng ta có nghĩ rằng khi tham dự vào bàn tiệc của Chúa, mối dây liên kết huynh đệ đầu tiên và chính yếu nhất nối liền chúng ta với Hy lễ của Ngài hay không? Những buổi cử hành phép Thánh Thể nối kết làm một sự thông hiệp của chúng ta với nhau. Đừng bao giờ chia cắt những gì Chúa đã liên kết. Các Thánh lễ của chúng ta, cử hành chia sẻ, cũng phải cử hành lòng thờ phượng.
2) Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, người ấy ở trong Ta và Ta ở trong người ấy. Lời này của Chúa cho thấy rõ một sự hỗ tương quan trọng. Thực vậy, thoạt xét người ta có thể đơn giản nghĩ rằng Đức Kitô ở trong người nào ăn mình Ngài. Như thế chưa đủ, điều ngược lại cũng đúng. Người ước ao mình được ở trong Ngài, người ấy được đi vào và ở trong Đấng tạo dựng Cứu chuộc, viên mãn của mình. Làm sao nghĩ tưởng một điều như vậy? Chúa đã muốn như thế. Ngài ban cho con người một khả năng phi thường hoà nhập vào Thần linh. Khi rước mình Đức Kitô, người tín hữu tiến dần đến sự hoà nhập với Đức Kitô. Nếu nghĩ rằng con người sẽ biến Thiên Chúa thành người thì được nuôi dưỡng bởi mình và máu Ngài thì thật là ấu trĩ. Con người được biến thành Thiên Chúa mới đúng. Con Thiên Chúa khi hiến thân làm lương thực thần hoá người nào ăn Ngài, Ngài cho người được tham dự vào bản tính Thần linh. Điều này khiến ta nghĩ đến câu tán tụng của mùa Giáng Sinh: Ôi trao đổi kỳ diệu, Thiên Chúa làm người để người được nên Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một cuốn phim mang tựa đề: “Cậu bé Marcellino” kể lại câu chuyện sau đây:
Ở cổng nhà dòng nọ có cậu bé bị bỏ rơi, một thầy dòng đã đem về nhà dòng nuôi. Với thời gian, cậu bé lớn lên, khôn ngoan và tinh nghịch. Vốn tính nghịch ngợm, cậu bé bị cấm không được leo lên kho trên gác. Nhưng vì tò mò, ngày nọ Marcellino đã leo lên kho trên gác. Cậu sửng sốt khi thấy có một người khổng lồ bị treo trên Thánh giá. Nghĩ rằng người này đang đói, nên ngay đêm đó, Marcellino đã lẻn vào bếp ăn cắp bánh và rượu đem lên cho người bị treo trên Thánh giá. Từ đó, ngày ngày cậu bé cứ âm thầm tiếp tế lương thực cho con người khốn khổ ấy. Thế rồi, một ngày nọ người khổng lồ ấy xuống khỏi Thánh giá, đến bên cạnh cậu bé và hỏi:
– “Con thích điều gì nhất”.
Cậu bé đáp:
– “Con muốn được thấy mẹ con”.
Người khổng lồ liền nói:
– “Con hãy nhắm mắt lại và ngủ say”.
Ngày hôm sau, các tu sĩ trong nhà không thấy Marcellino nữa, họ đi tìm khắp nơi và cuối cùng thấy cậu bé đã chết trong vòng tay của Chúa Giêsu trên Thánh giá.
Anh chị em thân mến, đối với Marcellino trong câu chuyện trên, bánh và rượu là ngôn ngữ cậu bé dùng để nói với Chúa Giêsu: “Con yêu mến Chúa”, “Con muốn được săn sóc Chúa, nuôi dưỡng Chúa”. Còn đối với Chúa Giêsu, bánh và rượu Ngài ban qua Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình yêu hiến thân để trở thành lương thực nuôi sống chúng ta, và Ngài muốn chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận.
Mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài trong Thánh Thể, con người mới có thể mở rộng trái tim và đôi bàn tay để đón nhận Ngài nơi tha nhân. Chúa Giêsu là Bánh từ trời xuống để lôi kéo họ về với Thiên Chúa. Chia sẻ sự sống thần linh nơi bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu được mời gọi chia sẻ cơm bánh hằng ngày với tha nhân. Và kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ với tha nhân, người tín hữu cảm nhận được sự sống trường sinh và hạnh phúc đích thức tràn ngập tâm hồn.
Thưa anh chị em, Bí tích Thánh Thể là Bí tích của Tình Yêu. Vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã có một sáng kiến lạ lùng là lấy chính Thịt Máu của Ngài làm của ăn của uống để nuôi sống chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: Chính Ngài là của ăn và của uống Chúa Giêsu ban hoàn toàn khác với manna và mạch nước trong sa mạc: “Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Chúa Giêsu không nhằm thoả mãn cái đói cái khát thể xác. Thế nên, Ngài xác quyết: “Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống”. Vậy Bánh Ngài ban chính là Thịt Máu Ngài. Cụm từ “Thịt Máu” ở đây không những bao gồm tất cả những gì nuôi sống linh hồn con người để đưa đến sự sống vĩnh cửu, mà còn ám chỉ đến Mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã nhập thể mang lấy xác phàm trong thân phận con người và đã đổ máu ra trên Thập giá để cứu chuộc nhân loại. Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn của uống là những cái thường tình nhất của cuộc sống chúng ta để đưa chúng ta đến sự sống vĩnh hằng.
Vì lý do đó, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến việc hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là kết hiệp mật thiết với chính Chúa Kitô, nghĩa là đồng hoá với Ngài, nên giống Ngài trong tư tưởng, ngôn ngữ và cuộc sống: “Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu tôi, người ấy sẽ ở trong Tôi và Tôi ở trong người ấy”. Không bí tích nào giúp chúng ta sống “với Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa” bằng bí tích Thánh Thể. Từ đó, Thánh Phaolô dám khẳng định: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Từ việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ đưa chúng ta đến việc hiệp nhất với các anh chị em tín hữu. Vì liên kết với Chúa Kitô, nên chúng ta cũng liên kết với nhau để làm thành một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô, điều mà Thánh Phaolô gọi là “Nhiệm thể Chúa Kitô”. Ăn Thịt và uống Máu Chúa Kitô là lãnh nhận một động lực mạnh mẽ nhất để dẹp bỏ và xua tan những mối bất đồng, những mâu thuẫn sâu xa nhất để chỉ còn trở nên với Chúa Kitô một thân xác và một linh hồn. Sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô hữu trong Bí tích Thánh Thể có sức mạnh thu phục những khách bàng quan, những người xa lạ đến với Giáo Hội, như các tín hữu thời sơ khai đã từng chinh phục và đem lại ảnh hưởng lớn lao cho thế giới ngoại giáo: Họ nói với nhau: “Kìa xem coi họ (các tín hữu Kitô) yêu thương đoàn kết với nhau biết chừng nào!” (x.Cv 2,42-47).
Anh chị em thân mến, “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Tất cả chúng ta đều được mời đến dự tiệc Thánh Thể. Thế nhưng có khá đông người tham dự Thánh lễ mà không tiếp rước Mình Máu Thánh Chúa. Phải chăng Thánh lễ đối với họ chỉ còn là một nghi thức và bổn phận phải làm, chứ không còn là sự sống được trao ban và lãnh nhận? Hoặc phải chăng vì thấy việc rước lễ xem ra không có hiệu quả trong đời sống, nên họ thất vọng và không muốn rước lễ nữa? “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Chẳng lẽ được mời đến dự tiệc mà chẳng ăn uống gì, chỉ ngồi đó “nhìn miệng” các thực khách, rồi ra về mà lòng vẫn u sầu và bụng vẫn đói meo? Thiết tưởng không phải vô ích khi khẳng định lại điều này: Chẳng bao giờ chúng ta đến với người khác thực sự, nếu không kết hợp thâm sâu với Chúa Kitô.
Đức Cha Helder Camera, Tông Giám Mục Giáo phận Récite ở Braxil, đã chia sẻ kinh nghiệm thống nhất đời sống hoạt động và chiêm niệm của ngài thế này: “Mỗi sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể, rồi suốt ngày, tôi gặp gỡ Đức Kitô nơi anh chị em tôi. Cũng một Chúa Giêsu ở trên bàn thờ và ngoài đường phố”. Có lẽ chúng ta dễ quên chân lý này: Hiệp nhất với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp nhất với anh em. Nói cách khác, hiệp nhất với Chúa Kitô đang hiện diện ẩn dấu nơi anh chị em mình, nhất là nơi những người nghèo đói và bất hạnh (x.Mt 25). Và chúng ta cũng hay quên rằng: Hiệp nhất sự sống phải được thể hiện trong sự hiệp nhất lối sống. Lối sống của Chúa Giêsu Thánh Thể là lối sống của tình yêu tự hiến để cho nhân loại được sống, là phục vụ đến hy sinh mạng sống để làm giá cứu chuộc muôn người.
Được nuôi dưỡng cùng một Bánh Thánh –là Thịt Máu Chúa Giêsu- chúng ta được mời gọi chia sẻ chén cơm hằng ngày cho anh em và dấn thân hoạt động cho một trật tự công bằng, huynh đệ, cho cuộc sống ấm no hạnh phúc của mọi người trên thế giới hôm nay.
Thường thì khi yêu thương ai chúng ta muốn ở gần, kề cận bên người mình thương. Nhiều khi chỉ cần ở bên nhau, nhìn nhau là tâm hồn thấy đủ, chẳng cần phải nói nhiều lời. Có cách gần gũi như giữa bạn hữu thân tình với nhau. Có cách thân mật như giữa vợ chồng gần nhau. Tuy nhiên tất cả đều giới hạn ở chỗ tuy gần nhau, nhưng vẫn chỉ ở bên nhau, ở ngoài nhau mà thôi.
Bằng một sáng kiến tuyệt vời, sáng kiến của một Vị Thiên Chúa, vượt quá mọi suy nghĩ, mọi phương thế của người phàm, Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu của người một cách tuyệt đỉnh khi lập Phép Thánh thể, để ở lại với chúng ta, trước khi về trời. Thật vậy, khi nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56) Chúa Giêsu không chỉ muốn ở gần, mà còn ở trong những người thương mến, khi họ rước Chúa. Mỗi khi rước Mình và Máu Thánh Chúa, chúng ta không biến Chúa thành thịt máu chúng ta, theo cách thông thường chúng ta ăn uống lương thực làm của nuôi thân xác, nhưng Chúa Phục sinh sẽ biến đổi chúng ta một cách nào đó nên giống Chúa, Đấng ba lần thánh, Nguồn hạnh phúc viên mãn, Sự Sống đời đời. Như vậy, khi ban Phép Thánh Thể, Thiên Chúa muốn ban điều trọn hảo cho những người mà Chúa yêu thương. “Yêu nhau là muốn điều tốt cho người mình yêu”, Thánh Tôma Aquinô đã nói như vậy.
Chúa ngự trong tâm hồn những ai rước Chúa với lòng tin tưởng, trông cậy và yêu mến, chẳng những để biến họ nên giống Chúa, mà còn để đem lại hạnh phúc cho họ là sự sống đời đời, vì Chúa chính là Nguồn Sự Sống. “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51). Sống hoài, sống mãi, là nỗi khát khao của con người mọi thời. Muốn được sống đời đời thì phải sống với Chúa, sống trong Chúa, sống nhờ Chúa, qua việc rước Chúa. Chúa ở đâu, Chúa cũng muốn người được Chúa yêu thương ở đấy và sự sống đời đời là điều kiện cần thiết để những ai được Chúa yêu thương và yêu thương Chúa được sum họp muôn đời với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Phép Thánh Thể là sáng kiến của một tình yêu tuyệt đỉnh mà Chúa dành cho hết mọi người, nếu chúng ta biết tin vào Chúa (Ga 6,35-36) và ăn uống Mình Máu Thánh Chúa (Ga 6,51).
Xin cho chúng con biết đáp trả lòng yêu thương vô bờ của Chúa bằng việc siêng năng dự lễ, viếng Thánh Thể và năng rước lễ một cách sốt sắng. Amen
(Trích trong ‘Cùng đọc Tin Mừng’ của Lm. Trần Ngà)
Mekong là một trong 12 con sông lớn nhất thế giới, với chiều dài 4,800 km, phát xuất từ Tây Tạng, chạy dọc theo suốt chiều dài của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), qua Myanmar (Miến Điện), Thái Lan, Lào, Cambodge, Việt Nam và cuối cùng hoà nhập với biển Đông, đem lại sự sống cho tôm cá, cho các loài thảo mộc, tưới xanh ruộng đồng, đem lại lương thực cho hàng triệu cư dân thuộc nhiều quốc gia nằm trong lưu vực của nó.
Sự sống thần linh, tức sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, một sự sống tuyệt vời và miên viễn, cũng tuôn chảy dạt dào và không ngừng không nghỉ như một dòng sông không bao giờ vơi cạn và sự sống ấy được thông ban cho vô vàn tín hữu của Thiên Chúa khắp nơi.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho ta biết Sự Sống thần linh bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha [Chúa Cha là Đấng hằng sống”. Ga 6,57] và được thông ban cho Chúa Con cũng như Chúa Thánh Thần, [“Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha.” Ga 6, 57]. Thế là nơi Ba Ngôi, Sự Sống dồi dào sung mãn như nước đầu nguồn của một dòng sông cả.
Như nước sông Mekong không ngưng đọng đầu nguồn nhưng tuôn đổ tràn trề xuống vùng hạ lưu, Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa cũng không dừng lại nơi Ba Ngôi nhưng tiếp tục thông ban cho nhân loại.
Nhưng làm sao nhân loại có thể đón nhận được Sự Sống thần linh của Thiên Chúa?
Sở dĩ Chúa Giêsu được tiếp nhận Sự Sống từ Chúa Cha là nhờ Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài. [Có lần Chúa Giêsu ngỏ lời với Philipphê: “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?… Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14, 10-11)]
Vậy nếu chúng ta muốn được tiếp nhận Sự Sống thần linh từ Chúa Giêsu thông ban, thì chúng ta cũng phải tìm cách ở trong Chúa Giêsu và để cho Chúa Giêsu ở trong chúng ta.
Cách đó thật quá dễ dàng vì chính Chúa Giêsu đã quảng đại mách bảo cho mọi người: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56)
Ngoài ra, theo bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem thì “khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân” (trích bài đọc Kinh Sách mùa Chay & Phục Sinh, bản dịch của nhóm PVGK trang 456).
Một khi được ở trong Chúa Giêsu, trở nên đồng huyết nhục với Chúa Giêsu thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu (vốn không hề lụi tàn) sẽ được chuyển thông cho người lãnh nhận. Người ấy được mang lấy sự sống bất tử của Thiên Chúa trong chính bản thân mình nên được sống đời đời. Chính vì thế nên Chúa Giêsu mới nói là “ai ăn Thịt và uống Máu tôi sẽ được sống đời đời.” (Ga 6, 54)
Thế là nhờ Bí Tích Thánh Thể, Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa đã được khơi dòng: Cội nguồn Sự Sống từ Chúa Cha được thông ban cho Chúa Con và Chúa Thánh Thần từ trước muôn đời, nay được thông ban cho những ai lãnh nhận Mình và Máu thánh Chúa Giêsu.
Thật là ân huệ tuyệt vời, Sự Sống thần linh của Ba Ngôi Thiên Chúa được ban tặng nhưng không cho nhân loại, và khi chúng ta tiếp nhận lấy Mình và Máu thánh Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, chúng ta đang chiếm hữu Sự Sống của Thiên Chúa, Sự Sống đời đời, cho chính mình ngay từ hôm nay.
* * *
Con người sẵn sàng trả giá tiền triệu, tiền tỉ và nếu cần bán cả gia tài để có được thuốc tốt giúp phục hồi sức khoẻ hay chống trả những căn bệnh hiểm nghèo đe doạ mạng sống. Vậy nay Chúa Giêsu biếu không cho chúng ta phương dược trường sinh hoàn toàn miễn phí và rất dễ chiếm hữu, lẽ nào chúng ta lại coi thường.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đời đời ghi nhớ công cha nghĩa mẹ vì các ngài đã cộng tác với Chúa ban tặng cho chúng ta sự sống tạm bợ đời nầy.
Còn Chúa, không những Chúa thực sự ban cho chúng con sự sống tạm bợ đời nầy mà còn sẵn sàng thông ban cả Sự Sống thần linh đời đời không hề tàn lụi, lẽ nào chúng con vẫn tiếp tục tỏ ra vô ơn với Chúa là Đấng rộng ban cho chúng con ân huệ vô cùng cao quý nầy.
Chương trình của Thiên Chúa từ đời đời là tạo dựng con người để con người thông hiệp với Ngài. Thuở ban đầu, Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh mình. Ngài thường xuyên đến nói chuyện với hai ông bà nguyên tổ của chúng ta trong tâm tình thân mật. Tuy nhiên ông bà nguyên tổ trong một lúc yếu lòng đã nghe theo lời ma quỷ mà từ khước tình yêu Thiên Chúa đối với mình. Vì muốn đưa con người trở lại tình trạng ơn nghĩa với Người, Người đã hứa ban Đấng Cứu Chuộc và đã ban Mình Máu Chúa Kitô ở lại trong hình Bánh Rượu cho chúng ta được thường xuyên gặp gỡ thân mật với Người.
Để thực hiện công cuộc cứu chuộc, Thiên Chúa đã chọn một dân riêng để chúc phúc và tỏ tình thương của người hầu cứu độ mọi người mọi thời. Đến thời đến buổi,Thiên Chúa đã sai con mình đến làm Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở với loài người, cho chúng ta thông dự vào tình yêu Chúa Ba Ngôi, nên một với Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Chúa Giêsu đến trần gian để chúng ta được ở trong Ngài và trở nên con cái Chúa, cho chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha. Ngài đã tiếp tục ở với nhân loại bằng cách trở nên của ăn nuôi sống linh hồn trong Bí tích Thánh thể. Chính Mình Máu Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể là Bánh đem lại sự sống mới.
Thánh Thể là chóp đỉnh của mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa là Bí tích cao trọng nhất vì không chỉ trao ban ân sủng mà trao chính Tác giả của ân sủng, Đấng là Thiên Chúa muôn loài lại trao hiến bản thân phục vụ loài người. Điều này giống như sự điên dại vì yêu thương của người mẹ đối với đứa con lêu lổng: mẹ sẵn sàng cho đi tất cả bản thân miễn sao con mình nhận ra được lòng yêu thương của người mẹ mà cải hoá, sửa đổi nên người. Chúng ta chưa yêu mến Chúa là vì chúng chưa thấy Chúa yêu mình. Thật ra chúng ta chỉ nghe người khác nói Chúa yêu chứ chưa cảm nghiệm tình yêu Chúa trong cầu nguyện, trong cuộc sống hằng ngày nên chưa thực lòng đáp lại, chỉ làm vì nhiệm vụ cho an tâm, miễn không phải sa hoả ngục thôi!
Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể là một sáng kiến táo bạo như không còn phân biệt địa vị Thiên Chúa và thụ tạo thấp hèn. Ngài đã đến làm người nghèo và bị coi như tử tội nữa! Chính Phêrô còn không hiểu được: “Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” (Ga 13, 6) hay có lần Phêrô trách Thầy: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy.” (Mt 16, 22). Lúc đó có lẽ các tông đồ còn chưa hiểu Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng chỉ coi là con người đặc biệt được Thiên Chúa sai đi làm nhiệm vụ Messia giải phóng dân Do thái. Thật quá ngỡ ngàng cho các tông đồ và chúng ta: một vị Thiên Chúa mà làm người chịu khổ hình bởi tay kẻ ác chết rên thánh giá và tiếp tục lấy thịt máu mình nuôi dưỡng cộng đoàn tín hữu.
Thánh thể đòi người tín hữu phải tham dự vào Hy Tế để có niềm vui Phục sinh, được tham dự vào chiến thắng của Ngài trên sự ác và hưởng hạnh phúc cùng với Ngài mai sau. Như vậy Thánh Thể cũng là câu trả lời cho những thắc mắc vì sao con người phải chịu đau khổ. Đau khổ của thánh giá đưa tới niềm vui lớn hơn là cùng được dự phần với Chúa Giêsu trong địa vị làm con Chúa. Khi chúng ta rước lễ, với tâm tình hiệp thông đó, cuộc sống chúng ta sẽ được biến đổi, sẵn sàng đón nhận thánh ý Chúa như Đức Kitô trên thánh giá và bảo đảm sẽ sống lại như Đức Kitô.
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Một Mục sư nọ kể lại câu chuyện sau đây:
Hai người lính vào trong một Giáo đường. Họ đứng giữa cộng đoàn đang sốt sắng cầu nguyện, người lính lớn tiếng đe dọa:
Ai không bỏ đạo sẽ bị bắn chết tại chỗ. Ai bỏ đạo thì đứng sang bên phải và được thả về; những người còn lại chuẩn bị để chết vì niềm tin của mình.
Nhưng trong bầu khí hoàn toàn tin tưởng, không ai rời khỏi vị trí mình đang cầu nguyện.
Trước bầu khí thinh lặng và thánh thiêng ấy, hai người lính kia thả súng xuống và nói:
Chúng tôi là những người Kitô, sở dĩ chúng tôi đã hành xử như vừa rồi là vì chúng tôi muốn thử xem có ai là người sẵn sàng chết cho niềm tin của mình không? Và chỉ những người như thế mới đáng được về.
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật Lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa tra vấn các người Kitô, mỗi người chúng ta có quyết liệt đến mức sẵn sàng chết vì điều mình tin chăng?
Sách Phúc Âm của Gioan đã thuật lại cho độc giả tới màn khá gay cấn. Sau bài Tin Mừng, tác giả cho biết nhiều môn đệ của Chúa Giêsu không ngần ngại nói trắng ra điều họ nghĩ: “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi” (Ga 6,60). Kết quả là nhiều môn đệ rút lui không còn tin vào Chúa Giêsu nữa, không còn đồng hành chung với Ngài nữa. Đó là lúc chính Chúa Giêsu đã muốn nhóm Mười Hai phải xác định rõ lập trường về niềm tin của mình: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Chúng ta biết, một bên là Phêrô đã tuyên xưng thay cho các Tông Đồ: “Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai. Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời”. Và bên kia là Giuđa Iscariô không những bỏ Thầy mà còn phản Thầy nữa.
Toàn bộ chương VI của Phúc Âm thánh Gioan đặt các môn đệ trước thái độ quyết liệt này, các ông đã được thấy Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều (x. Ga 6,1-10), rồi đi trên mặt nước và trong nháy mắt thuyền đã cập bến không cần chèo chống (x. Ga 6,16-21). Rồi cuối bài giảng tại hội đường Capharnaum, ở đó Chúa Giêsu xưng mình là Bánh Hằng Sống (x. Ga 6,26-59). Bài Phúc Âm hôm nay rút từ bài diễn văn của Chúa tại Hội Đường Capharnaum: “Ta là Bánh Hằng Sống từ Trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời và bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta đây để cho thế gian được sống”.
Chúng ta có còn tin tưởng vững vàng vào Lời Chúa phán hay không?
Ngày 3.5.1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cử hành Thánh Lễ Mình và Máu Thánh Chúa tại đền thờ thánh Gioan Latêranô ở Rôma. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong ước tất cả mọi người hiệp ý với Ngài dâng lên Chúa Giêsu Thánh Thể lời nguyện cho hòa bình tại Kosovo và cho tất cả mọi người trên thế giới. Sau đây xin được trích lại bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Thánh Lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa để chúng ta cùng hiệp ý chia sẻ và mừng kính Lễ Mình Máu Thánh Chúa trong ngày hôm nay.
“Hỡi Sion, hãy dâng lên lời chúc tụng Đấng Cứu Thế”.
Lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa là ngày Lễ Chúc Tụng và Tạ Ơn. Trong lễ này, dân Kitô hiệp nhau quanh bàn thờ để chiêm ngắm và tôn thờ mầu nhiệm Thánh Thể, nhắc nhớ hy tế Chúa Kitô, Đấng đã ban cho tất cả mọi người ơn cứu độ và sự bình an.
Việc cử hành Thánh Lễ trọng thể và cuộc rước kiệu theo truyền thống, cả hai đều hướng đến một mục tiêu đặc biệt là cầu khẩn tha thiết cho “Hòa Bình”. Trong khi chúng ta tôn thờ Mình Thánh của Đấng là Đầu, là Chúa Giêsu. Làm sao chúng ta không liên đới để trở thành những chi thể của Người đang chịu đau khổ vì chiến tranh?
Phải, thưa anh chị em thân mến,
Những tín hữu Rôma và khách hành hương hôm nay, tất cả chúng ta bắt đầu cầu nguyện chung với nhau cho Hòa Bình. Chúng ta hãy cầu nguyện đặc biêt cho hòa bình tại Kosovo. Ước chi Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe soi sáng và hướng dẫn chúng ta.
Trong bài đọc thứ nhất vang lên mệnh lệnh của Chúa: “Con hãy nhớ lại con đường mà Thiên Chúa đã cho con đi qua” (Dnl 8,2). “Con hãy nhớ lại”, đây là mệnh lệnh thứ nhất, không phải lời mời gọi mà là mệnh lệnh Chúa gởi đến dân Ngài trước khi đưa họ vào đất hứa. Thiên Chúa ra lệnh cho họ là đừng quên.
Để có được sự hòa bình của Thiên Chúa hứa ban thì trước hết hãy “đừng quên”, hãy biết sử dụng những kinh nghiệm đã trải qua, kể cả những sai lầm, người ta cũng có thể rút ra một bài học để định hướng tốt hơn cho con đường mình đang đi. Khi nhìn về thế kỷ này và nhìn về ngàn năm sắp kết thúc, làm sao chúng ta không nhớ lại những thử thách khủng khiếp mà nhân loại đã gánh chịu, chúng ta không thể nào quên được, ngược lại chúng ta phải nhớ. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, giúp chúng ta rút ra những bài học đúng từ những thăng trầm chúng ta trải qua cũng như của những ai đã đi trước chúng ta.
Lịch sử muốn nói đến những khát vọng to lớn là muốn có hòa bình, nhưng cũng nói đến thất vọng mà nhân loại đã phải chịu nữa là “nước mắt và máu”. Chính ngày hôm nay 3.6.1963, cách đây hơn ba mươi năm về trước, Đức Gioan XXIII qua đời. Ngài là vị Giáo Hoàng của “Thông Điệp Hòa Bình Trên Mặt Đất”. Thông Điệp này đã được mọi người đồng thanh ca tụng biết chừng nào, trong đó có nói lên những đường nét chính đích thực cho việc xây dựng hòa bình thế giới. Nhưng biết bao lần trong những năm qua, người ta phải chứng kiến biết bao vụ bùng nổ, gây chiến, bạo lực, chiến tranh trên thế giới. Tuy nhiên, người tín hữu không đầu hàng, người tín hữu biết mình có sức cậy dựa vào sự trợ lực của Thiên Chúa. Về điểm này, những lời của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly thật là có ý nghĩa: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy đem lại bình an không như cách thức thế gian đã ban cho” (Ga 14,27).
Ngày hôm nay, chúng ta muốn hiểu thấu những lời này và hiểu cách sâu xa hơn nữa. Trong tinh thần, chúng ta hãy bước vào nhà Tiệc Ly với Chúa Giêsu qua việc Ngài trao ban chính Mình và Máu Ngài dưới hình bánh và rượu mà Ngài đã thực hiện ở Calvariô đang được tái diễn trong nhiệm tích Thánh Thể. Chính trong cách thức này mà Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta sự bình an. Sau này Thánh Phaolô đã bình luận: “Người là hòa bình của chúng ta”.
Khi trao ban chính Mình, Chúa Giêsu Kitô trao ban cho chúng ta chính sự bình an. Hòa bình của Chúa không phải là hòa bình của thế gian, nhưng hòa bình của Chúa Kitô là kết quả sự Vượt Qua của Ngài, nghĩa là kết quả của hy tế trong cuộc vượt qua của Ngài.
“Bánh mà Ta ban cho là Thịt Ta để cho thế gian được sống”. Đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe, những lời này của Chúa Giêsu làm cho chúng ta hiểu thế nào là nguồn mạch của hòa bình đích thực. Chúa Kitô là hòa bình của chúng ta, là Bánh được trao ban cho thế gian để được sống. Đó là Bánh mà Thiên Chúa Cha đã chuẩn bị, ngõ hầu để nhân loại được sống và sống dồi dào: “Thiên Chúa đã không tha Con Một Ngài, nhưng đã trao ban Con Một Ngài” (Ga 3,16), để cứu rỗi tất cả, như là Bánh nuôi sống tất cả.
Ngôn ngữ Chúa Giêsu dùng thật rõ ràng. Để được sống thì không chỉ tin Chúa mà thôi, còn cần phải sống như Chúa, sống bằng sự sống của Chúa. Vì vậy mà Ngôi Lời đã Nhập Thể, chết và sống lại. Người đã ban cho ta Thánh Thần của Ngài, nhờ vậy mà chúng ta biết Thánh Thể, ngõ hầu chúng ta có thể sống nhờ Ngài, như Ngài sống nhờ Chúa Cha (Ga 6,5). Bí tích Thánh Thể là bí tích của hồng ân mà chính Chúa Kitô đã trao ban cho chúng ta, là bí tích của tình thương và hòa bình, là sức sống sung mãn “Bánh Hằng Sống, Bánh ban sức sống”.
Ước gì lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa gia tăng đức tin của chúng ta vào Chúa Giêsu, vào Bí Tích Thánh Thể. Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta, ban cho chúng ta sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, bước theo Chúa chúng con dấn thân chống lại bạo lực của con người trên con người mà không dùng đến bạo lực. Chúng con cần có sức mạnh của tình thương Chúa, chúng con cần lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa để được sống sự sống của Chúa, để được sức mạnh của Chúa, sức mạnh của tình thương chiến thắng trên bạo lực.
Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn, nhờ bí tích Thánh Thể chúng con được lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa, chúng con lãnh nhận sự sống của Chúa trong mình chúng con, xin cho chúng con mỗi ngày trở nên giống Chúa nhiều hơn. Amen.
Nếu đọc lại Phúc Âm, chúng ta sẽ thấy từ việc chuẩn bị đến việc thiết lập và cử hành bí tích Thánh Thể, tất cả đều được diễn ra trong bàu khí của một bữa ăn.
Thực vậy, bữa tiệc thứ nhất đó là đám cưới Cana, tại đây Chúa Giêsu đã làm phép lạ biến nước lã hóa thành rượu ngon. Qua phép lạ này Chúa Giêsu không phải chỉ muốn cứu cho đôi tân khỏi bị bẽ mặt với khách mời vì thiếu rượu, mà còn muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ, cũng như chuẩn bị cho các ông đón nhận bữa tiệc ly sau này, khi Ngài biến rượu thành máu thánh Người.
Tiếp đến là phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng đám đông trong hoang địa. Qua phép lạ này, Chúa Giêsu đã chính thức hứa ban cho chúng ta thứ của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta:
– Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống, ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời. Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày tận thế. (Ga 6,55-56).
Thế nhưng, quan trọng hơn cả phải là bữa tiệc ly, qua đó Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể vào buổi chiều ngày Thứ năm Tuần Thánh. Phúc âm đã kể lại như sau: Đang khi ngồi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ và phán:
– Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con.
Cùng một thể thức ấy Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói:
– Tất cả hãy cầm lấy mà uống vì này là chén máu Ta, máu giao ước sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. (Mt 26,26-29).
Cuối cùng, đó là bữa ăn nơi quán trọ gần làng Emmaus. Sau khi hai môn đệ mời Người vào nghỉ chân, Người đã cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho họ. Và họ đã nhận ra Người đã Phục sinh, đã sống lại. (Lc 24,13-35).
Nhìn vào đời thường, chúng ta thấy, những người cùng ngồi ăn với nhau trong một bàn tiệc trong một bữa cơm, thường có một mẫu số chung nào đó. Mẫu số chung ấy có thể là tình nghĩa gia đình, tình nghĩa bè bạn. Mẫu số chung ấy còn có thể là một niềm vui, một nỗi buồn, hay một công việc cùng làm. Vì thế, bữa ăn trở nên một biểu tượng của tình yêu, của cảm thông, của hợp nhất.
Bàn tiệc Thánh Thể cũng vậy, phải là biểu tượng của yêu thương, của cảm thông, của hợp nhất, như lời thánh Phaolô:
– Chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể Đức Kitô. (1Cr 10,17)
Vì thế, sống Bí tích Thánh Thể cũng chính là sống yêu thương, sống cảm thông, sống hợp nhất. Chúng ta phải bắt chước cộng đoàn Giêrusalem ở những năm tháng đầu tiên khi Giáo hội còn phôi thai. Từ nghi thức bẻ bánh trở về, họ đã gom góp tài sản riêng làm của chung, rồi phân phối theo nhu cầu của mọi người, đến nỗi dân ngoại đã phải thán phục và kêu lên:
– Kìa xem họ yêu thương nhau biết là chừng nào. (Cv 2,42-46).
Còn chúng ta thì sao? Hằng ngày, hay ít nữa là hàng tuần, chúng ta đều đến nhà thờ tham dự thánh lễ, thế nhưng, trong cuộc đời, chúng ta đã thực sự sống yêu thương, sống cảm thông và sống hiệp nhất với nhau hay chưa?
Càng ngày người ta càng nghe câu nói làm tổn thương đến đời sống Kitô hữu: “Tôi là tín hữu nhưng không hành đạo”. Tôi hy vọng rằng tất cả con người bạn nổi lên chống lại cái khẳng định tách rời sự “hành đạo” với “đức tin” này. Nhưng chúng ta hãy xem xét kỹ mối dây liên kết giữa hai điều trên.
Việc chúng ta suy niệm về Bánh Hằng Sống sẽ chỉ cho chúng ta thấy mối liên kết giữa hai phần của cuộc sống Kitô hữu: “Nếu các ngươi không ăn thịt Ta, nếu các ngươi không uống máu Ta, các ngươi sẽ không có sự sống”
Tiếng cốt lõi đó là: sự sống. Người tín hữu không hành đạo rất có ý muốn “sống đức tin” của mình. Và điều này được thể hiện tức khắc do một mối quan tâm chính đáng về tình yêu thương anh em: “Tôi tin vào Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Chúa Kitô không đòi hỏi tôi phải đi lễ, Ngài đòi hỏi tôi phải yêu thương”.
Ngài đòi hỏi cả hai việc! Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”, cũng chính là Chúa Giêsu đã báo trước cho chúng ta: “Nếu các con không hiệp thông cùng thịt và máu Ta, các con sẽ không có sự sống. Sự sống này cho phép các con là anh em với nhau như Thầy là anh em với các con”.
Phép Thánh Thể kết hợp chúng ta với cuộc sống của Chúa Kitô đến nỗi chúng ta không dám nghĩ đến điều đó nếu chính Ngài không nói với chúng ta: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì kẻ ấy ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”. Tôi nghĩ đến một câu rất hay của thánh Cypriano: “Ai chiếm trọn tâm lòng chúng ta kẻ ấy cũng được chúng ta nói đến”. Người ta có thể thêm: người ấy cũng hiện diện trong các cử chỉ của chúng ta, trong cách thức chúng ta yêu thương nữa.
Người tín hữu muốn yêu thương mà “không đi lễ” thì không thấy được rằng họ ít có đức tin bởi vì họ không tin vào một lời nói mạnh mẽ của Chúa Giêsu: “Không ăn Bánh Hằng Sống thì các ngươi sẽ không có sự sống”. Người tin nửa vời này và người không tin có thể rất thương yêu nhau như anh em. Điều này rất thường gặp. Nhưng họ khó và hiếm khi yêu thương “như Chúa Giêsu”. Đối với người không tin, đây là điều bình thường. Đối với người tín hữu thì đây là một sự lệch lạc: muốn là môn đệ của Chúa Giêsu, bắt chước Chúa Giêsu mà không nuôi dưỡng mình bằng sự sống của Ngài.
Tôi biết rõ vấn nạn kinh khủng này: thực ra, người tín hữu hành đạo không bỏ lễ có yêu thương anh em đến thế chăng?
Trước hết, vơ đũa cả nắm là điều không tốt. Có những người tôn sùng Thánh Thể mà sự dễ thương và lòng độ lượng nói lên rất nhiều về “sự sống của Chúa Kitô” nơi họ.
Nhưng vấn đề Thánh Thể –liên quan đến tất cả chúng ta- chính là vấn đề sức sống Thánh Thể của chúng ta. Nhận lãnh sự sống bằng cách ăn Bánh Hằng Sống đòi hỏi một sự chú ý, một sự gắn bó bên trong là những điều thường quá thiếu vắng. Rước lễ dần dần trở nên ma thuật và thói quen, như thể việc di chuyển và giơ hai tay ra là đủ để trở nên một người xin sự sống đầy quyền lực. Không, điều này đòi buộc một niềm tin thức tỉnh nói với chúng ta lúc ấy, là tại sao chúng ta đi rước lễ và chúng ta vừa nhận lãnh thứ lương thực gì. “Một thứ bánh bị bẻ ra vì một thế giới mới”, một cuộc sống bị nghiền nát để chúng ta có thể thoát ra khỏi ích kỷ và kiêu ngạo. Không có cái chết này làm sao chúng ta là anh em với nhau được?
Nhân ngày lễ kính Mình và Máu thánh Đức Kitô hôm nay, tôi muốn trình bày về mối liên hệ giữa thánh lễ với cuộc đời mỗi người chúng ta. Mối liên hệ ấy được diễn tả qua hai ý tưởng.
Ý tưởng thứ nhất: cuộc đời chính là một thánh lễ được nối dài.
Thực vậy, có nhiều người trong chúng ta chỉ sống đạo trong nhà thờ, nhưng lại không sống đạo giữa lòng cuộc đời. Tới nhà thờ, họ là những con chiên ngoan. Nhưng khi thánh lễ kết thúc, bước xuống cuộc đời, họ lại vội vã dẹp bỏ niềm tin, như cởi bỏ bộ quần áo đẹp họ mặc vào khi đi tham dự thánh lễ, cất kỹ trong tủ, để hóa kiếp trở thành một loài lang sói bằng những hành động thù oán, bất công và ghen ghét.
Họ tách biệt thánh lễ ra khỏi cuộc đời và trong suốt khoảng thời gian còn lại, họ quên đi mình là người Kitô hữu.
Tôi nghĩ rằng cách sống đạo chỉ hạn hẹp trong bốn bức tường nhà thờ chắc chắn sẽ không thể nào làm đẹp lòng Chúa, bởi vì chính Ngài đã muốn chúng ta phải sống đạo giữa đời. Ngài đòi hỏi chúng ta phải trở nên như men trong bột, như muối trong thức ăn, như ánh sáng trong đêm tối. Nghĩa là tình thần của Phúc âm phải thấm nhiễm vào toàn bộ cuộc sống chúng ta, rồi từ nền tảng ấy, nó dần dần cải tạo cái môi trường xã hội chúng ta đang tiếp xúc.
Khi vị Linh mục nói với chúng ta:
– Lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an.
Điều ấy không có nghĩa là: thánh lễ đã kết thúc khi cánh cửa nhà thờ khép lại, trái lại còn phải mở ra cho chúng ta một thánh lễ khác nữa, thánh lễ giữa lòng cuộc đời, thánh lễ của chính cuộc sống.
Điều ấy còn muốn nói lên rằng chúng ta phải kéo dài thánh lễ từ nhà thờ đến cuộc sống, phải biến cuộc đời chúng ta trở thành một thành lễ nối dài, phải thực hiện tinh thần thánh lễ trong chính môi trường và hoàn cảnh xã hội. Hay nói một cách khác: điều quan trọng không phải chỉ là phải sống đạo trong nhà thờ, mà còn phải sống đạo trong cuộc đời. Mỗi người chúng ta phải trở nên muối ướp cho xã hội khỏi ươn thối, phải trở nên men làm cho xã hội dậy lên hương thơm thánh thiện, phải trở nên ánh sáng phá tan bóng tối đang bao phủ xã hội. Và như vậy, cuộc đời chính là một thánh lễ được nối dài.
Ý tưởng thứ hai: Dưới một góc độ nào đó, Thánh lễ cũng chính là cuộc đời được kết đọng lại.
Thực vậy, nhiều khi chúng ta đã có quan niệm sai lạc, coi việc đi tham dự thánh lễ như đi xem một vở kịch, một cuốn phim, để rồi có thái độ hoàn toàn thụ động và dửng dưng.
Trong khi đó, thánh lễ đòi hỏi mỗi người tham dự phải có một thái độ tích cực. Chúng ta cùng dâng thánh lễ với vị Linh mục, bởi vì chúng ta cùng sống một tâm tình, cùng dâng một lễ vật là Mình và Máu thánh Đức Kitô.
Ngoài ra, lễ vật riêng tư của mỗi người còn là những lao công vất vả, những khổ đau buồn phiền, những gian nguy thử thách mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Chúng ta dâng lên cùng với Mình và Máu thánh Đức Kitô, nhờ đó những hy sinh nhỏ bé và tầm thường của chúng ta sẽ có được một giá trị thiêng liêng to lớn, trở nên như một góp phần vào hy lễ thập giá, đồng thời trở nên như những sợi chỉ vàng dệt thành tấm vải cuộc đời của chúng ta.
Như thế, dưới một góc cạnh nào đó, thánh lễ cũng chính là cuộc đời được kết đọng lại. Chúng ta nên nhớ rằng: Thánh lễ trong nhà thờ cần phải được tiếp nối trong cuộc sống thường ngày bằng cách chấp nhận những gian khổ là như thập giá Chúa muốn chúng ta vác lấy, cũng như bằng cách thực thi những hành động bác ái yêu thương, giúp đỡ những người chung quanh. Đồng thời, cuộc sống của chúng ta cũng cần phải được cử hành trong thánh lễ tại nhà thờ bằng cách dâng lên Chúa những thập giá, những hy sinh chúng ta gặp phải.
Và như vậy, có một sự pha trộn, có một sự hòa nhập, có một sự liên hệ mật thiết giữa thánh lễ được cử hành trong nhà thờ với cuộc đời chúng ta đang sống.
Tại Tây Ban Nha có một câu chuyện về cậu bé tên là Marcellino. Mới sinh ra cậu bị người ta quăng trước cửa tu viện, và đã được các tu sĩ đem về nuôi.
Vốn tính hay nghịch ngợm, nên thày đầu bếp không cho cậu leo lên gác. Nhưng vì tò mò, một ngày kia Marcellino lén leo lên, cậu ngạc nhiên thấy một người khổng lồ bị treo trên thập giá. Nghĩ rằng người ấy chắc là đói lắm, nên đêm hôm ấy Marcellino vào bếp ăn cắp bánh mang lên cho ông. Người khổng lồ đưa tay nhận bánh và mỉm cười với cậu.
Từ đó, ngày nào cậu cũng đem bánh cho người ấy. Ngày kia, ông âu yếm ôm lấy cậu bé và hỏi:
– Con thích nhất điều gì trên trần gian này?
Cậu mau mắn thưa:
– Con muốn được gặp mẹ con.
Người ấy liền nói với cậu bé:
– Con sẽ được gặp mẹ con ngay tức khắc nếu con chấp nhận phải chết đi.
Hôm sau các thầy tìm thấy cậu nằm chết như đang ngủ say trong vòng tay thương mến của Chúa Giêsu.
Vì yêu thương mẹ, muốn được ở bên mẹ, mà Marcellino đã bằng lòng chịu chết. Vì yêu thương con người, Đức Giêsu cũng đã sẵn lòng chịu chết để cho con người được sống. Hơn nữa, Người còn có sáng kiến là hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, để được ở mãi với con người, để làm của ăn của uống, như lương thực nuôi dưỡng con người trên cuộc hành trình về quê trời. Người đã hứa: “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.
Thánh thể là Bí tích Tình Yêu. Khi mời gọi: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, Đức Giêsu muốn các Kitô hữu hãy lập lại cái chết tự hiến vì yêu thương của Người, bằng cả cuộc sống dấn thân và trao ban.
Khi lãnh nhận bánh Thánh Thể, người tín hữu ý thức mình đang lãnh nhận tình yêu Chúa. Và như dòng suối ân tình, họ lại tuôn trào tình yêu Chúa sang cho anh em đồng loại.
Khi chia sẻ bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu cũng muốn chia sẻ cơm bánh cho tha nhân, chia sẻ hồng ân của Đức Kitô cho những kẻ đói nghèo, túng thiếu, không nơi nương tựa.
Chính khi nhận lãnh Thánh Thể để rồi chia sẻ trao ban, người tín hữu lại nhận được sự sống trường sinh và niềm vui lại tràn ngập tâm hồn.
Vì thế, sống Bí tích Thánh Thể chính là sống yêu thương, sống Bí tích Thánh Thể là sống cho và vì Đức Kitô, sống Bí tích Thánh Thể là sống như Đức Kitô đã sống và đã hiến trao cách quảng đại cho tha nhân.
Người tín hữu không lãnh nhận bánh Thánh Thể để cất giữ cho riêng mình, nhưng là để biến con người mình thành lương thực nuôi dưỡng anh em.
Việc chia nhau một tấm bánh nhắc nhở chúng ta sống là phải chia sẻ và trao ban, sống là yêu thương và hy sinh cho nhau.
Trong thánh lễ bế mạc Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 45, Đức Thánh Cha kêu gọi: “Chúng ta rước Mình Thánh Chúa Kitô mà đồng thời lại sống xa lạ với những người đang đói khát, kẻ bị bóc lột, tù đày hay đau yếu”.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, khi chúng con sống yêu thương là chúng con đang làm chứng rằng: Chúa chính là sức sống mãnh liệt của chúng con.
Xin cho chúng con khi lãnh nhận bánh Thánh Thể cũng đón nhận được sức sống mới của Chúa, để chúng con ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa trong cuộc sống chúng con.
*****
Vào lúc 7 giờ chiều ngày 26/05/2005, ĐTC Benedictô XVI đã long trọng cử hành Thánh Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô tại quảng trường trước mặt Đền Thờ Thánh Gioan Lateranô.
Sau thánh lễ ĐTC chủ sự cuộc Rước Kiệu Mình Thánh Chúa. Cuộc rước kiệu được bắt đầu từ Đền Thờ Thánh Gioan Laterano, đi dọc theo các đường phố, đến Đền Thờ Đức Bà Cả.
Năm nay (10/2004-10/2005) là năm Thánh Thể, bởi vậy ngày Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô có một ý nghĩa rất đặc biệt. Trước ngày lễ một ngày, trong buổi tiếp kiến chung thứ Tư hằng tuần, ngày 25/05/2005, ĐTC đã mời gọi các tín hữu hăng hái tham dự thánh lễ này. Trước đó không lâu, Đức Hồng Y Camillo Ruini, tổng đại diện của ĐTC cai quản Giáo Phận Rôma, cũng đã thông báo cho các tín hữu và mời gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn để tham dự Lễ mình Máu Thánh Chúa Kitô trong năm Thánh Thể này. Ngài cũng mời gọi các thiếu nhi đã được rước lễ lần đầu trong dịp đầu năm nay (2005), hãy mặc đồng phục màu trắng, và cùng với phụ huynh và các giáo lý viên tới tham dự lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Đức Hồng Y Ruini cũng mời gọi các cư dân, các nhà thờ, các tu viện, học đường, ở dọc theo những con đường mà cuộc Rước Kiệu Mình Thánh Chúa sẽ đi qua, hãy đặc biệt trang hoàng đẹp đẽ để đón chào Cuộc Rước Kiệu Mình Thánh Chúa.
Trước khi cử hành cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa, ĐTC nói rằng, các tín hữu hy vọng “các đường phố của chúng ta sẽ là những đường phố của Chúa Giêsu”.
Trong bài giảng, ĐTC đã so sánh những diễn tiến trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh, là khi Giáo Hội “đồng hành với Chúa Giêsu đang đơn độc tiến bước trên Đường Thập Giá”, với những diễn tiến của Cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa hôm nay, là khi Giáo Hội thể hiện cách cụ thể mệnh lệnh rao giảng Tin Mừng của Chúa Phục Sinh.
ĐTC nói tiếp: “Chúng ta mang Chúa Giêsu, hiện diện trong hình Bánh, đi khắp trên các đường phố của chúng ta. Chúng ta phó thác những đường phố, những ngôi nhà, tất cả cuộc sống của chúng ta, trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Ước gì những đường phố của chúng ta sẽ là những đường phố của Chúa Giêsu! ước gì những ngôi nhà của chúng ta sẽ là những ngôi nhà dành cho Chúa Giêsu! Nguyện xin Chúa Giêsu luôn hiện diện trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta!”
“Qua cuộc rước kiệu này, chúng ta hãy đặt trước ánh mắt Chúa Giêsu, tất cả những khổ đau của những bệnh nhân; những nỗi cô đơn của những người trẻ và của những người già; những cám dỗ, những nỗi lo lắng trong cuộc sống của chúng ta.”
Cuối cùng ĐTC nói: “Cuộc rước kiệu này có ý nghĩa chúc lành cho thành phố của chúng ta. Đức Kitô, trong ngôi vị là Con Người, đang ban phúc lành của Thiên Chúa cho thế giới của chúng ta.”
Trong suốt cuộc rước kiệu, ĐTC quỳ gối trước một bàn thờ nhỏ có đặt Hào Quang Mình Thánh Chúa, với những đèn điện chiếu sáng, trên một chiếc xe mui trần màu trắng. Mọi người nghiêm trang đi bộ theo đoàn kiệu vừa hát Thánh ca vừa sốt sắng cầu nguyện
Thánh Gioan đã định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Quả thật, Thiên Chúa luôn yêu thương con người và yêu họ đến cùng, dù cho con người có bất trung hay chưa nhận ra được tình yêu đó. Bí tích Thánh Thể là sáng kiến độc đáo và tuyệt vời của Thiên Chúa để Ngài có thể được sống bên những người mà Ngài yêu mến. Đức Giêsu Kitô đã hứa: “Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Bí tích Thánh Thể là biểu lộ tình yêu vô thuỷ vô chung và tuyệt vời ấy: yêu đến cùng.
Với Bí tích Thánh Thể, không những con người được hưởng nhờ Thần lương để nuôi sống linh hồn mình mà cả vật chất bất động cũng được nâng lên, cả công lao của con người cũng được thánh hiến. Vật chất trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh. Như thế, vật chất có chỗ trong thế giới của Thiên Chúa.
Ta hãy nhớ lại ý hướng và ước muốn lạ lùng của Đức Giêsu của Chúa Giêsu khi Ngài lập Bí tích Thánh Thể: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Như thế đã đủ cho chúng ta cảm nghiệm được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta và giúp chúng ta nhận ra được chương trình của Ngài dành cho tạo vật. Thiên Chúa luôn nhất quán trong mọi hành động của Ngài. Thiên Chúa không làm việc nửa vời, không yêu nửa chừng, không làm việc tuỳ hứng, nhưng Ngài làm việc gì thì Ngài làm đến nơi đến chốn. Tình yêu thuộc về bản tính của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa là tình yêu toàn năng. Ngài làm mọi sự chỉ vì yêu.
Một câu chuyện cảm động được kể lại từ chính một bà mẹ và đứa con 4 tuổi của bà được cứu sống sau một trận động đất ở Ac-mê-ni vào tháng 12 năm 1987. Người mẹ đó là bà Susanna. Bà nói: “Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn cho con tôi được sống”. Trong trận động đất kinh khủng ấy, hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch trong đó có hai mẹ con bà Susanna nhưng bà và con bà được may mắn còn sống sót. Cô con gái 4 tuổi của bà đòi uống nước. Nhưng tìm đâu ra nước cho nó uống khi hai mẹ con không có lối ra? Tình mẫu tử đã gợi cho bà một ý nghĩ táo bạo. Bà đã rạch cho ngón tay của mình chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu của người mẹ và nó đã sống cho đến khi hai mẹ con được cứu sống.
Câu chuyện cảm động trên giúp chúng ta hiểu được phần nào về Bí tích Thánh Thể. Đức Giêsu đã tự nguyện chịu chết để cho chúng ta được sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết Thập giá để cứu sống chúng ta. Ngài muốn Máu của Ngài trở nên thức uống cho chúng ta.
Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa là một trong những Bí tích cao quí nhất của người Kitô hữu, nhưng cũng là Bí tích gây nhiều thắc mắc nhất cho con người ở mọi thời. Những người ngoài Kitô giáo không thể nào hiểu nổi và chắc cũng không thể nào tin nổi tấm bánh mỏng manh và không mùi vị đó lại là Mình Thánh Chúa Giêsu, và chén rượu ấy là Máu của Chúa. Đây là mầu nhiệm đức tin không dễ gì giải thích cho người ngoài. Còn chúng ta, những người đã tin vào Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên mọi sự, chúng ta hãy vững tin vào Chúa. Bởi lẽ, từ hư không mà Chúa còn làm ra mọi sự, thì huống chi là từ một tấm bánh, Chúa lại không thể dùng nó để hoá nên Thân Thể Ngài cho chúng ta được sao?
Thánh Phaxicô Assisi đã nói rằng: “Khi chúng ta rước lễ, thì không phải chúng ta rước lấy Chúa Giêsu mà chính là Chúa Thánh Thần trong chúng ta rước lấy Người”. Xin Chúa Thánh Thần biến đổi lòng trí chúng ta để chúng ta hết lòng tin kính và mến yêu Chúa Giêsu Thánh Thể, để nhờ lòng tin yêu ấy, chúng ta sẽ được sống nhờ Chúa. Amen.
Một số anh chị em dự tòng sau khi được học hỏi về sự cao quí, về tầm quan trọng và về sự cần thiết của thánh lễ cũng như của bí tích Thánh Thể đã đưa ra câu hỏi: Nếu thánh lễ và mầu nhiệm Thánh thể cao quí và cần thiết cho đời sống thiêng liêng như vậy, thì tại sao nhiều người Công giáo lại không đi dâng lễ, hay nếu có đi thì lại ngồi ở ngoài hút thuốc, nói chuyện, chơi giỡn và hầu như không bao giờ rước Mình Thánh Chúa?
Một câu hỏi quả là gây nhức nhối và rất đáng để những người mang danh là Kitô hữu phải suy nghĩ. Có lẽ ta khó có thể tìm được một lý do nào chính đáng để trả lời cho thắc mắc này ngoài việc nhận thực rằng; do yếu kém về giáo lý, do thiếu hiểu biết về Chúa, về những gì Người đã dạy và đã làm, do thiếu ý thức về những sự thánh thiêng, do thiếu trưởng thành trong đời sống đạo nên mới xảy ra những trường hợp như vậy. Vì những cái thiếu kể trên nên nhiều người đã không thấy được sự cao quí và tầm quan trọng của việc dâng lễ và việc rước Thánh Thể. Những người này coi việc đi dâng lễ ngày Chúa nhật chỉ là một khoản luật phải giữ để khỏi có tội, để khỏi bị phạt mà thôi. Họ không ý thức rằng thánh lễ và Thánh thể là những điểm hẹn để họ gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của mình. Họ cũng không biết rằng đây là cơ hội rất quí báu để có thể kín múc lấy nguồn sự sống, nguồn ân sủng cần thiết cho cuộc đời.
Thánh lễ và bí tích Thánh Thể không do Hội thánh, không do bất cứ ai bịa đặt ra, nhưng là do chính Chúa Kitô thiết lập. Thánh lễ ngày nay tái diễn và làm sống lại thánh lễ Chúa Kitô đã dâng khi xưa trên thánh giá để tiếp tục chuyển thông ơn cứu rỗi cho mọi người, mọi thời và mọi nơi. Và Thánh Thể chính là lương thực nuôi sống linh hồn ta trong hành trình làm người, cũng là hành trình đi về quê hương trên trời. Chúa Giêsu đã nói đi nói lại nhiều lần: “Thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì sẽ được sống đời đời”. Ngay cả khi Người biết rõ ràng rằng: Nếu Người nói ra những điều ấy, người ta sẽ không tin, sẽ nhạo cười và sẽ bỏ đi, Người vẫn cứ nói. Điều đó cho thấy vấn đề Chúa Giêsu nói ra quan trọng và cần thiết như thế nào.
Con người không chỉ có thân xác nhưng còn có linh hồn. Và mục đích của đời sống làm người không chỉ là sự no đủ cơm áo phần xác mà còn là sự no đủ của đời sống tâm linh nữa: “Người ta sống không chỉ bởi bánh”.
Thiết tưởng mỗi người chúng ta đang hiện diện nơi đây đều có dư khả năng để nhận thức điều này. Vấn đề còn lại là thái độ của chúng ta đối với thánh lễ và Thánh Thể như thế nào mà thôi.
Một hôm, người ta hỏi một em bé chín tuổi mới được rước lễ lần đầu: “Đâu là sự khác biệt giữa cây thánh giá và Mình Thánh Chúa?”. Em bé ấy đã trả lời rất hay và rất đúng rằng: “Trên cây thánh giá, người ta thấy Chúa Giêsu. Nhưng Ngài không có ở đó. Còn trong bánh Thánh, người ta không thấy Ngài, nhưng Ngài ở trong đó”. Đúng vậy, về phép Thánh Thể người ta không thể nhìn bằng con mắt xác thịt, mà chỉ có thể nhìn bằng con mắt đức tin, bởi vì đây là một mầu nhiệm đức tin, nhưng đây cũng là một mầu nhiệm của tình yêu thương. Chúng ta hãy tìm hiểu nhân ngày lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa hôm nay. Trong bữa tiệc ly, bữa tiệc cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ vào chiều ngày thứ năm tuần thánh, Chúa đã làm một việc rất quan trọng, đó là biến bánh miến thành thịt Ngài và biến rượu nho thành máu Ngài, đồng thời Chúa truyền cho các môn đệ hãy làm như vậy để tưởng nhớ đến Ngài. Như vậy, bữa tiệc ly này đã trở thành thánh lễ đầu tiên do chính Chúa Giêsu, là linh mục tối cao, cử hành, và việc biến bánh rượu trở nên Mình Máu Ngài là bí tích Thánh Thể do Chúa thiết lập và Chúa muốn sự kiện cao quí này, tức là thánh lễ, được tiếp diễn luôn mãi qua các môn đệ của Ngài.
Vì thế, trong thánh lễ, khi linh mục lặp lại những lời của Chúa Giêsu: “Này là Mình Thầy”, này là chén Máu Thầy”, tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa, nhưng là Mình và Máu Chúa Giêsu. Dĩ nhiên đây là một chân lý cao siêu, vượt quá sự hiểu biết của trí khôn loài người. Bởi vì trước và sau khi linh mục đọc lời truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm một tấm bánh chưa truyền phép và một hình bánh đã truyền phép, chúng ta chẳng thấy có gì khác nhau, hay là có đưa vào phòng thí nghiệm để phân chất, chúng ta vẫn thấy như thường về phẩm chất, khối lượng và hình thức. Tuy nhiên, theo đức tin, thì lại khác xa nhau một trời một vực: một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, một đàng là tấm bánh nhỏ bé, tầm thường. Chính vì thế, sau truyền phép, linh mục lớn tiếng công bố: Đây là màu nhiệm đức tin.
Đúng vậy, Thánh thể là một bí tích đức tin. Nhưng cũng còn là bí tính tình yêu. Tại sao vậy? Thánh Gioan tông đồ đã viết: Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ của Ngài và đã yêu thương họ đến cùng. Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu thương đến tột bực. Tột bực tình yêu của Chúa Giêsu ở đây là việc lập phép Thánh Thể, để từ nay Ngài trở thành nơi gặp gỡ tình yêu giữa Ngài với chúng ta và giữa chúng ta với nhau.
Sau hết, Thánh Thể còn là bí tích của sự chia sẻ. Chúng ta biết: Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa đã cầm và phân chia cho các môn đệ cũng như chén rượu Ngài đã trao cho các môn đệ là để họ cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ, và chính việc chia sẻ này đã được Chúa dùng như dấu chỉ để các môn đệ làm mà nhớ đến Ngài. Cũng vậy, ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người chúng ta không được đóng khung những buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm yêu thương ngay trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một cách trung thực nếu chúng ta sống dửng dưng ích kỷ, không quan tâm đến những anh chị em chung quanh. Nếu chúng ta nghèo của cải vật chất, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho nhau tình thương, sự thông cảm, vị tha, bác ái dưới mọi hình thức với hết mọi người.
Bí tích Thánh thể cao quí biết bao và đem lại ơn ích biết bao nhiêu. Thế mà nhiều người vẫn còn thờ ơ hoặc chưa yêu mến cho thật đầy đủ. Được bao nhiêu người rước lễ, có người chỉ rước lễ một năm một lần. Nhiều người rước lễ không nên, hoặc không chuẩn bị đầy đủ hoặc không cám ơn đàng hoàng. Đến nhà thờ là gặp Chúa, tâm sự với Chúa, thế mà có những thái độ bất kính: nói chuyện riêng, có những cử chỉ bất kính. Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ và cố gắng sống tốt đẹp hơn.
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Xuân Hòa)
Sau đây là tâm trạng của hai hoàn cảnh khác nhau, một của vị linh mục và một của giáo dân, để giúp chúng ta thấy sự khao khát và sự biến đổi từ Nhiệm tích Thánh Thể:
– Có một thương gia Công giáo người Đức đã đến đảo Green Land, miền Bắc cực vào thời đạo Công giáo còn bị cấm hoạt động ở đây. Vì công việc làm ăn, ông phải ở lại đảo suốt mùa Giáng Sinh. Được biết ông là người Công giáo, một gia đình ở đó, đã mời ông đến nhà để cầu nguyện cùng với họ trong đêm Giáng Sinh. Trong đêm tối lạnh buốt, họ quây quần quanh một chiếc bàn nhỏ và cùng nhau cầu nguyện.
Sau lời chào chúc, họ đọc, nghe Kinh Thánh và một vài lời nguyện, ông lão kéo ngăn bàn và lấy ra một hộp nhỏ. Trong hộp, có một khăn Thánh đã vàng úa theo thời gian. Vừa nâng chiếc khăn Thánh lên, ông lão vừa run run, vừa bày tỏ: “Cách đây 50 năm, Thánh Lễ Giáng Sinh cuối cùng trên mảnh đất này đã được dâng trên chiếc khăn Thánh mà tôi đang cầm. Lúc đó, tôi là một chú giúp lễ và chiếc khăn này là vật duy nhất còn lại khi ngôi Thánh Đường bị thiêu rụi. Mình Máu Thánh Chúa Giêsu đã ngự trên chiếc khăn này”. Sau khi nghe những lời ấy, tất cả mọi người quì gối và cầu nguyện trong tiếng nghẹn ngào: “Lạy Chúa, xin cho chúng con được tự do. Xin gởi các Linh mục đến để chúng con được phúc có lễ Chúa Giáng Sinh, để chúng con được dự phần vào Mình Máu Chúa.” Mọi người lúc đó, chẳng một ai cầm được nước mắt. Đôi mắt của người thương gia Đức đã rơi lệ chẳng biết từ lúc nào. Lòng ông cảm động, bùi ngùi với tràn đầy ước muốn, tha thiết được rước Thánh Thể. Một sự khao khát mà trước đây ông chưa hề có, cho dù ông vẫn đến Nhà Thờ dự lễ mỗi ngày.
– Và đây là trang nhật ký của một Linh mục:“… Đức Giêsu và Hội Thánh bấy giờ xuất hiện với tôi như một cái gì thật khô cứng, sự khô cứng của những khái niệm Thần học, những bổn phận “phải” làm hơn là một tình yêu thiết tha tung cánh… Rồi chẳng biết từ đâu, triết đông và Phật giáo len lỏi vào tâm hồn tôi, phất phơ nhẹ nhàng nhưng nó lại có sức giật tung những gì mòn mỏi trong lòng tôi. Tôi nằng nặc đòi nhà dòng cho tôi được ra ở một mình trên núi, sống với nắng, với gió mưa, với đói khát, và với cả sợ hãi nữa. Nhưng mỗi lần tôi để tâm suy, trí niệm thì vấn đề Đức Giêsu lại vang lên, đeo bám mãi. Sau một năm, tôi hết phép. Với thân tàn ma dại, tôi thua cuộc, lại mò về nhà dòng hoàn toàn tay trắng! Nhưng Chúa Giê- su cứ đeo bám tôi mãi. Một năm trời nổi loạn, thất bại đã trôi qua và kể như trắng tay, tôi được bề trên gọi làm… Linh mục. Hoang mang và sợ hãi, tâm hồn rối bời, tan nát, tôi vào ngồi bất động trong Nhà Nguyện trầm lặng nhưng lòng như bị đay nghiến, như một mất mát đòi tôi đền bù.
Trước khi làm Linh mục vài hôm, một đêm tôi thử tiến lên đứng sát Nhà Chầu. Có cái gì đó hơn là một cảm giác, hơn là một sự rung động, phủ chụp lấy toàn bộ cuộc đời và con người tôi. Ngay từ giây phút đó, tôi hiểu rằng, cho dù có là hòn đá, hòn sỏi, dù tôi có là con người bê bết lấm bùn, thân tàn ma dại, dù đã làm hỏng cuộc đời, thì Đức Giêsu vẫn gọi và chọn tôi. Việc đó làm cho tâm hồn tôi bừng sáng lên huy hoàng. Và tôi gọi Ngài là Chúa, Cứu Chúa cuộc đời của tôi…”
Thưa Cộng đoàn.
Có thể phần đông chúng ta hoặc chính mình, có khi nào cảm giác trống vắng phải xa lâu Thánh Thể mà có sự khao khát là lùng như thế? Hơn nữa, vì quá quen thuộc, chúng ta chẳng lưu tâm nhiều, thậm chí, còn cảm thấy nhàm chán hoặc làm cho xong, chiếu lệ.
– Đọc lại trong Kinh Thánh, chúng ta sẽ biết rõ hơn sự sống của Thiên Chúa đã trao cho nhân loại và ngay cả Con Thiên Chúa cũng không chối từ:
Đối với những người đã đi theo Chúa vào sa mạc, và những người đang đói khát, Thiên Chúa đã ban cho họ bánh ăn hằng ngày, nhờ đó, đã làm thỏa mãn được cơn đói thể lý của họ. Còn với người phong cùi, thân thể đang bị héo tàn, Đức Giêsu đã ban tấm bánh có ý nghĩa là chữa lành bệnh tật. Đối với người phụ nữ đang ở tại giếng Gia-cóp, người đã ban cho bà tấm bánh của lòng tử tế, và do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được chấp thuận. Đối với những người tội lỗi, Người đã ban cho họ tấm bánh của ơn tha thứ, do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được cứu độ. Đối với những người bị khước từ và ruồng bỏ, bằng cách hòa hợp với họ, cùng ăn uống với họ, Người đã ban cho họ tấm bánh của tình thân hữu. Do đó, Người đã làm thỏa mãn lòng khao khát được thấy mình có giá trị. Người góa phụ thành Na-im đã chôn cất đứa con trai duy nhất, kể cả chị em Mát-ta và Maria khóc thương em trai La-da-rô vừa mới chết, Người đã ban cho họ tấm bánh của lòng thương xót và chứng tỏ cho họ biết, ngay cả trong sự chết, con người vẫn có thể được Thiên Chúa cứu giúp. Đối với Gia-kêu, một tên thu thuế giàu có, đã chiếm lấy bánh từ bàn ăn của người nghèo, Người đã đánh thức nơi anh ta một niềm khao khát của một đời sống ý nghĩa hơn, đã hướng dẫn anh biết chia sẻ cho người nghèo, một cách làm giàu của niềm tin. Với kẻ trộm bên cạnh mình, Người đã ban cho anh tấm bánh của yêu thương, tha thứ, giúp anh giải thoát khỏi bối rối và tạo nên sự bình an trong tâm hồn…
Đức Giêsu đã chia sẻ chính sự sống của Người cho con người qua nhiều cách khác nhau và dưới nhiều hình thức phong phú, trước khi ban cho con người bản thân mình như là thức ăn và nước uống trong bữa Tiệc Ly để gọi mời con người đón rước.
Trong Thánh Thể, mỗi người được nuôi dưỡng tư tưởng, tâm hồn và ý chí của mình. Trong đó, mỗi người cảm nhận sự hiện diện kéo dài của Chúa Ki-tô với chính mình. Người không hiện diện với tư cách như một ký ức, mơ hồ của một con người đã sống trong quá khứ, nhưng là một sự hiện diện hiện tại để ban sự sống biến đổi con người của ta.
Chúa Giêsu không chỉ dâng Thánh Lễ trong Nhà Thờ, mà Người còn dâng Thánh Lễ cả cuộc đời. Người không dâng một lễ vật nào, nhưng là dâng chính bản thân mình. Người không chỉ bẻ một tấm bánh mà còn bẻ chính thân mình để ban cho muôn người. Việc Chúa Giêsu làm, khiến chúng ta phải nghĩ suy? Hơn nữa, nếu thiếu việc cử hành ngoài Nhà Thờ, ngoài cuộc đời thì những nghi lễ trong Nhà Thờ sẽ trở thành một mớ công thức và dễ dàng xa rời thực tế.
Xin Chúa Thánh Thể ban cho chúng con thêm niềm tin vững vàng, một niềm yêu mến Thánh Thể để mỗi người chúng con có đủ can đảm chịu được theo gương Chúa, biết khiêm tốn sống yêu thương, hiến mình cho Chúa và phục vụ vui tươi cho anh chị em.
Là con người, chúng ta không thể chỉ sống bằng cơm bánh. Chúng ta còn phải chịu đựng nhiều kiểu đói khát. Chúng ta hãy mở Tin mừng, để hiểu về những loại tấm bánh khác nhau, mà Đức Giêsu đã ban cho nhân loại, từ đó, Người đang làm thỏa mãn nhiều khao khát của họ.
Đối với những người đã đi theo Chúa vào sa mạc, và những người đang đói khát, Người đã ban cho họ bánh ăn hằng ngày, nhờ đó, đã làm thỏa mãn được cơn đói về thể lý của họ.
Đối với những người phong cùi mà thân thể đang bị héo mòn, Người đã ban cho họ tấm bánh duy nhất có ý nghĩa quan trọng đối với họ – đó là được chữa lành bệnh tật.
Đối với người phụ nữ đang ở một mình tại giếng Giacóp, Người đã ban cho bà tấm bánh của lòng ân cần tử tế, và do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được chấp nhận.
Đối với những người tội lỗi, Người đã ban cho họ tấm bánh của ơn tha thứ, do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được cứu độ.
Đối với những người bị khước từ và ruồng bỏ, bằng cách hòa hợp với họ, cùng ăn uống với họ. Người đã ban cho họ tấm bánh của tình thân hữu, do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được cảm thấy mình có giá trị.
Đối với người góa phụ thành Naim, một người đã chôn cất đứa con trai duy nhất, và đối với Marta và Maria, là những người chị vừa mới chôn cất em trai họ là Lagiarô, Người đã ban cho họ tấm bánh của lòng thương xót, và đã chứng tỏ cho họ thấy rằng ngay cả trong cái chết, chúng ta vẫn có thể được Thiên Chúa cứu giúp.
Đối với Giakêu, một người thu thuế giàu có, đã tước đoạt bánh từ bàn ăn của người nghèo, Người đã bắt đầu bằng cách tự để cho Người được mời vào bàn ăn của ông ta. Sau đó, Người đã đánh thức nơi ông ta một niềm khao khát được có một đời sống tốt đẹp hơn, Người đã giúp ông ta biết chia sẻ cho người nghèo tiền bạc bất chính của mình.
Đối với kẻ trộm chết bên cạnh mình, Người đã ban cho anh ta tấm bánh của sự hòa giải với Thiên Chúa, do đó, Người đã ban lại bình an cho tâm hồn bị bối rối của anh ta. Nhưng thật đáng ngạc nhiên, có một người lại khước từ tấm bánh Đức Giêsu ban.
Có một thanh niên giàu có, được Người ban cho tấm bánh của đời sống ngay chính, nhưng đã từ chối, vì anh ta không muốn từ bỏ những của cải của mình.
Có những ký lục và Pharisêu được Người ban cho không chỉ một lần, mà nhiều lần, tấm bánh của sự hoán cải, nhưng họ đã từ chối dù chỉ một mẫu bánh.
Có những người dân thành Giêrusalem mà Người yêu dấu, trong những dòng nước mắt, Người đã ban cho tấm bánh của sự bình an, nhưng họ đã từ chối, và hậu quả là thành phố của họ bị phá hủy.
Có một ông quan Philatô, mà Người ban cho tấm bánh của sự thật, nhưng ông ta không hề thèm khát muốn ăn, vì nó đặt địa vị của ông ta vào tình trạng rủi ro.
Đức Giêsu đã chia sẻ chính Người cho mọi người, bằng nhiều cách thức khác nhau, và dưới nhiều hình thức khác nhau, trước khi ban cho họ bản thân mình như là thức ăn và nước uống, trong bữa Tiệc Ly.
Đức Giêsu nuôi dưỡng chúng ta bằng rất nhiều cách đặc biệt trong Phép Thánh Thể. Chỉ khi nào chúng ta đánh mất ý nghĩa sự hiện diện của Đức Kitô trong tất cả mọi mặt, thì sự hiện diện của Người trong Phép thánh Thể trở nên một vấn đề. Những người có ý thức sâu xa về sự hiện diện của Thiên Chúa trong toàn bộ tạo vật, thì sẽ không gặp khó khăn gì lớn, trong việc tin tưởng rằng Người đang hiện diện bằng một cách thức rất đặc biệt trong Phép Thánh Thể.
Chỉ duy nhất Thiên Chúa là Đấng thỏa mãn được những khao khát và mong mỏi của tâm hồn chúng ta, vì chỉ một mình Người có thể ban cho chúng ta tấm bánh sự sống đời đời. Đây là tấm bánh mà chúng ta được đón nhận trong Phép Thánh Thể. Nếu không có tấm bánh đó, chúng ta sẽ không có sức mạnh để đi theo Đức Kitô.
Trong suốt những năm từ 1984 đến 1986, Ethiopie đã phải chịu đựng một nạn đói khủng khiếp. Đức Hồng y Hume ở Westminster kể lại một sự kiện đã xảy ra, khi ngài thăm viếng Ethiopie giữa thời kỳ nạn đói. Một trong những nơi mà ngài thăm viếng là một trại định cư nằm trên các sườn đồi, tại đó, dân chúng đang chờ đợi thực phẩm không chắc sẽ được gửi tới. Đức Hồng Y đã được chở đến đó bằng trực thăng. Ngay khi ngài vừa mới bước ra khỏi trực thăng, thì có một bé trai, khoảng độ 10 tuổi, chạy đến và nắm bàn tay của ngài. Cháu bé không mặc quần áo gì cả, chỉ đóng một cái khố nhỏ mà thôi. Suốt thời gian mà Đức Hồng Y có mặt ở đó, cháu bé này không hề buông tay mình ra khỏi bàn tay của ngài. Trong khi Đức Hồng y và bé trai này đi bên nhau, cháu bé có hai cử chỉ: cháu dùng một bàn tay chỉ vào miệng của mình, còn bàn tay kia vẫn nắm chặt bàn tay Đức Hồng Y, và ép sát bàn tay ngài lên má của mình. Sau này, Đức Hồng Y đã nói: “Đây là một đứa trẻ mồ côi, đã bị mất hết cha mẹ vì nạn đói. Tuy nhiên, bằng hai cử chỉ đơn giản đó, cháu bé đã chứng tỏ hai nhu cầu đói khát căn bản của con người. Bằng cử chỉ đầu tiên, cháu bé đã cho tôi thấy cơn đói ăn của mình, và bằng cử chỉ kia, cháu đã nói lên nhu cầu được yêu thương. Không bao giờ tôi quên được sự kiện đó, và cho đến hôm nay, tôi vẫn thắc mắc không biết cháu bé đó còn sống không. Tôi còn nhớ là khi bước lên trực thăng, cháu cứ đứng nhìn tôi bằng một cái nhìn đầy trách móc”.
Bài đọc hôm nay nói: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn bằng mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra”. Đức Giêsu đã trích dẫn những lời này, trong khi Người bị cám dỗ ở trong sa mạc.
Chúng ta cần có cơm bánh hàng ngày. Đó là nhu cầu đầu tiên và cơ bản nhất của con người. Nhưng chúng ta còn cần nhiều hơn thế nữa. Cơm bánh chỉ nuôi dưỡng chúng ta phân nửa mà thôi – đó là về mặt thể lý. Nhưng chúng ta còn có mặt tinh thần nữa. Tinh thần cũng kêu gào đòi được nuôi dưỡng. Ngay cả đứa trẻ đang chết đói trên đây cũng đã nhận ra điều đó. Trong Phép Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng bằng lương thực là lời của Thiên Chúa, lời hằng sống có tác động an ủi, hướng dẫn, truyền cảm hứng, và thử thách chúng ta. Và trong sự hiệp thông Thần Thánh, chúng ta được nuôi dưỡng bằng lương thực là sự sống đời đời.Trong bữa tiệc Thánh Thể, chúng ta có lương thực nuôi dưỡng tư tưởng, tâm hồn và tinh thần của mình. Ở đây, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện kéo dài của Đức Kitô với chúng ta. Người không hiện diện với tư cách như là một ký ức mơ hồ của một con người đã sống từ trước đây rất lâu, nhưng là một sự hiện diện đích thực, ban sự sống làm biến đổi chúng ta. Bằng cách đón nhận lương thực là Phép Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng, và giống như Đức Kitô, chúng ta cũng có khả năng nuôi dưỡng cả những người khác nữa.
“Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.” (Ga 6, 53). Khi Chúa Giêsu đã dùng kiểu nói trịnh trọng theo văn phong thời bấy giờ “Thật, Tôi bảo thật.. (Amen… Amen…)” thì không chỉ nói lên tầm quan trọng của nội dung lời tuyên bố mà còn nói lên tính tất yếu và thiết yếu của chân lý đối với thính giả bấy giờ và nhân loại mọi thời. Căn cứ vào những lời Chúa Giêsu tuyên phán ở trên, chúng ta thử hỏi rằng những thính giả lúc bấy giờ, thực sự có sự sống nơi họ không. Hay nói cách khác, cần phải đặt vấn đề: sống là gì?
SỐNG LÀ GÌ?
Một câu hỏi không dễ trả lời. Câu trả lời khá phổ thông: sống là động. Trạng thái động đối lập với trạng thái tỉnh (bất động). Trạng thái này có thể là di động, chuyển động, cử động hay hành động. Nếu mô tả tình trạng sống là trạng thái động, thì vừa thái quá lại vừa bất cập. Các khoáng sản như đất đá hay lớn hơn như quả địa cầu, các tinh tú…chúng hằng di động và đang chuyển động. Vậy chúng đang sống ư? Với sinh vật bậc cao là con người, nếu ở trong tình trạng hôn mê, không còn hành động cũng chẳng cử động thì đã chết chưa?
Dưới cái nhìn sinh hóa thì sống là một quá trình tổng hợp và trao đổi các hợp chất hữu cơ. Các học giả trình bày khái niệm: sống là tồn tại có trao đổi chất với môi trường bên ngoài, có sinh đẻ, lớn lên và chết. Một số triết gia vừa thực tế vừa phũ phàng cho ta thấy sống là một quá trình tích lũy năng lực: sức khỏe, tiền bạc, địa vị…để tiến dần về nấm mộ (cái chết).
Quả thật nếu quan niệm sống như là một tình trạng đối lập với chết thì cuộc sống của con người trên bình diện thể lý tự nhiên đúng là nghịch lý và phi lý. Và rồi người ta dễ dàng đồng quan niệm với anh em Phật tử rằng cuộc sống (đời) là bể khổ với cái vòng lẫn quẩn thành – trụ – hoại – không; sinh – lão – bệnh – tử.
Dưới nhãn quan Kitô giáo theo ánh sáng Lời mạc khải thì sống là một trạng thái, đúng hơn là một động thái ở cùng, ở với và ở trong Đấng là nguồn sống, là Đấng Sáng tạo, là căn nguyên và cùng đích của mọi hiện hữu, đặc biệt của loài người. Con người khi tự ý cắt lìa, xa rời Thiên Chúa là đi vào cõi chết hay là đã chết, cho dù cơ thể còn sinh động, còn tổng hợp các chất hữu cơ…
Sách Sáng Thế ký diễn tả chân lý này khi cho thấy loài bụi đất chỉ thực sự là sống khi được Giavê thổi sinh khí vào (x. St 2,7). Đến đây chúng ta mới hiểu được ý nghĩa lời Chúa trong sách Đệ Nhị Luật khi Giavê thử thách dân Người trong hoang mạc, khi để họ phải chịu đói cùng cực rồi ban Manna từ trời nuôi sống họ để họ ý thức, đúng hơn là đẻ họ tin nhận rằng: “người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8,3).
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51). Một lời tuyên bố công khai gây nhiều tranh cãi cho thính giả bấy giờ. Quả là chối tai! Nhưng đó là sự thật, một sự thật nền tảng và thiết yếu cho con người đến nỗi Chúa Giêsu trình bày một cách thẳng thừng tới mức “sống sượng”, không chút rào đón xa gần. Người còn tái khẳng định chân lý ấy ở dạng thức đối nghịch: ” Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình” (Ga 6,53). Chúng ta nhận ra tính tất yếu và khẩn thiết của chân lý này qua thái độ của Chúa Kitô là sẵn sàng chấp nhận người ta, kể cả các môn đệ rời bỏ Người, ngoại trừ nhóm Mười hai (x.Ga 6,60-71).
ĐỂ THỰC SỰ LÀ SỐNG CẦN PHẢI ĐÓN NHẬN NGUỒN SỐNG TỪ THIÊN CHÚA VÀ HÀNH XỬ THEO SỰ SỐNG THIÊN LINH.
Thiên Chúa có thể ban cho nhân loại sự sống của Người dưới nhiều dạng thức khác nhau. Mình Máu Chúa Kitô chính là một trong những phương thế đặc biệt Chúa ban sự sống của Người cho nhân loại chúng ta. Là Kitô hữu, chúng ta dễ dàng tin nhận chân lý này hơn người Do Thái xưa, vì chúng ta tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là chúng ta có biết sống, cư xử, hành động theo nguyên lý hoạt động của sự sống Thiên Chúa không.
Sự sống của Thiên Chúa chính là tình yêu giữa Ba Ngôi, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tình yêu ấy được tỏ bày qua dòng lich sử, qua lịch sử ơn cứu độ và được tỏ bày cách trọn vẹn, hoàn hảo cho nhân loại nơi Đức Kitô, Ngôi Hai nhập thể làm người. Dựa vào lời mạc khải và qua lời dạy của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI trong Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta cùng xem xét một vài sắc thái của tình yêu Thiên Chúa:
Một tình yêu thể hiện qua tình bạn (Filia): Ngay từ thưở đầu công trình sáng tạo, Giavê đã ngày ngày dạo chơi với con người và con người ở trước nhan Giavê cách thân tình như bạn hữu. Sau khi phạm tội thì con người mới lánh mặt Giavê (x. St 3,8). Khi đã biết đến giờ phải bỏ thế gian mà về cùng Cha, Chúa Giêsu đã tỏ bày cho các môn đệ: ” Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy đã gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” (Ga 15,15).
Đã là bạn hữu chân thành thì luôn tín nhiệm nhau. Sự tín nhiệm được thể hiện không chỉ qua việc tỏ bày cho nhau cả những sự sâu kín của mình mà còn sẵn sàng trao phó trách nhiệm, cả trong những việc lớn lao, cao cả lẫn hệ trọng. ” Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy bá chủ cá biển, chim trời…” St 1,28). Ngay từ đầu Giavê đã trao phó nhiệm vụ làm chủ vũ trụ thiên nhiên cho con người. Đến thời viên mãn Chúa Kitô lại trao phó việc rao giảng Tin Mừng cứu độ cho các môn đệ (x. Mt 28,16-20).
Một tình yêu thể hiện qua việc đón nhận và trao ban (Eros và Agapê): Khi tạo dựng con người Giavê Thiên Chúa đã sáng tạo loài tạo vật hữu hình cao cả nhất là loài người giống hình ảnh và họa ảnh của mình (x. St 1,26-27). Có thể nói đây là một sự đón nhận toàn vẹn. Xem ai như chính mình là một sự đón nhận hết cả tấm lòng. Trên thập giá, đôi tay của Chúa Kitô giang ra, Trái Tim cực thánh của Người mở tung, là hành vi tình yêu đón nhận cách hoàn hảo và trọn vẹn. Người đón nhận cả những lời hoan hô Người khi Người vào thành thành Giêrusalem lẫn cả những lời nhục mạ khinh khi của nhiều người Do Thái bấy giờ. Người đón nhận lời tuyên tín của Phêrô thay mặt nhóm Mười Hai: ” Bỏ Thầy chúng con biết theo ai…” (Ga 6,68) và đón nhận cả sự phản bội, sự hèn nhát của các ngài khi bỏ Thầy chạy cứu lấy thân mình. Người đón nhận nhiều vị lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ vốn ghen tức tìm mọi cách loại trừ Người và đón nhận cả sự mê lầm của họ (x. Lc 23,34).
Khi đón nhận con người như là hình ảnh của mình, Giavê Thiên Chúa đã trao ban chính công trình sáng tạo của mình, một công trình như mới khởi đầu. Và Chúa Kitô khi đón nhận các môn sinh làm bạn hữu thì Người đã trao ban công trình cứu độ mà Người vừa khai mở. Khi đón nhận bản tính nhân loại vào Ngôi vị Thiên Chúa thì Ngôi Hai đã thực sự trao ban chức vị làm con Thiên Chúa cùng với gia sản thừa kế cho loài người.
Chính khi đón nhận là lúc trao ban. Chính lúc trao ban là lúc đón nhận. Cả hai động thái trao ban và đón nhận luôn quyện lẫn vào nhau trong một tình yêu đích thực. Và tình yêu ấy bắt nguồn từ Đấng là Tình Yêu (x.1Ga 4,8). Hôm nay chúng ta cùng tôn thờ mầu nhiệm Chúa Kitô trao ban cho chúng ta chính Máu Thịt của Người qua Bí Tích Thánh Thể. Hiện diện trong Thánh Thể là trọn vẹn Chúa Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa với thiên tình và nhân tính của Người. Trao ban cho ta Thân Mình Người là Chúa Kitô đón nhận chúng ta nên một với Người. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định chân lý này: ” Thưa anh em, khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Chúa Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao?” (1 Cor 10,16).
Được dự phần vào Mình và Máu Thánh Chúa Kitô là để được sống. Và sự sống đích thực này phải được thể hiện bằng tình yêu. Đó là tình yêu sẵn sàng đón nhận tha nhân, cả ưu điểm lẫn khuyết điểm, cả mặt nổi trội lẫn khía cạnh hạn chế… Đó là tình yêu sẵn sàng trao ban những gì tốt nhất, đẹp nhất của ta cho tha nhân và trao ban cả con người của ta, sự sống của ta. Và đó phải là tình yêu luôn tìm cách nâng nhau lên hàng bạn hữu. Nếu như được vậy, thì một điều chắc chắn là chúng ta đang sống thực sự và thực sự đang sống cách dồi dào.
Mừng kính Mình và Máu Thánh Đức Kitô, chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, nhất là qua bí tích Thánh Thể.
Thực vậy, tình yêu là một đề tài xưa như trái đất và được đề cập đến nhiều nhất qua sách vở, qua nghệ thuật cũng như qua cuộc sống. Tuy nhiên, con người vẫn chưa khai triển hết vẻ phong phú của tình yêu, cho nên tới bây giờ, tình yêu vẫn còn là một câu chuyện thời sự nóng bỏng trên môi miệng chúng ta.
Nếu đưa mắt nhìn xem, chúng ta sẽ thấy cuộc sống của chúng ta được dệt nên bởi biết bao nhiêu yêu thương. Những người bạn chân thành luôn nâng đỡ để cùng nhau theo đuổi một mục đích, một lý tưởng. Những cặp tình nhân mà trái tim luôn đập cùng một nhịp yêu thương. Những người mẹ luôn ân cần nuôi dạy những đứa con thơ dại. Tình yêu ở trước mặt cũng như ở sau lưng chúng ta. Thế nhưng, đâu là mẫu số chung cho những thứ tình yêu ấy? Đâu là điểm làm cho mặc cho những thứ tình yêu ấy một giá trị và đưa chúng vào một lãnh vực cao cả hơn?
Tôi xin trả lời:
– Đó là sự hy sinh.
Thực vậy, đúng như tuc ngữ đã bảo:
– Yêu nhau chẳng quản xa gần,
Mấy sông cũng lội,,mấy ngàn cũng qua.
Đã yêu thương nhau, thì sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh cho nhau và vì nhau để mưu cầu hạnh phúc cho nhau, nhu một câu danh ngôn đã bảo:
– Hãy cho tình yêu vào máy cán, nếu nó tiết ra chất hy sinh, thì đó là một tình yêu thức thiệt, bằng không thì chỉ là một tình yêu thứ dổm mà thôi.
Sự hy sinh phải là nền tảng căn bản, trên đó tình yêu được xây dựng, cho dù sóng gió cuộc đời có phũ phàng, cũng không thể làm cho nó bị lay chuyễn. Hy vinh và tình yêu luôn bổ túc lẫn cho nhau: hy sinh sẽ làm cho tình yêu trở nên tinh ròng và tình yêu tinh ròng sẽ giúp chúng ta dễ dàng chấp nhận hy sinh.
Thánh Gioan đã định nghĩa: Thiên Chúa là tình yêu. Ngài chính là tình yêu tuyệt hảo nhất, khuôn mẩu cho mọi tình yêu của chúng ta. Và như vậy, chắc chắn sự hy sinh Ngài dành cho chúng ta cũng thật lớn lao.
Sự hy sinh ấy bắt đầu từ nguyên thủy. Khi tạo dựng nên trời và đất, Ngài đã một phần nào đặt mình vào sự giới hạn của không gian và thời gian. Thế nhưng, Ngài đã nhận được những gì, nếu không phải là sự phản bội của loài người, một tạo vật đã được Ngài dựng nên theo hình ảnh của Ngài.
Tuy nhiên, dù con người có phản bội, Ngài cũng đã không bỏ rơi con người trong án phạt của sự chết, trái lại Ngài đã đưa ra chương trình cứu độ và thực hiện chương trình ấy trong dòng thời gian, bằng cách sai Con Một Ngài xuống thế để cứu chuộc chúng ta.
Giả như bây giờ xảy ra một cuộc hỏa hoạn, hẳn chúng ta sẽ ca tụng hành vi can đảm của người đã dám coi thường cái chết, nảy vào vùng lửa cháy để cứu thoát một em bé nào đó. Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài đã hy sinh vì chúng ta và đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, như lời Ngài đã phán:
– Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Hơn thế nữa, Ngài lãi còn trao ban cho chúng ta Mình và Máu thánh Ngài làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Vì vậy, chúng ta có thể nói được rằng bí tích Thánh Thể chính là bí tích của tình yêu Thiên Chúa.
Hẳn rằng nhiều người trong chúng ta đã nghe nói đến nạn đói năm Ất Dậu 1945 tại miền Bắc. Đó là một nạn đói thật khủng khiếp, giết hại gần hai triêu người.
Có hai mẹ con người kia cũng lâm vào cảnh tang thương ấy và nằm hấp hối chờ chết bên vệ đường. Người mẹ trước khi nhắm mắt, đã không thể nào cầm lòng được trước tiếng khóc của đứa con thiếu sữa. Bởi đó, bà đã làm một hành động táo bạo, đó là cắn đứt ngón tay trỏ, để đứa con được bú những giọt máu cuối cùng của mình thay cho dòng sữa đã cạn kiệt, với hy vọng nó sẽ được cứu sống.
Câu chuyện cảm động ấy không phải chỉ xảy ra một lần, nhưng nó còn xảy ra mỗi ngày trong bí tích Thánh Thể.
Thực vậy, trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã trối lại cho chúng ta Mình Máu thánh Ngài làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta, như lời Ngài đã xác quyết:
– Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống. Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ được sống đời đời.
Chính nhờ của ăn thần linh này, chúng ta được kết hiệp mật thiết với Chúa, được trở nên giống Chúa và được chia sẻ sự sống ân tình với Ngài.
Vì thế, hãy siêng năng tham dự thánh lễ và hãy sốt sắng rước lể mỗi khi có thể, để đáp trả tình yêu thương vô biên Chúa đã dành cho mỗi người chúng ta trong bí tích Thánh Thể.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, trung tâm của Giáo Hội, trung tâm của đời sống đức tin, trung tâm của giáo xứ và đời sống của mỗi người như Công đồng Vatican II đã nói: “Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo”, “Bí tích Thánh Thể tích chứa tất cả của cải thiêng liêng của Giáo Hội: Đó chính là Đức Kitô”.
Vào năm 1263, một linh mục từ Prague, thủ đô Tiệp Khắc, đi hành hương tới Rôma cầu xin Thiên Chúa gia tăng đức tin cho ngài vì đang có những nghi ngờ về ơn kêu gọi. Trên đường tới Rôma, ngài ngừng lại ở một thị xã cách Rôma 70 dặm về phía bắc. Tại đây, trong thánh lễ, khi truyền phép ngài nâng cao bánh lễ lên, tấm bánh đã trở nên thịt và bắt đầu chảy máu. Những giọt máu đã chảy xuống trên tấm khăn thánh nhỏ màu trắng trên bàn thờ. Năm sau, 1264 Đức Giáo Hoàng Urban IV đã thành lập lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, và ngài đã yêu cầu thánh Thomas Aquinas sáng tác một bài ca cho ngày lễ. Thánh Thomas đã viết ra hai bài nổi tiếng là “Tantum Ergo” và “O Salutaris” mà chúng ta vẫn thường hát khi chầu Thánh Thể. Tấm khăn thánh mang những vết máu vẫn còn được lưu giữ tại vương cung thánh đường Orvieto, phía bắc thành phố Roma.
Mặc dù phép lạ thánh thể này đã dẫn tới việc thiết lập ngày lễ Mình và Máu Chúa Giêsu, nhưng phép lạ Thánh Thể nổi tiếng ở Lanciano, cũng tại Ý, đã xảy ra nhiều thế kỷ trước vào năm 700. Câu chuyện xảy ra tại nhà thờ thánh Legonzanô khi một linh mục dòng thánh Basiliô đang dâng thánh lễ bỗng trở nên nghi ngờ sự hiện diện thực sự của Mình Máu Thánh Chúa trong hình bánh rượu. Lúc truyền phép, sự lạ liền xảy ra ngay trong tay vị linh mục. Bánh trở nên thịt sống và rượu trở nên máu tươi rồi đông đặc lại thành 5 cục to nhỏ. Tuy đã trải qua 1300 năm rồi, ngày nay vẫn còn thấy rõ miếng bánh đã biến thành thịt này có màu hơi nâu, nhìn dưới ánh sáng thấy màu hồng được đặt trong một mặt nhật quý giá. Và năm cục máu màu vàng nghệ được đặt trong một chén thánh bằng kính trưng bày ở nhà thờ Lancianô để giáo dân tự do kính viếng.
Trong 12 thế kỷ qua, giáo quyền đã cho làm nhiều cuộc giám nghiệm vào những năm 1574, 1637, 1770, 1886. Mới đây vào năm 1971 và 1981 một phòng thí nghiệm của bệnh viện đã thử nghiệm lại bằng những thiết bị khoa học tối tân. Công việc được trao cho ông Odoardo Linoli, giáo sư môn giải phẫu nhân hình, kiêm giáo sư mô học bệnh lý, hóa học và hiển vi học, với sự cộng tác của giáo sư Ruggero Bertelli thuộc đại học đường Siena. Kết quả được công bố vào ngày 04.03.1971 trước các vị trong giáo quyền, chính quyền, các giới khoa học, văn học và báo chí:
– Thịt và máu này là thịt và máu thật, của một người có máu AB đã sống.
– Thịt được lấy ra từ mô cơ tim (myocardium), một phần thịt của trái tim, một cách khéo léo tuyệt vời như do một nhà phẫu thuật tài giỏi. Điều này có nghĩa là từ trái tim của Chúa Giêsu, Thánh Tâm. Đây chính là biểu tượng của tình yêu.
– Thịt và máu không có vết tích của một chất nào được dùng để ướp xác cả.
– Trong máu có các chất clorua, phốt pho, magnesium, potassium, sodium và calcium.
Các di tích này được lưu trữ bao nhiêu thế kỷ một cách tự nhiên, lại chịu ảnh hưởng của những xúc tác vật lý, không khí, sinh vật mà vẫn giữ nguyên tình trạng như thế là một hiện tượng kỳ lạ, khoa học không sao giải thích được. Hơn thế nữa, điều lạ lùng là nếu đem cân một cục máu, trọng lượng vẫn bằng tổng số của cả năm cục. Đem cân riêng lẻ từng cục hay cân chung lại với nhau tổng số vẫn không thay đổi.
Đây là hai phép lạ Thánh Thể trong tổng số khoảng 22 các phép lạ khác xảy ra ở khắp nơi trên thế giới. Những phép lạ này trả lời cho những nghi ngờ về sự hiện diện thực của Chúa Giêsu qua hình bánh và rượu. Lòng đạo đức và sự trung thành của chúng ta sẽ tùy thuộc vào sự ràng buộc bởi mệnh lệnh của Chúa Giêsu đã ban trước ngày chịu nạn: “Anh em hãy làm việc này để tưởng nhớ Thầy”.
Trong sách Giáo lý Công giáo số 1358, Giáo Hội tóm lược ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể vào những điểm chính như sau:
Để chứng tỏ điều hắn nói là thật, hắn lên cò súng, kê báng súng lên vai và chĩa nòng súng vào từng người một, sẵn sàng bắn từ đầu cho đến cuối. Vào lúc đó Argyll bước tới, đứng yên và nói: Tôi đã làm điều đó”. Tên lính Nhật tuôn ra tất cả sự thù hận, hắn đấm đá túi bụi vào Argyll. Tuy nhiên anh vẫn đứng lặng thinh với khuôn mặt đầy máu me đang chảy xuống. Sự yên lặng của anh đã khiêu khích sự phẫn nộ của tên lính Nhật lên tột độ. Hắn nắm lấy cây súng trường, đưa lên cao khỏi đầu, và với một tiếng tru lên như chó, hắn bắn vào đầu Argyll. Argyll tung người lên, rơi xuống đất, rồi nằm yên bất động. Mặc dù rõ ràng rằng người tù đã chết, nhưng tên lính Nhật vẫn tiếp tục đánh anh cho đến khi hắn kiệt sức mới thôi! Những người tù khổ sai đã lãnh xác người bạn mình, vác những dụng cụ lao động trên vai, bước về trại. Khi những dụng cụ lao động được đếm lại một lần nữa ở đồn lính canh, đã không có cái xẻng nào bị mất cả. Tất cả dụng cụ lao động đều đầy đủ! Thánh Thể là sự tưởng niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Kitô. Theo ý nghĩa của Thánh Kinh “tưởng niệm” không chỉ có nghĩa là nhớ lại những biến cố của quá khứ, nhưng còn có nghĩa công bố những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện cho loài người. Trong Tân Ước từ “tưởng niệm” còn có nghĩa là sự tái diễn có tính cách bí tích, làm cho trở thành hiện tại sự hy sinh của Chúa Kitô như Công đồng Vatican II đã nói: “Tất cả mỗi khi hy lễ thập giá mà Chúa Kitô, lễ Vượt Qua của chúng ta, được hiến tế trên bàn thờ, thì công cuộc ơn cứu chuộc của chúng ta được thực hiện”.
“Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” là một mệnh lệnh được thi hành không chỉ trong thánh lễ với linh mục thừa tác viên chính thức của Giáo Hội, nhưng còn được sống thánh lễ và cử hành bằng chính đời sống của các Kitô hữu nữa. Thánh Inhaxiô thành Antiokia đã nói: “Thánh Thể là linh dược đem lại sự bất tử, một phương thuốc diệt trừ sự chết”. Đây chính là bảo chứng của Vương Quốc tương lai, sự sống đời đời như lời Chúa phán hôm nay: “Đây là bánh từ trời xuống… Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”.
Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu cầm bánh trong tay và nói trước mặt các môn đệ: “Đây là Mình Thầy”, lập tức mọi người hiểu rằng tấm bánh kia là thân thể Chúa, nghĩa là tấm bánh kia, bên ngoài có hình thù, mầu sắc, hương vị của bánh nhưng bản thể của bánh đã biến sang bản thể của Thiên Chúa. Làm sao có thể như thế được? Đối với Thiên Chúa thì không thành vấn đề, bởi vì Thiên Chúa đã từng làm cho có manna đầy tràn ở trong hoang địa, và nước trở thành rượu ngon ở tiệc cưới Cana, thì việc biến bánh ra Mình Chúa đối với Chúa là chuyện dễ dàng, dễ dàng đến độ Ngài chỉ cần một lời nói “Đây là Mình Thầy”. Có ai trong chúng ta dám nói tôi là thế này tôi là thế nọ không? Thí dụ: “Tôi là ánh sáng”. Chúng ta chỉ có thể nói: “Tôi có ánh sáng” hay “tôi chế ra ánh sáng La-de”, chứ không ai có thể nói: “Tôi là ánh sáng”. Chỉ có Thiên Chúa, Đấng tạo dựng ra ánh sáng, mới có nền tảng mà tuyên bố “Tôi là ánh sáng”. Cho nên, khi Chúa nói: “Đây là Mình Thầy” là một câu nói quả quyết, một câu nói quả quyết sự đồng nhất.
Một số người chối Bí tích Thánh Thể đã cho rằng: câu Chúa nói: “Đây là Mình Thầy” chỉ có ý nghĩa tượng trưng, ám chỉ một việc khác. Chúng ta có thể trả lời như sau: Để có ý nghĩa tượng trưng, phải có một trong bốn ý sau đây: Thứ nhất, một cái gì tượng trưng rõ ràng, chẳng hạn khi chúng ta chỉ vào pho tượng thánh Giuse mà nói: “Đây là thánh Giuse”. Thứ hai, một kiểu nói dụ ngôn, chẳng hạn như hạt giống gieo là lời Chúa. Thứ ba, một ý nghĩa tượng trưng tự nó, chẳng hạn như tre trúc tượng trưng cho lòng ngay thẳng, bông huệ tượng trưng cho sự thanh khiết. Thứ tư, một bản văn ám chỉ tới một chuyện khác, chẳng hạn Isaac ám chỉ Chúa Giêsu. Lời truyền phép của Chúa Giêsu không ở trong bốn trường hợp đó. Tự bản chất và công dụng của bánh không bao giờ ám chỉ đến thân thể. Chúa cũng không cắt nghĩa gì thêm, vì quá rõ ràng, đến nỗi người Do Thái lấy làm chướng tai, không nghe được và bỏ đi. Trong Cựu Ước cũng như Tân Ước không bao giờ dùng tấm bánh để ám chỉ về người ta, cho nên, câu Chúa nói “Đây là Mình Thầy” phải hiểu là một chân lý quyền năng của Chúa. Như vậy, câu Chúa nói “Đây là Mình Thầy” là Chúa lập Bí tích Thánh Thể. Đây là điều chắc chắn, là chân lý tuyệt đối, nhắc nhở chúng ta những điều quan trọng sau đây:
Thứ nhất, Chúa Kitô hiện diện thật sự trong phép thánh Thể. Chúa Kitô ở trong phép Thánh Thể là Chúa Kitô vinh hiển, nhân tính Ngài hiện diện trong bí tích đó không còn đau khổ, buồn phiền, cô đơn nữa. Những kiểu nói Ngài cô đơn, vắng lặng trong nhà tạm chỉ là để nhắc nhở thái độ dễ vô ơn, thờ ơ của chúng ta đối với Chúa.
Thứ hai, Chúa Kitô hiện diện trong phép Thánh Thể là trạng thái hết sức khiêm hạ vì thương yêu loài người. Chúa âm thầm tự trở nên một tù nhân giữa loài người. Phải có một tình yêu cao độ chúng ta mới hiểu được sự ở lại trong khiêm hạ này. Cũng trong sự khiêm hạ âm thầm này mà có biết bao phạm thượng, lộng ngôn xúc phạm đến Chúa qua bao thế hệ. Đó cũng là lý do nữa nhắc nhở chúng ta thêm lòng kính mến bí tích tình yêu tột đỉnh này.
Thứ ba, Chúa Kitô với hai bản tính đều ở trong bánh và rượu. Ở mỗi hình thái đều có đủ Chúa Kitô thật. Nhưng chúng ta nên nhớ: Chúa Kitô ở trong hình thái bánh rượu không còn lệ thuộc vào không gian, thời gian hay trương độ, trọng lượng như xác thịt người phàm nữa. Ngài ngự trong hình bánh rượu, Ngài nghe, biết, thấy chúng ta cầu nguyện, không bằng con mắt xác thịt như chúng ta mà bằng thần tính của Thiên Chúa. Cho nên, chúng ta hãy siêng năng đến cầu nguyện với Chúa trong Thánh Thể.
Chúng ta hãy nhớ và thực hành hai điều sau: Thứ nhất, mỗi khi tham dự thánh lễ, chúng ta hãy cố gắng rước lễ, bởi vì chả lẽ đi dự tiệc mà lại không ăn tiệc? Chúng ta phải chuẩn bị chu đáo để rước lễ. Nhưng cũng đừng vì một đôi khuyết điểm hay yếu đuối nhỏ mà chúng ta nghĩ rằng mình không xứng đáng rước Chúa. Thật ra khi rước lễ, tình yêu chúng ta dành cho Chúa Giêsu đủ để Ngài tha thứ những tội nhẹ và khuyết điểm của chúng ta. Thứ hai, ngoài thánh lễ, Chúa vẫn ở với chúng ta trong nhà tạm. Vì thế, mỗi khi vào nhà thờ chúng ta hãy ý thức sự hiện diện của Chúa, chúng ta cúi đầu hay bái gối với một lòng biết ơn và kính trọng, rồi chúng ta bắt đầu cầu nguyện với một lòng tin sâu xa: Chúa Kitô đang hiện diện thực sự trước chúng ta, đang lắng nghe chúng ta, đang muốn ban ơn cho chúng ta.
Trong quyển “Sống Một Nghệ Thuật” có một chuyện tình được xếp vào hàng chuyện tình đẹp nhất Trung Quốc 2006: Một ông cụ 70 tuổi đã tự tay đẽo 6.000 bậc thang để giúp người vợ 80 tuổi của mình trèo lên núi, hay nói đúng hơn đó là cái hang mà họ đã sống 50 năm qua. 50 năm trước, chàng trai Liu Guojiang đem lòng yêu Xiu Chaoqing, một goá phụ đã có con. Quá mệt mỏi bởi những lời đàm tiếu, chống đối, ngăn trở của gia đình, bạn bè, họ đã bỏ nhà lên hang động này sống ẩn dật để được trọn vẹn yêu nhau. “Anh có chắc là không hối tiếc không?”. Đó là câu hỏi Xiu thường hỏi chồng. “Chừng nào chúng mình còn làm việc cần cù, cuộc sống chắc chắn sẽ tốt lên”. Đó là câu trả lời của Liu.
Vâng, sức mạnh của tình yêu là thế đó. Không có điều gì có thể quật ngã được sức mạnh ấy. Tình yêu nơi nhân loại chính là hình bóng của tình yêu nơi Thiên Chúa. Và nơi Thiên Chúa, tình yêu cũng được cụ thể hoá bằng hành động. “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian… để nhờ Người Con nầy mà thế gian được cứu” (Ga 3,16-17). Tột đỉnh của tình yêu ấy là cái chết đau thương của Đức Giêsu trên thập giá, “Ngài đã tự hiến mình để trở nên của ăn của uống cho toàn dân”.
Vâng, Con Một Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô đã nói: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống… Bánh Ta ban tặng chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51). Điều gì mà khó hiểu và man rợ như vậy? Ăn thịt người ư? Sao có thể như thế được? Chúng ta không thể hiểu đoạn văn một cách thô sơ và hết sức con người như thế. Nhưng nếu hiểu cách đó thì cũng không có gì đáng sợ lắm đâu! Chẳng phải nàng Thoại Khanh đã từng lóc thịt mình để nuôi mẹ chồng hay sao? Cái uyên thâm của câu chuyện này là lòng hiếu thảo tuyệt vời của nàng dâu. Cái cảm động trong câu chuyện tình của ông Liu là tình yêu mãnh liệt của hai ông bà. Vượt trên tất cả, cái đáng ca tụng ngàn đời trong hành động nuôi dân bằng chính Thịt Máu của Đức Kitô là tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Nó đẹp và cao quý hơn bất cứ thứ tình cảm nào khác là bởi vì bản thân là Thiên Chúa nhưng Ngài đã hạ mình, thí mạng cho đám tội nhân là chúng ta. Ngài đã cho ta được tái sinh và tham dự vào thiên tính của Ngài đang khi chúng ta còn trong cõi chết.
Đức Giêsu về trời không có nghĩa là chấm hết mọi hoạt động của Ngài nơi trần gian. Ngài vẫn ở với chúng ta, nơi Bí tích Thánh Thể. Qua tay vị Linh mục, Ngài từng ngày hiện diện trong tâm hồn con người, trở nên cao lương mỹ vị cho cuộc lữ hành về Nước Trời của con người. Bao lâu trên trái đất này còn con người thì Đức Giêsu vẫn nhẫn nại hiến tế chính mình cho họ, trong đó có bạn vào tôi.
Tôi không thể hiểu được điều huyền nhiệm trong những hành động của Thiên Chúa. Tôi cũng không cắt nghĩa được những lời nói trong Kinh Thánh một cách rõ ràng như các nhà thần học. Nhưng có một điều tôi không bao giờ sai lầm là Thiên Chúa đã – đang và sẽ yêu tôi, cho dù tôi bất xứng đến mức nào. Ngài yêu tôi trước khi tôi yêu và nhận ra Ngài. Ngài đến với tôi cả khi tôi từ chối Ngài. Ngài cứu vớt tôi ngay lúc tôi chẳng hy vọng. Ngài xem tôi là bạn hữu trong lúc tôi không đáng là tôi tớ. Ngài yêu tôi trọn vẹn trong tất cả những điểm tốt và hạn chế của tôi.
Một tình yêu như thế có được xem là tình yêu đẹp nhất không thưa bạn? Đức Giêsu “xẻ thịt” mình để lại cho nhân loại như để bổ túc thêm cho những hành động và lời mời gọi yêu thương của mình. “không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Đức Giêsu đã thí mạng vì chúng ta. Vậy bạn có dám thí mạng vì Ngài và vì người khác không? Tình yêu này không chỉ đẹp mà còn cao cả nữa.
Câu hỏi gợi ý:
SUY NIỆM
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Chúng ta cần phải hiểu câu nói đó theo nghĩa nào? Chắc chắn không thể hiểu theo nghĩa đen, nghĩa là nghĩa vật chất được.
Viết tới đây tôi nghĩ tới Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh trong truyện Tây Du Ký: nhiều yêu tinh quyết bắt ông cho bằng được để ăn thịt, vì tin rằng cứ ăn thịt ông thì sẽ trường sinh hay trường thọ. Chắc hẳn chẳng ai trong chúng ta tin được rằng thịt của Đức Giêsu (hiểu theo nghĩa vật chất) là một thứ thuốc hễ ăn vào thì được sống đời đời theo kiểu các yêu tinh tin vào thịt của Đường Tam Tạng.
Cũng khó mà hiểu được một cách thuần túy rằng Thịt đem lại sự sống đời đời ở đây chỉ là bánh Thánh Thể mà người ta vẫn nhận lãnh khi rước lễ. Vì quả thật không thể tin được là tất cả những ai lên rước lễ dù là hằng ngày thì sẽ được sống đời đời mà không cần một thái độ nội tâm nào (xin nhấn mạnh những chữ viết nghiêng này). Nếu thế thì muốn được sống đời đời quả thật quá dễ dàng! Và nếu thế thì bánh Thánh Thể quả là một thứ phù phép hay bùa chú vượt trên mọi thứ phù phép trong mọi tôn giáo! Những phù phép trong các tôn giáo nhiều lắm thì hứa hẹn một cái gì tạm thời chóng qua, chứ không hứa hạn một quyền lợi vô cùng to lớn mang tính đời đời, mà người thụ hưởng chỉ bị đòi hỏi làm một việc mang tính vật lý quá đơn giản!
Theo tôi nghĩ, chính thái độ nội tâm của ta mới là yếu tố quyết định về phía ta để Thiên Chúa ban sự sống đời đời cho ta hay không. Vì thế, việc ăn thịt và uống máu Đức Giêsu là một thái độ hay hành vi nội tâm hơn là thể lý! Không có thái độ hay hành vi nội tâm ấy, thì có rước lễ hằng ngày suốt đời cũng chẳng thể có sự sống đời đời. Thật vậy, có ai dám bảo đảm rằng những người rước lễ hằng ngày thì chắc chắn có sự sống đời đời chăng? Riêng tôi, tôi tin tưởng chắc chắn 100% rằng những ai có thái độ nội tâm giống như Đức Giêsu thì tất nhiên sẽ được Ngài ban sự sống đời đời.
Thiết tưởng, câu nói của Đức Giêsu đang được bàn tới cần hiểu theo nghĩa tâm linh, huyền nhiệm hơn là nghĩa đen. Vì nói chung, trong bất kỳ tôn giáo nào, những câu Kinh Thánh có ý nghĩa quan trọng thường được hiểu theo nghĩa huyền nhiệm hơn theo nghĩa đen. Vả lại, chính Đức Giêsu đã từng dùng từ “lương thực” hay “thức ăn” theo nghĩa tâm linh: “”Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết”. Các môn đệ mới hỏi nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?” Đức Giêsu nói với các ông: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”” (Ga 32-34). Thiết tưởng chữ “bánh”, “của ăn”, “của uống” trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nên hiểu theo nghĩa ấy.
Một trong những đặc tính căn bản nhất của đồ ăn là nó không hiện hữu vì ích lợi của nó, mà hoàn toàn vì ích lợi của người ăn nó. Nói cách khác, đặc tính căn bản của đồ ăn là hoàn toàn vị tha, không vương một chút vị kỷ nào. Đức Giêsu cũng hiện hữu và sống hoàn toàn vì Chúa Cha và vì loài người, không hề vì bản thân mình chút nào. Ngài từng nói: “Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38); “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Cả cuộc đời Đức Giêsu, dù xét một cách toàn thể hay theo từng chi tiết, từng hành động, ta thấy Ngài hoàn toàn vị tha, nghĩa là sống vì Chúa Cha và vì nhân loại. Không một hành vi nào chứng tỏ Ngài vị kỷ cả. Cụ thể và hùng hồn nhất là cuộc tử nạn hết sức thê thảm của Ngài: đau khổ đến tận cùng và chết thê thảm không vì ích lợi gì cho mình, mà hoàn toàn vì yêu thương Chúa Cha và nhân loại.
Hãy nghe Ngài cầu nguyện hai lần với Chúa Cha trước khi chịu tử nạn: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39; x. 26,42). Sự vị tha ấy đã có từ nguyên thủy khi Ngôi Hai xuống thế: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Như vậy, cả cuộc đời Ngài là một cái “bánh bị ăn”, nhờ thế Thiên Chúa được vinh danh. Con người cũng nhờ thế mà “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10), được phục hồi lại sự sống đời đời đã bị mất vì tội nguyên tổ.
Đức Giêsu nói: “Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống”. Điều ấy chắc chắn là sự thật, nhưng phải hiểu theo nghĩa huyền nhiệm hơn là nghĩa đen. Vấn đề còn lại là “ăn thịt và uống máu” Đức Giêsu để “được sống muôn đời” là gì? Muốn “ăn thịt và uống máu” Đức Giêsu thì phải làm gì?
Khi tôi ăn hay uống một thức gì, thì thức ấy được tiêu hóa để trở thành thịt và máu tôi, thành các tế bào của tôi. Thức ấy mà bổ dưỡng hoặc có tính chữa bệnh thì tôi trở nên mạnh khỏe, và bệnh tôi được chữa lành. Nếu tôi ăn hay uống những thức độc hại, thì chất độc ấy cũng trở nên những tế bào độc hại trong thân thể tôi và làm cơ thể tôi suy yếu. Chắc chắn rằng tất cả các tế bào hiện nay của tôi sau mấy chục năm sống ở đời đều hoàn toàn được cấu tạo từ những thức tôi ăn hay uống vào từ bên ngoài. Chính nhờ thức ăn và thức uống mà tôi sống được. Nhưng tôi sống mạnh khỏe hay bệnh tật tùy thuộc vào thức ăn thức uống tôi đưa vào cớ thể, và cũng tùy thuộc cách thức tôi ăn uống nữa. Thức ăn hay thức uống tôi ăn vào từ từ thay thế những tế bào cũ bằng những tế bào mới trong thân thể tôi. Vì thế, nhiều thầy thuốc hay nhà sinh vật học chủ trương người ta có thể cải tạo lại sức khỏe bằng cách thay đổi đồ ăn thức uống và cả cách ăn uống nữa.
Từ thực tế trên, ta có thể hiểu được cách thức “ăn thịt và uống máu” Đức Giêsu. Đức Giêsu là Ngôi Lời, nên bản chất của Ngài là “Lời”. Lời của Ngài cũng chính là của ăn thức uống. Đời sống và bản thân của Ngài cũng là của ăn thức uống như đã nói ở phần trên.
Ăn uống Ngài chính là dùng lời của Ngài, dùng gương mẫu đời sống Ngài, để suy niệm, thực hành, bắt chước hầu thay thế dần dần “chất của ta” bằng “chất của Ngài”, nghĩa là ta càng ngày càng trở nên “có chất Giêsu” hơn trong quan niệm, tư tưởng, lời nói, và hành động của ta.
Nếu mỗi ngày ta thay thế 1% hay 1‰ “chất tôi” thành “chất Ngài” – ít hay nhiều tùy sự cố gắng hay quyết định của ta – thì chỉ một thời gian sau “chất tôi” đầy ích kỷ, tham lam, ghen ghét sẽ giảm đi, và “chất Ngài” đầy vị tha, đầy tình yêu sẽ tăng lên. Và tới một lúc nào đó, “chất Ngài” ở trong tôi trở thành viên mãn, nghĩa là đạt tới mức 100% (Đương nhiên thực tế không đơn sơ như vậy).
Lúc ấy tôi có thể nói như Phao-lô: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 10,20). Lúc ấy, một cách nào đấy, tôi không còn là tôi mà là Đức Kitô. Điều đó không có nghĩa là tôi bị vong thân, mà tôi trở nên một cái tôi hoàn hảo nhất, đúng với ước muốn sâu xa nhất của tôi là nên một con người hoàn hảo. Chính lúc ấy tôi mới tìm lại được bản thân tôi một cách trọn vẹn nhất. Đấy là cách “ăn thịt uống máu” Ngài – mà tôi nghĩ theo thiển ý mình – là hợp lý và ý nghĩa nhất. Và đó cũng là cách bảo đảm nhất để có sự sống đời đời.
Vậy thiết tưởng, mỗi khi dâng thánh lễ và lãnh nhận Thánh Thể, tức là “ăn thịt uống máu” Ngài một cách bí tích, ta cần có một thái độ hay hành vi nội tâm tương xứng là “ăn thịt uống máu” Ngài một cách huyền nhiệm hay tâm linh như đã nói trên. Có sự phối hợp bên trong lẫn bên ngoài như thế, việc lãnh nhận Thánh Thể sẽ đem lại cho ta sự sống và sức mạnh tâm linh bội phần.
Như vậy, “ăn thịt và uống máu” Đức Giêsu chính là suy niệm Lời và đời sống của Ngài để dần dần thay thế “chất tôi” thành “chất Ngài”, biến “tôi” thành “Ngài”. Nói cách khác, đó là trở nên giống Đức Giêsu hoàn toàn. Giống Đức Giêsu là giống Thiên Chúa, mà “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8.16). Tình yêu ở đây là thứ tình yêu hoàn toàn vị tha, không một chút vị kỷ. Vì thế, giống Đức Giêsu là biết yêu thương mọi người bằng một tình yêu vị tha, nghĩa là sẵn sàng trở nên “chiếc bánh bị ăn” như Đức Giêsu (theo cách nói của cha Antoine Chevrier, tu hội Prado). “Bị ăn” bởi những người chung quanh ta, nhất là những người gần gũi ta nhất (vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em, bạn bè ta). Sống như thế, hay ít nhất là cố gắng hết sức để sống như thế, chính là “ăn thịt và uống máu” Đức Giêsu, và như thế thì chắc chắn ta sẽ được sự sống đời đời.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con muốn “ăn thịt và uống máu” Đức Giêsu bằng cách mỗi ngày nhìn vào đời sống của Ngài để biến một phần rất nhỏ “chất tôi” trong con thành “chất Giêsu”. Nếu mỗi ngày con chỉ biến 1‰ (một phần ngàn) “chất tôi” thành “chất Giêsu” một cách thật nghiêm túc và thành công, thì trên nguyên tắc chỉ 1.000 ngày sau – tức khoảng 3 năm – con đã được biến đổi hoàn toàn nên giống Đức Giêsu. Đó là tính theo kiểu toán học, thực tế không đơn sơ, dễ dàng và nhanh chóng như vậy. Xin cho con biết “ăn thịt và uống máu” Ngài theo kiểu ấy, để nhờ đó con có sự sống đời đời.
Bình thường, người Kitô hữu vẫn nghĩ rằng “Chúa ở với tôi”. Chúa ở với mỗi người chúng ta và ở với Giáo Hội trong Phép Thánh Thể, qua hình bánh và rượu. Bất cứ lúc nào chúng ta muốn, chúng ta cũng có thể gặp Ngài tại các thánh đường, và nơi mà Ngại ngự là Nhà Tạm. Tưởng rằng, ở với nhân loại trong Thánh Thể, Chúa đã làm quá nhiều cho nhân loại. Và điều đó cũng đã chứng tỏ lòng Ngài thương yêu chúng ta đến chừng nào, như lời Ngài đã phán: “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
Ở với nhân loại cho đến tận thế. Đó là ao ước của Chúa Giêsu khi từ giã cõi đời này để về trời. Ngài không muốn bỏ lại những bạn hữu Ngài mồ côi trong hành trình trần thế, vì vậy, Ngài đã tình nguyện ở lại với họ và với chúng ta trong Thánh Thể. Điều này chỉ có Thiên Chúa chúng ta mới dám nói và mới có thể thực hiện được. Không thấy một thần minh nào, một giáo tổ của bất cứ tôn giáo nào trên thế gian này đã tuyên bố và làm được như vậy.
“Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Chúa Giêsu không chỉ nói suông. Ngài đã thực hiện ước vọng ấy bằng một hành động phi thường mà theo thánh Thomas A’quinas, thì dù Thiên Chúa toàn năng cũng không thể làm hơn được là lập nên Phép Thánh Thể. Chúa lồng những giá trị hy lễ hiến tế của Ngài vào với những vất vả và lao công con người. Ngài cho phép những vất vả, những giọt mồ hôi và nước mắt của con người được phép đồng trộn với Mình và Máu Ngài để làm nên sức sống nuôi dưỡng đời sống tâm linh và đạo đức của con người. Và đây là hình thức Ngài dùng để thực hiện ước nguyện ở lại với nhân lọai. Vì nếu Ngài dùng bất cứ một chất liệu nào khác, hoặc bất cứ một hình thức nào khác, sợ rằng nó không lột tả được cái tính chất thực tế của cuộc sống, và kiếp người. Thử hỏi trong chúng ta, ai mà chẳng đã một lần đổ mồ hôi và mệt nhọc vì miếng cơm, manh áo? Và ai mà đã chẳng một lần va chạm với sự thật đắng đót của cuộc sống bằng những vất vả, mệt nhọc. Nhưng nay Chúa cho phép con người được đóng góp những vất vả, nhọc nhằn của mình vào với chất lượng làm nên Thánh Thể, có nghĩa là mỗi lần chúng ta nhìn lên Thánh Thể, chúng ta hiểu ngay sự hiện diện của Ngài bên chúng ta, vì cũng trong chính chúng ta, luôn có những vất vả và nghiệt ngã của cuộc sống.
Nhắc đến những vất vả và đắng đót cuộc đời, cũng là nhắc đến thân phận của con người trên cuộc lữ hành trần thế. Và hình thức ở lại với nhân loại của Chúa trong Thánh Thể chính là để nâng đỡ, để chia sẻ, và để ủi an chúng ta. Chúa Giêsu đã chẳng nói: “Hỡi những ai vất vả và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho” (Mt 11:28). Còn lời êm dịu nào hơn, và còn lời phấn khởi nào hơn cho những ai đang vất vả và lo âu trong cuộc sống. Giữa những gánh nặng cồng kềnh đè nặng trên vai. Giữa lúc tưởng chừng như quỵ ngã giữa đường, bỗng có người đến tình nguyện nâng đỡ và chia sẻ, thử hỏi tình cảm và sự thương mến của người ấy đối với chúng ta như thế nào. Giữa sa mạc cuộc đời, và trên hành trình đức tin, nhiều lúc chúng ta cũng đã tưởng chừng như quỵ ngã. Lo âu về cuộc sống. Buồn phiền về quá khứ. Phập phồng, thấp thỏm về tương lai. Và đắng đót, chịu đựng với hiện tại. Lo lắng cho mình. Lo lắng cho người thân mình. Lo lắng cho những người cần đến mình. Tất cả những lo lắng ấy là những gánh nặng cồng kềnh có thể làm ta ngã quỵ dọc đường. Nhưng nhờ Chúa nâng đỡ, chúng ta mới có thể yên tâm mà tiến tới.
Chúa ở với chúng ta. Ngài ở lại qua hình bánh rượu trong Thánh Thể còn để thông ban cho chúng ta sức sống của Ngài. Ngài gọi việc tiếp nhận Mình và Máu Ngài là việc tiếp nhận sức sống được ban cho từ Thiên Chúa: “Trong bữa ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và đưa cho các môn đệ. Ngài phán: “Hãy cầm lấy mà ăn, này là mình ta”. Rồi người cầm lấy chén rược đọc lời chúc tụng, và trao cho các môn đệ. Ngài phán: “Tất cả hãy cầm lấy mà uống, vì đây là máu ta, máu giao ước sẽ đổ ra cho nhiều người để được tha tội” (Mt 26:26-28). Đó là những lời mời gọi của Chúa Giêsu khi trao ban Thánh Thể Ngài cho chúng ta. Như vậy, Ngài không muốn chỉ ở với nhân loại, đồng hành với nhân lọai; mà hơn nữa, trở thành cơm bánh nuôi nhân loại trên đường về Thiên Quốc. Hình ảnh này chúng ta có thể tìm gặp trong cuộc lữ hành của dân Ngài 40 năm trong sa mạc. Trên đường về đất hứa, Chúa đã nuôi họ bằng manna trong sa mạc. Và chúng ta cũng có thể tìm gặp qua hình ảnh của tiên tri Elia trên đường lên núi Horept. Mệt mã và đói khát, tiên tri đang nằm chờ chết thì bỗng nhiên thiên thần Chúa hiện đến và đưa cho ông bánh và nước: “Hãy chỗi dậy mà ăn, vì đường con dài”. Thiên thần có ý nói chưa chết được. Chưa được phép chết. Lúc này chưa phải là lúc chết vì còn nhiều việc phải làm, và con đường trần chưa đi hết.
Khi trở thành rượu bánh nuôi sống con người, cũng có nghĩa là Chúa thuộc trọn về con người. Cơm bánh, rượu nước khi ăn vào, uống vào sẽ trở thành máu huyết nuôi sống người ăn và người uống. Tiếp nhận Thánh Thể là tiếp nhận Mình Máu Chúa Giêsu để trở thành sức sống của ta. Và đó là lý do Chúa ở trong con người. Hình ảnh một giọt nước hòa tan trong chén rượu. Hình ảnh một hạt miến bị nghiền tan và hòa với trong trăm ngàn hạt miến để trở thành một tấm bánh là hình ảnh Chúa cho phép con người được hòa tan trong Chúa, cũng như để Chúa hòa tan trong con người. Qua Phép Thánh Thể, Chúa ở trong con người. Chúa thuộc trọn về con người. Chúa trở thành sức sống cho con người. Ngài trở thành con người với chúng ta, ngoại trừ chia sẻ tội lỗi với chúng ta.
Không còn sự hòa trộn nào. Không còn sự tan biến nào với cuộc đời và cuộc sống con người bằng sự hòa trộn giữa Chúa Giêsu và con người khi đón nhận Thánh Thể. Và ở đậy, Ngài không những ở với nhân loại, ở với chúng ta, mà hơn nữa, hoàn toàn trở nên và lệ thuộc vào cuộc sống và mỗi con người chúng ta.
Như vậy, ai trong chúng ta có thể nói là mình không một lần gặp gỡ Chúa. Không một lần được động chạm, sờ được đến Chúa. Không một lần được gần gũi và thân mật với Chúa. Và ai là người có thể nói được rằng Thiên Chúa đã bỏ rơi, đã không nhìn đến, và không quan tâm đến mình. Qua Thánh Thể, và trong ý nghĩa hòa đồng ấy, Chúa Giêsu không có lý do nào để quên chính mình Ngài, thì chúng ta cũng không có lý do gì để sợ rằng Ngài quên chúng ta và không nghĩ đến chúng ta.
Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Ngài ở đó để đồng hành với chúng ta. Ngài ở đó để nâng đỡ chúng ta. Ngài ở đó để trở thành của nuôi sống chúng ta. Và Ngài ở đó để hòa tan và trở nên một với chúng ta. Như vậy, Ngài đã thực hiện được điều Ngài đã nói với các Tông Đồ xưa: “Thầy ở lại với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”. Mầu nhiệm vô cùng cao quí, vượt qua mọi hiểu biết và lối dẫn giải của con người. Mầu nhiệm mà chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới thực hiện nổi.
Chúa Giêsu Thánh Thể. Ngài không chỉ ở với nhân loại mà còn ở trong mỗi người chúng ta. Ngài không chỉ ở trong chúng ta, mà hơn thế, còn trở thành nên chính chúng ta. Lậy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con được lòng yêu mến và siêng năng đến với Chúa và rước Chúa. Xin cho đời sống chúng con là một giọt nước luôn luôn được hòa tan vào chén rượu nồng là tình yêu Thiên Chúa, để chúng con dù sống hay chết, cũng là sống và chết cho tình yêu đã hy hiến vì chúng con.
Khi yêu thương ai, ta mong muốn mãi mãi được ở trong trái tim người ấy. Đồng thời, ta sẵn sàng dâng hiến tất cả những gì có thể cho người mình yêu. Để rồi cho dù có phải xa nhau ta vẫn cảm thấy gần nhau. Bởi lẽ, trái tim của ta và người ấy đã được ở lại trong nhau.
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56). Đây là lời Chúa Giêsu nói với từng người chúng ta trong lễ Mình Máu Chúa hôm nay. Thiên Chúa tự bản chất là Tình Yêu. Tình yêu ấy được thể hiện trọn hảo nơi Chúa Giêsu. Người đã lập nên 7 Bí tích để thông ban nguồn ân sủng cho chúng ta. Trong đó, Bí tích Thánh Thể là Bí tích quan trọng nhất. Vì qua Bí tích này chúng ta được đón nhận chính Thịt và Máu của Người. Còn gì cao quý và thiêng liêng hơn nữa.
Trong một gia đình kia, vào mỗi chiều thứ tư sau khi người mẹ đi vắng nhà một chút trở về thì đứa con trai được mẹ đem về cho một cái bánh. Đây là chuyện bình thường đối với em trong vài lần đầu. Nhưng qua nhiều lần như thế em lấy làm lạ. Em quyết định tìm hiểu. Chiều thứ tư nọ sau khi mẹ ra khỏi nhà, em liền lén đi theo sau. Thì ra mẹ đến Nhà thờ để họp mặt các bà mẹ Công giáo trong họ đạo. Quan sát qua khe cửa, em thấy đến giờ giải lao mỗi bà mẹ được phát cho một cái bánh và một chai nước. Các bà mẹ khác thì vô tư thưởng thức phần của mình. Chỉ riêng mẹ của em sau khi nhìn qua nhìn lại bà vội để cái bánh vào giỏ và chỉ ngồi uống nước.
Lúc ấy, em đã hiểu vì sao mình có được cái bánh vào mỗi chiều thứ tư. Em quay về nhà và cũng như bao ngày khác ngồi chờ mẹ về. Tuy nhiên, tâm trạng của em không còn như trước nữa. Càng nghĩ đến hình ảnh đã thấy về mẹ bao nhiêu thì em càng cảm thấy thương mẹ bấy nhiêu.
Và người mẹ cũng đã trở về. Em cũng vui vẻ nhận bánh như bao ngày thứ tư khác. Đưa bánh cho con, người mẹ vào nhà tiếp tục công việc của mình. Bà đâu hay biết chuyện gì đã xảy ra với con mình. Đang khi đó, em cầm cái bánh hết sức nâng niu và ra góc nhà đứng ăn trong nước mắt vì cảm thấy quá hạnh phúc.
Theo quy luật cuộc sống, em đã trở thành người lớn và người mẹ cũng đã đi theo ông bà. Mặc dù mẹ cậu không còn nữa, nhưng tình thương của người mẹ vẫn luôn tồn tại trong trái tim của cậu. Đó cũng là động lực để giúp cậu quyết tâm mỗi ngày sống tốt hơn.
Phải chăng hình ảnh người mẹ này phần nào giúp ta hiểu sâu hơn về tình thương mà Chúa Giêsu muốn dành cho chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể. Qua Bí tích cao quý này, Người muốn ở lại với chúng ta một cách trọn vẹn và lâu bền hơn.
Xin cho mỗi người chúng ta nhờ lễ Mình Máu hôm nay biết quý trọng Bí tích Thánh Thể nhiều hơn. Quý trọng bằng việc siêng năng đến rước Chúa vào lòng để mãi mãi ta được ở lại trong tình thương của Người. Đây cũng chính là nguồn động lực thiêng liêng cao quý giúp chúng ta sống đạo vững vàng và chắc chắn hơn.
Bí Tích Thánh Thể, Một Sáng Kiến Trong Tình Yêu
Được trở thành môn đệ thân tín của Đức Kitô, nghe lời giảng của Ngài, chứng kiến những việc Ngài làm, chia sẻ những tâm tình buồn vui với Ngài, và nhất là được “dựa đầu vào ngực Thày mình trong bữa tiệc ly chiều thứ năm trước lễ Vượt Qua, khi Bí Tích Thánh Thể được thiết lập, Gioan đã không ngần ngại tuyên bố: “Thiên Chúa là tình yêu”.
Thật vậy, nếu đọc kỹ chương 22 (1-38) của Luca và các chương 13, 14, 15, 16, 17, 18 của Gioan liên quan tới Bữa Tiệc Ly, chúng ta sẽ hiểu tại sao Chúa lập Bí Tích Thánh Thể. Nói khác, Bí Tích Thánh Thể là một sáng kiến phát xuất từ một tình yêu quá bao la, sâu đậm và nồng nàn của Thiên Chúa, đúng như Gioan nhận định: “Chúa Giêsu biết đã đến lúc mình phải bỏ thế gian để về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian thì Người đã yêu thương họ đến cùng”. Luca thì viết: “Trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu sai Phêrô và Gioan đi và nói: các con hãy dọn lễ để chúng ta mừng lễ Vượt Qua” (Lc. 22,8). Ông tiếp: “Khi đến giờ, Người ngồi vào bàn ăn. Người nói với các môn đệ: Thày tha thiết ao ước ăn lễ Vượt Qua này với các con trước khi Thày chịu khổ nạn” (Lc. 22, 14-15). Việc Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ chuẩn bị và niềm ước mong mừng lễ Vượt Qua là gì, nếu không phải là Chúa muốn dùng cơ hội cuối cùng này để nói lên tất cả tâm tư của Ngài, nhất là để thiết lập Bí Tích Thánh Thể như một phương tiện tuyệt hảo diễn tả tình yêu của Ngài và cũng là cách Ngài duy trì sự hiện diện của mình giữa chúng ta. Thật vậy, khi đã thương yêu đến cùng, khi tình yêu đã dâng lên tột đỉnh, Đức Kitô đã thực hiện một “sáng kiến táo bạo” mà Ngài ấp ủ từ lâu, một sáng kiến làm nhân loại phải kinh ngạc qua bao thời đại- kinh ngạc đến mức độ không thể hiểu; do đó, nhiều người đã không chấp nhận, nói rằng: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?” (Ga 6, 52a).
Xa nhau là một đau lòng xé nát con tim giữa những người yêu nhau. Chỉ cần nghĩ đến giờ phút ly biệt, người ta đã buồn lắm. Do đó, trước khi xa nhau, người ta thường tìm cách níu kéo thời gian lại, tận dụng những giây phút cuối cùng để ở bên nhau, nhìn nhau, tâm sự với nhau, hứa hẹn với nhau, trao cho nhau những kỷ vật, đồng thời có những sáng kiến nhằm cứu vãn những gì có thể cứu vãn được. Vì từ nay không còn được gần gũi bên nhau, thì kỷ vật này sẽ là chứng tích của một tình yêu chung thủy, của một thời sống bên nhau. Vì từ nay không còn được nhìn thấy nhau, không còn được nghe tiếng nói của nhau, không còn được ngắm nhìn những dáng dấp thân thương của nhau, thì cuốn video tape này sẽ là món quà tuyệt hảo nhất trao cho nhau… Đấy là những sáng kiến nơi con người. Và còn người chỉ làm được như thế.
Còn Chúa Giêsu?. Là con người với một trái tim nồng nàn yêu thương, Chúa cũng cảm thấy hạnh phúc khi được sống với những người mình yêu, và thấy mất mát khổ đau khi phải biệt ly. Bởi thế, Ngài cũng muốn tận dụng tối đa những giờ phút cuối cùng trước khi giã từ các môn đệ, để ở bên họ và tâm sự với họ. Ngài cũng gởi đến họ những lời nhắn nhủ quan trọng nhất mà Ngài coi như của riêng Ngài, đó là Giới Luật Yêu Thương… Là Thiên Chúa, Ngài đã dùng quyền năng của mình để thực hiện một “phát minh” có một không hai, vượt trên mọi khả năng của nhân loại, đó là Bí Tích Thánh Thể. Với “phát minh” mới này, Ngài không cần đến một video tape hay bất cứ tặng vật nào để trao tặng chúng ta, nhưng Ngài đã ban tặng cho chúng ta chính con người của Ngài, chính sự hiện diện của Ngài, để tiếp tục có mặt bên chúng ta, và hơn thế, trở thành lương thực nuôi sống chúng ta. Từ nay, bất cứ khi nào muốn gặp Ngài, chúng ta chỉ cần lặp lại những gì Ngài đã làm trong bữa tiệc ly đó, lập tức Ngài có mặt. Ngoài ra, Ngài còn cho phép chúng ta ăn uống chính mình và máu Ngài, để được kết hợp với Ngài cách trọn vẹn. Ngài xác quyết: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở trong tôi, và tôi sẽ ở trong người ấy” (Ga 6, 56).
Như vậy, thái độ và tâm tình của chúng ta đối với Bí Tích Thánh Thể chính là niềm tin và lòng mến:
– Với niềm tin, chúng ta xác tín rằng: Đức Kitô thực sự hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta và trở nên lương thực cho chúng ta.
– Với lòng mến, chúng ta hãy quảng đại đáp lại lời mời gọi đầy yêu thương của Ngài qua việc năng tiếp nhận Mình Máu Thánh Chúa, để được sống và liên kết với Chúa mỗi ngày một bền chặt hơn.
Là người Việt Nam, hầu như ai cũng biết, hoặc được nghe kể lại về nạn đói năm Ất Dậu 1945. Đây là một vết thương lớn không phai trong lòng người dân Việt. Một khi cơn đói cồn cào, họ tìm kiếm bất cứ thứ gì có thể ăn được dù đó là những củ chuối ngoài đồng hay các lá non của cây cỏ, thậm chí ngay cả đến những con rắn mối, thằn lằn họ cũng bắt và cho vào miệng ăn không chút đắn đo. Nhưng cuối cùng những con người xấu số ấy cũng bị tử thần cướp đi vì đói.
Ngày nay, chuyện chết đói nào đâu đã hết, các nước nghèo trên thế giới vẫn còn thảm cảnh này xẩy ra. Chúng ta hãy xét đến sự tương trợ nhau phát sinh từ tình yêu nhân loại.Tuy cũng có viện trợ và giúp đỡ nhưng vẫn chưa bù đủ vào con số đói nghèo trên thế giới.
Trong lãnh vực niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa, hôm nay lễ Mình và Máu Thánh Chúa. Đây chính là lương thực thần linh nuôi sống linh hồn tín hữu chúng ta. Trong tiếng La Tinh “ Corpus Christi” nghĩa là “ Thân Thể Chúa Kitô”. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu tình yêu trao ban của Ngài đối với nhân loại chúng ta.
Trong bài đọc một, sách Đệ nhị luật đã trình thuật việc dân Do Thái được Thiên Chúa Giavê bảo vệ và dẫn đưa ra khỏi đất Ai Cập, thoát khỏi hoang địa và nọc rắn độc. Thiên Chúa đã khiến nước từ tảng đá vọt chảy ra và cho Manna nuôi dân sống để tiến về đất hứa. Còn trong Tin mừng chúng ta cũng thấy những phép lạ được nhân lên qua bánh và cá. Với năm chiếc bánh và hai con cá đã trở thành lương thực nuôi được 5000 người, sau đó thu lại còn dư những 12 thúng vụn. Riêng bài Phúc âm hôm nay Chúa không còn dùng hình bóng hay úp mở gì nữa mà Người đã xác định với dân của Ngài: “ Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời, và bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”.
Quá hiển nhiên và rõ ràng. Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài đã trở nên lương thực cho linh hồn ta ăn. Con Chiên vượt qua lại càng rõ và tiêu biểu hơn. Hình ảnh này được yêu chuộng đến độ chính Chúa Giêsu cũng được xưng tụng là: “ Chiên Thiên Chúa”.
Đọc Tin mừng, cả ba tác giả của Phúc âm nhất lãm đều đề cập đến bữa tiệc ly. Chính trong bữa ăn tối này Bí tích Thánh Thể được thiết lập và một lễ vượt qua cũ được chuyển đổi sang lễ vượt qua mới. Biến cố làm nên nhiệm tích Thánh Thể chính là cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Qua tình yêu này chúng ta thấy Thánh Thể ban cho chúng ta ví như một tuyệt tác và tặng ân của Ba Ngôi Thiên Chúa, toàn thể Ba ngôi đều cộng tác vào việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể: Ngôi Con tự hiến, Ngôi Cha đón nhận hiến lễ, và nhờ Ngôi Thánh Thần Ngôi Con hiến tế cho Ngôi Cha.
Theo tự nhiên, khi chúng ta ăn thực phẩm, dạ dày sẽ bóp, nghiền và biến thành chất bổ để châu lưu nuôi sống con người. Khi chúng ta rước lễ, chúng ta cũng được thông hiệp với mình và máu Chúa Kitô. Thánh Phao lô đã viết: “Chén chúc tụng Ta cầm lên tạ ơn không phải là thông phần Máu Chúa Kitô sao? Và bánh Ta bẻ ra không phải là thông phần Mình Chúa Kitô sao?” (1 Cr. 10,16). Mỗi lần hiệp lễ linh hồn và con tim chúng ta trở nên cung điện của Chúa Ba Ngôi cực thánh, và khi Thiên Chúa đến, thì toàn thể thiên đàng cũng hộ giá và đến với chúng ta. Tình yêu Thiên Chúa chiếm trọn tâm hồn và chúng ta bước vào sự thông hiệp nhiệm mầu, xác thực, sâu xa với cả Ba Ngôi.
Hơn nữa, chúng ta cũng có thể thấy rõ rằng: khi hiệp lễ, chúng ta mở cửa tâm hồn ra đón nhận Chúa Giêsu ngự vào. Ngài là vị thượng khách của linh hồn ta. Chúng ta cũng nhận ra khi thân xác đói khát sẽ trở nên thờ thẫn và yếu đuối nhưng khi đã no nê thì trở nên nhanh nhẹn và tỉnh táo. Linh hồn một khi được no thoả bởi Mình và Máu Thánh Chúa cũng vậy. Khi ấy, căn nhà tăm tối sẽ trở nên sáng láng, căn phòng lạnh lẽo sẽ trở nên ấm áp. Sự đói khát tình yêu sẽ bù đắp vào thay thế một hạnh phúc đầy tràn dư dật. Lúc ấy, hết thảy những ai lãnh nhận từ tình yêu cách chân thật, thì họ cũng ban phát tình yêu ấy một cách tràn đầy. Thánh Thể Chúa là lò sưởi ân tình. Chúa phán: “ Hết thảy những ai đến với Ta, họ sẽ không còn đói khát”. Sở dĩ Chúa xác định cách cụ thể như vậy vì chính lúc đó họ đã hoà nhập với Đấng Toàn Yêu của họ, và cũng từ nơi ấy, họ học được Tình Yêu từ Thầy Chí Thánh của họ: “ Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Trong lời nói chậm rãi và trịnh trọng, tựa như một di chúc vọng ra sự truyền khiến, căn dặn tràn ngập ân tình: “ Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”.Chúng ta có nhận ra đây là một kho tàng, gia tài vô giá mà Thiên Chúa đã để lại qua “ Di chúc” của Ngài. Thử hỏi xem có người con hiếu thảo nào lại không thi hành di chúc của cha mẹ? Xét về lãnh vực thiêng liêng đây là kho báu Đức Giêsu Kitô để lại cho nhân loại. Kho tàng tình yêu không bao giờ tàn phai hay huỷ hoại. Kho tàng Thánh Thể Chúa Kitô. Cảm nhận tình yêu của Chúa đối với chúng ta, thì chúng ta cũng có sự đáp lại ân tình ấy. Thánh Thể Chúa đợi mong ta từng giây phút, ao ước ta no thoả Ngài trong mọi phút giây. Ngài là Tình Yêu, mà đặc tính của tình yêu là trao tặng, cho đi. Đáp trả ân tình, chúng ta hãy đến với Thánh Thể bằng sự chiêm niệm với tấm tình người con hiếu thảo. Thánh Thể và Chiêm niệm là hai con đường dẫn linh hồn người tín hữu đến tận hưởng Thiên Chúa, làm cho linh hồn kết hợp mật thiết với Chúa cách hạnh phúc và no thoả.Tuy nhiên Thánh Thể mang tính khách thể, còn Chiêm niệm thiên về niệm hướng. Tuy có phần khác biệt hay độc lập nhau chút ít thế nhưng cốt lõi vẫn là một trao đổi tình yêu. Bảo rằng tôi kính thờ Thánh Thể nhưng không bao giờ hướng lòng chiêm ngưỡng thì sao gọi được là đầy tràn tình yêu? Thuỷ triều càng dâng cao thì những vẩn đục của giòng sông sẽ loãng lỏng dần rồi trở nên trong sạch hoàn toàn. Do đó tính phủ bọc và tha thứ của Thánh Thể tình yêu cũng luôn biến đổi chúng ta như thế. Miễn là chúng ta biết đáp trả lại tiếng gọi “ Ta khát” liên tục phát ra trong nhà tạm hằng giây, hằng phút.Tiếc thay! Ngày nay cũng như ngày xưa, sự thờ ơ, lãnh đạm của tâm dạ con người thường hay đổi thay như chong chóng. Vào thời Chúa Giêsu, dân chúng cũng đã tung hô Ngài, nhưng sau đó lại hô to tiếng: “Đóng đinh nó vào thập giá”. Thì ngày nay trong các nhà tạm trên thế giới, Chúa Giêsu Thánh Thể cũng vẫn luôn cô đơn và chờ đợi. Phải, Ngài chẳng cô đơn sao được khi chính những con cái Ngài thương yêu hết mực lại quay đầu chống lại Chúa. Một Giuđa đã chứng minh cho nhân loại nhận ra sự bội phản không một chút thể hiện sám hối. Hơn nữa, những linh hồn sống trong tội lỗi vẫn chưa trở lại giao hoà với Chúa, họ tiếp tục sống trong tình trạng chết phần linh hồn. Những thái độ này là nguyên nhân làm cho Thánh Thể Chúa tiếp tục “ khát”.Vậy hỡi nhân loại! Hãy mau thay đổi và hoán cải, và tức tốc an ủi Chúa đang ngày đêm cô đơn, giam cầm trong nhà tạm vì thiếu sự đáp trả tình yêu của loài người.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con ao ước và quyết tâm sống kết hợp mật thiết với Chúa, con luôn cố sống trong sạch để linh hồn con trở thành nhà tạm và đền thờ chứa Chúa Thánh Thể. Con tin Thánh Thể Chúa chính là Con Đức Chúa Cha xuống thế làm người đã giáng sinh ở Belem vào đêm đông giá lạnh. Con tin Tấm Bánh thần linh ngự trong các nhà tạm thánh chính là Đấng đã chết treo trên thập giá trên đồi Golgotha để qua cái chết, Chúa huỷ diệt tội lỗi. Con vững tin hơn cả qua sự phục sinh của Chúa để huỷ diệt sự chết. Tất cả là tình yêu, tất cả vì sự cứu độ trần gian.
Lạy Mẹ Maria, bằng tiếng Xin Vâng, Cung lòng Mẹ đã trở nên nhà tạm để Chúa Giêsu cư ngụ. Xin Mẹ cầu cho chúng con luôn biết trang điểm nhà tạm linh hồn mình bằng những quà tặng của đức bác ái để xứng đáng cho Chúa Giêsu con của Mẹ mãi mãi hiện diện trong tâm hồn con.
Anh chị em thân mến,
Thời cách mạng Pháp 1789, đạo Công giáo bị làm khó dễ và bị cấm không được truyền đạo. Một cha xứ nhà quê lén đem Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt, theo sau có cậu giúp lễ tên là Benjamin. Bọn lính cách mạng phát hiện đuổi theo rất gấp. Cha xứ dúi vào tay cậu bé cái hộp đựng Mình Thánh Chúa và bỏ chạy. Lính bắt cha lại và giết cha. Cậu bé giúp lễ vừa chạy vừa mở hộp Mình Thánh Chúa ra và bỏ vào miệng nuốt đi. Lính bắt cậu và tra hỏi. Cậu nói: “Mình Thánh Chúa đang ở trong người tôi”. Lính tức giận giết luôn cậu bé, rồi chôn xác cha xứ và cậu bé chung nhau dưới gốc cây sồi to…Sau đó cuộc cách mạng thất bại và qua đi. Một hôm một cơn lốc mạnh đã làm trốc gốc cây sồi, để lộ hai xác: cha xứ và cậu bé giúp lễ. Người ta phát hiện Mình Thánh Chúa vẫn còn trong người cậu bé và xác của cậu vẫn còn tươi dù đã nằm dưới đất khá lâu…
a/. Hội thánh Công giáo vẫn tin Đức Kitô hiện diện thật trong Bí tích Thánh Thể: Thánh lễ Misa ban cho chúng ta chính Thịt Máu Chúa, hiện diện cách đầy đủ trong tấm bánh và ly rượu. Đây là tín điều Hội thánh công giáo tuyên xưng từ thời các tông đồ và được xác nhận qua các Công Đồng chung. Ai là người công giáo mà không tin, sẽ bị vạ tuyệt thông. Bao nhiêu câu chuyện về phép lạ Mình Thánh Chúa qua 20 thế kỷ, đủ minh chứng cho chúng ta thấy Chúa Kitô thực sự hiện diện đầy yêu thương trong Bí tích này. Người luôn ở đó trong âm thầm khiêm tốn, chờ đợi con người đến lãnh muôn hồng ân cao cả, đến lãnh nhận chính sức sống của Thiên Chúa.
Tiến sĩ Bob Rice, một mục sư Tin lành đã trở lại đạo công giáo năm 1994, (hiện đang còn sống bên Mỹ) nói: người Tin lành được dạy từ nhỏ rằng bánh và rượu chỉ là biểu tượng cho Mình và Máu Chúa mà thôi. Một hôm, tôi được mời đi dự một buổi chầu Thánh Thể long trọng của người công giáo. Đang khi tôi quì chăm chú nhìn lên Thánh Thể, thình lình gương mặt Chúa xuất hiện giữa Bánh Thánh…Tôi vui sướng không tả được, và… tôi sẵn sàng dành cả đời mình để làm chứng về phép lạ Thánh Thể….
b/. Bí Tích Thánh Thể là mầu nhiệm yêu thương, hiệp thông, chia sẻ và hi sinh:
Cha Jean Nowen (trong quyển Đời sống người được yêu) nói: Tấm bánh (là Mình Chúa) là tấm bánh phải được bẻ ra, phân phát cho nhiều người, không phải chỉ một người… Câu nói của Cha J. Nowen rất chí lý: mầu nhiệm Thánh Thể chính là mầu nhiệm Tình yêu, hiệp thông, chia sẻ và hi sinh. Cả cuộc đời của Đức Kitô chính là mầu nhiệm yêu thương và hiệp thông này; vì yêu thương Chúa đành nên tấm bánh bị bẻ nhỏ ra và phân phát cho mọi người. Đây chính là hình ảnh sống động về sự hiệp thông, hi sinh và chia sẻ đó…
Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người, để ai tin vào Người Con ấy, sẽ không phải hư mất, nhưng được sống đời đời… (Gn 3, 16). Chúa Giêsu còn nói cách riêng về Bí Tích Thánh Thể: Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế… (Mt 28, 20).
Một Đức Viện Phụ nọ hỏi một thanh niên xin vào dòng: – Năm nay con bao nhiêu tuổi? – Dạ con 25 tuổi. – Con có quen cô gái nào không? Nghĩ rằng Đức Viện Phụ điều tra lý lịch mình, anh đáp: Dạ không. – Vậy con đã bao giờ yêu ai chưa? – Dạ chưa. Ngài nói: – này con, từ nhỏ đến giờ con có yêu ai không? Anh thanh niên trả lời: Thưa cha không. – Mà con cũng không yêu cô nào nữa sao? – Dạ không. Ngài nói: Con đến đây là để học yêu Chúa, yêu anh em; thế mà chữ yêu con không biết, thì làm sao ở đây được? Con hãy về học yêu đi đã… Đức Viện Phụ muốn nói: ngay cả đi tu cũng là để học yêu thương, học chia sẻ.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Mình Thánh Chúa chính là mầu nhiệm hiệp thông và chia sẻ; là người Kitô hữu, ta có muốn hiệp thông và chia sẻ với mọi người xung quanh bằng tình yêu như Chúa Kitô không? Là người Kitô hữu, ta có muốn là tấm bánh hữu ích, được bẻ ra và chia cho mọi người không?
Một trong những truyện hay nhất của cuộc đời Chúa Giêsu là truyện Chúa bồng ẵm một em bé. Các tông đồ tranh cãi xem ai là người cao cả nhất. Chúa Giêsu bảo các ông: “Ai muốn ở bậc nhất thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người”. Rồi Chúa dắt một em bé lại và để em đứng giữa các ông. Chúa bồng ẫm em và nói: “Ai đón nhận một trẻ nhỏ như em bé này vì danh Ta là đón nhận Ta, và ai đón tiếp Ta, thì không phải đón tiếp Ta, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Ta” (Mc 9,36).
Theo truyền tụng thì em bé này sau trở nên thánh Ignatuiô thành Antiochia, Ngài đã hiến dâng mạng sống vì Chúa Kitô năm 107. Khi còn là thiếu niên, Ignatio thường dẫn bạn bè tới nơi mà Chúa Giêsu đã bồng ẵm cậu và bảo bạn bè: “Các bạn coi đó. Đây là chỗ Chúa Giêsu đã bồng ẵm tôi”.
Nếu bạn muốn, bạn có thể coi đó là câu chuyện tưởng tượng của thời trung cổ, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng Chúa Giêsu đã bồng ẵm một em bé. Sự kiện đó hôm nay làm nổi bật tư tưởng của tôi, nghĩa là trong sự Hiệp lễ, chúng ta không chỉ ôm ẵm Chúa Giêsu, nhưng chính Ngài cũng ôm ẵm chúng ta.
Có lẽ không bao giờ bạn nghĩ đến sự Hiệp lễ trong cách này. Chúng ta nói trực riếp: “Tôi đón nhận Chúa Giêsu trong sự hiệp lễ… Chúa Giêsu ngự vào trong lòng tôi”. Chúng ta nói về những hiệp lễ như là ôm ẵm Chúa. Nhưng hiệp lễ cũng có nghĩa là Chúa ôm ẵm chúng ta. Chúa Giêsu đón nhận chúng ta vào lòng Ngài cách đặc biệt. Không chỉ là Chúa Giêsu ngự trong chúng ta, mà chúng ta cũng ở trong Chúa Giêsu. Đó là ý nghĩa của điều Chúa nói với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: “Ai ăn Thịt ta và uống Máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy”. Chúng ta có thể nói như thánh Ignatiô: “Đây là nơi Chúa Giêsu bồng ẵm tôi”.
Thánh Cyrilo thành Alexandries so sánh sự hiệp nhất này với hai miếng sáp ong hòa lẫn với nhau. Thánh Têrêxa thành Lisieux đã diễn tả sự hiệp lễ lần đầu của Ngài như là sự hoà tan với Chúa Kitô.
Bạn hãy tưởng tượng một em bé chạy lại gặp cha nó. Nó giang cánh tay nhỏ bé quàng vào cổ cha nó. Cố sức ôm chặt lấy cha nó. Nhưng người cha bồng lấy đứa con trong vòng tay to khỏe, ôm ấp đấ yêu thương. Sự hiệp lễ cũng phần nào giống như thế. Chúng ta ôm ẫm Chúa Kitô. Chúng ta đón rước Ngài ngự vào lòng ta. Chúa Giêsu ôm ẫm ta, đưa ta vào lòng Ngài.
Bạn hãy suy nghĩ điều này và bạn bắt đầu nhận thức rằng sự quan trọng không phải là tình yêu, lòng khát khao hay những lời cầu nguyện của chúng ta, mặc dầu tất cả cần phải có. Sự quan trọng nhất là tình yêu vô biên của Chúa Giêsu. Ngài ước mong ôm ẵm chúng ta, chia sẻ chính đời sống Ngài cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta ở lại trong Ngài như chúng ta muốn Ngài ở lại trong chúng ta.
Sự thật kỳ lạ này chúng ta cử hành hôm nay, ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, tôn vinh Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Trong sự buồn thảm của tuần thánh, chúng ta đã làm mới lại ngày thứ năm thánh đầu tiên, khi Chúa Giêsu trao ban chính Ngài cho các tông đồ, và các ông được dâng chính mình cho Ngài. Sự thật vui mừng lớn lao quá, chúng ta muốn cử hành một cách dặc biệt trong một ngày đặc biệt, Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Chúng ta ước ao làm mới lại ước vọng được ôm ẵm Chúa Kitô và được Ngài ôm ẵm chúng ta.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Phúc Âm kể lại: Đang khi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: Này là Mình Thầy, các con hãy cầm lấy mà ăn. Rồi Người cầm lấy chén rượu và nói: Này là Máu Thầy, các con hãy cầm lấy mà uống. (Mt 26, 26- 29; Lc, 22, 14- 20). Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể và Chúa dặn dò các môn đệ: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.
Tiệc Thánh Thể này được chính Chúa Giêsu tiên báo trong tiệc cưới Cana, được hứa ban cho dân ở Caphanaum, được thiết lập trong Tiệc Ly và đã được chính Chúa cử hành đầu tiên tại làng quê Emmau. Bốn khung cảnh này hòa quyện đan kết với nhau thật tuyệt đẹp trong ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Thánh Thể là sự sống của Giáo Hội, là lương thực thiêng liêng cho đời sống và là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của người tín hữu chúng ta.
Thánh Thể là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau.
Thánh Thể chính là Tặng Phẩm Thần Linh mà Thiên Chúa trao cho nhân loại.
Lịch sử cứu độ là lịch sử hồng ân và là lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa. Cao điểm của lịch sử này là Thập Giá Đức Kitô. Thập Giá là tột đỉnh hy sinh của Thiên Chúa. Thập Giá biểu lộ tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Thập Giá cũng là tột đỉnh hy sinh của Đức Kitô, Đấng đã hạ mình vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập Giá. Thập giá là cao điểm tình yêu tự hiến của Chúa Kitô.
Tình yêu sâu thẳm và khôn dò của Thiên Chúa biểu lộ nơi Thập Giá Đức Kitô là tình yêu vượt thời gian. Tình yêu tự hiến của Đức Kitô biểu lộ bằng cái chết cũng vượt thời gian. Chúa Kitô chỉ tự hiến một lần, tự hiến trọn vẹn thay cho mọi lần. Chúa đã biểu lộ điều này trong bữa Tiệc Ly. Từ đó, Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch của đời sống Giáo Hội, là trọng tâm và là tột đỉnh của sinh hoạt Giáo Hội. Thánh Thể làm nên Giáo Hội. Không có Thánh Thể thì không có Giáo Hội. Giáo hội là thân mình gồm nhiều người ăn cùng một bánh là thân mình Đức Kitô (1 Cor10, 17).
Giáo hội luôn định tín rằng: dù chỉ một miếng bánh nhỏ, khi đã được Truyền Phép, vẫn chứa đựng cả thân xác, linh hồn và thần tính của Đức Kitô. Chúng ta có Đức Kitô nguyên vẹn và cụ thể. Chính Chúa Thánh Thần Kitô hóa bánh rượu, làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Khi linh mục, thừa tác viên của Giáo hội, thay mặt Chúa Kitô đọc Lời Truyền Phép. Lời Truyền Phép mà linh mục đọc không phải là một câu thần chú có một ma lực biến bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, giống như linh mục có quyền trên Chúa Kitô, khiến Chúa đến thì Ngài phải đến. Lời Truyền Phép chính là Lời Chúa Kitô, Lời mà Chúa Kitô muốn nói qua môi miệng của linh mục. Chúa Kitô đã chọn một số người để họ lập lại y nguyên Lời Truyền Phép của Ngài. Chính Chúa Thánh Thần lấp đầy “khoảng cách” giữa linh mục và Đức Kitô, khiến Lời Truyền Phép trở nên “công hiệu”, làm cho nội dung của Lời trở thành hiện thực. Sau Truyền Phép bánh không còn là bánh mà là Mình Thánh Chúa, rượu không còn là rượu mà là Máu Thánh Chúa. Đã có một sự thay đổi, sự thay đổi ấy là thay đổi bản thể hay “biến thể”. Đây là công việc của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là công việc của người phàm, dù người ấy là linh mục. Vì ý thức điều đó, Giáo hội thiết tha khẩn cầu trước lúc linh mục Truyền Phép:
“Chúng con nài xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này, để biến thành Mình và Máu của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể II).
“Lạy Cha, chúng con tha thiết nài xin Cha, cũng nhờ Chúa Thánh Thần, mà thánh hóa của lễ chúng con dâng hiến Cha đây, để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, con Cha, Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể III).
“Lạy Cha, xin cho Chúa Thánh Thần đoái thương thánh hóa những của lễ này, để biến thành Mình và Máu Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể IV).
Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Kitô hiện diện thực sự giữa chúng ta, trong hình bánh và rượu. Điều đó không có nghĩa là Đức Kitô không hiện diện thực sự bằng những cách khác, như hiện diện qua lời Kinh Thánh, hiện diện trong Giáo hội, hiện diện nơi những người nghèo khổ, hiện diện giữa hai hoặc ba người họp nhau cầu nguyện (Mt 18, 20). Tất cả những cách hiện diện đó đều là hiện diện thực. Có điều khác là: Đức Kitô không đồng hóa với lời Kinh thánh, Lời Kinh thánh được đọc lên không là bản thân Đức Kitô; Đức Kitô cũng không đồng hóa với người nghèo, vì người nghèo không là bản thân Đức Kitô, dù Ngài đã nói: “Ta đói các ngươi cho ăn, Ta khát các ngươi cho uống…” (Mt 25, 35- 36). Trái lại nơi Bí Tích Thánh Thể, sau Lời Truyền Phép, bánh và rượu là Đức Kitô, là bản thân Ngài, là bản thể Ngài, là Mình và Máu Ngài. Trong Bí Tích Thánh Thể, sự hiện diện của Đức Kitô có một chiều sâu hữu thể mà không nơi nào có. Sự hiện diện đích thực và đặc biệt này của Đức Kitô là kết quả của một sự thay đổi mà tác động thay đổi chính là công việc của Chúa Thánh Thần làm khi linh mục đọc Lời Truyền Phép. (x trang Web: simonhoadalat.com, Mục Thần học, Tặng phẩm Thần Linh, Đức Cha Bùi Văn Đọc)
Bí Tích Thánh Thể là sáng kiến của tình yêu. Tình yêu luôn có những sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu. Thiên Chúa đã yêu thế gian nỗi ban chính Con Một… (Ga 3, 16) và Con Một là Đức Giêsu đã yêu cho đến cùng, đã lập Bí tích Thánh Thể để ở với con người luôn mãi.
Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường, nhưng lại là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống con người hàng ngày. Chúa Giêsu đã muốn trở nên những gì cần thiết và gần gũi đó. Người muốn bánh và rượu trở nên thịt máu của Người. Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập Giá, Đức Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Vật chất đã trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Mình và Máu Chúa Kitô là hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa. Tham dự Thánh Lễ tích cực, trọn vẹn là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa. Thỉnh thoảng trong ngày, trong tuần, chúng ta nên quỳ gối trước Thánh Thể, chúng ta có thể học được nhiều điều từ Bí Tích Tình Yêu.
Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi năm ngàn người ăn. Nhân cơ hội này Đức Giêsu đã mặc khải cho dân chúng biết một thứ bánh trường sinh đó là: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”.
Chắc chắn khi nói lời này cùng với thái độ của Chúa làm cho mọi người Do Thái hiểu rằng Chúa không có ý nói bóng, mà Ngài đã quả quyết một sự thật “Thịt Ta” nên họ ngạc nhiên khó hiểu “làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?”. Vì từ trước đến nay chưa thấy ai nói và làm điều này. Chúa biết tâm lý họ rất rõ, biết họ còn đang thắc mắc, nhưng Ngài không đính chính hay giải thích, mà tiếp tục quả quyết một cách mạnh mẽ hơn “Thật Ta bảo thật ác người: “Ai an thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời”.
Một điều thật dễ hiểu trong cuộc sống, nếu muốn tồn tại thì phải cần có lương thực, hay nói đúng hơn thức ăn không thể thiếu cho cơ thể, vì nó cung cấp năng lượng cho cơ thể sống và phát triển. Tương tự, linh hồn ta cũng cần có lương thực hằng ngày để “sống”, thứ lương thực đã được Đức Giêsu đem đến hơn hai mươi thế kỷ. Qua Bí Tích Thánh Thể Ngài tiếp tục là của ăn để nuôi linh hồn ta.
Thật là một mầu nhiệm lạ lùng của tình yêu Thiên Chúa. Ta tin tưởng Chúa ở khắp nơi hằng gìn giữ lo lắng cho con người. Còn hơn thế nữa, Ngài ngự một cách đặc biệt qua hình bánh rượu và linh hồn để ta được sung mãn trong đời sống siêu nhiên, được nếm ngay từ đời này mùi vị thiên đàng. Chỉ có tình thương mà chúng ta được những hồng ân to lớn như thế, chứ nếu xét theo công trạng thì chúng ta có là gì so với Ngài, chúng ta có làm được gì để xứng đáng được hưởng một ơn như vậy. Thật ra trí khôn con người không thể hiểu được, chúng ta chỉ biết lấy lòng khiêm nhường mà ta ơn Chúa hết lòng hết sức mình.
Ngày xưa, trong xã hội phong kiến, thì các dân không bao giờ được nhìn vị vua của mình. Chúa còn cao cả quyền năng hơn tất cả các vị vua. Vì vậy, chỉ cần được chiêm ngắm từ xa đã là một điều mãn nguyện và hạnh phúc vô cùng. Nhưng để thể hiện tình yêu của mình vị Vua này lại dùng một phương thế thật lạ lùng, là ngự trong hình bánh rượu để chúng ta được cùng đến với Ngài, kết hợp với Ngài, và chính Mình máu Ngài nên lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đời sống siêu nhiên của chúng ta.
Chúa đã lập ra Bí tích Thánh Thể để kết hiệp mật thiết với linh hồn chúng ta, vì chính Chúa đã khẳng định như một phần thưởng cho những kẻ tin: “Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy”. Chúa được ví như là thân nho chúng ta là ngành, vì thế chúng ta hãy biết mút lấy nhựa sống từ thân. Nếu chúng ta muốn được sống mãi mãi, muốn kết hợp với Chúa và với nhau, thì phải là “cành” chưa rời khỏi “Thân”, là cành chưa khô héo bệnh tật. Tội lỗi là bệnh tật, tính hư nết xấu làm cho ta bị sâu, bị úa tàn, và hơn nữa nó có thể làm cho ta bị lìa khỏi cây. Vậy, chúng ta phải luôn “cắt tỉa, chăm sóc” bằng cách giữ gìn các giới răn và sống theo luật Chúa, ăn năn sám hối mỗi ngày để xứng đáng kết hợp với Chúa qua Bí Tích Thánh Thể. Như lời thánh Phaolô đã khuyên nhủ: “Ai chịu Mình Thánh máu Thánh cách bất xứng là ăn và uống hình phạt mình, vì đã phạm tới Mình Thánh, Máu Thánh”.
Lạy Chúa, Phép Thánh Thể là của ăn thiêng liêng không thể thiếu trong linh hồn, vậy mà nhiều khi chúng con lại thờ ơ không biết quý trọng. Chúng con lại thật là xấu hổ khi lại cố gắng tìm kiếm, quý trọng những lợi lộc vất chất thế gian là của phù vân giả trá. Xin cho chúng con biết khát khao tìm kiếm những của ăn không bao giờ hư nát, đó là Mình và Máu Thánh Chúa, một dấu chứng của tình yêu vĩnh cửu. Amen.
Chuẩn bị mừng Lễ Mình Máu Thánh Chúa, một ca đoàn Giáo xứ ở vùng quê, tập bài hát nầy:
“Chúa vẫn âm thầm từng ngày trong con, với những vui buồn cuộc đời nhân gian, bước con lầm than tình Chúa vẫn dâng tràn. Tình yêu của Chúa ví như khung trời xanh, ngày đêm lặng lẽ vẫn chở che mọi lúc, bước con an bình đời thắm tươi đẹp tình.
Chúa ở cùng con với tấm lòng son sống cho đời con chan chứa khôn vơi tình thương Chúa sáng ngời. Tình con dâng Chúa quyết tâm từ đây mến yêu nồng say dấn thân dựng xây trọn cả cuộc đời nầy”. (Lời bài hát “Chúa trong đời con” của Lm. Ns. Thái Nguyên)
Chọn và tập bài hát này để hát lúc Rước Lễ trong lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, có một vài ca viên thắc mắc rằng: lễ Mình Máu Thánh Chúa mà sao hát bài nầy, nghe không có gì là Thánh Thể, là Mình Máu Thánh Chúa cả.
Anh ca trưởng ôn tồn nói: “Thưa anh em, lâu nay chúng ta đã hát nhiều bài về Mầu Nhiệm Thánh Thể và tôn vinh Thánh Thể Chúa, hôm nay tôi chọn bài nầy, vì tôi nghĩ sống Bí Tích Thánh Thể không chỉ là việc tôn vinh Thánh Thể Chúa và rước lấy Mình Thánh Máu Thánh Chúa, mà còn phải sống niềm Tin Cậy Mến, với lòng tạ ơn Chúa Giêsu đang ngự trong lòng, và hơn thế nữa phải trở nên của ăn cho mọi người bằng việc bác ái, dấn thân phục vụ Chúa và Giáo Hội.
Rước lấy Thánh Thể Chúa, là “Chúa vẫn âm thầm từng ngày trong con”. Tâm hồn mình là Nhà Tạm của Chúa Giêsu Thánh Thể. Đi đâu, ở đâu, làm gì, chúng mình cũng đang có Chúa. Vậy mà, chúng mình vẫn theo lệ rước lễ thì vẫn rước lễ, mà quên Chúa đang sống trong lòng mình.
Có phải vơ đũa cả nắm không, nhưng tôi biết chúng mình vẫn cầu nguyện rằng: Xin Chúa cho con, cho nhà con, cho vợ con, cho chồng con được chuyện nầy, việc nọ. Tôi nghĩ cách cầu nguyện ấy vừa kém Đức Tin: vì không lẽ Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở trong chúng ta không biết chúng ta cần gì sao?; lại vừa kém Đức Ái: vì lời cầu nguyện ấy chỉ qui về cho mình, cho nhà mình. Lòng mình không trải ra với mọi người. Lòng mình không chút bận tâm đến ai. Cầu nguyện mà còn ích kỷ như thế thì huống gì nói đến việc chia sẻ. Trong khi đó, Chúa Giêsu Thánh Thể trong lòng mình đang muốn mình trở nên tấm bánh bẻ ra nuôi sống mọi người. Tấm bánh bẻ ra ấy là sự dâng hiến cho Thiên Chúa mà anh em mình quyết tâm: “Tình con dâng Chúa quyết tâm từ đây mến yêu nồng say dấn thân dựng xây trọn cả cuộc đời này”. Đầu giờ và cuối giờ tập hát anh em mình hay cầu nguyện cho những địa chỉ mà anh em không quen biết là vì lý do như vậy đó. Xin anh em thông cảm vui lòng, tôi đã chọn bài này.
Cả ca đoàn lặng thinh, suy niệm, rồi đọc kinh kết thúc giờ tập hát sốt sắng.
……
Từ những suy tư của anh ca trưởng, tôi chợt nhớ bố tôi hay nói về chuyện hầu hết các bài giảng đều dẫn chúng ta đến kết luận là sống sao cho được vào Nước Trời, được vào Thiên Đàng, được Ơn Cứu Rỗi; như thế đấy, làm cho mọi người cứ lầm tưởng rằng Nước Trời ở đâu xa lắm, Thiên Đàng là nơi ta sẽ đến, Ơn Cứu Rỗi còn ở phía tương lai.
Thực ra, Nước Trời, Thiên Đàng, Ơn Cứu Rỗi đang ở đây, không ở đâu xa, đang ở trong lòng ta: chính Thánh Thể Chúa Giêsu, như Chúa Giêsu đã xác quyết: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta” (Ga 6, 56 – 57).
Hơn nữa, dù Thánh Lễ diến ra ở Âu, Á, Mỹ hay Phi, ở thành thị hay thôn quê, ở Nhà Thờ Chính Tòa hay trong nơi lao tù, trong trại cải tạo, thì tấm bánh ấy, chén rượu ấy, cũng là chỉ một Mình Thánh Máu Thánh Chúa Giêsu, và tất cả chúng ta, những người rước lấy, đều sống chung một nguồn sống duy nhất là Chúa Giêsu Thánh Thể. Như vậy, mọi người đang sống trong thiên đàng của Thiên Chúa ngay hôm nay. Vì thế, việc thể hiện tình hiệp nhất, yêu thương, việc bác ái giúp nhau phần hồn phần xác để đi trọn cuộc lữ hành này, là bổn phận thiết yếu của mỗi chi thể trong cùng một Thánh Thể Chúa Kitô.
Thánh Phaolô dạy: “Anh em thân mến, chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên chúc tụng Chúa chẳng phải là thông hiệp với máu Chúa Kitô sao? Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao? Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh”. (1Cr 10, 16 – 17)
Thế là, hình ảnh sống động của Nước Trời, của Thiên Đàng, của Ơn Cứu Rỗi, còn cụ thể qua việc bác ái. Hai cụ bà hành khất ở xó chợ. Một bà còn lết được, một bà bất toại một chỗ. Bà còn lết được chia cho bà kia những gì mà mình kiếm được mỗi ngày. Hai bạn tù chia nhau một mẫu bánh. Hai người cùng khổ chia nhau mấy con cá lăn tiêu… Đó là hình ảnh Nước Thiên Đàng của Thiên Chúa đang sống động trong chúng ta.
Thiên Đàng không ở đâu xa, không là tương lai, nhưng là hiện tại, là ngay lúc nầy, ở ngay trong lòng ta: Chúa Giêsu Thánh Thể và việc bác ái yêu người mà Thánh Thể Chúa mong muốn, thôi thúc, hướng dẫn.
Lễ Mình Máu Thánh Chúa còn mời gọi chúng ta hãy cầu nguyện và giúp đỡ đặc biệt cho các Linh Mục, hiện thân của Chúa Kitô, hiện thân của Thánh Thể, của ơn cứu rỗi. Việc giúp đỡ các Linh Mục có một đời sống vật chất, có phương tiện rao giảng Lời Chúa và chu toàn sứ vụ, thì dễ, nhưng việc góp ý xây dựng thì không dễ chút nào. Vì vậy, thiết tưởng phải liên lỉ cầu nguyện cho các linh mục nên thánh thiện theo gương Chúa Giêsu chí thánh.
Ở một Giáo xứ gần chỗ tôi, có cụ già đạo đức đặc biệt. Tuổi cụ hơn gấp đôi tuổi cha sở. Gần đây, cụ thường nhắm mắt lại khi cha sở đọc Lời Truyền Phép. Ai hỏi cụ tại sao nhắm mắt, cụ trả lời là thói quen. Nhưng thực ra, không phải như thế. Mới đây, cụ đã vào xin gặp riêng cha sở.
“Xin cha đóng cửa lại. Con muốn thưa chuyện riêng với cha… Thưa cha, mỗi khi cha đọc Lời Truyền Phép, con nhắm mắt lại để không nhìn thấy cha, để chiêm ngưỡng chỉ một Chúa Giêsu quá sức khiêm nhường. Vì dù cha là con người có bất toàn thế nào đi nữa, có thể có nhiều tai tiếng không tốt, hoặc kể là cha có tội lỗi đi nữa, thì Chúa Giêsu cũng vâng lời cha mà ngự xuống trong hình Bánh Rượu, để nên Mình Thánh Máu Thánh dưỡng nuôi linh hồn chúng con…
Cha biết đó, giáo dân xứ mình đang không vâng lời cha, bỏ xứ nhà sang dự lễ xứ bạn, không tham dự thánh lễ với cha, không xưng tội với cha, còn chống lại cha nữa. Trong khi đó, Chúa Giêsu không bỏ cha, còn thương cha, thương con, thương yêu mọi người mà chịu vâng lời cha ngự xuống trong hình bánh rượu nữa. Mong cha nghĩ lại điều này, để giáo dân cũng vâng lời cha như trước”.
Tôi nghĩ cụ già ấy đang làm một việc bác ái do chính Thánh Thể Chúa thôi thúc, Khi đã hiệp nhất trong cùng một tấm bánh, trong cùng một thân thể, thì thương tích của chi thể nầy cũng là nỗi đau của chi thể kia. Không thể có sự dững dưng vô tình trước những thương tích xác hồn của anh em cùng chung tấm bánh, chung ly rượu, đặc biệt hơn khi những anh em đó lại là những hiện thân của Chúa Kitô.
“Chúa vẫn âm thầm đợi chờ trong con,
biết hiến dâng trọn cuộc đời xin vâng,
biết quên mình đi để mến yêu chân tình,
để còn vang mãi khúc ca của đời con,
lời chúc tụng Chúa Đấng Tình Yêu vạn thuở,
Đấng con tôn thờ và mến yêu đợi chờ”
(Lời bài hát “Chúa trong đời con” của Lm. Ns. Thái Nguyên)
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con tạ ơn và kính thờ Chúa đang ngự trong lòng chúng con. Xin cho chúng con tấm lòng và bàn tay yêu thương dấn thân phục vụ như tấm bánh bẻ ra cho đời. Xin cho các Linh Mục của Chúa đồng hình đồng dạng với Chúa, Đấng đã tế lễ đời mình nên thần lương, nên sự sống Thiên Đàng cho chúng con. Amen.
Bánh và Nước
Từ Ai Cập về Đất Hứa, dân Chúa đã trải qua 40 năm trên hành trình sa mạc. Họ nản lòng vì nóng cháy, đói khát, vất vả. Họ muốn quay lại Ai Cập. Nhưng Thiên Chúa đã ban bánh Manna từ trời rơi xuống cho họ ăn và nước từ tảng đá hóa cương chảy ra cho họ uống.(x Đệ Nhị Luật 8, 2-3, 14b-16a).
Tiên tri Elia tìm đến núi Horeb còn gọi là Núi của Thiên Chúa để trốn thoát sự truy lùng của Vua Ai cập. Ông phải mất 40 ngày đêm đói khát đến độ kiệt sức và nản chí nói “Đủ rồi đó Chúa ơi! Chúa cất mạng tôi đi”. Nhưng Thiên Chúa đã sai thiên thần mang bánh và nước đến cho ông để ông đủ sức tiến về núi Thánh (x I Rg 19:7)
Những người ăn Manna và cả Elia ăn bánh của các Thiên thần, thảy đều đã chết. Đúng như lời Chúa Giê-su nói hôm nay: “Ta là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 58)
Thịt và Máu
Bánh và Nước của Cựu Ước là hình ảnh tiên báo Chúa sẽ ban loại Bánh và Nước mới trong Tân Ước, chính là Thịt và Máu của Chúa Giê-su, như chính Chúa đã nói: “Ta là Bánh Hằng sống từ trời xuống, ai ăn Bánh này sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời. Vì Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống” (Jn 6:51-52).
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giê-su đã thực hiện điều Ngài đã nói trên đây, khi Ngài cầm tấm bánh, nâng chén rượu đọc lời chúc tụng và trao cho các tông đồ: “Hãy cầm lấy mà ăn, vì nầy là Mình ta, sẽ bị nộp vì các con” “Hãy cầm lấy mà uống vì nầy là Máu ta, Máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”
Ngay sau đó, Ngài còn ủy thác cho các tông đồ “Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Ta”. Đó là lễ phong chức linh mục đầu tiên trong Hội Thánh Công Giáo.
Như vậy, ngay sau lời truyền phép của Linh Mục, bánh và rượu đã trở nên Thịt và Máu của Chúa Giê-su cho chúng ta ăn và uống để được sống đời đời.
Sự Sống Đời Đời
Nếu Manna đã nuôi dân tiến về Đất Hứa, thì Mình Thánh Máu Thánh Chúa là của ăn của uống cho chúng ta đủ sức tiến về quê trời, về sự sống đời đời. Sự sống đời đời ấy, chính là cung lòng yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa. Ấy vậy, mà chúng ta vẫn gọi Mình Thánh Máu Thánh Chúa là “của ăn đàng”, của ăn trên đường đi. Và khi rước lấy Mình Thánh Máu Thánh Chúa, có thể nói, chúng ta rước lấy cả Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị trong lòng.
Nếu nhờ Bánh Thiên Thần mà Elia đã đủ sức vượt khỏi sự truy lùng của Vua Ai-cập, thì những ai yêu mến và siêng năng rước lễ cũng đủ sức thắng vượt những cơn cám dỗ, những sự truy lùng của sa tan, của tội lỗi, để xứng đáng hưởng sự sống đời đời.
Sự sống đời đời mà chúng ta nhận lãnh nơi Mình Thánh Máu Thánh Chúa Giê-su, không chỉ là sự sống sau cái chết phần xác, nhưng còn là sự sống trong linh hồn ta ngay lúc nầy, khi còn sống trên dương thế. Đó còn là sự sống đầy tình bác ái huynh đệ của con cái Thiên Chúa mà Thánh Phao-lô giải thích rằng: cùng ăn một tấm bánh, cùng uống chung ly rượu, chúng ta cùng trong một thân thể của Chúa Giê-su Kitô. “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể”. (x.1cor 10, 16-17)
Của ăn đàng
Theo Thánh Phao-lô, cùng ăn một ấm bánh, cùng uống chung ly rượu, cùng sống trong một Của Ăn Đàng, chúng ta trong một thân thể”. Vậy nếu Mình Máu Thánh Chúa Giê-su đã trở nên của ăn đàng cho bạn, cho tôi, và trở nên mối dây hiệp nhất tôi bạn và mọi người trong cùng một nguồn sống, thì thiết nghĩ, bạn và tôi cũng phải trở nên “của ăn đàng” cho mọi người.
Tình yêu thương nhau, lòng bác ái, sự khiêm tốn phục vụ anh em là tấm bánh bẻ ra cho đời, là hình ảnh sự sống đời đời đang sống động trong cuộc đời dương thế
Những cố gắng hy sinh của cha mẹ đến độ gầy hư đi, hao mòn đi để bảo đảm cho con cái sự sống phần xác, chắc chắn sẽ mang một ý nghĩa thánh thiện, ý nghĩa hy tế, nếu những hy sinh ấy kết hiệp ước muốn của Chúa Giê-su là chia sẻ của ăn đàng cho nhau, chia sẻ tình yêu cho nhau.
Một chiếc bánh, một chén cháo, một tô hủ tiếu, một viên thuốc, một viên gạch, một tấm áo, một tấm chăn, một vài trăm ngàn đều… có thể có giá trị thánh thiện, và thiết tưởng, chỉ có giá trị thánh thiện khi ta cho đi với sự thôi thúc tự bên trong của Tình Yêu Chúa Giê-su Thánh Thể: Tình yêu đòi dâng hiến, đòi cho đi vì hạnh phúc của người khác.
Thánh Thể Chúa Giê-su, của ăn thiêng liêng, của ăn đàng cho linh hồn, đã cụ thể sống động thành những của ăn phần xác, thành cơm bánh, thành áo mặc, thành nhà cửa, thành thuốc men, thành những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống con người, thành những của lễ dâng trong thánh lễ thường ngày mà bạn và tôi đang cử hành trên hành trình dương thế.
Lạy Chúa Giê-su, chúng con tạ ơn Chúa đã ban Thịt và Máu Chúa cho linh hồn chúng con được sống và sống đời đời. Xin cho chúng con biết sống trước đời sống phục sinh ngay trên dương gian này bằng việc vui lòng trở nên tấm bánh bẻ ra cho mọi người được sống, bằng tình yêu thương, bác ái và hiệp nhất huynh đệ trong Chúa. Amen.
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Bí Tích Thánh Thể Với Mầu Nhiệm Phục Sinh
Chúa Nhật thứ ba Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh bao giờ cũng là Lễ Trọng Kính Mình Thánh Máu Thánh Chúa Giêsu (một lễ đáng lẽ được cử hành vào Thứ Năm sau Chúa Nhật Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi), một Lễ Trọng được Giáo Hội cố ý xếp vào ngay sau Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hai tuần và Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi một tuần. Bởi vì, Mình Thánh Máu Thánh Chúa Giêsu phát xuất từ cung lòng Trinh Nữ Maria “là do Thánh Thần” (Mt 1:20; x. Lk 1:35). Đó là lý do, sau Kinh Nguyện Thánh Thể và ngay trước Lời Truyền Phép trong mỗi Thánh Lễ, vị linh mục chủ tế mới đọc: “Vì thế, chúng tôi nài xin Chúa dùng ơn Thánh Thần Chúa thánh hóa lễ vật này, để trở nên cho chúng tôi Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng tôi”. Vì được Ngôi Hiệp với Lời Nhập Thể, Ngôi Hiệp với chính “sự sống hằng ở nơi Cha và đã trở nên hữu hình cho chúng ta” (1Jn 1:2), Mình Thánh Máu Thánh Chúa Kitô do Chúa Thánh Thần tác tạo ấy đã thực sự, như Chúa Kitô quả quyết với người Do Thái ngay trong lời mở đầu của bài Phúc Âm hôm nay: “là bánh hằng sống từ trời xuống”, một Thứ Bánh Thần Linh chẳng những chất chứa mà còn thông truyền Sự Sống Ba Ngôi, như lời Chúa Giêsu cũng đã khẳng định với người Do Thái trong đoạn cuối của cùng bài Phúc Âm hôm nay: “Như Cha là Đấng có sự sống sai Tôi và Tôi có sự sống bởi Cha thế nào, ai được sinh dưỡng nhờ Tôi cũng sẽ có sự sống bởi Tôi như vậy”.
Thật vậy, nếu Chúa Giêsu “là sự sống” (Jn 11:25, 14:6) thì Mình Thánh Máu Thánh của Người quả thực là một Thứ Bánh Thần Linh, Bánh Chất Chứa Sự Sống, Bánh Ban Phát Sự Sống. Người đã xác nhận như vậy trong bài Phúc Âm hôm nay: “Bánh Tôi sẽ ban là thịt Tôi cho thế gian được sự sống”; “ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi kẻ ấy có sự sống đời đời, và Tôi sẽ làm cho họ sống lại trong ngày sau hết”. Qua hai câu tuyên phán về Bản Chất Thần Linh và Tác Dụng Thần Linh của Mình Thánh Máu Thánh Người này, Chúa Kitô đã mạc khải cho chúng ta thấy ba sự thật một lúc: thứ nhất là sự thật về việc Người sẽ lập Bí Tích Thánh Thể Người, thứ hai là sự thật về Biến Cố Phục Sinh Người sẽ tỏ mình ra, và thứ ba là sự thật về Biến Cố Cánh Chung Người sẽ thực hiện.
Thật vậy, Chúa Giêsu đã báo trước việc Người lập Bí Tích Thánh Thể qua câu “bánh Tôi sẽ ban là thịt Tôi”, bởi vì, trong Bữa Tiệc Ly, “Người cấm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán ‘Các con hãy nhận lấy mà ăn, này là mình Thày’” (Mt 26:26). Mà nếu “ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi kẻ ấy có sự sống đời đời”, thì máu thịt của Người không thể nào lại là máu thịt sẽ bị mục nát đi trong nấm mồ sự chết, tức thân xác của Người phải là một thân xác phục sinh, “một thần linh ban sự sống” (1Cor 15:45). Tuy sự sống phát sinh từ Mình Thánh Máu Thánh Chúa Giêsu đây là Sự Sống Thần Linh, sự sống về phần hồn và cho phần hồn, nhưng thân xác là phương tiện để linh hồn thể hiện đức tin của mình, qua việc lưỡi thưa “amen” (tôi tin) trước khi lãnh nhận Mình Thánh Máu Thánh Chúa vào miệng và nuốt xuống bụng, mà chính thân xác cũng được thông phần vào sự sống đời đời của linh hồn trong “ngày sau hết”. Bởi vì, thân xác phục sinh của Chúa Kitô tràn đầy Thánh Linh đã ban cho các tông đồ qua hơi thở của Người thế nào, Mình Thánh Máu Thánh Người, qua thân xác của chúng ta, cũng ban cho linh hồn chúng ta Thánh Thần của Người như vậy, Vị Thánh Thần đã làm cho chính Người phục sinh từ trong kẻ chết thế nào cũng sẽ làm cho thân xác chết chóc của chúng ta sống lại như vậy (x. Rm 8:11).
Phải chăng vì Mình Thánh Máu Thánh Chúa Kitô chẳng những ban sự sống đời đời cho linh hồn còn làm cho xác thể của con người được phục sinh trong “ngày sau hết” như thế mà Chúa Kitô mới dạy các môn đệ của mình cầu nguyện “xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”? Có thể nói, nếu phần đầu của Kinh lạy Cha liên quan đến Ba Ngôi Thiên Chúa thế nào (như bài chia sẻ cho Lễ Chúa Ba Ngôi tuần trước đã trình bày), thì phần cuối của Kinh lạy Cha cũng có liên hệ với Mình Thánh Máu Thánh Chúa Giêsu như vậy.
Bí Tích Thánh Thể Với Kinh Lạy Cha
Phần đầu của Kinh Lạy Cha có 3 ước nguyện liên quan đến Thiên Chúa thế nào – “Danh Cha, Nước Cha và Ý Cha”, phần cuối của Kinh Lạy Cha cũng có 3 ước nguyện liên quan đến con người như vậy – “sinh dưỡng, tha nợ và bảo toàn”. Nếu ba ước nguyện ở phần đầu Kinh Lạy Cha liên kết chặt chẽ với nhau và chi phối nhau theo thứ tự từ trên xuống dưới thế nào, thì ba ước nguyện ở phần cuối của Kinh Lạy Cha cũng liên kết hết sức khít khao với nhau và chi phối nhau theo thứ tự từ trước đến sau như vậy. Nếu ba ước nguyện ở phần đầu của Kinh Lạy Cha có tính cách tín lý thần học thế nào thì ba ước nguyện ở phần cuối của Kinh Lạy Cha có tính cách tu đức sống đạo như vậy.
Trước hết, ước nguyện “xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” ở đây là gì, nếu không phải ước nguyện xin Cha hãy tỏ mình cho chúng con trong và qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, như Lời Nhập Thể đã tỏ mình ra cho người phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giacóp, hay cho hai môn đệ trên con đường về làng Emmau, để “Danh Cha” là “tình yêu của Thiên Chúa” được “cả sáng”, “Nước Cha” là “ân sủng của Đức Giêsu Kitô” được “trị đến”, và “Ý Cha” là “mối hiệp thông của Chúa Thánh Thần” được “thể hiện dưới đất cũng như trên trời”? Thiên Chúa là Cha đã ban cho con người “lương thực hằng ngày” thế nào, nếu không phải khi Ngài tỏ mình cho con người hằng ngày qua phụng vụ, khi Hy Tế Tử Giá được hiện thực và tái diễn trên bàn thờ hằng ngày trong mỗi Thánh Lễ, hay khi Các Bí Tích Thánh (mà Bí Tích Thánh Thể là trọng tâm) được ban phát cho con người? Thiên Chúa là Cha cũng đã không tỏ mình cho con người hằng ngày là gì, qua tiếng lương tâm thúc giục họ làm lành lánh dữ, hay qua các hiện sủng tác động họ để họ có thể đáp ứng kịp thời các dấu chỉ thời đại, hoặc qua các khổ đau thử thách để thanh luyện họ nên tinh khiết, nhờ đó họ có thể trổ sinh muôn vàn hoa trái thiêng liêng?
Sau nữa, ước nguyện “xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” là thành quả hay hệ quả của ước nguyện “xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Bởi vì, chính nhờ Mạc Khải Thần Linh như “hôm nay lương thực hằng ngày” nuôi sống mình, con người mới có thể trở thành chứng nhân tình yêu, trở thành hiện thân của lòng thương xót Chúa. Chính lòng thương tha của con người và nơi con người được Mình Thánh Máu Thánh Chúa Giêsu nuôi dưỡng là dấu chứng tỏ họ đã đạt đến một tầm mức tu đức trọn lành, một tầm mức tu đức thần hiệp. Vì tình thương này của họ và phát xuất từ họ là phản ảnh và được phát xuất từ chính tình yêu trọn lành của Cha trên trời (x Mt 5:48), một tình yêu đã thương “tha nợ” cho họ, ở chỗ đã thanh tẩy họ, hay đã “tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lý” (Jn 17:19)”, một cuộc tự hiến được hiện thực và tái diễn hằng ngày qua Hy Tế Thánh Lễ, một cuộc tự hiến thánh hóa họ, làm cho họ cũng trở thành bánh nuôi sống thế gian.
Sau hết, ước nguyện “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” cho thấy sức mạnh vô địch của con người đã đạt đến cuộc sống nội tâm sâu xa, đạt đến tầm mức tu đức thần hiệp, một tầm mức không gì có thể làm cho họ dễ dàng sa ngã hay qui hàng, chối bỏ đức tin, lỗi phạm đức ái, trái lại, còn làm cho họ thắng vượt tất cả mọi sự, kể cả sự dữ là tội lỗi và sự chết. Thật vậy, với tình yêu mạnh hơn sự chết, họ có thể làm chủ tất cả mọi sự, dù độc hại hiểm ác đến đâu chăng nữa (x. Mk 16:18). Bởi vì, họ đã có Mình Thánh Máu Thánh Chúa Kitô Phục Sinh là một thứ cây sự sống mọc ở hai bên bờ của giòng sông Mạc Khải Thần Linh, một cây chẳng những trổ sinh hoa trái bác ái quanh năm suốt tháng, mà còn có lá làm thuốc chữa bệnh cho muôn dân (x Rev 22:2).
Vấn đề thực hành sống đạo:
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, đã đến trong thế gian, và ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế trong Bí Tích Thánh Thể: Con thờ lạy Chúa, con kính mến Chúa, con cảm tạ Chúa, con xin lỗi Chúa, con cầu khẩn Chúa, con khao khát Chúa. Xin Chúa hãy chiếm đoạt con, hãy làm chủ con và hãy tỏ mình trong con. Ôi Chúa là tình yêu, xin thực hiện mọi sự Chúa muốn nơi con, để con được trở nên mọi sự cho mọi người, cho tất cả nên một trong Chúa là Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
Giáo Hội Viêt Nam là một giáo hội trẻ trung, nhiệt thành và sống động. Đạo Công Giáo mới phát nhập vào đất nước này tử năm 1533, trải qua 300 năm cấm đạo trong đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và đảng Văn Thân. Mới được hơn 200 năm phát triển mà đạo Chúa đã tràn lan khắp đất nước. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị đã tôn phong 117 vị anh hùnh trong số 300 ngàn vị tử đạo lên hàng hiển thánh. Ngài cũng đã thành lập một hàng Giám Mục với khoảng 30 Giám Mục bản xứ, 25 Giáo Phận, trên 2 triệu giáo dân và có Hai Đức Hồng Y cai quản.
Các Giáo xứ tuy nghèo nàn, nhưng rất là nhiệt thành sống đạo. Ngay cả những người sống trong chế độ cộng sản vô thần, cấm cách đủ thứ, thế mà từ giáo xứ đến giáo dân vẫn một lòng trung kiên với thư thách. Có một giáo xứ nọ thuộc miền quê, nhà thờ 5 gian lợp lá, tường bằng vách đất. Họ đã tạo nên một dàn chuông bằng 3 cái vành bánh xe hơi bằng sắt han dỉ, treo ngay mấy gốc cây bên cạnh nhà thờ. Nó không phải là tiếng chuông hay nhất trần gian, nhưng nó là tiếng kẻng inh tai để kêu gọi người giáo hữu đi phụng sự Chúa mỗi buổi chiều trong ngày. Chỉ vài phút sau là cả trăm người kéo nhau tụ họp lại để đọc kinh, chầu Chúa, dâng thánh lễ…… làm việc thờ phượng Chúa. Đó mới là một xứ đạo, một dấu chỉ của đức tin đang phát triển tại Việt Nam.
Ơn kêu gọi tu sĩ, Linh Mục của họ cũng không phải là thiếu. Tại chủng viện Ninh Cường cũng có trên 300 chủng sinh trẻ tuổi đang theo đuổi học tập. Tôi đi dự buổi chầu lượt tại một giáo xứ. Giáo dân khắp vùng lân cận đều đi bộ đến từ sáng sớm. Nhà thờ đặt Mình Thánh Chúa chầu theo phiên (2 giờ) một giáo xứ, giáo dân thì xếp hàng một dẫy dài để xưng tội. Có người đưa được cơm nắm đi mà ăn, nếu cùng lắm là “bắt phèo” cho đến xong phiên chầu lượt. Phiên rước Mình Thánh Chúa qua các trạm vào buổi chiều thì đông đảo một dẫy các thầy chủng sinh áo chùng thâm , áo “chếp ly” tươm tất, chứng tỏ họ rất nhiệt thành với việc biểu dương sống đạo.
Chúng ta suy nghĩ về trường hợp của mọi người tham dự, ngày ngày họ không thiếu cơm bánh ở nhà nhưng họ thiếu tinh thần Chúa mà phải đi dự đọc kinh, cầu nguyện, thánh lễ. Cũng vậy, ngày chầu lượt không phải là phút vui chơi, nhưng là biểu dương tinh thần sống đạo, biểu dương một đức tin. Thánh Phaolô viết: “Cùng một tấm bánh, một chén rượu mà chúng ta thông phần với Chúa Kitô.” Tất cả chúng ta khi thông hiệp với Chúa Kitô trong sự uống cùng một chén, ăn cùng một tấm bánh là chúng ta muốn trở nên một với Chúa Kitô “Ai ăn mình và uống máu Ta thì Ta ở trong kẻ ấy” (Gn. 6:56). Vậy bí tích Mình Máu Chúa sẽ nối kết chúng ta trong một Thiên Chúa hằng sống để được sống đời đời với Ngài (Gn. 6:54).
Mình Máu Thánh Chúa Kitô mời gọi chúng ta tự vấn xem việc chúng ta rước lễ có ý nghĩa gì không? Chung ta còn tôn trọng việc ấy nhiều như khi chúng ta rước lễ lần đầu không? Hãy cố gắng suy niệm Mình Máu Chúa mỗi ngày, mỗi lần rước lễ.
Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa giầu lòng yêu thương mới có thể ban cho chúng con món quà khôn sánh như thế.
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn)
Là người Việt Nam lớn tuổi, ai cũng còn nhớ tai họa chết đói của dân Miền Bắc năm 1945 khiến hai triệu đồng bào ta đã chết đói vì hậu quả quân Nhật bắt dân miền bắc phải trông đay thay vì trồng lúa để có gạo ăn.
Đó là cách quân Nhật ngăn chặn sự chống đối ách cai trị của họ bằng cách cắt nguồn lương thực khiến dân đói và không còn sức để kháng chiến nữa. Đọc lại tài liệu cũ ai cũng phải bùi ngùi xúc động khi biết mỗi sáng ở Hanội, chính quyền thành phố đã phải cho xe đi lượm xác người chết đói nằm rải rác ngoài đường phố.
Khi ấy tôi còn nhỏ nên không biết gì về nạn chết đói ghê sợ này. Nhưng trong chuyến vượt biên đi tìm tự do năm 1983, tôi cũng đã phải trải qua ít ngày đói khát trên biển vì hết lương thực và nước uống, trước khi được vớt vào bờ. Tôi không bao giờ có thể quên được Kinh nghiệm đói khát này, dù chỉ có trong vài ngày.
Đó cũng là kinh nghiệm của dân Do Thái xưa khi họ phải sống trong hoang địa suốt 40 năm, sau khi ông Mô Sê dẫn họ vượt qua biển đỏ từ Ai Cập trở về quê hương an toàn. Họ phải sống trong hoang địa để được thử thách về lòng tin yêu Thiên Chúa của họ trước khi họ được vào Đất Hứa tràn đầy sữa và mật ong.
Vì sống trong hoang địa, nên họ không có gì để ăn và nước để uống. Trước cơn đói khát của họ, Thiên Chúa đã cảm thông và cho tuôn đổ từ trời xuống một thức ăn đặc biết gọi là bánh manna để nuôi sống họ.(Xh 16: 4-5)
Và để có nước cho họ uống, Thiên Chúa cũng sai ông Mô -sê lấy gậy đập vào đá tảng để có nước chảy ra cho dân và súc vật uống (Ds 20: 7-8)
Như thế, là con người, ai ai cũng phải cần đến lương thực nuôi thân xác bao lâu còn sống trên trần gian và trong thân xác có ngày sẽ phải chết đi này.
Nhưng của ăn của uống phần xác- dù hảo hạng đến đâu- thì cũng chỉ giúp con người khỏi phải chết đói hay chết khát mà thôi, chứ không giúp gì cho sự sống vĩnh cửu với Chúa trên Nước Trời mai sau,
Thật vậy, là người có niềm tin Thiên Chúa và tin có sự sống đời đời, sau khi phải chết trong thân xác này, chúng ta không chỉ lo cho có của ăn phần xác thôi mà quan trọng hơn nữa là phải lo cho sự sống của linh hồn, là thực thể sẽ được sống mãi hay phải hư mất sau khi chết trong thân xác, và linh hồn phải ra trước tòa Chúa để chịu phán xét,
Chính vì tầm quan trọng này về sự sống của linh hồn, nên trước hết, chúng ta cần đọc lại lời Chúa Giê su nói với tên quỉ đến cám dỗ Chúa khi người ăn chay trong rừng vắng. Qủi cám dỗ Chúa biến đá ra bánh mà ăn khi biết Chúa đang đói sau 40 ngày chay tịnh. Chúa đã trả lời tên quỉ như sau:
Người ta sống không phải chỉ nhờ cơm bánh mà còn nhờ mọi lời từ miêng Thiên Chúa phán ra. (Lc 4:4; Đnl 8:3)
Nghĩa là cho sự sống của linh hồn, người có niềm tin Thên Chúa phải cần đến lương thực trường sinh là lời Chúa, tức lời hằng sống mà Phê rô đã tuyên xưng một ngày kia như sau:
“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.” (Ga 6:68)
Lời ban sự sống đó là lời Chúa Giêsu đã nói với dân Do Thái xưa như sau:
“Anh em hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa, còn các thứ kia Người sẽ thêm cho.” (Lc12:31) Các thứ kia là những của nuôi thân xác, quần áo, xe cộ,nhà ở và công việc làm để có tiền lo cho bản thân và gia đình.
Hơn thế nữa, Lời ban sự sống cũng là lời Chúa Giêsu đã khuyên dạy các môn đệ và dân chúng đến nghe Người giảng dạy xưa kia về sự cần thiết phải lo cho phần rỗi của mình hơn là chỉ lo làm giầu và được danh vọng ở đời này:
Chúa nói: Nguời nào được cả thế giới mà phải mất linh hồn-(tức là mất sự sống trong linh hồn) – thì được ích lợi gì? (Lc 9:25)
Thử hỏi: có mấy ai được lợi lãi cả thế giới này đâu?. Nhưng cho dù có được hết mọi sự trên trần gian này, mà mất linh hồn thì những lợi lãi kia có bù đắp được không? Đó là câu hỏi mà chúng ta, những người có niềm tin vào sự sống đời đời, phải nghiêm khắc suy nghĩ và tự trả lời.
Vì thế, Cho mục đích tìm của ăn nuôi linh hồn, nuôi sự sống đời đời, Phúc Âm Chúa Nhật lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô hôm nay mời gọi mọi người chúng ta suy niêm sâu xa về lời Chúa Giê su đã nói vơi dân Do Thái xưa như sau:
“Tổ tiên các ông đã ăn man na trong sa mạc, nhưng đã chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời, vì bánh tôi sẽ ban tặng là chính thịt tôi đây để cho thế gian được sống: Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết” (Ga 6: 51-54)
Như thế, đủ cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã ban chính thịt máu mình làm của ăn của uống để nuội sống linh hồn chúng ta trong cuộc lữ hành về quê trời với hy vọng được sống lại sau khi phải chết trong thân xác như Chúa đã hứa trên đây.
Đó là lý do vì sao Chúa Kitô đã lập bí tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng với 12 Tông Đồ, trước khi Người bị trao nộp cho kẻ dữ bắt bớ, hành hung và bị treo trên thập giá cho đến chết. Trong bữa ăn lịch sử nói trên Chúa đã biến bánh và rượu nho thành Mình, Máu Người và trao cho các tông đồ hiện diện ăn uống lần đầu tiên.
Chúa đã nói với các ông như sau: Đây là Mình Thầy anh em hãy lãnh nhận mà ăn”
Người cũng trao chén rượu cho các ông và nói: anh em hãy lãnh nhận mà uống. Đây là máu Thầy, máu giao ước đổ ra cho anh em và cho nhiều người được tha tội. Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. (Mt 26: 26-28; Lc 22: 19-20; 1 Cor 11: 23- 25)
Tuân lời Chúa dạy, Từ đó đến nay, Giáo Hội tiếp tục cử hành Thánh lễ Tạ ơn để diễn lại bữa tiệc cuối cùng của Chúa và hy tế thập giá sau đó để đền tội thay cho nhân loại ngày nay cùng thể thức và mục đích của Hy Tế thập giá xưa trên Núi Sọ.
Như thế, mỗi lần chúng ta tham dự Thánh Lễ, là tham dự bữa ăn của Chúa.
Và khi rước Minh Máu Chúa cách xứng đáng, thực sự hiện diện dưới hai hình bánh và rượu nho, chúng ta được ăn chính thịt và uống máu Chúa Kitô như các Tông Đồ đã được ăn và uống lần đầu tiên trong bữa ăn sau hết với Chúa trước khi Người thọ nạn thập giá để đền tội thay cho mọi người chúng ta.
Mình Máu Chúa Kitô thực sự là của ăn của uống cho ta được sống đời đời với Chúa, sau khi kết thúc hành trình đức tin trên trần thế này. Thực phẩm quí giá này không thể mua được bằng vàng bạc kim cương hay bất cứ loại tiền tệ nào có trên trần gian này, mà chỉ có Chúa Kitô ban phát miễn phí cho chúng ta hưởng dùng mà thôi.
Vậy, ta phải hoan hỉ mỗi khi tham dự Thánh Lễ để được ăn và uống Mình Máu Chúa Kitô, là bánh hằng sống từ trời xuống để nuôi sống linh hồn chúng ta ngay từ bây giờ trước khi chúng ta được thực sự chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa trên Thiên Đàng.
Nhưng cho được xứng đáng ăn thịt và uống máu Chúa Kitô, hay nói khác đi, là được rước Chúa vào lòng cách xứng hợp mỗi khi tham dự Thánh Lễ Tạ Ơn, chúng cần nhớ lại giáo lý của Giáo Hội về điều kiện để được rước Chúa cách xứng đáng: Đó là ta phải sạch tội trọng, vì ai đang có tội trọng thì không được làm lễ (đối với linh mục) và rước Lễ (đối với giáo dân) (x. giáo luật số 916, SGLGHCG số 1415)
Phải sạch tội trọng vì tội này cắt đứt tình thân giữa con người và Thiên Chúa. Do đó, ai mắc tội này phải mau kíp đi xưng tội để được giao hòa lại với Thiên Chúa trước khi rước Chúa Kitô vào lòng. Ai rước Chúa đang khi còn tội trọng trong linh hồn là phạm sự thánh.
Chúng ta vô cùng cảm tạ Chúa Kitô vì ơn cứu độ Chúa đã mang lại cho chúng ta qua khổ hình thập giá, chết, sống lại và lên trời. Chúng ta cảm tạ Chúa đặc biệt trong Chúa Nhật kinh Mình Máu Chúa hôm nay, vì Chúa đã ban chính thịt máu Người làm của ăn của uống cho linh hồn ta được sống sau khi phải chết trong thân xác yếu hèn này.
Xin Mẹ Maria, Đấng đã cưu mang Chúa Giêsu-Kitô, tức là người đầu tiên được rước Chúa vào cung lòng vẹn sạch của Mẹ, giúp chúng ta thêm yêu mến phép Thánh Thể, siêng năng rước Mình Máu Chúa Kitô khi tham dự Thánh lễ để được bổ sức thiêng liêng cho hành trình tiến về quê Trời và nhất là có hy vọng được sống lại sau khi phải chết trong thân xác như Chúa đã hứa trên đây.
Trong sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Chúa Kitô đã quả quyết: “Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống; ai ăn Bánh này thì khỏi phải chết, nhưng sẽ được sống đời đời. Vì Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Jn 6:51-52)
Trên đường trốn vua Acap đang lùng sát hại, tiên tri Elia đã hầu nản chí thất vọng, nên ngài đã cầu xin với Chúa: “Lạy Chúa đã đủ rồi! Xin cất mạng sống tôi đi!” Sứ Thần Chúa sai đến với ông 2 lần, đánh thức ông và bảo: “Hãy dậy mà ăn vì đường ngươi đi còn dài”. Ông chỗi dậy ăn bánh và uống nước, ông phục hồi được sức mạnh và ý chí thêm dũng cảm, rồi ra đi bốn mươi ngày đêm nữa mới tới núi Horeb, núi của Thiên Chúa nhờ lương thực đó bồi dưỡng (xem I Rg 19:7).
Dân Do Thái, trên đường trốn vua Pharaon và quân đội Ai Cập, suốt 40 năm trong sa mạc, mỏi mệt, thiếu thốn, đói khổ, Chúa cũng đã ban cho họ Manna làm lương thực nuôi sống, để họ có thể đủ sức đi tới Xứ Sở mà Chúa đã hứa ban cho họ làm gia nghiệp, như lời Người đã giao ước với tổ phụ họ.
Đây chỉ là thứ bánh phép lạ, là Manna Chúa ban nuôi sống dân Do Thái, để họ nhận biết Ngài là Thiên Chúa chân thật, là Thiên Chúa uy quyền và đầy tình thương, đã thực hiện những việc lạ lùng, để giúp họ được trong lúc cơ cực thiếu thốn.
Bánh phép lạ Chúa dùng để nuôi tiên tri Elia, Manna Chúa thực hiện để nuôi dân Do Thái, cũng chỉ là thứ bánh nuôi thân xác con người cho được sống, cũng chỉ là một hình bóng tiên báo một thứ bánh cao quí và siêu việt lạ lùng hơn bội phần, Chúa đã ban để nuôi sống linh hồn chúng ta. Đó là Bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô. Chính Chúa đã quả quyết với chúng ta: “Ta là Bánh Hằng sống từ trời xuống, ai ăn Bánh này sẽ không phải chết, nhưng được đời đời hằng sống. Vì Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được Sống” (Jn 6:51-52).
Chúa đã làm nhiều phép lạ để tỏ uy quyền toàn năng của Chúa, làm chứng sự hiện diện thực tại của Ngài nơi Nhiệm Tích Thánh Thể. Đọc hạnh tích các Thánh và nhiều vị được đặc tuyển, chúng ta thấy có nhiều vị chỉ vì chút Bánh Thánh Thể lãnh nhận lúc tham dự Thánh Lễ, mà đã sống trong nhiều năm trường. Chẳng hạn, Nữ Chân Phúc Angela Foliguo 12 năm, Thánh Nữ Catharina 8 năm, Chân Phúc Elizabeth Reutte 15 năm, Thánh Nữ Ledwina 18 năm, Nữ Chân Phúc Catharina Raconnigi 10 năm, bà Rosa Andriani 28, bà Louis Leteau 14 năm.
Trên đường lữ hành trần gian tiến về Quê Hương Vĩnh Cửu là nơi Chúa ân thưởng chúng ta, con cái dấu yêu của Chúa, Chúa đã thiết lập Nhiệm Tích Thánh thể làm Bánh Hằng Sống nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Chúa ngự nơi Thánh Thể để nên nguồn an ủi khi chúng ta sầu phiều; nên sự nâng đỡ khi chúng ta yếu nhược; nên niềm hy vọng khi chúng ta nản chí thất vọng; nên sức mạnh giúp chỗi dậy khi chúng ta sa ngã; nên thầy thuốc chữa bệnh tật linh hồn chúng ta; nên Bạn Tâm Phúc, nên Nguồn Hạnh Phúc cho cuộc đời chúng ta. Chúa luôn hằng chờ đợi chúng ta nơi Thánh Thể; kêu mời chúng ta đến với Người, đón rước Người vào tâm hồn chúng ta, để Người trở nên mọi sự cho chúng ta, hầu biến cuộc sống lữ hành đau khổ này trở nên cuộc sống hạnh phúc, biến thung lũng nước mắt này trở nên Thiên Đàng cho con cái Chúa hằng yêu thương.
III. ĐỂ ĐÁP LẠI TÌNH CHÚA YÊU THƯƠNG
Chúng ta phải làm gì để đáp lại tình Chúa yêu thương? Chúng ta hãy năng đến viếng thăm, thờ lạy Chúa, đền bồi phạt tạ những tội lỗi loài người đã xúc phạm đến Chúa đang ngự thật trong Nhiệm Tích Thánh Thể; nhất là chúng ta hãy năng tham dự Thánh Lễ Misa và đón rước Chúa ngự vào tâm hồn chúng ta cách sốt sắng với tâm hồn trong sạch thánh thiện đầy lửa mến Chúa, kết hợp nên một với Người. Nếu không thể đón rước Chúa ngự vào linh hồn cách thực sự được, thì chúng ta hãy làm như các Thánh là ước ao rước Chúa ngự vào linh hồn chúng ta cách thiêng liêng, với lòng khát khao nóng hổi. Chúa rất được hài lòng trào đổ muôn phúc lành xuống trên chúng ta, như chính Người đã làm để ân thưởng những tâm hồn thánh phúc, hằng có lòng khát khao đến viếng thăm, đón rước Người ngự vào linh hồn.
Người ta kể: Một hôm, Thánh Antôn đang lâm bệnh nặng không thể tới Thánh Đường được, nhưng ngài cháy lửa khát khao được tham dự Thánh Lễ và rước Chúa ngự vào linh hồn. Đang lúc nằm trong phòng bệnh, ngài nghe thấy tiếng chuông rung báo hiệu khi Chủ Tế dâng Thánh Thể Chúa lên cho Giáo Dân tôn thờ, bỗng ngài đủ sức mạnh chồm dậy, nhảy xuống khỏi giường, sấp mình xuống đất thờ lạy Chúa, bỗng nhiên bức tường Thánh Đường rẽ ra một khoảng lớn, để ngài thấy rõ Chủ Tế dâng Thánh Thể như lòng ngài khát khao mong mỏi.
Người ta cũng kể: Có một thường dân nọ, rất khao khát rước Chúa Giêsu Thánh Thể hằng ngày, nhưng vì thời đó chưa được phép rước Chúa hằng ngày, nên ông đã thực hành việc rước Chúa thiêng liêng. Mỗi khi tham dự Thánh Lễ, lúc Chủ Tế rước Chúa, ông mở miệng đưa lưỡi ra với lòng tha thiết được rước Chúa. Cứ mỗi lần lam như vặy, ông cảm thấy như thực sự có Bánh Thánh ở trên lưỡi ông, linh hồn ông cảm nghiệm được sự êm ái ngọt ngào thần linh. Rồi một buổi sáng kia, đang khi rước Chúa thiêng liêng như mọi khi, ông đánh bạo thò ngón tay vào miệng, để trắc nghiệm xem thực hư thế nào, thì quả thật ông đã lấy ra một Bánh Thánh Thể, rồi ông cung kính lại bỏ vào miệng và nuốt đi. Đó là phép lạ chính Chúa đã thực hiện để ân thưởng ông và đáp lại lòng khát khao mong ước của con yêu dấu của Người.
Kết Luận
Ôi Maria, Mẹ yêu dấu của chúng con, chúng con cảm tạ Mẹ, vì Mẹ đã ban cho chúng con Chúa Giêsu Thánh Thể là Quả Phúc của lòng Mẹ. Người là Hạnh Phúc của chúng con trên trần gian này.
Xin Mẹ ban cho chúng con được lòng yêu mến Chúa nồng nàn thiết tha như Mẹ, để Chúa được hài lòng ngự vào linh hồn chúng con, như khi Chúa được sung sướng ngự vào cung lòng Mẹ xưa. Xin Mẹ cũng ban cho chúng con lòng hăng say làm việc tông đồ truyền bá lòng tôn sùng Chúa Giêsu Thánh Thể, kêu gọi mọi người năng đến kính viếng, tôn thờ, đền tạ, phụng sự và yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng là Tình Yêu đang ẩn thân trong Nhiệm Tích Cực Thánh này, vì yêu thương nhân loại, đang chờ đợi họ, để Chúa nên nguồn an vui Hạnh Phúc cho họ, nên Thiên Đàng của họ nơi trần gian này.
Suy niệm về Mình và Máu Chúa, là bí tích Thánh Thể mà chúng ta thường đón nhận trong mỗi thánh lễ, bất ngờ tôi tự hỏi “Khi rước Mình và Máu Thánh Chúa-Ngài đã biến đổi gì trong tôi?”. Câu hỏi này được bật ra lại khởi sự cho câu hỏi tiếp: Tại cùng một thời điểm trong cuộc sống, rất nhiều khi chúng ta phải lựa chọn giữa những cái thiệp: dự tiệc Chiên Thiên Chúa mà Ngôi Lời mời gọi và những cuộc chào đón rất đời khác: sinh nhật, đám cưới. Và chúng ta đã nghiêng về ai?
Trả lời những câu hỏi có tính đối kháng cao, chúng ta dễ định lượng lòng mến của bản thân với Chúa Kitô.
Lịch sử bí tích Tình yêu
Nhận thức của con người về thế giới quanh mình thường theo qui tắc: từ tổng quan đến chi tiết, từ đơn giản đến phức tạp. Cũng theo thể thức này và giống như bao Mầu nhiệm khác, nhằm mặc khải về Mầu nhiệm rất đặc biệt này, Thiên Chúa đã lập trình theo tuần tự từ rất xưa. Thời của ông Môsê đưa dân Do Thái ra khỏi đất Ai Cập, giữa sa mạc Sinai chỉ có nắng và cát, Ngài đã cho Mana từ Trời xuống như là một thứ lương thực hàng ngày nuôi sống dân Người. Một thứ lương thực được ban cho nhằm nuôi dưỡng phần xác, để con người nhận thấy lòng thương yêu bao la mà Thiên Chúa dành cho con cái Người.
Trong Tân Ước, Chúa Giêsu lại lập lại phép lạ này 2 lần (Mt 14, 13 và 15, 32) – phép lạ hóa bánh ra nhiều. Nhưng đây vẫn là một phép lạ để phục vụ phần hữu hình và qua đó Chúa muốn bày tỏ một thứ Mầu nhiệm khác bao la, siêu nhiên hơn. Có một chi tiết đáng chú ý, trước lúc làm 2 phép lạ này, Chúa “cầm lấy bánh ngước mắt lên Trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra rồi trao cho các tông đồ”. So với nhiều phép lạ khác, cử chỉ “ngước mắt lên Trời, dâng lời chúc tụng” là khá đặc biệt. Hành động này được thấy duy nhất ở một lần khác khi Ngài cho Ladarô đã chết 4 ngày rồi sống lại (Ga 11, 1), nhưng với lời đối thoại khác “lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhận lời con”. Đây là 2 phép lạ mà Chúa Giêsu viện dẫn tới Chúa Cha trước khi quyết định, điều này nói lên ý nghĩa cực kì đặc biệt về tính chất của 2 phép lạ trên.
Trước ngày chịu nạn, khi Chúa Con chuẩn bị về lại với Chúa Cha, Ngài đã lập bí tích Thánh Thể. Và lần này, hàm ý sâu xa được tỏ ra. Đây là một phép lạ vô hình, hay còn gọi là một Mầu nhiệm. Phép lạ này tạo ra thứ bánh không phải như phép lạ hóa bánh ra nhiều mà tạo ra nguồn mạch nuôi dưỡng sự sống thần linh- phần hồn. Đón nhận Thánh thể nghĩa là Kitô hữu trở thành đồng huyết nhục, đồng thân thể với Đức Kitô như cành nho kết liền với cây nho. Và nhờ thế chúng ta có thế nói Chúa Giêsu sống trong tôi và tôi được đồng hành cùng Ngài trong lời nói và hành động. Và hệ quả là, những nhành nho sẽ sinh nhiều hoa trái.
Con người là một thực thể được cấu thành từ 2 phần xác-hồn. Nếu chúng ta xác tín rằng phần hồn là quan trọng hơn phần xác và nếu một ngày chúng ta cần 2 bữa ăn cho phần xác thì chí ít chúng ta cũng cần một bữa ăn cho phần hồn, là một khẳng định.
Tôi là ai?
Nhà thờ nơi tôi đang sinh sống có khoảng 1000 giáo dân. Thánh lễ ngày thường sáng chiều ước chừng 100 giáo dân dự, trong số đó khoảng 60 người rước lễ. Phụ nữ đông hơn đàn ông, người già nhiều hơn trung niên. Thanh niên ít nhất. Tỉ lệ rước lễ hàng ngày tại đây 6%. Các nơi khác có thể lên tới 20%. Trong 6% này, họ suy nghĩ về điều gì khi rước Chúa vào lòng là một câu hỏi lớn? và “Chúa đã biến đổi họ như thế nào qua bí tích này?”, chắc lại là bất ngờ. Tôi đã từng nát óc đôi lần bởi đoạn Tin Mừng sau:
“Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây, Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi” Mc 12, 28-34. Chúng ta cần tìm hiểu từ “hết” ở đoạn trên trong Anh ngữ.
(Jesus replied, ‘This is the first: Listen, Israel, the Lord our God is the one, only Lord,
and you must love the Lord your God with all your heart, with all your soul, with all your mind and with all your strength.)
Nếu ta yêu mến Chúa, chưa cần dùng đến những từ “hết” (all) hay chỉ cần dùng một trong bốn cái hết trong đoạn Tin Mừng trên, theo lẽ thường của tình yêu chúng ta phải mong muốn thấy hàng ngày, mong nói chuỵên, ước ao ngự vào lòng Người Yêu. Và nếu như thế không đâu bằng nhà Tạm, không đâu bằng bí tích Thánh Thể. Vì Ngài bảo “Này là mình Ta, phải thí ban vì các ngươi; hãy làm sự này mà nhớ đến Ta. Và chén sau bữa ăn, cũng như vậy mà rằng: Chén này là giao ước mới trong máu Ta, phải đổ ra vì các ngươi” (Lc 22, 19). Vậy nếu tôi, 365 ngày chỉ đón Chúa với số lượng tối thiểu 52. Con số này tố cáo tình yêu của tôi với Chúa 14% còn 86% cho thứ khác. Một ngày ngoài giờ làm, ăn, ngủ nghỉ còn 12 giờ, nếu chỉ dành 15 phút cho giờ kinh tối sáng, nghĩa là tôi chỉ nhớ đến Ngài 0.21% trong một ngày. Vậy tôi là ai trong mấy hạt giống mà Ngài đã từng gieo? Tôi như “kẻ được gieo vào bụi gai, biết nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quí khiến Lời không sinh hoa kết quả.” Mt 13, 18.
Hãy dùng trí khôn của Thần Khí để khám phá mầu nhiệm của Thiên Chúa. Đoạn Tin Mừng (Mc 12, 28) với thứ tự của 4 cụm từ: hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực là một gợi ý tinh tế.
Cái hay của cụm từ “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn” sẽ giúp bạn tiến tới “yêu Chúa hết trí khôn”. Cái tuyệt của hành động “yêu Chúa hết trí khôn” sẽ giúp bạn tiệm tiến tới “yêu Chuá hết sức lực”.
Kinh nghiệm của đức tin Công giáo xuất phát từ lòng mến chứ không phải bởi tư duy là vậy.
Phát lộ bí mật tình yêu
Lúc bé, khi nghe đọc Tin Mừng các đoạn Chúa Giêsu làm phép lạ là lúc tôi rất thích thú, bởi vì lòng tự hào về một Sư Phụ quyền năng. Khi lớn hơn, cuộc sống đã có những va đập lớn nhỏ. Những lúc cơ thể rã rời, trí lực cạn kiệt, tưởng chừng bỏ cuộc, tôi muốn kêu lên “Lạy Thầy xin cứu con” như thánh Phêrô đã từng kêu cứu (Mt 14, 22), nhưng nghĩ rằng mình không may mắn để có Ngài ngồi cùng thuyền như thánh thời ấy. Có những khi cơ thể đau đớn vì bệnh tật, tôi mong ước được chạm vào vạt áo Ngài để các bệnh tật biến mất như Ngài đã từng làm cho người đàn bà bị bệnh băng huyết (Mc 5, 25). Nhưng lại nghĩ Ngài đã ẩn mình gần 2000 năm. Và những khi ấy, tôi ao ước được sống cùng thời với thánh Phêrô, được ngồi trên con đường mà Chúa đã từng đi qua để chữa bệnh cho người phụ nữ may mắn ấy.
Có những lúc ngồi suy tư về Ngài, một Thiên Chúa làm chủ cả không gian và thời gian. Ngài đâu phải chỉ hiện diện 33 năm sau Công nguyên tại đất nước Do thái xa tít, Ngài tồn tại mọi nơi, mọi lúc. Ngài là Thiên Chúa của sự công bằng. Vậy Ngài đang ở đâu?
Những cảm giác thích thú, những ước mơ, những thử thách, những suy tư theo thời gian cứ chồng chất lúc mơ hồ, khi rõ ràng, lúc rời rạc, khi liên tục. Tôi đã trả lời được những dằn vặt của chính mình suốt nhiều năm qua trong một thánh lễ. Câu hỏi Ngài đang ở đâu đã có đáp án. Ngài luôn luôn bên cạnh ta, Ngài ẩn mình trong chính bí tích Thánh Thể.
Phát hiện ra mầu nhiệm này, tôi gọi đây là tuyệt đỉnh của tình yêu. Ngài đã hiến chính mạng sống mình để lập nên bí tích cao siêu, để vượt cả không gian, bất chấp thời gian để ở cạnh ta mãi mãi. Chỉ một điều còn lại, ta có nhìn thấy Ngài hằng hữu trong chiếc bánh nhỏ bé ấy hay không. Thật đúng, Ngài là Đấng hiện hữu (Xuất hành 3, 14). Câu nói mà Thiên Chúa đã từng nói với Môsê.
Nếu chúng ta xác tín tuyệt đối, Chúa đang ngự trong phép Thánh Thể, vậy khi rước lễ là ta đã được Ngài ở trong lòng-Đấng là vua vũ trụ- thế thì không có điều gì trên trần gian có thể làm chúng ta không bình an, là một khẳng định. Không làm được điều này, chúng ta khó trở thành một nhân chứng của Tin Mừng. Khi máu thịt Ngài hòa quyện vào thân thể của chúng ta nghĩa là con người trở nên giống hình ảnh của Thiên Chúa (Sáng thế 1, 26).
Thiên Chúa phán sẽ ban miền đất hứa, nhưng dân Do Thái phải trải qua 40 năm thử thách, cực khổ trong sa mạc để sở hữu nó, cũng như ông Abraham khi nhận lệnh đem con sát tế, ông Gióp chịu nhiều bệnh tật, Chúa Giêsu phải ăn chay 40 ngày và chịu cám dỗ ma quỷ. Tất cả những thử thách này là cần thiết để bổi đắp đức tin và khai sáng nhãn quan. Mầu nhiệm Thánh Thể dù đã hé lộ bí mật tình yêu của Thiên Chúa với chúng ta nhưng không phải ai cũng nhận ra trong con mắt đời thường. Các mầu nhiệm ấy không thể nhìn qua con mắt thế tục nhưng cần phải ngắm bởi một lòng mến nội tâm vô song, cần một thời gian đủ dài để chiêm nghiệm và một vài thử thách mà Ngài dùng để tinh luyện thị giác đức tin của mỗi chúng ta.
Một trong những cuốn sách nổi tiếng và bán chạy nhất là cuốn “On Death và Dying” (Hấp Hối và Chết). Tác giả cuốn sách này diễn tả sự chết qua 5 giai đoạn sau đây: 1) Giai đoạn từ chối và không chấp nhận cái chết (denial), 2) Giai đoạn tức giận (anger): “Tại sao tôi lại chết?” 3) Giai đoạn mặc cả (bargaining) để tìm một lúc khác thuận lợi hơn, 4) Giai đoạn chán nản ngã lòng (depress), 5) Giai đoạn cuối cùng là chấp nhận (acceptance).
Tất cả mọi người chúng ta cho dù ở giai đoạn cuối của những cơn bệnh nạn hiểm nghèo hay ở bất cứ lúc nào, tùy theo mỗi người, thì ai cũng phải đối diện với sự chết. Từ lúc chúng ta lọt lòng mẹ là chúng ta bắt đầu cuộc hành trình tiến đến sự chết.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta thêm một giai đoạn thứ 6 mà tác giả ở trên đã không nhắc tới. Giai đoạn này là câu hỏi mà nhiều người phải đương đầu đó là “Chúng ta sẽ đi đâu sau khi chết?”
Đã có rất nhiều thuyết về sự sống đời sau mà con người đã vẽ lên bằng trí tưởng tượng trong phạm vi của loài người. Mỗi một dân tộc đều có những nét đặc điểm của họ. Đối với người Hy Lạp ngày xưa, họ cho rằng cuộc sống đời sau như là một nơi cực lạc chan chứa niềm hạnh phúc và không có bất cứ một thay đổi gì về vấn đề thời tiết. Đối với người Ái Nhĩ Lan, sự sống đời sau giống như một hòn đảo của những người được chúc phúc (Island of the Blest). Trên hòn đảo này đầy những cây ngon vật lạ, mọi người đều vui mừng không ngớt, không có đêm hay ngày gì cả, và cũng không có tiếng khóc hay than van.
Tân Ước thì không cho chúng ta hình ảnh về thế giới đời sau theo tính cách của loài người. Tân Ước cũng không nói cho chúng ta biết kỹ lưỡng về những thiết kế của Nước Trời. Tân Ước cho chúng ta một vài hình ảnh như: Thành thánh Giêrusalem mới, kho tàng châu báu, căn nhà với nhiều chỗ ở, quốc gia mà Chúa Kitô làm Vua.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một bài học rất quan trọng đó là linh hồn bất tử và sự sống đời sau. Ngài trao ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Ngài: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh Ta sẽ ban tặng, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Ga 6:51).
Chúa Giêsu chính là Bánh ban sự Sống. Ngài chính là sự hoàn thiện của chúng ta. Ngài chính là đích điểm mà chúng ta phải đi tới. Ngài đã trả lời cho câu hỏi mà nhiều người vẫn còn thắc mắc, “Sự sống đời đời là cái gì?” Đức Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Con quyền trên mọi phàm nhân là để Con ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Con. Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô” (Ga 17:1-3).
Sự sống đời đời là nhận biết Cha, Đấng đã sai Con Một Ngài xuống thế gian để ban cho chúng ta Bánh Hằng Sống. Sự sống đời đời là đón nhận Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống từ trời xuống.
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này nằm trong Phần I của TM IV (“Sách các Dấu lạ”, ch. 2–12) và thuộc bài diễn từ “Bánh trường sinh” (6,1-71).
Nói chính xác, bài diễn từ “Bánh trường sinh” bắt đầu từ c. 25 và được kết cấu thành năm vòng tròn, mỗi vòng bắt đầu bằng mộtcâu nói của Đức Giêsu và mộtvấn nạn của người Do Thái: a) 6,25; b) 6,28; c) 6,34; d) 6,41; e) 6,52. Cứ mộtcâu hỏi của người Do Thái lại đưa Đức Giêsu đến mộtmạc khải mới về mầu nhiệm bản thân Người; mạc khải này càng gây thắc mắc cho người Do Thái hơn. Năm vòng tròn này chuyển theo hình trôn ốc, đưa đến chọn lựa cuối cùng: bỏ rơi Đức Giêsu (6,66) hoặc tiếp tục gắn bó với Người (6,69).
2.- Bố cục
Bản văn có thể được chia thành bốn phần:
1) Đề tài được xác định lần ba (x. cc. 35 và 48): “Tôi là bánh hằng sống” (6,51);
2) Thắc mắc của người Do Thái (6,52);
3) Triển khai đề tài (6,53-56);
4) Nền tảng của đề tài (6,57-58; c. 58a nhắc lại c. 51a).
3.- Vài điểm chú giải
– từ trời xuống (51): hàm ý mầu nhiệm Nhập Thể.
– bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây (51): Chúng ta có thể tự hỏi vì sao tác giả Gioan không dùng từ ngữ “thân thể” (sôma) mà lại dùng từ “thịt” (sarx), nhất là khi mà từ sôma đã trở thành từ quen thuộc trong văn chương Tân Ước để gọi bí tích Thánh Thể (x. Mc 14,22; Mt 26,26; Lc 22,19; 1 Cr 11,24). Đồng ý là trong bữa tiệc cuối cùng, hẳn là Đức Giêsu đã sử dụng từ A-ram bơsar (Híp-ri bâsâr), và từ này, cho dù chỉ “thân thể”, vẫn được ưu tiên dịch ra bằng sarx, “thịt”, trong Bản dịch LXX. Nhưng thông thường, Ga cũng không mấy để ý đến từ Hy Lạp chính xác. Ở đây hẳn phải có lý do khác.
Sarx đúng là từ để dịch bơsar. Nhưng sarx không chỉ có nghĩa là “thịt” là còn có nghĩa là “toàn thân thể”; “toàn thể con người” [theo nghĩa là có quan hệ với người chung quanh; x. 1,14]. Để diễn tả các sắc thái này, ngôn ngữ Hy Lạp có khả năng tinh tế hơn tiếng A-ram. Nhưng trong Do Thái giáo sau này, người ta đã chọn dịch bơsar là sôma, cho dù trong Tân Ước, đôi khi người ta dùng cả hai từ. Nhưng để nói về bí tích Thánh Thể, từ sôma đã được chọn, ngoại trừ mộtvài bản văn sau thời các tông đồ, được viết dưới ảnh hưởng của Ga 6, đã dùng từ sarx (vd: thánh Inhaxiô Antiôkhia, thánh Giúttinô…). Như thế, dù trong Hội Thánh tiên khởi, đã có mộttừ nhất định để gọi bí tích Thánh Thể, nếu Ga vẫn giữ lại từ sarx, là vì sarx-thịt có trong ngôn ngữ A-ram mộtý nghĩa rộng hơn sôma-thân thể. Đàng khác, trong Ga, sôma được dùng để gọi mộtxác chết: làm thế nào một xác chết có thể ban sự sống? Ngược lại, “thịt” vừa có nghĩa là toàn thể con người vừa có nghĩa là thân thể, và “hai nghĩa trong một” này rất lý tưởng để gợi ra mộttrật cái chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể. Bởi vì ý nghĩa căn bản và tại nguồn của “thịt mà Con Người sẽ ban” không phải là bí tích Thánh Thể, mà là “chính bản thân” Người trong cái chết trên thập giá. Vậy, khi Đức Giêsu nói về “thịt của Người để cho thế gian được sống”, Người muốn nói đến “bản thân Người” (chịu sát tế) để cho thế gian được sống”.
– làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt (52): Đại danh từ Hy Lạp “ông này” (houtos) hàm ý khinh bỉ (x. c. 42). Trong Kinh Thánh, “ăn thịt ai” là một công thức bóng bảy để diễn tả sự thù nghịch (x. Tv 27,2; Dcr 11,9). Còn việc uống máu bị coi như một việc ghê tởm bị luật Thiên Chúa cấm (St 9,4; Lv 3,17; Đnl 12,23; Cv 15,20).
– ăn… uống (53): Hai động từ Hy Lạp này (esthiein và pinein) là những hành vi rất cụ thể để nuôi dưỡng thân xác.
– thịt… máu (53): Thành ngữ Híp-ri “thịt và máu” có nghĩa là toàn thể con người. Vào thời phong trào Cải Cách (tk. xvi), người ta đã tranh luận là có cần nhận Thánh Thể dưới hai hình không. Tất cả những gì có thể rút ra từ bản văn này là: cần phải nhận trọn vẹn Đức Kitô.
– Ai ăn (54 và 57): Động từ “ăn” ở đây là trôgein (bản văn tiếng Anh dịch là feed) chứ không phải là esthiein như ở trên, để diễn tả một hành động rất cụ thể: “nhai bằng răng”. Động từ này nêu bật tính hiện thực của bí tích Thánh Thể.
– ở lại (56): Động từ menein (remain; rester) là một động từ quan trọng của TM Ga (x. chương 15: “Cây nho thật”; động từ này được dùng trong TMNL: 12 lần; Ga: 40 lần; 1-3 Ga: 27 lần; Kh: 1 lần). Tác giả Ga thích dùng động từ này để diễn tả quan hệ trường tồn giữa Chúa Cha và Chúa Con và giữa Chúa Con và các Kitô hữu. Ở trong Cựu Ước, “trường tồn” là mộtđặc điểm của Thiên Chúa và của những thứ thuộc về Thiên Chúa (x. Đn 6,26; Kn 7,27; 1 Pr 1,25), đối lại với đặc tính tạm bợ, chóng qua của con người. Tuy nhiên, TM IV còn dùng mộtcông thức là “ở trong” (menein en) để nói về tính nội tại liên kết Chúa Cha, Chúa Con và các Kitô hữu lại với nhau: như Con ở trong Cha, và Cha ở trong Con (14,10-11), thì Con cũng ở trong loài người, và loài người phải ở trong Cha và trong Con (17,21.23).
– kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống (57): Bí tích Thánh Thể thông ban cho các tín hữu sự sống mà Chúa Con nhận từ nơi Chúa Cha.
– chết (58): Đây là cái chết thể lý đối lại với sự sống thiêng liêng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong tư cách là Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai đến, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta hiệp thông vào sự sống với Người. Nếu chúng ta tin vào Người, chúng ta được đi vào trong sự sống với Người, trong sự sống vĩnh cửu. Ở đây Người giải thích cặn kẽ Người là bánh ban sự sống cho chúng ta như thế nào: Trong cái chết trên thập giá, Người hiến mình cho thế gian được sống và Người ban cho chúng ta thịt và máu Người làm của ăn của uống.
* Xác định đề tài (51)
Đề tài đã được xác định ở cc. 35 và 48, nay lại được nhắc lại, nhưng mang ý nghĩa phong phú hơn, bởi vì đã được triển khai hai đợt (cc. 35-47 và cc. 48-50). Khi nói “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (c. 51a), Đức Giêsu tóm ý nghĩa của dấu chỉ hóa bánh ra nhiều. Chính bản thân Người là sức sống thiên quốc và thần linh, tuyệt đối không thể cạn kiệt. Ai đi vào tương quan đúng đắn với Người thì được thông phần vào sự sống muôn đời. Trong câu “Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (c. 51b) chứa đựng những yếu tố sẽ được triển khai sau này. Cho đến nay, các lời Đức Giêsu nói chỉ giới thiệu tổng quát rằng Người là bánh ban sự sống; nhưng bây giờ Người nói rằng trong tương lai, Người sẽ ban bánh. Bánh ấy chính là thịt Người, hoặc là chính bản thân Người với trọn vẹn cuộc sống con người. Người đã đưa nhân tính của Người ra mà phục vụ sự sống của thế giới, của tất cả mọi người không loại trừ ai.
* Thắc mắc của người Do Thái (52)
Người Do Thái bị vấp phạm nặng nề vì lời khẳng định của Đức Giêsu: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”. Với mức độ Đức Giêsu mạc khải rõ ràng hơn, sự đối kháng cũng tăng theo. Lúc đầu, còn là những xầm xì, nay đã trở thành tranh luận. Nếu cố gắng ép nghĩa, thì cũng có thể hiểu lời khẳng định của Đức Giêsu theo nghĩa ẩn dụ: ăn và uống đây chính là học hỏi Lề Luật. Nhưng dựa theo giọng điệu của Đức Giêsu, những lời Người nói, người Do Thái đã hiểu rằng phải hiểu mọi sự theo nghĩa chữ. Và theo họ, như thế là phi lý: “ăn thịt người” đã là một chuyện phi lý, lại còn “ăn thịt” một kẻ tầm thường (houtos) như ông này! Chúng ta gặp lại một hiểu lầm liên hệ đến các điểm trung tâm của Kitô học Gioan (x. 2,19-21; 7,33-36; 8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 14,4-6; 16,16-19).
* Triển khai đề tài (53-56)
Đức Giêsu đã dùng ngôn ngữ hiện thực, thậm chí sống sượng (“ăn”, trôgein) để diễn tả tính hiện thực của bí tích Thánh Thể. Để được thông phần vào sự sống muôn đời, cần phải ăn thịt Con Người và uống máu Người. Cùng với thịt, bây giờ còn có máu nữa: Đức Giêsu nhắc đến chính cái chết thảm khốc của Người trên thập giá, được tượng trưng bằng từ ngữ “máu”. Trong bánh, là thịt Người, và trong rượu, là máu Người, Người sẽ ban tặng chính bản thân Người như Đấng đã trao ban mạng sống trên thập giá. Các tặng phẩm Thánh Thể có nền tảng là chính cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, trong hành vi Người hiến tặng mạng sống để cho thế gian được sống, như bằng chứng tối cao về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đức Giêsu, Đấng hiến mạng sống trên thập giá, cũng ban thịt Người như là của ăn và máu Người như là của uống. Thịt và máu này là mộtbằng chứng tối hậu về tình yêu của Người và là bảo chứng về tình yêu mà Người chứng tỏ khi hy sinh mạng sống.
Ai lấy đức tin mà đón nhận quà tặng này, thì cũng tuyên xưng Đấng Chịu Đóng Đinh với tình yêu của Người là nguồn mạch ban sự sống, và sẽ được thông phần vào sự sống của Người, cũng là hiệp thông với Người: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (c. 54). Một lần nữa, Đức Giêsu lại khẳng định rõ ràng rằng sự sống đời đời và hiệp thông cá nhân với Người chỉ là một. Với người nào ăn thịt và uống máu Người, Đức Giêsu hứa: “[Người ấy] được sống muôn đời (c. 54)” và “người ấy … ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (c. 56). “Ở lại trong nhau” có nghĩa là trao đổi hỗ tương trọn vẹn và kết hợp với nhau chặt chẽ nhất. Dụ ngôn Cây nho và các cành sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa này hơn nữa (x. 15,1-17).
* Nền tảng của đề tài (57-58)
Chúa Cha chính là nguồn phát xuất ra mọi sự: Ngài gửi Chúa Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (6,32.44), nhưng cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu trong tư cách là “bánh ban sự sống” (cc. 37.44.65). Thiên Chúa là Cha “hằng sống”, là chính sự sống, là sức sống viên mãn không bao giờ cạn kiệt, là Thiên Chúa hằng sống. Đức Giêsu được sai phái đi bởi Chúa Cha và có sự sống bởi Chúa Cha; Người cũng có thể thông ban sự sống thần linh. Bánh ban sự sống đến từ Chúa Cha hằng sống và nhận từ Chúa Cha tất cả sức mạnh ban sự sống. Bởi vì Người phát xuất từ Chúa Cha hằng sống, Đức Giêsu là bánh ban sự sống, là bánh từ trời xuống.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã đến để cứu độ thế gian (Ga 3,17), Người là Đấng “Cứu độ trần gian” (4,42). Người đã hy sinh chính mạng sống, để đưa lại sự sống cho thế gian. Do đó, không ai bị loại trừ cả. Bí tích Thánh Thể là bữa tiệc Thiên Chúa đặt để thết đãi loài người. Bàn thờ dâng lễ cũng chính là bàn tiệc, nơi thịt và máu Đức Kitô được chuyển đến cho các thực khách làm thức ăn thức uống. Mọi người đều được mời gọi đến bàn tiệc này. Lương thực là chính Đức Giêsu, mà Người ban cho chúng ta, không được dùng để duy trì sự sống trần gian hoặc ngăn cản cái chết thể lý. Chính Đức Giêsu cũng đã chết, khi trao hiến thịt và máu trên thập giá. Nhưng cũng chính Người, là bánh ban sự sống, sẽ ban sự sống muôn đời, sự sống này không mai một đi trong cái chết và sẽ được viên mãn trong ngày sống lại.
5.- Gợi ý suy niệm
ĐỨC GIÊSU HOÁ BÁNH RA NHIỀU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Tác giả Tin Mừng nói rõ, chúng ta ở vào thời kỳ “ít lâu trước lễ vượt qua, một đại lễ của người Do Thái”(6,4). Tác giả đưa biến cố được sống thời Đức Giêsu (bánh hoá nhiều, bài giảng ở Capharnaum) về với thời của Israel (Manna thời xuất hành với sự hướng dẫn của Môsê) để các độc giả thấy rõ hơn tính thời sự trong thời của Giáo Hội (sau khi Đức Giêsu phục sinh, trong việc chia sẻ Lời Chúa và bánh của bí tích Thánh Thể). Vì lòng thương xót đám đông đã theo Ngài, Đức Giêsu đã nuôi họ bằng “năm chiếc bánh mạch nha và hai con cá” (6,9), như thế Ngài cho thấy rõ phần nào căn tính đích thực của Ngài. Bởi thế các chứng nhân đã không lầm, họ đồng hoá Ngài với vị đại ngôn sứ, Đấng đã được ông Môsê loan báo trong sách Đệ Nhị Luật (18,15): “Giữa các ngươi, trong số anh em các ngươi, Chúa là Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi”. Thật vậy, trước những dấu lạ mà Đức Giêsu đã thực hiện, người ta nói “chính Ngài là vị đại ngôn sứ phải đến trong thế gian”. Nhưng, thánh Gioan viết, hiểu lầm sứ mạng của Ngài, họ “toan bắt ép Ngài làm vua của họ” (6,14-15). Vì thế để tránh họ, Đức Giêsu rút lui một mình lên núi trước khi đi qua bờ bên kia cách kín đáo với các môn đệ của Ngài.
Chính “ở trong hội đường Capharnaum” (6.59) đám đông đi tìm và gặp Ngài, Đức Giêsu giảng cho họ một bài về bánh ban sự sống”, trong đó Ngài đào sâu ý nghĩa của bánh, ý nghĩa đã hiện hữu trong dấu chỉ, và dạy họ rằng, đối với họ. Đấng đã hoá bánh ra nhiều cũng chính là bánh của nhân loại. Câu 51 đến 58. đã được ghi trong sách bài đọc năm A này, và đã làm thành đoạn cuối của bài giảng, không thể tách rời khỏi các câu trên, với sự song song rất rõ ràng giữa phần đầu và phần cuối của bài giảng tại Capharnaum.
Cũng lời mở đầu: “Ta là bánh sự sống” (câu 35) và “Ta là Bánh hằng sống” (câu 51). Cũng lời cuối về sự sống vĩnh cửu: “Ai tin Ta sẽ có sự sống đời đời” (câu 58).
Cùng lời quảng diễn về những xì xầm (đối chiếu với những “xì xầm” trong sách Xuất Hành, và những chống đối của người Do Thái) làm sao ông ta có thể nói: “Ta từ trời xuống” (câu 42), và làm sao con người ấy lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn” (câu 52).
Nhưng trong lúc phần đầu của bài giảng trình bày “bánh sự sống” trong Đức Kitô với tư cách là Đấng mặc khải của Chúa Cha Lời Thiên Chúa từ trời xuống, thì phần hai lại quy chiếu cách rõ nét về bí tích Thánh Thể.
ĐỨC GIÊSU BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG.
Ở phần đầu của bài đọc của sách này, khi quảng diễn Đệ Nhị Luật 8,3 Đức Giêsu tự giới thiệu mình trước hết như là “Bánh sự sống” cho những ai tiếp nhận sứ điệp của ngài bánh hằng sống từ trời xuống, đó là mặc khải cuối cùng cho loài người. Đức Giêsu đã mặc khải bằng lời nói và việc làm của Ngài, bằng mầu nhiệm trọn vẹn của Ngài, bằng chính con người của Ngài vì Ngài là “Ngôi Lời trở thành xác phàm” (Ga 1,14). Ngài có thể áp dụng cho chính mình những gì mà Cựu ước đã nói về Lời của Thiên Chúa hay sự khôn ngoan thần linh, là của ăn duy nhất có thể làm dịu cơn đói khát của con người: “Ta là bánh sự sống, ai đến với Ta, sẽ không bao giờ đói nữa, ai tin Ta sẽ không hề khát bao giờ” (cf. Pro. 9,5,- Sir. 24,21).
Một giai đoạn mới đã vượt qua với phần hai của bài giảng.
Ở đây sự gợi lại cái chết của Đức Giêsu, như nguồn sống, được làm rõ nét hơn “bánh mà Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, ban cho thế gian được sống. Và chữ “THỊT” làm nhớ lại lời mở đầu của thánh Gioan 1,14: “Ngôi Lời đã hoá thành xác phàm. A. Marchadour quảng diễn: chính Đấng nhập thể hiện diện. Nhưng ở đây lời lẽ thích đáng được diễn đạt: cái chết của Đức Giêsu như nguồn sống cho nhân loại. “Ngôi Lời trở thành xác phàm” (1,14). Thịt trở thành bánh (6,51). Giữa việc nhập thể, cái chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể có một sự liên tục mật thiết. (Phúc âm thánh Gioan “Centurion”, 1992, trang 108).
Và nếu, cho đến bây giờ cái tiếng chính là “TIN”, “ĐẾN VỚI TÔI” thì bây giờ chúng ta lại thấy những từ: “BAN”, “ĂN và UỐNG”. A. Marchadour viết tiếp: “Trong phần cuối của bài giảng của Đức Giêsu, những từ về Thánh Thể (eucharistiques) chiếm chỗ quan trọng với tính hiện thực mà người ta chỉ có thể hiểu vào thời đại của Giáo Hội. Giữa các câu 53, 54-56, thay vì từ “ĂN” truyền thống, Gioan dùng một từ có vẻ sống động hơn: “nhai, cắn” điều đó còn nhấn mạnh hơn đến sở hữu và nghĩa nội tâm hoá cần thiết. Trong trường hợp này, phần bài giảng này có thể chịu ảnh hưởng những cuộc tranh cãi trong cộng đồng Kitô giáo của Gioan trên tính hiện thực của Thánh Thể (Phúc âm thánh Gioan “Centurion”, p.109) Đức Giêsu cũng là bánh từ trời xuống vì trong bí tích, cái mà Ngài ban làm của ăn chính là “thịt” Ngài hiến dâng cho sự sống của thế gian, ăn thịt (động từ lặp lại 8 lần trong một ít câu) và “uống” máu Ngài, là nhận lấy sự sống của Ngài, là thông hiệp với mầu nhiệm chết và sống lại của Ngài: chúng ta ở vào thời “ít lâu trước lễ Vượt qua, thịt của Đức Giêsu được ban để cho thế gian được sống” (câu 51). Giờ Giuđa nộp Thầy mình đã gần đến, Gioan lưu ý (câu 64 và 70-71). Đến phiên mình, nhờ Ngài với Ngài và trong Ngài, Ngài chấp nhận liều mình trở nên “tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới”. (Đại hội Thánh Thể Lộ Đức, 1981).
BÀI ĐỌC THÊM:
1) Ngày nay cũng thế, khi thông hiệp với Đức Kitô trong đức tin, người Kitô hữu ở trong Ngài và nhận được sự sống đời đời (A. March, “Dossier biblique số 41, trang 13-14).
Khi giảng tại Capharnaum, Chúa Giêsu đã không thể nói rõ cách trực tiếp về Thánh Thể, điều người ta không thể hiểu nổi trước bữa tiệc ly, trước cái chết và sự sống lại của Ngài. Cụm từ “bánh sự sống” trước hết là một cách nói về Đức Giêsu như Đấng mặc khải từ trời đến và lời Ngài là của ăn và của uống (Hãy đến mà ăn bánh của Ta hãy uống rượu nho mà Ta đã dọn sẵn cho các con: Prov. 9,5). Tất cả bài giảng trước hết gợi lên lòng tin vào Đức Giêsu Đấng mặc khải, nhưng việc thực hiện Thánh Thể cũng lộ ra trong thuật ngữ Kitô giáo: “ăn, uống, có sự sống”. Tuy nhiên phần cuối thì trực tiếp chỉ về “Thánh Thể” chúng ta hãy quan sát. Thật vậy, từ câu 51, Đức Giêsu gợi lên cái chết của Ngài như là nguồn sự sống: bánh mà tôi sẽ ban cho, chính là thịt tôi để cho thế gian được sống. Từ “thịt” làm nhớ đến lời mở đầu: Lời trở nên xác phàm (1,14). Chính việc nhập thể (incarnation) được diễn tả ở đây, trong giai đoạn kết thúc: cái chết của Đức Giêsu, Ngôi Lời trở nên thịt (xác phàm), thịt làm thành của ăn. Giữa việc nhập thể, cái chết và Thánh Thể có một sự liên tục. Ngày nay Đức Giêsu vắng mặt trong thân thể Người, sự mặc khải của Ngài vẫn còn đó và Thánh Thể là trọng tâm mà loài người được mời gọi, cùng với cơ may cũng như rủi ro bị từ chối như vào thời Đức Giêsu vậy: Lời này chói tai quá, ai mà nghe được! (6,60). Ở câu 53-56, thay vì động từ “ăn”, Gioan dùng một từ rất mạnh: “nhai, cắn”. Có lẽ là để nhấn mạnh đến tính hiên thực của Thánh Thể: Thật vậy, một số Kitô hữu, những người thuộc phái ngộ đạo, từ chối sự trung gian thể chất của các bí tích để kết hiệp với Đức Giêsu, cũng như họ từ chối không tin sự hiện hữu của nhân loại tỉnh trong Đức Giêsu, đến trong xác thịt (1Ga 4,2). Nhưng vì thế, để sự trung gian của bánh không phải là ma thuật: chính tinh thần làm cho sống, xác thịt có ích chi (Ga 6,56). Thánh Thể, Mình Máu thông ban cho tín hữu ơn mà những người đồng thời với Đức Giêsu tìm kiếm: sự sống vĩnh cửu từ bây giờ và mãi mãi, ở với Đức Giêsu. Hôm nay cũng vậy, người Kitô hữu thông hiệp với Đức Giêsu trong đức tin, ở với Ngài và có sự sống đời đời.
2) “Cao quý thay mầu nhiệm đức tin” (Mgr. L.Daloz trong “Chúng ta đã thấy vinh quang Ngài” Desclée de Brouwer, trang 87-88).
Đức Kitô phải mời gọi chúng ta đặt mình vào đỉnh cao của đức tin để mặc khải cho chúng ta về mầu nhiệm đức tin. Chúa nhắc lại lời khẳng định đã đưa đến những lời “xì xầm”: “Ta là bánh ban sự sống”. Ngài bác lại lời bắt bẻ về manna mà người ta nại ra để chống lại Ngài: “Trong sa mạc, cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, cho nên chưa phải là thứ bánh ban sự sống. Trái lại ai ăn bánh bởi trời sẽ không hề chết bao giờ: ai tin và ăn bánh này sẽ sống muôn đời”. Và đây là lời tuyên bố gây vấp phạm… bánh mà Ta ban, chính là thịt Ta để cho thế gian được sống… Tuy nhiên trước sự chống đối, Chúa Giêsu chẳng những không dịu giọng mà trái lại còn nhấn mạnh bằng bốn câu rất rõ ràng và thực tế: “Nếu các ông không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài… ai ăn thịt Ta, và uống máu Ta… thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của sống… ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy…”. Không có lối thoát nào cả, không có cách nào khác để có sự sống, có sự phục sinh để ở trong Ngài. Không thể rõ ràng hơn được nữa. Hòn đá, vật chướng ngại, chính là hòn đá gốc để các môn đệ được sống, hòn đá thử thách của sự thật về đức tin. Như thế, Thánh Thể cắm sâu vào trung tâm của hiện hữu Kitô giáo. Trong bóng tối của mầu nhiệm, những ai muốn có sự sống phải hướng về đó, vì đó là của ăn để sống: bánh bởi trời là như thế: rất khác với thứ bánh mà cha ông các ngươi đã ăn, họ đã hết, nhưng ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Không một lời diễn giảng, thánh sử kết thúc đơn sơ: Đó là những lời dạy của Đức Giêsu trong hội đường Capharnaum. Đó là cách bánh hằng sống và chén cứu độ được dặt vào tay chúng ta không một lời giải thích nào. “Cao cả thay nhầu nhiệm đức tin”.
3) “Hai bàn Tiệc” (J.Perron, trong “Đọc Kinh Thánh” số 52, trang 139-140).
Nếu tách rời những câu trước với đoạn văn này, sẽ đi đến nguy hiểm là làm nghèo nàn đi, hơn nữa làm sai nghĩa về lời dạy về Thánh Thể của Gioan. Những gì nói về bí tích phải để mở ra một nhân quan rộng hơn nhiều hơn những gì nói trong bài thuyết giảng. Nếu Đức Giêsu là bánh ban sự sống trong Thánh Thể, là bởi trước hết Ngài là bánh cho những ai tiếp nhận lời Ngài và chứng của Ngài, và vì thế phần đầu chỉ nói đến người “tin vào”, phần hai nói đến người “tin hiệp-thông”, nhưng hai phần, phần nào cũng không thể thiếu, bởi lẽ không thể nói đến “người hiệp thông” mà trước hết người ấy không phải là kẻ tin, nếu không có sự khẳng định ở câu 47 thì câu khẳng định 54 chẳng có nghĩa gì hay là dẫn đến tình trạng làm cho Thánh Thể chỉ là một nghi lê ma thuật. Thánh Tôma Aquinô nhắc nhở rằng mọi bí tích đều là “bí tích đức tin” (sacra men ta fidei). Cuối cùng nếu đức tin có thể bỏ qua bí tích (không nói đến rước lễ thiêng liêng hay rửa tội bằng lòng muốn) thì bí tích không thể có nếu không có đức tin. Đức tin là sự kết hiệp đầu tiên với Đức Kitô, phải đi trước nghi lễ bí tích và hướng về đó” (A.Feuillet). Sự tình bày về Thánh Thể này cũng mời gọi chúng ta, như các cải tổ Công đồng đã làm, tìm lại chỗ đứng của phụng vụ Lời Chúa đi trước và chuẩn bị cho nghi lễ bẻ bánh trong các cử hành của chúng ta – cả hai phải kết hợp với nhau cách sâu xa như hai đoạn của bài giảng thuyết của Gioan. Các tác giả Kitô giáo xưa đã hiểu như thế khi họ nói đến “hai bàn tiện trong Giáo Hội: “Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc thánh”. Có lẽ vì thế mà sinh ra những hậu quả đáng giận của phong trào cải cách: sự chia cắt mà người ta có thể diễn tả một cách hài hước: người Tin lành thì ra khỏi cửa với cuốn Kinh Thánh trong túi và người Công giáo đi ra mang theo Mình Thánh Chúa. Lời dí dỏm, trên đây, nếu có thể nói lên một cái gì về thực tế của sự kiện, thì phải nói rằng cả hai cộng đồng, mỗi bên chỉ giữ cho mình một nữa mầu nhiệm Thánh Thể, một phần của bài giảng thuyết trên chủ đề “bánh ban sự sống”.
MÌNH VÀ MÁU ĐỨC KITÔ
Khác với ba Tin Mừng nhất lãm, thánh Gioan không thuật lại việc thiết lập Thánh Thể, chiều ngày thứ năm Tuần Thánh. Nhưng sau khi hoá bánh ra nhiều lúc Đức Giêsu phân phát lương thực trần gian cho những người đói khổ, thánh sử đã đặt vào miệng Đức Giêsu một bài giảng dài về “bánh hằng sống, bánh ban sự sống muôn đời”…
Theo một văn phong điểm hình của thánh Gioan, trang Tin Mừng ngắn mà chúng ta đọc hôm nay chứa đựng năm từ –chìa khoá: ăn (8 lần); uống (4 lần); thịt (5 lần); máu (4 lần); sống (9 lần); phải để mình cuốn hút vào giọng nói có nhiệu điệu ấy và dám vượt ra ngoài ngôn ngữ và ý tưởng trong sáng. Sự gặp gỡ với mầu nhiệm Thiên Chúa không bao giờ ban cho người nào gắn chặt và bám víu vào cái tri giác được, vào nhân tính và sự duy lý.
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”
Bánh? Dẫu sao cũng là một vật rất đơn giản và rất con người. Đối Với toàn bộ vùng duyên hải của biển Địa trung hải, “bánh” (bánh mì) là lương thực căn bản, như khoai mì đối với châu Phi và lúa gạo đối với châu A. Bánh cũng là biểu tượng cho sự sống. Ai không ăn chẳng bao lâu sẽ chết và ai không ngon sẽ phải đến bác sĩ, vì đó là dấu hiệu có cái gì không ổn cho sức khoẻ của mình.
Nhưng sau đó chúng ta được phóng lên trên những từ ngữ của Đức Giêsu nói người là bánh lương thực nuôi sống. Hơn thế nữa Người còn khẳng định rằng lương thực ấy thiêng liêng, từ trời xuống. Và đó là bánh hằng sống! Vậy thì đó là một thứ bánh tra hỏi chúng ta về bản chất cái đói của chúng ta. Đối với tôi sống có nghĩa là gì? Nếu tôi không muốn ăn Thánh Thể, chứng bệnh thiếu máu nào rình chờ tôi? Tôi nuôi sống mình bằng gì? Phải chăng bằng tài sản? Bằng lạc thú? Bằng tiêu thụ? Bằng lao động? Những sở thích tự phát và sơ đẳng của tôi là gì?
“Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.
Có nhiều trình độ sống khác nhau. Pascal đã nói đến ba cấp độ của sự cao cả. Những sự cao cả của xác phàm, những sự cao cả của tinh thần và sau cùng sự cao cả của thánh thiện; “gom tất cả thân thể lại, người ta không thể làm ra một tư tưởng nhỏ; điều đó không thể làm được và tư tưởng thuộc về một trật tự khác. Gom tất cả thân thể và tinh thần lại người ta không thể rút ra một vận động của bác ái chân thật, điều đó không thể làm được và bác ái thuộc về một trật tự khác: trật tự siêu nhiên”. (Tư tưởng 585). Dĩ nhiên là có sự sống của thân thể, thuộc sinh học, đúng theo bản chất của nó là đẹp và mong manh. Một nhãn hiệu quần dài vừa qua đã treo một biểu ngữ quảng cáo với lý tưởng đó: “Bạn hãy để cho thân thể bạn phát biểu, người ta thấy mình đang ở trình độ nào! nhưng đời sống thật của con người là đời sống trí thức: chính tư tưởng phân biệt con người với thú vật. Và chúng ta còn có một đời sống tâm linh: điều quan trọng lúc đó là yêu thương chân thật.
Đức Giêsu không ngừng nghĩ đến “đời sống thánh thiêng, đời sống muôn đời” như Người nói.
“Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.
Những thánh sử khác dùng một từ khác: “Này là mình Thầy”. Còn Gioan đã nói về sự nhập Thể đã sử dụng chữ “thịt” được dịch ra tiếng Việt là ‘người phàm’. “Và Ngôi Lời đã trở thành người phàm” (Ga 1,14). “Đức Kitô đã đến và trở nên người phàm” (1 Ga 4,2). Gioan nhấn mạnh nhiều trên tính hiện thực của Đức Giêsu: điều chúng tôi đã thấy tận mắt và tay chúng tôi đã chạm đến (1 Ga 1,1).
Người phàm theo nghĩa Kinh Thánh, trước tiên không phải là bản chất thể lý mà chúng ta còn Gọi là thịt, xác thịt; mà là toàn bộ “hữu thể sống”, là ngôi Vị trọn vẹn “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là tôi, tất cả sự sống tôi”. Khi nói về “thịt tôi đây”, như trong câu này, Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết của Người. Khái niệm này rất quan trọng: Đức Giêsu phải đi qua cái chết để chúng ta được nuôi sống bởi Người. Người phải đi qua cái chết chúng ta được sống.
Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”
Không phải chỉ ngày nay Thánh Thể bị từ chối. Ngay từ ngày đầu tiên, người ta đã gào lên “điên rồ!” Ai bám víu vào sự lĩnh hội ngay lập tức của các từ ngữ sẽ không thể đạt đến điều Đức Giêsu muốn nói:
Đức Giêsu nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình”.
Không nao núng. Đức Giêsu còn nói thêm! Người không tìm cách để tránh gây thương tổn. Cho đến lúc này, Người chỉ nói “ăn” thịt Người. Người nhấn mạnh thêm khi nói rằng phải “uống” máu Người. Sự ám chỉ thịt và máu nhắc nhớ đến nghi thức hiến tế chiên vượt qua nơi những người Do Thái. Đối với tâm thức của người Do Thái, uống máu là một điều cấm kỵ, một sự cấm kỵ thiêng liêng; không chỉ không được phép mà còn ghê tởm, phạm thánh. Ngay cả thịt các động vật phải để cho nhỏ hết máu trước khi được ăn bởi vì máu là sự sống (Lv 17,11-14; Đnl 12,23).
Nhưng thực tại văn hóa ấy, mà từ “máu” chuyển tải trong tư tưởng Thánh Kinh cho thấy rõ ràng không chỉ là thứ chất lỏng gồm các hồng cầu và bạch cầu. Máu mà Đức Giêsu nói đến, chính là sự mới sẽ đến từ cái chết của Người. Chúng ta chớ bao giờ quên rằng thực tại mầu nhiệm của Mình và Máu mà chúng ta tiếp nhận chính là “thân thể vinh quang và thiêng liêng của Đức Giêsu đã Chết và đã sống lại. Về vấn đề này, phải đọc lại sự khai triển của Thánh Phaolô: “Cái người gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên nhưng là một hạt trơ trụi, như hạt lúa hay một thứ nào khác. Rồi Thiên Chúa cho nó một hình thể như ý người muốn: Giống nào hình thể nấy… Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát. mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí…” (l Cô-rin-tô 15,37-42).
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”.
Sự vượt qua phi thường của các từ ngữ mà chúng ta được mời gọi trong đức tin, không nên làm cho chúng ta đi đến một ý nghĩa chỉ thuốn là ẩn dụ hoặc làm dịu đi. Ở đây Gioan thình lình thay thế từ “phagein”, “ăn” mà ngài đã dùng cho đến lúc này… bằng từ “trôgei” mang tính hiện thực nhiều hơn và có nghĩa là “nhai”! Mọi bản dịch đều ngần ngại đi theo thánh sử tới đó! Tuy nhiên, ở đây chúng ta có một ghi nhận văn hóa quan trọng: trong bữa vượt qua, con cái Israel được khuyên bảo phải nhai kỹ thức ăn như để hấp thụ thức ăn ấy tốt hơn. Chính Đức Giêsu ám chỉ đến tập tục đó. Và trong điều đó, không có gì là ma thuật; nhưng là một sự tượng trưng sâu xa rất hiện thực và rất có ý nghĩa bởi vì đời sống thiêng liêng của chúng ta được nuôi dưỡng và diễn tả bằng thân thể.
“Vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống”.
Từ “thật” được lặp lại hai lần. Đức Giêsu, nhất là trong Tin Mừng của Gioan không ngừng đi từ một thực tại hữu hình đến một thực tại khác sâu la hơn. Con người khát vọng sự viên mãn. Điều mà con người đã có kinh nghiệm về niệm vui tình yêu, sự sống làm cho con người ước mơ niềm vui sau cùng, không phức tạp, một tình yêu hoàn toàn làm thỏa mãn, môt đời sống không có sự chết. Lịch sử nhân loại là một lịch sự dài của những ước mơ bị tước đoạt những khát vọng thất bại. Đức Giêsu dám đề nghị sự sống thật, lương thực thật.
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”.
Ở đây có một từ mà thánh Gioan hay dùng: ở lại! Đề tài này sẽ còn được phát triển dài vào buổi chiều thứ Năm Tuần Thánh, trong bài văn phúng dụ về cây nho:..Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Một trong những lời tự phụ nhất mà một con người bình thường không bao giờ phát biểu. Lời gây vấp ngã, nếu đó không phải là lời của Thiên Chúa.
“Nhai thịt”; “uống máu”; khi Gioan viết những lời nàỵ các Kitô hữu đã cử hành bữa ăn mầu nhiệm Thánh Thể, tức thánh lễ. Thật vậy trong thánh lễ có hai dấu chỉ phân biệt: bánh, chất rắn phải ăn; rượu nho, chất lỏng phải uống. Và có hai lời phân biệt: “Này là Mình Thầy bị nộp” “Này là Máu Thầy đổ ra”
Thịt… Máu… Làm thế nào mà không nghĩ đến cách cụ thể mà Đức Giêsu đã chết trên thập giá! Thánh lễ đưa chúng ta về Gôn-gô-tha nghĩa là hy tế đổ máu của Đấng đã ban cho tất cả một cách tự do. Hiệp thông với Đức Giêsu, không thể chỉ là một phần của phút trong đó chúng ta hiệp nhất với Người. Điều đó cũng phải là toàn bộ thời gian và bề dày của đời sống chúng ta mỗi ngày được hiến dâng tình yêu.
Và đó là “ở lại” trong Đức Giêsu.
Và đó là “sự sống” theo Đức Giêsu: sự sống thật.
Sự hiệp lễ Thánh Thể chỉ có ý nghĩa khi nó biểu lộ và nuôi dưỡng sự hiệp thông trong cuộc sống. Và một cách cụ thể của mỗi người chúng ta biết rất rõ trong cuộc sống hàng ngày điều đó có ý nghĩa là gì.
“Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy”.
Đây là một trong những công thức cô đọng nhất của tất cả Tin Mừng. Rõ ràng có vấn đề thần thánh hóa con người! Hình ảnh đồng hóa lương thực nói lên nhiều điều!trong mọi chu kỳ của tự nhiên, luôn luôn hữu thể lớp trên đồng hóa thân hữu thể của lớp dưới: thảo mộc biến đổi thành vật chất vô cơ; thú vật biến đổi thành các thảo mộc mà nó ăn và con người là đỉnh cao thấy rõ của sự biến đổi ấy mỗi ngày một hoàn thiện của sự sống. Tại sao sự biến đổi lại dừng lại ở đó? Tại sao Thiên Chúa lại không đồng hóa chúng ta với Người?
“Đây là bánh từ trời xuống không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”.
Sống! Sống dồi dào! Sống thánh thiêng. Chỉ thế thôi Bạn có muốn như thế không? Bạn hãy đến với ngày lễ của sự sống đời đời. Thánh Thể chiếm vị trí nào trong đời bạn? Bạn có đói khát Thiên Chúa không? Người ta không ăn Thánh Thể như những người Do Thái ăn bánh man-na đi làm dịu cơn đói của thể xác. Đây là một cơn đói thiêng liêng, xuyên qua một dấu chỉ của thể xác.
”Chóp đỉnh và Nguồn mạch” của Giáo Hội là Bí tích Thánh Thể
Nếu chiều thứ năm Tuần Thánh, Giáo Hội cử hành thánh lễ Tiệc Ly, kỷ niệm việc Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể để ở lại với loài người mọi ngày cho đến tận thế, thì hôm nay, Giáo Hội long trọng cử hành thánh lễ kính Mình và Máu Chúa Giêsu nơi Bí Tích Thánh Thể. Khi cử hành như thế, Giáo Hội cảm nghiệm và xác tín rằng: Bí tích Thánh Thể chính là trung tâm trong lịch sử của nhân loại, là “nguồn mạch” và “chóp đỉnh” của mọi sinh hoạt trong phụng vụ của Giáo Hội, bởi vì Thánh Thể là lương thực cần thiết cho sự sống và sứ mạng của Giáo Hội.
Thật là ý nghĩa và tốt đẹp biết bao khi các tín hữu trong ngày Lễ này, quy tụ với nhau chung quanh Thánh Thể, để tôn thờ Người hiện diện trong Bí tích cao trọng qua các hình thức đạo đức như chầu và rước kiệu Thánh Thể để diễn tả lòng đạo đức, sốt sắng tham dự Thánh lễ và rước Mình và Máu Thánh Chúa xách xứng đáng, để thể hiện niềm tin vào Chúa Giêsu hằng sống và nói lên niềm vui vì sự hiện diện của Ngài trong nhân loại và trên cuộc đời.
Trong Giáo Hội có bẩy Bí tích, nơi các Bí tích này đều có sự liên hệ mật thiết với nhau làm nên tính toàn thể trong mầu nhiệm cứu chuộc của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Bí tích cao trọng nhất và vĩ đại nhất vẫn là Bí tích Thánh Thể. Vì thế, Bí tích này được gọi là: “Bí tích của các Bí tích”: Thật vậy: “Tất cả các Bí tích khác đều quy hướng về Bí tích Thánh Thể như về cùng đích” (GLHTCG số 1211), và đời sống đức tin của chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể như là cứu cánh của mình.
Vì thế, không có kinh nào, nghi thức nào và tổ chức nào cao trọng, quý mến cho bằng Thánh lễ, bởi vì trong Thánh lễ sẽ diễn ra một cuộc trao đổi kỳ diệu dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, làm cho bánh và rượu trở nên Thịt và Máu Chúa Giêsu qua lời truyền phép của linh mục. Bí tích Thánh Thể nói lên sự hiện diện thực sự và trọn vẹn của Chúa Giêsu. Cũng qua Thánh lễ, cùng với của lễ tuyệt hảo là Chúa Giêsu trên Thánh giá, chúng ta nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, dâng lên Thiên Chúa Cha lời chúc tụng, tạ ơn và cầu xin.
Nơi Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu diễn tả tình yêu trọn vẹn khi trao hiến Thịt và Máu của mình làm của ăn, của uống cho nhân loại. Qua Bí tích Cực Thánh này, Chúa Giêsu hiện diện dưới hình bánh, hình rượu để trở nên lương thực nuôi dưỡng chúng ta, làm cho đời sống tinh thần của chúng ta được lớn mạnh không ngừng.
Chính vì thế, Bí tích Thánh Thể là “Nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống kitô hữu” (x. LG 11). “Hy lễ Thánh Thể, tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa, tiếp diễn mãi mãi Hy Lễ Thánh Giá, là tuyệt đỉnh và nguồn suối của tất cả phụng tự và đời sống Kitô giáo. Nhờ Hy Lễ Thánh Thể, sự hiệp nhất của dân Chúa được biểu lộ và thể hiện, việc xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô được hoàn tất. Bởi đấy, các Bí Tích khác và mọi hoạt động tông đồ của Giáo Hội đều quy hướng về và liên kết chặt chẽ với Bí Tích Thánh Thể” (Giáo Luật, số 897). Thật vậy, mỗi lần Hy tế Thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó “Chúa Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế (x. 1 Cr 5,7), thì công cuộc cứu chuộc chúng ta được thực hiện” (x. LG, số 3).
Như thế, tham dự và cử hành Bí tích Thánh Thể trong khuôn khổ Thánh lễ Tạ Ơn là việc vô cùng quan trọng trong đời sống của Giáo Hội và của mọi người tín hữu Chúa Kitô, vì đây chính là “nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo” (x. LG, số 11) như Giáo Hội dạy.
Mỗi khi chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể hay tôn sùng Bí tích cao trọng này cách xứng đáng, ấy là lúc chúng ta tin nhận Bí tích Thánh Thể là “nguồn mạch và tột đỉnh” của đời sống kitô hữu. Nói cách khác, toàn thể đời sống tâm linh của kitô hữu cũng như mọi cử hành phụng vụ của Giáo Hội được bắt nguồn từ Bí Tích Thánh Thể.
Khi xác tín như thế, chúng ta cùng nhau hướng mục đích của cuộc đời mình về Chúa Giêsu như một sự quy chiếu đến cùng đích tối hậu của cuộc sống nơi mình. Đồng thời, mỗi khi cử hành và tôn sùng Bí tích Thánh Thể, Giáo Hội mời gọi con cái mình trở nên giống Chúa Giêsu ngày càng mật thiết hơn và sống mầu nhiệm Thánh Thể trong đời sống hằng ngày.
Như thế, đời sống tâm linh của chúng ta phải là con đường hai chiều. Con đường này khởi đi từ Bí tích Thánh Thể, rồi sau đó lại đưa dẫn chúng ta trở về với Thiên Chúa trong Bí tích này. Mối liên hệ trên được diễn ra trong tình yêu. Chính nhờ tình yêu, mà chúng ta cũng kết hợp với toàn thể Giáo Hội, là Nhiệm Thể Đức Kitô. Để rồi nhờ hồng ân Bí tích Thánh Thể, chúng ta thương yêu tha nhân như chính mình vì họ là hình ảnh của Thiên Chúa.
Đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư “Mane Nobiscum Domine – lạy Chúa, xin ở lại với chúng con” đã nhấn mạnh khi viết: “Mỗi lần ta dự phần vào Mình và Máu Người, chúng ta đã thực sự gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta không thể giữ lại cho riêng mình niềm hân hoan mình đã cảm nghiệm. Việc gặp gỡ riêng tư với Chúa Kitô cách thường xuyên được tăng triển và đào sâu trong Bí tích Thánh Thể khơi lên trong Giáo Hội và nơi mỗi tín hữu một lời mời gọi khẩn thiết cho việc làm chứng và rao giảng Tin Mừng” (Gioan Phaolô II, Mane Nobiscum Domine, số 24).
Người kitô hữu chúng ta không thể sống khác đi được. Nếu đi ngược lại, chúng ta đánh mất chính mình vì đã mâu thuẫn nội tại.
Vì thế, mỗi khi tham dự Thánh Lễ, nhất là rước Mình và Máu Chúa vào trong linh hồn chúng ta, hẳn là hơn bao giờ hết, chúng ta được mời gọi để trở nên thánh thiện, trong sạch hầu xứng đáng với Mầu Nhiệm ta đã lãnh nhận.
Thông hiệp vào Mầu Nhiệm Cực Thánh này, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để đi vào tận sâu thẳm của tình yêu Thiên Chúa để cảm nghiệm được tình yêu tự hiến nơi Chúa Giêsu, Đấng đã “đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ”, Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, để qua đó, mời gọi chúng ta noi gương Ngài, phục vụ anh chị em mình với sự khiêm nhường trong lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin Chúa ban cho chúng con thêm lòng yêu mến Chúa và siêng năng tham dự Thánh lễ, rước Mình và Máu Chúa cách xứng đáng; đồng thời luôn xác tín Bí tích Thánh Thể chính là “nguồn mạch và chóp đỉnh” của đời sống Giáo Hội và nơi mỗi người chúng con. Amen.
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã dùng đất nắn nên hình hài (St 2,7).Từ đó Tổ Tông loài người mang tên Đất (St 4,25; 5,1-3). Ađam, tiếng Do thái nghĩa là đất.
Để cứu Dân Ngài thoát khỏi nô lệ Ai cập, vượt qua Biển Đỏ khô chân, lập giao ước Sinai với dân, Thiên Chúa đã dùng Môsê. Môsê, tiếng Do Thái nghĩa là nước (Xh 2,10)
Khi xây dựng Giáo Hội, Thiên Chúa lại dùng một con người đánh cá tầm thường, khi thì hùng hổ tuốt gươm bảo vệ Thầy Giêsu (Lc 22,50), khi thì sợ hãi chối quanh trước một đầy tớ gái (Lc 22,56-57). Người ấy Chúa Giêsu đặt tên là Đá (Mt 16,18). Kêpha, tiếng Do Thái nghĩa là đá.
Như vậy, lịch sử sáng tạo,lịch sử cứu độ quyện đan với những cái tên gọi tầm thường: Đất, Nước, Đá.
Chúa Giêsu đã dùng bánh rượu làm nên Mình và Máu Thánh của Người. Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường nhưng lại là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống hàng ngày của con người. Chính Chúa Kitô đã muốn trở nên gần gũi và cần thiết đó. Người muốn bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người để nuôi sống chúng ta hàng ngày.
Tình yêu Chúa Kitô làm nên sáng kiến tuyệt vời. Vì yêu thương hết mọi người, Chúa đã muốn trở nên bé nhỏ tầm thường trong thân phận một người thợ mộc ở Nazareth để có thể ở giữa mọi người, từ kẻ hèn cho đến người sang trọng, từ người thánh thiện cho đến kẻ tội lỗi, từ người Do thái cũng như dân ngoại. Để trở thành của ăn nuôi mọi người,Chúa đã muốn trở thành tấm bánh ly rượu. Chỉ khiêm tốn và giản dị thế thôi để mọi người có thể ăn, chứ không phải là một bữa ăn đắt giá dành cho bậc quyền quý sang giàu.
Khi sinh ra đời, Chúa đã chọn cái chuồng bò. Khi sống ở Nazareth Chúa đã muốn làm một người thợ giữa những người lao động khác. Khi bắt đầu rao giảng tin mừng, Chúa đã chọn những người tầm thường trong xã hội làm bạn đồng hành, làm bạn tâm phúc thừa kế sự nghiệp. Trong giờ sau hết, Chúa đã chọn tấm bánh ly rượu, chọn khung cảnh một bàn ăn giữa bạn bè, chọn một tư gia để Tạ Ơn, trong đó người vừa là chủ tế vừa là của lễ. Và Chúa muốn Giáo Hội tiếp tục lễ Tạ Ơn theo cách thức của Người bằng những phương tiện đơn sơ là tấm bánh ly rượu.
Chỉ cần một bông lúa, một chùm nho đủ làm nên tấm bánh ly rượu. Không cần cái gì cao sang đắt giá, to lớn như con bò, con bê, con cừu mà đạo Do thái vẫn tế lễ trong đền thờ. Với tấm bánh ly rượu, Chúa Giêsu còn muốn cho của lễ Tạ Ơn phải chính là sản phẩm hoa màu ruộng đất, lao công con người, của ăn thức uống căn bản và phổ biến nhất của con người.
Chúa Giêsu là bông lúa, là chùm nho mọc lên từ ruộng đất thế gian, nơi Người nhập thể làm người. Người đã biến đổi trong thân thể Người là Con Thiên Chúa và cũng là con loài người tất cả tinh hoa của ruộng đất, trở thành bông lúa chùm nho. Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Chối từ cám dỗ của Satan hoá đá thành bánh, nhưng Chúa Giêsu đã tự ý biến đổi đời mình thánh Tấm Bánh để nuôi dưỡng con người.
“Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống”. Chắc hẳn không ai hiểu câu nói này theo kiểu các yêu tinh muốn ăn thịt Đường Tăng, trong truyện Tôn Ngộ Không. Yêu tinh quyết tâm bắt cho được Đường Tam Tạng để ăn thịt. Nó tin rằng ăn thịt vị cao tăng này thì sẽ được trường sinh bất tử.Tôi nghĩ rằng giả như có ai giết Chúa Giêsu để ăn thịt Người (theo kiểu các yêu tinh ăn thịt Đường Tăng) thì người ấy vẫn chết như thường,và về mặt tâm linh thì cũng chẳng được ích lợi gì. Vì câu nói“Thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” của Chúa Giêsu không thể hiểu theo nghĩa vật chất. “Thịt và Máu” ở đây không phải là thịt và máu huyết vật chất. “Của ăn và của uống” ở đây cũng không phải là của ăn và của uống vật chất. Những từ đó phải hiểu theo nghĩa tâm linh. Chúa Giêsu chính là lương thực đem lại sự sống và sự phát triển tâm linh thật sự.
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Người vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Người đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh thể để lễ vật bị sát tế ấy trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người.
Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.
Thánh thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước, Máu của Đấng Cứu Thế đổ ra trên thập giá. Bởi đó Thánh thể và Thánh giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh giá, Thánh thể không có ý nghĩa. Không có Thánh thể, Thánh giá chỉ là thất bại.
Thánh thể và Thánh giá Chúa Kitô là hai cớ vấp phạm cho trí tuệ con người hơn 20 thế kỷ qua. Thánh giá Đức Kitô là sự điên rồ đối với người Hy lạp đi tìm sự khôn ngoan, là dại dột đối với người Do thái tìm dấu lạ và mãi mãi là mầu nhiệm thẳm sâu với lý trí.
Thánh thể, bánh rượu nên Mình và Máu Chúa Kitô. Sự hiện đích thực của Con Thiên Chúa, làm lương thực vĩnh cửu là mầu nhiệm khó hiểu đối với đầu óc con người không có niềm tin. Khi nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Thịt Ta là của ăn, Máu Ta là của uống cho sự sống muôn đời”, người Do thái phản ứng rất mạnh: “Làm sao ông có thể lấy thịt máu của ông cho chúng tôi ăn được?” (Ga 6,52); ”Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” (Ga 6,42). Trước phản ứng dữ dội của họ, Chúa Giêsu không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm “Ai ăn thịt và uống máu Tôi,thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết” (Ga 6,54); sâu xa hơn là con người được đi vào sự kết hiệp mật thiết với Người: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56). Trước mạc khải này, nhiều môn đệ liền nói: “Lời này chướng tai qua, ai mà nghe nổi?” (Ga 6,60). Từ lúc đó, “Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa” (Ga 6,66).
Như thế, người ta chỉ nhìn nhận Chúa Giêsu về phương diện con người, phủ nhận bản tính Thiên Chúa của Người. Chúa Giêsu cho dân chúng và các môn đệ thấy rõ mầu nhiệm Phục sinh trong Bánh Hằng Sống “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống.Thần khí mới làm cho sống,chứ xác thịt có ích gì” (Ga 6,63). Quả thật, chúng ta chỉ có thể hiểu được Bí tích Thánh thể qua mầu nhiệm Nhập Thể, Tử Nạn, Phục Sinh mà thôi.
Vậy có thể nói, cả mầu nhiệm Đức Kitô đều hội tụ trong Bí tích Thánh thể. Từ công cuộc nhập thể làm người, rao giảng tin mừng, đến khổ hình thập giá, sống lại vinh quang; Đức Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha và ban lương thực thần thiêng đều hàm chứa trong Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh thể gói trọn cuộc đời Chúa Kitô và không có gì thuộc về Người mà không hội tụ trong Bí Tích Thánh Thể.
Từ Thánh giá đến Thánh thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh giá đến tình yêu Thánh thể. Bí tích Thánh thể là một sáng kiến của tình thương Thiên Chúa. Của ăn vật chất chỉ dừng lại ở việc nuôi dưỡng, bảo tồn sự sống hữu hạn của con người. Để sống đời đời, con người được mời gọi ăn và uống Thịt Máu Chúa, nguồn ơn cứu độ nhân loại.
Đất nước đá cũng như bánh và rượu là những thực tại tầm thường trong cuộc sống, nhưng một khi đã gắn với lịch sử cứu độ là nó trở nên những điều kỳ diệu.
Cuộc sống chúng ta với Thiên Chúa cũng thế. Sống đời sống thiêng liêng, siêu nhiên một cách tự nhiên. Sống đời sống tự nhiên một cách thiêng liêng, siêu nhiên.
Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa đã cho con hàng ngày được ăn một miếng Bánh đơn sơ, nhỏ bé để con được kết hợp mật thiết với Thiên Chúa Vô Cùng. Xin cho cho tâm hồn con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen.
Có nhiều biến ngữ bởi vì những con người, chúng ta nhìn lại giá trị của bàn tiệc mà Chúa Giêsu mời gọi và từ đó nhận ra việc cử hành bữa tiệc:
Bàn tiệc Giao hòa:
“Có người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giêsu dùng bữa với mình. Đức Giêsu đến nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn. Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.” (Lc 7, 36 – 38)
Có phải chăng bàn ăn là để mua chuộc sự tha lỗi, chúng ta có thể thường suy nghĩ như vậy và hành sự như thế. Để tiến tới một bàn tiệc giao hòa, trước tiên hối nhân cần nhìn ra mình là người tội lỗi, như trường hợp của Gia Kêu, như trường hợp của những người biệt phái, thu thuế, Pha – ri – sêu, những người tội lỗi:
Đức Giêsu đang nói, thì có một ông Pha-ri-sêu mời Người đến nhà dùng bữa. Tới nơi, Người liền vào bàn ăn. (Lc 11, 37)
Một ngày sa-bát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa (Lc 14, 1)
Khi Đức Giêsu đang dùng bữa tại nhà ông ấy, có nhiều người thu thuế và tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. (Mt 9, 10)
Những kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu thấy Người ăn uống với những kẻ tội lỗi và người thu thuế, thì nói với các môn đệ Người: “Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi! ” (Mc 2, 16).
Bàn tiệc giao hòa cũng là bàn tiệc Thánh Thể, trong bàn tiệc này, đối với những người không mắc tội trọng, họ cần được đón nhận để chữa lành các tội nhẹ và tăng sinh lực chống trả những cám dỗ của lỗi nặng. Đón nhận Chúa trong bí tich Thánh Thể, bởi vì Chúa muốn đến nơi ngôi nhà tâm hồn của người đón nhận. Dù sao đi nữa đón nhận Chúa vào cư ngụ trong ngôi nhà tâm hồn con người chẳng bao giờ con người dám nói là xứng đang nhưng chỉ xin Chúa và lòng thương xót của Người đến cư ngụ.
Thứ đến việc giao hòa và sự thành tâm trở về:
“Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông! ” Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ! ” Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Đức Giêsu mới nói về ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” (Lc 19, 5 – 10)
Bàn tiệc giao hòa chủ đích là biểu lộ niềm vui của con người được cứu độ:
“Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9, 13)
Tiệc đãi khỏan mừng không theo cách của người đời, Chúa Giêsu đến dự tiệc để chung vui với niềm vui của con người khi được hóan cải. Việc hóan cải không ngừng cũng là lời mời gọi đối với người đón nhận Bí Tích Thánh Thể, Ngài hiện diện cách thực sự cả hồn lẫn xác với thân thể Phục Sinh, Ngài đến nhà chúng ta như xưa đã đến nhà ông Giakêu, Matthêu, những người tội lỗi. Ngài đến để chữa lành, để kêu gọi những người tội lỗi. Chính vì thế, đón nhận Chúa là hóan cải không ngừng, được đổi mới không ngừng.
Bữa tiệc của những tấm lòng khiêm cung:
Trước long nhan, đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: “Xin mời ông lên trên!”còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng. (Cn 25, 6-7).
“Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 14, 7 – 11)
Người ta thường quan trọng chỗ ngồi trong bữa ăn, chỗ ngồi quan trọng vì người ngồi hay người ngồi vì chỗ quan trọng. Đôi khi, phân biệt cũng làm ra những tách biệt, đánh mất giá trị của sự hiện diện, ý nghĩa của bữa tiệc: “Chúa Giêsu đồng bàn với những kẻ tội lỗi” (Mt 9, 11). Sự phân biệt đã tạo ra sự tách biệt nên thường xảy ra những tranh giành “Một miếng giữa làng hơn cả sàng xó bếp”, bữa tiệc trở thành nơi đua nhau vào chỗ danh giá, bàn tiệc trở thành nơi quảng bá sự giàu có của chủ nhân “giàu sang sinh lễ nghĩa”, đánh mất nội dung của những bữa tiệc tình thân nối kết với nhau.
Bữa tiệc khiêm cung Chúa Giêsu muốn làm gương cho mọi người “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1 Ga 3, 16). Mỗi người tự chết nơi mình một ít khi đến với nhau mời có thể làm nên một bữa tiệc hiệp thông. Đó là nơi chia sẻ tình thân chứ không là nơi để hơn thua với nhau như đã từng làm, từng xảy ra.
Tiệc cưới:
“Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình” (Mt 22, 1).
“Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa!” (Lc 12, 15)
Nước Trời được sánh ví như tiệc cưới, trong đó con người được dự vào bàn tiệc “Chiên con” và nhờ đó “Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7, 14).
Như vậy, bữa tiệc Nước Trời mà con người được mời gọi tham dự là tham dự vào sự chết – sự sống của Đức Giêsu Kitô – đồng hình đồng dạng với Ngài – Từ bỏ chính mình và vác thập giá mình theo Chúa. Từ bàn tiệc cưới Nước Trời thiên quốc con người được mời gọi hưởng nếm bàn tiệc Thánh Thể trong Giáo Hội lữ hành để vững bước tiến về thiên quốc.
Bàn tiệc bác ái:
Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” (Lc 14, 12 – 14).
Trong những lời nguyện của Mẹ Têrêsa Calcutta, Mẹ đãnói: “Khi bạn chiêm ngưỡng Thánh Giá, bạn cảm nghiệm Thiên Chúa đã yêu thương bạn dường bao. Khi bạnchiêm ngưỡng Chúa trong Bí Tích Thánh Thể, bạn cảm nghiệm Thiến Chúa đang yêu bạn dường nào”. Thực tại, của bàn tiệc Thánh Thể và chiêm ngưỡng Thánh Thể là diễn tiến trong thì hiện tại. Ở bên Chúa, chiêm ngưỡng Chúa hiệndiện trong Bí tích thánh Thể, ước muốn mãnh liệt nhất là được Chúa lôi cuốn trong hiện tại, mọi sự đã qua, Chúa đã quên mất, mọi vịêc tương lai sắp tới, tùy tuộc vào Ngài, chỉ có hiện tại, con người đáng được Chúa yêu thương. Chính những giây phút hiện tại này mà mẹ Têrêsa đã gặp Chúa trong những người tội lỗi, nơi những con người bị bỏ rơi trong những thân phận thấp hèn. Hiện tại là những thực tại đau thương, quên mất những quá khứ lầm lỗi, chỉ thấy hiện tại cần trợ giúp để tương lai của họ thuộc về Chúa.
Bí tích Thánh Thể mở ra cho con người chiêm ngắm sự cao cả của Thiên Chúa, để con người cũng sống với nhau bằng tình yêu phó nộp ấy.
“Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy. Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác. (Lc 6, 28 – 35).
Bàn tiệc Lazaro. (Lc 16, 20 – 31)
“Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm! Ông Áp-ra-ham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.
“Ông nhà giàu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này! Ông Áp-ra-ham đáp: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó. Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối. Ông Áp-ra-ham đáp: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.”
Sự kiện của người giàu có bởi vì không phải tội giàu của ông, nhưng giàu có để chia sẻ cho người khác, chứ không thu tích cho mình và rồi trở nên án phạt.
Bí tích Thánh Thể là được diễn tả sự phong nhiêu như cách Gioan trình bày, phép lạ bánh ra nhiều. Cần có để cho chứ không để tích trữ riêng cho mình. Có nhiều như trong phép lạ bánh ra nhiều lại khởi sự từ cái ít. Vài chiếc bánh, vài con cá, nhưng có tấm lòng, người có tấm lòng trao ban những gì mình có cho người khác là bắt đầu để cho Chúa thực hiện những phép lạ.
Thực ra, khi tham dự cử hành Bí Tích Thánh Thể, chúng ta có thể nghiệm ra nhiều điều trong sự sống phong nhiêu, bắt nguồn từ hành vi cơ bản và đơn giản. Đó hành vi cử hành. Cử hành là một cách làm việc mới với tâm tình hiến dâng, người ta có thể hiến dâng rất nhiều từ những lao tác thường ngày như chất liệu từ bao giọt mồ hôi làm nên tấm bánh miến, từ bao lao công làm nên chén rượu để được biến đổi. Chúng ta đừng làm việc như công việc phải làm, hãy hòan thành công việc như đang cử hành, không có những bàn thờ tại cơ xưởng, nơi làm việc trong gia đình, sẽ không có bàn tiệc dâng trên bàn thánh. Chúng ta sẽ nhận ra rõ ràng dấu chỉ của bí tích mà chúng ta tuyên xưng: “đây là mầu nhiệm đức tin”, đó là một thực tại đang được biến đổi, nếu chúng ta sống tất cả như việc cử hành.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầm bánh trong tay và nói trước mặt các môn đệ: “Đây là Mình Thầy”, lập tức mọi người hiểu rằng tấm bánh kia là thân thể Chúa, nghĩa là tấm bánh kia, bên ngoài có hình thù, mầu sắc, hương vị của bánh nhưng bản thể của bánh đã biến sang bản thể của Thiên Chúa. Làm sao có thể như thế được? Đối với Thiên Chúa thì không thành vấn đề, bởi vì Thiên Chúa đã từng làm cho có man-na đầy tràn ở trong hoang địa, và nước trở thành rượu ngon ở tiệc cưới Ca-na, thì việc biến bánh ra Mình Chúa đối với Chúa là chuyện dễ dàng, dễ dàng đến độ Ngài chỉ cần một lời nói “Đây là Mình Thầy”. Có ai trong chúng ta dám nói tôi là thế này tôi là thế nọ không? thí dụ: “Tôi là ánh sáng”. Chúng ta chỉ có thể nói: “Tôi có ánh sáng” hay “tôi chế ra ánh sáng La-de”, chứ không ai có thể nói: “Tôi là ánh sáng”. Chỉ có Thiên Chúa, Đấng tạo dựng ra ánh sáng, mới có nền tảng mà tuyên bố “Tôi là ánh sáng”. Cho nên, khi Chúa nói: “Đây là Mình Thầy” là một câu nói quả quyết, một câu nói quả quyết sự đồng nhất.
Một số người chối bí tích Thánh Thể đã cho rằng: câu Chúa nói “Đây là Mình Thầy” chỉ có ý nghĩa tượng trưng, ám chỉ một việc khác. Chúng ta có thể trả lời như sau: Để có ý nghĩa tượng trưng, phải có một trong bốn ý sau đây: Thứ nhất, một cái gì tượng trưng rõ ràng, chẳng hạn khi chúng ta chỉ vào pho tượng thánh Giuse mà nói: “Đây là thánh Giuse”. Thứ hai, một kiểu nói dụ ngôn, chẳng hạn như hạt giống gieo là lời Chúa. Thứ ba, một ý nghĩa tượng trưng tự nó, chẳng hạn như tre trúc trượng trưng cho lòng ngay thẳng, bông huệ tượng trưng cho sự trinh khiết. Thứ tư, một bản văn ám chỉ tới một chuyện khác, chẳng hạn I-sa-ác ám chỉ Chúa Giêsu. Lời truyền phép của Chúa Giêsu không ở trong bốn trường hợp đó. Tự bản chất và công dụng của bánh không bao giờ ám chỉ đến thân thể. Chúa cũng không cắt nghĩa gì thêm, vì quá rõ ràng, đến nỗi người Do Thái lấy làm chướng tai, không nghe được và bỏ đi. Trong Cựu Ước cũng như Tân Ước không bao giờ dùng tấm bánh để ám chỉ về người ta, cho nên, câu Chúa nói “Đây là Mình Thầy” phải hiểu là một chân lý quyền năng của Chúa.
Như vậy, câu Chúa nói “Đây là Mình Thầy” là Chúa lập bí tích Thánh Thể. Đây là điều chắn chắn, là chân lý tuyệt đối, nhắc nhở chúng ta những điều quan trọng sau đây:
Thứ nhất, Chúa Kitô hiện diện thật sự trong phép Thánh Thể. Chúa Kitô ở trong phép Thánh Thể là Chúa Kitô vinh hiển, nhân tính Ngài hiện diện trong bí tích đó không còn đau khổ, buồn phiền, cô đơn nữa. Những kiểu nói Ngài cô đơn, vắng lặng trong nhà tạm chỉ là để nhắc nhở thái độ dễ vô ơn, thờ ơ và xa vắng của chúng ta đối với Chúa.
Thứ hai, Chúa Kitô hiện diện trong phép Thánh Thể là trạng thái hết sức khiêm hạ vì thương yêu loài người. Chúa âm thầm tự trở nên một tù nhân giữa loài người. Phải có một tình yêu cao độ chúng ta mới hiểu được sự ở lại trong khiêm hạ này. Cũng trong sự khiêm hạ âm thầm này mà có biết bao phạm thượng, lộng ngôn xúc phạm đến Chúa qua bao thế hệ. Đó cũng là lý do nữa nhắc nhở chúng ta thêm lòng kính mến, tôn thờ bí tích Tình yêu tột đỉnh này.
Thứ ba, Chúa Kitô với hai bản tính đều ở trong bánh và rượu. Ở mỗi hình thái đều có đủ Chúa Kitô thật. Nhưng chúng ta nên nhớ: Chúa Kitô ở trong hình thái bánh rượu không còn lệ thuộc vào không gian, thời gian hay trương độ, trọng lượng như xác thịt người phàm nữa. Ngài ngự trong hình bánh rượu, Ngài nghe, biết, thấy chúng ta cầu nguyện, không bằng con mắt xác thịt như chúng ta mà bằng thần tính của Thiên Chúa. Cho nên, chúng ta hãy siêng năng đến cầu nguyện với Chúa trong Thánh Thể.
Chúng ta hãy nhớ và thực hành hai điều sau: Thứ nhất, mỗi khi tham dự thánh lễ, chúng ta hãy cố gắng rước lễ, bởi vì chả lẽ đi dự tiệc mà lại không ăn tiệc? Chúng ta phải chuẩn bị chu đáo để rước lễ. Nhưng cũng đừng vì một đôi khuyết điểm hay yếu đuối nhỏ mà chúng ta nghĩ rằng mình không xứng đáng rước Chúa. Thật ra khi rước lễ, tình yêu chúng ta dành cho Chúa Giêsu đủ để Ngài tha thứ những tội nhẹ và khuyết điểm của chúng ta.Thứ hai, ngoài thánh lễ, Chúa vẫn ở với chúng ta trong nhà tạm Vì thế, mỗi khi vào nhà thờ chúng ta hãy ý thức sự hiện diện của Chúa, chúng ta cúi đầu hay bái gối với một lòng biết ơn và kính trọng, rồi chúng ta bắt đầu cầu nguyện với một lòng tin sâu xa: Chúa Kitô đang hiện diện thực sự trước chúng ta, đang lắng nghe chúng ta, đang muốn ban ơn cho chúng ta.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn