Lời Chúa: 1V. 3, 5.7-12; Rm. 8, 28-30; Mt. 13, 44-52
MỤC LỤC
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Chủ đề lời Chúa hôm nay: chọn nước Trời hơn hết mọi sự, là khôn ngoan nhất.
Bài đọc I (1V. 3, 5. 7-12) cho ta thấy: Vua Salômon đã tự nhận mình là đứa bé nhỏ, chưa biết ngõ ra lối vào, làm sao dám cầm quyền cai trị nước. Ông hoàn toàn cậy trông, cầu xin Chúa ban cho ông tâm hồn biết lắng nghe để nghe Chúa dậy dỗ, chỉ bảo mới có sức cai trị dân Ngài. Ông đã khiêm tốn thiện chí chọn theo ý Chúa. Chọn Chúa là chọn lối sống nước Trời hơn đời sống trường thọ trần gian, hơn sống giàu sang của cải, hơn sự chiến thắng kẻ thù, hơn lên ngôi đế quốc cai trị muôn dân. Chính vì chọn nước Trời, chọn theo ý Thiên Chúa, ông đã được khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ông chẳng ai sánh bằng, và sau ông chẳng ai bì kịp. Quả thật, khôn ngoan của ông là khôn ngoan của Thiên Chúa chứ không phải của loài người.
Trong Bài Tin mừng, Chúa Giêsu ví nước Trời như kho tàng quý báu, quý giá hơn mọi của cải, hơn mọi danh vọng, mọi phước lộc của trần gian. Cho nên người khôn ngoan sẵn sàng đánh đổi hết mọi sự, mọi lời lãi cả thế gian này để mua sắm nước Trời cho bằng được, vì có nước Trời, ta mới được sống trường sinh vĩnh phúc. Chính Đức Giêsu đã nói cho ta thấy rõ: “Dù được lời lãi cả thế gian, mất mạng sống mình nào được ích gì”.
Nước Trời như viên ngọc quý. Ngọc quý là ngọc có đủ mọi màu sắc lóng lánh rực rỡ, chiếu tỏa muôn ánh hào quang sang trọng, chứng tỏ vinh quang lạ lùng của nước Trời, không một vinh quang trần gian nào sánh kịp. Muôn ngàn lễ đăng quang hào nhoáng hay quốc khánh long trọng của trần gian cũng chỉ là tạm bợ, phút chốc tiêu tan như mây khói, đâu có thể so sánh được lễ đăng quang về nước Trời vĩnh phúc muôn thuở của một linh hồn lành thánh! Những linh hồn được hưởng hạnh phúc trong nước Trời, đó là những cá tốt, còn những cá xấu, những kẻ dữ, thật kinh khủng! chúng bị quẳng vào lò lửa, ở đó chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng ghê sợ muôn đời.
Phúc cho ta vô cùng khi biết chọn Nước Trời, bằng ngay từ bây giờ ta biết chọn lắng nghe lời Chúa như vua Salomon, như những vị kinh sư biết siêng năng, học hỏi, suy ngẫm, chọn lọc sống theo những lời Chúa trong pho sách Thánh Kinh Cựu Ước cũng như Tân Ước.
Thật sự Thiên Chúa đã định liệu cho những ai yêu mến sống theo Lời Ngài được nên công chính, được nên đồng dạng với Chúa Kitô, Con của Ngài, được hưởng phúc vinh quang muôn thuở (Bài II – Rm. 8, 28-30)
Con người luôn luôn tìm kiếm hạnh phúc, và Đấng là nguồn mạch mọi ơn phúc. Thiên Chúa muốn chia sẻ vinh quang ấy cho con người. Chính con người cũng không biết mình được dựng nên để vui hưởng vinh quang với Thiên Chúa. Theo thánh Phaolô thì Thiên Chúa biết chúng ta từ thủa đời đời; khi được tạo thành, Ngài đã gọi tên ta. Theo nghĩa Thánh Kinh, Thiên Chúa biết chúng ta bằng cả tấm lòng, Ngài cưu mang chúng ta trong lòng Ngài, như một người mẹ biết con mình khi cưu mang con trong dạ. Thiên Chúa muốn thông ban người vinh quang đã có tự đời đời cho con người. Vinh quang này được sánh như một kho báu hay một viên ngọc quí trong Tin Mừng.
Nước Trời, là chủ để hạnh phúc chúng ta tìm kiếm, đôi khi có thể được tìm thấy một cách tình cờ, như người kia tìm được kho tàng khi cày ruộng. Nó cũng có thể là kết quả của cuộc tìm kiếm lâu dài, như người buôn nọ đi tìm ngọc quý (Mt 13, 45). Và khi đã tìm được kho tàng, hay viên ngọc quý rồi, điều trước tiên như Chúa Giêsu nói là bán hết những gì đang có, để mua bằng được kho tàng và viên ngọc.
Với các dụ ngôn Hạt cải và Men, Người cho thấy rằng một khởi đầu bé nhỏ không loại trừ một sức phát triển to lớn và một khả năng đạt hiệu quả lớn lao. Các dụ ngôn Cỏ lùng giữa lúa tốt và Lưới cá cho thấy rằng vẫn còn tình trạng người tốt kẻ xấu ở bên nhau, nhưng không kéo dài vĩnh viễn. Giá trị cao vời của Nước Trời, niềm vui vô biên đi liền với việc khám phá ra giá trị ấy và sự dấn thân phải có khi đã thuộc về Nước Trời, tất cả những điểm này đều được làm sáng tỏ xuyên qua các dụ ngôn Kho báu và Ngọc quý. Chúa Giêsu muốn loại bỏ các hiểu lầm và giúp các thính giả có lối sống thanh thoát thích hợp.
Hình ảnh viên ngọc quí và hình ảnh chủ ruộng là hình ảnh của khôn ngoan. Chỉ người khôn ngoan mới có khả năng tậu viên ngọc và có tiền làm chủ ruộng. Đại đa số đều làm thuê, công nhân. Viên ngọc quí và kho tàng chôn trong ruộng là hai hình ảnh Đức Kitô dùng chỉ về nước trời. Người giầu có là người có Lời Chúa làm chủ cuộc đời. Người khôn ngoan là người được Lời Chúa soi sáng trong đời.
Dụ ngôn “kho báu giấu ở thửa ruộng” và “viên ngọc quý” diễn tả sự cao trọng, sự vô giá của Nước Trời, mà không có cái gì, không có vàng bạc hay tài năng nào sánh được. “Kho báu” và ‘viên ngọc quý” ở đây là chính Chúa Giêsu Kitô, Ngài là đối tượng lớn nhất, là niềm vui, là hạnh phúc để chúng ta tìm kiếm và sở hữu. Không có gì đẹp hơn, bởi được tìm biết Đức Kitô, có Ngài chúng ta có tất cả! Nói như Thánh Phaolô hôm nay là: trong Người, chúng ta “những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh”, trở nên giống với hình ảnh Chúa Con, trở nên giống Đức Kitô. Như thế, lời mời gọi nên thánh chính là trở nên giống Đức Kitô, sống theo Đức Kitô.
Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết rằng, kho báu thật sự, hạnh phúc thật sự mà con người cần tìm kiếm chính là Nước Trời. Thật vậy, Nước Trời là một viên ngọc quý, một kho tàng vô giá mà bất cứ ai có được quả là may mắn và hạnh phúc. Đối với Thiên Chúa, họ là những người khôn ngoan và giàu có, cho dù trong con mắt của thế gian, họ có vẻ điên rồ và nghèo khó.
Nước Trời không phải là một ảo tưởng. Nước Trời đem lại cho con người sự bình an trong tâm hồn, niềm vui trong trí tuệ và vẻ đẹp trong cuộc sống này, vì nó giải phóng chúng ta khỏi mọi sự mê hoặc của những kho tàng dưới đất, nhờ một niềm xác tín về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, cũng như nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trọn vẹn trên Quê Trời.
Đời sống chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có Thiên Chúa. Mối liên hệ chặt chẽ với Thiên Chúa chính là một kho tàng thật sự. Nhờ đó chúng ta biết mình sẽ đi về đâu, cùng đích của đời sống chúng ta là gì. Vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho chúng ta điều chúng ta hằng khao khát kiếm tìm. Có Thiên Chúa là có tất cả, nếu chúng ta tin (Mc 9, 23; 10, 27).
Muốn được Lời Chúa làm chủ cuộc đời người đó cần bán bỏ tất cả những chủ khác để chọn một chủ duy nhất. Chọn như thế anh sẽ một lòng trung thành với chủ. Đầy tớ trung thành với chủ là đầy tớ khôn ngoan. Khôn ngoan không phải do anh học được mà do giáo huấn chủ giáo dục, hướng dẫn biến anh trở thành người đầy tớ khôn ngoan. Nói cách khác khôn ngoan anh có được là do chủ ban cho. Anh giàu có không phải vì miếng ruộng, mảnh vườn. Anh giàu có vì gia tài anh có không bị mối mọt đục khoét, không hư hao, mất giá vì thời gian.
Tin Mừng nhắc đến dụ ngôn người tìm được kho tàng chôn giấu anh ta bán hết mọi sự tìm mua thửa ruộng đó. Kho tàng đây không phải của người mù chôn dấu. Kho tàng Đức Kitô muốn nói tới là kho tàng ai cũng nhìn thấy nhưng người tham của cải thế gian sẽ mù quáng không nhận ra. Chỉ những ai dám bán hết gia tài để mua mới nhận ra. Bán hết gia tài để được giầu hơn. Nghe có vẻ nghịch lí. Người ngoài nhận xét anh là chủ ruộng nghèo vì đã bán hết mọi sự. Ngoài ruộng ra anh còn chi. Thực tế anh giầu hơn không phải vì đất ruộng tăng giá. Anh giầu hơn vì anh có thửa ruộng cộng thêm kho tàng chôn dấu trong ruộng.
Như hai người trong Tin Mừng tìm kiếm kho báu và viên ngọc quí, tất cả chúng ta đều được mời gọi tìm kiếm Thiên Chúa như là kho báu, là viên ngọc quí, là mục đích tối hậu trong cuộc đời mình. Trong gia đình, chúng ta đừng đánh giá nhau chỉ dựa trên tiền bạc của cải. Các bạn trẻ đừng bao giờ nghĩ rằng, tình dục là tất cả để tìm kiếm, để hưởng thụ. Có một sự bận tâm cao hơn đó là “tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Trời”; có những giá trị còn lơn lao hơn, đó là hãy sống thánh thiện và tìm kiếm Thiên Chúa là chân thiện mỹ của đời ta.
Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta: Nước Trời là kho báu vĩ đại nhất, là viên ngọc quý giá nhất, chúng ta phải cố gắng, phải hy sinh để kiếm cho bằng được. Bởi vì đời là một dịp tiện, moi ngày sống là một dịp may, chúng ta có ý chí, tự do và khôn ngoan để lựa chọn. Vì thế, chiếm đoạt được Nước Trời hay không là do chính chúng ta.
Có một cha phó tại một họ đạo hẻo lánh rất say mê việc thám hiểm và nghiên cứu những di tích cổ còn sót lại trong các hang núi. Ngày kia, ngài đi với một em bé chăn cừu vào trong một hang núi, với chiếc đèn pin và mấy cây nến. Len lỏi giữa những vách đá, ngài đi vào, đi vào xa hơn nữa. Rồi bất chợt dưới ánh nến lung linh, ngài nhìn thấy những nét vẽ trên thành hang. Rồi xa hơn nữa, ngài thấy được những mảnh xương, dấu vết của con người đã sống tại đây hàng ngàn năm về trước. Bốn giờ sáng chuông nhất. Giáo dân chờ đợi và lo lắng. Rốt cuộc ngài đã trở về vào ban chiều. Cả một đêm thích thú và kinh ngạc giữa sự thinh lặng của hàng ngàn năm. Nhưng đây mới chỉ là một bước đầu. Suốt 50 năm kế tiếp, ngài đã hăng say theo đuổi công trình nghiên cứu, sao lại những bức tranh trên đá. Ngài đã trở thành một nhà chuyên môn về cổ sinh vật học, được mời dạy tại nhiều viện đại học. Từ tìm tòi này đến tìm tòi khác, ngài luôn luôn đi xa hơn.
Từ câu chuyện này, chúng ta đi vào dụ ngôn của lời Chúa. Có một bác nông phu nghèo, được chủ sai đi cày ruộng, trong lúc cày thì đất nẻ ra, con bò bị sụp xuống và gẫy mất một chân. Bác muốn kéo chân con bò lên thì chính lúc bấy giờ, mắt bác mở ra, bác đã nhìn thấy một kho tàng quý giá. Bác vui mừng lấp lại kho tàng rồi hối hả về nhà bán tất cả những gì bác có để mua thửa ruộng.
Cái tâm tình mà chúng ta dừng lại để suy nghĩ, đó là cái tâm tình vui mừng. Bác nông phu thực sự bị chấn động rụng rời tay chân vì sự khám phá của mình. Chúng ta thử tưởng tượng một chút, đây là một kho tàng quý giá. Cái tài sản nhỏ bé của bác sẽ chẳng thấm thía vào đâu. Bác sẽ bán hết, bác không có cảm tưởng nghèo đi, từ bỏ và mất mát, song trái lại là đàng khác, bác sẽ được cả kho tàng. Điều quan trọng của câu chuyện đó là cái bỡ ngỡ, mê man và sửng sốt của người gặp được kho tàng.
Thế nhưng, đối với chúng ta kho tàng quý giá ấy là gì? Tôi xin thưa đó là Tin Mừng Phúc Âm, hay nói cách khác đó chính là Đức Kitô. Chúng ta có vui mừng vì đã khám phá ra Ngài, vì đã tưởng nhớ đến Ngài hay không? Chúng ta có cố gắng để chiếm lấy Ngài, để được sống gắn bó mật thiết trong tình thương yêu của Ngài hay không? Chúng ta phải luôn mơ ước mua được thửa ruộng với sự ngạc nhiên khác thường và không ngừng làm tăng giá trị kho tàng có một không hai ấy. Không gì làm nản chí. Không gì làm chúng ta thoả mãn bởi vì chúng ta chờ đợi và mong muốn được gặp gỡ với Ngài. Cũng như cha phó tìm thấy cái hang núi bí mật. Cũng như bác nông phu khám phá ra kho tàng quý giá, đã dám đánh đổi cuộc đời và sản nghiệp của mình. Chúng ta cũng vậy. Đức Kitô, kho tàng quý giá như luôn hối thúc và lôi cuốn chúng ta ra khỏi cuộc sống tầm thường và nghèo nàn của mình. Thế nhưng chúng ta có đủ can đảm để dám liều, dám hy sinh, dám đánh đổi tất cả cho Ngài hay không?
Có một vị đạo sĩ Ấn Độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông, thì một người đàn ông giàu sang đến xin làm đệ tử. Ông rón rén đến bên vị đạo sĩ và đặt dưới chân nhà tu hành hai viên ngọc quý nhất để làm lễ ra mắt. Vị đạo sĩ không cần nhìn kỹ vào món quà, cầm lấy một viên ngọc và ném xuống dòng sông. Vì tiếc của, người đàn ông bèn lặn xuống để tìm lại cho bằng được viên ngọc. Nhưng lặn suốt cả một ngày mà cũng không tài nào tìm thấy.
Chiều đến, vừa mệt mỏi vừa chán chường, người đàn ông mon men đến gần vị đạo sĩ và năn nỉ: Ngài là người ném viên ngọc xuống dòng sông, xin ngài hãy chỉ cho biết chỗ nào để tôi lặn xuống hầu tìm lại. Vị đạo sĩ liền cầm lấy viên ngọc thứ hai và ném xuống dòng sông rồi nói: Đó, ta ném vào chỗ đó. Ngươi hãy lặn xuống mà tìm.
Cử chỉ của vị đạo sĩ biểu lộ một đòi hỏi gắt gao đối với những ai muốn xuất gia tu hành, đó là họ phải từ bỏ tất cả. Chúa Giêsu cũng đòi hỏi chúng ta một sự từ bỏ như vậy. Và chính Ngài đã thực hiện trước để chúng ta noi gương Ngài mà bắt chước. Con đường Ngài đi cũng là con đường của chúng ta, những người muốn bước theo Ngài. Chỉ có con đường ấy, chỉ có cuộc sống ấy và chỉ có cái chết ấy mới dẫn chúng ta tới cõi phúc trường sinh. Tất cả những ý tưởng trên đã được Ngài gói ghém qua đoạn Tin Mừng hôm nay với hai hình ảnh: kho tàng, viên ngọc. Hai hình ảnh trên có chung một kết luận, đó là anh lái buôn và bác nông phu, cả hai đều bán mọi sự mình có để mua thửa ruộng và viên ngọc.
Người đón nhận Nước Trời cũng cần phải từ bỏ nếp sống cũ để sống đời sống mới trong sự kết hợp với Chúa, cũng cần phải dấn thân để chiếm lấy Nước Trời, bởi vì được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi. Còn đối với chúng ta thì sao. Liệu chúng ta có dám liều, dám hy sinh tất cả để chiếm lấy Nước Trời? Hay chúng ta lại phản ứng như chàng thanh niên giàu có: chần chừ, so đo tính toán rồi lầm lũi cúi mặt bỏ đi. Anh không dám bán những gì anh sở hữu mà làm phúc bố thí cho người nghèo rồi bước theo Chúa. Anh không dám từ bỏ sự ổn định của cuộc sống hiện tại để đi theo Đấng mà không có lấy được một chỗ tựa đầu. Một cuộc phiêu lưu mạo hiểm hoàn toàn bấp bênh và vô định. Anh sợ rằng mình sẽ mất cả chì lẫn chài, cả vốn lẫn lãi.
Làm sao chúng ta có thể tin rằng Nước Trời là kho báu, là viên ngọc quý khi chúng ta vẫn còn bị giam hãm trong cái thế giới vật chất này, khi chúng ta còn quá quyến luyến và mắc míu vào tiền bạc, địa vị và lạc thú. Làm sao chúng ta có thể thoát ra khỏi cái cách thức đánh giá của người đời để cảm nghiệm được sự quý giá và siêu việt của Nước Trời.
Giả như Chúa Giêsu sống vào thời buổi hiện giờ, thì có lẽ đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đã có những hình ảnh khác. Thay vì nói về tay lái buôn đã hy sinh tất cả để mua cho được viên ngọc quý, hay bác nông dân bán cả gia sản để mua miếng đất cất giấu kho tàng, thì Ngài sẽ nói về một lực sĩ bơi lội, đang tham dự thế vận hội, bởi vì anh ta cũng đã phải sẵn sàng hy sinh tất cả, chấp nhận một chế độ kiêng khem và tập luyện nghiêm khắc, với hy vọng chiếm được tấm huy chương vàng.
Tại sao tôi đưa ra hình ảnh của anh chàng lực sĩ, bởi vì anh ta cũng có một điểm chung với tay buôn ngọc hay bác nông dân; đó là cả ba đã sẵn sàng hy sinh tất cả cho một mục đích mà họ đã đặt ra ở phía trước.
Điểm chung này dẫn chúng ta tới ý muốn của Chúa. Đó là muốn trở nên công dân Nước Trời, chúng ta phải dấn thân triệt để, chứ không thể thực hiện mục đích ấy như một việc ngoài giờ, như một việc phụ thuộc hay như một việc có tính cách tiêu khiển. Chúng ta phải đầu tư, phải dấn thân vào đó 100%, phải xem đó như nỗi ưu tư số một của cuộc đời chúng ta. Người Kitô hữu phải giống như tay buôn ngọc, bác nông dân hay anh chàng lực sĩ, bởi vì nó đòi hỏi một sự dấn thân trọn vẹn.
Tuy nhiên, có một điểm khác biệt giữa người Kitô hữu và ba người kia, như thánh Phaolô đã diễn tả: Một vận động viên trong thời kỳ tập luyện phải tuân theo kỷ luật nghiêm khắc, chỉ để được khoác lên đầu một vòng hoa vinh quang chóng tàn lụi, còn chúng ta chịu gian khổ là để đoạt được vinh quang tồn tại muôn đời. Đó là điểm khác biệt chính yếu.
Viên ngọc của tay lái buôn, kho tàng của bác nông dân, tấm huy chương của anh chàng lực sĩ, chỉ có giá trị trong một thời gian ngắn, bởi vì khi giờ chết đến, tất cả sẽ chẳng còn giá trị gì nữa. Có chăng thì chỉ là một phần di sản, một vật lưu niệm cho người còn sống. Nhưng chúng ta, những Kitô hữu thì khác, khi chết đi thì cửa Nước Trời sẽ mở rộng để chờ đón chúng ta.
Như thế, chủ đích của đoạn Tin Mừng hôm nay thật là quan trọng, bởi vì không gì trên thế gian có thể chiếm vai trò ưu tiên hơn Nước Chúa và sự theo đuổi của chúng ta để đạt cho được nước ấy. Bởi vì khi chết, thì điều đáng kể không phải là chúng ta đã mua sắm được những gì khi còn sống, mà là chúng ta đã trở nên một con người như thế nào. Chúng ta đã yêu thương nhau chưa? Chúng ta đã tha thứ cho nhau chưa? Chúng ta đã giúp đỡ kẻ túng thiếu chưa. Chúng ta đã an ủi kẻ đau khổ chưa? Chúng ta đã dấn thân và trung thành với Chúa và với nhau hay chưa? Với sự trợ giúp của ơn Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ làm được điều ấy. Bởi vì nếu không làm được điều ấy, chúng ta sẽ làm cho Chúa, cho gia đình và những người thân yêu thất vọng. Còn bản thân chúng ta kể như đã thất bại, đã thua lỗ trắng tay mất rồi.
Chủ đề chính của Lời Chúa hôm nay đề cập tới sự khôn ngoan: Khôn ngoan của vua Sa-lô-mon, khôn ngoan của người đi tìm kho báu và khôn ngoan của người đi tìm viên ngọc quí. Qua đó, Đức Giêsu muốn chúng ta dùng sự khôn ngoan Chúa ban để tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Bài đọc 1, kể lại câu chuyện của vua Sa-lô-môn. Ông được lên kế vị vua cha khi tuổi còn non trẻ. Ông đã cầu nguyện xin Thiên Chúa trợ giúp. Ông không xin cho được sống lâu, giàu có của cải, mạng sống quân thù, nhưng ông đã xin Thiên Chúa ban cho ông sự khôn ngoan để đoán xét dân Chúa, và để phân biệt lành dữ. Thiên Chúa đã nhận lời và ban cho ông sự khôn ngoan như lời ông xin, đến nỗi trước ông không có ai giống ông, và sau ông không có ai bằng ông. Sách các vua khẳng định: “Sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn trổi vượt hơn sự khôn ngoan của tất cả mọi người Phương Đông và hơn tất cả sự khôn ngoan của Ai-cập”(x. 1V 5, 10).
Bằng chứng của sự khôn ngoan đó được thể hiện rõ qua câu chuyện xử kiện sau đây: Có hai người đàn bà tới tìm Sa-lô-môn nhờ giải quyết một chuyện khó xử. Một người trong họ giải thích: “Bà này với tôi sống chung một nhà. Tôi sinh được một con trai, và hai ngày sau bà này cũng sinh được một con trai. Rồi một đêm nọ con bà chết. Nhưng khi tôi đang ngủ bà bồng đứa con chết bỏ xuống bên cạnh tôi và bồng con tôi đi. Khi tôi thức dậy và nhìn đứa con chết thì thấy nó không phải là con tôi.”
Nghe tới đây người đàn bà kia nói: “Không phải vậy! Đứa con sống là con tôi, và đứa chết là con bà ấy!” Người đàn bà thứ nhất đáp: “Không phải vậy! Đứa con chết là con bà, đứa sống là con tôi!” Hai người đàn bà cứ cãi nhau như vậy. Sa-lô-môn sẽ làm gì đây?
Ông bảo đem lại một thanh gươm, và khi người ta đem gươm lại thì ông nói: “Hãy xẻ đứa bé sống này ra làm hai, và giao cho mỗi bà một nửa!”
Người mẹ thật la lên: “Khoan, khoan! Xin đừng giết đứa nhỏ. Hãy giao nó cho bà kia!” Nhưng người đàn bà kia nói: “Đừng giao nó cho bà này hay tôi gì cả; cứ việc xẻ nó ra làm hai đi.”
Cuối cùng Sa-lô-môn nói: “Chớ giết đứa bé! Hãy giao nó cho bà thứ nhất. Bà ấy mới là mẹ thật của nó.” Sa-lô-môn biết được điều này vì người mẹ thật yêu đứa bé đến nỗi sẵn sàng nhường nó lại cho người đàn bà kia miễn là nó được sống. Khi dân chúng nghe thấy cách Sa-lô-môn phân giải vụ khó xử này, họ rất vui mừng vì có được một vị vua khôn ngoan như thế. (x. 1V 3, 16-28).
Câu chuyện xử kiện trên đây cũng như cách xử sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn được đồn đi rất xa, nên từ mọi dân tộc, thiên hạ kéo tới học hỏi sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn (x. 1V 5,14), trong đó có nữ hoàng Sơ-va (x.1V10,1-13). Nhưng sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn cũng chỉ được một thời. Cuối đời, ông đã sống thiếu khôn ngoan. Ông theo các bà vợ ngoại giáo, ngã theo các thần dân ngoại, không còn chung thủy với Thiên Chúa như phụ vương Đa-vít nữa (x. 1V 11,1-8).
Bài Tin mừng hôm nay kể lại ba dụ ngôn: dụ ngôn chiếc lưới có nội dung tương tự như dụ ngôn cỏ lùng mà chúng ta đã tìm hiểu Chúa nhật tuần trước.
Hai dụ ngôn kho báu và ngọc quý có nội dung tương tự như nhau: Khi tìm được, cả hai về bán tất cả những gì mình có để mua cho được kho báu hay viên ngọc quý đó. Đây là thái độ bình thường của người khôn ngoan theo lẽ tự nhiên. Vì xác định được rằng: có được kho báu hay viên ngọc quý sẽ có niềm vui và hạnh phúc, cho nên cả hai người đều quyết định bán hết tất cả những gì mình có để mua cho được kho báu hay viên ngọc quý đó.
Thế nhưng cho dù có chiếm được kho báu và viên ngọc quý thì chúng cũng chỉ là phương tiện để phục vụ con người, làm cho con người vui hưởng hạnh phúc trong một thời gian nào đó mà thôi. Vì thế, điều mà Đức Giêsu muốn chúng ta nhắm tới không phải là sự khôn ngoan tự nhiên, cũng không phải là ở nơi kho báu hay viên ngọc quý nhưng là một cái gì đó cao cả và bền vững hơn. Đó chính là Nước Trời. Bởi vì, chỉ có Nước Trời mới thỏa mãn mọi khát vọng của con người. Chỉ có Nước Trời mới đem lại cho chúng ta hạnh phúc trường cửu. Như vậy, Nước Trời chính là thứ quý giá nhất không có gì có thể đổi chác được. Cho dù chúng ta có tất cả mọi thứ trên đời này thì cũng không thể đổi được Nước Trời. Và nếu có được mọi sự ở đời này mà không có Nước Trời thì cũng bằng không. Đức Giêsu đã từng nói: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào có ích gì”(Mt 16,26). Chính vì thế, khi biết được Đức Giêsu, biết được Nước Trời, Thánh Phaolô đã chấp nhận mất tất cả mọi thứ ở đời này để giữ lấy cho được Đức Giêsu, giữ lấy cho được Nước Trời. Trong thư Philiphê, Ngài nói: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Ngài” (x. Pl 3,8-9).
Vì Nước Trời quan trọng như vậy, nên Đức Giêsu mời gọi chúng ta: “Trước tiên hãy lo tìm nước trời rồi mọi sự Ngài sẽ lo cho sau” (Mt 6,33). Cho nên, bổn phận trước tiên của mỗi người kitô hữu chúng ta là phải lo tìm kiếm Nước Trời, phải chiếm cho được Nước Trời. Nhưng làm thế nào để chiếm được Nước Trời? Chính Đức Giêsu đã nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). “Ý muốn của Cha Thầy” ở đây chính là “Lời của Ngài”. Lời của Chúa chứa đựng trong cuốn Kinh Thánh, nhất là những Giáo huấn của Đức Giêsu được thể hiện qua Tin mừng, qua Mười điều răn, qua giáo huấn của Hội Thánh. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể thực hiện ý muốn của Chúa qua tiếng nói lương tâm.
Đức Giêsu còn nói: “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được.”(x. Mt 11,12). Đó là sức mạnh của Tình yêu: Yêu Chúa – yêu người. Yêu Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự. Yêu người như chính mình ta vậy. Đó là sức mạnh của sự từ bỏ: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24): Từ bỏ tội lỗi và những đam mê xác thịt; Từ bỏ những khuynh hướng xấu; Từ bỏ những tham, sân, si; Có khi phải từ bỏ cả danh vọng, người thân và của cải mình có… nếu như Nước Trời đòi buộc. Đức Giêsu mời gọi chàng thanh niên đến xin Ngài “phải làm gì để được sự sống đời đời” rằng: “Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22). Nhưng chàng thanh niên đã không chấp nhận lời mời gọi của Đức Giêsu, anh ta đã “buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10,22). Như vậy, của cải đã cản lối chàng thanh niên đến với Đức Giêsu.
Thái độ của chúng ta thì sao? Chúng ta có “dùng sức mạnh” để chiếm cho được Nước Trời không? Chúng ta có từ bỏ mọi sự để mua lấy Nước Trời không? Hay chúng ta vẫn để cho chức quyền, danh vọng, của cải và những thứ ở đời này níu kéo, giam hãm và cản bước chúng ta đến với Chúa, đến với Nước Trời?
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ơn khôn ngoan: không phải là thứ khôn ngoan theo tính xác thịt, cũng không phải sự khôn ngoan theo tính tự nhiên, mà là sự khôn ngoan siêu nhiên, sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa. Bởi vì, khi có sự khôn ngoan của Chúa, chúng con mới có thể chọn lựa những điều tốt, loại bỏ những những điều xấu, và khi có sự khôn ngoan của Chúa chúng con sẽ biết qui hướng tất cả mọi sự về cùng đích của cuộc đời là chính Chúa. Khi có sự khôn ngoan của Chúa, chúng con sẽ biết từ bỏ mọi sự để dành cho được Nước Trời. Amen.
Người ta kể rằng khi thư viện lớn nhất tại thành phố Alexandre bên Ai Cập bị đốt cháy, chỉ có một quyển sách còn nguyên vẹn. Nhìn bên ngoài thì đây chỉ là một quyển sách tầm thường như bao quyển sách khác. Nhưng có lẽ đây là quyển sách quí giá nhất thế giới, vì bìa lưng của nó chứa đựng bí mật về một viên đá quí. Viên đá này chạm đến đâu thì tất cả đều biến thành vàng. Hàng chữ viết trên bìa lưng của quyển sách cho biết thêm viên đá quí này nằm lẫn lộn trong muôn nghìn viên đá khác tại bờ Bắc Hải. Về hình thù nó giống như mọi viên đá khác. Chỉ khác có điều là trong khi những viên đá khác sờ vào thấy lạnh, thì viên đá quí này lại nóng. Một nông dân nghèo đã tình cờ mua được quyển sách và khám phá ra bí mật ấy. Ông ta bán tất cả tài sản và lên đường đi tìm cho bằng được viên đá quí. Ông cắm lều bên bờ biển Bắc Hải và ngày ngày ông nhặt từng viên đá lên xem. Cầm lên viên đá nào là ông ném xuống biển. Nguyên một năm ròng rã, mỗi ngày ông lặp đi lặp lại cùng một động tác ấy. Nhặt một viên đá rồi ném xuống biển. Nhưng ông vẫn chưa tìm được viên đá nóng. Viên đá nào cũng lạnh cả. Ông lại tiếp tục công việc ấy một năm nữa, nhưng vẫn chưa tìm được viên đá quí, thế rồi một buổi chiều nọ, bàn tay của ông bỗng rực nóng lên khi chạm đến viên đá. Nhưng thói quen nhặt đá để ném xuống biển đã trở thành một thứ bản năng, không chống lại nỗi nữa. Vì thế người nông dân cũng ném luôn viên đá ấy xuống biển. Ông đã để kho tàng tuột khỏi tay ông.
Có một lúc nào đó chúng ta sẽ tự hỏi mình sống để làm gì? Cuộc sống này có ý nghĩa gì với tôi? Có lẽ câu trả lời hoàn chỉnh nhất đó là sống để đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là gia tài quý báu nhất mà cả nhân loại này hằng khao khát tìm kiếm hằng ngày, hằng giờ. Cả nhân loại hằng đổ xô đi tìm. Có những người mất cả đời để đi tìm hạnh phúc nhưng vẫn không bao giờ toại nguyện. Có những người dám đánh mất cả tiền tài, công sức để đạt cho bằng được hạnh phúc mình mong đợi, thế rồi lại thất vọng chán chường và lại tiếp tục tìm kiếm.
Hạnh phúc chính là viên ngọc quý, là gia tài mà bằng mọi giá mình phải đạt cho bằng được, mình phải bằng mọi cách để bảo vệ, để gìn giữ nó mãi trong cuộc đời của mình.
Nhưng kho tàng hạnh phúc đó ở đâu? Làm sao ta có thể đạt được nó? Có người cho rằng hạnh phúc chỉ có khi người ta có lắm của nhiều tiền. Có người cho rằng hạnh phúc ở trong công danh, sự nghiệp. Điều đó đúng không sai. Nhưng nếu chỉ vì tiền, vì tình, vì công danh sự nghiệp mình bán rẻ lương tâm, đánh mất phẩm giá làm người liệu rằng ta có hạnh phúc hay không? Nếu phải chọn lựa giũa hạnh phúc tạm thời và hạnh phúc vĩnh cửu ta sẽ chọn điều gì?
Có những người vì chỉ muốn có tiền nên gian tham, trộm cắp, lừa đảo. Họ có niềm vui khi có được đồng tiền bất chính nhưng liệu rằng niềm vui đó sẽ tồn tại bao lâu?
Có những người vì tình mà ăn ở bất chính, vụng trộm, chồng chung vợ chạ, liệu rằng có còn xứng đáng vói nhân phẩm của một con người hay không?
Có những người vì địa vị mà chà đạp, hạ bệ, vùi dập người khác liệu rằng họ có được một tâm hồn an bình hay đầy lo âu sợ hãi?
Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta phải có một chọn lựa. Chọn lựa giữa cái vĩnh cửu và cái tạm thời. Chọn lựa trần gian mau qua hay nước trời vĩnh cửu. Chọn lựa một cách dứt khoát không nửa chừng. Vì thà mất một mắt, một tay, một chân mà vào nước trời còn hơn là nguyên vẹn mà phải sa hỏa ngục. Chọn lựa phải có sự đánh đổi. Đánh đổi cả gia tài, những gì mình có để mua lấy nước trời. Như trường hợp người thanh niên giầu có muốn có hạnh phúc, Chúa đã bảo anh: “Hãy bán hết của cải mà cho người nghèo, rồi đi theo tôi”. Chọn lựa phải có sự thiệt hơn như Phêrô đã từng hỏi: “Chúng con bỏ mọi sự theo Thầy, chúng con sẽ được gì?”. Chọn lựa phải có sự liều lĩnh, một ăn cả hai ngã về không. Đem bán hết gia tài để mua thuở ruộng, để mua viên ngọc. Tóm lại, nếu phải đánh đổi vì hạnh phúc nước trời mà mình phải nghèo đói, mất công ăn việc làm, mất cả địa vị xã hội mình vẫn phải đánh đổi. Vì suy cho cùng tiền tài danh vọng chỉ là của đồng lần, nay người mai ta. Nó không dành riêng cho mình, và mình cũng không chiếm hữu nó trọn đời.
Thế nên, người Kitô hữu phải có sự khôn ngoan như Salômôn. Ông không xin cho giầu có hay có đủ tài năng để đánh bại quân thù. Ông xin sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan của con cái Thiên Chúa. Không phải là khôn ngoan thế gian. Khôn ngoan biết chọn lựa theo thánh ý Chúa. Khôn ngoan biết phân định đâu là thiện đâu là ác. Khôn ngoan để hành động theo đúng với luân thường đạo lý, đúng với lẽ phải, đúng với nhân phẩm một con người là “nhân linh hơn vạn vật”. Một con người có lý trí, ý chí, tự do chứ không phải hành động theo bản năng và thiếu trách nhiệm về hành vi của mình.
Xin Chúa cho chúng ta sự khôn ngoan để chúng ta đi tìm Nước Trời. Vì Nước trời là một kho tàng quý giá, chúng ta phải bằng mọi cách để đổi lấy cho bằng được. Vì nước trời là viên ngọc quý, chúng ta phải trân trọng và bằng mọi giá gìn giữ và bảo vệ. Xin Chúa cho chúng ta luôn biết chọn lựa gia tài vĩnh cửu Nước Trời hơn là những của cải trần gian mau qua. Vì “được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào được ích gì? Amen.
Cuộc sống con người như đi vào cơn lốc của tiền tài và danh vọng. Con người thật vất vả cạnh tranh để dành giựt từng hạt gạo, từng miếng cơm. Xem ra điều mà con người quan tâm, chính là những nhu cầu của đời sống như: cơm, áo, gạo tiền, và những phương tiện phục vụ cho nhu cầu đời sống. Vì tất cả những điều đó mà con người dám làm mọi sự để có được những thứ ấy. Đây là điều không phải là tội hay có thể nói là rất chính đáng.
Là người chúng ta cũng rất cần những thứ ấy. Chúng ta cũng rất cần tìm cho mình những phương tiện thiết thực ấy. Thế nhưng, là người ky-tô hữu, chúng ta còn có một giá trị cao hơn những danh lợi thú ấy, chính là Nước Trời. Danh lợi thú rồi sẽ qua đi, nhưng Nước Trời thì tồn tại mãi mãi.
Hôm nay, Chúa Giê-su ví Nước Trời như một kho tàng, như viên ngọc quý, đến nỗi để đạt được, thì mọi hy sinh, mọi của cải, kể cả mạng sống, cũng phải đổi lấy cho bằng được viên ngọc Nước Trời.
Trên mạng Internet, người ta đang truyền nhau lời tâm sự của một bác sĩ trẻ bị ung thư. Anh đã viết trên dòng thời gian mình, những lời trần tình để lại cho bạn bè và đặc biệt, là cho giới trẻ. Đó là Bác sĩ Richard Teo Keng Siang, 40 tuổi. Một triệu phú ngành giải phẫu thẩm mỹ ở Singapore. Anh đã phát hiện bị ung thư phổi giai đoạn cuối khi ở đỉnh cao nhất của tiền tài, danh vọng.
Richard Teo qua đời ngày 18/10/2012. Những chia sẻ của anh khi đưa lên mạng, đã gây một xúc động rất lớn.
– “Chào tất cả các em. Giọng tôi hơi bị khàn một chút, mong các em chịu khó nghe. Tôi xin tự giới thiêu, tôi tên là Richard và là một bác sĩ. Từ lúc trẻ, tôi là một sản phẩm đặc trưng của xã hội ngày nay, một sản phẩm khá thành công mà xã hội đòi hỏi. Hồi nhỏ, tôi lớn lên trong một gia đình có mức sống dưới mức trung bình. Tôi được bảo ban bởi người chung quanh và môi trường rằng thành công thì hạnh phúc. Thành công có nghĩa là giàu có. Với suy nghĩ này, tôi trở nên cực kỳ ganh đua ngay từ nhỏ. Nhưng thật trái ngược, chỉ khi sắp chết thì mình mới biết nên sống như thế nào. Tôi biết điều này nghe qua thật mơ hồ, nhưng đó là sự thật và tôi đang trải qua.
Sự thành công, xe cộ, nhà cửa, những thứ mà tôi nghĩ đã đem hạnh phúc đến cho tôi, khi tôi xuống tinh thần, tuyệt vọng, không mang đến cho tôi niềm vui. Mà nếu được chọn lựa, tôi sẽ sống, là làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, đó là tôn chỉ cao nhất.”
Đây không chỉ là lối sống thực dụng của Richard Teo, mà dường như của hầu hết chúng ta. Con người đã quá vất vả lao vào cuộc cạnh tranh tiền tài, mà quên đi một giá trị cao cả hơn tiền tài, chính là sự sống đời đời. Con người đã đầu tư quá nhiều vào những thứ mau qua, mà bỏ qua cơ hội tích lũy gia tài trên trời.
Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm thực hiện một cuộc chọn lựa. Chọn lựa cái vĩnh cửu hơn là những cái mau qua trần gian. Tựa như người nông dân khi ông tìm thấy kho tàng đã can đảm đánh đổi mọi gia sản của mình để chiếm lấy kho tàng dưới lòng đất. Hay như người buôn đá quý, ông đã nhìn thấy giá trị thực sự của viên ngọc đến nỗi ông đã bán đi tất cả để mua được viên ngọc ấy.
Người nông dân hay nhà buôn kia đã nhìn thấy mối lợi rất lớn nơi kho tàng và viên ngọc nên đã không ngần ngại đánh đổi tất cả để có được nó.
Chúa Giê-su cũng cũng ví Nước Trời là những kho tàng, hay viên ngọc rất quý. Chúa cũng bảo chúng ta bằng mọi giá phải chiếm cho được Nước Trời. Vì mọi sự rồi cũng qua đi. Công danh sự nghiệp cũng không kéo dài sự sống của chúng ta. Chúa bảo với chúng ta rằng Nước trời quý hơn và giá trị hơn bất cứ thứ gì chúng ta đang có hay có thể có trong cuộc sống, và Nước Trời sẽ ban cho chúng ta nhiều hơn bất cứ cái gì cuộc sống có thể mang lại cho chúng ta. Nước trời là phần rỗi, là sự sống đời đời của chúng ta, quý giá vô cùng, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm trước hết, tuyệt đối ưu tiên, sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm đoạt cho bằng được, dù phải hy sinh bao nhiêu cũng chưa đủ, chưa xong. Chỉ với một mảnh ruộng, một viên ngọc vật chất, mà người nông dân và nhà thương gia trong Tin Mừng đã bán tất cả gia tài để mua nó. Chúng ta có dám làm như thế đối với viên ngọc Nước Trời không?
Xin cho chúng ta nhận ra giá trị thực sự của Nước Trời là hạnh phúc vô biên để chúng ta can đảm chọn lựa Nước Trời, cho dù có phải hy sinh tiền tài, gia sản, nhưng chúng ta chiếm hữu được một kho tàng vô tận trên quê Trời. Amen.
Có một nhân vật của dòng văn học dân gian mà dường như ai cũng nhớ tên, đó là “Thằng Bờm”. Một nhân vật được dựng nên để châm chọc cho tính cách khờ khạo của một ai đó. Và thằng Bờm “khờ” như đến thế này là cùng:
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi ba bè gỗ lim
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi đôi chim đồi mồi
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi Bờm cười.
Có nhiều lối giải thích cho sự khờ khạo của thằng Bờm, nhưng có lẽ sự khờ khạo nằm ở chỗ thằng Bờm không so đo tính toán cao siêu mà chỉ cần no cái bụng là được rồi. Ba bò chín trâu hay ba bè gỗ lim cũng không giá trị so với nắm xôi vì nó giải quyết nhu cầu trước mắt.
Cái dại, cái khờ khạo của thằng Bờm là đã không chịu đáp ứng sự đổi chác quá chênh lệch của lão Phú ông. Phú ông đổi những cái có giá trị, thì Bờm cứ… “chẳng lấy”. Đến khi Phú ông đổi nắm xôi, thì… Bờm cười. Cười là đồng ý, là thích chì, là thõa mãn…
Trong sự đổi chác này sẽ có một người dại, hoặc Phú ông, hoặc thằng Bờm. Nhưng chắc chắn có một người vui hơn khi biết cười và không thấy mình thua thiệt, đó là thằng Bờm. Đến đây, chợt nhớ câu thơ tự trào của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn người đến chốn lao xao”.
Người khôn luôn phải tìm kiếm, phải trao đổi cho dù phải ở chốn lao xao nhưng sẽ tìm được viên ngọc quý, tìm được cái mình yêu, mình thích. Để chiếm hữu nó cho dù có phải bán hết gia tài vẫn cảm thấy thích thú vì mình được cái mình vừa ý và toại nguyện. Cái đó có thể là nắm xôi hay cái quạt mo là tùy mỗi người mỗi sở thích khác nhau.
Nước trời được Chúa Giê-su sánh ví như kho tàng được chôn giấu trong thuở ruộng. Có người đã chiếm hữu nhưng lại chôn dấu đi. Ngược lại, người thương gia đã nhận ra giá trị cao siêu nên bán hết tài sản của mình để chiếm cho được kho tàng ấy.
Nhân loại ngày hôm qua và hôm nay vẫn thế! Có người vì danh lợi thú mà họ cất giấu niềm tin của mình để lao theo con đường danh vọng, nhưng cũng không ít người khám phá viên ngọc quý là Nước trời để rồi bỏ lại tất cả sự giầu sang, quyền quý để đi theo Chúa.
Thánh Phanxico Xavie là một điển hình. Sinh trưởng trong một gia đình giầu có, quyền thế. Bản thân lại học giỏi tài cao. Đường công danh sáng lạn. Thế nhưng ngài đã bị đánh động bởi câu: “Được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì?” để từ đó cuộc đời Ngài chỉ còn tìm kiếm và phụng sự cho tin mừng Nước Trời.
Thánh Augustino sau những ngày tháng ngụp lặn trong thú vui thế gian và xác thịt, Ngài đã cảm nghiệm sâu xa về hạnh phúc Nước Trời mới là vĩnh cửu còn thế gian là tạm bợ. Ngài đã thốt lên trong tiếc nuối: “lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng” để rồi từ đó Ngài ngụp lặn trong đại dương bao la tình Chúa.
Xin cho chúng ta cũng biết khôn ngoan chọn lựa giá trị vĩnh cửu là Nước trời hơn là những danh lợi thú mau qua. Xin đừng vì những nhu cầu xác thịt mà chôn dấu kho tàng Nước Trời. Xin Chúa giúp chúng ta luôn nhận ra Chúa chính là gia nghiệp, là lẽ sống, là phần phúc để biết dùng hết khả năng, trí tuệ hầu đạt được hạnh phúc Nước trời mai sau. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Có nhiều người sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu, nhưng thật sự Thiên Chúa vẫn đang tác động nơi lòng mỗi người mỗi ngày. Mỗi người đều được Thiên Chúa yêu thương và dạy dỗ từng giây phút trong cuộc sống.
Bài đọc trong sách các Vua quyển thứ nhất hôm nay cho thấy vua Salômôn cầu nguyện, và đã được Thiên Chúa nhận lời. Salômôn đã không xin sống lâu, không xin vàng bạc châu báu, nhưng xin cho được sự khôn ngoan để xét xử dân Ngài.
Đức Yêsu nói: “hãy xin thì sẽ được, tìm thì gặp, gõ cửa thì được mở cho.“ “Nếu người phàm còn biết cho con cái mình những điều tốt lành, chẳng lẽ Thiên Chúa không khứng ban Thánh Thần cho những kẻ cầu xin với Ngài sao!” Qua Đức Yêsu người ta nhận biết, Thiên Chúa luôn ban cho những người cầu xin với Ngài điều quý hơn cả điều người ta cầu xin nữa, đó là Thánh Thần Thiên Chúa.
Thiên Chúa không chỉ là Thiên Chúa của người Do Thái, của Kitô-hữu, của người Công Giáo, nhưng còn là Thiên Chúa của cả những người không nhận biết Ngài nữa. Thiên Chúa như người Cha tốt lành, sẵn sàng cho con cái những điều tốt lành người con ao ước cả khi người con chưa xin hoặc không xin nữa; và điều này rất đúng đối với những người ngoại chưa biết Ngài là Cha để cầu xin.
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Roma dạy rằng, tất cả đều tốt cho những người yêu mến Thiên Chúa. “Với những kẻ Ngài biết trước, Ngài tiền định cho họ được đồng hình đồng dạng với Con Ngài. Với những kẻ Ngài tiền định, thì Ngài kêu gọi họ, công chính hóa, và rồi tôn vinh họ.” Có một số người cho rằng, những ai Thiên Chúa đã tiền định được cứu độ, thì thế nào cũng được cứu độ nên không cần phải làm gì cả; còn với ai bị tiền định để sa hoả ngục, thì đàng nào cũng sa hoả ngục, có cố gắng đến đâu cũng vậy thôi.
Thật sự, chữ tiền định ở đây không có nghĩa Thiên Chúa định trước ai phải sa hoả ngục hoặc ai được lên thiên đàng, nhưng là “Thiên Chúa biết trước.” “Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm.2, 4). Thiên Chúa tạo dựng mỗi người và Ngài đã không hỏi ý kiến họ vì lúc đó họ chưa hiện hữu, nhưng Thiên Chúa “không thể” cứu độ ai nếu người đó không đồng ý. Sống ngay lành hay gian ác, được cứu độ hay không, có sống hạnh phúc từng ngày hay không, tùy thuộc mỗi người quyết định.
Thiên Chúa vẫn nói với con người, ngay nơi lương tâm mỗi người. Mỗi người được mời gọi để làm điều tốt lành và tránh điều gian ác qua lương tâm mình, và ai cũng phải vâng lời lương tâm, dù người đó là Kitô-hữu hay không. “Ai yêu thương thì biết Thiên Chúa, ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” (1Ga.4, 8.16). Yêu thương tha nhân là dấu chỉ để biết một người có là môn đệ của Đức Yêsu, có là con cái của Thiên Chúa hay không. Nếu một người không nhận biết Thiên Chúa bằng tuyên xưng ngoài miệng hay qua việc thuộc về một tôn giáo, mà họ sống yêu thương thì họ đã là con cái Thiên Chúa cho dù họ không nhận biết điều đó. Thiên Chúa vẫn đang hoạt động nơi họ, cho dù họ không nhận biết Ngài. Mỗi người trước khi trở lại và theo đạo, cũng được Thiên Chúa hiện diện và tác động cho dù lúc đó họ chưa được rửa tội.
Nước Trời giống như một kho tàng, giống như người lái buôn đi tìm ngọc qúy, tìm được thì đem bán tất cả những gì mình có để mua được; Nước Trời cũng giống như một cái lưới thả xuống biển bắt được nhiều loại cá… Như vậy, Nước Trời là cái gì rất qúy mà người ta phải ao ước, phải tìm kiếm, phải đánh đổi để được nó.
Phúc cho những kẻ nghèo, vì Nước Trời là của họ. Mỗi một nước, một quốc gia đều có cư dân, đều có một ranh giới, một luật lệ, một chính quyền. Nước Trời là vương quốc có luật lệ là tình yêu, Thiên Chúa là thủ lãnh tối cao, và cư dân là những người tôn thờ Thiên Chúa và sống trong tương quan tình yêu với tha nhân. Nước Trời cũng được hiểu như một trạng thái sống hạnh phúc mà mọi người phải ao ước. Nước Trời gồm những người chọn Thiên Chúa trên tất cả, và đối xử với người khác trong yêu thương.
Thiên Chúa vẫn đang hoạt động trong lòng mỗi người, qua Thánh Thần của Đức Yêsu, nơi những con người đang sống. Nếu mỗi người biết lắng nghe Lời Chúa, để Lời Chúa là tiêu chuẩn sống của mình, thì họ sẽ cố gắng sống yêu thương, và như vậy Thiên Chúa là chủ đời họ, và họ sống hạnh phúc. Để được như vậy, họ cũng phải hy sinh, và gần như phải đánh đổi tất cả để được Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn đang hoạt động trong lòng mỗi người, để làm mỗi người thuộc về Nước Trời, thuộc về Vương Quốc của Ngài, thuộc về Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Chuyện kể rằng có một thầy khổ tu vào rừng để hành xác, mong được lên cõi thiên đàng. Ngày ngày có một cô gái nhân đức tới để cung cấp trái cây và nước suối cho thầy.
Nhiều năm trôi qua, đã đến lúc thầy phải rời bỏ khu rừng vào hang núi sâu, hoàn thành cuộc hành xác khắc nghiệt. Người con gái chặt củi nước mắt lưng tròng van xin:
– Tại sao thầy không cho con được diễm phúc hầu hạ thầy?
Và thầy tu đã ngồi lại, ở nguyên chỗ cũ.
Thầy ngồi một mình, tháng này qua năm nọ, cho đến khi cuộc hành xác hoàn thành. Vị chúa tể của những con người bất tử xuống báo cho thầy biết rằng thầy đã được lên cõi thiên đàng. Nhưng thầy tu nói:
– Đã lâu rồi tôi không cần thiên đàng nữa!
Vị chúa tể kia liền hỏi:
– Vậy thầy muốn được phần thưởng nào quí giá hơn thiên đàng?
Thầy tu chắp tay nhắm mắt điềm nhiên trả lời:
– Tôi muốn được cô gái chặt củi?
***
“Nước Trời giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13,45-46). Người thương gia rất am tường về ngọc, ông biết rõ viên ngọc quý này là vô giá, mà người bán không hề biết, nên ông đã đánh đổi cả gia tài của mình để mua viên ngọc ấy, vì tất cả những gì ông có so với viên ngọc quý ấy cũng chẳng là gì, chẳng đáng giá chi.
Nước Trời đáng quí, đáng trọng, đáng mơ ước là thế, vậy mà thày tu trong câu chuyện trên đây lại bỏ thiên đàng để ở lại với cô gái chặt củi. Viên ngọc quý của ông sau bao nhiêu năm hành xác mới có được lại không phải là thiên đàng vĩnh cửu, mà là một xác phàm hay chết, một thụ tạo nay còn mãi đã biến tan. Thật là ngu lắm thay, dại khờ lắm thay!
Chợt nghĩ lại, đâu chỉ mình thày tu này dại khờ, ngu ngơ! Đâu chỉ mình ông mới “Bỏ hình bắt bóng”.
Những kẻ xem danh vọng, chức quyền là viên ngọc quý, cả đời săn lùng tìm kiếm cho đến hao tâm tổn sức, để rồi nó vỡ tan như bong bóng xà phòng, lại không dại khờ lắm sao?
Những kẻ coi tiền bạc, của cải là kho báu duy nhất trên đời, để bôn ba vất vả thu tích cho thật nhiều mà chẳng nghĩ đến ai, và khi nhắm mắt xuôi tay cũng chẳng mang được một xu về bên kia thế giới, lại chẳng dại khờ lắm sao?
Những kẻ đam mê khoái lạc, ăn chơi cho thỏa thích, họ xem thế gian này là kho báu, là viên ngọc quý, phải thụ hưởng tối đa cho thỏa mãn, cho tràn trề, để rồi khi kết thúc cuộc đời ngắn ngủi, sẽ phải khóc lóc nghiến răng muôn kiếp, lại không phải là kẻ dại khờ lắm sao?
Hãy bỏ đi những chiếc phao thủng mà một lúc nào đó, giữa biển đời lênh đênh chúng ta đã bám víu như một vật cứu sinh an toàn.
Chỉ có những ai sáng suốt nhận ra Đức Giêsu chính là viên ngọc quý, lấp lánh ngời sáng như sao mai trên bầu trời, mới dám bán đi những viên ngọc giả là của cải, danh vọng và khoái lạc trần gian, mà mua lấy mối tình thâm sâu với Người trong cõi đời đời.
Chỉ có những ai xác tín rằng Nước Trời chính là kho báu vô giá, tồn tại đến miên trường, mới “vui mừng bán đi tất cả” những kho tàng phù vân đời này, mà mua lấy kho báu bất diệt trên nơi vĩnh phúc.
Đức Giêsu nói với người thanh niên giàu có: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21). Nếu Đức Giêsu là viên ngọc quý, là hiện thân của nước Trời, thì người tín hữu phải bán đi tất cả, phải chấp nhận mất mát tất cả, phải từ bỏ mọi sự để được sống với Người, để chọn Người làm lẽ sống, và để được Người, là được tất cả.
Đó là cái nghịch lý chạy xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng: mất đi để được lại, cho đi để được nhận lãnh, chết đi để được sống mãi.
Baeteman có viết: “Cái đáng giá, không luôn là cái chúng ta hiến dâng cho chúa, nhưng luôn là cái gì chúng ta nhân danh Người mà từ chối”.
***
Lạy Chúa, nếu có lần nào chúng con cảm nghiệm được hạnh phúc giả tạo mau qua của kho tàng dưới đất, thì xin cho chúng con một chút ngất ngây hạnh phúc của kho báu trên trời.
Xin dạy chúng con biết luôn chọn chúa là gia nghiệp, là cùng đích và là lẽ sống của cuộc đời chúng con. Amen.
Chủ đề: Thiên Chúa luôn ban những sự tốt lành cho chúng ta
“Nước Trời giống như kho báu giấu trong ruộng” (Mt 13,44)
Anh chị em thân mến
Hằng ngày, hằng phút, hằng giây chúng ta sống trong tình thương ấp ủ của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta không ý thức điều đó, cho nên nhiều khi chúng ta bi quan chán nản, và mặt khác chúng ta không đáp lại tấm lòng của Chúa.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy nhớ đến những ơn lành Chúa đã ban, và khơi lên trong lòng mình những tâm tình cảm mến và biết ơn Ngài.
Chúng ta ít suy gẫm về tình thương của Chúa đối với chúng ta.
Chúng ta ít biết ơn Chúa mặc dù đã nhận được rất nhiều ơn từ bàn tay rộng rãi của Ngài.
Ơn quý trọng nhất mà Chúa ban cho ta là Nước Trời. Nhưng xem ra chúng ta không coi trọng ơn này.
III. Lời Chúa
Salomon lên ngôi vua kế vị Ðavít. Salomon biết mình còn trẻ nên thiếu khả năng. Ông cũng biết rằng trách nhiệm rất nặng nề. Ông còn ý thức rằng vương quyền của ông là do Thiên Chúa ban, để phục vụ cho dân của Chúa. Bởi vậy khi Thiên Chúa bảo ông muốn xin bất cứ điều gì thì Ngài sẵn sàng ban cho, Salomon chỉ xin một điều duy nhất, đó là được khôn ngoan. Thiên Chúa rất hài lòng về lời xin đó, nên đáp lại Ngài chẳng những ban cho ông được khôn ngoan, mà còn nhiều ơn khác nữa.
Thánh vịnh này cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban Luật cho dân Ngài. Tác giả rất đề cao Luật Chúa:
Luật pháp Chúa quý hơn vàng bạc châu báu
Luật pháp Chúa là nguồn vui sướng
Luật pháp Chúa là phần gia nghiệp
Ðoạn Tin Mừng này gồm 3 dụ ngôn:
Hai dụ ngôn đầu (kho báu dấu trong ruộng và viên ngọc quý) dạy rằng Nước Trời là thứ quý giá nhất, đáng cho người ta bán mọi thứ để đổi lấy.
Dụ ngôn thứ ba (mẻ lưới gồm nhiều thứ cá) mang cùng một ý nghĩa với dụ ngôn lúa và cỏ lùng (Tin Mừng tuần vừa qua): Hiện tại trong Nước Trời có người tốt và kẻ xấu lẫn lộn. Nhưng đến ngày tận thế thì sẽ có sự lọc lựa: kẻ tốt sẽ được thưởng, còn kẻ xấu sẽ bị phạt.
Thánh Phaolô nói đến tình thương Thiên Chúa đối với kẻ mến yêu Ngài:
Ngài giúp họ được sự lành
Ngài kêu gọi họ nên thánh
Ngài tiền định cho họ nên giống hình ảnh Con của Ngài.
Ngài kêu gọi họ và sẽ ban cho họ được vinh quang.
Thương thì cho: thương ít cho ít, thương nhiều cho nhiều. Nếu muốn biết người nào đó thương mình thật không thì hãy xem người đó có cho mình cái gì không.
Nhưng nói như trên cũng chưa đúng lắm, vì còn tuỳ của cho là tốt hay xấu, có ích hay có hại đối với người nhận nữa. Người ta nuôi chim bồ nông, hằng ngày cho chúng ngửi thuốc phiện. Rồi người ta tròng vào cổ chúng một cái vòng, xong thả chúng đi kiếm cá trên mặt biển. Vì có cái vòng trên cổ nên những chú bồ nông này chỉ nuốt được những con cá nhỏ. Còn cá lớn thì chúng cứ ngậm trong miệng. Tới lúc cơn ghiền thuốc phiện hành, chúng bó buộc phải trở về tàu, nhả cá lớn ra. Những người nuôi chim này cũng cho, nhưng không phải vì thương các chú chim bồ nông kia đâu. Thương thật thì phải cho những thứ tốt, những thứ có ích cho người nhận.
Thiên Chúa yêu thương loài người, và thương thật tình.
Chính vì thương nên có nhiều điều tuy chúng ta cứ nằng nặc xin Ngài nhưng Ngài biết có hại cho chúng ta nên Ngài không cho.
Ngài cho chúng ta những điều mà Ngài biết là tốt nhất, có ích cho chúng ta nhất. Ðó là những điều mà các bài đọc hôm nay kể cho ta biết: sự khôn ngoan, luật Chúa, ơn làm con Chúa và nhất là Nước Trời.
Bài đọc 1 khiến chúng ta nhớ lại những chuyện về những lời ước: một vị thần tiên cho hai vợ chồng nghèo 3 điều ước. Chồng ước một thứ, vợ ước một thứ ngược lại, cuối cùng họ đã sử dụng hết 3 điều ước nhưng nghèo vẫn hoàn nghèo.
Chuyện vua Salomon cũng thuộc loại đó, nhưng ý nghĩa lại rất khác. Vua Salomon xem ra “dại” nhưng thực ra là quá “khôn”. Chúa đã bảo ông: “Ngươi muốn gì cứ xin, Ta sẽ ban cho ngươi”. Ông dại quá, không xin giàu có, không xin sống lâu, không xin một thế lực hùng mạnh… mà lại xin khôn ngoan. Tuy nhiên thực ra ông quá khôn, bởi vì khôn ngoan là nền tảng và nguồn gốc của mọi thứ khác: nhờ khôn ngoan nên sau đó ông giàu có, triều đình ông vững bền, đất nước ông giàu mạnh… và nhất là ông được Thiên Chúa che chở bảo vệ.
Trong 7 ơn của Chúa Thánh Thần, đứng đầu là ơn Khôn ngoan.
Khôn ngoan là gì? Thưa là nhận biết cái gì là đúng cái gì là sai, cái gì là chính cái gì là phụ, cái gì là quan trọng cái gì là thứ yếu, cái gì là bền vững cái gì là chóng qua. Sách Thánh còn chỉ cho chúng ta biết: “Kính sợ Chúa là đầu mối sự khôn ngoan”
Chúng ta hãy tự kiểm điểm xem chúng ta có khôn ngoan hay không:
Nhiều người ham tiền. Ðối với họ, tiền là trên hết, hay nói cách khác, không có gì trọng bằng tiền. Nhưng thử hỏi tiền có bền vững mãi mãi không? Dĩ nhiên là không. Rất nhiều bằng chứng về điều này… Vậy, người suốt đời lo kiến tiền và chạy theo tiền là người dại.
Nhiều người hám danh. Họ ham được khen, họ thích địa vị. Họ bỏ tiền ra để mua danh. Nhưng thử hỏi Danh có bền vững mãi không? Cũng không. Và cũng có rất nhiều bằng chứng… Cho nên hám danh cũng là dại.
Nhiều người mê tình: tình yêu trai gái, tình bạn, tình dục v.v. Cũng thế thôi.
Một câu chuyện: Người kia có 3 người bạn. 2 người trước là bạn rất thân, người thứ ba thường thường vậy thôi. Ngày kia ông bị tòa bắt xử liền xin 3 người bạn đi theo để biện hộ. Người bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến cửa quan nhưng lại không dám vào. Chỉ có người thứ ba tuy không được ông yêu thích nhưng tỏ ra trung thành vào tận tòa án biện hộ cho ông ta không những trắng án mà còn được thưởng nữa.
Người bạn thứ nhất là Tiền bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta, chỉ để lại cho ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Người bạn thứ hai là Bà Con Bạn Hữu. Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt rồi về. Người bạn thứ ba là các Việc Lành. Chúng theo ta đến tòa phán xét và đưa ta vào cửa thiên đường. (Trích “Phúc”)
Bỏ ít để được nhiều là khôn. Bỏ cái tầm thường để được cái quý giá là khôn.
Hai người trong bài Tin Mừng hôm nay rất khôn ngoan: người thứ nhất khám phá một kho tàng dấu trong một thửa ruộng. Anh vội về nhà bán hết tài sản rồi trở lại mua thửa ruộng đó. Người thứ hai thấy được một viên ngọc quý, cũng về nhà bán hết tài sản để trở lại mua viên ngọc quý đó. Ai trong chúng ta khám phá một kho tàng hay một viên ngọc quý mà không làm như hai người ấy! Ðương nhiên chúng ta sẽ làm như họ thôi. Chúng ta dám bỏ tất cả vì chúng ta biết mình sẽ được lại cái còn quý giá hơn nhiều.
Qua bài Tin Mừng này, Ðức Giêsu không dạy chúng ta cách kiếm thêm nhiều tiền bạc của cải, mà dạy chúng ta kiếm một thứ còn quý hơn tiền bạc của cải vô cùng, đó là Nước Trời. Tiền bạc của cái mang lại sung sướng về vật chất, Nước Trời mang hạnh phúc cả vật chất lẫn tinh thần, cả tự nhiên lẫn siêu nhiên. Tiền bạc của cải giúp ta sung sướng đời này, Nước Trời làm ta hạnh phúc mãi mãi.
Chúng ta dám bỏ tất cả để được một kho tàng, để được một viên ngọc quý. Tại sao chúng ta không dám bỏ tất cả để được Nước Trời?
a/ Tìm lại được kho báu của mình
Một viên chức kia luôn cố gắng vươn lên ngày càng cao trên chiếc thang danh vọng, vì thế mà ông bỏ hết thời giờ và công sức vào việc tạo dựng sự nghiệp, chẳng còn thời giờ chăm sóc vợ con, cũng chẳng có giờ để giải trí. Nhìn cách sống của ông, ai cũng biết kho báu mà ông tìm nằm ở đâu.
Thế rồi ông bị một cơn đau tim quật ngã, phải vào bệnh viện, nằm ở đấy nhiều ngày trong tình trạng hôn mê. Trong những cơn mê, ông thấy lại cuộc sống của mình, những công việc của mình và những người mình gặp gỡ. Và ông cảm thấy mọi sự, mọi người đều như xa lạ quá. Cảm giác ấy khiến ông rất cô đơn và chán nản. Một ngày kia ông bắt đầu tỉnh lại, ông thấy một số khuôn mặt mờ mờ hiện ra trước mắt. Một lúc sau nhìn rõ hơn thì đó là những khuôn mặt của vợ con ông, những người duy nhất ngày đêm túc trực bên giường bệnh của ông, trong khi các bạn bè đồng nghiệp đều biến đâu mất hết.
Biến cố ấy đảo ngược lại mọi giá trị đời ông. Nó giúp ông hiểu rằng gia đình chính là mục tiêu ông phải nhắm tới và cũng chính là kho báu của đời ông.
b/ Kho tàng chôn dưới đất
Một anh thợ may nằm mơ gặp một vị thần cho biết là có một kho báu chôn dưới đất trong sân của hoàng cung. Anh liền lên đường tìm đến hoàng cung. Tuy nhiên anh không vào được vì ở đó lính gác đông quá. Nhưng anh không bỏ cuộc. Anh nán lại đấy nhiều ngày và tìm cách kết thân với vị chỉ huy. Khi đã thân thiết với nhau rồi, anh thành thật bày tỏ ý định của mình là vào hoàng cung đào lấy kho báu. Anh đề nghị vị chỉ huy hợp tác và hứa sẽ chia đôi.
Vị chỉ huy nghe xong phì cười và cũng chia xẻ lại: Tôi cũng vừa có một giấc mơ, trong đó tôi cũng thấy một vị thần cho biết là có một kho báu đang chôn trong sân nhà của một người thợ may giống hệt như anh vậy.
Nghe xong, người thợ may vội vàng trở về nhà và đào bới mảnh đất sau vườn. Quả thật ở đó có một kho vàng.
Lời bàn: Kho báu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người được chôn dấu không phải ở đâu xa, mà ngay trong con tim người đó.
c/ Kho tàng bị quên lãng
Vincent Van Gogh là một họa sĩ nổi tiếng thế giới. Một hôm ông bệnh nặng, và dĩ nhiên phải gọi bác sĩ đến. Sau một thời gian điều trị lâu dài, ông khỏi bệnh. Nhưng vì không có tiền trả cho bác sĩ nên Van Gogh đã cố gắng vẽ một bức tranh để tặng. Tuy nhiên ông bác sĩ này không thích hội họa nên cũng chẳng biết thưởng thức bức tranh. Ông lấy nó làm tấm chắn cửa sổ. Với thời gian, nắng mưa đã làm cho bức tranh ấy hư hao dần và cuối cùng mục nát.
Về sau, người ta tìm thu thập những bức tranh của Van Gogh. Mỗi bức trị giá hàng trăm ngàn đôla. Nhưng có một bức không ai tìm lại được. Ðó chính là bức tranh nhà danh họa đích thân vẽ tặng cho vị bác sĩ nọ.
Lời bàn: Thiên Chúa cũng tặng cho mỗi người chúng ta một kho tàng vô giá là phẩm vị làm con của Ngài. Ðừng để nó bị tàn phai hủy hoại như bức tranh kia.
CT: Anh chị em thân mến
Nước Trời quả là một kho tàng vô giá, một viên ngọc quý báu mà bất cứ người khôn ngoan nào cũng đều nhất quyết chiếm cho bằng được. Với ước mong chiếm hữu được Nước Trời, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
CT: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng con được phúc làm con Chúa, được Hội Thánh là mẹ chăm sóc, được Tin Mừng Chúa hướng dẫn trong cuộc sống thường ngày. Xin cho cuộc đời chúng con là một lời cảm tạ Chúa không ngừng. Chúng con cầu xin nhờ…
– Trước kinh Lạy Cha: Ðức Giêsu đã hứa “Hãy xin thì sẽ được”. Ngài còn dạy chúng ta những điều tốt nhất cần phải xin trong Kinh Lạy Cha. Trong tâm tình con thảo, chúng ta hãy sốt sắng xin những điều ấy trong lời kinh sau đây.
VII. Giải tán
Chúng ta sung sướng biết mình đang sống trong tình thương ấp ủ của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chớ gì tâm tình này luôn tràn ngập tâm hồn chúng ta suốt cả tuần này.
Từ thuở đời đời, vì yêu thương Thiên Chúa tiền định cho con nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài.
Chúng ta có thể dựa vào lời khẩn nguyện tuyệt vời của vua Sa-lô-môn để đưa ra chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay: xin ban cho con “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái” để nhận ra rằng ngay từ thuở đời đời, vì yêu thương Thiên Chúa tiền định cho con nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài. Đó là giá trị khôn sánh mà mỗi người Kitô hữu phải đạt cho bằng được.
1V 3: 5, 7-12
Để có đủ sức cai trị dân Thiên Chúa, vua Sa-lô-mon khẩn cầu Thiên Chúa cho ông có được “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái”.
Rm 8: 28-30
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu biết rằng Thiên Chúa tiền định cho họ trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài và làm cho mọi sự đều sinh ơn ích cho những ai yêu mến Ngài.
Mt 13: 44-52
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta biết nhận ra giá trị khôn sánh của Nước Trời và sẵn sàng hy sinh mọi sự để sở hữu cho bằng được Nước Trời.
BÀI ĐỌC I 1V 3: 5, 7-12
Vào năm 970 trước Công Nguyên, vua Sa-lô-mon lên ngôi kế vị cha mình là vua Đa-vít. Lúc đó, ông chỉ là “một thanh niên bé nhỏ”, như chính ông thân thưa với Chúa về mình trong lời cầu nguyện của ông. Theo sử gia Giô-sê-phút, khi lên ngôi, vua Sa-lô-mon ở độ tuổi mười bốn; còn theo truyền thống kinh thánh, vua ở độ tuổi mười hai.
Vua đến thánh địa Ghíp-ôn, cách Giê-ru-sa-lem khoảng chín cây số về hướng tây-bắc, để tế lễ Thiên Chúa, vì lúc đó Đền Thờ Giê-ru-sa-lem chưa được xây dựng, vì thế đây là nơi cao trọng nhất. Đêm sau đó, vua có một giấc mộng.
Giấc mộng đóng một vai trò quan trọng tại các dân tộc thời xưa. Các Pha-ra-ô Ai-cập và các vua miền Lưỡng Hà Địa đều có bên cạnh mình những nhà giải điềm mộng báo. Ở Hy-lạp, các tín đồ ngủ trong các đền thánh với hy vọng là mình nhận được một sứ điệp từ thần linh trong khi ngủ. Dân Ít-ra-en chắc hẳn cũng đã biết những mặc khải thần linh được truyền đạt trong những giấc mơ. Chúng ta đọc thấy nhiều ví dụ như vậy trong thời các tổ phụ như tổ phục Gia-cóp hay nhất là tổ phụ Giu-se. Thật đáng cho chúng ta ghi nhận rằng cách thức mặc khải này rất hiếm trong thời kỳ trào lưu ngôn sứ và chỉ tái xuất hiện trong các sách khải huyền vào những thế kỷ muộn thời hơn.
Sa-lô-mon bày tỏ một sự khôn ngoan trước tuổi. Vua không cầu xin cho mình được trường thọ, được giàu sang hay được quyền lực, nhưng “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái” để vua có đủ sức cai trị dân Ngài, “một dân đông đúc, không kể xiết, cũng không đếm nổi”.
Như người cày thuê gặp được kho báu trong ruộng hay một thương gia bất ngờ tìm được ngọc quý trong Tin Mừng hôm nay, vị vua trẻ biết nhận ra đâu là những giá trị đích thật. Đức Chúa đã nhận lời cầu xin của vua, vì thế, vua đã cai trị dân Ngài một cách khôn ngoan (ít ra trong giai đoạn đầu của triều đại mình). Trong giấc mộng, nếu vua không xin sự giàu sang phú quý, hay quyền lực, tuy nhiên, Thiên Chúa cũng ban cho vua những điều đó.
Chuyện tích không có tính chất lịch sử theo nghĩa nhặt. Quả vậy, các nhà biên soạn hai sách Các Vua đã tra cứu những tài liệu và đã thu thập những truyền thống miệng, suốt thời gian làm việc nghiêm túc; nhưng nỗi bận lòng hàng đầu của họ là vấn đề thần học. Vì thế, chuyện tích về giấc mộng của vua Sa-lô-mon cho thấy hai khía cạnh quan trọng.
Trước tiên, chuyện tích này nhấn mạnh tính chất đặc biệt của vương quyền Ít-ra-en. Vương quyền này thuộc trật tự “ân sủng”. Chúng ta biết rằng dân Thiên Chúa đã từ lâu không muốn tôn một người trần thế lên làm vua của mình. Đối với họ, chỉ duy một mình Đức Chúa là vua của họ. Tuy nhiên, vì những hoàn cảnh đã dẫn họ đến thể chế quân chủ; nhưng để thể chế quân chủ này được tín nhiệm, điều quan trọng là vị quân vương phải nhận ra mình chỉ là người trung gian giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Chúng ta nên lưu ý rằng trong lời khẩn nguyện của mình, vua Sa-lô-mon không nói “dân của tôi”, nhưng “dân của Ngài”. Về vấn đề này, giấc mộng ở Ghíp-ôn đáp ứng mọi thỏa mãn và mặc lấy tinh cách của việc Thiên Chúa trao quyền.
Thứ nữa, tước vị con vua Đa-vít cao quý được ban tặng cho vua Sa-lô-mon cũng như triều đại vinh quang của vua hiển nhiên là lời đáp trả của Thiên Chúa, Đấng, ngay từ khởi đầu triều đại của vua này, cầm tay vị vua bé nhỏ để hướng dẫn vận mệnh của vua. Như vậy, khi đọc lại lịch sử này, người thuật chuyện có thể phát hiện ở đây là Lịch Sử Thánh.
BÀI ĐỌC II Rm 8: 28-30
Đoạn văn này là phần kết của chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma. Phần này được kết thúc với lời ca ngợi về tình yêu của Thiên Chúa. Đây là bản văn khó vì tự nguồn gốc nó là những suy luận thần học về tiền định.
Phải hiểu những lời này của thánh Phaolô: “Những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Con của Người, để Đức Kitô làm trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc” như thế nào?
Trước tiên, chúng ta nên đặt đoạn văn này trở lại mạch văn của nó. Trong một cái nhìn khái quát, thánh Phaolô lấy lại sự phát triển của mình trên ơn công chính hóa nhờ đức tin và trên sự vinh quang của những người được tuyển chọn. Khởi điểm lập luận của thánh nhân là ý định rộng lớn của Thiên Chúa về nhân loại. Từ ngữ “ý định” (prothesis) luôn luôn được thánh Phaolô dùng theo nghĩa phổ quát chứ không hạn định. Một mặt, vị tông đồ nhấn mạnh Thiên Chúa gọi và con người được gọi. Đằng khác, về phía Thiên Chúa, Ngài “biết trước”, còn về phía con người, họ có “ơn gọi”; giữa Thiên Chúa và con người, có “sự tự do”. Cứu cánh của con người là ơn gọi, chứ không là tiền định. Không có bất kỳ chỗ nào dành cho việc tiền định phải chịu kết án cả.
Đây là đề tài chủ đạo. Tiếng gọi của Thiên Chúa là tiếng gọi phát xuất từ tình yêu. Con người đáp trả tiếng gọi của Ngài, tức là “những ai yêu mến Người”, sẽ thấy rằng “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ơn ích cho họ”. Ơn ích hiển nhiên là ơn cứu độ chung cuộc, nhưng chắc chắn cũng là ơn ích tinh thần đối với thời hiện tại. Từ ngữ “mọi sự”, đối lập với “ơn ích”, chỉ những thăng trầm của thế giới, cũng như những gian nan thử thách mà mỗi người phải chịu. Khi hướng dẫn các biến cố, Thiên Chúa muốn cứu độ những ai yêu mến Ngài, đôi khi Ngài dùng những phương cách gây sửng sốt.
Ngay cả khái niệm yêu mến ở nơi những lời: “Những ai Người đã biết từ trước” luôn luôn có một âm vang của việc tuyển chọn phát xuất từ tình yêu. Sự kiện Thiên Chúa biết từ trước này không là một sự chọn lựa cho bằng cái nhìn của Thiên Chúa. Qua thời gian, Ngài phân định những ai đáp trả tiếng gọi của Ngài nhờ đức tin.
Một lần nữa, thánh Phaolô đặt sự lạc quan của mình rõ ràng trên chương thứ nhất của sách Sáng Thế. Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài; người Kitô hữu, trở nên con cái của Ngài, được ân sủng nhào nắn, được tiền định trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, cũng như Chúa Con đồng hình đồng dạng với Chúa Cha. Khi hiệp nhất với Đức Kitô, con người được “phục hồi hình ảnh và họa ảnh nguyên thủy” của mình.
Tiếp đó, thánh Phaolô trở về khởi điểm của mình (kỹ thuật văn chương bao hàm). Thánh nhân vạch lại những giai đoạn cứu độ: tiếng gọi của Thiên Chúa, câu trả lời của con người nhờ đức tin, ơn công chính hóa và vinh quang. Chúng ta lưu ý rằng thánh Phaolô đặt vinh quang tương lai ở thì quá khứ: “Người đã cho hưởng vinh quang” để diễn tả một điều chắc chắn. Về việc dùng thì quá khứ để diễn tả điều chắc chắn trong tương lai này, chúng ta gặp thấy một ví dụ khác trong Tin Mừng Mác-cô về việc cầu nguyện, ở đó Đức Giêsu nói: “Tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý” (Mc 11: 24).
Vì thế, theo thánh Phaolô, nếu có tiền định, thì không gì khác hơn là Thiên Chúa yêu mến chúng ta từ muôn thuở. Niềm hy vọng này đem lại cung giọng đầy lạc quan cho toàn bộ chương 8 này: ý định của Thiên Chúa chính là hướng dẫn con người đến vinh quang, đó là cho Con của Ngài trở nên “trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc”.
TIN MỪNG Mt 13: 44-52
Vào Chúa Nhật này, chúng ta hoàn tất bài diễn từ dài về các dụ ngôn của Đức Giêsu.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại ba dụ ngôn mới: dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý rất gần giống nhau, còn dụ ngôn chiếc lưới rất gần với dụ ngôn người gieo giống và dụ ngôn cỏ lùng.
Hai dụ ngôn này được biệt phân rất rõ nét với các dụ ngôn trước đó. Các dụ ngôn trước liên quan đến việc loan báo Nước Trời và sự phát triển thần kỳ của nó. Các dụ ngôn đó chủ yếu là thể văn “miêu tả”. Còn Dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý là những “lời khuyến dụ” được gởi đến cho từng cá nhân, mang tính khẩn trương và quyết liệt, nhằm biến đổi đời sống. Nếu chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào vương quốc của Ngài và Đức Giêsu là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến đó, lúc đó việc chúng ta kết hiệp với Đức Kitô là ngay tức khắc, không thể nào chần chừ được nữa. Vì thế, việc chúng ta từ bỏ mọi sự cho điều cốt yếu duy nhất này, là chuyện dể hiểu. Với sự hiện diện của Đức Kitô, Nước Trời có mặt ở đây rồi. Kho báu hay ngọc quý này ở trong tầm tay của chúng ta. Việc từ bỏ mọi sự để sở hữu cho được kho báu hay ngọc quý này là niềm vui lớn lao, niềm vui của sự tự do vì được giải thoát khỏi những điều bất tất.
Dụ ngôn chiếc lưới mô tả rất thực nghề đánh cá. Đây cũng là là dịp, là cơ hội để các môn đệ sống lại những kỷ niệm xưa kia của mình khi họ còn là những ngư phủ trên biển hồ Ga-li-lê. Dụ ngôn này lập lại những chủ đề của dụ ngôn cỏ lùng. Ngư phủ thả chiếc lưới xuống biển, như người nông dân gieo những hạt giống trên cánh đồng. Lưới dần dần đầy cá, nhưng phải đợi mẽ cá hoàn tất để chọn lựa cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vất đi. Cũng như người gieo giống chờ đợi mùa gặt để thu những hạt lúa tốt vào kho lẫm, còn cỏ lùng thì nhổ, bó thành bó mà đốt đi. Các Tông Đồ đã là những ngư phủ lưới người – và Giáo Hội nối tiếp bước chân của các ngài. Giáo Hội phải biết kiên nhẫn. Trong phần kết của dụ ngôn này, số phận dành bọn ác nhân được diễn tả theo cùng những ngôn từ như trong phần kết dụ ngôn cỏ lùng.
Để kết luận, thánh Mátthêu gợi lên một kinh sư trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Vì có được một kiến thức Kinh Thánh rất phong phú, người kinh sư biết giá trị của những thiện hảo mà Luật Mới đem đến. Lý tưởng này biểu thị rất rõ nét lý tưởng của Tin Mừng Mátthêu đến mức chúng ta có thể nhận ra ở đây chữ ký kín đáo của thánh nhân.
Khi người ta nghe vùng nào có vàng, ngưới ta tấp nập tới tìm vàng, bất chấp mọi sự, liều cả mạng sống. Chúng tôi đã thấy những người đi tìm vàng ở Kampuchia, trong rừng sâu. Họ trở về mang theo cơn sốt rét rừng và sau đó họ chết. Nhưng người nầy chết, người khác tiếp tục.
Con người là thế.
Nghe ở đâu có nguồn lợi là đổ xô đi tìm, tranh nhau giành giựt, nhiều khi đánh nhau đổ máu.
Tranh nhau để tìm một nguồn lợi vật chất, nhiều khi cũng chưa chắc là có, người ta cũng không nệ công khổ.
Chúa Giê-su loan báo cho chúng ta biết một kho tàng quí báu hơn, quí nhứt trên đời, và có thật, nhưng không mấy ai lưu ý: đó là Nước Trời.
Đa số người công giáo, tuy tin có thiên đàng, hỏa ngục, nhưng đó chỉ là những hình ảnh mờ nhạt, không tác động vào tư tưởng và cuộc sống. Đa số không sợ hỏa ngục cũng không ham thiên đàng. Chúng ta chỉ chú trọng đến những gì trước mắt, những gì thấy được, những gì có lợi hôm nay mà quên rằng thế giới vật chất này sẽ qua đi, tan biến thành tro bụi. Những trận động đất tàn phá cả một vùng rộng lớn, cũng không cho họ thấy được thế giới vật chất nầy chỉ là tro bụi.
Chúng ta quên rằng thế giới vô hình, dù không thấy được, không nắm được trong lòng bàn tay, vẫn vững chắc hơn thế giới vật chất. Chúng ta là người công giáo phải là chuyên viên của thế giới vô hình, thế giới thiêng liêng.
Chúng ta chưa khám phá được “kho tàng Nước Trời”. Chúa Giê-su nói rõ: “Người nào tìm được kho báu chôn trong thửa đất…”
Kho báu Nước Trời nầy được chôn giấu chứ không dễ tìm. Chúng ta biết có một kho báu đang được chôn giấu trong thửa đất nhân loại nầy. Chính Chúa Giê-su đến trong trần gian đã nói rõ như thế. Nhưng chúng ta có cố công đi tìm như người ta đi tìm vàng không? Và tìm như thế nào? Với tất cả cố gắng và khả năng, hay chỉ lơ là, mong chờ may mắn như chờ trúng số độc đắc thôi sao? Nếu như thế thì muôn đời chúng ta cũng không thể tìm được. Chỉ là mơ mộng thôi.
Kho báu, không phải là một cái gì vật chất mà là chính Chúa Giê-su, Chúa chúng ta.
Không có gì quí hơn Chúa chúng ta, vì Ngài là Tình Yêu, tình yêu hy sinh đến liều mạng, đến tận cùng.
Kho tàng tình yêu đó được dành cho chúng ta. Chúng ta hãy tìm kiếm kho tàng tuyệt vời ấy.
“Ai tìm sẽ gặp”. Chúa đã nói như thế.
Tìm ở đâu?
Nơi thửa đất Tin Mừng.
Chúa Giê-su là Lời, là Ngôi Lời Thiên Chúa. Tìm nơi lời giảng dạy của Ngài. Lời đây không phải là những chữ viết trên giấy, mà chính là những lời chứa đựng trong tiếng nói, hành động của Ngài, mang lấy tất cả tình yêu của Ngài. Ngài là Ngôi Lời nhập thể. Ngài là Lời vô hình đã trở thành xác thịt. Mỗi hành động của Ngài đều mang một ý nghĩa.
Sinh ra trong hang đá, nghèo hèn, bị bỏ rơi, phải chăng đó là một hoàn cảnh ngẫu nhiên? Đó là một lời nói không âm thanh nhưng hết sức rõ rệt.
Chết trên thập giá. Phải chăng chỉ là thất bại của một con người bị lên án tử hình vì đã tuyên bố mình là Con Thiên Chúa, con người phạm thượng bị lên án?
Đó là tình yêu, là kho tàng tình yêu cho mọi thế hệ…
Hãy tìm và không thôi đi tìm. Chúng ta sẽ khám phá ra “sự phong phú khôn lường của Thiên Chúa.” Thánh Phao-lô đã chẳng nói; “Giữa anh em, tôi không muốn gì khác ngoài Chúa Giê-su Ki-tô, và là Chúa Ki-tô chịu đóng đinh thập giá!”
Thánh nhân đã tìm được kho tàng muôn thuở.
Thánh Phan-xi-cô nghèo thành Atsidi đã tìm được Chúa Giê-su nghèo.
Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su đã tìm được Chúa Giê-su Tình Yêu. Mẹ Tê-rê-xa Calcutta đã tìm được Chúa Giê-su bị bỏ rơi nơi hè phố Calcutta.
Dụ ngôn nói rõ: “Tìm được kho báu, người ấy vui mừng, về bán cả gia sản để mua thửa đất ấy”.
Chúng ta hãy cố gắng tìm kiếm. Thành công đang chờ đợi chúng ta bên kia những cố gắng hằng ngày của chúng ta. Chúng ta sẽ được niềm vui mà thế gian không thể có được.
Chúa Giê-su không bao giờ làm chúng ta thất vọng. Chúng ta thiếu một điều: “Hãy về bán hết của cải, phân phát cho người nghèo rồi đến đây theo Ta”.Chúng ta thiếu một điều, một điều cực kỳ quan trọng. Chúng ta không dám liều, không dám chọn “kho báu Nước Trời” vì chúng ta sợ mất của cải trần gian. Và đó là “nỗi buồn vô tận” của chúng ta, vì chúng ta còn quá nhiều bám víu trần gian.
Các thánh, tất cả các thánh đều dám liều… buông bỏ tất cả.
Tại sao cá thánh tử đạo dám đưa đầu cho người ta chém? Dám chịu đựng ngục tù, hình khổ và chết thê thảm? Tại sao trong thế giới hôm nay đấy hấp dẫn và giàu sang, vẫn có những người buông bỏ tất cả để săn sóc những người phong cùi, những người bệnh Aids, những người bị thế gian bỏ rơi? Tại sao? Sức mạnh nào đã đưa họ tới những con đường lạ lùng đó?
Tất cả chỉ vì Giê-su. Họ đã tìm được kho báu độc nhất của đời họ. Đối vớ họ. Giê-su là tất cả. Họ cho không cuộc đời trong hân hoan, không nhăn nhó.
Thánh Phan-xi-cô khó nghèo đã tràn vui khi nhìn mặt trời và ca lên bài ca tán tụng. Mẹ Tê-rê-xa Calcutta đã vui tươi khi ôm các trẻ em phong cùi trong vòng tay âu yếm của Mẹ.
Tất cả trở thành niềm vui ca ngợi cho những ai đã buông bỏ tất cả, để chỉ còn tay không để ôm ấp kho báu tuyệt vời là Giê-su.
Chúa Giê-su đã cho đi đến tận cùng. Những người đã tìm được Ngài cũng cho đi đến nỗi không còn gì để cho.
Niềm vui dâng hiến đó, thế gian nào biết được!
Kho báu của chúng ta là Giê-su bất tận!
Phải, đời chỉ vui khi đời được dâng hiến trọng vẹn.
Chúa Giê-su nơi bàn thánh hôm nay, chính là kho báu, là “viên ngọc quí” được chôn vùi trong tấm bánh yêu thương.
Chúng ta chờ đợi gì khi Ngài đến mang cho chúng ta niềm vui bất tận của Ngài?
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
Trong các câu chuyện thần thoại và cổ tích, người ta thường nhắc đến 3 điều ước. Ước muốn sở đắc một cái gì hoặc ước muốn được toại nguyện một công việc gì, là mong ước chung của con người ngày xưa cũng như ngày nay. Trong chuyện thần thoại, sau khi lựa chọn những điều mình ước, sự thật sẽ phơi bày ra. Bài học cho thấy, đạt được ước nguyện không dễ dàng gì. Sách các vua quyển thứ nhất giới thiệu với chúng ta một trạng huống gần giống như trong truyện cổ tích, nhưng nhân vật chính là vua Salomon, một vị vua trẻ rất khôn ngoan. Thiên Chúa hiện ra với Salomon trong một giấc mơ giữa đêm khuya và nói với ông “Hãy xin ta một điều ước, và ta sẽ ban cho”. Bởi lẽ, Salomon là một con người khiêm tốn thẳm sâu, và có lòng yêu mến Thiên Chúa, nên ông ta tuyên bố mình chỉ là tôi tớ của Chúa. Ông chỉ xin cho mình một điều ước giản đơn, đó là được khôn ngoan để lãnh đạo dân, và để biết phân định đâu là tốt, đâu là xấu. Vị vua Israel này chỉ có một ước muốn duy nhất là có được khả năng để phục vụ Chúa và dân của Ngài.
Vua Salomon đã phân định, không phải chỉ là những ước mơ hời hợt và nông nổi, nhưng là một mong ước sâu xa tận đáy lòng để biết quy thuận ý Chúa. Ông được ban sự khôn ngoan để có thể thấy được điều gì là tốt nhất cho đất nước của ông, cho dân của ông, cũng như đó là điều tốt nhất cho chính ông. Salomon đã không cảm nghiệm trước được niềm vui do ân ban này, và ông chỉ nếm trải khi niềm vui đó đã đã tròn đầy. Đứng trước lời cầu xin của Salomon, Thiên Chúa đã ban cho ông một “đầu óc khôn ngoan và biết phân định tốt xấu”. Ngài còn ban cho ông ấy 2 điều khác “Ta sẽ ban cho con cả những điều con không xin, đó là sự thịnh vượng và được kính phục trong suốt cả đời”, và “Nếu con bước đi trong đường lối của Ta, tuân giữ những thánh chỉ và nhưng huấn lệnh của Ta, như Đavid thân phụ ngươi đã tuân hành, thì Ta sẽ cho con được trường thọ” (1V 3,13).
Salomon đã biết nhận ra những giá trị khác cao quý hơn của cải trần thế. Khi gặp cảnh huống tương tự, có lẽ chúng ta vẫn thích cầu xin cho mình được giầu sang, được phú quý, được sống lâu, và khi đã trải nghiệm cuộc đời với những suy nghĩ chín chắn hơn, chúng ta mới tìm kiếm sự khôn ngoan và sự minh mẫn. Vương quốc của Salomon, tuy giàu của cải, nhiều sự kính phục dành cho ông và ông sẽ được sống lâu, vẫn là một vương quốc thuộc trần thế và qua mau, sớm muộn cũng sẽ lụi tàn. Vì vậy việc Salomon tìm kiếm sự khôn ngoan khai mở cho chúng ta một hướng đích khác để nhắm đến. Nếu sự khôn ngoan trần thế là một điều đáng mơ ước, thì tại sao chúng ta lại không ước mơ đến một sự khôn ngoan khác – Sự khôn ngoan trong vương quốc vĩnh cửu?
Trong hai dụ ngôn mà Thánh Matthêu nói tới hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho chúng ta sự khôn ngoan mới mẻ này “ Nước Trời giống như một kho tàng được chôn giấu trong ruộng. Có người đã tìm thấy và đem giấu đi. Rồi anh ta vui mừng đem bán tất cả của cải anh có để mua cho được khu ruộng ấy. Thế rồi, Chúa Giêsu lại nói tiếp “ Nước Trời giống như một thương gia đi tìm ngọc quý, khi đã tìm được, anh ta đã bán tất cả tài sản để mua viên ngọc quý đó”.
Hai dụ ngôn này đề cập đến hai khía cạnh: Một là giá trị lớn lao của kho tàng chôn trong ruộng hay giá trị của viên ngọc quý, mà Nước Trời được sánh ví, hai là ước muốn của những con người tìm ra kho báu hoặc viên ngọc đã dám bán tất cả để mua cho được cái mình đã tìm thấy. Cả hai khía cạnh này đều rất quan trọng. Điều đầu tiên, chúng ta có nhận ra vương quốc nước trời vượt trên những giá trị trần thế hay không, và thứ đến, chúng ta có dám bán mọi sự để tậu cho được điều chúng ta đã khám phá ra không.
Cũng giống như sự khôn ngoan, không phải giàu sang, danh vọng hay trường thọ, Vương quốc Nước Trời có thể được chia sẻ cho người khác mà không bị mất đi hay bị suy giảm. Luôn luôn, sự khôn ngoan lúc nào cũng dồi dào để ta có thể sẻ chia, có thể ban tặng, có thể đổi trao. Đó là lý do tại sao, anh thương gia và người phú hộ dám liều bán tất cả để mua điều quý giá đã tìm thấy. Đó là một hình ảnh xem ra có vẻ khôi hài và cũng rất táo bạo, cũng như bạn bán một cái gì đó để có thể tậu lại, làm sở hữu cho riêng mình. Tuy nhiên, Vương quốc Nước Trời vẫn không bị suy giảm hoặc mất đi, sau khi bạn bán mọi thứ để tậu nó lại, đồng thời người khác vẫn có thể mua nó. Điều lạ lùng nhất, là sau khi bạn mua lấy Nước Trời, niềm vui của việc mua bán vẫn không bị vơi mất. Người mua sẽ chẳng bao giờ phải hối hận.
Đức Giêsu đã kết thúc hai dụ ngôn bằng câu hỏi, xem những học trò của Ngài có hiểu những điều Ngài giảng dạy hay không. Họ trả lời rằng có. Tuy nhiên, Ngài đã tóm kết 2 dụ ngôn bằng 1 dụ ngôn ngắn khác. Ngài nói “ Bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.”
Quả vậy, Đức Giêsu đã hướng dẫn các môn đệ của mình vào trong kỷ luật. Lời giáo huấn của Ngài tự nó là một kho tàng, nhưng cái gì là mới và cái gì là cũ? Đa phần các học giả đồng ý cho rằng sự khôn ngoan theo Kinh Thánh Cựu ước là cái cũ, còn sự khôn ngoan của Đức Giêsu thì mới. Còn chúng ta, chúng ta được mời gọi hãy khám phá ra kho tàng quý giá từ cả hai.
“Rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có” (Mt 13,44-52)
“Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?”
“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng; tựa như thương gia đi tìm hạt ngọc quý và cũng giống như chuyện chiếc lưới cá thả xuống biển… Và đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy.”Những dụ ngôn tiếp nối những dụ ngôn mà chúng ta được Chúa Giêsu giảng giải. Chuyện Nước Trời thật đơn giản và dễ hiểu như những chuyện đời thường, nhưng quan trọng là chúng ta có hiểu hay có muốn hiểu hay không.
Nhiều người “thưa hiểu” nhưng thực sự chẳng hiểu, chẳng biết cái gì cả…
Vì họ cũng chỉ trả lời như cái máy, “theo phong trào”, cho nó vui, cho có bè có bạn. Bởi cách sống của họ là cái vỏ bề ngoài, là cái hình thức hấp dẫn “không đụng hàng” chứ không cần cái nội dung, cái chất lượng.Cái gật đầu của họ cũng chẳng qua là cho nó “có” với chúng bạn.
Vì họ hiểu theo “kiểu của họ”: Chúa phải là người phục vụ họ, làm theo ý muốn của họ và Chúa trở thành “con rối”của lòng tham.Rốt cục “họ nói hiểu mà thực chất chẳng hiểu gì!”.
Vì họ chỉ hiểu theo “nghĩa đen” và cuộc đời của họ là những chuyện quanh quẩn của những hành động “vơ, vét, vào”: là mong đạt được những gía trị trần thế,là có được của cải mối mọt xông đến được,để rồi ngày tận thế là một sự thất vọng và trở thành “kẻ bị loại trừ”.
Nhiều người “thưa hiểu” và quả thực họ hiểu được ý nghĩa sâu xa của những dụ ngôn về Nước Trời và dám can đảm đầu tư tất cả để tìm được những kho tàng vô gía và sự tồn tại của mình. Người đời vẫn thường dạy “có gan thì làm giàu”.Họ vui mừng ra về và bán hết tất cả những gì mình có để được Nước Trời.
Khôn ngoan của người hiểu biết là sự chọn lựa giữa những cái vô gía và cái “có giới hạn”.
Khôn ngoan của người thương gia là dám can đảm bán hết tất cả, đánh đổi tất cả để chiếm hữu cả kho báu.
Khôn ngoan của người hiền lành là biết đứng về phía cá tốt để “được chọn lựa” và “không bị vứt ra ngoài” trong ngày tận thế.
“Và đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy…. Họ đáp lại: thưa hiểu”
Chẳng ai dại mà nhặt cá xấu để bỏ vào giỏ, nhưng ngược lại.
Thiên sứ sẽ tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính.
Như chủ nhà lấy ra từ kho của mình cả cái xấu lẫn cái cũ,để lọai trừ.
Và sẽ chẳng bao giờ có cơ hội lần thứ hai, cho bất kỳ ai và cho cả chính chúng ta.
Người đời vẫn thường nói “Khôn chết, dại chết, biết sống”. Qủa thế,người hiểu biết là người khôn ngoan hơn cả.Biết, vì không ai chết hoặc chịu thưởng phạt cho ai cả. Biết, vì mọi người phải tự quyết định đời mình mà không ai có thể giúp gì cho ai được. Biết, vì tốt xấu sẽ được phân định một cách rõ ràng mà chẳng ai đứng ra biện hộ hoặc phân bua cho ai được cả. Chúa đã ban cho chúng ta sự tự do và mỗi người phải chịu trách nhiệm về chính sự tự do của mình.
Họ đáp “thưa hiểu” và Chúa đã dạy “hãy biết tận dụng cả cái mới cái cũ trong kho của mình” để đầu tư cho sự chọn lựa của chính đời mình. Cái khôn của người hiểu biết là can đảm “bán hết tất cả” để có được cái vĩnh cửu,cái đời đời, không mối mọt và hư họai.
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sáng suốt chọn lựa cứu cánh cho cuộc đời mình và xin cho chúng con “biết liều” với sự chọn lựa đúng đắn để trở thành “cá tốt” được bỏ vào giỏ. Xin giúp mỗi người chúng con luôn can đảm, kiên trì sống với chính sự chọn lựa của mình trong tin tưởng, tín thác vào tình thương Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Một hôm, có một người kia gặp một nhà tu hành đi qua làng, ông vội chạy theo kêu lên: “Xin ông cho tôi viên ngọc quý trong cái bị của ông”. Nhà tu hành ngạc nhiên hỏi “Viên ngọc quý nào?”. Ông ta nói: “Đêm qua tôi nằm mơ thấy có ông tiên bảo là nếu tôi được viên ngọc quý của nhà tu hành sẽ đi qua làng hôm nay, tôi sẽ là người giàu có nhất trên đời. Vậy xin ông cho tôi viên ngọc quý đó”. Nhà tu hành tốt bụng móc trong bị ra và nói: “Có phải cái này không? Tôi mới nhặt được ở cánh đồng bên kia bờ suối. Nếu ông muốn thì tôi biếu ông”.
Người ấy sung sướng cầm lấy viên ngọc quý, cám ơn rồi đi ngay về nhà, trong bụng nghĩ thầm: “Từ nay mình sẽ là người giàu có, không phải vất vả gì nữa”. Thế nhưng tối hôm ấy tâm trí ông áy náy, tâm hồn ông bồn chồn, trằn trọc không sao ngủ được. Sáng hôm sau, ông cầm viên ngọc đi tìm nhà tu hành và gặp thấy nhà tu hành ấy đang ngủ ngon lành dưới gốc cây. Ông rón rén đến gần đánh thức dậy và nói: “Thưa ông, tôi xin trả lại ông viên ngọc quý này, xin ông ban cho tôi viên ngọc quý khác, tức là sự phong phú của tâm hồn, đã làm ông có đủ can đảm cho tôi viên ngọc quý này mà không tiếc xót”.
Viên ngọc quý thực sự của tâm hồn là gì để cho nhà tu hành kia có được nghị lực khước từ mọi giàu sang thế trần mà không biết tiếc xót chi cả? Đó là điều Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay.
Bài Tin Mừng là hai dụ ngôn “kho báu” và “viên ngọc quý”. Kho báu và viên ngọc quý ấy Chúa Giêsu đưa ra ở đây để tiêu biểu cho cái gì? Thưa, đó là nước trời. Đứng vậy, cả hai dụ ngôn đều muốn nói tới sự cao quý tột bực của nước trời, không của cải nào sánh bằng. Cao quý đến nỗi khiến mọi thứ khác đều lu mờ đi, và mọi giá trị người ta từng theo đuổi từ trước đều phải nhường chỗ.
Hai hình ảnh “kho báu” và “viên ngọc quý” vừa rõ ràng vừa huyền bí. Rõ ràng ở chỗ ai biết gía trị của chúng thì quý hóa, còn huyền bí ở chỗ có nhiều người không biết giá trị tiềm ẩn đó, chính vì vậy mà nhiều người bị lầm. Cũng như người kia có kho báu ở ngay trong thửa ruộng của mình mà không biết, hay người có viên ngọc quý giá kia cũng thế, họ nắm trong tay mà không hay, nên họ đã để vuột mất kho báu và viên ngọc quý.
Câu chuyện này cũng giống như câu chuyện “Ông già xứ Ba Tư”, xứ ngàn năm lẻ một hay ngàn lẻ một năm. Câu chuyện như sau: ông già ấy có một nông trại rộng lớn, vườn rộng ao sâu, nhiều hoa quả và cá quý, ông ta nghe lời một vị đạo sĩ bán hết ruộng vườn để đi tìm kim cương. Ông lặn lội đi tìm hết nước nầy sang nước khác, nhưng không tìm thấy kim cương đâu cả, cuối cùng, hết tiền, đói khổ, quần áo rách rưới, cùng đường, ông đâm đầu xuống sông tự tử. Trong khi đó, người mua lại nông trại của ông đã tìm ra một mỏ kim cương khổng lồ ngay trong nông trại đó. Chúng ta thấy ông già Ba Tư ấy ngồi ngay trên mỏ kim cương, sở hữu mỏ kim cương kia mà không hề hay biết gì.
Nhiều người chúng ta cũng ở trong tình trạng đó chăng? Rất có thể chúng ta đang gần kề hạnh phúc nước trời và những hồng ân của nước ấy mà chúng ta không biết chăng? Đây không phải là hạnh phúc vật chất, ngắn hạn, được thực hiện ngay ở trần thế này, nhưng là hạnh phúc tâm linh, vĩnh cữu, chỉ được thực hiện trọn vẹn trong cõi sống đời đời. Đó chính là nước trời mà Chúa Giêsu muốn giảng dạy cho chúng ta biết. Nước trời như kho báu, như viên ngọc quý mà chúng ta phải cố gắng tối đa để chiếm hữu. Quả thực, mọi người Kitô chúng ta đều được mời gọi tìm kiếm nước trời. Công việc tìm kiếm này không chỉ giới hạn trong một quãng thời gian hay trong một số công việc nào, nhưng suốt cả cuộc đời và trong mọi sinh hoạt. Bởi vì nước trời là cái giá trị nhất chúng ta phải tìm kiếm và chiếm hữu. Nước trời quý hơn và giá trị hơn bất cứ thứ gì chúng ta đang có hay có thể có trong cuộc sống, và nước trời sẽ ban cho chúng ta nhiều hơn bất cứ cái gì cuộc sống có thể mang lại cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải không ngừng tìm kiếm và sẵn sàng đánh đổi tất cả những gì chúng ta có, kể cả mạng sống, để chiếm được kho báu hay viên ngọc quý này.
Nói cụ thể hơn, nước trời đây là phần rỗi, là sự sống đời đời của chúng ta, quý giá vô cùng, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm trước hết, tuyệt đối ưu tiên, sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm đoạt cho bằng được, dù phải hy sinh bao nhiêu cũng chưa đủ và chưa xong. Quả thực, khi bước vào trần thế này, chúng ta muốn mở rộng bàn tay để chiếm lấy mọi sự, nhưng khi nhắm mắt xuôi tay, chúng ta đành phải ra đi với hai bàn tay trắng. Xuất thân từ bụi đất chúng ta sẽ trở về với bụi đất mà thôi, chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời. Chính điều đó mới đáng cho chúng ta lao nhọc để tìm kiếm và sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm hữu.
Vì vậy, chúng ta đang sống giữa những xoay chuyển của vật chất, chúng ta phải vất vả làm ăn, chúng ta phải quan tâm đến những nhu cầu cần thiết của đời sống…đó là điều chính đáng, nhưng chúng ta đừng quên: đời là tạm bợ, chúng ta cần và rất cần tìm ra giá trị vĩnh cửu ngay trong cuộc đời này kẻo quá muộn. Chúng ta hãy nhớ: đời là một dịp tiện, mỗi ngày sống là một dịp may, chúng ta có tự do và ý chí để quyết định phần giá trị cho mình. Chiếm đoạt được nước trời, tức là đạt được đời sống vĩnh cửu hay không là do chính mình. Chúng ta hãy có thái độ khôn ngoan của người tìm được kho báu và viên ngọc quý trong Tin Mừng hôm nay.
Ngay từ nhỏ những dịp đi xa, mỗi lần xe đậu tại bến xe đò, bến phà hay ga tầu hoả, nhiều lần được nghe câu.
Ông bà cô bác làm ơn cho xin đồng tiền, bát gạo.
Người ăn xin bao giờ cũng nhắm đến xin người giầu có hơn mình, không xin người nghèo khổ hơn. Thực ra xin người nghèo khó hơn mình họ có gì để cho. Vì thế câu xin nhắm đến đối tượng ông bà, cô bác. Đây là bậc trưởng thượng trong xã hội, mới có dư giả để cho. Họ cũng xin rõ ràng mạch lạc. Không xin gì khác ngoài đồng tiền, bát gạo. Thực ra mấy ai đi đường mang theo gạo để sẵn có gạo mà cho. Vì thế hầu hết người ta cho tiền để người ăn xin tự đi mua gạo và nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống. Người làm việc bác ái dọc đường không cần biết người ăn xin tiêu tiền như thế nào, với mục đích gì. Họ đáp lại theo yêu cầu xin cho cơm ăn, áo mặc của kẻ nghèo khó. Người ăn xin hoàn toàn tự do chi tiêu số tiền đó theo hoàn cảnh riêng từng người.
Nên nhớ không phải tất cả những người xin ăn đều phung phí, tay trắng cả đâu. Họ cũng biết tích trữ chứ. Người ăn xin không nhà cửa ngoại trừ chỗ ngủ qua đêm, tránh mưa gió. Hẳn nhiên chỗ đó không an toàn nên có lẽ tiền xin dư hay để dành được họ phải tìm cách chôn giấu quanh đâu đó. Chỗ giấu hay nhất chính là chôn dưới đất. Chẳng may người đó mất đi nếu chủ ruộng tìm được, đương nhiên hưởng gia tài chôn dấu đó.
Phúc âm nhắc đến dụ ngôn người tìm được kho tàng chôn dấu anh ta bán hết mọi sự tìm mua thửa ruộng đó. Kho tàng đây không phải của người mù chôn dấu. Kho tàng Đức Kitô muốn nói tới là kho tàng ai cũng nhìn thấy nhưng người tham của cải thế gian sẽ mù quáng không nhận ra. Chỉ những ai dám bán hết gia tài để mua mới nhận ra. Bán hết gia tài để được giầu hơn. Nghe có vẻ nghịch lí. Người ngoài nhận xét anh là chủ ruộng nghèo vì đã bán hết mọi sự. Ngoài ruộng ra anh còn chi. Thực tế anh giầu hơn không phải vì đất ruộng tăng giá. Anh giầu hơn vì anh có thửa ruộng cộng thêm kho tàng chôn dấu trong ruộng.
Người xưa dùng hình ảnh viên ngọc quí và hình ảnh chủ ruộng là hình ảnh của khôn ngoan. Chỉ người khôn ngoan mới có khả năng tậu viên ngọc và có tiền làm chủ ruộng. Đại đa số đều làm thuê, công nhân. Viên ngọc quí và kho tàng chôn trong ruộng là hai hình ảnh Đức Kitô dùng chỉ về nước trời. Người giầu có là người có Lời Chúa làm chủ cuộc đời. Người khôn ngoan là người được Lời Chúa soi sáng trong đời. Muốn được Lời Chúa làm chủ cuộc đời người đó cần bán bỏ tất cả những chủ khác để chọn một chủ duy nhất. Chọn như thế anh sẽ một lòng trung thành với chủ. Đầy tớ trung thành với chủ là đầy tớ khôn ngoan. Khôn ngoan không phải do anh học được mà do giáo huấn chủ giáo dục, hướng dẫn biến anh trở thành người đầy tớ khôn ngoan. Nói cách khác khôn ngoan anh có được là do chủ ban cho. Anh giầu có không phải vì miếng ruộng, mảnh vườn. Anh giầu có vì gia tài anh có không bị mối mọt đục khoét, không hư hao, mất giá vì thời gian.
Chọn Chúa là Đấng duy nhất làm chủ đời mình và chọn lời Chúa làm kim chỉ nam soi đường là người sống có mục đích, biết rõ con đường mình đang đi tới, mục đích mình muốn đạt. Từ đó mọi suy nghĩ hành động đều qui hướng về mục đích cao cả đó. Đây chính là trường hợp của vua Salomon trong bài đọc một hôm nay.
Cựu ước ghi lại ơn khôn ngoan của vua Salomon khi ông biết ông non dại, thiếu kinh nghiệm lãnh đạo, không thể làm tròn trách nhiệm Chúa trao nên ông xin.
Chúa khiến tôi tớ Chúa cai trị kế vị Đavít thân phụ con. Nhưng con chỉ là một trẻ nhỏ, không biết đường đi nước bước. Tôi tớ Chúa đang sống giữa dân Chúa chọn…. Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ… 1V3,7-12
Chúa ban cho điều Salomon xin và còn cho hơn cả những điều ông không biết để xin. Lý do nào Chúa làm thế? Vì Salomon không xin lợi riêng cho mình nhưng xin ơn làm tròn sứ vụ Chúa trao. Vì thế Chúa ban cho dư đầy. Xin như thế là xin Chúa làm chủ đời mình nên Chúa ban cho Solomon nhiều sự lành. Ngài cho ông trở nên công chính và khôn ngoan. Người lãnh đạo khôn ngoan và công chính mang lợi ích cho muôn dân, làm sáng Danh Thánh Chúa.
Muốn trở nên giầu có phải biết học cho đi. Muốn trở nên khôn ngoan phải biết học khôn từ lời Chúa.
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn)
Chúng ta đang sống trong một thế giới điên loạn vì vô luân vô đạo, với đầy rẫy ở khắp nơi những sụ dữ như hận thù,dâm ô, chém giết nhau từ trong gia đình ra đến bên ngoài xã hội và cộng đồng thế giới.. Bọn khủng bố cuồng tín, núp dưới danh nghĩa tôn giáo, ngày một trở nên nguy hiểm cho sự an toàn của người dân lương thiện vô tội ở khắp nơi, vì lo sợ sẽ là nạn nhân của những cuộc khủng bố, bách hại của bọn cuồng tín kia. Trong khi đó, nạn bóc lột và cai trị hà khắc vẫn tiếp diễn ở các nước độc tài, nơi nghèo túng, lạc hậu và thiếu tình người, thiếu đạo đức và vô luân, đã khiến cho nhiều cha mẹ đem bán con cái cho bọn buôn người để cung cấp cho kỹ nghệ mãi dâm và ấu dâm rất khốn nạn và tội lỗi.
Trên bình diện khác, bọn tư bản ở khắp nơi – đặc biệt ở Mỹ- ngày càng làm giầu với những xảo thuật về kinh tài mà giới cầm quyền cai trị cũng phải bó tay để mặc chúng thao túng thị trường chứng khoán và lèo lái kinh tế theo ý muốn có lợi cho chúng. Cụ thể, tại sao Nước Mỹ có trữ lượng dầu hỏa và khí đốt phong phú không thua gì các nước dầu hỏa Á Rập mà dân Mỹ vẫn phải mua săng với giá cao, khiến đời sống của đa số người lao động ngày càng khó khăn vì giá săng dầu không thể hạ xuống thấp được nữa? lý do là bọn tư bản, làm chủ các hãng săng dầu muốn vơ vét cho đầy túi tham, bất chấp hậu quả tai hại cho người dân lao động có mức lợi tức thấp.
Khi xã hội và cộng đồng thế giới không được chỉ huy, lãnh đạo bởi những nguyên tắc công bằng và đạo lý thì người dân sống trong đó cũng bị chao đảo về mặt tinh thần, coi thường luân lý đạo đức, là nền móng cho một đời sống tinh thần lành mạnh và hướng thượng. Hậu quả trông thấy là có biết bao người đang dửng dưng với mọi tôn giáo để chậy theo những quyến rũ về tiền bạc, của cải vật chất, danh vọng trần thế và tôn thờ khoái lạc (hedonism) với những thú vui vô luân vô đạo, như bộ mặt của thế giới tục hóa ngày nay.
Đứng trước thực trạng nói trên của con người thời đại hôm nay, là người tín hữu Chúa Kitô, chúng ta nghĩ gì về niềm tin của mình? phải chăng chúng ta đang đi tìm Thiên Chúa và sự giầu sang phú quí của Nước Trời, hay đang chạy theo những trào lưu tục hóa của thời đại?
Để trả lời cho câu hỏi này, bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm Chúa nhật 17 mùa thường niên hôm nay cống hiến cho chúng ta giải đáp thỏa đáng để suy nghĩ và áp dụng trong đời sống đức tin của mỗi người chúng ta
Thật vậy, bài đọc thứ nhất, trích trong sách các Vua, kể cho chúng ta nghe sự kiện Vua Salômon, con Vua Đavid, được gặp Chúa trong giấc mơ. Chúa hỏi ông muốn xin gì, ông đã đáp như sau:
“Xin ban cho tôi tớ Chúa đây một tâm hồn biết lắng nghe để cai trị dân Chúa và biết phân biệt phải trái,.. Thiên Chúa hài lòng vì Salômon xin điều đó, nên đã nói với nhà vua như sau: “Bởi vì ngươi đã xin điều đó. Ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải; cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng và sau ngươi cũng chẳng có ai bì kịp. (1V 3, 9-12)
Đây là món quà quí giá mà Chúa đã ban riêng cho vua Salômon để giúp cho nhà vua biết khôn ngoan khi cai trị dân Chúa và biết phải trái khi phán đoán họ.
Như vậy, mỗi người tín hữu chúng ta hãy noi gương vua Salômon để xin Chúa ban ơn hiểu biết và khôn ngoan để biết đâu là gian tà và tội lỗi phải tránh và đâu là điều thiện hảo phải làm để được chúc phúc và nhất là được cứu rỗi để vào Nước trời vui hưởng hạnh phúc bất diệt với Chúa, sau khi kết thúc hành trình đức tin trên trần thế này
Thật vậy, sống trong một thế giới tôn thờ tiền bạc,của cải vật chất và những thú vui vô luân vô đạo, vô lương tâm và dửng dưng trước sự nghèo đói và đau khổ của đồng loại, người tín hữu chúng ta cần thiết phải xin Chúa ban cho ơn khôn ngoan,và can đảm sống theo đường lối của Chúa để không đi vào con đường đưa đến hư mất đời, vì “người nào được cả thế giới mà mất sự sống ( mất linh hồn) thì nào có lợi ích gì?” như Chúa Giê su đã nói với các môn đệ và những người đến nghe Chúa giảng dạy xưa kia. (Lc 9,25) Nói khác đi, chúng ta phải noi gương vua Salômon đã không xin Chúa cho được giầu sang, được sung sướng vật chất, mà chỉ xin Chúa cho được khôn ngoan để biết phân biệt điều hay việc tốt phải làm, và sự xấu sự dữ phải tránh để không chạy theo những quyến rũ về tiền tài danh vọng chóng qua ở đời này khiến quên lãng điều cần thiết và quan trọng hơn là tìm Chúa và hạnh phúc sang giầu của Nước Trời.
Mặt khác, cũng chính trong mục đích tìm sự khôn ngoan, ơn hiểu biết để sống giữa thế gian với biết bao người chỉ biết đi tìm những lợi lãi chóng qua ở đời này, và không thắc mắc gì đến tương lai ngày mai sau cái chết mà không ai có thể tránh được, Bài tin Mừng thánh Matthêu Chúa Nhật 17 mùa thường niên hôm nay cũng mời gọi chúng ta suy nghĩ sâu xa về ba dụ ngôn Chúa Giêsu kể cho các môn đệ về Nước Trời.
Trước hết là dụ ngôn về kho báu chôn dấu ngoài thửa ruộng kia. Có người tìm được và đã về bán tất cả gia sản của mình để mua lấy thửa ruộng có kho báu chôn dấu trong đó.Cũng vậy, một thương gia đi tìm ngọc quí, khi tìm được đã về bán tất cả những gì mình có để mua viên ngọc quí đó.
Nước Trời cũng được ví như kho báu và viên ngọc quí mà nhờ đức tin chúng ta tìm được. Nhưng tìm được rồi, chúng ta có về bán đi tất cả những gì mình có để mua kho báu và viên ngọc quí đó hay không?
Nói khác đi, nếu đức tin cho ta biết có Thiên Chúa là Cha cực tốt cực lành, có hạnh phúc Nước Trời mà “mắt chưa từng xem thấy, tai chưa hề nghe, lòng trí chưa từng nghĩ đến” (1Cr 2,9), thì chúng ta phải bán đi những gì mình có để mua lấy Nước trời hầu được chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc giầu sang.
Câu chuyện người thanh niên giầu có trong tin Mừng Thánh Máccô đủ cho ta thấy ham mê của cải, tiền bạc ở đời này là một trở ngại lớn cho ai muốn vào Nước Trời. Cụ thể, anh thanh niên giầu có kia, mặc dù đã thực hành tốt mọi điều răn của Chúa, nhưng khi Chúa Giêsu bảo anh hãy về bán hết tài sản và bố thí cho người nghèo rồi trở lại đi theo Chúa, thì anh đã buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải khiến không thể hy sinh được. Vì thế Chúa đã nói với các môn đệ như sau: Những người giầu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10, 23-24)
Như thế đủ cho thấy là ham mê của cải, làm nô lệ cho tiền bạc là một trở ngại lớn cho những ai muốn vào Nước Thiên Chúa.
Và để tìm kiếm Nước Trời, qua ba dụ ngôn trong bài Tin Mừng Chúa nhật này, Chúa Giêsu cũng có ý cho ta hiểu rằng Nước Trời còn quí giá hơn cả kho báu chôn kín trong thửa ruộng hay viên ngọc quí mà thương gia kia tìm được.Kho báu ấy chính là Thiên Chúa và Vương Quốc bình an và hạnh phức của Người.
Vậy, ta phải bán đi những gì để mua Kho Báu ấy?
Những gì người ta có là lòng ham mê tiền bạc và của cải cùng danh vọng ở đời này.Thêm vào đó, là lòng ham muốn những vui thú bất chính,dâm ô thác loạn, hận thù nghen nghét, bất công chèn ép, bóc lột người khác và dửng dưng trước sự nghèo đói, đau khổ của biết bao người xấu số trong xã hội. Tất cả đây là những trở ngại cho ai muốn được vào Nước Trời để hưởng hạnh phúc giầu sang phú quí vinh cửu mà Thiên Chúa, Cha chúng ta, đã dành sẵn cho nhưng ai yêu mến Người, hơn yêu mến tiền bạc, danh vọng và mọi thú vui vô luân vô đạo ở đời này
Như vậy, nếu muốn mua Nước Trời, thì mỗi người chúng ta phải bán đi những gì mình đang có – hay nói khác đi- phải từ bỏ những trở ngại để có thể vươn tâm hồn lên cùng Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc giầu sang. Nếu lòng trí ta còn nặng chĩu những tham sân si ở đời này, thì chắc chắn không thể đến gần được Chúa và không có hy vọng gì mua được sự giầu sang phú quí của Nước Trời.
Thực trạng đáng buồn trong cách sống đạo của rất nhiều người tín hữu ở khắp nơi ngày nay đã chứng minh điều này: có những người thường xuyên bỏ lễ ngày Chúa Nhật và những ngày lễ trọng, hoặc không bao giờ đi xưng tội hay bỏ giờ ra cầu nguyện, nhưng lại luôn luôn có mặt ở những cuộc hội họp ăn uống và nhẩy nhót cuồng loạn. Có những người đã bỏ -hay li dị vợ già- để về Vietnam cưới những cô gái trẻ đáng con cháu của mình, bắt chấp sự cười chê và phỉ nhổ của dư luận quần chúng.
Lại nữa, có biết bao người đã và đang thi nhau về VN để ăn chơi tội lỗi, vì hoàn cảnh xã hội suy đồi về đao đức và khó khăn về kinh tế ở bên nhà, đã khiến cho nhiều phụ nữ phải bất đắc đi làm các nghề mua vui cho người khác để kiếm của nuôi thân.
Nếu người tín hữu Chúa Kitô mà cũng lăn mình vào nếp sống của những người vô luân, vô đạo kia, thì làm sao có thể mua được Nước trời với giá phải loại bỏ những đam mê trần thế để sống theo đường lối của Chúa, vì “ nếu được mọi lợi lãi ở đời này mà mất linh hồn thì được ích gì”?
Sau hết, qua dụ ngôn chiếc lưới thả xuống biển để bắt nhiều loại cá tôm. Nhưng người thả lưới sẽ chỉ lựa loại cá tôm tốt bỏ vào giỏ, còn loại xấu thì sẽ quăng đi.Hình ảnh này cũng cho ta biết là Thiên Chúa, trong ngày sau hết, sẽ sai các thiên thần đi gom những người thực tâm mến Chúa, yêu người và chê ghét mọi sự dữ, mọi quyến rũ về của cải và vui thú vô luân vô đạo ở đời này và đưa họ vào Thiên đàng vui hưởng thánh nhan Chúa. Còn những kẻ đã mê mãi chạy theo và làm những sự dữ ở trần gian này, bắt chấp lương tâm và lòng kính sợ Chúa, thì sẽ bị ném vào hỏa ngục để bị thiêu đốt như người ta đốt cỏ dại, quăng cá tôm xấu xuống biển, và chỉ lấy lúa chin bỏ vào kho và tôm cá tốt vào giỏ. Chúa nói: ai có tai nghe thì nghe. (Mt 13,43; Mc 7,16; Lc 8,8)
Ước chi ba dụ ngôn Chúa Giêsu kể trong Tin Mừng Chúa nhật này đủ đánh động tâm hồn mỗi người chúng ta để giúp chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của mình. Xem thực sự mình có lòng yếu mến Chúa và quyết tâm sống theo đường lối của Người, hay đang chạy theo những vui thú tội lỗi, những ham mê về của cải và danh vọng hư hão trong trần thế này, đến coi nhẹ hay quên mất mục đích tối cao là tìm kiếm Thiên Chúa và hạnh phúc giầu sang của Nước Trời.
Xin Chúa Thánh Linh ban cho ta ơn hiểu biết và khôn ngoan như vua Salô mon đã xin Chúa xưa kia để giúp chúng ta biết lựa chọn và sống đức tin cách vững chắc để được gặp Chúa và vui hưởng hạnh phúc vinh cửu trên Nước Trời mai sau.
(Suy niệm của Lm. Pietro Nguyễn Hương)
Sống là một hành trình tìm kiếm và chọn lựa liên lỉ. Tìm kiếm chân thiện mỹ, chọn lựa tốt xấu, lành dữ.
Trong tác phẩm nổi tiếng “la Pensées”, Pascal (triết gia Công Giáo Pháp) cho rằng có ba thứ bậc của sự cao trọng. Bậc thứ nhất liên quan đến vật chất hay con người: nó đề cao những ai giàu có, những ai có sức khoẻ hay dung nhan xinh đẹp. Bậc này có một giá trị không thể xem thường, nhưng nó chỉ ở cấp thứ nhất.
Bậc thứ hai cao trọng hơn là bậc của tài năng siêu việt mà các triết gia, khoa học gia, nghệ sĩ và các nhà thơ nắm giữ. Đây là một bậc có một phẩm chất khác. Giàu hay nghèo, đẹp hay xấu, không thêm không bớt điều gì từ những thiên tài. Trước họ chúng ta phải ngưỡng mộ, nhưng nó chưa phải là bậc cao nhất.
Còn có một thứ bậc cao hơn, đó là thứ bậc của tình yêu, của lòng tốt mà Pascal gọi đó là thứ bậc của thánh thiện và ơn sủng. Gounod cho rằng: “Một giọt thánh thiện đáng giá hơn một đại dương tài năng”. Đẹp hay xấu, học thức hay dốt nát không thêm hay bớt đi điều gì khỏi một người thánh thiện, một vị thánh. Sự cao cả của ngài thuộc về một thứ bậc khác, vượt trên cả hai bậc kia. Điều này rất phù hợp với quan niệm của người Việt Nam: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (Nguyễn Du, Truyện Kiều).
Có thể nói rằng đức tin Kitô giáo thuộc về bậc thứ ba này, bởi lẽ cốt lõi của Đạo chúng ta là Tình Yêu, và mời gọi đạt tới sự Thánh Thiện. Hay nói đúng hơn, những ai đã được rửa tội, là kitô hữu đều được mời gọi sống cho Tình Yêu và sự Thánh Thiện này, ngay trong chính đời sống của mình.
Lời Chúa hôm nay cũng nói tới sự cao cả và lời mời gọi này: Vua Salômon trong bài đọc I không xin Chúa cho được giàu có, sống lâu, nhưng ông chỉ xin cho tâm hồn khôn ngoan để lãnh đạo dân Chúa và phân biệt lành dữ. Điều ông xin đẹp lòng Chúa và Chúa ban cho ông được khôn ngoan và có tất cả.
Dụ ngôn “kho báu giấu ở thửa ruộng” và “viên ngọc quí” diễn tả sự cao trọng, sự vô giá của Nước Trời, mà không có cái gì, không có vàng bạc hay tài năng nào sánh được. “Kho báo” và ‘viên ngọc quý” ở đây là chính Đức Giêsu Kitô, Ngài là đối tượng lớn nhất, là niềm vui, là hạnh phúc để chúng ta tìm kiếm và sở hữu. Không có gì đẹp hơn, bởi được tìm biết Đức Kitô, có Ngài chúng ta có tất cả! Nói như Thánh Phaolô hôm nay là: trong Người, chúng ta “những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh”, trở nên giống với hình ảnh Chúa Con, trở nên giống Đức Kitô. Như thế, lời mời gọi nên thánh chính là trở nên giống Đức Kitô, sống theo Đức Kitô.
Khủng hoảng lớn nhất của con người hôm nay là khủng hoảng về các giá trị, các bậc sống bị đảo lộn. Tiền bạc lên ngôi, trở thành tiên, thành phật; sự thánh thiện và tình yêu trở thành một thứ secondhand, “hàng ế”! Thiên Chúa bị loại ra khỏi đời sống. Đức Giáo Hoàng Benedetto XVI nói rất chính xác rằng: “Trong lòng nhiều người sống trong xã hội chúng ta, bên cạnh sự thịnh vượng vật chất là sự lan rộng của sa mạc tâm linh, một sự trống rỗng nội tâm, nỗi sợ không tên, và một cảm thức lặng lẽ của tuyệt vọng” (Bài giảng ở Sydney 2008). Nếu cuộc sống chúng ta vắng bóng Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa không được tìm kiếm và quy chiếu như sự thiện tuyệt đối, như là mục đích tối hậu của đời người, thì chúng ta sẽ bị vong thân, cuộc sống đánh mất nền tảng căn bản.
Như hai người trong Tin Mừng tìm kiếm kho báu và viên ngọc quí, tất cả chúng ta đều được mời gọi tìm kiếm Thiên Chúa như là kho báu, là viên ngọc quí, là mục đích tối hậu trong cuộc đời mình. Trong gia đình, chúng ta đừng đánh giá nhau chỉ dựa trên tiền bạc của cải. Các bạn trẻ đừng bao giờ nghĩ rằng, tình dục là tất cả để tìm kiếm, để hưởng thụ. Có một sự bận tâm cao hơn đó là “tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Trời”; có những giá trị còn lơn lao hơn, đó là hãy sống thánh thiện và tìm kiếm Thiên Chúa là chân thiện mỹ của đời ta. Amen!
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ đức Trí)
Trong kinh doanh, một quyết định đúng lúc và phù hợp sẽ đem lại lợi ích và thành công cho doanh nghiệp; với những người lãnh đạo, một quyết định đúng, khôn ngoan có thể cứu cả một dân tộc, một đất nước thoát khỏi nghèo đói và lệ thuộc, ngược lại một quyết định vội vã, thiếu cân nhắc, thiếu khôn ngoan, có thể là một tai họa cho nhiều thế hệ con cháu. Trong đời sống cá nhân, một quyết định chọn lựa khôn ngoan sáng suốt, có thể đem niềm vui và hạnh phúc đến cho bản thân, cho gia đình, ngược lại nếu đưa ra một quyết định chọn lựa sai lầm sẽ có thể để lại sự ân hận cho con người suốt cả đời.
Nếu trong đời sống thường ngày cần phải có những quyết định dứt khoát, khôn ngoan cho mình, thì Lời Chúa hôm nay cũng nhắc cho chúng ta cho chúng ta cũng cần phải có những chọn lựa khôn ngoan, dứt khoát có thể đem lại hạnh phúc và ơn cứu độ cho bản thân cho gia đình ngay lúc này. Thiên Chúa hết sức tôn trọng tự do của con người, và Ngài luôn để cho con người tự do chọn cho mình một tương lai, đồng thời cũng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Nhưng vấn đề là: Quyết định nào là quyết định khôn ngoan, và chọn lựa nào là chọn lựa dai dột?
Vua Salomon là một vị vua nổi tiếng về sự khôn ngoan trong việc điều hành và cai trị dân Chúa. Danh tiếng về sự khôn ngoan của ông đã lan truyền ra khắp vùng, dân chúng trong nước vâng phục, các vua lân bang kính nể, và nữ hoàng ở thận Phương Nam xa xôi phải tìm đến để học sự khôn ngoan của vua Salomon. Tại sao ông lại có được sư khôn ngoan như thế? Sách Các Vua hôm nay đã kể lại: Trước khi lên ngôi, Thiên Chúa đã cho ông một chọn lựa: Ngươi muốn gì, cứ xin, Ta sẽ ban cho. Khác với lẽ thông thường của nhiều người khi được một điều ước như vậy, người đời sẽ xin sự giàu sang phú quý, nhà cửa sang trọng, nhưng vua Salomon lại không màng những thứ ấy, trái lại ông xin cùng Thiên Chúa: Chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa lên kế vị Đavít, thân phụ con, mặc dầu còn trẻ người non dạ… con lại ở giữa một đám dân đông đúc không kể xiết: Xin ban cho tôi tới Chúa đây một tâm hồn biết lắng nghe để cai trị dân Chúa và phân xử một cách khôn ngoan. Lời cầu xin này đẹp lòng Chúa, ông không xin của cải, không xin sống lâu, cũng không xin chiến thắng quân thù, nên Chúa đã ban cho ông sự khôn ngoan vượt bậc, và còn ban cho ông tất cả những gì mà ông không xin: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không một ai được như ngươi, và sau ngươi không ai được bằng ngươi. Salomon đã không xin gì cho riêng mình, mà ông chỉ xin một điều là làm sao để ích lợi cho dân Chúa, cho người khác. Đối với Thiên Chúa, quyết định và chọn lựa như Salomon là một chọn lựa khôn ngoan, chứ không phải là lo tìm kiếm sự giàu sang danh vọng cho mình.
Chúa Giêsu đã giải thích rõ hơn như thế nào là quyết định chọn lựa khôn ngoan khi Ngài kể cho dân chúng nghe những dụ ngôn về Nước Trời mà Ngài so sánh như một người chuyên săn tìm kho báu, như một thương gia, hoặc như một ngư phủ chọn cá. Những người này khôn ngoan ở chỗ nào? Trước hết người săn tìm kho báu gặp được kho tàng chôn giấu trong ruộng, khi gặp được rồi, anh quyết định về bán tất cả những gì mình có để mua cả thửa ruộng lẫn kho báu. Anh ta có điên không? Trong mắt nhiều người quyết định như thế là điên khùng, vì đã liều mình đánh đổi cả sự nghiệp gia tài và cuộc đời vì kho báu ấy. Nhưng đối với người này, thì việc tìm được kho báu đã là hạnh phúc và là mục đích sự tìm kiếm cả đời ông. Ông này không chỉ cố gắng để giành cho được kho báu, mà con giành cả mảnh ruộng có kho báu đó. Cũng vậy có những người đã phải mất rất nhiều thời gian công sức không phải để tìm kiếm kho báu vật chất mà là tìm cho mình một lối đi, một hướng sống một mục đích của cuộc đời. Chính vì thế, biết được Nước Trời là hạnh phúc thật, là cùng đích cuộc đời, thì người tín hữu cũng phải có một quyết định giống như người săn tìm kho báu, đó là dám đánh đổi tất cả sự nghiệp tài sản và cả cuộc sống của mình vì hạnh phúc mai sau. Đó mới là quyết định khôn ngoan, sáng suốt.
Nếu như câu chuyện về người săn tìm kho báu hoặc thương gia đi tìm ngọc quý, khi tìm được, họ đã quyết định đánh đổi cả gia nghiệp để có được kho báu hay viên ngọc quý, thì hình ảnh người ngư phủ chọn cá tốt thì cho vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài, muốn nói đến sự chọn lựa trong cuộc sống thường ngày. Người Do Thái chỉ được phép ăn một số cá mà thôi, có một vài loại cá họ không được phép ăn, vì bị cho là những con vật dơ bẩn. Vì thế với công việc thường ngày của một ngư phủ, khi kéo lưới lên, anh ta sẽ phải cần mẫn để chọn lựa loại cá nào có thể ăn được, và loại bỏ những loại cá nào mà luật không cho phép ăn. Cá ăn được sẽ bỏ vào giỏ, còn cá dơ thì ném ra ngoài. Với hình ảnh này Chúa Giêsu cho thấy: Thiên Chúa sẽ là người chọn lựa, những người trong sạch thì được để riêng vào nơi hạnh phúc, con người xấu, kẻ từ chối Thiên Chúa và Tin Mừng của Ngài thì sẽ bị ném vào lò lửa; Người tốt, việc tốt thì được chọn vào “giỏ Nước Trời” còn người xấu việc xấu thì bị ném ra ngoài. Kế đến, cuộc đời của người theo Chúa cũng phải là một cuộc chọn lựa liên tục, chọn điều tốt, và loại trừ điều xấu. Những ai biết chọn đứng về phía Thiên Chúa và chọn mang lấy Tin Mừng của ngài và làm những việc tốt lành thì được cứu độ, còn những ai đứng về phía ma quỷ và những kẻ chống đối Thiên Chúa, từ chối Đức Kitô và Tin Mừng thì bị loại ra ngoài.
Bài đọc hai cho thấy chọn lựa của Thánh Phaolô: là một thanh niên giỏi giang xuất chúng, Phaolô có thể có một tương lai rạng rỡ trong con mắt của người đời và được mọi người kính phục cũng như ước ao, tuy nhiên Phaolô đã không chọn con đường của thế gian, mà trái lại ông đã được chọn và ông vui với việc được trở thành môn đệ Chúa Kitô. Cũng vì quyết định đáp lại lời mời gọi của chúa Kitô mà Phaolô đã rơi vào cảnh tù đày, dù bị tù đày, ông không hề hối tiếc song vẫn khuyên nhủ mọi người hãy sống xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa ban cho mỗi người. Đồng thời Thánh phaolô cũng mời gọi mọi người hãy dám chọn sống theo tinh thần và lề luật của Tin Mừng đó là ăn ở khiêm tốn hiền từ nhẫn nại, lấy tình bác ái mà cư xử với nhau.
Thưa quý OBACE, một khi quyết định chọn lựa thì cũng đồng thời phải chấp nhật sự mất mát từ bỏ, chọn Đức Kitô thì phải chấp nhận những gì không phù hợp với Đức Kitô. Một khi đã nhận ra Đức Kitô và Tin Mừng của Người là đường đưa tới sự sống đời đời, là kho tàng quý giá nhất trên đời, chúng ta cần phải quyết định dứt khoát và dám đánh đổi mọi sự để có được hạnh phúc đời đời đó.
Người đời sẽ không thể hiểu được tại sao lại có những chàng trai cô gái đang căng tràn sức sống, tương lai mở rộng, lại quyết định trở thành những linh mục tu sĩ, dành cuộc đời mình trong nhà dòng; người đời cũng sẽ không thể hiểu được tại sao giữa một xã hội cổ võ cho một lối sống tự do buông thả, thì những người tin theo Đức Kitô lại quyết định bước theo con đường hẹp của Tin Mừng, của thập giá. Thưa vì những người này đã nhận ra được kho tàng vô giá là đời sống phục vụ theo gương Đức Kitô, và nhận ra hạnh phúc Nước Trời mới là hạnh phúc đích thật cho con người, nên những người này đã dám bỏ lại đàng sau tất cả để sống theo lời mời gọi của Đức Kitô.
Kho tàng là hạnh phúc cũng đang được vùi trong các gia đình, mà mỗi thành viên, đặc biệt là các bậc làm cha mẹ cần phải tìm kiếm và bảo vệ bằng mọi giá, và phải chấp nhận đánh đổi tất cả những cái phụ thuộc để có thể đạt được hạnh phúc cho gia đình mình. Kho báu còn là vợ chồng là con cái, mà mỗi thành viên trong gia đình phải gìn giữ trân trọng và dám hy sinh tất cả những thứ khác để bảo vệ. Nhiều người đã quên mất điều đó, nên đã đem tình yêu và hạnh phúc của gia đình mình ra để đổi chác hoặc cầm cố, có người lại mải mê đi tìm một niềm vui nào đó nơi công việc hoặc tìm ở ngoài gia đình, mà quên rằng chỉ có gia đình mới thực sự là tổ ấm là cái nôi hạnh phúc cho mỗi người.
Một cám dỗ nguy hiểm cho nhiều người trẻ hôm nay, đó là cuộc sống xã hội đang tạo ra nhiều giá trị ảo, mục tiêu ảo, hạnh phúc ảo, thế giới ảo và nhiều thứ ảo giác khác khiến cho nhiều người trẻ đã lạc đường, mất hướng không còn biết mục đích cuộc đời của mình là gì, và hạnh phúc thật là gì. Chính vì thế đã có nhiều bạn trẻ thay vì đánh đổi cuộc đời mình để đạt được hạnh phúc Nước Trời, trái lại họ đang đốt cháy cuộc đời mình trong nghiện ngập, đam mê chơi bời, cờ bạc, buông thả. Nhiều người trẻ đang bị cám dỗ để lao vào tìm kiếm các giá trị ảo trong xã hội như tìm kiếm sự nổi danh, nổi tiếng, tìm đẳng cấp ăn chơi đua đòi hưởng thụ, và tiêu phí cuộc đời mình trong những thứ đó.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau, biết nhận ra Đức Giêsu là nguồn hạnh phúc đích thực của cuộc đời và Tin Mừng của Ngài là một bảo đảm để đạt được hạnh phúc ấy, để chúng ta dám đánh đổi tất cả những sự tạm bợ của thế gian này, để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đem đến cho chúng ta. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Một điều vô tiền khoáng hậu như thế được ký kết trong một giấc mộng tại Gabaon giữa một bên là Thiên Chúa, bên kia là Salomon, Thiên Chúa phán: “Đây Ta ban cho ngươi điều ngươi xin … đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi” (1V 3, 12).
Thiên Chúa muốn thông ban người vinh quang đã có tự đời đời cho con người. Vinh quang này được sánh như một kho báu hay một viên ngọc quí trong Tin Mừng hôm nay. Con người luôn luôn tìm kiếm hạnh phúc, và Đấng là nguồn mạch mọi ơn phúc. Thiên Chúa muốn chia sẻ vinh quang ấy cho con người. Chính con người cũng không biết mình được dựng nên để vui hưởng vinh quang với Thiên Chúa. Theo thánh Phaolô thì Thiên Chúa biết chúng ta từ thủa đời đời; khi được tạo thành, Ngài đã gọi tên ta. Theo nghĩa Thánh Kinh, Thiên Chúa biết chúng ta bằng cả tấm lòng, Ngài cưu mang chúng ta trong lòng Ngài, như một người mẹ biết con mình khi cưu mang con trong dạ.
Kế hoạch của Thiên Chúa là Ngài muốn chúng ta trở nên giống hình ảnh của Chúa Giêsu, Con Ngài, vì Chúa Giêsu là hình của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu nói với Philiphê “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Nói cách khác, Thiên Chúa muốn chúng ta là một thành viên trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là một đại ân huệ Thiên Chúa dành cho chúng ta! Nên Ngài mời gọi chúng ta trở nên hình ảnh của Con Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, nhất là mang trên mình danh hiệu là Kitô hữu “Đức Giêsu Kitô: làm sao giàu có như Ngài, mà vì anh em, Ngài đã nên nghèo khó, ngõ hầu anh em được nên giàu có nhờ sự nghèo khó của Ngài ” (2Cr 8,9).
Nếu chúng ta nghe và đáp lời Chúa, Thiên Chúa sẽ biện hộ cho chúng ta; Ngài sẽ làm cho chúng ta trở nên thánh thiện, hoan lạc, hạnh phúc và chiếu tỏa rạng ngời vinh quang Chúa phù hợp với Thiên Chúa. Vì kế hoạch của Thiên Chúa là ” Những kẻ Chúa đã biết trước, thì Người đã tiền định cho họ nên giống hình ảnh Con Người, để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho họ được vinh quang ” (Rm 8, 29-30).
Trong khi đó, kế hoạch của con người, là đi tìm hạnh phúc. Việc tìm kiếm này đòi phải phân định. Như chiếc lưới kéo lên tất cả các loại cá, nên hạnh phúc cũng có tất cả các loại. Có những thứ hạnh phúc đích thực, có những thứ hạnh phúc rẻ tiền, hão huyền, trống rỗng và giả dối.
Vua Solomon đã xin Chúa ban cho một “tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ” (1V 3, 9).
Để có hạnh phúc thực sự, cần phải cầu xin Chúa như Salomon: cho được ơn làm chủ bản thân, biết phân biệt tốt xấu, chọn lựa điều tốt, bỏ điều xấu. Vì tất cả những gì chúng ta hài lòng chưa hẳn đã là tốt.
Có ơn phân định, để nhận ra tiếng Chúa, làm theo kế hoạch của Chúa, như tác giả Thánh Vịnh đã hát: ” Bởi thế nên con yêu quý chỉ thị Ngài hơn vàng, và hơn cả vàng ròng tinh khiết. Bởi thế nên con tự chọn tất cả huấn lệnh của Ngài; hết thảy đường lối gian tà con đều ghét bỏ ” (118, 127-128). Cần phải có tâm hồn tỉnh thức, sẵn sàng không hời hợt, bốc đồng.
Tỉnh thức, thì dễ vâng phục và lắng nghe Chúa hơn, như thế mới có hạnh phúc. Hạnh phúc ở đây chính là điều Chúa Giêsu áp dụng cho Nước Trời, khi Người sánh ví như một kho báu hay một thương gia đi tìm ngọc quí.
Nước Trời, là chủ để hạnh phúc chúng ta tìm kiếm, đôi khi có thể được tìm thấy một cách tình cờ, như người kia tìm được kho tàng khi cày ruộng. Nó cũng có thể là kết quả của cuộc tìm kiếm lâu dài, như người buôn nọ đi tìm ngọc quý (Mt 13, 45). Và khi đã tìm được kho tàng, hay viên ngọc quý rồi, điều trước tiên như Chúa Giêsu nói là bán hết những gì đang có, để mua bằng được kho tàng và viên ngọc.
Kho tàng hay viên ngọc quí ấy là chính Đức Kitô, là tình yêu của Người. Tiên vàn hãy tìm kiếm Chúa Kitô trước đã. Ôi thật là khó, vì chung quanh chúng ta có quá nhiều ràng buộc, ngăn cản chúng ta gắn bó với Đức Kitô. Chúa Giêsu hỏi chúng ta dành cho Người tình yêu trên hết, chúng ta phải là kitô hữu 100%.
Chúa Giêsu tuyên bố: “Không ai có thể làm tôi hai chủ” (Mt 6,24). Chỉ có “kho tàng trên trời” chúng ta mới có thể lựa chọn để gửi gắm lòng mình: “Vì kho tàng ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó” (Mt 6, 20s). Thánh Phaolô nói rõ: “Nước quê ta là trời cao” (Ph 3,20).
Để có Đức Kitô, hay để có được Nước Trời cần phải dứt bỏ tất cả như Chúa Giêsu gọi mời: “Nếu ai muốn đi sau Ta, thì hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình và hãy theo Ta” (Mt 16,24)… Và chỗ khác Người nói: “Nếu ngươi muốn được trọn lành, thì hãy đi bán những gì ngươi có mà cho kẻ khó”, sau cùng Người thêm: “đoạn hãy đến theo” (Mt 19,21). Không những thế còn phải phấn đấu, “giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy”. Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta rằng không thể có được Nước Trời, nếu chúng ta không từ bỏ tất cả những gì chúng ta đang có: vinh quang, giầu có, địa vị và tất cả những sự tìm kiếm khác.
Qua dụ ngôn chiếc lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá, (Mt 13, 47) Chúa Giêsu cảnh báo. Đừng có lựa chọn và hành động nửa vời: cần phải hoán cải và tách mình ra khỏi tội lỗi là những thứ ngăn cản chúng ta với Thiên Chúa và Nước Trời.
Chúng ta hãy nài xin Chúa Giêsu, nhờ lời Đức Mẹ, dủ lòng thương xót, để mỗi người chúng ta có nghị lực vứt bỏ tội lỗi, như chúng ta vẫn tuyên xưng vào Đêm Vọng Phục Sinh, và cam kết chọn Chúa Giêsu là lẽ sống của chúng ta. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta nhìn vào bên trong để khám phá ra cái được cất giấu là Nước Trời: “Nước trời giống như kho báu chôn giấu trong ruộng” (Mt 13,44). Nói đến kho báu là chúng ta nói đến một cái gì đó có giá trị đặc biệt. Kho báu mà Chúa Giêsu nói đây được chôn giấu kỹ lưỡng trong tâm hồn của chúng ta, nơi sâu thẳm của mỗi người. Kho báu đó chính là Nước Trời. Nước Trời thôi thúc chúng ta vui vẻ đi tìm kiếm Nguồn Nước Hằng Sống, Chân, Thiện, Mỹ, và khi đã tìm thấy thì người ta vứt bỏ tất cả những gì là không cần thiết để có bằng được kho báu.
Có một số người như thánh Phaolô, và thậm trí ngay cả amh Trộm Lành cũng tìm thấy Nước Trời ngay lập tức, không cần phải suy nghĩ khi đối diện với Nước Trời, vì đường lối của Chúa là vô cùng vô hạn, nhưng để có được kho báu bí mật này, người ta phải cất công đi tìm kiếm: “Nước trời giống như người buôn nọ đi đi ngọc quí” (Mt 13,45). Những người tìm thấy kho báu được chôn giấu ấy có thể là vì họ không bằng lòng với cái vắn vỏi ở đời này.
Theo dòng thời gian, chúng ta đang nói về những người lo lắng hay quá tham vọng ở đời, nhưng trong thế giới thiêng liêng họ là những người lành thánh. Bằng chứng là họ không ngần ngại bán tất cả những gì mình có để mua cho bằng được thửa ruộng, nói theo kiểu thánh Gioan Thánh Giá: “Để có được tất cả, bạn hãy coi những thứ mình có là chẳng có giá trị gì”.
Nước Trời, là chủ đề hạnh phúc chúng ta tìm kiếm, đôi khi có thể được tìm thấy một cách tình cờ, như người kia tìm được kho tàng khi cày ruộng. Nó cũng có thể là kết quả của cuộc tìm kiếm lâu dài, như người buôn nọ đi tìm ngọc quý (Mt 13, 45). Và khi đã tìm được kho tàng, hay viên ngọc quý rồi, điều trước tiên như Chúa Giêsu nói là bán hết những gì đang có, để mua bằng được kho tàng và viên ngọc.
Kho tàng hay viên ngọc quí ấy là chính Đức Kitô, là tình yêu của Người. Tiên vàn hãy tìm kiếm Chúa Kitô trước đã. Điều ấy không phải là dễ, vì quanh chúng ta còn có quá nhiều ràng buộc, ngăn cản chúng ta gắn bó với Đức Kitô. Chúa Giêsu hỏi chúng ta dành cho Người tình yêu trên hết, chúng ta phải là kitô hữu 100%.
Chúa Giêsu tuyên bố: “Không ai có thể làm tôi hai chủ” (Mt 6,24). Chỉ có “kho tàng trên trời” chúng ta mới có thể lựa chọn để gửi gắm lòng mình: “Vì kho tàng ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó” (Mt 6, 20s). Thánh Phaolô nói rõ: “Nước quê ta là trời cao” (Ph 3,20).
Để có Đức Kitô, hay để có được Nước Trời cần phải dứt bỏ tất cả như Chúa Giêsu gọi mời: “Nếu ai muốn đi sau Ta, thì hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình và hãy theo Ta” (Mt 16,24). Và chỗ khác Người nói: “Nếu ngươi muốn được trọn lành, thì hãy đi bán những gì ngươi có mà cho kẻ khó”, sau cùng Người thêm: “đoạn hãy đến theo” (Mt 19,21). Không những thế còn phải phấn đấu, “bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy”. Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta rằng không thể có được Nước Trời, nếu chúng ta không từ bỏ tất cả những gì chúng ta đang có: vinh quang, giầu có, địa vị và tất cả những sự tìm kiếm khác.
Qua dụ ngôn chiếc lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá, (Mt 13, 47) Chúa Giêsu cảnh báo. Đừng có lựa chọn và hành động nửa vời: cần phải hoán cải và tách mình ra khỏi tội lỗi là những thứ ngăn cản chúng ta đi tìm Thiên Chúa và Nước Trời.
Chúng ta hãy nài xin Chúa Giêsu, nhờ lời Đức Mẹ, ban cho mỗi người ơn can đảm vứt bỏ tội lỗi, ma quỉ, thế gian và xác thịt như chúng ta vẫn tuyên xưng vào Đêm Vọng Phục Sinh, và cam kết chọn Chúa Giêsu là lẽ sống của chúng ta, đồng thời cố gắng làm mọi sự có thể để có được Nước Trời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Xuyên suốt trong các Chúa Nhật vừa qua, hình ảnh nổi bật trong các bài Tin mừng là ruộng đất. Từ hạt lúa gieo trên ruộng đồng đến lúa tốt và cỏ lùng chen vai mọc lên trên ruộng đất, và Chúa nhật hôm nay là kho báu chôn giấu trong ruộng lúa.
Palestine là miền đất có nhiều tranh chấp và nguy hiểm rình rập: chiến tranh, bệnh tật, nạn dịch, đói khát, cướp bóc, nô lệ…hay bất cứ một sự bất hạnh nào cũng có thể lấy mất tài sản và cuộc sống của người dân. Nhiều người đã chôn giấu của cải dưới đất, hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ trở lại, nhưng có nhiều người ra đi vĩnh viễn. Do đó, người ta thường tìm thấy kho tàng.
Dụ ngôn “Kho báu chôn dấu trong thửa ruộng” là một câu chuyện không có gì xa lạ với dân chúng Do Thái, bởi vì họ vẫn thường kể cho nhau nghe về một câu chuyện cổ tích tương tự như thế.
Ngày hôm ấy, Abba Giuđa đang cố gắng cày nốt thửa ruộng còn lại, thì bỗng con bò của anh ta bị ngã qụy và gãy mất một chân vì gặp phải một cái hố nhỏ. Bực mình, anh ta dừng lại vuốt những giọt mồ hôi trên trán, rồi qùy xuống nâng chân con bò lên. Đột nhiên, Đức Giavê mở mắt cho anh ta và anh ta đã nhìn thấy một kho tàng quí giá ngay trong cái hố nhỏ ấy. Anh ta tự nhủ: – Chính vì chú bò này mà mình được lợi đây.
Kho tàng ấy là của một ai đó đã chôn dấu, có lẽ từ lâu lắm, vì sợ trộm cắp, giặc giã hay chiến tranh. Anh ta cẩn thận vùi đất lại, trở về nhà, thu góp tiền bạc, bán tất cả những đồ đạc, để gom cho đủ số tiền hầu mua thửa ruộng đó, bởi vì anh ta chỉ là một nông dân nghèo đi cày thuê cuốc mướn mà thôi.
Dĩ nhiên, anh ta mua được thửa ruộng ấy, dù với một giá hơi mắc, nhưng anh ta trở thành triệu phú, bởi vì luật pháp đã qui định: kể từ ngày làm chủ mảnh đất, anh ta cũng làm chủ tất cả những gì có trong mảnh đất ấy.
Có lẽ Chúa Giêsu đã lấy chính câu chuyện bình dân này để nói về Nước Trời.
Ý nghĩa của dụ ngôn, chính là thái độ của người nông dân: tìm được kho tàng, anh ta rất vui mừng, vội chạy về nhà, tìm đủ mọi cách như bán tất cả đồ đạc, thậm chí kể cả việc vay mượn bà con lối xóm, để có đủ tiền mua thửa ruộng ấy. Hành động của anh ta thật khôn ngoan, nhanh nhẹn và hợp lý. Anh đã dám liều, dám hy sinh tất cả vì kho tàng quí giá ấy.
Dụ ngôn “Viên ngọc quý”: thương gia khi đã khám phá ra viên ngọc quý, đã bán tất cả những gì mình có để mua cho được viên ngọc ấy. Đây là một sự lựa chọn đáng ca ngợi và khích lệ.
Dụ ngôn “Kho báu chôn trong ruộng” và “Viên ngọc quí” diễn tả sự cao trọng, sự vô giá của Nước Trời, không có cái gì, không có vàng bạc hay tài năng nào sánh được. “Kho báu” và “Viên ngọc quý” ở đây, là chính Đức Giêsu Kitô, Ngài là đối tượng lớn nhất, là niềm vui, là hạnh phúc để chúng ta tìm kiếm và sở hữu. Không có gì đẹp hơn là tìm biết Đức Kitô. Có Ngài, chúng ta có tất cả! Nói như Thánh Phaolô hôm nay là: trong Người, chúng ta “những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh”, trở nên giống với hình ảnh Chúa Con, trở nên giống Đức Kitô. Như thế, lời mời gọi nên thánh, chính là trở nên giống Đức Kitô, sống theo Đức Kitô, là đạt đến Nước Trời.
Chúa Giêsu nói về kho báu và viên ngọc mà người cày ruộng và thương gia dám bán tất cả những gì họ có để mua lấy. Bởi đó là giá trị tối hậu mang lại hạnh phúc và ý nghĩa cho cuộc đời họ. Đó là điều làm cho họ hân hoan vui sướng, dám đánh đổi tất cả mọi sự trên trần gian để có nó (GLCG # 546).
Tính chất cao quý nầy được các bài đọc Sách Thánh hôm nay làm nổi bật bằng cách đưa ra những so sánh ví von.
Cao quý như sự khôn ngoan được vua Salômon coi trọng hơn phúc lộc thọ của ngai vàng (bài đọc 1). Salômon kế vị Vua cha là Đavít. Salômon nhận rõ mình “trẻ người non dạ” và những hạn chế của bản thân trước trọng trách làm vua. Salômon được Thiên Chúa yêu thương, ân ban cho ông được quyền xin ơn gì ông cần. Salômon không xin giàu có, không xin vinh quang và cũng không xin trường thọ. Salômon xin ơn khôn ngoan để hướng dẫn dân được tuyển chọn đúng theo đường lối của Chúa. Điều ông xin làm hài lòng Thiên Chúa và ông được nhậm lời. Salômon trở nên một vị vua tài trí bậc nhất trong thiên hạ. Sự khôn ngoan của ông vượt ra khỏi biên giới Israel. Trước ông, không ai như ông và sau ông, không ai bằng ông.
Cao quý như lề luật được Dân Chúa coi trọng tựa Nguồn Sáng dẫn lối (bài đọc 2). Cao quý như “Kho báu chôn trong ruộng” như “Viên ngọc quý”.
Nước Trời là một ân ban cao quý Thiên Chúa dành cho mọi kẻ kiếm tìm.
Sau khi đã nhận ra kho báu, người cày ruộng lẫn người buôn ngọc đều đã biết cái gì quan trọng, họ phải chọn lựa và đi đến một quyết định.
Là Kitô hữu, môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta tìm kiếm cái gì?
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải biết chọn lựa giữa những cám dỗ mời mọc của trần thế: ‘Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm…Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6,31-33).
Sách Giáo lý Công giáo cũng khuyên dạy: “Chúa Giêsu kêu gọi mọi người vào Nước Trời qua những bài dụ ngôn của Ngài, nét đặc trưng của việc giảng dạy của Ngài. Qua các dụ ngôn này, Ngài mời người ta tới dự tiệc của Nước Trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi người ta một sự chọn lựa triệt để: để được nước Trời, người ta phải cho tất cả, và lời nói không đủ, còn cần phải có những hành vi” (GLCG # 546).
Nước Trời đòi buộc phải hy sinh, một khi đã khám phá ra, phải bán tất cả những gì mình có. Đây là một chọn lựa dứt khoát, quyết liệt, không dễ dàng. Sự từ bỏ theo Chúa Giêsu, chính là thái độ dấn thân vì Nước Trời. Tìm thấy Nước Trời, thấy được giá trị cao quí của Nước Trời, cho nên mới can đảm hy sinh từ bỏ tất cả để có được. Người nông dân bán tất cả để mua cho được mảnh ruộng có kho báu; vị thương gia bán tất cả tài sản để mua cho bằng được viên ngọc qu, là hình ảnh nói lên việc phải dứt khoát chọn lựa Nước Trời.
3.Tìm được Nước Trời là niềm vui cuộc đời
Người nông dân, vị thương gia, đều vui mừng khi tìm được kho báu hay viên ngọc quí. Cũng vậy, thái độ của người đã gặp Chúa, đã khám phá ra Nước Trời trong cuộc sống, là thái độ hân hoan vui mừng. Tìm kiếm được niềm vui này mới làm cho con người có khả năng dứt bỏ mọi sự để theo Chúa. Bấy giờ, tất cả những gì trước nay ta cho là quí giá thì mất hết giá trị so với niềm vui mừng có được Thiên Chúa. Có Chúa là có tất cả. Đây là kinh nghiệm không dễ có được một khi thờ ơ không dám lên đường tìm kiếm Chúa và hạnh phúc Nước Trời. Nếu chỉ biết loanh quanh trong việc tìm kiếm của cải trần thế, thú vui xác thịt, thì sẽ không bao giờ khám phá được niềm vui Nước Trời, niềm vui trong Chúa.
Tìm kiếm Nước Trời và từ bỏ tất cả để đạt cho bằng được là niềm vui của đời Kitô hữu, chính là thái độ chọn lựa khôn ngoan. Trong Chúa, mới làm nên ý nghĩa đích thực của đời sống, nơi Chúa, mới tìm kiếm được nguồn mạch thỏa mãn mọi nỗi khát khao hạnh phúc.
Thái độ “vui mừng bán tất cả”, không phải ai cũng dễ dàng có được. Câu chuyện Phúc âm “Người thanh niên giàu có” là một ví dụ. Anh ta đã sụ mặt xuống và quay đi vì anh ta có nhiều của cải khi nghe Chúa Giêsu bảo: “Anh hãy về bán hết của cải, phân chia cho người nghèo, rồi hãy đến theo Ta…”.
Làm sao bán hết Chúa ơi khi con đã một đời vất vả tảo tần để có được cơ nghiệp như ngày hôm nay? Làm sao vui mừng để từ chối một mối tình vụng trộm mà con mới cất công xây nên? Làm sao con từ bỏ một thói đã đem lại cho con nhiều thích thú và thỏa mãn sự biếng lười? Làm sao con có thể bỏ lỡ một cơ hội kiếm tiền chỉ để giữ luật Ngày Chúa Nhật? Làm sao con có thể bố thí nhiều đến thế, cho dù con sẵn sàng bỏ ra gấp trăm ngàn lần để nhậu nhẹt mua vui? Làm sao con có thể hạ mình xuống trong khi con là đấng bậc vị vọng? Làm sao con có thể bỏ học thêm để dành cho việc học giáo lý?…Và cuối cùng, chắc con cũng sẽ sụ mặt xuống quay đi, vì con có quá nhiều tham vọng và của cải…
Cuộc đời vẫn luôn có những “chàng thu thuế Lêvi” sẵn sàng bỏ cả địa vị hái ra tiền để đi theo Đấng không có viên đá gối đầu. Vẫn còn những Giakêu, sẵn sàng chia nửa gia tài cho kẻ nghèo và đền gấp bốn những ai bị thiệt hại. Vẫn còn những Phanxicô Xaviê, Phanxicô Asissi, vẫn còn những Têrêxa Calcutta… bỏ cả cuộc đời để ra đi rao giảng Tin Mừng và phục vụ người nghèo; vẫn còn những Maximilien Kolbe, Anrê Phú Yên dám bỏ cả mạng sống để đáp đền mạng sống…
Điều quan nhất, là phải biết khám phá, trong bản thân mình, ai cũng có một kho báu quí giá. Kho báu ấy được Kinh Thánh mạc khải: Con người là “hình ảnh của Thiên Chúa”, được dựng nên “giống Thiên Chúa” (St 1,26.27; 9,6), là “con cái Thiên Chúa” (Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10), “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4).
Ý thức và xác tín những điều ấy, ta sẽ thấy phẩm giá con người hết sức cao quí. Đó là niềm vui và là hạnh phúc. Phẩm giá ấy cao quí hơn tất cả những gì mà ta có thể có được ở trần gian. Với bản chất cao cả ấy như một chìa khóa, một bí quyết, một nền tảng cần thiết, con người có thể có tất cả, nhất là có hạnh phúc đích thực ở trần gian này, và hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa dành cho con cái Ngài.
Trong Đức Kitô, sự khôn ngoan Thiên Chúa đã được tỏ bày qua sự yếu đuối nhân loại.
Ai chân thành với Đức Kitô, sẽ gặp thấy Ngài chính là kho báu.
Ai trung thành làm theo lời Đức Kitô, sẽ sở hữu trọn vẹn kho báu ấy.
Ai nhiệt thành gắn bó với Đức Kitô, sẽ được chia sẽ cùng Ngài kho báu hạnh phúc Thiên đàng.
Chúa Giêsu là người thợ ngọc trong câu chuyện. Chính Chúa Giêsu đã nhập thể, nhập thế và bằng cái chết của Người, Người đã mạc khải cho chúng ta Nước Trời chính là một kho báu quí giá nhất trên thế gian này.
Người Do Thái thời Chúa Giêsu hẳn không xa lạ gì với khái niệm kho tàng chôn giấu trong lòng đất. Lịch sử nước Palestina từng ghi nhận nhiều bước xâm lăng của các đế quốc Babylon, Assyria, Ba Tư, Hy Lạp, Rôma và nhiều sắc tộc khác. Không những thế, nội chiến cũng thường xuyên xảy ra. Trên dải đất từng bị mất đi chiếm lại nhiều lần như thế, chuyện chôn giấu tài sản là việc đương nhiên đối với dân thời loạn.
Thế nhưng làm sao tránh khỏi trường hợp chủ nhân không may mất mạng trên đường di tản, hay có người không thể nhớ ra chỗ chôn giấu, hoặc vùng đất bị giặc chiếm đóng lâu ngày. Điều này khiến cho không ít người tình cờ đào được những kho tàng quí báu ngay trên mảnh đất nhà mình. Và theo luật thời đó, ai làm chủ vùng đất nào sẽ được quyền sở hữu mọi thứ nằm trong vùng đất đó.
Đức Giêsu dùng khái niệm thông thường này để nói về Nước Trời: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng đó”.
Điều quan trọng là người này đã thấy đó là một kho tàng, mà kho tàng này thật quí giá, nên anh mới đem bán hết tài sản để mua thửa ruộng đó. Nếu anh không thấy được giá trị của kho báu, chắc chắn anh đã không làm như vậy.
2.1. Chúng ta coi thường vì không biết giá trị đích thực của kho báu
Người ta có kể lại câu chuyện như sau: Vincent Van Gogh là một họa sĩ nổi tiếng thế giới. Một hôm ông bệnh nặng và phải đi bác sĩ. Sau một thời gian điều trị lâu dài, ông khỏi bệnh, nhưng vì không có tiền trả cho bác sĩ, nên Van Gogh đã cố gắng vẽ một một bức tranh để tặng bác sĩ. Nhưng bác sĩ này không thích hội họa nên cũng chẳng biết thưởng thức bức tranh. Ông dùng bức tranh đó làm tấm chắn cửa sổ. Với thời gian, nắng mưa đã làm cho bức tranh ấy hư hao dần và cuối cùng đã mục nát.
Về sau, người ta thu thập những bức tranh của Van Gogh. Mỗi bức trị giá hàng trăm ngàn đôla. Nhưng có một bức tranh không thể tìm được, đó chính là bức tranh Van Gogh đã tặng cho vị bác sĩ. Một bức tranh vô giá, nhưng nó đã thành vô giá trị đối với vị bác sĩ này.
2.2. Khi đã nhận ra kho báu phải biết buông bỏ những giá trị khác không quí bằng giá trị của kho báu
Muốn bắt khỉ, người ta cho quả táo vào cái lu, miệng nhỏ, chỉ để vừa tay con khỉ thò vào, đầu kia gắn vào gốc cây, rồi người ta ngồi rình chờ. Khỉ đến thấy quả táo ngon thì thò tay vào lấy nhưng không rút tay ra được vì vướng miệng ống. Muốn rút tay ra được thì phải buông quả táo ra, nhưng con khỉ không biết buông quả táo ra mà cứ nắm chặt lấy nó mà la hét. Người ta chỉ việc đến tóm cổ chú khỉ.
Con khỉ thật dại dột, không biết buông quả táo ra để có thể rút bàn ta ra khỏi lu mà cứ khư khư giữ lấy quả táo thì không bao giờ có thể rút tay ra được. Con khỉ không biết bỏ cái nhỏ mà chọn lấy cái lớn, không biết bỏ quả táo đi mà giữ lấy bản thân.
2.3. Điểm cuối cùng là quyết tâm theo đuổi
Đức Hồng y Martini thường kể lại câu chuyện sau đây: Có người đến gặp một vị ẩn tu trong sa mạc và hỏi:”Thưa cha, cha là người có nhiều kinh nghiệm, xin cha giải thích cho con rõ, tại sao có nhiều người trẻ vào tu trong sa mạc này, nhưng sau đó lắm người lại bỏ về, và có ít người bền đỗ”. Khi ấy, vị ẩn tu mới trả lời:” Chuyện này giống như chuyện một con chó đuổi theo con thỏ, vừa đuổi vừa sủa inh ỏi. Nhiều con chó khác nghe nó sủa và thấy nó chạy, liền chạy theo. Chẳng bao sau những con chó này đều mệt lả và ngừng lại. Chỉ có con chó đầu tiên lúc nào cũng tiếp tục chạy cho đến khi bắt được con thỏ.”
Để nhận ra kho báu phải có người chỉ dẫn đưa đường qua câu chuyện “Ngọc bích nhà họ Hòa”.
Nước Sở có người họ Hòa, được một hòn ngọc ở trong núi, đem dâng vua Lệ Vương. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói: “Đá, không phải ngọc”. Vua cho người họ Hoà là nói dối, sai chặt chân trái.
Đến khi vua Vũ Vương nối ngôi, người họ Hòa lại đem ngọc ấy dâng. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói: “Đá, không phải ngọc”. Vua lại cho họ Hòa là nói dối, sai chặt nốt chân phải.
Đến khi vua Văn Vương lên ngôi, người họ Hòa ôm hòn ngọc, khóc ở chân núi Sở Sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy máu mắt ra. Vua thấy thế, sai người đến hỏi. Người họ Hoà thưa:”Tôi khóc không phải là thương hai chân tôi bị chặt, chỉ thương về nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho là nói dối”. Vua bèn sai người xem lại cho rõ kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên gọi là “Ngọc bích họ Hòa”.[1]
Chúa Giêsu là người thợ ngọc trong câu chuyện. Chính Chúa Giêsu đã nhập thể, nhập thế và bằng cái chết của Người, Người đã mạc khải cho chúng ta Nước Trời chính là một kho báu quí giá nhất trên thế gian này.
Lạy Chúa Giêsu, nước Trời là một kho báu tuyệt vời đang ẩn giấu trong những dụ ngôn trong Tin Mừng, nhưng tiếc thay, chúng con chẳng hay biết nên đã tỏ ra dửng dưng, hờ hững với kho báu ấy. Xin cho chúng con biết giá trị của Nước Trời để rồi quyết tâm khám phá cho bằng được và sẵn sàng đầu tư không quản ngại phí tổn về thời giờ và công sức để chiếm được kho báu ấy, vì một khi sở hữu được kho báu vô giá ấy, cuộc đời chúng con sẽ được cải thiện, xã hội sẽ hạnh phúc và tương lai của nhân loại sẽ bừng sáng. Amen.
______________
[1] Nguyễn Văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, trg. 144
Saigon sau biến cố 1975, có nhiều chuyện bất ngờ xảy ra:
* Thập niên 1990, nền kinh tế thị trường nở rộ, dân miền quê ùn ùn kéo về thành phố với hy vọng mưu sinh kiếm sống bớt cơ cực hơn. Vành đai thành phố Saigon được quy hoạch lại, chính phủ quyết định mở rộng thành phố đến vùng Thủ Đức, Củ Chi, Duyên Hải, Cần Giờ. Các nhà đầu tư liền bỏ tiền mua đất ruộng khu vực Giồng Ông Tố, ngã ba Cát Lái, xây nhiều biệt thự cao tầng. Giá đất tăng lên vùn vụt, các nông gia phút chốc trở thành những triệu phú bất đắc dĩ nhờ việc sở hữu chủ đất vàng, “kho tàng” thửa ruộng mình.
* Sau đó một thời gian, nghe nói có dự án chính phủ sẽ xây dựng một phi trường quốc tế rộng lớn ở vùng lân cận Saigon, khu Long Thành: nhằm thay thế phi trường Tân Sơn Nhất hiện tại vốn quá nhỏ bé, chỉ đáp ứng giải quyết được các chuyến bay quốc nội. Thế là giá đất đai từ ngã ba Vũng Tàu đi về Bà Rịa đột ngột tăng cao. Nhiều cư dân sống trong vòng đai qui hoạch của phi trường mới, vô tình chiếm hữu được “viên ngọc qúi” ngay trên thổ cư bất động sản của mình.
Ngày 10/3/2008, báo chí quốc tế lại đưa tin: bà Stead, một phụ nữ 49 tuổi ở New Abbot, hạt Devon nước Anh, khi đang ăn chiếc bánh bích quy giúp tiêu hoá của hãng Mc. Vitie’s, bất ngờ cắn phải một vật lạ, nhìn kỹ ra thì đó là một viên kim cương bé tí xíu. Người phụ nữ một con thật sự ngạc nhiên nhưng tỏ ra thích thú với món quà bất ngờ này. Bà Stead đâu ngờ mình may mắn làm chủ được “viên ngọc qúi” vô tình ấy.
Những câu chuyện thời sự trên giúp ta liên tưởng đến hình ảnh người nông gia tìm thấy kho tàng được chôn giấu trong ruộng và hình ảnh người lái buôn nhận ra giá trị viên ngọc qúi trong Phúc âm hôm nay. Họ sẵn sàng bán hết tất cả những gì mình có để mua cho được viên ngọc hoặc làm chủ được thửa đất ấy. Đầu óc khôn ngoan tính toán “một vốn bốn lời” khiến họ nhạy bén được vấn đề, nhận thức được giá trị vô cùng to lớn của những sản phẩm đó.
Salomon không xin Chúa ban cho vợ đẹp con khôn, tiền rừng bạc biển, danh vọng nhiều năm, sống lâu trăm tuổi… vốn là những ước mơ chung con người. Ông chỉ xin Chúa một điều cần thiết là Ơn Khôn Ngoan để biết phân biệt phải trái, đúng sai, tội phúc…mà hành xử dân Chúa cách hợp lý.
Quả thật, điều ông xin rất đẹp lòng Chúa. Chúa đã ban cho Salomon một trí khôn ngoan minh mẫn, phân xử chính xác trong vụ án Con Của Ai (1V. 3,16-28). Vua lại xây một đền thờ Giêrusalem lộng lẫy để kính Chúa, tiếc rằng nó bị sụp đổ thời Israel lưu đày.
Nào ngờ 10 năm sau đó, tháng 7 năm 1928, Tôn Điện Anh, một sĩ quan quân đoàn 12 của Quốc Dân Đảng đã dùng pháo binh mở đường khai quật lăng mộ Từ Hi Thái Hậu. Khi nắp quan tài được mở ra, ánh sáng chói loà, binh sĩ thấy vàng vòng ngọc qúi đầy dẫy. Cấp lớn đua nhau lấy thứ lớn, quân lính mon men lấy thứ nhỏ. Ai cũng giàu to, thậm chí Tôn Điện Anh còn hạ lệnh lột long bào của Từ Hi, lấy sạch châu báu trên người bà.
Tin đồn binh lính Tôn Điện Anh trộm báu vật của Tứ Hi Thái Hậu đến tai Thống chế Tưởng Giới Thạch. Ông ban lệnh điều tra kẻ chủ mưu, Tôn Điện Anh khôn ngoan nhờ cấp trên đi đêm với phu nhân Tống Mỹ Linh: tặng cho vợ Tưởng Giới Thạch nhiều báu vật, trong đó có chiếc mũ phụng quán gắn viên trân châu cực lớn của Từ Hi Thái Hậu. Tôn Điện Anh còn biếu riêng Tưởng Giới Thạch một thanh Cửu Long bảo kiếm cùng nhiều báu vật khác của các bậc vua chúa triều đình Trung Hoa. Nhờ đó, ông bình an vô sự thoát khỏi án phạt hình sự.
Có người dùng khôn ngoan để đoán xét công minh chính trực, ích dân lợi nước như Vua Salomon, nhưng cũng không thiếu những kẻ sử dụng khôn ngoan như một thủ đoạn gian lận, chiếm hữu như Tứ Hi Thái Hậu, như viên sĩ quan Tôn Điện Anh của vệ binh Quốc Dân Đảng Trung Hoa.
Thế nhưng sử liệu còn ghi: lúc về già, nhà vua yêu nhiều phụ nữ ngoại bang, nghe theo họ mà thờ các thần ngoại, mất lòng chung thủy với Chúa (1V.11:1-8). Rõ là khôn ba năm dại một giờ. Óc khôn ngoan sáng suốt thời trai tráng nay đã nên mê muội lúc xế chiều. Salomon đã chết trong sự dại khờ say đắm, lòng Vua xa rời Chúa.
Thế nhưng cái chết đến bất thình lình, ông ra đi với hai bàn tay trắng, kho tàng ông chiếm hữu nay cũng xa lìa ông. Óc khôn ngoan tính toán đã chịu thua lưỡi hái tử thần.
Thế nhưng phải đến ngày ông từ bỏ cuộc chơi thế trần, viên ngọc qúi mà ông trân trọng gìn giữ lâu nay bây giờ cũng trở nên vô nghĩa. Cái chết đã chấm dứt mọi lo toan.
Thực tế, những chiếm hữu ấy đều tạm thời vì họ chỉ sở hữu chúng một thời gian. Và như thế, óc khôn ngoan mà họ đã suy tính đâu có mang lại cho họ một giá trị vĩnh cửu.
Thiên Chúa, Đấng tạo dựng muôn loài, là nguồn mọi sự hiểu biết, là nền tảng mọi thông minh thượng trí. Giữa mọi nghiên cứu thiên văn, nhà khoa học Isaac Newton đã khiêm nhường xác tín: “Tôi nhận ra Thiên Chúa ngay trên đầu viễn vọng kính của tôi”. Như thế, Thiên Chúa là nguồn mọi khôn ngoan. Đi tìm sự khôn ngoan đích thực chỉ có ở nơi Ngài và trong Ngài.
* Thửa ruộng vàng, đất vàng ấy chính là Nước Trời.
* Trong Nước Trời ấy có kho tàng cao qúi là Đức Tin Công Giáo, là Giáo Hội.
Chúa Giêsu phán với các bệnh nhân: “Đức tin của con đã cứu chữa con”. Trong đức Tin, ta học hỏi Giáo Lý Giáo Hội, sống tuân giữ giới răn Chúa, nuôi dưỡng ta nên tốt lành, xứng đáng hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Trong Giáo Hội, ta nhận được Ơn Cứu Rỗi, được kín múc Ơn Thánh Chúa mỗi ngày qua cầu nguyện, qua việc lãnh nhận các Bí tích…là những hành trang đưa ta vào Nước Trời.
* Qua bí tích Thánh Thể, ta có được Đức Giêsu ở trong mình.
* Chúa Giêsu phải là viên ngọc qúy giá nhất mà ta luôn trân trọng bảo trì tốt.
“Có Chúa đi với con, con nào sợ thiếu thốn chi? Có Chúa ở bên con, con nào lo lắng gì?”
“Có Chúa trong lòng, địch thù tan nát hết. Chúa trong lòng ta, lo lắng gì hồn tôi ơi!”
Lạy Chúa! Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.
biết Chúa là viên ngọc qúy thật sang giàu,
biết con chỉ là thụ tạo thấp bé, thật nghèo hèn,
để suốt đời, con chỉ say sưa đi tìm Chúa là hạnh phúc đích thực đời con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Mark Link SJ.)
Cách đây ít lâu có tạp chí nọ đăng một câu chuyện kể về những thiếu niên thuộc câu lạc bộ bơi lội Santa Clara. Mỗi buổi sáng họ đều dậy lúc 5 giờ 30 và vội vã băng qua bầu không khí lạnh lẽo chạy đến chiếc hồ phía bên ngoài. Ở đó chúng bơi suốt hai giờ đồng hồ. Sau đó chúng tắm lại ở vòi sen, ăn sơ sài chút ít rồi vội vã đến trường.
Sau khi ở trường ra, chúng quay lại hồ bơi thêm hai tiếng nữa. Tới 5 giờ, chúng lẹ làng trở về nhà, vùi đầu vào sách vở, ăn bữa tối trễ và mệt lả leo lên giường. Sáng hôm sau chuông báo thức lại vang lên vào 5 giờ 30 và chúng lại bắt đầu toàn bộ công việc như thế. Khi được hỏi tại sao họ lại chấp nhận tuân theo một thời biểu kỷ luật đến như thế, một cô gái đã trả lời: “Mục đích của tôi là gia nhập đội thi Olympics. Nếu như đi dự tiệc mà phương hại đến mục đích ấy thì đi dự tiệc làm gì? Chẳng có gì là quá đáng trong việc tập luyện ấy cả. Tôi càng bơi được nhiều dặm thì tôi càng bơi khá hơn. Sự hy sinh là điều dĩ nhiên”.
Giả sử Chúa Giêsu sống vào thời đại này chứ không sống vào 30 năm đầu công nguyên, thì bài Phúc Âm hôm nay có lẽ đã rất khác. Thay vì nói về tay buôn ngọc hy sinh tất cả để mua cho được viên ngọc cực kỳ quí giá hoặc một bác nông gia bán đi tất cả để mua miếng đất có ẩn giấu kho tàng, có lẽ Chúa Giêsu đã nói về một vận động viên bơi lội ở câu lạc bộ Santa Clara sẵn sàng hy sinh tất cả để được gia nhập đội thi Olympics.
Tại sao tôi lại nói điều này? Có gì tương quan giữa tay buôn ngọc, gã tìm kho báu và một vận động viên bơi lội ở Santa Clara? Ba người này có điểm gì chung?
Có một điểm chung là cả ba đều dấn thân trọn vẹn cho một giấc mơ. Cả ba đều sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự cho mục đích mà họ đã đặt ra. Trường hợp ngươi buôn ngọc là mua cho bằng được một viên ngọc hoàn hảo. Trường hợp người đi kiếm kho báu là mua cho được một kho báu hiếm. Còn trường hợp vận động viên bơi lội ở Santa Clara là làm sao để được gia nhập đội thi đấu Olympics.
Ðiều này dẫn chúng ta đến chủ điểm mà Chúa Giêsu muốn nêu ra cho chúng ta trong bài phúc âm hôm nay. Chủ điểm đó là: Muốn làm công dân nước trời, chúng ta phải dấn thân triệt để. Chúng ta không thể theo đuổi việc ấy như khi làm một công việc ngoài giờ. Chúng ta không thể làm việc ấy như khi làm một công việc tiêu khiển. Chúng ta phải dấn thân vào đó trăm phần trăm, phải xem nó là ưu tiên số một của cuộc đời chúng ta.
Người Kitô hữu cũng giống như một tay buôn ngọc, một kẻ tìm kho báu, hay như một vận động viên bơi lội ở Santa Clara. Nó đòi hỏi sự dâng hiến và dấn thân trọn vẹn. Tuy nhiên, có một điểm khác biệt lớn lao giữa một Kitô hữu và ba người kia. Thánh Phaolô đã nêu sự khác biệt này trong thư gởi tín hữu Côrintô: “Mọi vận động viên trong thời kỳ tập luyện đều phải tuân theo một kỷ luật nghiêm khắc chỉ để được khoác lên đầu vòng hoa vinh quang chóng lụi tàn, còn chúng ta chịu gian khổ là để đoạt được vòng hoa vinh quang tồn tại vĩnh viễn” (1 Cr 9: 25).
Ðó chính là điểm khác biệt. Phần thưởng của tay buôn ngọc, kho báu của gã nông gia, huy chương của vận động viên đều có thể tàn lụi. Khi tay buôn ngọc chết đi, viên ngọc chả còn giá trị gì đối với anh ta nữa. Khi người nông gia chết đi, của báu của anh cũng sẽ thành vô dụng đối với anh cũng như chiếc chum đựng của báu ấy thôi. Và khi người vận động viên chết đi thì tấm huân chương của cô cũng chỉ còn là một vật lưu niệm của cô đối với gia đình và bà con cô thôi. Nhưng khi các Kitô hữu chết, thì nước trời sẽ toả sáng hơn, sáng hơn, sáng hơn mãi. Vào lúc chết thì chỉ có một điều là đáng kể. Ðó không phải là viên ngọc quí, kho báu hiếm hay chiếc huy chương vàng mà chúng ta đã có được lúc còn sống. Ðiều đáng kể chỉ là chúng ta đã trở thành cái gì trong tiến trình cố gắng tìm viên ngọc, tậu của báu hoặc tranh giành huy chương.
Một đội bóng rổ thuộc một trường trung học ở Chicago vừa mới tổ chức thánh lễ trước khi đi dự cuộc tranh giả thể thao của tiểu bang. Trong bài giảng lễ, vị linh mục nói là trong 10 năm tới, điều quan trọng đối với mùa bóng rổ của họ sẽ không hệ tại việc họ là quán quân hay không. Sự quan trọng là điều mà họ sẽ trở thành trong tiến trình cố gắng đoạt tước hiệu ấy.
Họ có trở thành người tốt hơn không?
Họ có yêu thương nhiều hơn không?
Họ có trung tín với nhau hơn không?
Họ có tận tâm hơn không?
Họ phát triển thành một đội bóng đoàn kết hay như những cá nhân ích kỷ?
Sau thánh lễ, vị linh mục vào phòng thánh thay áo lễ. Chợt ngài nghe huấn luyện viên nói với các vận động viên:
“Hãy ngồi xuống đây một phút. Vị linh mục đã nói mấy điều khiến tôi bối rối. Tôi tự hỏi không hiểu tôi đã giúp các bạn trở nên người như thế nào trong quá trình luyện tập để tranh giải trong kỳ đại hội thể thao này.
“Quí bạn có trở nên người tốt hơn không?
Quí bạn có yêu thương nhiều hơn không?
Quí bạn có trung tín với nhau hơn không?
Quí bạn có tận tâm hơn không?
Quí bạn sẽ phát triển thành một đội bóng đoàn kết hay chỉ thành những cá nhân rời rạc?
Nếu làm được như thế, thì dù kết quả cuộc tranh đua thế nào, chúng ta cũng vẫn là thành công. Còn nếu không làm được như thế thì chúng ta đã làm cho Chúa thất vọng. Làm cho trường chúng ta thất bại, đồng thời cũng làm cho nhau thất bại nữa. Tôi hy vọng Chúa không để chúng ta thất bại. Tôi cầu xin Chúa để chúng ta khỏi bị thất bại.
Bài phúc âm hôm nay đưa ra chủ điểm rất quan trọng sau: Không gì trên thế gian có thể chiếm vai trò ưu tiên hơn nước Chúa và sự đeo đuổi của chúng ta để đạt cho được nước ấy. Bài phúc âm hôm nay bảo cho chúng ta biết điều đáng kể khi chúng ta chết không phải là chúng ta sắm được gì lúc còn sống mà là chúng ta đã trở nên như thế nào. Nghĩa là:
Chúng ta đã yêu thương nhau chưa?
Chúng ta đã tha thứ cho nhau chưa?
Chúng ta đã giúp đỡ kẻ túng thiếu chưa?
Chúng ta đã an ủi kẻ đau khổ chưa?
Chúng ta đã biết đi thêm dặm nữa chưa?
Chúng ta đã biết chìa thêm má kia ra chưa?
Chúng ta đã dấn thân và trung tín với Chúa và với nhau hơn chưa?
Tôi hy vọng nhờ Chúa chúng ta sẽ làm được và tôi cầu xin Chúa giúp chúng ta làm được. Bởi vì nếu chúng ta không làm được như thế, chúng ta sẽ làm Chúa thất vọng, làm gia đình và bạn bè chúng ta thất vọng, còn chính chúng ta thì kể như đã thất bại rồi.
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện:
Lạy Chúa xin ban cho chúng con biết dấn thân như vận động viên bơi lội Santa Clara kia là người đã làm việc không mệt mỏi để đoạt cho được một vị trí trong đội bơi thi Olympics. Xin ban cho chúng con biết dấn thân như kẻ tìm kho báu là người đã bán tất cả mọi sự để mua miếng đất. Xin ban cho chúng con biết dấn thân như người buôn ngọc nọ đã dành trọn vẹn cuộc đời để tìm cho được viên ngọc hoàn hảo.
Nếu những người đó đã sẵn sàng hy sinh rất nhiều cho một phần thưởng hư nát, thì chúng con phải sẵn lòng hy sinh hơn cho phần thưởng mãi mãi trường tồn kia biết chừng nào.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Tiếp nối bài Tin Mừng của Chúa Nhật trước, bài Tin Mừng hôm nay (Mt 13,44-52) gồm ba dụ ngôn về Nước Trời: dụ ngôn kho báu (c.44), dụ ngôn viên ngọc (cc.45-46) và dụ ngôn chiếc lưới (cc. 47-50). Kết thúc là một lời kết luận chung về các dụ ngôn (cc.51-52).
“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (cc.44-46).
Hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc có chung một điểm nhấn quan trọng về nội dung giáo huấn: Nước Trời không phải chỉ là chuyện của ước muốn hay ý chí, mà chính yếu là niềm vui của một cuộc tìm kiếm thành công bất ngờ ngoài sự mong đợi, và đặc biệt, là kết quả của một cuộc dấn thân đòi phải dám phiêu lưu. Sự từ bỏ tất cả những gì mình đang có không phải là một hành động tu đức, hy sinh hay hãm mình, mà là một chọn lựa tự nguyện cùng với niềm vui lớn lao.
Sứ điệp và trải nghiệm về mầu nhiệm Nước Trời làm cho mọi giá trị đã được biết từ trước tới nay bỗng trở nên tương đối. Tất nhiên những thực tại tốt lành khác vẫn là những thực tại có giá trị, như sức khoẻ, gia đình, nghề nghiệp, danh dự, học vấn, sự thành công, tình bạn, tình yêu đôi lứa… Nhưng chúng sẽ là tương đối trong so sánh với mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa ẩn mình nơi những sứ điệp và hoạt động của Chúa Giêsu. Ai hiểu những sứ điệp và mầu nhiệm đó sẽ khám phá nơi chúng những giá trị tuyệt đối, quý hơn tất cả những gì khác trong cuộc đời. Người đó sẽ dám bỏ đi tất cả mọi sự, ngay cả mạng sống mình, vì Nước Thiên Chúa, bởi lẽ anh ta đã biết rằng đó là kho tàng quý giá duy nhất có khả năng làm cho sự sống của anh ta trở nên thực chất và giàu có vô cùng. Đó cũng là kinh nghiệm của Thánh Phaolô: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, vì mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được thuộc về Người” (Pl 3,7-9)
Cuối cùng, hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc, một lần nữa, đề nghị người nghe chọn lựa sự nghèo khó như được nói trong 5,3 (“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó”), khi lặp đi lặp lại: “bán tất cả những gì mình có” (cc.44.46). Kho báu và viên ngọc quý, như thế, chính là kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa (“Nước Trời là của họ”). Kinh nghiệm đó tạo nên niềm vui sâu xa trong tâm hồn. “Kho tàng anh ở đâu thì lòng anh ở đó” (6,20).
“Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (cc.47-50).
Đây là dụ ngôn cuối cùng trong một loạt 7 dụ ngôn ven biển hồ về Nước Trời, được ghi lại trong Mt 13. Dụ ngôn cuối cùng này có kèm lời giải thích. Về nội dung, chúng ta gặp lại sứ điệp của các dụ ngôn hạt giống và cỏ lùng, nhưng nhấn mạnh hơn về ngày chung thẩm.
Như đàn cá bơi dưới biển, gồm đủ mọi thứ cá tốt xấu khác nhau, cộng đoàn Hội Thánh cũng gồm những người tốt kẻ xấu. Nhìn bề ngoài, không có chuyện gì khác biệt, nhưng khi chiếc lưới đã được kéo lên bờ, sự phân biệt sẽ xảy đến: cá tốt và cá xấu sẽ có số phận khác nhau hoàn toàn.
Sự đối lập “cá tốt” và “cá xấu” tương ứng với sự đối lập giữa cây tốt với cây xấu trong 7,15-19. Vậy những “cá xấu” ở đây chính là các ngôn sứ giả, những đồ đệ giả, những con sói đội lốt chiên, những kẻ chỉ có vẻ bề ngoài theo Chúa Kitô còn thực chất là chạy theo những giá trị giả trá và không thực… Trong lời giải thích ở câu 48, họ bị gọi là những “kẻ xấu”.
Số phận của họ sẽ là bị quăng vào lò lửa (c.50). Nỗi đau đớn kinh hoàng và không bao giờ chấm dứt trong số phận chung cuộc của họ được miêu tả bằng những hình ảnh đáng sợ: “khóc lóc” và “nghiến răng”. Điều căn bản làm nên nỗi đau đó chính là sự vĩnh viễn mất đi sự sống đích thật. Nhưng dụ ngôn đề cập đến số phận chung cục như thế là nhằm giúp các môn đệ xác định hướng đi đúng đắn trong những quyết định hiện tại. Chỉ những ai sinh hoa quả tốt mới được đạt tới sự sống đời đời.
Kết thúc các dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?” Họ đáp: “Thưa hiểu.”52 Người bảo họ: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ” (cc.51-52).
Giáo huấn dành cho các môn đệ được kết thúc trong khung cảnh mang tính riêng tư giữa Chúa Giêsu với các ông mà thôi. Tác giả Tin Mừng quay lại với chủ đề “hiểu”, vốn là chủ đề xuyên suốt Mt 13 (cc.13.14.15.19.23.51). Đã được hiểu biết về mầu nhiệm Nước Trời, các môn đệ phải trình bày mầu nhiệm đó cho những người khác. Tác giả Mt muốn nhấn mạnh một sự khác biệt lớn giữa các “bậc thầy” trong cộng đoàn Kitô giáo với các bậc thầy trong cộng đồng Do Thái giáo. Các kinh sư Israel mang trên vai gánh nặng của cả một truyền thống giải thích lớn lao vốn không cho phép mọi sự vượt quá giới hạn cổ xưa. Các “kinh sư đã được học hỏi về Nước Trời”, tức là các bậc thầy trong cộng đoàn Kitô hữu, thì không bị lệ thuộc vào truyền thống cổ xưa ấy. Đối với họ, ưu tiên số một sẽ là “cái mới” trong kho tàng mầu nhiệm mà họ đã được học hỏi; “cái cũ” phải lệ thuộc cái mới đó. Nói cách khác, họ không đặt đạo lý của mình trước hết trên nền tảng là những gì ông Môsê và các ngôn sứ đã nói, mà là trên chính mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Họ bắt đầu bằng sứ điệp cứu độ của Chúa Giêsu và đó chính là chìa khoá giúp họ đọc toàn bộ kho tàng Cựu Ước.
Không ít học giả hiểu rằng có lẽ tác giả Tin Mừng Mt muốn kín đáo tự nói về chính mình trong câu này.
Gợi ý suy niệm và chia sẻ:
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Kho tàng đó, viên đá quí đó không gì khác chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng là Con Thiên Chúa, đã được Thiên Chúa trao ban cho con người vì yêu thương, để nhờ Người mà con người nhận được sự sống đời đời.
SUY NIỆM
Vàng bạc, kim cương, hột xoàn luôn là hấp lực đối với con người bất cừ thời đại nào, và bất cứ ở đâu. Bởi những thứ đó, tuy chỉ là vật chất, nhưng lại mang đến cho người sở hữu nó chiếm được một sự kính trọng của nhiều người, và nói lên đẳng cấp của mình trong xã hội, và nhất là nó mang đến một cảm giác an toàn trong cuộc sống, không sợ sống thiếu thốn và rơi vào cảnh túng nghèo.
Có được một kho tàng, sở hữu được một viên đá quí là ước mơ của nhiều người. Chẳng thế, khi nói ở đâu đó có chôn giấu một kho tàng là người ta đua nhau đi tìm cho bằng được, có khi phải bỏ cả mạng sống, chẳng hạn khi nghe tin trong khu vực gần thành phố Walbrzych, Ba Lan, có “đoàn tàu vàng’’ của phát xít Đức, và trong đoàn tàu đó có giấu “căn phòng hổ phách” bị đánh cắp từ cung điện Catherine gần Saint Petersburg vào khoảng năm 1941, đã khiến cho cả nước Ba Lan lên cơn sốt, chính phủ phong toả khu vực, và nhiều công ty bỏ hằng triệu Dola Mỹ để được phép tìm kiếm kho báu huyền thoại này; Hoặc là khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của viên kim cương có tên gọi là Pink Star, nhiều người thầm mơ được có nó, công ty đấu giá đã bất ngờ khi có người bỏ ra hơn 71, 1 triệu USD để sở hữu được viên kim cương tuyệt đẹp này.
Dẫu vẫn biết kho tàng có vô giá đến đâu, viên kim cương có quí đến như thế nào, tất cả cũng chỉ là phù vân, chẳng có gì tồn tại, thế nhưng nó luôn là hấp lực làm cho bao người mơ ước. Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn hướng ước mơ con người nhắm tới một thực tại Nước Trời, thực tại đó lộng lẫy như một kho tàng mà chúng ta cần phải chiếm hữu, rực rỡ như viên đá quí mà chúng ta cần phải sở hữu được. Tại sao chúng ta phải ước mơ chiếm hữu được Nước Trời? Thưa bởi kho tàng đó, viên kim cương đó không mang giá trị trang sức hời hợt bên ngoài, không kiến tạo sự giàu sang phú quí mang tính chóng qua, nhưng trái lại thực tại Nước Trời mang lại cho chúng ta vẻ đẹp giống như vẻ đẹp “Con Thiên Chúa” và cho chúng ta sự giàu sang lộng lẫy mà thế gian không thể có được.
Kho tàng đó, viên đá quí đó không gì khác chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng là Con Thiên Chúa, đã được Thiên Chúa trao ban cho con người vì yêu thương, để nhờ Người mà con ngừơi nhận được sự sống đời đời. Qủa thật, nơi Đức Kitô, Người chứa đựng cả một kho tàng vô giá, kho tàng tình yêu Thiên Chúa. Đấy chính là sự giàu sang đã làm nên vẻ đẹp huy hoàng của Thiên Chúa, và Đức Kitô khi đến trần thế Người đã mang trọn vẹn kho tàng này để ban tặng cho con người hầu nhờ đó con người được trở nên sang trọng. Hơn thế nữa Người còn trang sức cho con người bằng các ân huệ để con ngươi trở nên xinh nên đẹp. Chính tình yêu của Đức Kitô đã biến đổi con người từ thân phận nô lệ trở thành con cái tự do, từ kẻ mang thân phận hay chết nay được dự phận vào sự sống đời đời.
Thật vậy, qua Bí tích Rửa tội, Chúa đã mặc cho những kẻ tin vinh quang và danh dự của Người để họ có thể trở nên bạn nghĩa thiết và được đồng hình đồng dạng với Người và được gọi là con Thiên Chúa. Vâng, Đức Kitô là viên ngọc quý, bởi mọi vẻ đẹp đến từ Người và mọi sự sang trọng cũng bởi Người, vẻ đẹp đó, sự sang trọng đó người sẵn sàng tặng ban cho những tin vào Người.
Thế nhưng thật đáng buồn, khi có nhiều người không nhận ra sự cao trọng và vinh phúc nơi Đức Kitô, họ chỉ mải mê với những của chóng qua ở trần thế, và tệ hơn nữa, có nhiều kitô hữu cũng đã đánh đổi kho tàng và viên ngọc quí mà Chúa đã trao ban khi lãnh nhận bí tích Rửa tội để đi tim bã vinh hoa phú quí của trần gian. Hội Đồng Giám Mục Đức đã đưa ra con số thống kê vào năm 2016 đã có khoảng 160.000 Kitô hữu Công giáo bỏ đức tin, và đức Hồng y Gerhard Mueller , nguyên tổng trưởng thánh bộ Giáo lý Đức tin, coi đây là một thảm trạng bi đát, và theo đức Hồng y “Đây là việc loại bỏ Kitô Giáo trên toàn bộ nhân học, trong đó con người được định nghĩa như một hữu thể không cần Thiên Chúa và hoàn toàn không có tính siêu việt. Tôn giáo được người ta cảm nghiệm như một thứ tình cảm, chứ không phải là việc tôn thờ Thiên Chúa, là Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Thế.”, vâng con người ngày nay không còn nhận ra kho tàng và viên ngọc quí nơi Đức Giêsu Kitô, quả thật đây là một thảm trạng.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã qui tụ chúng con vào trong lòng Hội Thánh Chúa, xin cho chúng con luôn hân hoan vì những hồng ân Chúa tặng ban, và luôn biết giữ gìn vẻ đẹp mà Chúa đã tác tạo qua hồng ân đức tin. Xin đừng để chúng con đánh mất sự sang trọng của phẩm giá được làm con cái Chúa vì những sự hư vô của trần thế này. Amen.
(Suy niệm của Lm. Jos. Quang Nguyễn)
Rất nhiều người trong cuộc sống, họ xem tiền bạc là kho báu của đời họ vì chưng họ cho rằng Tiền là tiên là phật là sức bật của lò xo là thước đo của lòng người là tiếng cười của tuổi trẻ là sức khỏe của tuổi già là cái đà danh vọng là cái vọng che thân là cán cân công lý. Còn với một số người khác, họ coi quyền lực, danh tiếng lại là thứ ngọc quý giá số một cho nên họ sẵn sàng bỏ tiền ra để mua chức mua danh. Rồi cũng có một số người coi thú vui cuộc đời là kho báu đáng đạt được cho nên không lạ gì trong xã hội hôm nay tràn ngập các tệ nạn đủ mọi lứa tuổi. Trái lại, trong xã hội cũng có những người coi kiến thức là loại châu ngọc quý giá không gì sánh bằng cho nên sẵn sàng đánh đổi tất cả để đạt được, đó là những bậc hiền triết khôn ngoan, các nhà khoa học lỗi lạc, các nhà thần học hay các thánh đã làm sáng Danh Chúa và mưu ích cho muôn người qua mọi thời.
Cuộc sống con người như đi vào cơn lốc của tiền tài, danh vọng và lạc thú. Vì tất cả những điều đó mà con người dám làm mọi sự dù biết là tội và ác để có được những thứ ấy. Thế nhưng, là người Kitô hữu, chúng ta còn có một giá trị cao hơn những danh lợi thú ấy, chính là Nước Trời vì chưng danh lợi thú rồi sẽ qua đi, nhưng Nước Trời thì tồn tại mãi mãi. Cho nên, hôm nay, Chúa Giê-su ví Nước Trời như một kho tàng, như viên ngọc quý đến nỗi để đạt được thì hỏi chúng ta phải hy sinh tất cả mọi của cải, kể cả mạng sống, cũng phải đổi lấy cho bằng được viên ngọc Nước Trời.
Dụ ngôn “Kho báu chôn trong ruộng” và “Viên ngọc quí” diễn tả sự cao trọng, sự vô giá của Nước Trời, không có cái gì, không có vàng bạc hay tài năng nào sánh được. “Kho báu” và “Viên ngọc quý” ở đây là chính Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài, Ngài là đối tượng lớn nhất, là niềm vui, là hạnh phúc để chúng ta tìm kiếm và sở hữu. Không có gì đẹp hơn là tìm biết Đức Kitô và có Đức Kitô vì Có Ngài, chúng ta có tất cả! Nói như Thánh Phaolô trong bài đọc 2 rằng nhờ Đức Giêsu Kitô chúng ta những người được Thiên Chúa tiền định và được kêu gọi nên thánh”, trở nên giống với hình ảnh Chúa Con, trở nên giống Đức Kitô, trở nên công chính và được hưởng phúc vinh quang trong Nước Trời. Vì vậy, Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô là kho tàng chứa đựng sự khôn ngoan của Ba Ngôi Thiên Chúa, đã được Chúa Giêsu mang từ trời xuống ban tặng cho thế gian. Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô là kho tàng quý báu vì có sức đem lại sự sống đời đời cho nhân loại như lời tuyên xưng của thánh Phêrô: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người là ánh sáng cho thế gian: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống”(Ga 8, 12). Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người là con đường dẫn đến sự thật, bình an và hạnh phúc. “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14,6). Thế nên, chỉ trong Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người, chúng ta mới có thể tìm thấy tình yêu và hạnh phúc đích thực, sự sống đích thực và vĩnh hằng trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Cho nên chẳng lạ gì mà Thánh Phanxicô Khó khăn sinh trưởng trong một gia đình giầu có, quyền thế. Bản thân lại học giỏi tài cao. Đường công danh sáng lạn. Thế nhưng ngài đã bị đánh động bởi câu: “Được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì?” để rồi từ đó cuộc đời Ngài chỉ còn tìm kiếm và phụng sự cho Tin Mừng Nước Trời. Rồi, Thánh Augustino sau những ngày tháng ngụp lặn trong thú vui thế gian và xác thịt, Ngài đã cảm nghiệm sâu xa về hạnh phúc Nước Trời mới là vĩnh cửu còn thế gian là tạm bợ. Ngài đã thốt lên trong tiếc nuối: “lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng” để rồi từ đó Ngài ngụp lặn trong đại dương bao la tình yêu thương của Thiên Chúa.
Người nông dân, vị thương gia, đều vui mừng khi tìm được kho báu hay viên ngọc quí. Cũng vậy, thái độ của chúng ta đã gặp thấy Chúa, đã khám phá ra Nước Trời trong cuộc sống, chúng ta càng hân hoan vui sướng đồng thời dứt bỏ mọi sự để theo Chúa. Bấy giờ, tất cả những gì trước nay ta cho là quí giá thì mất hết giá trị so với niềm vui mừng có được Thiên Chúa vì chưng có Chúa là có tất cả. Vậy, ước gì qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau để mọi người biết nhận ra Đức Giêsu là nguồn hạnh phúc đích thực của cuộc đời và Tin Mừng của Ngài là một bảo đảm để đạt được hạnh phúc ấy, để chúng ta dám đánh đổi tất cả những sự tạm bợ của thế gian này, để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đem đến cho chúng ta bằng việc tìm gặp Chúa và kết hiệp với Chúa luôn qua việc đọc kinh sáng tối, tham dự cử hành các Bí Tích và hăng say sống Lời Chúa. Cho nên, tìm gặp Chúa không phải chỉ là biết mặt rồi để đấy. Nghe lời Chúa không phải chỉ là ghi nhận rồi làm ngơ và quên lãng. Điều quan trọng là phải đáp trả với tất cả con người, có nghĩa là phải sống và thực thi những điều Ngài truyền dạy. Tin Chúa không phải chỉ là chấp nhận Ngài, mà còn phải gắn bó mật thiết với Ngài. Phải dám liều, dám dấn thân, dám hy sinh bằng tất cả cuộc sống yêu thương. Đã tin Chúa, đã gặp Chúa, thì chúng ta cũng phải có can đảm đổi thay cuộc sống và xoay ngược dòng đời, bắt đầu bằng thái độ từ bỏ: từ bỏ danh vọng, vui thú và tiền bạc bất chính. Và chỉ Đức Kitô chính là kho tàng quí giá, mà mối mọt không thể đục khoét và trộm cướp không thể lấy đi và chỉ Lời Chúa Giêsu là viên ngọc quý giá nhất đem lại cho chúng ta hạnh phúc và sự sống đời này và đời sau. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Phúc âm Matthêu cuối chương 13 lại kể ba câu chuyện khác nữa để ví von về Nước Trời. Nếu ba dụ ngôn tuần trước (hạt cải, cỏ lùng, nhúm men), như cho thấy Nước Trời từ bên trong với sức mạnh kiên trì nội tại, thì hình như những dụ ngôn lần này lại như muốn trình bày một khía cạnh khác, Nước Trời nhìn từ góc độ được ‘đón nhận’. “Nước Trời giống như câu chuyện” kho báu.., viên ngọc.., chiếc lưới.., vẫn là ba câu chuyện nhưng lại qui về một nội dung duy nhất.
Nếu Nước Trời là việc đón nhận tình yêu thương xót của Thiên Chúa, thì việc đón nhận đó, cách này hay cách khác, phải đạt tới độ tuyệt đối, tức là tiếp nhận tình yêu thương xót này như một điều quan trọng bậc nhất trong đời sống. Nói tới lòng thương xót, ít khi người ta cho rằng nó cần phải được đón lấy cách tuyệt đối; nói khác đi, mấy ai cho rằng mình thật sự cần tới lòng thương xót như mộtg lẽ sống? Thái độ này phổ biến vì hiếm khi nào con người cho rằng mình đang rơi vào cùng cực và vô vọng. Cho dầu biết mình vốn hèn hạ thấp kém, người ta vẫn luôn cho rằng mình còn có thể tự lo tự liệu. Con người đề cao sự tự trọng là vậy. Chính vì thế mà, đứng trước tình yêu xót thương của Thiên Chúa, có mấy ai cảm thấy mình thật sự cần, cần như một nhu cầu sống còn, cần như bám vào một cái phao cứu sinh? Các dụ ngôn hôm nay tập chung nhấn mạnh điểm này: tình yêu cứu độ của Thiên Chúa không chỉ là kho báu hay viên ngọc quí bất kỳ, nhưng là cái kho báu và viên ngọc quí đáng cho người nào khám phá ra hay tìm thấy nó phải “bán tất cả những gì mình có mà mua… lấy”.
Đối với một báu vật, tìm thấy và khám phá ra giá trị thật của nó là hai điều khác nhau. Lấy một thí dụ nhỏ: nhà sưu tầm tem phát hiện một con tem cổ nằm trong cuốn sách cũ, ông có thể vui mừng vì con tem “quí’ đó sẽ bổ sung cho bộ sưu tập vốn đã rất phong phú của ông. Nhưng sau khi tra cứu, ông phát hiện ra, đó là con tem duy nhất còn sót lại của một thời đại. Con tem này có giá trị tới độ, nếu sở đắc được nó, ông sẽ được thiên hạ coi là nhà sưu tập vĩ đại nhất trần gian. Ta có thể hiểu được thái độ của ông sẽ thế nào đối với bộ sưu tập vốn đã rất quí của mình.
Tương tự như thế, vấn đề tiếp nhận Tin Mừng không chỉ đơn thuần biết Chúa thương yêu mình mà còn phải biết biết Chúa yêu như thế nào và mình cần tới lòng thương xót Chúa bao nhiêu. Đức Giêsu khảng định Nước Trời chính là khám phá và đón nhận điều này tới độ thấy cần phải “bán tất cả những gì mình có để mua lấy”. Niềm tin Kitô hữu chính hệ tại ở điều này. Niềm tin đó trưởng thành hay không, cao hay thấp tùy vào mức độ khám phá ra tình yêu xót thương của Thiên Chúa đã được thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, để rồi đón nhận lấy nó như một kho tàng vô giá, một lẽ sống giữa cuộc đời ô trọc, một suối mát giữa sa mạc nóng bỏng, một viên thuốc hồi sinh giữa cơn bệnh thập tử nhất sinh. Niềm tin vào Tin Mừng của chúng ta chỉ thật sự lớn mạnh khi coi niềm cậy trông vào ơn cứu độ mà Đức Kitô mang lại, nhờ cái chết thập giá của Người, còn lớn hơn, cao trọng hơn, cần thiết hơn cả kho báu của khôn ngoan, của tu thân tích đức, của đạo hạnh… hay gì gì đi nữa.
Như vậy, nếu Nước Trời chính là sự đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa đã được Đức Kitô thực hiện trên thập giá, thì quả thật một khi nó được quảng bá… sẽ ‘giống như chiếc lưới thả xuống biển’. Dưới nước thì con cá nào cũng là cá, chỉ khi lưới được kéo lên bãi (ngày tận thế, hay thế tận đối với từng người khi chết) người ta mới phân biệt được hai loại cá tốt – xấu. Cá được đánh giá là tốt hay xấu dựa theo tiêu chuẩn người bủa lưới đề ra. Tiêu chuẩn lưới Tin Mừng của Đức Kitô sẽ rất khác với tiêu chuẩn lưới luân lý của người đời hay Cựu Ước. Đối với lưới ‘đón nhận’ Tin Mừng, cá tốt phải là những ai đã khám phá ra tình yêu cứu độ và đón nhận nó cách thiết thân tới độ sẵn sàng “bán tất cả những gì mình có…”, cá xấu là ai không đón nhận, hoặc vì không khám phá ra, hoặc đã khám phá nhưng chưa đủ lực tới độ sẵn sàng bán hết… Quả vậy đối với Tin Mừng, Nước Trời chính là niềm tin tuyệt đối vào tình Chúa yêu thương được biểu lộ nơi Đức Kitô Giêsu, do đó kẻ nào có niềm tin đó sẽ ‘được nhặt cho vào giỏ’, vì “ai tin vào Con của Người thì không bị kết án”; còn ai không có thì ‘bị vứt ra ngoài’ vì ‘kẻ không tin thì bị lên án rồi’ (Ga 3,18). Ngay cả một người, vì lý do nào đó đã không tin truyệt đối ơn cứu độ chỉ có nơi Đức Kitô Giêsu, để rồi tiếp tục bám vứu vào bất cứ giá trị nào khác, chẳng hạn như thần thánh, công nghiệp, khôn ngoan, đạo hạnh hay nhân đức… tiền của hay chức quyền… hầu mong nhờ đó mà được cứu thoát, thì chắc chắn sẽ phải qua cửa ải xét xử mà thôi. Mà một khi đã bị xét xử thì thử hỏi mấy ai, kể cả những kẻ được người đời coi là đạo đức thánh thiện nhất, lại không tồn tại nơi mình một khiếm khuyết nào đó đáng để bị lên án? Như vậy là đã rõ: ‘hàng ngũ người công chính’ hay ‘cá tốt được nhặt vào giỏ’ khi lưới Tin Mừng được kéo lên, sẽ chỉ còn là những con người mà, trong thẳm sâu cõi lòng mình, đã khẩn thiết thốt lên: “Lạy Ngài, xin thương xót con!” Họ đúng là những người “đã giặt và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14; cf. 22,14).
Lạy Chúa, xin cho con tin thật rằng, ơn cứu độ chỉ có thể có nơi Đức Kitô Giêsu; và khi nhìn lên thập giá con biết nhận ra rằng, đón lấy tình yêu cứu độ là điều hệ trọng hơn hết mọi sự. Xin cho con không bao giờ ỷ vào bất cứ điều gì, bất cứ giá trị nào khác hầu mong được cứu thoát, cho dầu đó là bậc tu sĩ linh mục, cho dầu là khôn ngoan thánh thiện, hay nhiệt tình tông đồ… Điều duy nhất con cầu xin Chúa là được khiêm nhường hơn, biết nhìn nhận các yếu hèn của mình hơn, hầu ngày càng thâm tín đón lấy lòng thương xót vô điều kiện của Chúa. Con mong sẽ được là con cá chính Chúa nhặt cho vào giỏ cứu độ, chứ không phải là con cá cố tự mình lách vào. Amen.
Thiên Chúa đã yêu thương và ưu đãi vua Salômôn qúa nhiều. Thiên Chúa đã giáng phúc và ban mọi phước lành cho đời của ông. Vua cha Đavid đã chọn Salômôn lên kế vị ngôi vua. Chúa đã rộng ban cho ông những ơn cần thiết tùy ông cầu xin. Vua Salômôn đã thưa: Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa và phân biệt lành dữ, vì ai có thể xét xử dân này, một dân của Chúa đông đảo thế này (1Vua 3, 9). Salômôn đã không xin cho được giầu sang phú quý hay sống lâu. Vua chỉ xin Chúa ban ơn khôn ngoan. Ơn khôn ngoan là đầu mối của tất cả các niềm an vui và thành công trong đời. Khôn ngoan để biết phân biệt lành dữ và biết xét xử đúng sai trước mặt Chúa.
Ơn khôn ngoan là một trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta sống theo thánh ý của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban cho vua Salômôn ân sủng theo ý sở nguyện. Vua đã dùng ơn khôn ngoan để cai quản dân chúng và điều hành quốc gia dân tộc một cách an bình thịnh vượng. Chúa chấp nhận lời cầu: Thì đây Ta ban cho ngươi điều ngươi xin và ban cho ngươi tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi và sau ngươi không có ai bằng ngươi (1Vua 3, 12). Đây là sự khôn ngoan đích thực. Chúng ta biết ở đời có rất nhiều người khôn, nhưng chưa chắc đã ngoan. Thiên Chúa ban cho con người có khả năng và trí thông minh, nhưng họ lại dùng sự hiểu biết nông cạn của mình để phủ nhận và chống đối lại Thượng Đế. Có nhiều người tuy tài giỏi lỗi lạc về các môn khoa học đời, nhưng lại chối bỏ sự khôn ngoan thượng trí của Tạo Hóa. Nhiều người tự mãn rằng họ có trí tuệ nhưng đã tỏ vẻ huênh hoang và kiêu ngạo không chấp nhận sự quan phòng của Thiên Chúa trong vũ trụ và đời sống của các loài thụ tạo. Hãy nhớ rằng con người chúng ta chỉ là một loài thụ tạo giới hạn trong thời gian và không gian. Có đó rồi biến đó.
Vua Salômôn là một bậc minh quân. Ông biết phân biệt trời cao đất thấp. Quy phục quyền năng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, vì con người yếu đuối lầm lỗi, Salômôn cũng không tránh khỏi những cám dỗ cả về danh, lợi và thú. Cuối đời, đã có lần ông rời xa Chúa, chạy theo các thần dân ngoại của các bà vợ và lập đền thờ cúng. Tuy nhiên, vì tình thương, Thiên Chúa vẫn chúc lành cho đời của ông lập được nhiều thành qủa tốt đẹp. Ông đã hoàn tất công trình của Vua Đavid là xây dựng đền thờ nơi Chúa ẩn ngự. Ông khéo léo cai quản gìn giữ quê hương xứ sở bình an trong suốt thời kỳ dựng xây nhà Chúa. Chúa ban cho ông ân lộc dư tràn và đất nước thịnh vượng một thời. Danh tiếng của ông vang khắp miền.
Trong bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một vài hình ảnh về Nước Trời. Nước Trời được ví như một kho tàng, một viên ngọc quý và một mẻ lưới đầy cá. Nước Trời ở ngay tại thế, nếu chúng ta cố công đi tìm, sẽ gặp. Nước Trời không phải là một số kiến thức, một triết thuyết hay một chủ trương sống, mà là một kho tàng được chôn giấu cần ơn giác ngộ: Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh ta có mà mua thửa ruộng ấy (Mt 13, 44). Kho tàng này là một món qùa qúy, không phải vàng bạc châu báu, nhưng là lời khôn ngoan. Kho tàng nằm trong Lời Chúa và Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu đã giảng trên núi. Thật hạnh phúc cho ai giác ngộ sống theo Bát Phúc này.
Nước Trời được ví như viên ngọc quý, khi tìm thấy, người ta bán mọi sự để mua được viên ngọc đó. Ngọc quý là chính ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một hạ thân cứu độ chúng sinh. Viên Ngọc quý từ trời ban xuống là Đức Kitô đã hy sinh hiến mình để cứu độ nhân loại. Qua bao đời, có biết bao nhiêu người đã nghe giảng, học biết và tin nhận Chúa Kitô là Con Thiên Chúa giáng trần. Họ đã tìm được viên ngọc qua đời sống đức tin trong Giáo Hội. Cửa Nước Trời đã mở ra thâu nhận những ai muốn kiếm tìm và sống niềm tin. Mọi người đều có thể sở hữu viên ngọc quý của Nước Trời. Viên ngọc của ân sủng, của tin yêu và hy vọng. Chúa Giêsu đã sắm sẵn cho mọi người.
Ai tin vào Chúa thì sẽ được lãnh nhận ơn cứu độ.
Một hình ảnh rất cụ thể: Nước trời giống như chiếc lưới thả xuống biển, bắt được mọi thứ cá (Mt 13, 47). Nước Trời khởi sự tại trần gian nhưng qui hướng về trời. Chiếc lưới có đủ mọi thứ cá, có nghĩa là Nước Trời nơi trần thế bao gồm tất cả mọi thành phần cần biến đổi. Trong đời sống Giáo Hội, có nhiều thành viên thánh thiện, tốt lành, đạo đức và cũng bao gồm nhiều người bình thường, chuộng danh nghĩa, sống hình thức, chỉ mang danh Kitô hữu, nhưng không sống đạo hoặc gồm cả những thành phần sa chìm tội lỗi, sống bê bối và lãnh đạm thờ ơ. Hình ảnh một Giáo Hội đang trên đường lữ thứ trần gian cần sự kiên nhẫn thanh lọc, canh tân đổi mới và tinh luyện con người nên tốt hơn và thánh thiện hơn. Vì Đạo chính là đường dẫn chúng ta tới quê thật là Nước Trời.
Chúa Giêsu dậy rằng am tường sự khôn ngoan là biết lợi dụng mọi môi trường và hoàn cảnh để dẫn lối vào Nước Trời. Trong kho tàng của Giáo Hội chất chứa mọi thứ cũ mới như những viên ngọc quý: Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước Trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái mới cũ trong kho mình (Mt 13, 53). Mọi lời khôn ngoan đã được mạc khải trong Sách Thánh. Chính Ngôi Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta. Ngôi Lời đã tỏ cho chúng ta biết về chương trình cứu độ và mở cửa Nước Trời đón nhận chúng ta. Học biết lịch sử của ơn cứu độ, chúng ta có thể hiểu biết về sự liên hệ giữa Thiên Chúa và thụ tạo của Ngài. Thiên Chúa đã ký kết giao ước với các cha ông và các tổ phụ trong thời Cựu Ước. Giáo ước đã dẫn bước dân của Chúa tới giao ước mới được ký kết bằng Máu châu báu của chính Chúa Kitô. Muốn hiểu được ý nghĩa của Nước Trời, chúng ta cần phải tìm hiểu kho tàng ơn cứu độ trong Thánh Kinh và Thánh Truyền.
Thiên Chúa tạo dựng muôn loài trong vũ trụ. Mỗi loài đều có một cùng đích để nhắm tới. Không có vật gì, sự gì hay sự sống nào là vô ích. Sự liên kết chằng chịt giữa các phần tử trong vũ trụ đều liên đới và bổ túc cho nhau để hiện hữu. Khoa học con người chưa thể khám phá ra tất cả ý nghĩa cao sâu của mầu nhiệm sáng tạo. Sự an bài và quan phòng của Thiên Chúa cho mỗi loại và mỗi loài theo ý định của Người. Riêng con người mang hình ảnh của Thiên Chúa được chia phần vinh quang cách đặc biệt. Trong thơ gởi tín hữu thành Rôma, thánh Phaolô viết: Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi họ, và những ai Người đã kêu gọi, thì Người cho họ được vinh quang (Rm 8, 30). Thiên Chúa tiền định thế nào, chúng ta không biết, nhưng tin rằng chúng ta sẽ được chung phần hưởng vinh quang với Đức Kitô. Chúa đã gọi chúng ta vào đời và tái sinh chúng ta làm con Chúa qua Bí tích Rửa Tội. Niềm hy vọng của chúng ta là cùng được sống lại với Chúa Kitô trong ngày sau hết.
Lạy Chúa, Chúa đã mở cửa Nước Trời đón nhận những ai tin vào Chúa. Xin cho chúng con biết dõi theo lối bước của Chúa và trung thành thực thi lời Chúa, để canh tân cải biến đời sống mỗi ngày. Xin giúp chúng con biết gìn giữ kho tàng ngọc quý mà Chúa đã trao ban để sinh hoa kết quả tốt lành và thánh thiện.
Nước Thiên Chúa là vương quốc hạnh phúc, ai được vào là có phúc lớn vì Nước Thiên Chúa quý hơn mọi kho báu. Thật diễm phúc cho loài người vì Chúa sẵn sàng ban cho Nước Trời, không giới hạn số lượng, không phân biệt màu da, sắc tộc, thời đại, ai đủ điều kiện đều được nhận vào. Tất cả những ai sống đúng lệnh truyền của Chúa đều được ban cho hạnh phúc vô cùng vô tận bên Ngài.
Thiên Chúa quả là hào phóng và quãng đại với loài người biết bao. Ngài là Đấng quãng đại, giàu lòng thương xót và không tiếc gì với chúng ta: hạnh phúc của Ngài, Ngài cho chúng ta được thông phần vào; tình yêu của Ngài, Ngài thông ban cho, người ngay được Chúa phù trì che chở, thanh luyện cho giống Chúa hơn, ngườI tội lỗi được Chúa bảo ban, cho nhiều cơ hội để ăn năn thống hối…
Thiên Chúa không tính toán với loài người, để đáp lại ơn ấy, chúng ta cũng không tính toán với Chúa. Chúng ta hãy đổi lấy của cải vật chất đời này để Chúa ban cho thửa ruộng có ngọc quý. Nước Trời như ngọc quý thượng thặng, đáng cho chúng ta bỏ hết công sức, của cải để đón lấy. Như vậy, để được Nước Chúa, chúng ta phải biết chọn lựa và từ bỏ. chúng ta không kiệt sức, vì Chúa luôn tìm cách trợ giúp, Chúa đòi tấm lòng chân thành tìm kiếm và tin theo, ai thành tâm tìm thì sẽ gặp được kho báu Chúa chuẩn bị để ban cho. Chúng ta có một niềm hy vọng lớn lao vì không phải chỉ có vài người tìm được Nước Trời nhưng tất cả đều có thể tìm thấy nhờ ơn soi dẫn và sự trợ giúp của Ngài.
Đối với một kho báu nay còn mai có thể mất vì trộm cắp mà còn đáng cho chúng ta bán hết những gì mình có để chiếm lấy, huống chi là Nước Trời. Nếu vào được Nước Chúa, nơi hạnh phúc vô biên và vĩnh tồn thì hy sinh của cải đời này, hy sinh những tham vọng trần thế để đổi lấy cũng là quá lời. Do đó, chúng ta phải lưu ý về cách sống của chúng ta: chúng ta mong Nước Trời nhưng lại muốn tất cả mọi thứ ở đời này: tiền bạc, danh vọng, quyền lực trần thế… chúng ta vừa muốn sở hữu vật chất trần gian vừa muốn có Nước Trời. Tôi có sống phù hợp với Nước Chúa không, tôi có tìm những sự thuộc về Thiên Chúa chưa hay chỉ để lòng tìm của cải vật chất, tôi có tập cho trái tim mình có được tình yêu Agape giống Chúa hay còn ích kỷ, thù ghét, giận hờn, kiêu căng… Nước Chúa mở sẵn rồi nhưng ai mong thực hành niềm vui thanh cao mới xứng đáng sống trong nước hạnh phúc ấy.
Nếu tôi theo Chúa mà lòng còn nặng nề, lệ thuộc vật chất thì làm sao vào ở với Chúa là Đấng Cao Sang siêu vượt thời gian, vượt xa thế giới trần tục này. Như vậy, chúng ta phải biết khôn ngoan, hàng ngày gạt bỏ những cái xấu ra khỏi con người mình và tập tính tốt, làm điều tốt, phục vụ cho Chúa và mọi người. Khi đã thanh lọc con người mình nên giống Chúa ngày một hơn thì việc lên ở với Chúa là điều ở trong tầm tay, nhờ ơn Chúa.
Nếu chúng ta mỗi ngày mỗi khác Chúa, xa Chúa thì mai sau vương quốc của chúng ta sẽ là nơi khóc lóc, hổ ngươi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết bỏ những thói hư tật xấu mỗi ngày và tập những tính tốt bù vào để ngày một xứng đáng là môn đệ Chúa hơn và ngày sau được gia nhập vào hàng ngũ các thánh như Chúa đã hứa.
Đức Giêsu rao giảng Nước Trời bằng dụ ngôn: 7 (số 7 ưa dùng của Mt). Chia làm 3 cặp. Số 7 là kết. Chủ ý tượng trưng.
Hai dụ ngôn “Lúa và cỏ lùng” là mới nói kết quả của Lời được gieo vào thế gian. Chỉ nói thoáng về kết cục “mùa gặt”.Cỏ lùng thì gom lại và đốt trong lửa. Lúa mới thu vào kho. Hạt cải và men là chỉ kết quả nhiều và tốt. “Kho báu và ngọc quí” trực tiếp chỉ Nước Trời đáng giá “tất cả những gì” con người có, phải “bán tất cả mà mua”, không cụ thể cái gì nên có thể hiểu là “gồm cả mạng sống”. Số 7 kết là phán xét: chiếc lưới thả xuống biển, gom tất cả mọi thứ cá rồi mới lựa ra: xấu thì bị quăng vào lò lửa, ở đó mà khóc lóc nghiến răng. Không nói tốt. Chủ ý là ngưòi xấu không có cửa nào khác Đừng suy nghĩ vớ vẩn lung tung mà phải hối đời đời..
CHÚ GIẢI
* Nước Trời giống như kho báu chôn giấu trong ruộng: không dễ tìm thấy. Đức Giêsu dùng dụ ngôn để giảng, không dễ hiểu. Nước Trời bị “ẩn giấu” bí ẩn.
– Có người tim được thì liền chôn giấu lại: Mỗi người phải tự bỏ công mà tìm.
– Rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua: Tìm được thì vui mừng. Chỉ kẻ tìm được Nước Trời, khám phá ra giá trị liên thành của nó thì mới vui mừng và vui mừng đến nổi bán tất cả những gì mình có mà mua. Tất cả những gì mình có: không kể nhiều ít bao nhiêu mà tuyệt đối là tất cả, bao nhiêu cũng được miễn là tất cả, kể cả mạng sống, dù chỉ là đồng xu bé tí xíu của bà goá nghèo nhưng là tât cả những gì bà có để nuôi thân. Người thanh niên giàu có không dám bán tất cả nên buồn bã bỏ đi. Và người giàu có khó vào Nước Trời biết bao! Chỉ kẻ khám phá được giá trị đích thực vô song của Nước Trời mời “vui mừng” đến nổi dám bán tất cả những gì mình có mà “mua”. Phải mua. Còn những kẻ bàng quang, bịt tai nhắm mắt trước lời giảng của Đức Giêsu thì như “thằng bườm có cái quạt mo” dù phú ông dụ đổi ba bò chín trâu, nào ao sâu cá mè, hoặc bè gổ lim hay con chim đồi mồi bườm cũng chẳng màng, mà đổi “nắm xôi bườm cười”.
* Nước Trời còn giống chuyện một người thương gia đi tìm ngọc đẹp: Ngọc có đẹp mới cao giá. Chỉ những người có mắt nhìn thấy và biết rõ giá trị của ngọc quí mới thấy quí. Còn như heo chó mà có ném hột xoàng hột trai trước mặt thì chúng cũng chẳng ham. Thằng bườm là hình ảnh chỉ rất nhiều người như con nít thích cục kẹo ăn được còn hột xoàng ngọc quí ăn liền không được nên không ham tí nào. Hay như những người Âu Châu đi thám hiểm Phi Châu đem bi hột chai đổi hột xoàng của mấy đứa trẻ Phi Châu vì chúng thấy hột chai đẹp, tròn bắn đạn ngon còn những cục hột xoàng chưa tròn bắn đạn không ngon. Chúng còn bán khai chưa biết giá trị của hột xoàng nên không quí cũng như những ngưòi không biết Nước Trời thì không quí.
– Tìm được một viên ngọc quí ông liền đi bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy: Cũng là “đi bán tất cả”… gồm chất và lượng, chiều dài và cả mạng sống. Đức Giêsu bảo ngưòi thanh niên “đi bán tất cả” rồi trở lại “theo Ta”. Không hiểu giá trị đích thực của Nước Trời thì không ai dám đi bán tất cả những gì mình có mà bám chặc lấy bằng cả mạng sống “ít ỏi”của mình. Có gan mới làm giàu. Không liều một phen thì không đổi đời được đâu.
Hai dụ ngôn như là lập lại để nhấn mạnh và nhất là câu “liền đi bán tất cả những gì mình có mà mua” thì rõ là nhấn mạnh, cho đủ mạnh.
* Nước Trời còn giống như chiếc lưới thả dưới biển bắt được đủ thứ cá: Lưới trời thưa mà khó lọt. Đừng hòng trốn tránh. Các thiên sứ sẽ đi khắp tứ phương mà gom……
Ngày tận thế, các thiên thần sẽ tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ những người tốt: Không để vàng thau lẫn lộn nữa. Không để kẻ xấu cũng kể là tốt. Tốt ra tốt xấu ra xấu.
Rồi quăng chúng vào lò lửa ở đó mà khóc lóc nghiến răng: Hoả ngục. Đau khổ. Hối hận.
Kết phần rao giảng bằng dụ ngôn: Chung cuộc “mỗi người và mọi người sẽ là như là đã là”.
Nước Trời không những phải mua mà còn phải mua bằng “tất cả những gì mình có”.
Ngưòi ta chỉ muốn xin “không”. Một cắt, một xu cũng không chi. Nước trời chẳng bằng một chút vui vẻ, một chút lạc thú, một chút hưỏng thụ…..
Chịu khó một chút cũng không. Bây giờ không muốn nước trời đâu. Chết mới muốn. Người ta rước cha đến giải tội “lòng lành”(sic) (tha hết mọi tội) và ban ơn toàn xá (xá hết mọi phần phạt tạm) thì lên trời một cái ục! Thiên Chúa tốt lành, nhân từ vô cùng. Lời Chúa đâu có nói như vậy hồi nào.Coi chừng mắc lừa.
Rõ ràng: lúa tốt thì mới thu vào kho, cá tốt mới bỏ vào giỏ. Tách biệt kẻ lành ngưòi dữ. Kẻ xấu thì quăng vào lò lửa. Đừng ảo tưởng. Phải tin Lời Đức Giêsu nói vì chính Người và chỉ Người mới phán xét và Người là Đấng phán xét chí công.
Bài Tin Mừng thuật lại ba dụ ngôn của Chúa Giêsu: dụ ngôn kho báu giấu trong ruộng, dụ ngôn viên ngọc quý và dụ ngôn cái lưới đánh cá. Dụ ngôn cái lưới đánh cá, ý nghĩa gần giống như dụ ngôn cỏ lùng, đã được nói tới vào Chúa Nhật tuần trước. Vì thế, ở đây chúng ta chỉ tìm hiểu hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý. Hai dụ ngôn này có ý nghĩa tương tự nhau.
Trước hết, chúng ta thấy hai dụ ngôn này đều nhằm mục đích diễn tả sự quý giá tột bậc của Nước Trời, không một thứ gì ở trần gian quý giá bằng hay có thể sánh ví được. Tuy nhiên, trong dụ ngôn thứ nhất, Nước Trời quý giá vì đem lại lợi ích vô cùng to lớn, là được hạnh phúc đời đời, còn dụ ngôn thứ hai, Nước Trời quý vì vẻ vinh quang tuyệt vời của nó. Trong dụ ngôn trước, kho báu đến với người nông dân một cách ngẫu nhiên, tình cờ, tức là nhấn mạnh đến hạnh phúc Nước Trời do tình yêu Thiên Chúa ban nhưng không. Còn trong dụ ngôn sau cho biết ông thương gia phải vất vả tìm kiếm viên ngọc quý tức là muốn nói đến thái độ phải cộng tác tích cực vào việc chiếm hữu Nước Trời. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, Nước Trời luôn luôn là điều quý giá nhất, đòi hỏi người ta phải hy sinh tất cả để chiếm đoạt cho bằng được.
Đàng khác, hai dụ ngôn này còn cho chúng ta thấy thái độ khôn ngoan của người tìm được kho báu cũng như của người tìm được viên ngọc quý. Họ bán hết gia tài sản nghiệp để mua, vì họ biết chắc rằng: kho báu kia, viên ngọc quý kia đáng giá hơn gia tài sản nghiệp họ đang có. Và đây cũng chính là bài học Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta: người nào biết đi tìm Nước Trời trước nhất, dám hy sinh tất cả những gì mình có, kể cả mạng sống, để chiếm đoạt cho bằng được, đó là người khôn ngoan. Chúng ta biết, khôn ngoan là một ân huệ, một đức tính cao quý, làm cho trí khôn chúng ta, trong mọi hoàn cảnh, mọi công việc, biết lựa chọn những phương cách tốt hơn để thực hiện, đồng thời biết quy hướng tất cả về mục đích sau cùng.
Tuy nhiên, khôn ngoan cũng có nhiều thứ: khôn ngoan xác thịt, khôn ngoan tự nhiên và khôn ngoan siêu nhiên. Khôn ngoan xác thịt là cái khôn chỉ biết khéo léo tìm mọi cách để thực hiện những ước muốn tội lỗi, để thỏa mãn những khát khao của dục vọng, danh giá và tiền tài. Chẳng hạn vua Đa-vít, sau khi phải lòng và sa ngã với bà Bét-sa-bê, ông đã khôn khéo biết bao: nhà vua đã bày mưu tính kế để cho U-ri-a, chồng bà Bét-sa-bê về thăm nhà và ép ông uống rượu để giấu nhẹm tội ngoại tình của mình. Không thành công ông lại khôn khéo làm cho U-ri-a chết ngoài mặt trận để được tự do thoải mái kết hôn với bà Bét-sa-bê. Chúng ta có thể nói: bao nhiêu mánh lới, bao nhiêu thủ đoạn, bao nhiêu cách thức để đạt được mục đích chơi bời, thỏa mãn bản năng,… bấy nhiêu trường hợp đều cần đến trí óc suy nghĩ, xếp đặt, lừa dối, trá hình khôn ngoan. Nhưng khôn ngoan ấy là khôn ngoan xác thịt. Cái khôn mang lại những thiệt thòi, đổ vỡ, hối hận. Cái khôn mà người liêm khiết khinh chê, miệng đời đàm tiếu, mai mỉa. Cái khôn mà thánh Phao-lô đã kết án, vì nó đối nghịch lại Thiên Chúa và thiệt hại cho linh hồn.
Tiếp đến, khôn ngoan tự nhiên là cái khôn chỉ khéo léo lựa chọn những phương thế tốt đẹp để đạt mục đích tự nhiên mà không quy về mục đích sau cùng. Chẳng hạn tài khéo trong việc buôn bán, tính toán giỏi trong công việc làm ăn, bặt thiệp trong việc giao tế với mọi người. Đó là sự khôn ngoan để dùng người, khôn ngoan để được vật chất, lợi lộc trần gian. Người phú hộ trong Tin Mừng đã khôn ngoan kiểu này: thấy mùa màng bội thu, không đủ chỗ chứa hoa lợi, nên ông tính toán: phá kho lẫm cũ, xây kho lẫm mới rộng lớn hơn. Bảo đảm rồi, yên chí lớn nghỉ ngơi, hưởng thụ. Nhưng Chúa đã bảo: “Người khờ dại, chính đêm nay ngươi chết, thì của cải ngươi thu tích để lại cho ai?”. Thánh Mátthêu cũng ghi lại lời Chúa Giêsu kết án thứ khôn ngoan này: “Được lời lãi cả thế gian, mà không được Nước Trời thì ích gì?”.
Sau hết, khôn ngoan đích thực là cái khôn của những người, trong mọi hoàn cảnh, biết lựa chọn những phương cách tốt hơn để thực hiện, đồng thời biết quy hướng tất cả về mục đích sau cùng. Người có khôn ngoan này biết khước từ những khoái cảm chốc lát, vì biết rằng nó sẽ khuấy động lương tâm, làm mất bình an, làm phai nhạt hình ảnh Thiên Chúa trong tâm hồn. Họ biết lánh xa nếp sống dễ dãi, đua đòi, vì sợ xác thịt được voi sẽ đòi tiên, sợ lời cảnh cáo: “Ai gieo trong nguy hiểm, sẽ ngã trong hiểm nguy”. Người có thứ khôn ngoan này biết suy rằng: không phải bất cứ cái gì thiên hạ làm được là mình cũng có thể làm được. Họ biết rằng: có nhường nhịn đôi chút thì cũng chẳng mất mát gì, nhưng chắc chắn sẽ được đền bù. Họ biết rằng: có phải ép mình cầu nguyện nửa giờ, dự thánh lễ một tiếng, chỉ là cách đổi công khó nhọc chóng qua để lấy những công phúc to lớn hơn. Người có thứ khôn ngoan này, biết lợi dụng những cái trước mắt để sinh ích lợi sau này, nhưng luôn cảnh giác: không vì cái lợi trước mắt mà quên cái hại sau lưng.
Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta: Nước Trời là kho báu vĩ đại nhất, là viên ngọc quý giá nhất, chúng ta phải cố gắng, phải hy sinh để kiếm cho bằng được. Bởi vì đời là một dịp tiện, moi ngày sống là một dịp may, chúng ta có ý chí, tự do và khôn ngoan để lựa chọn. Vì thế, chiếm đoạt được Nước Trời hay không là do chính chúng ta.
Hành trình của đời người là một hành trình đi tìm kho báu, nghĩa là đi tìm hạnh phúc. Đó là một mục tiêu chính đáng. Tuy nhiên, như Đức Giêsu đã nói: “Kho tàng anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó” (Lc 12,34), chúng ta hãy tự hỏi xem hạnh phúc mà chúng ta đang tìm kiếm thực sự là gì? Có phải chăng đó là tiền bạc, là quyền uy, danh vọng và khoái lạc? Chúng có đem lại cho chúng ta bình an và hạnh phúc thật sự không, hay sự giàu có về của cải vật chất chỉ làm cho con người thêm lo âu, và lối sống hưởng thụ chỉ khiến người ta thêm trống rỗng?
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã cho chúng ta biết rằng, kho báu thật sự, hạnh phúc thật sự mà con người cần tìm kiếm chính là Nước Trời. Thật vậy, Nước Trời là một viên ngọc quý, một kho tàng vô giá mà bất cứ ai có được quả là may mắn và hạnh phúc. Đối với Thiên Chúa, họ là những người khôn ngoan và giàu có, cho dù trong con mắt của thế gian, họ có vẻ điên rồ và nghèo khó.
Nước Trời không phải là một ảo tưởng. Nước Trời đem lại cho con người sự bình an trong tâm hồn, niềm vui trong trí tuệ và vẻ đẹp trong cuộc sống này, vì nó giải phóng chúng ta khỏi mọi sự mê hoặc của những kho tàng dưới đất, nhờ một niềm xác tín về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, cũng như nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trọn vẹn trên Quê Trời.
Đời sống chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có Thiên Chúa. Mối liên hệ chặt chẽ với Thiên Chúa chính là một kho tàng thật sự. Nhờ đó chúng ta biết mình sẽ đi về đâu, cùng đích của đời sống chúng ta là gì. Vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho chúng ta điều chúng ta hằng khao khát kiếm tìm. Có Thiên Chúa là có tất cả, nếu chúng ta tin (Mc 9,23; 10,27).
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, giống như người nông dân và người buôn ngọc, khi phát hiện được viên ngọc quý giá, họ đã ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua cho bằng được viên ngọc, xin cho chúng con cũng biết can đảm và vui tươi, sẵn sàng ra đi, bán tất cả nhửng gì mình có để mua lấy hạnh phúc Nước Trời.
Xin cho lòng chúng con luôn thanh thoát trước những kho báu phù phiếm ở đời này, biến “bán” đi những đam mê, ích kỷ của mình mà mua lấy kho báu bất diệt trên trời.
Lạy Chúa, xin cho chúng con đừng bao giờ quay lưng lại trước những lời mời gọi của Chúa; không bao giờ ngoảnh mặt làm ngơ, tránh cái nhìn yêu thương mà Chúa luôn dành cho chúng con. Amen.
Người ta thường nói: “con người hơn nhau ở cái đầu“. Quả đúng là như vậy. Cái đầu giúp ta biết tính toán, biết lên chương trình hành động, biết rào trước cản sau, biết có những mưu kế và diệu kế… Đó là sự khôn ngoan thông thường và tự nhiên của con người.
Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay cho chúng ta một cái nhìn khác hơn về sự khôn ngoan: sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa và được thông ban cho con người. Khôn Ngoan đích thực là biết chọn lựa. Bài đọc 1 được trích từ sách các vua quyền thứ nhất cho chúng ta thấy rằng: Chúa hứa là sẽ ban cho Salômôn bất cứ những gì ông xin, và Chúa bảo ông cứ xin đi. Salômôn suy nghĩ và cân nhắc. Cuối cùng ông xin cho mình được khôn ngoan để phân biệt được phải trái mà cai trị dân Chúa. Điều ông xin đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, bởi đó là điều đáng quí trước mặt Chúa. Ông đã biết chọn lựa cái đáng chọn lựa.
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy giá trị cao quý của Nước Trời. Đó chính là kho báu, là viên ngọc quí mà con người nếu biết chọn lựa sẽ không thể bỏ qua. Dụ ngôn chiếc lưới được quăng xuống biết cho chúng ta thấy cách thức Thiên Chúa sẽ hành động trong ngày sau hết. Trong ngày phán xét, Thiên Chúa sẽ tách biệt kẻ lành ra khỏi kẻ dữ. Người lành sẽ được Thiên Chúa đón nhận và ân thưởng Nước Trời cho họ như một hạnh phúc viên mãn và vĩnh cửu cho họ; còn kẻ dữ sẽ phải lui vào bóng tối để chịu khổ hình muôn kiếp.
Hạnh phúc là điều ai cũng mơ ước và khao khát sở hữu nó. Cách này hay cách khác, tất cả chúng ta là những người đi tìm kho báu, đi tìm điều gì đó mang lại cho chúng ta hạnh phúc lâu dài và trọn hảo. Khát vọng đó hoàn toàn chính đáng. Nhưng vấn đề là hạnh phúc chân thật đó ở đâu? Làm cách nào để có được nó? Đó là vấn đề chúng ta cùng nhau suy gẫm.
Hạnh phúc khởi đi với những người biết tìm kiếm. Đi tìm là thoát ra khỏi chính mình để hướng tới một mục tiêu mà mình đã chọn. Đức Giêsu luôn khuyến khích chúng ta đi tìm hạnh phúc chân thật.Chính Đức Giêsu đã kêu mời anh thanh niên giàu có đi tìm hạnh phúc đích thực mà anh cũng có ý định kiếm tìm ấy. Nhưng cuối cùng anh đã không vượt qua khỏi chính mình được. Ngài luôn yêu mến những con người biết tìm kiếm hạnh phúc và luôn đồng hành với họ để soi dẫn họ: “phúc cho ai biết khao khát điều chính trực, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng” (Mt5,6).
Như vậy hạnh phúc là có định hướng đúng đắn cho cuộc đời này, là biết được ý nghĩa của cuộc đời này và sống ý nghĩa đó cách tròn đầy. Hạnh phúc thật không phải là thành đạt điều này điều nọ, cũng không phải là có được mọi thứ của cải vật chất ở đời này. Nhưng hạnh phúc là sống tròn đầy giây phút hiện tại, sống đúng mực và vui tươi với những chọn lựa cơ bản của mình. Chọn lựa then chốt và nền tảng chính là chọn lựa Thiên Chúa, chọn lựa Nước Trời.
Nước Trời được trình bày như một kho tàng, một viên ngọc quí mà tình cờ người đi tìm tìm thấy được nó. Nhưng khi tìm kiếm được rồi thì cần phải biết khôn ngoan để làm sao có được nó và sở hữu nó mãi. Có rất nhiều người đã tới được ngưỡng cửa của hạnh phúc thật nhưng rồi không thể vượt qua nổi. Những phương thế mà chúng ta có thể dùng để sở hữu Nước Trời đôi khi rất khờ khạo đối với người đời nhưng chúng ta đừng sợ miệng đời và dự luận,. Chúng ta chỉ cần tìm kiếm những gì hợp với thánh ý của Thiên Chúa và đẹp lòng Thiên Chúa là đủ cho chúng ta. Những phương thế để sở hữu Nước Trời là tha thứ, là cho đi, là yêu thương, là nhân hậu với mọi người, là hiền hoà, chấp nhận anh em mình, là cậy trông vào Thiên Chúa tình yêu…
Tại Chùa Tô Châu bên Tàu có một nhà sư tên gọi là Viên Thủ Trung, nổi tiếng là nhà tu hành đắc đạo. Nhà sư thường bày trên trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài nhỏ làm bằng gỗ bạch đàn, dài độ 3 tấc, có nắp đậy, mở ra được. Khách đến chơi trông thấy thường tò mò tra hỏi, nhà sư trả lời: “người ta sống tất có chết, mà chết là vào ngay cái này. Tôi thật lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời, chẳng biết đến cái chết là gì… Mỗi khi có việc không được như ý, tôi liền lấy cái quan tài này mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên ổn ngay.
Con người sở dĩ chạy theo tiền tài danh vọng đến độ chà đạp lên người khác là bởi vì con người không nghĩ đến cái chết đang rình rập sau lưng mình. Khi Thần chết xuất hiện, thì con người không còn kịp mang theo bất cứ tài sản nào. Cái chết chỉ trở thành đáng sợ khi con người còn quá nhiều dính bén đối với thế trần này. Trái lại, được ôm ấp mỗi ngày, cái chết sẽ trở thành bạn đồng hành giúp con người vượt qua được mọi chán chường, bận tâm thái quá… Trong tất cả mọi sự, người khôn ngoan đích thực luôn nghĩ đến cùng đích.
Có nhiều chọn lựa xem ra rất ngớ ngẩn đối với người đời. Nhưng chính những chọn lựa ấy làm cho tâm hồn con người được thanh thoát và bình an để dần dần có thể tiến đến nguồn của mọi hạnh phúc chính là Thiên Chúa. Chọn lựa khôn ngoan là chọn Chúa, là sống thân tình với Ngài, lấy Ngài làm niềm vui. Chính Ngài là chỗ ẩn náu an toàn nhất cho ta. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể đong đầy những gì chúng ta còn thiếu thốn và khao khát trong cuộc tràn này. Tìm gặp Thiên Chúa là tìm gặp tất cả.
Ước gì chúng ta biết dùng mọi khả năng Chúa ban để biết chọn lựa những điều khôn ngoan và hoàn hảo, những điều mang tính vĩnh cửu à vững bền. Xin Thánh Thần Chúa ban cho chúng ta có được sự khôn ngoan của Ngài để chúng ta biết chọ chính Chúa là gia nghiệp của đời sống chúng ta hôm nay và mãi mãi. Amen.
(Trích trong ‘Manna’ – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Tất cả bắt đầu từ một sự tình cờ may mắn.
Người nông dân nghèo phải làm thuê cho điền chủ tình cờ gặp được kho báu chôn trong ruộng.
Người buôn ngọc tình cờ gặp được viên ngọc tuyệt vời, có giá trị lớn lao mà người bán không hề biết.
Sau đó phản ứng của cả hai rất giống nhau: ra đi, bán tất cả những gì mình có và mua… Không thấy có dấu vết của sự nuối tiếc hay ngần ngại giằng co. Tất cả diễn ra thật nhanh và tràn ngập niềm vui thanh thản. Ai cũng rõ họ hạnh phúc biết chừng nào khi chiếm được kho báu và viên ngọc. Cuộc đời họ chuyển sang một giai đoạn mới.
Thái độ của hai người trên được coi là bình thường. Ở địa vị ta, ta cũng làm như thế.
Kho báu và viên ngọc là những thứ thấy được, có giá trị hiển nhiên và hết sức hấp dẫn. Chúng hứa hẹn một sự giàu sang mà ai cũng thèm thuồng, nên người ta dễ bán tất cả để mua được chúng.
Bị ảnh hưởng bởi não trạng hưởng thụ vật chất, chúng ta thường coi kho báu duy nhất ở đời này là tiền bạc, quyền uy và khoái lạc. Khi nói Nước Trời là kho báu bền vững, Đức Giêsu là viên ngọc quý đích thực, chúng ta lại thấy đó là cái gì mơ hồ, xa xôi, ít lôi cuốn, thậm chí không có thật. Chính vì thế chúng ta thường ngần ngại khi từ bỏ, dè sẻ, nuối tiếc khi phải hy sinh cho Chúa.
Vậy vấn đề là khả năng thấy, nhờ lòng tin.
Bản thân tôi có thấy Đức Giêsu là viên ngọc quý, và Nước Trời là kho báu không?
Chỉ ai thấy được những thực tại vô hình và ngây ngất trước giá trị của chúng, người ấy mới hồn nhiên và vui tươi đánh đổi tất cả kho báu phù phiếm của đời này để lấy kho báu bất diệt trên trời (x.Mt 6,20).
Có khi tình cờ, qua một biến cố, một người bạn, qua một cuốn sách, một đoạn Lời Chúa, một kỳ tĩnh tâm, tôi chợt gặp Đức Giêsu như viên ngọc ngời sáng, hấp dẫn, mời gọi tôi bay lên khỏi cái tôi tầm thường: tôi có dám bán nỗi đam mê ích kỷ của mình để mua lấy tình bạn với Ngài không?
Nếu ta còn ngần ngại khi phải bán đi tất cả thì chỉ vì ta chưa thấy. Nhưng nếu ta cứ can đảm bán đi, ắt ta sẽ thấy.
Niềm vui chỉ đến với người dám bán tất cả.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các tu sĩ thường được coi là những người đã bỏ mọi sự mà theo Chúa. Theo ý bạn, giáo dân có phải từ bỏ mọi sự để theo Ngài không?
Nước Trời ai cũng mua được, dù bạn nghèo đến mấy đi nữa. Chỉ cần bạn bán đi tất cả những gì bạn có. Có khi nào bạn bán tất cả mà lòng vẫn vui không? Có khi nào bạn hy sinh mà ngại ngần, tiếc nuối?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Con người hiện hữu là một hồng ân. Mang thân phận con người, mỗi người cần phải có những sự chọn lựa. Có thể nói chọn lựa là một thách đố. Học sinh muốn lên lớp và muốn có phần thưởng thì phải chọn việc siêng năng chăm chỉ học tập, thức khuya dậy sớm miệt mài đèn sách. Còn vận động viên thì phải chọn việc tập luyện kỹ càng và chế độ luyện tập khít khao. Cũng vậy, người ta muốn sống bằng chính đồng tiền lương thiện thì phải chọn việc siêng năng lao động, khước từ lười biếng, chấp nhận vất vả làm việc, thậm chí “đổ mồ hôi, sót con mắt”…Kết quả của những sự chọn lựa như trên là người ta được niềm vui vì thành quả đạt được của mình, người ta được bình an ngủ ngon và được hạnh phúc. Từ những sự chọn lựa đó cho ta thấy việc định hướng trong cuộc đời rất quan trọng. Muốn thành công thì phải hy sinh. Muốn được bình an thư thái thì người ta phải từ bỏ những điều bất chính để chọn những điều mang giá trị cao hơn. Tuy nhiên dù con người có đạt được những giá trị vật chất thì nó cũng chóng qua. Thấu hiểu điều đó, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta một sự chọn lựa, một sự theo đuổi mà kết quả của nó là hạnh phúc chân thật, hạnh phúc vững bền, hạnh phúc viên mãn, hạnh phúc thoả lòng khát khao, hạnh phúc đời đời. Đó chính là tìm kiếm, chọn và theo đuổi những giá trị thuộc Nước Trời.
Thật thế, bài Phúc âm hôm nay (Mt 13, 44 – 52) Chúa Giêsu đã đưa ra những dụ ngôn từ đời sống thực tế để minh hoạ cho hình ảnh và giá trị của Nước Trời: “Nước Trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ, đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy..”
Rõ ràng người mua thửa ruộng này là người biết giá trị của thửa ruộng đó. Người buôn ngọc quý cũng biết được giá trị của viên ngọc. Anh ta biết đâu là giá trị phải theo đuổi, từ đó tập trung hết nguồn lực, sẵn sàng hy sinh, đánh đổi tất cả để mua cho bằng được thửa ruộng đó, sẳn sàng mua cho được viên ngọc. Chắc hẳn, anh ta không thể đắn đo, không do dự, không muốn bỏ lỡ cơ hội nên phải nhanh chóng quyết định mua ngay cho bằng được.Đây là cơ hội quý nhất “đáng giá ngàn vàng”. Nghĩ thế rồi anh ta mua ngay lập tức, anh ta bỏ hết những toan tính, dự định về những của cải mà mình đang có, chỉ tập trung mua thửa ruộng này thôi. Như thế, kho tàng chôn giấu trong ruộng và viên ngọc kia phải có giá trị hơn nhà cửa, tài sản. Kho tàng và viên ngọc có một sức hấp dẫn diệu kỳ. Bán tất cả “cái cũ” để mua “cái mới”. Việc bán cái cũ không diễn ra trong nuối tiếc nhưng trong niềm vui.
Vấn đề ở đây, dụ ngôn này muốn nói với chúng ta “Nước Trời” là viên ngọc quý, là kho tàng trong thửa ruộng hay nói cách khác Chúa Giêsu chính là kho tàng, là viên ngọc quý mà ta phải đánh đổi tất cả để có được. Chúng ta thật sự xác tín như vậy thì việc chúng ta dám từ bỏ tất cả để theo đuổi, để chiếm lấy Chúa Giêsu sẽ trở nên dễ dàng hơn. Ngược lại, khi chúng ta không thấy được Chúa Giêsu chính là kho tàng, là viên ngọc quý thì chúng ta khó có thể bước theo Ngài, chiếm Ngài và không can đảm bước theo Ngài. Tuy nhiên làm sao có thể thấy Chúa Giêsu là kho tàng, là viên ngọc quý được khi ta vẫn còn mãi ở trong sự giam hãm, bị lệ thuộc trong những định kiến, bị lấp lửng, bị do dự mãi…bởi chúng ta còn quá bám víu của cải vật chất, của cải, quyền lực, danh vọng,…làm sao chúng ta thoát khỏi những vướng bận ấy còn đang lôi kéo, trì trệ chúng ta. Nó không làm cho chúng ta vươn lên, bước tới Chúa Giêsu được.
Thánh Phaolô đã nói: “Tôi coi tất cả thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ để được Đức Kitô và được kết hợp với Ngài” (Pl 3, 8 – 9). Do đó, Nước Trời hay Chúa Giêsu mới thật là kho tàng, là viên ngọc quý mà người ta đáng bỏ công đi tìm kiếm và sẵn sàng từ bỏ tất cả để chiếm lấy cho bằng được. Đây mới thật là khôn ngoan đích thật đem lại hạnh phúc vĩnh cửu (1V 3, 4-14) “được lời lãi cả và thế gian mà mất sự sống đời đời thì được ích chi?”
Anh thanh niên giàu có đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?”. Chúa Giêsu bảo anh: “hãy về bán của cải anh có mà theo Ta”. Chúa Giêsu là tất cả. Ngài chính là hạnh phúc vững bền. Ngài chính là sự sống đời đời của mỗi người chúng ta.
Nhìn lại mình, có thể chúng ta đã hớn hở theo Chúa, nhưng khi Ngài đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ, phải hy sinh, thì chúng ta lại cúi mặt xuống, rồi buồn bã bỏ đi, không đáp trả lời mời gọi của Ngài, như chàng thanh niên giàu có kia. Vì thế, tìm gặp Chúa không phải chỉ là biết mặt rồi thôi. Nghe lời Chúa không phải chỉ là ghi nhận rồi làm ngơ và quên lãng. Điều quan trọng là phải đáp trả với tất cả con người, có nghĩa là phải sống và thực thi hết mình những điều Ngài truyền dạy. Tin Chúa không phải chỉ là chấp nhận Ngài, mà còn phải gắn bó mật thiết với Ngài. Phải dám can đảm, dám dấn thân, dám hy sinh bằng tất cả cuộc sống, vì gặp gỡ cũng có nghĩa là yêu thương. Đã tin Chúa, đã gặp Chúa, thì cũng phải có can đảm đổi thay cuộc sống, bắt đầu bằng thái độ từ bỏ: từ bỏ danh vọng, vui thú và tiền bạc. Lúc đó, vui thú trở thành vô nghĩa, tiền bạc trở thành tro bụi và danh vọng trở thành mây khói trước vẻ huy hòang của kho tàng vừa tìm thấy. Chúa Kitô chính là kho tàng quý giá, mà mối mọt không thể đục khoét và trộm cướp không thể lấy đi. Hãy can đảm đánh đổi tất cả để có được kho tàng quý giá ấy. Chúa Kitô là có tất cả.
Như thế, phần còn lại lại tuỳ mỗi người chúng ta chọn lựa, theo Chúa hay không. Ước gì chúng ta chọn đúng. Chúng ta chọn thứ thiệt! Chúng ta chọn kịp lúc.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa chính là Nước Trời, là niềm hạnh phúc thật, là hạnh phúc đời đời. Xin cho chúng con chỉ biết chọn Chúa, theo Chúa và làm điều đẹp lòng Chúa để biết từ bỏ tất cả mà dấn thân cho Nước Trời, cho Chúa chúng con. Amen.
KHÔN NGOAN TÌM NƯỚC TRỜI.
Vua Salomon nổi tiếng là vị vua khôn ngoan sáng suốt. Ông đã xử những vụ án rất khó khăn một cách khéo léo không khác gì Bao Công. Bà hoàng hậu Saba ở mãi tận phương nam cũng phải đến nghe sự khôn ngoan của ông. Nhưng khôn ngoan nhất là khi được Chúa cho chọn lựa, ông đã không xin được trường thọ hay được giàu sang, mà chỉ xin được ơn khôn ngoan. Lời cầu xin của ông rất đẹp lòng Chúa. Nên Chúa đã khen ngợi và ban cho ông mọi điều mong muốn. Chúa muốn tôi bắt chước vua Salomon, biết xin ơn khôn ngoan và biết khôn ngoan trong những lựa chọn. Nhất là biết khôn ngoan lựa chọn Nước Trời như những người trong bài Tin Mừng hôm nay.
Những người trong bài Tin Mừng hôm nay khôn ngoan vì thao thức đi tìm. Sự thao thức đi tìm được thấy trong thái độ bôn ba đây đó, khảo sát đất đai. Chắc phải đào bới nhiều mới thấy kho tàng chôn giấu trong ruộng. Sự thao thức đi tìm cũng thấy trong việc ra khơi thả lưới. Vất vả chài lưới rồi còn phải lựa chọn. Dù vất vả, họ quyết tìm cho ra Nước Trời.
Họ khôn ngoan vì biết phân định. Đời sống đem đến cho ta đủ mọi loại giá trị thượng vàng hạ cám, như chiếc lưới đánh bắt đủ mọi loại tôm cá. Giữa những giá trị ấy ta phải biết phân định. Lựa chọn những giá trị cao quý, tốt đẹp. Biết chọn lựa cá tốt, vứt bỏ cá xấu. Biết giá trị của viên ngọc dù nó còn đang nằm giữa khối đá sù sì dơ bẩn. Biết giá trị của kho tàng dù nó còn đang bị chôn giấu dưới lòng đất sâu. Biết giá trị của Nước Trời dù Nước Trời chưa tỏ hiện rõ ràng trên thế gian.
Họ khôn ngoan vì dám dấn thân. Khi đã biết được giá trị Nước Trời, họ dấn thân theo đuổi đến cùng. Dấn thân trọn vẹn nên bán tất cả những gì mình có để đổi lấy kho tàng, viên ngọc quý. Dấn thân quyết liệt vì bán hết nhà cửa rồi thì không thể quay về chốn cũ, chỉ còn gắn bó với quê hương mới mà thôi. Dấn thân tuyệt đối, bỏ hết tất cả chỉ vì một viên ngọc. Dấn thân như thế là thái độ của tình yêu, sự say mê, sự khao khát mãnh liệt. Đó chính là thái độ phải có khi đi tìm Nước Trời.
Họ khôn ngoan vì biết từ bỏ. Bán tất cả những gì mình có là một từ bỏ lớn lao. Dứt lìa những gì mình gắn bó còn đau đớn hơn nữa. Bỏ một nơi yên thân chắc chắn để dấn thân vào một tương lai bấp bênh thì thật là phiêu lưu đến tận cùng. Nhưng không có cách nào khác. Phải bán tất cả mới đủ sức mua viên ngọc Nước Trời. Phải đầu tư trọn vẹn con người với tất cả tài năng trí tuệ, sức lực, thời giờ mới mong chiếm đoạt được Nước Trời. Luyến tiếc một chút là bất thành. Chần chừ một chút là hỏng việc. Nấn ná một chút là bị lỡ cơ hội.
Họ từ bỏ một cách nhẹ nhàng thanh thoát. Nên từ bỏ rồi họ cảm thấy vui tươi. Họ từ bỏ một cách mau mắn vì họ đã dứt khoát với những gì xưa cũ. Lòng trí của họ chỉ gắn bó tha thiết với kho tàng mới tìm thấy.
Đó là những thái độ khôn ngoan đáng cho ta noi theo trên con đường đi tìm Nước Trời. Biết thao thức đi tìm. Biết phân định giá trị. Biết mau mắn từ bỏ. Biết hăng hái dấn thân đến cùng.
Lạy Chúa, xin ban cho con ơn khôn ngoan để con biết chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn có thực sự coi Nước Trời là kho tàng quý giá nhất không?
2) Bạn đã thực sự bán hết mọi sự để mua Nước Trời chưa? Còn những gì bạn còn luyến tiếc chưa muốn bán?
3) Bạn nghĩ thế nào về sự khôn ngoan. Bạn muốn trở thành người khôn ngoan thực sự không?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Aman là một làng chài lưới. Không có dấu hiệu vật chất bên ngoài chứng tỏ dân làng Aman giàu có. Nhưng niềm vui tươi nở trên mặt, chứng tỏ cái nghèo vật chất không ngăn cản họ sống hạnh phúc thật sự.
Phải, tất cả mọi người trong làng đánh cá này đều sống trong an vui.
Nhưng rồi một ngày kia, hai anh em đánh cá trong làng là Sô-Pốt và Sô-Pa lưới lên một thùng rất nặng. Khi thuyền về đến bờ, họ tò mò mở nhanh thùng ra và rất đổi ngạc nhiên, khi thấy thùng chứa đầy những viên ngọc quý. Hai anh em không biết làm gì với kho tàng, bèn bàn nhau đến hỏi ý kiến nhà hiền triết A-ki-an sống gần bên.
Sô-pốt hỏi:
– “Thưa ngài, chúng tôi phải làm gì với những hạt ngọc này?”. Số lượng đủ để phân phát cho dân trong làng chúng tôi, mỗi người một hạt và như thế mỗi người chúng tôi sẽ trở thành giàu có.
Nghe thế nhà hiền triết liền trả lời cách khô khan:
– Hãy đem đổ lại xuống biển!
Anh chị em thân mến,
“Thưa ngài chúng tôi phải làm gì với những hạt ngọc quý này?”. Câu hỏi của hai anh em Sô-pốt và Sô-pa làm cho chúng ta nghĩ ngay đến câu hỏi của chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời?”. Giống như câu trả lời của nhà hiền triết trong câu chuyện, Chúa Giêsu không đề nghị với chàng thanh niên hãy lo tích chứa của cải thêm để được hạnh phúc, nhưng Ngài bảo phải về bán đi tất cả những gì anh có rồi đến theo Ngài. Ngài là tất cả. Có Ngài là có được tất cả. Ngài là hạnh phúc.
Chàng thanh niên giàu có không dám bán những gì anh sở hữu mà cho người nghèo, rồi theo Đức Giêsu. Anh chưa hiểu được rằng tình bạn với Đức Giêsu chính là viên ngọc quý, chính Ngài là sự sống đời đời mà anh đang mong mỏi kiếm tìm (Mt 19,16-22). Bởi vậy, anh không dám bỏ sự an toàn hiện tại của mình để đi theo một Đấng không có chỗ ngả đầu (Mt 8,20). Anh sợ mình “thả mồi bắt bóng”.
Trong dụ ngôn Chúa Giêsu vừa kể cho chúng ta hôm nay, chúng ta thấy người nông dân nghèo tình cờ tìm được kho báu trong ruộng cũng như người buôn ngọc bất ngờ tìm được một viên ngọc quý, cả hai lật đật hối hả trở về nhà, trong đầu chỉ mang một ý nghĩ duy nhất là phải mua ngay, nếu không sẽ lỡ cơ hội ngàn vàng. Và để mua ngay thì phải bán ngay lập tức những gì mình đang có. Như thế, kho báu thật có giá trị hơn gấp bội nhà cửa, tài sản của anh nông dân; viên ngọc quý làm át đi vẻ ngời sáng của những viên ngọc người thương gia hiện có. Kho báu và viên ngọc có một sức hấp dẫn kỳ diệu. Từ ngày gặp được, cả hai thấy mình phải hciêm1 lấy, dù phải đánh đổi bắng tất cả tài sản của mình.
Cả hai người bán tất cả những gì mình có, người buôn ngọc chắc chắn phải bán nhiều hơn anh nông dân nghèo, nhưng cả hai đều phải bán tất cả. Bán “cái tất cả cũ”để mua được kho báu và ngọc quý là “cái tất cả mới”. Chỉ cần được “cái tất cả mới”này là cả hai người được mãn nguyện, cuộc đời không còn như xưa nữa. Chính vì thế, việc bán cái cũ không diễn ra trong nuối tiếc và dằn vặt, nhưng trong niềm vui chan chứa. Tuy nhiên, người ngoài có thể không hiểu nổi thái độ của hai người. Một thửa đất, một viên ngọc: có cần mất tất cả để mua được không? Cuối cùng, chỉ ai thấy mới hiểu được.
Đức Hồng Y Martini thường hay kể câu chuyện sau đây mà Ngài lấy làm tâm đắc: Có người đến gặp vị ẩn tu trong sa mạc và hỏi: “Thưa cha, cha là người có nhiều kinh nghiệm, xin cha giải thích cho con rõ, tại sao có nhiều người trẻ vào tu trong sa mạc này, nhưng sau đó lắm người bỏ về, và có ít người bền đỗ?”. Khi ấy, vị ẩn tu trả lời: “Chuyện này giống như một con chó đuổi theo một con thỏ, vừa đuổi vừa sủa inh ỏi. Nhiều con chó khác nghe nó sủa và thấy nó chạy, liền chạy theo. Chẳng bao lâu, những con sau này đều mệt lả và ngừng lại. Chỉ có con chó đầu tiên, lúc nào cũng tiếp tục chạy cho đến khi bắt được con thỏ, còn những con chó kia không thấy! Vị ẩn tu muốn nói rằng, chỉ có người nào thấy được Đấng mình theo đuổi, người ấy mới dám theo Đấng ấy tới cùng, dù phải chịu nhiều hy sinh từ bỏ”. Vậy vấn đề chủ yếu ở đây là: chúng ta có thấy Nước Trời, là kho báu hay có thấy Đức Kitô là viên ngọc quý không? Nếu chúng ta thực sự thấy và xác tín như vậy, thì việc từ bỏ mọi sự chúng ta có, sẽ dễ dàng hơn.
Nhưng, thưa anh chị em, làm sao chúng ta có thể thấy Nước Trời là kho báu khi chúng ta vẫn bị giam hãm trong cái thế giới khả giác này, khi thế gian hằng dạy cho chúng ta biết kho báu duy nhất là tiền của, quyền lực và khoái lạc? Làm sao chúng ta có thể thoát ra khỏi lối đánh giá của người đời và cảm nếm được tính ưu việt của Nước Trời?
Có một người đã sẵn sàng bán tất cả của cải, vật chất cũng như tinh thần, để được Đức Kitô: Thánh Phaolô. Ngài đã nói: “Tôi coi tất cả thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Ngài, tôi đánh mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Ngài” (Pl 3,8-9). Thánh Phaolô đã từ bỏ mọi sự vì đã cảm nghiệm được kho báu lớn lao và quý giá mà ngài lãnh nhận.
Thì ra Nước Trời mới thật là kho báu, là viên ngọc mà con người đáng bỏ công đi tìm kiếm và sẵn sàng từ bỏ tất cả để chiếm cho bằng được. Đây mới là sự khôn ngoan đích thực đem lại hạnh phúc vĩnh cửu (x. 1V 3,4-14) “Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời thì được ích gì?”. Vấn đề đã rõ ràng. Công việc quyết định lựa chọn dứt khoát chỉ còn tuỳ ở mỗi người chúng ta. Hãy chọn cho đúng thứ thiệt. Hãy chọn cho kịp thời, kẻo trễ mà “mất cả chì lẫn chài”khi mẻ lưới đã được kéo lên bờ và số phận của những con cá đã được quyết định, không thể thay đổi được nữa, như trong dụ ngôn kết thúc Tin Mừng hôm nay.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đưa ra ba hình ảnh: Đó là kho tàng, viên ngọc và mẻ lưới. Cả ba đều có chung một lý tưởng: Nước trời là một cái gì quý giá, và muốn chiếm hữu, chúng ta phải sẵn sàng hy sinh tất cả.
Trong cuộc sống, chúng ta thấy có những thành công sáng chói, nhưng rất có thể đó chỉ là một lớp sơn hào nhoáng bên ngoài, để rồi khi đứng trước ngưỡng cửa vĩnh cửu, tâm hồn họ đã bị mục rữa từ lâu.
Trái lại, có những người âm thầm chịu đựng và làm việc. Cuộc sống của họ thì tăm tối, còn bản thân họ thì nhiều khi bị ghét bỏ và khinh chê, nhưng thực sự họ là những người được Chúa yêu thương và chúc phúc.
Tới đây tôi xin kể lại một mẫu gương của ông hoàng Vladimir Ghyka. Ong là một người thuộc hoàng tộc, được ăn học đến nơi đến chốn và được thừa hưởng nhiều của cải vật chất. Ông có thể sống một cuộc sống nhàn hạ và sung sướng, cũng như có một địa vị cao sang ngoài xã hội.
Thế nhưng, ông đã từ chối những quyến rũ trần gian, những vui thú mà cuộc sống vương giả đem lại. Ông đã chọn cho mình viên ngọc quý của Phúc Âm. Ông sẵn sàng từ bỏ tất cả để chiếm lấy viên ngọc quý ấy.
Từ bỏ tất cả, ông đã sống một cuộc sống nghèo túng giữa những kẻ nghèo túng. Đời ông kể từ nay thuộc hẳn về Thiên Chúa và những người bất hạnh. Ông đã qua đời vào năm 80 tuổi trong ngục thất, nơi mà kẻ thù đã giam giữ ông.
Dưới cặp mắt của người đời, thì ông đã thất bại hoàn toàn, cũng như Chúa Giêsu đã thất bại hoàn toàn khi bị treo trên thập giá. Thế nhưng, chính cái kết thúc bi thương ấy lại mở ra con đường vinh quang mà chúng ta không thể nào mường tượng nổi.
Như người lái buôn khi đã khám phá ra viên ngọc quý, đã bán tất cả những gì mình có để mua cho được viên ngọc ấy. Đây là một sự lựa chọn đáng ca ngợi và khích lệ.
Với chúng ta cũng thế, nếu chúng ta hiểu được hồng ân của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải hành động như vậy. Thế nhưng có biết bao nhiêu người khao khát hạnh phúc, đã lầm lẫn một cách tệ hại khi chọn lựa cho mình những sự chóng qua, để rồi ngay từ đời này họ đã cảm nghiệm được sự bẽ bàng và cay đắng.
Chính Chúa Giêsu cũng đã khuyên nhủ chúng ta:
– Các con hãy thu tích cho mình những kho tàng trên trời, nơi mà mối mọt không phá hủy và kẻ trộm không đục tường khoét vách mà lấy đi. Bởi vì kho tàng các con ở đâu thì lòng các con cũng ở đó.
Trên con đường dẫn tới nước trời, chúng ta rất dễ dàng bị lạc lối, bởi vì chúng ta tìm hạnh phúc nơi không có bóng dáng của nó. Trái tim chúng ta thật lớn lao, nhưng chúng ta lại chất đầy nó bằng những ảo ảnh phù du. Chúng ta như những con thiêu thân lao mình vào lửa để rồi, để rồi lửa của đam mê và dục vọng sai trái đã đốt cháy bản thân và cuộc đời chúng ta.
Bởi đó, mỗi người chúng ta hãy tự kiểm điểm xem: chúng ta có dám hy sinh để chiếm lấy nước trời và chúng ta có dám từ bỏ để bước theo Chúa hay không?
Anh chị em thân mến,
Thánh Phanxicô Xavier, (1506-1552) là con gia đình quí tộc Xavier thành Pamplune, nước Tây Ban Nha. Lớn lên được theo học bên Pháp, là bạn cùng lớp với thánh Ignatiô Loyola. Một hôm đi tham dự thánh lễ, Phanxicô nghe đọc Lời Chúa: “Lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn, nào được ích gì?” Câu Kinh thánh này đã ảnh hưởng sâu xa suốt cuộc đời trai trẻ của thánh nhân, cũng như sau này nữa. Cũng chính vì câu nói đó thánh nhân đã bỏ hết mọi sự, để chỉ tìm một mình Chúa. Ngài đã gia nhập dòng Tên do thánh Ignatiô mới thành lập, đã vâng lời thánh Ignatiô đi truyền giáo ở Ấn độ. Sau đó, ngài dự định đi Trung Hoa, nhưng chưa kịp, ngài đã chết trên hòn đảo Sancian, mặt quay nhìn lên đất Trung Hoa.. Câu chuyện của bài Tin mừng hôm nay cũng một chủ đề tương tự như thế…
a/. Sau đây, chúng ta tìm hiểu vài câu nói trong bài Tin mừng:
Nước Trời được ví như người đi tìm kho báu, như người buôn ngọc quí: anh này khi gặp được ngọc quí, đã sẵn sàng bán tất cả gia sản để mua cho bằng được viên ngọc quí đó. Hay như người tìm kho báu, khi được rồi, ông ta cũng làm một cách tương tự như người buôn ngọc quí ở trên.
Nước Trời cũng giống như chiếc lưới bắt cá…Khi kéo lên bờ người ta sẽ chọn cá tốt, cá xấu thì bỏ đi: người Kitô hữu cũng phải biết chọn lựa Nước Trời hay trần gian tương tự như thế. Dĩ nhiên không được bắt cá hai tay, mà chỉ được chọn một mà thôi….
b/. Giá trị Nước Trời là vô song: chính vì thế Chúa dạy ta phải hi sinh tất cả để chiếm hữu cho được. Nước Trời, với người không hiểu, sẽ chẳng giá trị gì, nhưng với người tìm ra điều bí nhiệm của Nước Trời, họ thấy quí giá vô cùng và họ bị thôi thúc chiếm cho bằng được để làm sở hữu. Hai anh buôn ngọc và tìm kho báu trong Phúc âm, đã dám liều mình bán tất cả để mua được ngọc, để chiếm cho được kho báu. Người ta thường nói: trên đời, không liều, sẽ không làm giàu. Trong đạo cũng có thể nói: không liều, cũng không làm thánh được…
Trong một ngôi chùa nọ bên nước Nhật, lúc nửa đêm, vị thiền sư đang tụng giờ kinh đêm một mình. Bỗng ông thoáng thấy một bóng người vụt qua, vừa lúc nghe có tiếng sau lưng: – Tiền đâu? Đưa đây? Nhà sư định thần ra là tên trộm, ông thong thả trả lời: – Thiện tai thiện tai; chùa nghèo làm gì có tiền! – Chùa lớn thế này mà không có tiền à? Nhà sư vẫn tụng kinh, vừa trả lời: À mà quên! Trong học tủ bên trái, ta còn ít tiền. Nếu muốn cứ lấy; nhưng nhớ chừa lại cho ta ít trăm để mai ta còn tiền đi đóng thuế cho nhà nước. Rồi nhà sư tiếp tục tụng kinh. Tên trộm thấy ít tiền quá, nên cởi luôn chiếc cà sa nhà sư đang mặc. Ông chỉ còn độc chiếc quần xà lỏn mà vẫn tụng kinh. Khi tên trộm bỏ đi, ông nhìn theo mỉm cười: nghiệp chướng nặng quá! Nghiệp chướng!..
Câu chuyện trên đây muốn nói: vị thiền sư đã dám liều bỏ tất cả vinh hoa trần gian, để được giác ngộ, để tu cho đắc đạo. Nói một cách vắn tắt, ông đã coi thường của cải, phù vân trần gian, chỉ vì đạo. Nhìn lại lịch sử Hội thánh công giáo, ta thấy các thánh cũng đã sống tương tự như thế. Mẹ Têrêsa Calcutta đã dám liều bỏ cộng đoàn Loretta Mẹ đang tu ở đó, để đi theo ơn gọi mình vừa nhận được, là lo cho người nghèo khổ và sống chung với họ. Kết quả thế nào, ngày hôm nay thế giới dư biết việc Mẹ đã làm.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: là người Kitô hữu, khi hiểu được Nước Trời là quý giá, ta có dám liều bỏ mọi sự để mua cho bằng được không? Ta có dám làm theo lời Chúa Giêsu dạy? Ta có dám theo gương hai người đi tìm ngọc, tìm kho báu, vì nghỉ rằng chỉ có Nước Trời là quý giá? Hay ta vẫn còn bắt cá hai tay, vừa theo Chúa vừa chạy theo tiền của, danh vọng trần gian? Ta chọn cách nào?
Trong thời gian gần đây, hai câu lạc bộ hàng đầu thế giới Man United và Real Marid không ngừng đưa ra muôn vàn phương kế để chiêu dụ “Viên ngọc quý” bóng đá Cristiano Ronaldo. Cầu thủ 23 tuổi này hiện đang là ngôi sao của Man United, nhưng Real Marid không ngừng lôi kéo bằng nhiều hình thức, hứa hẹn với mức lương kỷ lục, khuyến mãi xe con… Tất cả những điều họ làm chỉ nhằm kiếm được “viên ngọc quý” của bóng đá về cho mình. Cả hai câu lạc bộ đều đủ biết để làm được điều đó họ phải ép mình thực hành đủ những điều kiện mà trước đây họ vẫn chưa làm.
Hôm nay Đức Giêsu cũng nói về một viên ngọc quý, mà để chiêu mộ viên ngọc quý này không thể dùng tiền hay quyền lực, nhưng bất cứ người nào cũng có thể mua được khi họ đáp ứng đủ những điều kiện sau:
Để đạt được Nước Trời tôi phải có lựa chọn, lựa chọn là một sự thách đố, đòi hỏi phải có một suy nghĩ thật kỹ, một sự khẳng định dứt khoát. Thiên Chúa không bao giờ chấp nhận một sự lựa chọn nửa vời “dở dở ương ương Ta sẽ ói ngươi ra”. Giống người lái buôn hôm nay khi đã quyết định mua viên ngọc, thì quyết tâm mua cho bằng được, vì anh ta đã chọn, đã lựa đó cũng là điều anh muốn. Từ ban đầu khi tạo thành vũ trụ Thiên Chúa đã cho con người được tự do, qua việc đặt con người trước “cây biết lành biết dữ”. Sự lựa chọn là một thử thách cam go đòi hỏi con người phải chọn dứt khoát: tốt hoặc xấu. Là người Kitô hữu chúng ta phải biết lựa chon những giá trị tốt, vứt bỏ cái xấu, phải có cái nhìn sâu xa biết cả những giá trị thực của viên ngọc còn tiềm ẩn sâu bên trong mà thực chất với cái nhìn hiện nay ta không thể biết đến.
Để đạt được Nước Trời đòi hỏi ta phải đáp trả trọn vẹn. Trong tục ngữ Việt Nam có câu “lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Điều kiện đáp trả lời mời gọi đó chính là “lửa” để xem sự nhiệt thành sự khao khát tìm viên ngọc quý của ta thế nào. Qua giòng lịch sử Giáo Hội có rất nhiều người đi tìm nhưng không phải ai cũng tìm thấy, vì họ chưa thật sự đáp trả trọn vẹn, chưa dấn thân nhiệt tình. Sự đáp trả không phải chỉ bằng lời nói suôn, nhưng phải được thể hiện qua hành động cụ thể. Mỗi người có môt sự đáp trả khác nhau Thiên Chúa không cào bằng tất cả mọi người, cũng không đòi buộc mọi người phải đáp trả như nhau.Vì có người thì được ban cho năm nén, có người ba nén. Nhưng đạt được viên ngọc quý đòi hỏi mỗi người phải đáp trả hết khả năng mình có ba nén phải làm lời ba nén, có năm nén phải là lời cho được năm nén khác.
Để đạt được Nước Trời đòi buộc tôi phải dấn thân hoàn toàn. Muốn chiến thắng thì phải nhảy vào cuộc chiến, có thể cuộc chiến đó một còn một mất, nhưng khi đã chiến đấu vì Nước Trời cộng với ơn Chúa thì ta không bao giờ là người chiến bại mà luôn là người chiến thắng. Giống như người buôn hôm nay chắc chắn gia tài của ông ta rất nhiều, rất giàu có, bao nhiêu năm ra công buôn bán chỉ nhằm vun đắp cho gia tài đó. Nhưng gia tài đó chẳng là gì khi biết được giá trị Nước Trời, ông quyết tâm theo đuổi đến cùng, bằng mọi cách kể cả bán gia tài mình đang có bán hết chứ không phải chỉ bán một phần. Điều đó thể hiện sự dấn thân trọn vẹn, một sự ham mê tuyệt vời, một sự khao khát, một nỗ lực tuyệt diệu cho người ra công tìm kiếm Nước Trời.
Để đạt Nước Trời đòi hỏi tôi phải trưng dụng tất cả, gia tài có thể là mồ hôi nước mắt của người, đó có thể là công sức của cả đời. Nhưng để mua được viên ngọc quý đòi hỏi ông ta phải hy sinh. Tuy dẫu biết rằng hy sinh là chấp nhận mất mát nhưng hy sinh cái tạm thời lại mua được cái vĩnh cữu, thì mất mát có đáng chi. Vĩnh cữu thì rất xứng đáng. Người lái buôn hy sinh gia tài chỉ là một góc của muôn vàn sự hy sinh. Có những sự hy sinh còn cao cả hơn nhiều. Họ hy sinh cả bản thân, chấp nhận đau khổ để mua viên ngoc qúy bằng con đường dâng hiến phục vụ tha nhân, phục vụ người nghèo, người đau khổ bệnh tật…
Giá trị của Nước Trời rất quý và đòi hỏi của nước ấy rất quyết liệt do đó tôi phải nỗ lực hết mình đáp trả bằng những điều kiện và ơn Chúa ban chắc chắn tôi sẽ làm được. và dụ ngôn hôm nay như một động lực thúc đẩy tôi hãy đi tìm kiếm Nước Chúa bằng con tim, bằng sự chân thành và lòng quyết tâm.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Một trong những đặc điểm của Thiên Chúa hằng sống là Ngài quấy rầy mọi thái độ cầu an, mọi nguyên trạng, mọi ổn định. Lịch sử dân Israel cống hiến những thí dụ thường trực. Hết mọi trang của Phúc Âm thúc đẩy không cho con người an cư trong cuộc sống trần thế; dĩ nhiên, hai chân đạp đất vững chắc, con người ấy được mời gọi tiến bước về một mục tiêu siêu việt. Thiên Chúa hiện diện kề cận nhân loại đến nỗi Ngài xáo trộn con người, cách nhìn và đánh giá sự vật, cách định hướng cuộc đời của nó. Một người sống cuộc đời bình thường, ngăn nắp, bảo đảm, danh giá, rồi bỗng chốc một ơn lạ thường đảo lộn tâm trí, óc phán đoán, lòng dạ anh ta, như thể anh vừa mới khám phá một kho tàng quý giá dưới chân mình. Đó là thánh Phanxicô người Assisi, từ bỏ mọi của cải để đi theo Đức Kitô. Đó là người thanh niên hay người thiếu nữ hy sinh một tương lai nhân loại thấy trước được là bảo đảm để bước vào một cuộc phiêu lưu tự hiến cho Thiên Chúa trong việc phục vụ con người. Phúc Âm đưa vào trong lòng nhân loại một cách phán đoán giá trị sự vật mới.
1) Phúc Âm xét lại giá trị của tất cả mọi sự. Sự phê phán nhân loại về cuộc sống tự nhiên thiên về việc an định trong trật tự, trong hoà hợp các tương giao. Rồi bỗng trong cái trật tự và hoà hợp ấy, Phúc Âm đem vào một yếu tố thay đổi tất cả, gây nên căng thẳng và cả chống đối nữa. Người ta có được sung túc vật chất, được tiện nghi gia đình, được ích gì nếu phải mất linh hồn? Phúc Âm đem vào một trật tự mới và một quy luật tương giao nhân loại mới, dựa trước hết vào Thiên Chúa; lập tức mọi sự mang một chiều hướng mới, một giá trị mới. Việc này đương nhiên gặp sự kháng cự của con người và do đó có nhiều trường hợp xung đột. Quả thực, Đức Kitô gây xáo trộn sâu xa cho mọi tầng lớp nhân loại.
2) Kho tàng tìm thấy trong ruộng đáng cho người ta bán tất cả của cải để mua lấy nó. Phúc Âm xét lại giá trị của tất cả vì đối lại với những gì chóng qua, Phúc Âm đề ra cái tuyệt đối. Không phải chỉ có việc thay đổi 1 mức giàu sang để lấy một mức cao hơn. Đây là việc đặt của cải chóng qua bên dưới của cải tối cao, của cải chóng tàn bên dưới của cải vĩnh cửu. Một thí dụ: trong xã hội tiêu thụ, phải chăng không cần bắt các động lực sản xuất lệ thuộc các luật lệ công bằng, làm sao cho lo âu chính của những người có trách nhiệm không phải là lợi tức trên hết nhưng, là con người và nhân phẩm. Nhiều người Kitô hữu xác tính như vậy và tìm tòi cách thức hành động. Điều chính yếu là xác tính vì chứng tỏ rằng đã bắt đầu tìm thấy kho tàng ẩn dấu trong ruộng. Làm sao để đào lấy kho tàng ấy? Mỗi người hết sức theo cách mình cộng tác với người khác để gia tăng hiệu năng. Ước gì các Kitô hữu là những kẻ trong thế giới ngày nay biết đặt thái độ duy vật tiêu thụ xuống hàng dưới để đào lấy được các kho tàng công lý và tình thương.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)
Khi chúng ta suy nghĩ về sự khôn ngoan, chúng ta có thể liên tưởng đến một ông lão với bộ râu dài bạc trắng như cước, miệng phì phèo điếu tẩu, nằm ngả lưng trên chiếc ghế bố và một sự khôn ngoan có thể nói được là: “Một xu để dành là một xu được hưởng”. Nhưng sự khôn ngoan theo Thánh Kinh thì không có nghĩa như thế. Trong Thánh Kinh sự khôn ngoan không phải là lý thuyết suông hay trừu tượng. Nó thì rất thực tiễn. Đó là sự thực hành theo lẽ phải, khôn ngoan con đường sống.
Vua Salomon đã cầu xin sự khôn ngoan, không phải để ông ngồi yên vị nơi hoàng cung và suy tư về những chân lý trong vũ trụ. Ông xin Thiên Chúa ban cho mình sự khôn ngoan, một trái tim hiểu biết để ông có thể trị vì vương quốc cách đúng đắn đem lại hạnh phúc cho dân tộc.
Chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta tặng ân này hay chính xác hơn là tăng thêm sự khôn ngoan cho chúng ta, bởi vì chúng ta đã lãnh nhận sự khôn ngoan rồi, là linh ân của Chúa Thánh Thần khi chúng lãnh nhận phép Thêm sức. Khôn ngoan hướng dẫn chúng ta, giúp chúng ta chu toàn những trách nhiệm của mình. Các bậc cha mẹ có bổn phận chăm sóc dưỡng dục con cái. Họ là những nhà giáo dục đầu tiên và trước hết của con cái họ, ngay cả trong vấn đề tôn giáo. Kế tiếp chúng ta mới nghĩ đến các linh mục, thầy cô giáo, bác sĩ, cảnh sát và nhiều ngành nghề khác đã phục vụ cho con người. Tất cả chúng ta có trách nhiệm hướng đến ta nhân khi chúng ta sống trong cùng một xã hội. Mặc dù chúng ta không nghĩ đến vấn đề này một cách thường xuyên, chúng ta cũng có trách nhiệm với chính bản thân của mình nữa.
Có lẽ cách khôn ngoan nhất để xem những trách nhiệm của chúng ta là suy nghĩ xem những giá trị thực tiễn trong đời sống này là gì? Những mục đích của chúng ta là gì? Những tham vọng của chúng ta là gì? Chúng ta thật sự muốn gì trong đời sống?
Năm 1849 nhiều người nghĩ rằng họ biết những gì họ muốn trong đời sống. Vàng đã được khám phá ở California. Những nhà chăn nuôi và những trại chủ đã đua nhau cách điên cuồng trên những chiếc xe ngựa và những toa xe kéo theo băng qua lục địa với một nỗ lực lớn lao nhằm thu hoạch một mùa gặt kim loạt vàng.
Một chủ nông trại ở Kansas, không bằng lòng với những mùa nho hết năm này đến năm khác, ông nghĩ rằng chắc mình phải xa rời gia đình và nông trại để tìm kiếm một cơ hội may mắn. Vợ của ông đã lo lắng vì chuyện đó. Bà có bốn đứa con nhỏ phải chăm sóc và bà nghi ngờ cái biến cố mà chồng bà luôn mơ tưởng là có thể thành công. Miễn cưỡng, người trại chủ ở lại nhà. Một đêm, ông nằm mơ thấy mình ở trong một căn phòng đầy vàng. Sau khi quá sung sướng để cho những miếng vàng rơi xuống qua tay mình, ông nhận ra mình đang đói lắm. Khi đó ông liền tìm kiếm xem có gì để ăn không, những ông chỉ thấy có vàng thôi. Ông gọi vợ ông, hy vọng sẽ được an ủi bởi tình yêu nồng ấm của vợ, nhưng chỉ có sự lạnh lùng của những thỏi kim loại màu vàng. Ông ước ao nhìn thấy những đôi mắt lấp lánh của những đứa con nhưng chỉ có vàng lấp lánh, ông liền thấy sự giàu có vô hồn biết bao đối với ông. Ông chợt tỉnh dậy. Sau một lúc suy nghĩ, ông nhận ra những giá trị thật mà ông đang có. Qua giấc mơ, ông đã trở nên một người khôn ngoan, một người hiểu biết và chấp nhận những trách nhiệm của mình.
Những trách nhiệm, ngay đối với một người khôn ngoan, có thể là một gánh nặng. Thánh Phaolô, chắc chắn là một trong những người khôn ngoan, đã viết: “Chúng ta biết rằng Thiên Chúa thực hiện tất cả công trình này là để mưu ích lợi cho những kẻ yêu mến Người”. Đó là một phần sống động của sự khôn ngoan là tùy thuộc vào Thiên Chúa, hãy đặt tất cả những gì chúng ta có ở trong tay Người, hãy cầu xin sự trợ giúp của Người, hãy nhận biết rằng tất cả mọi sự ngay lành đều đến từ Thiên Chúa. Những điều này sẽ là tâm tình của chúng ta khi chúng ta hợp với Đức Kitô để hiến dâng trong hy tế Thánh Thể là một dấu chắc chắn chúng ta biết điều gì là những giá trị thật trong đời sống chúng ta, rằng chúng ta hành động theo đặc ân cao cả là sự khôn ngoan.
Chúa Giêsu có vẻ như người bán hàng rong của Thiên Chúa! “Hỡi các ông bà, hãy dừng lại, hãy lắng nghe lời tôi, đây là ngày may mắn của quý vị, tôi đem đến cho quý vị một cơ hội duy nhất, một viên ngọc và một kho tàng. Đừng để tuột mất khỏi tay quý vị. Tôi sẽ kể cho quý vị câu chuyện một người kia tìm được một kho tàng và câu chuyện người nọ mua lại của anh ta viên ngọc đẹp nhất trong số các viên ngọc”.
Cơ may lớn chăng? Đó là khám phá ra rằng Chúa Giêsu là viên ngọc và là kho tàng. Một bài đọc, một cuộc gặp gỡ, một cuộc tĩnh tâm, một niềm vui rất lớn hoặc một nỗi khổ, và rồi chúng ta hiểu rằng sự sống, chính là Chúa Giêsu. Trong ánh sáng này tất cả đều được đơn giản hoá, tất cả đều có ý nghĩa, từ nay chúng ta hiểu tại sao chúng ta sống và sống như thế nào.
Chúng ta có nắm lấy cơ may này hay không? Hai dụ ngôn đẹp là những quan toà của chúng ta. Bạn muốn có kho tàng, bạn muốn có viên ngọc! Nhưng bạn bỏ đi không quyết định bán tất cả để mua chúng.
Bởi vì cơ may này thật tuyệt vời, nhưng đắt quá. Người nông dân bán “tất cả những gì anh ta có”, người lái buôn bán “tất cả những gì anh ta có”. Nếu không phải bán gì cả thì có lẽ tất cả chúng ta sẽ là những người mua Chúa Kitô.
Bán cái gì đây? Tôi không thể trả lời thay bạn. Tôi thấy cái mà tôi ngần ngại bán, và tôi nghĩ rằng nếu bạn nhìn một chút vào cuộc sống của bạn vào lúc này đây, bạn cũng sẽ thấy cái gì ngăn cản bạn mua viên ngọc và kho tàng.
Hai dụ ngôn nhỏ này cuối cùng là những lời kêu gọi gay go nhất trong các lời kêu gọi từ bỏ. “Bán tất cả” nếu tôi muốn mua sự sống. Nói rõ hơn, điều này có nghĩa là: từ bỏ cái gì ngăn cản tôi chọn lựa Chúa Giêsu. Do đó tôi phải bán sự an toàn, sự ích kỷ, tính hợm hĩnh, tính lười biếng, lòng tự kiêu của tôi. Mỗi lần đọc các dụ ngôn này, có một sự nhiệt tình chiếm lấy chúng ta. Để chiếm được Chúa Giêsu, chúng ta sẽ từ bỏ cái nầy và cái kia, tất nhiên rồi! Không, than ôi, không phải thế đâu! Chúng ta tránh mất mặt bằng cách nghĩ rằng dầu sao thì chúng ta cũng không đóng vai trò các thánh Phanxicô.
Cho nên việc từ bỏ vì viên ngọc có thể mang những hình thức cùng cực theo kiểu thánh Phanxicô Atxidi nhưng Tin Mừng là vì tất cả mọi người. Chúa Giêsu không chỉ rao giảng cho một vài vị tiên tri nổi tiếng về sự từ bỏ, và Ngài cũng không rao giảng điều hão huyền. Lời “bán tất cả” của Ngài thật khó theo nhưng phải có thể được cho bất cứ người nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Đơn giản là phải ý thức rằng người ta không theo Chúa Giêsu với hàng tấn tiện nghi hoặc hàng núi ngập ngừng trước một trong những bó buộc nhất định, chẳng hạn như việc bó buộc tha thứ. “Bán tất cả” có thể có nghĩa là sự lột bỏ lòng tự ái, hoặc sự chọn lựa anh hùng đó là tin tưởng trước khi chịu đựng một căn bệnh, và chắc chắn cũng có nghĩa là chấp nhận một ơn gọi.
Trong hai dụ ngôn này mà mỗi dụ ngôn đều được cân nhắc, có một tiếng cho chúng ta biết việc chọn Chúa Giêsu là một cơ may lớn lao như thế nào mặc dầu phải ra giá: “Trong niềm vui… Điên lên vì vui mừng, người đó đi bán tất cả. Cơ may của cuộc đời của chúng ta đó là khi nào tiếng “bán tất cả” bị thiêu đốt bằng ngọn lửa niềm vui.
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Một em học sinh thuộc câu lạc bộ bơi lội Saint Clara, Hoa Kỳ, mỗi ngày thức dậy lúc 5 giờ 30 sáng, rồi em ra hồ bơi luyện tập suốt hai tiếng đồng hồ, sau đó vội vàng lo đi học. Sau suốt ngày học ở trường, chiều về em lại ra hồ bơi luyện tập thêm hai tiếng đồng hồ nữa rồi mới về nhà làm bài và ngủ đúng chín giờ tối. Ngày nào cũng vậy, em luôn luôn trung thành với chương trình luyện tập, và chỉ nhận sinh hoạt khi nào sinh hoạt đó không cản trở chương trình học và luyện tập bơi lội của em.
Có người tò mò hỏi, tại sao em dám làm như vậy?
Em trả lời cách xác quyết, vì em muốn đoạt giải vô địch trong kỳ thi thế vận hội sắp tới.
Trên đời có nhiều người dám hy sinh tất cả cho mục đích, hay lý tưởng mà họ đã chọn. Phần chúng ta thì sao? Nước Trời, ơn cứu rỗi đã được Chúa ban cho chúng ta, chúng ta những người Kitô hữu hôm nay có hiểu, đánh giá và chấp nhận như là mục đích cuối cùng của chúng ta hay chưa? Chúng ta có chấp nhận hy sinh những điều khác để chiếm đoạt được Nước Thiên Chúa hay không?
Người Kitô hữu theo Chúa có một thái độ dấn thân, quyết chọn Chúa và những gì thuộc về Ngài như là mục tiêu duy nhất của lòng trí, của mọi hành động và lời nói của mình, sao cho hành động và lời nói của mình được hòa hợp với những gì mà Chúa dạy. Nhiều khi con cái thế gian dấn thân hy sinh cho những lợi lộc vật chất, cho những mục đích trần thế như đoạt giải thể thao trong thế vận hội, đạt được một địa vị xã hội nào đó, v.v… nhiều hơn là chúng ta thực hiện giới răn của Chúa.
Thánh Phaolô tông đồ nơi thư thứ nhất Corintô đã nói như sau: “Mọi lực sĩ sống trong thời gian luyện tập, chấp nhận theo một kỷ luật nghiêm khắc đến độ để đạt tới phần thưởng có thể bị hư nát. Nhưng chúng ta thì khác, chúng ta luyện tập những điều không hư nát” (1Cr 9,25).
Vào giây phút cuối cùng cuộc đời, khi chúng ta đối diện với cái chết của chính mình thì chỉ cần một điều cần thiết mà thôi, đó không phải là chúng ta có lãnh được nhiều giải thưởng này nọ hay không, có đạt được hạt ngọc này, hạt ngọc khác hay không, nhưng điều quan trọng là chúng ta đã trở nên như thế nào để đạt được viên ngọc quí hay kho tàng là chính Nước Chúa, là chính ân sủng Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta cần xác tín điều này, và khi đã xác tín thì sẽ được biểu lộ trong đời sống rằng, trên đời này không có gì cao quí đối với chúng ta hơn là Nước Chúa và chúng ta càng phải cố gắng làm sao để đạt được Nước này.
Nói thì dễ, nhưng làm thì khó. Thánh Phaolô đã ý thức điều đó trong chính kinh nghiệm sống của ngài khi ngài tâm sự với các tín hữu Corintô như sau: “Kho tàng ấy, kho tàng Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta, chúng ta lại chứa trong những bình sành dễ vỡ, để chứng tỏ quyền năng phát xuất từ Thiên Chúa chứ không phải từ chúng ta. Chúng ta bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp, hoang mang nhưng không bị tuyệt vọng, bị bạc đãi nhưng không bị bỏ rơi, bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt. Chúng ta luôn luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân phận chúng ta. Thật vậy, đang sống nhưng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì Chúa Giêsu, để cái của Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác hay chết của chúng ta”.
Thiên Chúa ban cho chúng ta kho tàng ân sủng của Ngài, và để chiếm đoạt được kho tàng ấy, chúng ta cần phải chiến đấu chống lại những cám dỗ, chống lại những tội lỗi, chống lại với tinh thần trần tục hóa của thế gian để được trung thành với ơn Chúa. Đây là điều mà thánh Phaolô gọi là: “Chúng ta luôn luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân phận mỏng giòn của chúng ta. Thật vậy, đang sống nhưng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì Chúa Giêsu, để cái của Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác hay chết của chúng ta”.
Để sống trung thành với kho tàng đức tin, với kho tàng ân sủng mà Chúa ban cho chúng ta trong thế giới có nhiều cám dỗ này, chúng ta cần phải cố gắng hy sinh, cần phải cầu xin ơn Chúa ban cho mỗi người chúng ta, giúp chúng ta luôn trung thành với kho tàng đức tin, kho tàng ân sủng mà làm cho kho tàng đức tin đó, kho tàng ân sủng đó phát triển đến mức độ hoàn hảo nơi mỗi người chúng ta. Amen.
Ngày nọ tôi đến thăm người bạn thân đã lâu không gặp. Sau một lúc trò chuyện, người bạn ấy mới buông tiếng thở dài than về người vợ của mình. Anh ta nói mình đã lầm khi lấy cô ta. Sự thật là lúc cưới nhau do anh tưởng rằng tài sản, của cải có thể làm cho gia đình hạnh phúc. Cho nên anh đã nhắm mắt làm liều để cưới cô ta. Không ngờ rằng sau khi lấy nhau, những người trong gia đình bên vợ và thậm chí cả người vợ cũng xem anh không hơn gì một đứa ở!!! Chỉ vì thiếu khôn ngoan trong lựa chọn nên bạn tôi đã chuốc lấy hậu quả hết sức ê chề.
Phụng vụ Lời Chúa Chúa nhật hôm nay, Giáo hội muốn cho chúng ta biết khôn ngoan là điều quý nhất của con người. Vua Salomon đã không xin Chúa cho mình được sang giàu hay sống lâu. Ông chỉ xin cho mình được khôn ngoan sáng suốt. Chính vì được khôn ngoan nên ông đã biết khôn phân xử những vụ án thật khéo léo cũng như xây dựng đất nước thật phồn thịnh.
Nhờ có khôn ngoan người tín hữu chúng ta mới có thể biết chọn lựa đâu là những giá trị của nước trời. Những giá trị của nước trời thì vĩnh cửu và chắc chắn. Ngoài ra các giá trị khác như tiền bạc, quyền lực, danh vọng chỉ là hư vô, chóng qua, tạm bợ.
Bởi lẽ: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13, 44 – 46).
Vậy đâu là những giá trị của nước trời? Đó là gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu và sống theo những gì Người dạy. Muốn được như thế đòi hỏi mỗi người chúng ta cần phải nỗ lực hết sức mình. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi can đảm dứt khoát để từ bỏ những gì không thích hợp với giá trị của Nước Trời. Đây chính là sự lựa chọn khôn ngoan nhất. Cái lầm của người bạn tôi sẽ qua đi nhưng cái lầm vì thiếu khôn ngoan để chọn lựa các giá trị của Nước Trời sẽ không thể nào có cơ hội làm lại.
Dụ ngôn kho tàng chôn dấu trong thửa ruộng là một câu chuyện không có gì xa lạ với dân chúng Do Thái, bởi vì họ vẫn thường kể cho nhau nghe về một câu chuyện cổ tích tương tự như thế.
Ngày hôm ấy Abba Giuđa đang cố gắng cày nốt thửa ruộng còn lại, thì bỗng con bò của anh ta bị ngã quị và gẫy mất một chân vì gặp phải một cái hố nhỏ. Bực mình, anh ta dừng lại vuốt những giọt mồ hôi trên trán, rồi qùy xuống nâng chân con bò lên.
Đột nhiên, Đức Giavê mở mắt cho anh ta và anh ta đã nhìn thấy một kho tàng quí giá ngay trong cái hố nhỏ ấy. Anh ta tự nhủ:
– Chính vì chú bò này mà mình được lợi đây.
Kho tàng ấy là của một ai đó đã chôn dấu, có lẽ từ lâu lắm, vì sợ trộm cắp, giặc giã hay chiến tranh. Anh ta cẩn thận vùi đất lại, trở về nhà, thu góp tiền bạc, bán tất cả những đồ đạc, để gom cho đủ số tiền, hầu tậu lại thửa ruộng, bởi vì anh ta chỉ là một nông dân nghèo đi cày thuê cuốc mướn mà thôi.
Dĩ nhiên, anh ta mua được thửa ruộng ấy, dù với một giá hơi mắc, nhưng anh ta trở thành triệu phú, bởi vì luật pháp đã qui định: kể từ ngày anh ta làm chủ mảnh đất, thì anh ta cũng làm chủ tất cả những gì có trong mảnh đất ấy.
Có lẽ Chúa Giêsu đã lấy chính câu chuyện bình dân này để nói về Nước Trời. Việc chôn dấu vàng bạc cũng là một việc thông thường ở xã hội Việt Nam nơi những người giàu có, nhất là trong thời buổi loạn lạc.
Rất có thể một tai nạn bất ngờ xảy ra, người chủ của kho tàng đã phải ra đi, hay đã chết một cách đột ngột mà không có người thừa kế. Kho tàng trở thành vô chủ, bị vùi dưới ba tấc đất mà chẳng một ai hay biết.
Mặc dù câu chuyện không đưa ra một kết luận hiển nhiên, nhưng ai cũng biết rằng kể từ nay anh nông dân may mắn ấy đã có được một cuộc sống an nhàn.
Tuy nhiên đều quan trọng đối với chúng ta chính là thái độ của anh ta: tìm được kho tàng, anh ta rất vui mừng, tuy nhiên anh ta cũng không quên cẩn thận: bới đất và vùi lại cho kỹ hơn, rồi vội chạy về nhà, tìm đủ mọi cách như bán tất cả đồ đạc, thậm chí kể cả việc vay mượn bà con lối xóm, để có đủ số tiền tậu thửa ruộng ấy.
Hành động của anh ta thật khôn ngoan, nhanh nhẹn và hợp lý. Anh đã dám liều, dám hy sinh tất cả chỉ vì kho tàng quí giá ấy.
Hình ảnh anh nông dân cũng là hình ảnh của mỗi người chúng ta. Kho tàng của chúng ta là Nước Trời, là Tin Mừng, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, là chính Đức Kitô. Tuy nhiên thái độ của chúng ta là như thế nào?
Rất có thể chúng ta đã háo hấc về Chúa, nhưng khi Ngài đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ, phải hy sinh, thì chúng ta lại cúi mặt xuống, rồi buồn bã bỏ đi, không đáp trả lời mời gọi của Ngài, như chàng thanh niên giàu có trong Phúc Âm.
Tìm gặp Chúa không phải chỉ là biết mặt rồi để đấy. Nghe lời Chúa không phải chỉ là ghi nhận rồi làm ngơ và quên lãng. Điều quan trọng là phải đáp trả với tất cả con người, có nghĩa là phải sống và thực thi những điều Ngài truyền dạy.
Tin Chúa không phải chỉ là chấp nhận Ngài, mà còn phải gắn bó mật thiết với Ngài. Phải dám liều, dám dấn thân, dám hy sinh bằng tất cả cuộc sống, vì gặp gỡ cũng có nghĩa là yêu thương.
Đã tin Chúa, đã gặp Chúa, thì cũng phải có can đảm đổi thay cuộc sống và xoay ngược dòng đời, bắt đầu bằng thái độ từ bỏ: từ bỏ danh vọng, vui thú và tiền bạc. Lúc đó, vui thú trở thành vô nghĩa, tiền bạc trở thành tro bụi và danh vọng trở thành mây khói trước vẻ huy hòang của kho tàng vừa tìm thấy.
Đức Kitô chính là kho tàng quí giá, mà mối mọt không thể đục khoét và trộm cướp không thể lấy đi. Hãy dám đánh đổi tất cả để có được kho tàng quí giá ấy. Bởi vì, có Đức Kitô là có tình yêu và hạnh phúc bất diệt. Như vậy, có Đức Kitô là có tất cả.
Mỗi người, người nào cũng đều có một kho tàng hết sức quí báu ở ngay bản thân mình mà hầu như chẳng mấy ai biết hay nhận ra. Rất nhiều người đã nghe nói về kho tàng ấy, nhưng họ chẳng để ý, hay chẳng quan tâm, hoặc chẳng tin. Chính vì thế kho tàng trở thành bị dấu kín, không được dùng tới, nên chẳng đem lại lợi ích gì cho người có nó. Người ấy vẫn thiếu thốn thậm chí suốt cả cuộc đời, và luôn luôn phải ăn mày hay ngửa tay xin xỏ người khác bố thí. Kho tàng ấy chính là “cái mà con người là”, nó thuộc về bản chất, ở trong con người, chứ không phải là thứ ở ngoài con người hay “cái mà con người có”.
Kho tàng ấy được Kinh Thánh mạc khải: Con người là “hình ảnh của Thiên Chúa”, được dựng nên “giống Thiên Chúa” (St 1,26.27; 9,6), là “con cái Thiên Chúa” (Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10), “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Nếu biết suy xét, ta thấy đó đúng là một kho tàng quí báu. Ý thức và xác tín những điều ấy, ta sẽ thấy phẩm giá của chúng ta hết sức cao quí. Phẩm giá ấy cao quí hơn tất cả những gì mà ta có thể có được ở trần gian. Với bản chất cao cả ấy như một chìa khóa, một bí quyết, một nền tảng cần thiết, con người có thể có tất cả, nhất là có hạnh phúc đích thực ở trần gian này, và hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa dành cho con cái Ngài.
Chúng ta là con cái Thiên Chúa, được tạo dựng nên giống như Ngài. Thế nhưng hiện nay, chúng ta vẫn sống như thể mình không phải là như vậy, thậm chí không hề ý thức hay biết mình là như vậy. Chúng ta sống y hệt con sử nai trong dụ ngôn của Ấn Độ sau đây, cứ tưởng mình là nai, chứ không biết bản chất của mình là sư tử:
“Một con sư tử có thai sắp tới ngày sinh con. Hôm đó nó phải nhảy qua một con suối rộng. Vì quá ráng sức, nên khi nhảy qua được dòng suối, nó liền sinh ra một con sư tử con rồi chết. Sư tử con được một bầy nai đem về nuôi. Sư tử con lớn lên giữa bầy nai và sinh hoạt y như những con nai khác: cũng ăn cỏ, cũng kêu be be. Sư tử con càng ngày càng lớn, nhưng không hề biết bản chất đích thực của mình.
Một hôm, một con sư tử khác trông thấy con sư tử nai cũng to như mình, nhưng lại hiền lành ăn cỏ giữa bầy nai, nó bèn chạy tới xem sao. Sư tử nai thấy sư tử thực tới thì cũng sợ hãi chạy bán sống bán chết như những con nai khác. Con sư tử thực bèn bắt cho bằng được con sư tử nai, và chỉ cho nó thấy rằng nó là sư tử chứ không phải nai. Con sư tử nai mới đầu hết sức ngạc nhiên, không thể tin được. Nhưng khi con sư tử thật cho nó nhìn thấy bóng mình dưới mặt hồ trong, tập cho nó ăn thịt uống máu những con thú khác, và tập cho nó gầm lên, bấy giờ nó mới hoàn toàn thấy nó là sư tử. Từ lúc biết chắc chắn mình là sư tử, con sư tử nai bỗng nhiên cảm thấy như sức mạnh, sự oai vệ hùng hổ của một con sư tử đến với mình. Thế là từ đó, nó là sư tử, nó không còn sống cái kiếp nai như trước nữa”.
Qua câu chuyện trên, ta thấy: Một con nai thuần túy sẽ mãi mãi là nai, không bao giờ trở thành sư tử được. Con sư tử nai có thể trở thành sư tử thật, vì bản chất của nó vốn là sư tử. Nhưng nếu con sư tử nai cứ tưởng mình là nai, không hề biết bản chất thật của mình là sư tử, nó sẽ mãi mãi là sư tử nai, không thể trở thành sư tử thật được. Nó chỉ trở thành sư tử thật sau khi biết mình là sư tử, đồng thời biết tập luyện để hành xử đúng như một con sư tử thật.Tương tự, chúng ta không phải là một phàm nhân thuần túy. một phàm nhân thuần túy không bao giờ trở nên thánh hay nên con cái Thiên Chúa được.
Tuy nhiên, chúng ta được Thiên Chúa dựng nên giống Ngài, theo hình ảnh của Ngài, được thông phần bản tính của Ngài, nghĩa là tự bản chất chúng ta đã là thần, là thánh. Nhưng chúng ta mới chỉ là thánh hay thần linh trong tiềm năng, nghĩa là có thể trở nên thánh, chứ chưa phải là thánh trong hiện thực. Nói cách khác, chúng ta chưa sống cho ra thần ra thánh, đúng với bản chất của mình. Điều tiên quyết để có thể nên thánh, sống như thánh, đó là chúng ta ý thức được bản chất của mình là thánh, là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa. Điều thứ hai còn quan trọng hơn nữa là tập sống phù hợp với bản chất thánh ấy. Nói cách khác, chúng ta cũng giống như một viên bảo ngọc quí giá nhưng chưa được mài dũa, nghĩa là thứ “ngọc còn trong đá”, nên vẫn tưởng mình là cục đá tầm thường. Nếu chỉ là cục đá tầm thường, chẳng ai có thể mài dũa nó thành ngọc quí giá được. Bản chất chúng ta vốn là ngọc, nhưng nếu ngọc chẳng được mài dũa, thì đúng là:
“Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài,
Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi” (Ca dao).
Vậy khi biết mình bản chất là ngọc, ta phải biết tự mài dũa để trở nên ngọc vô giá.Khám phá hay ý thức bản chất mình là thánh, đó chính là giai đoạn “tìm được kho báu”. Bên Phật giáo có từ ngữ rất thích hợp để gọi giai đoạn này là “đốn ngộ” (nhanh chóng giác ngộ được bản chất đích thực của mình). Vấn đề còn lại là “vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy”. Nghĩa là dám sống hết mình đúng theo bản chất đích thực của mình. Phật giáo gọi giai đoạn này là “tiệm tu” (từ từ tu tập để sống “xứng tánh”, nghĩa là sống xứng với bản chất đích thực của mình).
Theo bài Tin Mừng, Nước Trời giống như người tìm được kho báu trong ruộng, bèn “vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy”. Nay chúng ta biết chính bản thân mình là ruộng ấy, nó chứa một kho tàng hết sức quí báu là “bản tính Thiên Chúa”. Bản tính ấy hay kho báu ấy vẫn còn chôn sâu trong lòng chúng ta, chúng ta cần đem hết sức lực để thể hiện nó ra trong đời sống của mình. Nếu người lái buôn kia phải “bán tất cả những gì mình có” mới mua được ruộng ấy, thì công việc thể hiện bản chất thánh của chúng ta cũng đòi hỏi chúng ta phải đem hết sức bình sinh của mình ra mới thực hiện được. Nghĩa là chúng ta phải dành tất cả mọi sự ta có để thực hiện công việc trọng đại này, không được tiếc hay để lại bất kỳ sự gì mà không dùng vào việc ấy.
Lý tưởng của mọi Ki-tô hữu là nên thánh, nên giống Thiên Chúa, như Đức Giê-su đã khuyến khích ta: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Muốn thực hiện được lý tưởng đó, điều tiên quyết là ta phải ý thức bản chất của mình là hình ảnh của Thiên Chúa, được tạo dựng giống như Thiên Chúa, và đã mang trong mình bản chất của Ngài. Chính vì thế, chúng ta mới có khả năng trở nên hoàn thiện giống như Ngài. Ý thức này chính là hạt giống, là “nhân” giúp ta đạt được “quả” là sự hoàn hảo hay thánh thiện. Không ý thức như thế, mọi cố gắng của ta trở nên khó thành tựu, giống như muốn làm một viên ngọc mà lại dùng dùng gạch để mài. Hay muốn nấu cơm mà không dùng gạo, dù có vo gạo, đốt củi, làm đủ thứ cũng không thành cơm.
Ý thức bản chất mình là thánh, là con cái Thiên Chúa là điều tối cần thiết để nên thánh, nhưng chỉ thế mà thôi, thì không đủ. Điều quan trọng kế tiếp là phải dốc toàn tâm lực để sống cho đúng bản chất thánh của chúng ta. Điều này nằm trong khả năng của chúng ta, cũng như con sư tử nai chỉ cần thực tập một thời gian là có thể trở thành sư tử thật. Đức Giê-su chính gương mẫu nên thánh của chúng ta, Ngài là vị thánh đã thành, còn chúng ta là những vị thánh đang thành. Ngài đang mời gọi chúng ta nên thánh đấy!
CẦU NGUYỆN
Tôi nghe tiếng Chúa nói với tôi: “Cha mời gọi con nên hoàn thiện như Cha. Nếu Cha không tạo dựng nên con giống như Cha, theo hình ảnh của Cha, con sẽ không bao giờ nên hoàn thiện như Cha được, và lời mời gọi của Cha là cả một phi lý lớn lao, không thể thực hiện được. Nhưng Cha đã tạo dựng con giống như Cha. Tuy con chưa hoàn thiện, nhưng cái mầm hoàn thiện Cha đã đặt sẵn ở trong lòng con như một kho tàng ẩn dấu. Con phải khám phá, khai quật nó lên, và sử dụng nó vào công việc trọng đại nhất đời con: nên hoàn hảo như Cha. Hãy cố gắng lên, Cha luôn luôn ban sức mạnh cho con. Việc nên thánh của con, Cha đã làm tới 99%, con chỉ cần làm có 1%. Nhưng không có 1% của con là không được. Vì trong mọi công việc của con, Cha luôn luôn tôn trọng tự do và sự góp phần của con”.
Vào thế kỷ thứ 18, vua Charles IV nước Tây Ban Nha đã đoán trước sự xâm lược của hoàng đế Napoleon, nên quyết định đem dấu toàn bộ sưu tầm những chiếc đồng hồ cổ và những ngọc thạch trang sức quí giá trên chiếc vương miện của chánh thể quân chủ Tây Ban Nha. Nhà vua đã yêu cầu một người đầy tớ trung tín chôn giấu bộ sưu tầm đồng hồ vào một vách tường của một căn phòng trong 365 căn phòng nơi triều đình. Nhà vua cũng đã ra lệnh cho ông chôn cất kho tàng ngọc thạch trong một bức tường khác. Người đầy tớ khôn ngoan và trung tín đã cẩn thận đánh dấu căn phòng chôn giấu kho tàng bằng cách cắt một miếng vải nhỏ trên bức màn của mỗi căn phòng chứa kho tàng, để khi chánh thể quân chủ Tây Ban Nha nắm chính quyền trở lại, họ có thể tìm thấy dễ dàng.
Năm 1814, vua Ferdinand VII, con của vua Charles IV, lên ngôi phục quyền cho nền quân chủ. Dĩ nhiên là ông muốn tìm lại kho tàng của mình, nhưng có một vấn đề. Ông vua bù nhìn mà hoàng đế Napoleon đã đặt lên cai trị hoàng cung Tây Ban Nha trong thời gian ngoại xâm lại rất thích việc trang trí nội cung. Ông đã thay đổi toàn bộ tất cả những bức màn trong mỗi căn phòng! Do đó vua Ferdinand phải đối diện với một sự chọn lựa hoặc là phải gỡ tất cả gạch trên mỗi bức tường xuống, hay là để y như vậy. Nhà vua đã chịu mất kho tàng và để y như vậy. Mọi người đã nghĩ rằng đây chỉ là một câu chuyện hoang đường của người Âu Châu, cho đến thời gian gần đây, khi người thợ phải sửa lại những ống dẫn nước trong một căn phòng của hoàng cung, đã khám phá ra bộ sưu tầm những chiếc đồng hồ cổ. Có lẽ, một ngày nào, sẽ có người lại tìm thấy một kho tàng khác gồm những đồ trang sức bằng ngọc thạch trên vương miện còn đang bị mất ở hoàng cung trong một căn phòng nào đó.
Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra một loạt những dụ ngôn từ đời sống cụ thể để minh họa cho ý nghĩa và hình ảnh của nước trời. “Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời cũng giống như người buôn nọ, đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy…” Tôi muốn tập trung vào ý nghĩa của hai dụ ngôn, kho tàng chôn giấu trong ruộng và viên ngọc quý. Vì hai dụ ngôn này cho chúng ta một sự trái ngược hữu ích, lại được xếp đặt kề bên nhau. Sự trái ngược đó là anh nông dân đã tình cờ bắt gặp kho tàng trong công việc cày bừa; còn người buôn ngọc trai phải vất vả đi tìm ngọc quý qua tiền bạc bỏ ra và kinh nghiệm của tay nghề.
Palestine là vùng đất giao thông. Không ai thực sự muốn có đất trừ khi miếng đất đó là một phương tiện để di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, và nó thường bị tranh giành qua lại. Vào những thế kỷ trước Chúa Giêsu, cuộc sống rất bất ổn và mong manh. Không có ngân hàng để cất giữ của cải. Chiến tranh, bệnh tật, nạn dịch, đói khát, cướp bóc, nô lệ… hay bất cứ một sự bất hạnh nào cũng có thể lấy mất cuộc sống. Nhiều người đã chôn giấu của cải dưới đất, hy vọng rằng một ngày nào sẽ trở lại, nhưng nhiều người đã ra đi vĩnh viễn. Do đó, người ta thường tìm thấy kho tàng.
Có rất nhiều người cày ruộng mướn, nhưng rất ít người buôn bán ngọc. Đó là một nghề đòi hỏi phải có vốn và có sự hiểu biết rộng rãi. Người buôn ngọc là kẻ đổi chác những viên ngọc bình thường để tìm lấy những viên ngọc quý, có giá trị hơn. Ông ta biết đường đi đến những khu chợ trời của vùng Vịnh, Persion Gulf, và An Độ dương để buôn bán.
Thời Chúa Giêsu, ngọc là những loại đá quý. Kim cương còn rất hiếm, hầu như chưa có. Pliny, một người đương thời với Chúa Giêsu, đã viết về nữ hoàng Cleopatra của Ai cập, sống từ năm 69 – 30 trước Chúa Giêsu Kitô, đã mua 2 viên ngọc với giá tương đương là 4 triệu đôla. Hoàng đế Julius (100 – 44 trước công nguyên) của đế quốc Rôma đã mua cho mẹ một viên ngọc trị giá 350.000 đôla. Trong dụ ngôn này, người buôn ngọc phải biết rất rõ cấu trúc, hình thù, loại đá, và giá trị của viên ngọc để trao đổi tất cả mọi sự.
Trong các loại ngọc, có loại ngọc trai. Một viên ngọc trai được thành hình khi một vật lạ xâm nhập vào trong lớp nhuyễn mạc ở bên dưới vỏ sò, gây đau đớn cho con sò. Hệ thống phòng vệ tự nhiên của con sò tiết ra một chất lỏng, được gọi là mẹ của ngọc, bao vây lấy vật lạ bằng một cái túi, rồi cô lập nó khỏi phần cơ thể và biến nó thành một viên ngọc lộng lẫy. Viên ngọc được tạo ra bởi chính con sò. Cũng như thế, đối với con người chúng ta, những hoàn cảnh đau khổ có thể trở nên những cơ hội cho những biến đổi nội tâm.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Theo lời kể của ông Trần Văn Tiệp, ngay từ những năm 1957, ông đã có những thông tin chính xác về “kho vàng” này. “Nhưng trong suốt hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, tôi phải bí mật nguồn thông tin.”
Theo hồ sơ của ông Tiệp cung cấp cho Báo Thanh Niên, cuối Thế Chiến thứ hai (khoảng năm 1943), trên vịnh Cà Ná (giáp ranh tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận hiện nay), tướng Yamashita của Nhật sau khi đầu hàng quân đồng minh đã đưa một hạm đội gồm 84 tàu chiến chở đầy vàng đến đây. Quân đội Nhật đã chôn giấu khoảng 4.000 tấn vàng tại một hòn núi sát với vùng biển này. Tuy nhiên, sau đó không quân của quân đồng minh đã đánh chìm 66 tàu của quân Nhật xuống vịnh Cà Ná, 18 tàu còn lại chạy tứ tán. Có một con tàu mãi đến năm 1945 mới chìm hẳn. Sau Thế chiến thứ hai, nhiều lần người Nhật đã đến VN để tìm tung tích kho vàng cực lớn này nhưng đều thất bại. Ông Tiệp khẳng định: “Sở dĩ quân đội Nhật chôn kho vàng này gần biển là vì thuận lợi giao thông đường biển, đường bộ và đường sắt. Hơn nữa, lại gần với một kho vàng khác của vua Chăm ngày xưa để lại nơi này.”
Ông Tiệp và các cộng sự đã trưng ra nhiều vật chứng quan trọng trình UBND tỉnh, mà ông cụ cho rằng đã thu được từ những cuộc thăm dò kho vàng tại núi Tàu. Đó là một thanh gươm và một vỏ bao gươm của Nhật đã cũ; một đồng tiền 10.000 yen; một ống điếu bằng kim loại đã vỡ một phần; hai logo Hắc Long bằng kim loại và một lá đề bằng đá… “Những cổ vật này là chứng cứ không thể bàn cãi về việc có sự hiện diện của kho vàng ở núi Tàu,” ông Tiệp khẳng định. Để chứng minh, lần đầu tiên ông Tiệp trưng ra tấm bản đồ vị trí “kho vàng núi Tàu,” được ông vẽ lại khá tỉ mỉ. Theo ông Tiệp, tấm bản đồ này chỉ ông và người có trách nhiệm cao nhất của tỉnh mới được tiếp cận vì “yếu tố bí mật” và vì lý do “an ninh” nên không ai được phép biết trừ khi được ông cho phép.
Chỉ với những thông tin mỏng manh, nhưng suốt hơn 50 năm qua ông đã đeo đuổi về cái gọi là “kho vàng núi Tàu.” Cả cuộc đời ông hầu như chỉ có một việc, đó là khai thác bằng được kho vàng này, dù đến nay, đã ngót trăm tuổi, đã bỏ ra hàng trăm cây vàng cho việc tìm kiếm. Nhưng thất bại không làm ông nản chí. Ông bảo đời ông chưa tìm thấy thì đời con ông sẽ tiếp tục đi tìm. Niềm tin “kho vàng núi Tàu” với ông không bao giờ tắt! (Thanh Niên)
Lòng tin tưởng vững bền của ông Trần Văn Tiệp có thể gợi ý cho Kitô hữu suy gẫm sâu sắc hơn về kho báu Nước Trời. Trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu ví Nước Trời như kho báu giấu kỹ, hay như viên ngọc quý hiếm hoi độc nhất vô nhị, mà ai phát hiện sẽ khôn ngoan bán ngay mọi thứ để cấp thời mua lấy, rồi còn phải chiến đấu liên tục để có thể lưu giữ.
Khôn ngoan
Nhờ hồng ân mà Kitô hữu khám phá ra được kho tàng vô giá mà cứ tưởng như là cờ. Đó chính là Nước Trời, mà Đức Giêsu vừa giới thiệu, vừa trao ban qua Lời Chúa và Thánh Thể nhiệm mầu. Khi tín hữu tìm thấy kho báu độc nhất vô nhị này, hoặc viên ngọc quý giá vô song, thì Đức Chúa Thánh Thần luôn ban ơn khôn ngoan, ân sủng đầu tiên trong Bảy Ơn của Ngài, để tín hữu có thể tự do lựa chọn, cũng như cân nhắc quyết định chiếm hữu hay từ chối.
Cũng như các Thánh Tông đổ tiên khởi, Thánh Phaolô cũng khôn ngoan chiếm hữu Nước Trời, mặc dầu trước đó ngài đã hăng say truy sát những ai tin theo Đức Giêsu. Nhờ ơn khôn ngoan, thánh Phaolô, như Vua Salômôn ngày xưa, đã biết lắng nghe và biệt phân phải trái, để vứt bỏ đi hết những học thuật uyên bác, những thành tích thánh chiến, để hân hoan làm công dân Nước Trời: “Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người“ (CGKPV, Pl 3, 8-9)
Lm Nguyễn Thế Thuấn dịch câu này khá ấn tượng: “…Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Ðức Kitô, và được thuộc về Ngài…” Còn Lm An Sơn Vị dựa theo bản Kinh Thánh TOB, dịch thật sát ý nghĩa hơn nữa: “Vì Người, tôi đã đánh mất đi tất cả, và tôi coi tất cả như đồ cặn bã, để được lời chính Đức Kitô và được gặp thấy tôi nơi Người.”
Như thế, tất cả của cải vật chất lẫn tư tưởng cao siêu, quyền hành, chức tước, danh lợi thế gian hoàn toàn chỉ là phù vân, cặn bã, phân bón, rác rưởi nếu so với kho báu Nước Trời. Ai thèm dại dột lựa chọn thế gian phù phiếm nhất thời, nếu có một chút khôn ngoan?
Chiến đấu
Tuy nhiên chiếm hữu Nước Trời không hề dễ dàng như mua tấm vé xem trận chung kết bóng đá thế giới vừa qua tại Brasil. Cần có chí khí, nghị lực, can đảm, miệt mài chiến đấu mới chiếm giữ nổi. Chính Đức Giêsu đã chắc nịch khẳng định: “Nước Thiên Chúa phải đương đầu với sức mạnh. Ai mạnh sức thì chiếm được.” (Mt 11, 12).
Thánh Phaolô đã minh chứng qua kinh nghiệm dấn thân vào Nước Trời: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.” (2 Tm 4, 7-8)
Có lẽ cuộc chiến cam go và dai dẳng nhất là chiến đấu với chính bản thân, lực cản mạnh bạo và nguy hiểm nhất cho ai muốn chiếm hữu Nước Trời. Vì vậy, bỏ mình là điều kiện tiên quyết chiếm hữu Nước Trời, tiếp đến can trường chấp nhận mọi thách đố khó khăn: ”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.”(Lc 9, 23)
Trung kiên
Để chiếm hữu được Nước Trời, Kitô hữu còn phải không ngớt hăng say chiến đấu liên tục, trường kỳ với ba thù hàng ngày, hàng giờ, hàng phút giây, không thể ngưng nghỉ, thỏa hiệp, nên Kitô hữu cần luôn tỉnh thức như năm cô phù dâu khôn ngoan, như người tôi tớ trung thành, thức khuya sẵn sàng và chu đáo đón chờ chủ về. “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10, 22)
Thánh Phaolô đã khuyên nhủ tín hữu thành Côrinhtô dù chịu thử thách, nguy nan, cứ nhất mực kiên trì, trung thành với Nước Chúa, với Ơn Gọi: “Bởi vậy, anh em thân mến, anh em hãy kiên tâm bền chí, và càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa, vì biết rằng: Trong Chúa, sự khó nhọc của anh em sẽ không trở nên vô ích.” (1 Cr 15, 58)
Thánh nhân còn diễn giải minh bạch hơn nữa về sự bền vững, trung thành với kho báu Nước Trời. “Chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: Ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy. Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.” (Rm 5, 3-5)
“Giữa những thử thách, con hãy nghĩ gian khổ sánh sao được với Nước Thiên Đàng. Đó là phương pháp của Chúa: “Phước cho ai khó nghèo, ai khóc lóc, ai chịu bắt bớ… Vì Nước Thiên Đàng là của mình vậy.” (Đường Hy Vọng, số 695)
Lạy Chúa Giêsu xin ban Đức Chúa Thánh Thần soi sáng chúng con biết khôn ngoan, để lắng nghe Lời Chúa, biệt phân chánh tà và biết can đảm chọn lựa, chiếm hữu Nước Trời.
Lạy Mẹ Maria, xưa Mẹ đã khôn ngoan và can đảm “Xin Vâng,” để đón nhận Nước Trời, Đức Giêsu vào lòng Mẹ, nay xin Mẹ cầu bầu và phù hộ chúng con luôn mãi đón Con Mẹ trong đời. Amen.
“Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được…” Đây là một hình ảnh rất cụ thể và là một câu chuyện rất quen thuộc với mọi người, nhưng Chúa Giêsu đã đổi ngược thứ tự để dậy chúng ta một bài học về Nước Trời. Chúa Giêsu thường có những tư tưởng đối ngược với lối suy nghĩ thông thường của loài người.
Những câu chuyện về kho tàng là một hình thức văn chương rất thông dụng trong văn hoá thời đó cũng như trong mọi văn hoá. Khi nhắc đến ai cũng hiểu. Mặc dầu nhiều người kể nhưng cốt chuyện vẫn giống nhau. Chẳng hạn, một người mua thửa ruộng và cày cấy. Cày cuốc chạm phải vật gì cứng, và từ lòng đất hiện ra một kho tàng. Người ấy trở nên giầu có. Cốt chuyện là thế nhưng khi kể tùy người kể thêm bớt cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn. Thí dụ, anh chị nọ mua một lô đất để xây cất một căn nhà. Trong khi bạt đất làm nhà thì khám phá ra ở dưới lòng đất có mỏ dầu. Anh chị ký hợp đồng với hãng dầu và hằng tháng lãnh tiền xài.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã đảo ngược thứ tự của mẩu chuyện về kho tàng, “Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy.” Xét theo thứ tự thông thường của mọi câu chuyện kho tàng thì anh ta phải mua thửa ruộng trước. Nhưng Chúa Giêsu nói là trước hết anh ta tìm được kho tàng; rồi anh ta mới mua thửa ruộng.
Một trong những điều khó hiểu trong cuộc sống đức tin Kitô giáo là: cuộc sống đức tin không chỉ đơn giản theo lối suy nghĩ của loài người. Chúa không theo luật thông thường của loài người. Chúa đảo lộn trật tự tự nhiên. Chúa yêu trước. Chúa trao ban trước. Người bình thường không thể làm như thế. Ta phải yêu người đáng yêu, thưởng người đáng thưởng, và tha thứ người thống hối ăn năn. Vì thế mà nhiều người không thể hiểu được Chúa Giêsu. Ngài đảo ngược thứ tự nên nhiều người không thể hiểu được rằng ơn thánh đến với chúng ta cách bất ngờ, ngay cả trong những lúc chúng ta không đáng nhận.
Có những người quan niệm rằng làm việc lành phúc đức để chiếm được Ơn Cứu Độ. Quan niệm như thế là lầm, vì Ơn Cứu Độ đã được Chúa Kitô mua chuộc cho toàn thể nhân loại khi Ngài chết trên thập giá. Mỗi người chúng ta chỉ cần mở rộng tâm hồn để lãnh nhận ơn cao cả đó bằng lòng tin vào Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Thánh Phaolô xác quyết: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không có ai có thể vênh vang tự đắc” (Ep 2:8-9). Nếu như vậy không cần làm việc? Không phải thế! Bởi vì đức tin chân chính cần phải được biểu lộ, chứng tỏ bằng việc làm như lời thánh Giacôbê: “Ai bảo mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:14,17).
Điều bài Tin Mừng muốn nhắc nhở là món quà quí giá nhất, “Ơn Cứu Độ,” là do Chúa ban nhưng không chứ không phải do ta chiếm đoạt được. Bổn phận của ta là phải mở rộng tâm hồn tin kính và biết ơn để đón nhận. Để tỏ ra là một người biết ơn ta cần noi gương người nông phu trong bài Tin Mừng là tìm cho được kho tàng và cố gắng bán hết gia tài để mua cho được thửa ruộng. Chúng ta cố sống xứng đáng với ơn Chúa ban. Chúng ta đón nhận ơn Chúa và tỏ mình là người biết ơn bằng việc thi hành giới răn Yêu Thương Chúa truyền dậy: yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình…Yêu như Chúa đã yêu!
Kho tàng Nước trời được chôn giấu trong thửa ruộng trần gian, hãy bán mọi sự để mua lấy… chứ đừng đi mua thửa ruộng trước rồi mới hy vọng sẽ tìm được kho tàng. Xin Chúa cho chúng ta ý thức được rằng Ơn Cứu Độ Chúa đã ban cho nhưng không và chúng ta cần sống theo giới răn Chúa để tỏ ra chúng ta là những người tin yêu và biết ơn thật sự.
Sau khi dùng những dụ ngôn nói về Nước Trời, Chúa Giêsu hỏi dân chúng: “Các ngươi có hiểu những điều đó không?” Ngài muốn chúng ta hiểu điều gì?
Có một tu sĩ nổi tiếng là khôn ngoan đi đến một làng quê và ngồi nghỉ qua đêm dưới một gốc cây. Một người dân làng đi qua thấy ngài bèn hỏi: “Hòn đá! Hòn đá! Xin ngài hãy cho tôi hòn đá quý!” “Hòn đá gì?” tu sĩ hỏi. “Đêm hôm qua Thiên Chúa đã hiện ra với tôi trong giấc mơ”, ông dân làng nói, “Và bảo với tôi rằng nếu tôi đi ra ngoài làng vào lúc ban tối, tôi sẽ gặp một vị khôn ngoan cho tôi một hòn đá quý. Nó sẽ làm cho tôi giầu có vĩnh viễn”. Vị tu sĩ lục lọi trong túi sách, lấy ra một hòn đá. “Có lẽ ông muốn hòn đá này phải không?” vừa hỏi ngài vừa đưa cho ông dân làng hòn đá, “Tôi đã thấy nó trên lối đi vào rừng cách đây mấy ngày. Ông có thể cầm lấy nó đi”. Người đàn ông ngạc nhiên nhìn hòn đá. Đó là cục kim cương. Có lẽ là cục kim cương lớn nhất trên thế giới, vì nó to bằng cái đầu người. Ông ôm lấy cục kim cương và bước đi. Suốt đêm hôm ấy, ông lăn lộn trên giường, không cách nào ngủ được. Ngày hôm sau, ngay lúc tảng sáng, ông đi ra đánh thức vị tu sĩ đang ngủ dưới gốc cây thức dậy và nói, “Xin trả lại cho ngài cục kim cương này, tôi muốn xin ngài cái điều đã làm cho ngài có thể cho đi cục kim cương này một cách dễ dàng”.
Điều gì là giá trị nhất mang lại nguồn vui trong cuộc sống của chúng ta? Nếu bạn phải vứt bỏ tất cả mọi sự trên đời, cái gì khó nhất cho bạn phải khước từ: gia đình, sức khỏe, nghề nghiệp, hay của cải? Cái mà bạn không thể sống mà không có đó sẽ rất khác nhau đối với từng người, và sự chọn lựa cái giá trị tối thượng của người này xem ra lại rất phi lý đối với người khác!
Trong cuốn tiểu thuyết The Pearl, John Steinbeck đã viết lại nội dung của dụ ngôn viên ngọc quý qua câu chuyện kể về cuộc đời của Kino, một người Mễ Tây Cơ nghèo khổ làm nghề thợ lặn kiếm tìm ngọc trai dưới biển để nuôi vợ con sống qua ngày. Rồi bỗng một ngày anh tìm được viên ngọc sáng ngời tên là “Viên ngọc của thế giới”. Thoạt tiên, anh rất phấn khởi, nhưng sau đó anh bị bao vây bởi những kẻ buôn bán ngọc trai bất lương, và những người hàng xóm ghen tức. Ngay cả đến bác sĩ cũng đòi trao đổi việc chữa trị cho đứa con của anh bị bọ cạp cắn để chiếm lấy viên ngọc. Sau hàng loạt những tai ương xảy ra, Kino đã ra biển và ném viên ngọc quý giá trở về đáy biển. Có những điều đắt giá tới độ phải trả bằng giá máu của cuộc sống.
Vào thế kỷ thứ 18, một người Ý tên là Alessandra Mazoni, đã viết một cuốn sách nghiên cứu về những điều kiện xã hội của dân chúng sống trong vùng Lombardy, phía bắc nước Ý ở thế kỷ thứ 17 như sau:
“Bao lâu còn sống trên trần gian, con người ta giống như một người bệnh nằm trên một cái giường, dù ít hay nhiều gì cũng đều không cảm thấy thoải mái, đang khi nhìn sang những cái giường khác có vẻ đẹp đẽ, và êm ái với những mơ tưởng rằng ắt hẳn hắn sẽ thoải mái hơn nếu nằm nghỉ trên những cái giường đó. Rồi hắn đồng ý trao đổi cái giường đang nằm; nhưng khi đặt lưng xuống giường khác hắn lại lo sợ, trước khi bắt đầu nằm, hắn đè xuống thật sâu, cảm thấy chỗ này có một điểm nhọn đâm vào mình hắn, chỗ kia có một cục u lớn quá cứng. Tóm lại, chúng ta tiến đến cùng một câu chuyện kể đi kể lại. Và vì lý do này… chúng ta nên nhắm vào việc hành động tốt hơn là sống ở đâu tốt…
Sách Giáo lý Công giáo cũng đã khuyên dạy chúng ta rằng: Chúa Giêsu kêu gọi mọi người vào Nước Trời qua những bài dụ ngôn của Ngài, nét đặc trưng của việc giảng dạy của Ngài. Qua các dụ ngôn này, Ngài mời người ta tới dự tiệc của Nước Trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi người ta một sự chọn lựa triệt để: để được Nước Trời, người ta phải cho tất cả, và lời nói không đủ, còn cần phải có những hành vi”.
(Suy niệm của Lm. Louis M. Nhiên, CRM)
Hai anh em sống chung với nhau, người anh khôn, người em hơi khờ. Một hôm, người em nói: “Anh hướng dẫn làm sao để em khôn hơn một chút đi?” Người anh đồng ý và tuần đó ăn cá, người anh chọn chỗ ngon ăn để lại cho người em toàn xương là xương cùng với đuôi cá. Cuối tuần, chịu không nổi, người em bảo: “Anh khôn quá, anh để cho em phải ăn toàn xương là xương không à.” Người anh mỉm cười đáp: “Đấy em khôn ra rồi đó.”
Khôn ngoan là điều cần thiết trong cuộc sống. Chính vì thế mà Vua Salômôn trong bài đọc thứ nhất đã không xin điều gì khác, mà chỉ xin cho được khôn ngoan.
Khôn có nhiều loại: khôn khéo, khôn lanh, khôn ranh, khôn vặt, khôn lỏi, khôn ngoan…
Thế nào là người khôn ngoan? Có nhiều nhận định khác nhau: Người khôn ngoan là người biết khi nào mình nên học hỏi ở người khác, hay là người luôn tự giác là mình hãy còn nhiều điều cần thăng tiến, hoặc là biết mình đang ở đâu, biết mình đang làm gì, biết mình cần gì và biết mình phải làm gì…
Cha Carôlô trong cuốn Sợi Chỉ Đỏ, Năm A đã giải thích: “Khôn ngoan là nhận biết cái gì là đúng, cái gì là sai, cái gì chính cái gì là phụ, cái gì là quan trọng cái gì là thứ yếu, cái gì là bên vững cái gì là chóng qua.” (tr. 404).
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy hai người khôn ngoan: Người thứ nhất tìm được kho tàng chôn giấu trong ruộng, anh chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có để mua thửa ruộng đó. Người thứ hai tìm được viên ngọc quý, anh bán mọi của cải để mua viên ngọc quý đó.
Điểm chúng ta cần để ý là cả hai đều biết giá trị của kho tàng hay viên ngọc quý, đến nỗi bán tất cả gia tài để mua được kho tàng và viên ngọc quý. Điều chúng ta thắc mắc là phải chăng khi vừa mới được sinh ra họ đã khôn ngoan biết được giá trị của kho tàng và viên ngọc quý? Hay phải chăng chỉ qua nhiều thời gian quan sát, học hỏi vất vả, họ mới có được đủ kiến thức cần thiết để phân biệt được giá trị của viên ngọc quý báu hay kho tàng ít nhiều giá trị? “Những kẻ nên khôn đều có dại. Làm người có dại mới nên khôn.” “Ai chiến thắng mà không hề chiến bại. Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần?… Một lần ngã là một lần bớt dại. Để thêm khôn một chút nữa trong người.”
Điểm thứ hai là nhận thức hiểu biết giá trị sự vật chưa đủ, còn phải sẵn lòng hy sinh trả giá. Cả hai người khôn ngoan sau khi đã nhận thức được giá trị của kho tàng và viên ngọc quý đã sẵn lòng bán tất cả những gì mình có, để có được kho tàng và viên ngọc quý. Không phải bỗng dưng mà các lực sĩ có được huy chương vàng hay huy chương bạc ở Thế Vận Hội. Sau khi nghe nghệ sĩ dương cầm trình diễn, một bà bảo: “Tôi sẵn lòng hy sinh tất cả để có thể trình diễn được như ông.” Nhà nghệ sĩ trả lời: “Tôi đánh cuộc là bà sẽ chẳng dám dành ra 5 phút mỗi ngày.” Một người khác nói với một nhạc sĩ: “Tôi sẽ hiến cả cuộc sống của tôi nếu tôi có thể chơi được như ông đã vừa trình diễn.” Nhạc sĩ trả lời: “Đó chính là cái giá mà tôi phải trả: Cả cuộc đời tôi.”
Chúa Giêsu mời gọi suy nghĩ về Nước Trời. Phải chăng chúng ta đã khôn ngoan hiểu được giá trị cao quí của Nước Trời và sẵn lòng hy sinh tất cả để có được như hai người khôn ngoan đã hiểu được giá trị của kho tàng cũng như viên ngọc quý và sẵn sàng bán hết tài sản của mình để mua cho được?
Chuyện kể rằng có một bà đi du lịch bên Pháp với những người bạn, bà chưa bao giờ thấy một vòng đeo cổ nào xinh đẹp như thế, nên gửi điện tín (telegram) cho ông chồng: “Tôi thấy một vòng đeo cổ thật xinh đẹp giá chỉ có 75 ngàn đô la. Ông nghĩ sao?” Ông chồng gửi điện tín lại: “No, price too high.” (Không, giá quá cao). Ông chồng ngạc nhiên khi thấy bà vợ trở về với vòng đeo cổ 75 ngàn đô, liền tức giận hỏi: “Bộ bà không nhận được điện tín của tôi sao?” Bà vợ nói: “Tôi đã nhận được, và sung sướng giữ lại điện tín đó. Đây ông xem đi nào.” Ông chồng xem lại điện tín thấy thiếu dấu phẩy: “No price too high.” (Không có gì là quá mắc quá cao).
Không có gì là quá mắc quá cao với Nước Trời, nhưng phải chăng chúng ta sẵn lòng trả giá đắt? Sau cùng, hai người khôn ngoan vui mừng với những gì họ tìm thấy. Chúng ta cũng vui mừng khi nhận biết kho tàng Nước Trời, nhận ơn Đức Tin, nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu chuộc? Nếu Chúa Giêsu đã chết đã sống lại để đem đến niềm vui niềm hy vọng cho con người, thế mà tại sao còn có những người vẫn sống cuộc sống đầy ảm đạm u sầu? Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc bảo: “Có những Kitô hữu mà cuộc sống của họ dường như là Mùa Chay không có Phục Sinh.” (There are Christians whose lives seem like Lent without Easter.)
Một trong những viên đá thuộc hàng quý hiếm bậc nhất, viên kim cương màu xanh này được vinh danh là đá quý đắt nhất thế giới vào năm 2007. Nặng 6,04 carat, viên kim cương được bán với giá 7,98 triệu USD, tương đương 1,32 triệu USD mỗi carat tại nhà đấu giá Sotheby Hong Kong.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cha ông chúng ta, không những chỉ bỏ hết mọi sự mà còn dâng hiến cả chính con người các ngài để mua lấy kho tàng nước trời. Các ngài là những người dại hay là những người khôn? Chúng ta nghĩ thế nào và đã đang đầu tư cuộc sống mình ra sao?
Dân gian Việt Nam có câu “một người tính bằng chín người làm” để nói lên sự cần thiết của sự khôn ngoan trong hành động, người khôn ngoan là người được đánh giá cao trong mối quan hệ của cuộc sống. Nhưng khôn ngoan là thế nào? Người như thế nào được gọi là người khôn ngoan?
Khôn ngoan thật, theo định nghĩa của Thánh Kinh là biết xử sự ở đời. Khôn ngoan thật không phải là ta biết bao nhiêu nhưng là ta áp dụng những hiểu biết của mình vào đời sống như thế nào. Khôn ngoan là biết áp dụng vào trong đời sống của mình đúng lúc, đúng thời điểm, đúng hoàn cảnh, đúng tâm trạng… vào trong hành động cũng như cách cử xử của mình trong xã hội. Người khôn ngoan trong kinh doanh là người biết chọn lựa việc đầu tư, biết chọn đúng thời điểm, biết chọn đúng địa điểm để kinh doanh và biết chọn đúng ngành nghề để kinh doanh…đặc biệt là biết “bỏ con tép bắt con tôm”.
Trong bài Tin Mừng Giáo hội cho chúng ta suy niệm hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta thấy hình ảnh của một con người khôn ngoan. Người khôn ngoan trong dụ ngôn là người khi tìm thấy được kho báu trong ruộng thì sẳn sàng bán lấy tất cả để mua thửa ruộng ấy, hay cũng giống như người đi buôn ngọc, tìm được viên ngọc quý thì ông cũng sẳn sàng bán lấy tất cả tài sản mình để mua cho bằng được viên ngọc quý.
Đối với những người không hiểu biết thì có thể cho rằng những con người này là dại. Dại vì đánh đổi tất cả những gì mình có chỉ để mua một mảnh ruộng, dại vì đánh đổi tất cả để mua một viên ngọc mà đôi khi bên ngoài nó không được bóng đẹp như bao viên ngọc khác. Nhưng với những ai hiểu được giá trị của mảnh ruộng, của viên ngọc thì chắc hẳn sẽ không cho rằng những con người này là dại mà họ thật là những người khôn ngoan, biết là tất cả để được kho báu, để được viên ngọc quý.
Mầu nhiệm Nước trời được Chúa Giêsu sánh ví như thế. Những ai sống hết lòng vì nước trời có thể bị cho là dại trong trần gian này bởi vì theo trần gian “nhịn là nhục”, “thẳng thắn thật thà thường thua thiệt, lương lẹo lắc léo lại lên lương”. Nên ai sống theo sự công chính của Thiên Chúa là những con người ngu dại. Lại nữa, mầu nhiệm nước trời ngay tại thế này thường không được đánh bóng bằng những mỹ từ “đao to búa lớn”, không được làm đẹp bằng những sự kiện giật gân… như viên ngọc quý mặc vẻ bên ngoài không được đẹp.
Nhưng thực tế mầu nhiệm Nước Thiên Chúa thật là cao cả, chỉ những ai khôn ngoan mới có thế nhận ra, và khi nhận ra thì sẳn sàng đánh đổi. Bởi tất cả những gì mà con người ta giành giật nhau ở trần gian này đều tạm bợ và chóng qua. Chỉ có Chúa và ơn của Người là vĩnh cửu. Chọn Người và hành động theo Lời Người thì thật là khôn ngoan vì đã chọn giá trị trường cửu, là chọn Đấng là nguồn mạch mọi ơn lành. Thật ra, Chúa không đòi hỏi chúng ta quá khắt khe đến độ quá sức chúng ta đâu, nhưng Chúa muốn dạy chúng ta phải biết chọn lựa đâu là chính yếu đâu là thứ yếu. Khi đã có sự lựa chọn thì ta phải chọn cái chính yếu và bỏ đi cái thứ yếu. Đó mới đích thực là khôn ngoan.
Nhưng sự khôn ngoan có được là do đâu? Trong bài đọc I bài Trích sách các Vua quyển thứ nhất dạy ta sự khôn ngoan có từ đâu. Thưa có từ nơi Thiên Chúa. Chúa chính là Đấng khôn ngoan toàn mỹ. Chọn Chúa là nhận ra được giá trị vĩnh cửu, chọn Chúa là nhận được sự khôn ngoan từ nơi Chúa, chọn Chúa là múc lấy được kho tàng mà chỉ có những ai thành tâm tìm kiếm trong ơn Chúa mới có thể nhận được. Kho tàng đó là chính Chúa, được kết hợp trong Chúa.
Một hôm, có một người kia gặp một nhà tu hành đi qua làng, ông vội chạy theo kêu lên: “Xin ông cho tôi viên ngọc quý trong cái bị của ông”. Nhà tu hành ngạc nhiên hỏi: “Viên ngọc quý nào?”. Ông ta nói: “Đêm qua tôi nằm mơ thấy có ông tiên bảo là nếu tôi được viên ngọc quý của nhà tu hành sẽ đi qua làng hôm nay, tôi sẽ là người giầu có nhất trên đời. Vậy xin ông cho tôi viên ngọc quý đó”. Nhà tu hành tốt bụng móc trong bị ra và nói: “Có phải cái này không? Tôi mới nhặt được ở cánh đồng bên kia bờ suối. Nếu ông muốn thì tôi biếu ông”.
Người ấy sung sướng cầm lấy viên ngọc quý, cám ơn rồi đi ngay về nhà, trong bụng nghĩ thầm: “Từ nay mình sẽ là người giầu có, không phải vất vả gì nữa”. Thế nhưng tối hôm ấy tâm trí ông áy náy, tâm hồn ông bồn chồn, trằn trọc không sao ngủ được. Sáng hôm sau, ông cầm viên ngọc đi tìm nhà tu hành và gặp thấy nhà tu hành ấy đang ngủ ngon lành dưới gốc cây. Ông rón rén đến gần đánh thức dậy và nói: “Thưa ông, tôi xin trả lại ông viên ngọc quý này, xin ông ban cho tôi viên ngọc quý khác, tức là sự phong phú của tâm hồn, đã làm ông có đủ can đảm cho tôi viên ngọc quý này mà không tiếc xót”.
Viên ngọc quý thực sự của tâm hồn là gì để cho nhà tu hành kia có được nghị lực khước từ mọi giầu sang thế trần mà không biết tiếc xót chi cả? Đó là điều Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay. Bài Tin Mừng là hai dụ ngôn “kho báu” và “viên ngọc quý”. Kho báu và viên ngọc quý ấy Chúa Giêsu đưa ra ở đây để tiêu biểu cho cái gì? Thưa, đó là nước trời. Đúng vậy, cả hai dụ ngôn đều muốn nói tới sự cao quý tột bực của nước trời, không của cải nào sánh bằng. Cao quý đến nỗi khiến mọi thứ khác đều lu mờ đi, và mọi giá trị người ta từng theo đuổi từ trước đều phải nhường chỗ.
Hai hình ảnh “kho báu” và “viên ngọc quý” vừa rõ ràng vừa huyền bí. Rõ ràng ở chỗ ai biết giá trị của chúng thì quý hóa, còn huyền bí ở chỗ có nhiều người không biết giá trị tiềm ẩn đó, chính vì vậy mà nhiều người bị lầm. Cũng như người kia có kho báu ở ngay trong thửa ruộng của mình mà không biết, hay người có viên ngọc quý kia cũng thế, họ nắm trong tay mà không hay, nên họ đã để vuột mất kho báu và viên ngọc quý.
Câu chuyện này cũng giống như câu chuyện “Ông già xứ Ba Tư”, xứ ngàn năm lẻ một hay ngàn lẻ một năm. Câu chuyện như sau: ông già ấy có một nông trại rộng lớn, vườn rộng ao sâu, nhiều hoa quả và cá quý, ông ta nghe lời một vị đạo sĩ bán hết ruộng vườn để đi tìm kim cương. Ông lặn lội đi tìm hết nước này sang nước khác, nhưng không tìm thấy kim cương đâu cả, cuối cùng, hết tiền, đói khổ, quần áo rách rưới, cùng đường, ông đâm đầu xuống sông tự tử. Trong khi đó, người mua lại nông trại của ông đã tìm ra một mỏ kim cương khổng lồ ngay trong nông trại đó. Chúng ta thấy ông già Ba Tư ấy ngồi ngay trên mỏ kim cương, sở hữu mỏ kim cương kia mà không hề hay biết gì.
Nhiều người chúng ta cũng ở trong tình trạng đó chăng? Rất có thể chúng ta đang gần kề hạnh phúc nước trời và những hồng ân của nước ấy mà chúng ta không biết chăng? Đây không phải là hạnh phúc vật chất, ngắn hạn, được thực hiện ngay ở trần thế này, nhưng là hạnh phúc tâm linh, vĩnh cửu, chỉ được thực hiện trọn vẹn trong cõi sống đời đời. Đó chính là nước trời mà Chúa Giêsu muốn giảng dạy cho chúng ta biết. Nước trời như kho báu, như viên ngọc quý mà chúng ta phải cố gắng tối đa để chiếm hữu. Quả thực, mọi người Kitô hữu chúng ta đều được mời gọi tìm kiếm nước trời. Công việc tìm kiếm này không chỉ giới hạn trong một quãng thời gian hay trong một số công việc nào, nhưng suốt cả cuộc đời và trong mọi sinh hoạt. Bởi vì nước trời là cái giá trị nhất chúng ta phải tìm kiếm và chiếm hữu. Nước trời quý hơn và giá trị hơn bất cứ thứ gì chúng ta đang có hay có thể có trong cuộc sống, và nước trời sẽ ban cho chúng ta nhiều hơn bất cứ cái gì cuộc sống có thể mang lại cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải không ngừng tìm kiếm và sẵn sàng đánh đổi tất cả những gì chúng ta có, kể cả mạng sống, để chiếm được kho báu hay viên ngọc quý này.
Nói cụ thể hơn, nước trời đây là phần rỗi, là sự sống đời đời của chúng ta, quý giá vô cùng, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm trước hết, tuyệt đối ưu tiên, sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm đoạt cho bằng được, dù phải hy sinh bao nhiêu cũng chưa đủ và chưa xong. Quả thực, khi bước vào trần thế này, chúng ta muốn mở rộng bàn tay để chiếm lấy mọi sự, nhưng khi nhắm mắt xuôi tay, chúng ta đành phải ra đi với hai bàn tay trắng. Xuất thân từ bụi đất chúng ta sẽ trở về với bụi đất mà thôi, chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời. Chính điều đó mới đáng cho chúng ta lao nhọc để tìm kiếm và sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm hữu.
Vì vậy, chúng ta đang sống giữa những xoay chuyển của vật chất, chúng ta phải vất vả làm ăn, chúng ta phải quan tâm đến những nhu cầu cần thiết của đời sống… đó là điều chính đáng, nhưng chúng ta đừng quên: đời là tạm bợ, chúng ta cần và rất cần tìm ra giá trị vĩnh cửu ngay trong cuộc đời này kẻo quá muộn. Chúng ta hãy nhớ: đời là một dịp tiện, mỗi ngày sống là một dịp may, chúng ta có tự do và ý chí để quyết định phần giá trị cho mình. Chiếm đoạt được nước trời, tức là đạt được đời sống vĩnh cửu hay không là do chính mình. Chúng ta hãy có thái độ khôn ngoan của người tìm được kho báu và viên ngọc quý trong Tin Mừng hôm nay.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Một học giả uyên thâm đã già, sau khi nhìn lại quãng đời quá khứ, đã chia sẻ kinh nghiệm về hành trình tìm kiếm kho tàng của ông như sau:
Giai đoạn thứ nhất: tìm kiếm kho tàng tri thức
Hồi còn niên thiếu, tôi nhận thấy tri thức là tối cần và trong tôi có một khao khát cháy bỏng là được học nhiều, biết nhiều, tích luỹ thật nhiều kiến thức để trở thành nhà thông thái. Thế là tôi đam mê việc đèn sách hơn mọi thứ trên đời. Tôi cho đó là phương thế tốt nhất để trở nên thông thái và thành đạt. Tôi đã đem hết nghị lực của tuổi thanh xuân và tiêu tốn gần hết gia tài cho việc học tập nghiên cứu. Cuối cùng tôi cũng đạt được thành quả mong muốn: được nhìn nhận là bậc thức giả của xã hội đương thời.
Thế nhưng khi đến tuổi sáu mươi, tôi mới nhận ra một thực tế phũ phàng là bao nhiêu kiến thức mình thu thập được suốt gần cả đời người, giờ đây gom góp lại không bằng mớ dữ liệu được lưu trữ trong ổ đĩa máy vi tính.
Và điều làm cho tôi ngỡ ngàng là đứa cháu nhỏ mới mười lăm tuổi của tôi chỉ cần ngồi vào máy tính có nối mạng và chỉ mất mươi phút là có thể truy xuất được nhiều kiến thức chính xác và phong phú về mọi lãnh vực, mà chính tôi, người đã dày công nghiên cứu học tập hơn nửa đời người, cũng chưa nắm bắt được một cách chính xác và đầy đủ như thế.
Điều nầy làm tôi liên tưởng đến câu chuyện một đạo sĩ phải mất năm mươi năm khổ luyện mới đạt được một thành tích thượng thặng là có khả năng đi trên mặt nước. Với khả năng nầy, ông ta có thể rảo bước trên mặt nước như đi dạo trong vườn, có thể vượt qua con sông rộng mà không cần đến thuyền bè. Thế nhưng sau đó, khi nhìn thấy một em bé nhà quê chẳng học tập tu luyện gì ráo, chỉ cần bỏ ra mươi đồng để trả tiền đò là có thể qua mặt ông để lướt qua sông, ông cảm thấy trong người hụt hẫng: giá như ông tận dụng thời gian năm mươi năm khổ luyện ấy để đổi lấy điều gì đem lại lợi ích thiết thực hơn. Đó cũng là tâm trạng lúc nầy của tôi.
Rồi thỉnh thoảng đọc báo, xem truyền hình, tôi được biết có những nông dân thất học lại có thể xây dựng được hàng chục chiếc cầu treo, chế tạo được hàng trăm máy hút bùn, máy cắt lúa, xén cỏ… lại có cả những những người thuộc dân tộc thiểu số tạo ra được máy lảy bắp, máy gieo hạt… Những nông dân mù chữ nầy đã cống hiến nhiều tiện ích cho những người lao động chân tay, còn tôi với bao nhiêu kiến thức được tích luỹ hơn nửa đời người, mà chưa có phát minh hay sáng chế nào đem lại ích lợi cho làng xóm của tôi.
Thế là từ đó, tôi cảm thấy nỗ lực chiếm hữu kho tàng tri thức của mình trong suốt nửa thế kỷ qua là một đầu tư không đúng hướng. Và bấy giờ tôi nghĩ rằng giá như mình có thể phát minh sáng tạo được chút gì tương tự như những nhà ‘khoa học chân đất’ nói trên thì mới bỏ công miệt mài đèn sách suốt bao năm qua.
Giai đoạn thứ hai: tìm kiếm kho tàng đem lại hạnh phúc
Sau đó, tôi lại nhận ra rằng nhân loại hôm nay tuy có nhiều máy bay, nhiều xe hơi, nhiều tiện nghi hơn những thế kỷ trước, nhưng số người bất hạnh lại nhiều hơn, số người tự tử cao hơn, số người mắc bệnh tâm thần đông đảo hơn, số gia đình tan vỡ vượt trội, số phạm pháp gia tăng…
Thế là cuối cùng khi cuộc đời đã về chiều, tôi mới học được bài học thứ hai: dồn mọi nỗ lực vào việc phát minh và sáng chế chưa hẳn là điều tốt cho nhân loại, vì con người hôm nay, cho dù được sở hữu nhiều máy móc hiện đại, được hưởng nhiều tiện nghi tuyệt vời nhưng đời sống có phần bất hạnh hơn, và do đó, lòng khao khát hạnh phúc của con người hôm nay càng mãnh liệt hơn.
Quả vậy, không có gì quý bằng hạnh phúc nên điều tốt nhất là cống hiến cho nhân loại phương thế đem lại hạnh phúc. Đó là điều mà nhân loại hôm nay đang mong đợi một cách khẩn thiết. Từ đó, tôi cất bước kiếm tìm một vị tôn sư có thể chỉ giáo cho tôi phương cách đem lại hạnh phúc cho đời mình và cho nhân loại. May thay, cuối cùng tôi đã tìm được điều tôi mong đợi nơi Chúa Giêsu và kho báu Tin Mừng.
* * *
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết có một kho tàng, một viên ngọc vô cùng quý báu mà mọi người nên đánh đổi tất cả để sở hữu cho bằng được, đó chính là Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người. (Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người chỉ là một).
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô là kho tàng chứa đựng sự khôn ngoan của Ba Ngôi Thiên Chúa, đã được Chúa Giêsu mang từ trời xuống ban tặng cho thế gian.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô là kho tàng quý báu vì có sức đem lại sự sống đời đời cho nhân loại như lời tuyên xưng của thánh Phêrô: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68)
Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người là ánh sáng cho thế gian: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8, 12)
Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người là con đường dẫn đến sự thật, bình an và hạnh phúc. “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14,6)
Chỉ trong Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người, con người mới có thể tìm thấy hạnh phúc đích thực. Đó là khám phá của thánh Augustino: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Ngài, và hồn con khắc khoải cho đến khi được an nghỉ trong Ngài.”
* * *
Lạy Chúa Thánh Thần,
Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người là kho báu cao quý và cần thiết nhất cho toàn nhân loại, nhưng tiếc thay, phần đông nhân loại đã bị bức màn vật chất và dục vọng che chắn nên đã không nhận ra giá trị của Kho Báu nầy.
Xin thương chiếu dọi ánh sáng của Chúa vào tâm trí con người, để họ nhận ra giá trị cao quý của Tin Mừng và quyết tâm chiếm hữu cho bằng được.
Và xin cho chúng con luôn kiên trì tiếp tay với Chúa Giêsu trong sứ mạng giới thiệu kho báu nầy cho thế giới. Amen.
Anh chị em thân mến,
Trong cuộc sống đời người, mọi người lo tìm kiếm, nhưng không biết tìm kiếm điều gì, nhưng thỉnh thoảng lại nghe thông báo, toà án xét xử và kết án: có bản án tử hình, án tù chung thân và cũng có những người lãnh án nhiều năm bị giam trong nhà giam.
Họ tìm kiếm điều gì mà đánh đổi cả mạng sống mình, hay đánh đổi một cuộc đời như thế. Có phải họ tìm được được cái gì quý giá hơn mạng sống mình, hơn cả cuộc đời, nên họ hy sinh như thế?
Hay họ vẫn biết điều họ tìm kiếm là không chính đáng. Họ cũng biết điều gì nên tìm và điều gì không nên, nhưng họ bỏ ngoài tai tất cả, họ lao vào những cuộc tìm kiếm để rồi họ phải đứng trước toà án và nhận lãnh lời phán quyết nghiêm khắc mà chính họ cũng không muốn như thế. Sự hối hận của họ giờ đây đã muộn mất rồi.
Nước Trời giống như kho báu được chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, anh ta bán đi tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng đó. Cũng thế đối với viên ngọc quý, anh ta cũng bán đi tất cả để có thể chiếm được viên ngọc quý đó. Những người tìm được cái quý báu thì không còn ngần ngại hy sinh những gì mình có để chiếm cho được cái mà mình tìm kiếm. Bán đi tất cả những gì mình có, nghĩa là những gì mình có thì không đáng gì so với kho báu hay ngọc quý mà anh ta tìm được, nên không ngần ngại để trao đổi. Người tìm được kho báu sẵn sàng hành động và ngay tức khắc, thời gian không chờ đợi họ. Sẵn sàng trao đổi để có cái quý giá nhất mà họ tìm đựơc.
Đời sống của một người công giáo, điều gì quý giá nhất? Đó là sự sống đời đời. Tất cả những gì của hiện tại, đều hướng đến cuộc sống mai sau. Nhưng có khi con người chỉ dừng lại ở hiện tại mà quên đi mục đích của mình. Con người đang chọn lựa, nhưng có khi không biết mình chọn lựa điều gì. Con người đang tìm kiếm, nhưng không biết mình đang tìm kiếm điều gì. Mặc dù đang sống nhưng con người cũng không biết là mình đang sống, vì con người mãi lao vào những cuộc tranh chấp hơn thua để rồi khi nhìn lại thì không biết mình đang làm gì.
Chúng ta thì sao, là những người công giáo, những người đang lắng nghe lời Chúa, chúng ta đang chọn lựa điều quý giá nhất cho mình, chúng ta cũng đang tìm kiếm sự sống cho mình như thế nào? Mỗi người chúng ta nhìn vào chính mình, nhìn vào những việc làm, những lời nói và kể cả những toan tính, chúng ta dễ dàng nhận ra điều quý giá nhất mà mình đang tìm kiếm.
Có người nhìn thấy tiền bạc là quý nhất, nên cố làm sao để cho có thật nhiều tiền. Suốt cuộc đời họ chỉ biết có tiền, còn mọi thứ khác không có giá trị gì cho họ: những cái đẹp, cái danh dự, những người thân yêu, bạn bè kể cả cha mẹ và con cái, họ không biết yêu thương là gì, nếu tình yêu không mang tiền đến cho họ thì họ cũng không cần biết. Họ chỉ biết cố kiếm thật nhiều và chỉ có thế. Họ quên đi sự sống của hiện tại và cả tương lai. Vô phúc thay.
Có người chỉ biết có danh dự chức quyền, nên họ giẫm bừa lên người khác mà bước đi trên con đường danh vọng. Họ bất chấp những thủ đoạn, để ngoài tai những lời kêu than thống thiết, bất chấp những lời ngay thẳng khuyên can, họ chỉ cần biết làm sao để thoả mãn khát vọng của họ mà thôi. Họ cũng quên đi mục đích sống của một con người.
Có người chỉ biết có hiện tại, họ chỉ biết làm ăn và hưởng thụ mà không biết đến mai sau sẽ ra sao?
Còn chúng ta nếu chúng ta nhận ra được mục đích của cuộc đời, nếu chúng ta biết lắng nghe lời Chúa, để chu toàn trách nhiệm của mình trong hiện tại, trách nhiệm trong gia đình, trách nhiệm của một người trong xã hội. Nếu chúng ta nhìn thấy được những việc cần thiết phải làm và không ngần ngại, nếu chúng ta lắng nghe được những lời van xin và đáp ứng kiệp thời với tấm lòng quảng đại và con tim yêu thương, nếu chúng ta nhìn thấy những người khốn khó, con tim chúng ta thổn thức và hành động để đem niềm vui cho người khác; những lúc đó, chúng ta đang bán đi những gì mình có mà mua lấy viên ngọc quý và kho báu. Nhưng còn hơn cả kho báu nữa mà là sự sống đời đời. Như thế thật hạnh phúc cho chúng ta.
Xin Chúa soi sáng cho chúng ta nhận ra được điếu quý giá nhất của cuộc đời để biết chọn lựa cho xứng đáng.
Vài năm về trước, một trong những công ty xe hơi đã làm một bảng quảng cáo quy mô xoay quanh chủ đề đơn giản “trở về với những điều thiết yếu.” Các bạn có thể nhớ lại đã được nghe trên đài truyền hình và phát thanh: “Khi người ta trở về với những điều thiết yếu, họ sẽ đến với xe hơi của chúng tôi”. Sứ điệp của bài Phúc Âm hôm nay được xoay quanh cùng một chủ đề: “Khi người ta trở về với những điều thiết yếu, họ sẽ đến cùng Thiên Chúa.”
Chúa Giêsu nói với chúng ta trong sứ điệp của bài Phúc Âm hôm nay, “Nước Trời giống như kho tàng được chôn giấu trong khu ruộng…” (Mt 33:44-45). Người mà tìm thấy kho tàng đó, Chúa Giêsu nói, ra đi vui mừng, bán hết những gì người đó có, và mua lấy khu ruộng đấy. Và người tìm thấy viên ngọc quí cũng vậy ra đi và bán hết những gì họ có mà mua lấy nó.
Tất cả ai trong chúng ta cũng muốn tìm ra ý nghĩa cho sự hiện hữu của chúng ta: “kho báu ẩn tàng,” “viên ngọc quí.” Và Chúa Giêsu đã làm rõ ràng rằng con đường duy nhất chúng ta có thể tìm thấy ý nghĩa cho đời sống chúng ta chính là qua Thiên Chúa. Vì lý do này chúng ta mới nói thật nhiều về Thiên Chúa. Chúng ta cố muốn hiểu rằng Ngài là ai. Chúng ta chia sẻ với nhau về Thiên Chúa hành động như thế nào, cầu nguyện với Thiên Chúa như thế nào, và tất cả những gì nói về sự sống, đau khổ, chết chóc và những mối liên hệ giữa con người. Thế nhưng nói thì dễ, và nói thì rẻ rề. Đến lúc chúng ta cần phải có phương thức rõ ràng để bày tỏ những gì mà chúng ta cố ý muốn nói. Và từ những thời kỳ xa xưa nhất của Kinh Thánh, người ta đã dùng những sự vật hữu hình để biểu lộ chỗ đứng của họ trong mối liên hệ với Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh, một người nông dân chăm chỉ, vào thời kỳ thu hoạch, sẽ phải dâng tiến ít là 10% thóc lúa của họ như là phương thế của họ nói rằng: “Đây chính là tôi cảm nghiệm như thế nào về những gì Thiên Chúa đã làm cho tôi, gia đình tôi và mùa thu hoạch của tôi.” Sau đó, kinh tế biến chuyển, các tín đồ bắt đầu mang tiền đến. Mỗi tuần khi các bạn đi Nhà Thờ, các bạn có thể cho Thiên Chúa một phần của chính các bạn cũng trong cách thức này. Toàn thể và từng người chúng ta được ban cho những cơ hội để đi xa hơn việc chỉ nói về Thiên Chúa và chỉ trao cho Thiên Chúa một phần những cảm nghiệm của chúng ta.
Nhiều người trong chúng ta đã đọc câu chuyện say mê của Mark Twain về chiếc tàu thủy chạy hơi nước trên sông Mississippi. Các chủ thuyền quyết định rằng nó sẽ là chiếc tàu tuyệt nhất trên sông bởi thế họ đã không quản ngại tốn phí khi chế nó. Họ quyết định rằng chiếc tàu hơi nước tuyệt đẹp này phải có cái còi lớn nhất và bóng nhất hơn bất cứ chiếc tàu nào trên sông Mississippi. Họ đã hoàn tất nó và hãnh diện cho nó chạy tuyến đường đầu tiên xuôi dòng sông. Ý định rằng sẽ kéo còi suốt cả đường để mọi người biết rằng nó đang đến. Họ đã kéo còi và người ta nghe thấy từ nhiều dặm xa thì họ đến chiêm ngắm nó khi nó đi qua. Nhưng, chủ tàu khám phá ra họ gặp một trục trặc. Chiếc còi hùng vĩ lấy quá nhiều năng lực hơi nước bởi thế mỗi lần nó hú, máy tàu bị ngừng lại. Mark Twain đã hoạ thật đẹp về chiếc tàu hơi nước tráng lệ đó chạy trên sông Mississippi, ngừng và hú còi và chạy tiếp, rồi lại ngừng và hú còi rồi chạy tiếp — suốt cuộc đường về New Orleans.
Thật là tuyệt khi nói về Thiên Chúa và cũng thật là tuyệt khi nói về Nước Thiên Chúa trong ngôn từ hạt ngọc quí giá và kho báu ẩn tàng tráng lệ. Thật là tuyệt khi nói về từ bỏ tiền của và vật chất, và phần thưởng thiên quốc chắc chắn tiếp theo đó. Thật là tuyệt khi nói về đức tin, cậy và khoan dung. Đúng thế, thật là tuyệt khi hú còi lâu lâu một lần. Thế nhưng, có những lúc khi các bạn cần phải trở về với những điều thiết yếu. Có những lúc khi các bạn ngừng không hú còi nữa và tăng năng lực cho máy chạy.
Các ký giả Tân Ước hằng luôn thách đố chúng ta “hãy trở về với những điều thiết yếu”. Nước Trời có đáng hơn mọi sự tôi có không? Tôi có rất cần nó đến nỗi từ bỏ tất cả mọi sự không? Đó chính là những điều Chúa Giêsu đòi chúng ta phải trả giá để vào Nước Thiên Chúa. Các bạn phải từ bỏ của cải hầu giành được một chỗ trong Nước đó, thế nhưng việc từ bỏ có phần thưởng của nó. Nó thật đáng hơn tất cả những gì các bạn có, ngay cả chính mạng sống của các bạn nữa.
Tại sao chúng ta lại quá say mê Chủ Thuyết Duy Vật? Tại sao chúng ta dường như say mê những sự chỉ có tiền của mới mua được hơn là những giá trị và những cảm nghiệm làm phong phú hơn của cuộc sống mà tiền của không thể mua được?
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Minh Hùng)
Ngọc là quí, là cái đáng giá. Nhưng người kitô hữu có một thứ Ngọc đáng giá hơn nhiều: NGỌC NƯỚC TRỜI. Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người lái buôn đi tìm và mua ngọc quí để nói về Ngọc Nước Trời ấy. Người lái buôn đi tìm và mua viên ngọc như thế nào? Anh ta đánh đổi tất cả, bán mọi của cải để chỉ mua lấy viên ngọc quí ấy. Hóa ra khi chọn lấy viên ngọc Nước Trời, cuộc sống người Kitô hữu hàm chứa cả một thái độ chọn lựa lớn lao: đánh đổi tất cả những gì thuộc về cuộc đời này để giữ lấy Nước Trời. Mà chọn lựa bao giờ cũng đòi hy sinh. Bởi đó một chọn lựa dứt khoát như thế là cả một hy sinh quyết liệt của người tìm ngọc.
Thế nhưng thái độ chọn lựa và hy sinh ấy lại là thái độ của người khôn ngoan. Sự khôn ngoan ấy đã được bài đọc một trích sách Samuel quyển thứ nhất diễn tả như một bằng chứng sống, tích tụ nơi một con người: vua Salomon. Sau khi Đavit đã về già, Chúa chọn một người con của Đavít là Salomon đặt lên ngai vàng để thay thế ông. Là vua, cứ như một ông vua trần thế bình thường khác, Salomon có quyền đòi cho mình sự sung túc, được cung phụng và uy quyền. Nhưng không, lời cầu nguyện của ông trước mặt Chúa, cho thấy ông rất đơn sơ, khiêm nhường: Ông xưng mình là tôi tớ của Chúa và ý thức mình chỉ là một trẻ nhỏ, không biết đường đi nước bước, vậy mà Chúa đã đưa ông tới địa vị quá to lớn. Bởi đó ông xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan. Chính khi nhận ra mình nhỏ bé, và cầu xin sự khôn ngoan, Salomon đã là một ông vua khôn ngoan. Thái độ khôn ngoan và lời cầu xin rất khôn ngoan của vua Salomon chẳng những đã được Chúa nhận lời, còn hơn nưã, Chúa khen ngợi ông: Vì ngươi đã xin điều đó, mà không xin sống lâu, được giàu có, của cải, mạng sống quân thù, lại xin cho được khôn ngoan để biết xét đoán, thì đây, Ta ban cho ngươi điều ngươi xin, và ban cho ngươi tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi.
Bạn thân mến, khôn ngoan mà Thiên Chúa muốn là vậy đó. Nó không dừng ở sự sống thân xác, không là sự giàu có, không là hạ nhục kẻ thù nhưng là khước từ, là đánh đổi tất cả những thứ đó để có được Nước Trời, có được viên ngọc cao quí.
Nước Trời mà Chúa hứa, Người đã ban tặng, đã trao cho mỗi người chúng ta. Trong ơn cứu chuộc của Chúa Kitô, ta đã lãnh lấy viên ngọc quí giá ấy. Vấn đề còn lại là thái độ sống của ta: khước từ hay đón nhận viên ngọc ấy. Nghĩa là đón nhận hay khước từ lời mời gọi hưởng vinh quang Nước Trời. Sự đón nhận hay khước từ đều là những chọn lựa. Nếu chọn lựa đòi hy sinh, thì lãnh lấy viên ngọc Nước Trời buộc ta phải đi những bước quyết định và can đảm trong sự từ bỏ: từ bỏ những thú vui bất chính, những thú vui nhục dục, từ bỏ những thói quen xúc phạm đức trong sạch, những thói quen cản bước ta tiến về sự thánh thiện, có khi là những thói quen tội lỗi, từ bỏ nỗi đam mê tiền bạc đến mức làm ta bất chấp sự lương thiện, ngược lại cứ mải mê trong lừa lọc, trộm cắp, mải mê trong tính toán, vụ lợi cho bản thân, cho gia đình mình
Chỉ với một viên ngọc vật chất, nhà thương gia trong Tin Mừng đã bán tất cả gia tài để mua nó. Chúng ta có dám làm như thế đối với viên ngọc Nước Trời không? Nếu vua Salomon đã không kể đến lợi lọc riêng tư của bản thân, của gia đình, của hoàng triều, đã được Chúa khen ngợi không tiếc lời, thì thái độ sống khôn ngoan chọn lấy Nước Trời của bạn và tôi chắc chắn được Chúa thương nhìn đến.
“Thiên đàng, hoả ngục hai quê. Ai khôn thì về, ai vụng thì sa. Đem nằm nhớ Chúa, tưởng Cha. Đọc kinh lần hột, kẻo sa linh hồn”. Trò chơi thuở nhỏ, chọn thiên đàng hay hoả ngục, trong khi đọc những câu thơ có vần dễ nhớ như trên, khiến chúng ta không khỏi thán phục những ai đã có sáng kiến nghĩ ra trò chơi cho con trẻ có nội dung đạo đức và đầy tính giáo dục như vậy.
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải có một chọn lựa dứt khoát, giống như khi Chúa bảo người thanh niên giàu có: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho kẻ nghèo và anh sẽ được một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta” (Mt 19, 21). Nước Trời ở đây là chính Chúa Kitô, được diễn tả như kho báu, như viên ngọc quý mà khi tìm gặp thì thái độ của chúng ta phải dứt khoát, hoặc là chọn Chúa hoặc là không và kết quả là ngày tận thế, kết cục sẽ tỏ tường chúng ta được Thiên Chúa đón nhận hay bị loại bỏ.
Chọn lựa nào cũng đòi hy sinh. Chọn lựa dứt khoát, thì hy sinh quyết liệt. Nước Trời là một kho báu đòi ta phải bỏ tất cả những gì mình có, kể cả bản thân để tậu cho được. Điều đó cũng chứng tỏ ta đã yêu thương Nước Trời hơn bất cứ điều gì khác trên đời. Thật vậy, ai có Thiên Chúa là có tất cả, vì chỉ mình Ngài là đủ. Người ấy nghiệm ra rằng sự bình an và niêm vui chân chính, sự mãn nguyện trong tâm hồn chỉ có được, khi có Thiên Chúa và như thế là đủ cho họ rồi!
Không gì có thể níu chân thời gian. Vạn vật rồi sẽ qua đi, con người cũng thế. Ai là là bạn hữu của Chúa, thuộc về Chúa, ngay từ đời nầy, thì cũng sẽ thuộc về Chúa trong cõi đời đời. Và thuộc về Chúa thì thật hạnh phúc vì luôn được sống trong tình yêu, được tình yêu Thiên Chúa chiếm hữu, lấp đầy.
Xin cho chúng con biết quên đi những đam mê trần thế, hy sinh thân mình, quyết tâm sống theo đòi hỏi của Tin Mừng, để thuộc trọn về Chúa bây giờ và mãi mãi. Amen.
(Suy niệm của Đỗ Bá Công)
Cha Mark Link, thuộc Dòng Tên, nổi tiếng ngày nay vì những bài giảng thức thời và thiết thực, có nói: “Nếu Đức Giêsu sống giữa chúng ta ngày nay, trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài sẽ nói rất khác: thay vì chuyện người buôn ngọc đã hy sinh tất cả, để đi mua một hạt ngọc quý, hay là chuyện một nông dân đã bán tất cả để mua thửa đất trong đó có chôn giấu một kho tàng, thì Chúa sẽ nêu lên một lực sĩ chạy marathon, kiêng khem tất cả, để đoạt chiếc huy chương vàng.”
Vì sao Ngài nói thế? Có gì liên hệ giữa người buôn ngọc, người đi tìm kho báu, với người chạy marathon? Ba người ấy có gì giống nhau? Thưa chỉ vì một điều họ giống nhau: là họ cùng dấn thân vào một giấc mơ. Cả ba đều muốn hy sinh tất cả cho một mục đích mà họ đặt trước mắt họ.
Trong trường hợp người buôn ngọc là làm sao thủ đắc một viên ngọc thượng hặng. Trong trường hợp người đi tìm kho báu thì làm sao gặp được một kho tàng hiếm lạ. Trong trường hợp người đi tìm chạy marathon là làm sao được huy chương vàng. Sự kiện ấy dẫn chúng ta vào một điểm cốt yếu mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Điểm ấy là: công dân Nước Trời phải dấn thân toàn diện con người. Chúng ta không thể theo đuổi mục đích ấy cách hờ hững. Nhưng chúng ta phải dốc toàn lực trăm phần trăm. Chúng ta phải coi đó như là một ưu tiên trên hết của đời sống chúng ta.
Làm người Kitô hữu giống như là làm người đi buôn ngọc.
Làm người Kitô hữu như là một người đi tìm kho báu.
Làm người Kitô hữu là như một tay chạy marathon, phải cần có một cuộc dấn thân và tận hiến. Tuy nhiên vẫn có một sự khác biệt lớn lao giữa người Kitô hữu và ba hạng người kia. Thánh Phaolô nhắc lại điều ấy trong Thư thứ nhất gởi Tín hữu Corinthô: “Phàm là tay đua, thì phải kiêng khem đủ điều: Vậy mà họ, là để đoạt một triều thiên hư nát. Còn ta, ta trông một triều thiên bất hoại” (1 Cor 9,25).
Sự khác biệt là ở đó. Cái giá vô song của người buôn ngọc, kho tàng hiếm lạ của người nông, chiếc huy chương vàng cao quý của lực sĩ marathon đều phải hư nát. Khi người buôn chết, viên ngọc quý kia không còn giá trị gì cho người ấy. Khi người nông chết, kho tàng trở nên vô dụng chỉ như một cái hộp mà ông ta đã tìm hồi ấy. Khi người lực sĩ marathon chết, huy chương vàng kia chỉ là một lưu niệm cho gia đình hay bạn bè mà thôi. Nhưng khi người Kitô hữu chết, Nước của Thiên Chúa sẽ sáng lên rực rỡ, và càng lâu càng rực rỡ hơn. Đến giờ chết, chỉ còn một điều đáng kể, đó không phải điều mà chúng ta đã chiếm đoạt: một viên ngọc quý, một kho tàng lạ, hay một huy chương vàng. Chỉ một điều có giá là chúng ta đã biến đổi ra sao qua những điểm tiến của cố gắng chúng ta khi đi tìm ngọc, khi đoạt được khi báu, khi thắng được huy chương vàng.
Bài Tin Mừng hôm nay đặt lên một điểm đáng ghê sợ và cốt lõi. Không có gì trong thế gian có quyền uy tiên hơn trên Nước Chúa và trên những phương sách chúng ta theo đuổi cho được chiếm đoạt Nước ấy.
Bài Tin Mừng hôm nay nói cho chúng ta hay, điều còn đáng kể khi chúng ta chết, không phải là điều chúng ta đã dành được trong cuộc sống, mà là điều là biến đổi đời chúng ta.
Chúng ta đã học để thương yêu nhau không?
Chúng ta đã học để tha thứ cho nhau không?
Chúng ta đã học để giúp đỡ người nghèo khó không?
Chúng ta đã học để động viên những người nhút nhát không?
Chúng ta đã học để đi với tha nhân thêm dặm thứ hai không?
Chúng ta đã học để đưa má kia nữa cho người ta vả không?
Chúng ta đã học để đi dấn thân không? Và biết chân thành với Chúa và với nhau không?
Tôi hy vọng chúng ta đang chân thành với Chúa.
Tôi đang cầu xin với Chúa cho chúng ta được chân thành. Vì nếu chúng ta không chân thành, chúng ta đã phản bội với Chúa, với gia đình chúng ta, với bạn bè chúng ta. Và cuối cùng chúng ta cũng đã phản bội với chính mình chúng ta nữa.
Người Do thái thời Chúa Giêsu hẳn không xa lạ gì với khái niệm một kho tàng chôn trong lòng đất. Lịch sử nước Palestine từng ghi nhận nhiều bước xăm lăng của các đế quốc Babylon, Assyria, Ba tư, Hy lạp, Rôma và nhiều sắc tộc khác. Không những thế, nội chiến cũng thường xuyên xảy ra. Trên dải đất từng bị mất đi chiếm lại nhiều lần như thế, chuyện chôn giấu tài sản, khi không thể đem theo trên đường di tản, là việc đương nhiên đối với dân thời loạn.
Thế nhưng làm sao tránh khỏi trường hợp chủ nhân không may mất mạng trên đường tản cư, hay có người không thể nhớ ra chỗ mình chôn giấu, hoặc vùng đất bị giặc chiếm đóng lâu năm lâu tháng không thể trở về. Điều này khiến cho không ít người tình cờ đào được những kho tàng quí báu ngay trên mảnh đất nhà mình. Và theo luật thời ấy, ai làm chủ vùng đất nào sẽ được quyền thủ đắc mọi thứ nằm trong vùng đất đó.
Đức Giêsu đã dùng chính khái niệm thông thường này để nói với người ta về Nước Trời. Ngài kể: “Có người kia may mắn đào trúng một kho tàng trên một hửa đất nọ; anh ta vội chôn dấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả thứ gì mình có để mua cho bằng được miếng đất ấy.”
Có lẽ anh này là một tay thợ làm công, đang cày thuê cuốc mướn để kiếm miếng ăn. Cũng có thể anh đang lang thang đào cua bắt rắn để sinh sống qua ngày. Như vậy, anh ta không phải là người giàu có gì.
Kho tàng anh gặp thấy phải là lớnlắm, khó lòng di chuyển mà không bị phát giác, chẳng vậy anh đã âm thầm mang về nhà chứ hơi đâu lấp đất che kín. Giá trị của tất cả những gì anh có cũng quá bé nhỏ so với kho tàng anh bắt gặp, nếu không anh đã chẳng dại gì bán hết mọi thứ để mua cho bằng được.
Phải chăng Chúa Giêsu muốn nhắn bảo với nhân loại rằng: không gì sánh được với giá trị của Nước Trời. Nó đáng vạn lần lớn hơn những gì người ta có. Nếu phải đánh đổi tất cả để chiếm Nước Trời cũng không đáng cho người ta phân vân hay lo buồn. Vì đó là một nguồn lợi vô cùng lớn, nguồn lợi làm nên nỗi vui mừng hân hoan khiến “anh vui mừng đi bán tất cả những gì mình có để mua thửa ruộng đó” (Mt 13,44).
Một thửa ruộng có kho báu, và kho báu ấy được chôn sâu trong đất. Như thế, không phải chỉ có đi qua bước lại mà thấy được kho báu. Đúng hơn, nhờ vất vả lao nhọc mưu sinh mà rồi người ta tình cờ khám phá. Đây cũng là một thách đố cho ai đang khao khát Nước Tròi. Bởi vì không phải dễ dàng mà thấy được dưới lớp đất sinh lầy hay nức nẻ kia có một kho tàng vô giá. Lắm khi người ta phải tận lực đào bới, bền chí thi hành bổn phận hàng ngày mới có thể gặp được Nước Trời.
Nhưng Nước Trời là gì?
Nước Trời kông chỉ khác hơn chính là Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Thế nên “tìm kiếm Nước Trời”, “gặp thấy” Nước Trời, và “mua được” Nước Trời, cũng chính là việc “chiếm hữu” được Đức Giêsu.
Nếu nói kho báu là Chúa Giêsu thì thửa ruộng chứa kho báu ấy sẽ là Giáo Hội. Nơi đó, khi chịu khó lao công, bạn sẽ khám phá kho tàng. Nhưng trước hết, cần phải mua thửa ruộng ấy, tức là phải sở hữu Giáo hội bằng niềm tin và trung thành lao công trên mảnh đất Giáo hội, lúc ấy bạn mới có thể chiếm hữu trọn vẹn kho tàng Giêsu.
Thiên Chúa là Đấng quảng đại. Ngài biết “thửa ruộng” có “kho báu”, nhưng Ngài vẫn sẵn lòng “bán” cho ai khát khao. Trong cuộc mua bán này, giá cả chênh lệch vô cùng, nhưng phần lời bao giờ cũng nghiêng về người mua.
Chuyện kể một phú ông kia chẳng may bị chết vợ trong ngày bà sinh hạ đứa con đầu lòng. Ông buồn phiền quá sức nhưng cũng phải kiếm vội người vú nuôi để chăm nom đứa bé và coi sóc cửa nhà.
Rủi thay, đứa bé kia cũng thiệt mạng trong một tai nạn giao thông khi chưa tới tuổi trưởng thành. Người giàu có cũng chết sau đó vài năm vì một cơn đau tim bất ngờ.
Vì không có ai là họ hàng thân thích và bởi không tìm thấy một tờ di chúc nào nên người ta chẳng biết gia tài khổng lồ sẽ đi về đâu. Cuối cùng, toàn bộ gia sản được giao cho chính quyền giải quyết.
Theo lệ thường, người ta cho trưng bày và đấu giá trứơc một số vật dụng. Sau đó vài tháng sẽ cho đấu giá toàn bộ.
Ngày đấu giá sơ khởi diễn ra. Các con buôn tụ tập rất đông. Người vú nuôi ngày xưa cũng đến tham dự, không phải để được mua sắm với giá lời, nhưng vì lòng thương nhớ gia đình chủ xưa khiến bà tìm đến để nhìn lại lần cuối các vật chứa đầy kỷ niệm.
Trong số các thứ được đem ra đấu giá, người vú nuôi chợt thấy tấm hình con ông chủ được lồng trong một khung kính đơn sơ. Bà chợt thương nhớ da diết cậu bé ngày xưa! Nước mắt bà rơi xuống. Thế rồi khi thấy chẳng ai thèm chú ý đến tấm hình, người vú nuôi liền giơ tay mua nó với giá sơ khởi là một đồng.
Bà mang tấm hình về, tháo khung ra, dự tính đặt ba tấm hình vợ chồng và đứa con của gia đình chủ xưa vào chung một chiếc khung. Nhưng lúc vừa gỡ mặt sau tấm hình cậu bé, bà thấy có mấy tờ giấy rơi ra. Xem có vẻ quan trọng, bà bèn mang chúng đến một luật sư nhờ xem giúp.
Vị luật sư sau khi quan sát kỹ các giấy tờ đã tươi cười nói với bà: “Xin chúc mừng bà! Người chủ của bà đã viết rằng: ông ta muốn giao lại toàn bộ tài sản cho người nào yêu mến đứa con của ông đến nỗi chịu mua bức hình đó, và như thế, bà được quyền thừa hưởng di chúc này.”
Thật hạnh phúc muôn lần hơn cho những ai yêu mến Đức Giêsu, Con Thiên Chúa!
Yêu mến Đức Giêsu cũng có nghĩa là yêu mến Thánh Thể, yêu mến Thánh Kinh, và yêu mến Thánh Mẫu. Điều thứ ba này nghe có vẻ hơi lạ. Thế nhưng đâu có gì thái quá khi nói: trong “thửa ruộng Maria” có “kho tàng Giêsu” – trong cung lòng Đức Mẹ có Con Thiên Chúa. Muốn có kho tàng lại phải đi mua miếng đất, Chúa dạy vậy mà.
Chắc chắn khi có lòng mến yêu như thế, bạn và tôi sẽ được Chúa Cha tặng ban cho cả thiên đàng.
Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp (Mt 13,45)
Suy niệm:
Thương thì cho: thương ít cho ít, thương nhiều cho nhiều. Nếu muốn biết người nào đó thương mình thật không thì hãy xem người đó có cho mình cái gì không.
Nhưng nói như trên cũng chưa đúng lắm, vì còn tuỳ của cho là tốt hay xấu, có ích hay có hại đối với người nhận nữa. Người ta nuôi chim bồ nông, hằng ngày cho chúng ngửi thuốc phiện. Rồi người ta tròng vào cổ chúng một cái vòng, xong thả chúng đi kiếm cá trên mặt biển.
Vì có cái vòng trên cổ nên những chú bồ nông này chỉ nuốt được những con cá nhỏ. Còn cá lớn thì chúng cứ ngậm trong miệng. Tới lúc cơn ghiền thuốc phiện hành, chúng bó buộc phải trở về tàu; nhả cá lớn ra. Những người nuôi chim này cũng cho, nhưng không phải vì thương các chú chim bồ nông kia đâu. Thương thật thì phải cho những thứ tốt, những thứ có ích cho người nhận.
Thiên Chúa yêu thương loài người, và thương thật tình. Chính vì thương nên có nhiều điều tuy chúng ta cứ nằng nặc xin Ngài nhưng Ngài biết có hại cho chúng ta nên Ngài không cho. Ngài cho chúng ta những điều mà Ngài biết là tốt nhất có ích cho chúng ta nhất. Đó là những điều mà các bài đọc hôm nay kể cho ta biết: sự khôn ngoan, luật Chúa, ơn làm con Chúa và nhất là Nước Trời.
Trong 7 ơn của Chúa Thánh Thần, đứng đầu là ơn Khôn ngoan.
Người khôn ngoan là người có khả năng nhận biết đúng-sai, chính-phụ,quan trọng-thứ yếu, bền vững-chóng qua. Sách Thánh còn chỉ cho chúng ta biết: “Kính sợ Chúa là đầu mối sự khôn ngoan”. Chúng ta hãy tự kiểm điểm xem chúng ta có khôn ngoan hay không:
Nhiều người ham tiền. Đối với họ, tiền là trên hết, hay nói cách khác, không có gì trọng bằng tiền. Nhưng thử hỏi tiền có bền vững mãi mãi không? Dĩ nhiên là không. Rất nhiều bằng chứng về điều này… Vậy, người suốt đời lo kiếm tiền và chạy theo tiền là người dại.
Nhiều người hám danh. Họ ham được khen, họ thích địa vị. Họ bỏ tiền ra để mua danh. Nhưng thử hỏi danh có bền vững mãi không? Cũng không. Và cũng có rất nhiều bằng chứng… Cho nên hám danh cũng là dại.
Nhiều người mê tình: tình yêu trai gái, tình bạn, tình dục v.v. Cũng thế thôi.
Bỏ ít để được nhiều là khôn. Bỏ cái tầm thường để được cái quý giá là khôn. Hai người trong bài Tin Mừng hôm nay rất khôn ngoan: người thứ nhất khám phá một kho tàng dấu trong một thửa ruộng. Anh vội về nhà bán hết tài sản rồi trở lại mua thửa ruộng đó. Người thứ hai thấy được một viên ngọc quý, cũng về nhà bán hết tài sản để trở lại mua viên ngọc quý đó. Ai trong chúng ta khám phá một kho tàng hay một viên ngọc quý mà không làm như hai người ấy! Đương nhiên chúng ta sẽ làm như họ thôi. Chúng ta dám bỏ tất cả vì chúng ta biết mình sẽ được lại cái còn quý giá hơn nhiều.
Qua bài Tin Mừng này, Đức Giêsu không dạy chúng ta cách kiếm thêm nhiều tiền bạc của cải, mà dạy chúng ta kiếm một thứ còn quý hơn tiền bạc của cải vô cùng, đó là Nước Trời: Tiền bạc của cải mang lại sung sướng về vật chất, Nước Trời mang hạnh phúc cả vật chất lẫn tinh thần, cả tự nhiên lẫn siêu nhiên. Tiền bạc của cải giúp ta sung sướng đời này, Nước Trời làm ta hạnh phúc mãi mãi.
Chúng ta dám bỏ tất cả để được một kho tàng, để được một viên ngọc quý. Tại sao chúng ta không dám bỏ tất cả để được Nước Trời?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, kho báu mà Ngài dành cho mỗi người chúng con được chôn dấu không phải ở đâu xa, mà ngay trong con tim trong lòng mỗi người chúng con. Đặc biệt Ngài cũng tặng cho chúng con một kho tàng vô giá là phẩm vị làm con của Ngài. Xin cho chúng con đủ khôn ngoan để chọn lựa những điều cao quý Chúa dành tặng chúng con. Để chúng con biết xây dựng Nước Trời nơi mỗi tâm hồn. Và để ơn Chúa được lớn mãi, là niềm vui trọn vẹn cho chúng con.
Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con kho tàng ân sủng của Ngài, chúng con cần phải chiến đấu chống lại những cám dỗ, tội lỗi, chống lại tinh thần trần tục và của cải thế gian, chống lại những khoái thú xác thịt, thì lúc đó chúng con mới hy vọng trung thành được với ơn Chúa. Và lạy Chúa, con vẫn biết để sống trung thành với kho tàng đức tin, với kho tàng ân sủng mà Chúa ban cho chúng con trong một thế giới có nhiều cám dỗ, chúng con cần phải cố gắng hy sinh thật nhiều. Xin Chúa tiếp sức và ban ơn kiên nhẫn để chúng con đủ sức chiến đấu với những thế lực xấu. Đồng thời biết gìn giữ kho báu Chúa ban để kho tàng đức tin và ân sủng được phát triển cho tới mức thành toàn viên mãn nơi Chúa Giêsu Kitô. Amen.
Tất cả các dụ ngôn đều ưu tiên mạc khải về Đức Giêsu, là biến cố trung tâm của lịch sử, biến cố đánh dấu cuộc gặp gỡ chung kết giữa trời với đất.
1.- Ngữ cảnh
Diễn từ của Đức Giêsu bằng các dụ ngôn liên hệ đến các khó khăn và những ngờ vực xuất phát từ tình trạng tương phản giữa hoàn cảnh hiện tại và các nỗi chờ mong nhắm đến Nước Trời và Đấng Mêsia. Nếu khi Đức Giêsu xuất hiện, quyền chúa tể của Thiên Chúa cũng bắt đầu được khẳng định, thì tại sao sứ điệp của Người không được mọi người vui mừng đón nhận? Tại sao Thiên Chúa không buộc người ta phải nhìn nhận Ngài bằng một loạt những chiến thắng lẫy lừng? Tại sao Ngài không thiết lập những phân biệt rõ ràng? Trong dụ ngôn Người gieo giống, Đức Giêsu đã cho thấy rằng hạt giống tốt chỉ có thể sinh hoa kết quả trên một mảnh đất tốt, tức là tính hữu hiệu của sứ điệp cốt yếu tùy thuộc những người đón nhận sứ điệp và tùy thuộc cách sống của họ. Với các dụ ngôn Hạt cải và Men, Người cho thấy rằng một khởi đầu bé nhỏ không loại trừ một sức phát triển to lớn và một khả năng đạt hiệu quả lớn lao. Các dụ ngôn Cỏ lùng giữa lúa tốt và Lưới cá cho thấy rằng vẫn còn tình trạng người tốt kẻ xấu ở bên nhau, nhưng không kéo dài vĩnh viễn. Giá trị cao vời của Nước Trời, niềm vui vô biên đi liền với việc khám phá ra giá trị ấy và sự dấn thân phải có khi đã thuộc về Nước Trời, tất cả những điểm này đều được làm sáng tỏ xuyên qua các dụ ngôn Kho báu và Ngọc quý. Đức Giêsu muốn loại bỏ các hiểu lầm và giúp các thính giả có lối sống thanh thoát thích hợp.
2.- Bố cục
Có thể chia bản văn thành ba phần:
1) Ba Dụ ngôn
2) Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (13,49-50).
3) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (13,51-52).
Hoặc cũng có thể cho rằng bản văn có năm đơn vị:
1) Dụ ngôn 1: Kho báu chôn giấu (13,44);
2) Dụ ngôn 2: Ngọc quý (13,45-46);
3) Dụ ngôn 3: Chiếc lưới (13,47-48);
4) Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (13,49-50);
5) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (13,51-52)
3.- Vài điểm chú giải
– Nước Trời giống như một kho báu (44): Không phải là Nước Trời được ví với một kho báu, nhưng là “những gì xảy ra” khi một người khám phá ra một kho báu được so sánh với “những gì xảy ra” (hoặc phải xảy ra) khi một người khám phá ra Nước Trời.
– kho báu chôn giấu trong ruộng (44): Vào thời Thượng Cổ, vì không có hoặc có rất ít nhà băng, hơn nữa Paléttina lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh do vị trí ở giữa Ai Cập và Mêsôpôtamia, người ta giữ của cải an toàn bằng cách chôn xuống đất. Do đó, thỉnh thoảng, có người khám phá ra một khối của cải chôn dưới đất, chẳng hạn một cái chum chứa những đồng tiền vàng hay các loại đá quý.
– thương gia (45): Emporos là người buôn bán sỉ, vừa xuất vừa nhập hàng. Vào thời Đức Giêsu, ngọc quý thường được nhập từ Ấn Độ.
– chiếc lưới (47): Sagênê, “chiếc lưới”, có kích thước dài khoảng 250 đến 450m và rộng khoảng 2m; mỗi đầu có thắt một sợi dây.
– thả xuống biển (47): Blêtheisê, động từ ballô ở dạng participe aoriste passif để nói quanh thay tên Thiên Chúa. Động từ với dạng ấy có nghĩa là chiếc lưới đã được thả xuống biển rồi, và do chính Thiên Chúa thả.
– Anh em có hiểu (51): Trong dụ ngôn Người gieo giống, chúng ta đã thấy tầm quan trọng tác giả gán cho động từ “hiểu”. Ở đây, Đức Giêsu hỏi về tất cả những gì Người đã nói bằng dụ ngôn cho đám đông. Câu trả lời thật gọn: “Thưa hiểu (Nai)”. Ngữ cảnh cho thấy là những người trả lời là những môn đệ đã hỏi Đức Giêsu trước đây (x. c. 36). Nhưng khi không nêu ra chủ từ minh nhiên, tác giả Mt muốn ám chỉ bất cứ độc giả nào, bất cứ Kitô hữu nào. Chính câu trả lời này đưa người ta đi từ tình trạng “đám đông” sang tình trạng “môn đệ”.
– kinh sư (52): Cộng đoàn Mt đã có những định chế (“Nhóm Mười Hai”: 10,1; Phêrô: 16,18-19). Dựa theo bản văn ở đây, rất có thể trong lòng cộng đoàn cũng có các “thầy dạy” được gọi là “kinh sư” vì cộng đoàn vẫn tôn trọng cái gốc Do Thái của mình.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Các câu dẫn nhập 31, 33, 44 và 45 của các dụ ngôn Hạt cải, Men, Kho báu và Ngọc quý và cấu trúc các dụ ngôn rất giống nhau.
* Dụ ngôn 1 và 2: Kho báu chôn giấu và Dụ ngôn Ngọc quý (44-46)
Những gì Đức Giêsu kể về việc khám phá ra kho báu và ngọc quý thật đơn giản và rõ ràng. Rất có thể
đây là một người thợ đi cày trong ruộng của người khác và đã khám phá ra một kho tàng gồm các đồng tiền và vật trang sức được chôn trong ruộng. Dĩ nhiên là ông rất vui mừng, vì ông không bao giờ dám mơ tới khối của cải này. Cũng lưu ý là ông tìm ra kho báu không phải như một phần thưởng cho công lao khó nhọc hay do bác ái. Quan trọng là việc ông sẽ làm bây giờ.
Ông sẵn sàng hy sinh tất cả mọi nguyện vọng và dự phóng cũng như mọi lo toan để thủ đắc cho được thửa ruộng. Cách xử sự của nhân vật này không lương thiện về mặt luân lý, nhưng điều này không làm tác giả bài dụ ngôn phải bận tâm. Đức Giêsu kể lại một hoạt cảnh của đời thường, như sau này Người kể truyện người quản lý bất lương, những người làm vườn nho sát nhân: Người không nhắm tới tính luân lý. Điều này ta thấy rõ nơi truyện người đi săn ngọc quý: không hề có bận tâm gì đến tính luân lý. Trong cả hai trường hợp (khám phá kho báu và tìm được viên ngọc quý), vấn đề được đề cập là khám phá ra và nhận biết ý nghĩa của một thứ có giá trị lớn lao và tuyệt mỹ, và đây là chuyện một người hết sức vui sướng hy sinh tất cả những lợi lộc và vận dụng mọi phương tiện mà thủ đắc một điều gì; “ông bán tất cả những gì mình có” (cc. 44.46). Điểm nhắm của tác giả các dụ ngôn là điểm ấy. Đấy chính là Nước Trời; Nước Trời cao trọng hơn bất cứ tài sản nào.
Trong sứ điệp về Nước Trời, Đức Giêsu loan báo rằng Thiên Chúa Cha đứng về phía chúng ta. Với quyền năng trổi vượt của Ngài, Chúa Cha là Chúa tể độc nhất, Ngài nắm mọi sự trong tay. Mặc dù thế giới đang có những vô trật tự, những sự dữ và những tai họa, Ngài vẫn tốt lành với tất cả chúng ta và muốn ban cho chúng ta được thành công trọn vẹn và hạnh phúc viên mãn trong sự hiệp thông với Ngài. Thực tại này trước tiên phải được khám phá ra và hiểu đúng. Thực tại này chính là một kho báu được chôn giấu; tự nó, nó không buộc ai nhận biết nó cả. Có nhiều thứ khác lôi cuốn hơn nhiều, dường như quan trọng và hứa hẹn hơn nhiều. Chúng ta phải mở lòng mình ra và để mình bị chinh phục bởi sự kiện Thiên Chúa, tình yêu của Ngài đối với chúng ta và sự hiệp thông của chúng ta với Ngài có một giá trị vô song và không bao giờ bị vượt quá. Với sự hiểu biết này, niềm vui gia tăng và đồng thời cũng gia tăng ước muốn được đi vào làm chủ một giá trị như thế.
Kho báu ấy không phải là phần thưởng cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể thủ đắc nó bằng cách vận dụng tất cả sức lực chúng ta. Không phải để tự nhiên mà có sự kiện chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Có biết bao ước muốn, mục tiêu, giá trị, nhiệm vụ trong đời sống chúng ta, nhưng chúng ta phải đặt chúng đàng sau để thuộc về Thiên Chúa. Trên tất cả mọi sự, cần phải có sự quy hướng về Thiên Chúa, liên kết với Ngài và chịu trách nhiệm trước mặt Ngài. Tất cả các giá trị khác, như gia đình, nghề nghiệp, địa vị xã hội, của cải, tiện nghi, sức khỏe, lợi lộc, những thú vui… không phải là những giá trị và tiêu chuẩn tối hậu, nhưng phải được đưa vào trong dây liên kết với Thiên Chúa và được cứu xét trước nhan Ngài và theo ý muốn của Ngài. Tất cả tùy thuộc việc thuộc về Thiên Chúa, mà chúng ta chỉ thuộc về Thiên Chúa nhờ luôn ý thức sống trước nhan Ngài. Càng hiểu giá trị của việc thuộc về Thiên Chúa, ta càng sống vui, cho dù có những mệt nhọc, bề bộn với công việc và phải từ bỏ nhiều điều.
* Dụ ngôn 3: Chiếc lưới và Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (47-50)
Dụ ngôn Chiếc lưới song song với dụ ngôn Lúa tốt vả Cỏ lùng (cc. 24-30.36-43), và nêu lên cũng những vấn đề như nhau. Trong dụ ngôn trước, “cánh đồng” tượng trưng Nước Trời; trong dụ ngôn sau là “chiếc lưới”.
Tại hồ Ghennêxarét, có hơn hai mươi loại cá. Bao lâu cá còn ở trong hồ hoặc ở trong lưới, chúng bơi loạn xạ, lớn nhỏ lẫn lộn, có thứ cá ăn được, có thứ không. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng luôn luôn như thế. Khi lưới được kéo lên bờ, các người dân chài ngồi lựa: cá tốt thì được gom lại, cá xấu thì bị quăng đi. Tư thế “ngồi” của các dân chài có thể khiến nhớ tới tư thế “ngồi” Con Người thẩm phán thế gian (19,28; 25,31; 26,64). Các tính từ “tốt” (kalos) và “xấu” (sapros, “vô ích”) khiến ta nhớ tới hình ảnh các cây với trái của chúng (x. 7,16-20; 12,33), hiểu là các việc làm hoặc lời nói. Bằng dụ ngôn này, Đức Giêsu lại hướng mắt nhìn về cuộc phán xét cuối cùng và về số phận hoàn toàn khác nhau của người tốt và người xấu. Ở đây, trên mặt đất này, dường như chúng ta có quan tâm đến Thiên Chúa hay không, cũng không quan trọng gì; giữa người tốt và người xấu, không hề có sự phân biệt nào. Dường như tốt xấu cũng như nhau. Cộng đoàn Kitô hữu, tượng trưng Nước Trời, là một cộng đoàn đa tạp. Nhưng Đức Giêsu lưu ý chúng ta: Anh em đừng để mình bị lừa! Anh em đừng tưởng rằng mọi sự sẽ cứ như thế mãi! Anh em hãy biết chắc rằng sẽ có một cuộc phân biệt rõ ràng, nên hãy sống hôm nay thế nào để khi đến cuối, anh em được Thiên Chúa đón nhận!
Thật ra, việc Người giảng dạy đã là một tiên báo về phán xét: Người đang ở tại “hồ” (13,1-2), có một đám đông “đã tụ họp lại” (“gom cá”) trên bờ, trong khi Đức Giêsu “ngồi” trên thuyền và nói bằng dụ ngôn. Lời nói của Người đã gây ra sự phân biệt giữa dân chúng và các môn đệ. Cuộc phân biệt này báo trước cuộc phán xét sau này. Những gì Đức Giêsu đã gây ra lúc này sẽ được lặp lại vào ngày phán xét.
Kết luận dụ ngôn Chiếc lưới, tác giả TM I nêu lên một chi tiết tương tự trong dụ ngôn Cỏ lùng: “các thiên sứ sẽ … quăng kẻ xấu vào lò lửa” (x. 13,31). Các Kitô hữu đang đau khổ vì sự hiện diện của những kẻ xấu, tác giả an ủi họ bằng cách cho biết rằng cuộc phán xét cánh chung đã gần kề; cuộc phán xét này sẽ tái lập thế quân bình cho cuộc sống của họ.
* Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (51-52)
Dụ ngôn Vị kinh sư này là một câu trả lời cho câu hỏi và lời xin của các môn đệ (cc. 10.36). Họ là những người đã hiểu sứ điệp hàm chứa trong bài giảng của Đức Giêsu. “Hiểu” không chỉ có nghĩa là “nắm được ý nghĩa” mà còn là “chấp nhận”, “làm cho nên hiện thực trong đời sống mình”. Nếu đúng như thế, các môn đệ đã trở thành những người thực sự bước theo Đức Giêsu, họ đã là “con cái Nước Trời” (c. 38). Do đó, họ cũng là những kinh sư mới, những thầy dạy mới trong Nước Trời. Kinh sư Kitô hữu đề nghị cả các chân lý cũ (palaia) lẫn các chân lý mới (kaina) trong giáo huấn của mình. Cũng rất có thể đây là cách tác giả tự giới thiệu về mình.
+ Kết luận
Tất cả các dụ ngôn đều nói với chúng ta về Nước Trời. Chúng đều ưu tiên mạc khải về Đức Giêsu, là biến cố trung tâm của lịch sử, biến cố đánh dấu cuộc gặp gỡ chung kết giữa trời với đất: nơi Đức Giêsu, Nước Trời vĩnh viễn đến gần con người. Các bài dụ ngôn cũng cho thấy rằng việc từ bỏ theo Tin Mừng không phải là phương tiện để đạt tới Nước Trời, nhưng là hậu quả của việc khám phá ra Nước Trời.
Sự lộn xộn và rối loạn thật đáng kể. Có biết bao giá trị và mục tiêu xuất hiện ra như là quan trọng và hứa hẹn cho ta được hạnh phúc. Đức Giêsu đánh tan mây mù và làm sáng tỏ. Người cho thấy điều gì là quan trọng, chúng ta phải vận dụng sức lực quá giới hạn của mình vào chuyện gì. Điều quan trọng là luôn luôn sống với tinh thần trách nhiệm và đặt quan hệ với Thiên Chúa tại trung tâm đời ta. Như thế, chúng ta có thể nhìn về kết cuộc không hề nao núng.
5.- Gợi ý suy niệm
DỤ NGÔN KHO TÀNG, VIÊN NGỌC, LƯỚI CÁ
CHÚ GIẢI CHI TIẾT.
“Về Nước Trời thì cũng giống như một kho báu”: Không phải là Nước Trời được so sánh với một kho báu, nhưng điều xảy ra khi một người tìm thấy kho báu được so sánh với điều xảy ra (hay phải xảy ra) khi một người khám phá Nước Trời.
“Người kia gặp thấy”: Câu chuyện thật quá giản dị. Kho báu này không phải là vật do tổ tiên để lại hay phải tìm kiếm một cách gian khổ khó khăn; nó được chôn dấu, nhưng chẳng phải là ở một nơi nào hiểm trở, kẻ đến đầu tiên có thể bắt gặp được. Như Nước Trời trong con người Chúa Giêsu, kho báu đang nằm đấy, trước mặt con người không chủ ý tìm kiếm này. Nhưng một khi khám phá ra, tự nhiên anh ta bỏ rơi mọi điều khác. Sự từ bỏ theo tinh thần Tin Mừng không phải là phương thế để đạt đến Nước Trời, nhưng là hậu quả của việc khám phá Nước đó.
“Anh đi bán tất cả những gì anh có”: Anh làm một công việc mà chẳng người lân cận nào trông thấy mà không thắc mắc. Anh bán tất cả: giá thửa ruộng cao đến độ con người ấy phải phá sản, dĩ nhiên là một gia sản chẳng đáng bao nhiêu, nhưng điều quan trọng không phải là ở chỗ đó mà ở chỗ anh bán hết không để lại tí gì. Chính đấy là điểm mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh trong dụ ngôn của người: Nước Trời là một kho báu đòi ta phải bỏ ra tất cả những gì mình có, kể cả bản thân, để tậu nó cho được.
“Một thương gia rảo tìm ngọc quý”: Có lẽ đừng xem việc người thương gia rảo tìm ngọc quý như là biểu tượng của việc tìm đạo; chẳng qua là ông ta làm nghề buôn bán thôi. Cái mà ông muốn tìm, đó là những viên ngọc đẹp, quý, chứ không phải là những viên ngọc “đắt giá”. Thế mà ông lại bắt gặp một kho báu bất ngờ… Thành thử rốt cuộc dụ ngôn viên ngọc cũng tương tự và có cùng một ý nghĩa như dụ ngôn kho báu.
“Về Nước Trời thì lại còn giống như chiếc lưới”: Như các dụ ngôn trước, phải hiểu Nước Trời không đồng hóa với chiếc lưới (là một phương tiện tạm thời), cũng chẳng với cá bắt được, mà với toàn thể công việc được miêu tả.
“…đã được thả”: Trái với cách dịch của BJ (“người ta thả”) động từ Hy lạp nói rằng lưới đã được thả, và được thả do ơn Chúa (thể thụ động ngụ ý Thiên Chúa là tác giả của hành động; điều này được xác nhận qua sự kiện không có câu nào đề cập đến các ngư phủ).
“Mọi thứ”: Trong văn mạch, điều này muốn nói: Cá tốt lẫn cá xấu, như c. 48 sẽ bảo. Biển Galilê nổi tiếng là có rất nhiều giống cá. Cá “xấu” có lẽ là thứ bị luật Torah cấm ăn (Lv 11, 9-12; Đnl 14, 9-10) hay là quá bé nhỏ.
“Sẽ phân tách kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi quăng chúng vào lò lửa..”. Phải nhận là ở đây chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh tiêu cực của việc lựa lọc. Việc Nước Trời đến cách sung mãn không còn chịu được cảnh vàng thau lẫn lộn như trước nữa, và đòi hỏi phải triệt để loại bỏ kẻ dữ ra khỏi lòng mình. Trong lúc đoạn kết của lời chú giải dụ ngôn cỏ lùng (c. 43) gợi lên vinh quang của các người công chính “sẽ sáng chói như mặt trời trong Nước của Cha họ”, thì nơi đây lại không giống thế. Chắc hẳn một muốn chấm dứt diễn từ dụ ngôn của ông bằng lời cảnh giác có phần nghiêm khắc này, để thúc giục Kitô hữu hãy luôn cẩn thân canh chừng, chứ đừng buông thả.
“Các con có hiểu các điều ấy không? – Có”: Như đã thấy nơi dụ ngôn người gieo giống, động từ hiểu được tác giả Tin Mừng gán cho một tầm quan trọng đặc biệt. Ở đây, qua câu hỏi này, Chúa Giêsu cố ý quy về tất cả những điều Người đã nói với dân chúng bằng dụ ngôn. Câu trả lời là một tiếng tán đồng ngấn ngủi: Có, Ai trả lời? Văn mạch ngụ ý là các môn đồ đã hỏi Chúa Giêsu trước đây (c.36). Nhưng vì không minh nhiên đề cập đến các ông ấy, nên chắc là một muốn ngầm bảo là mọi độc giả Tin Mừng, mọi Kitô hữu phải có trách nhiệm trả lời: chính câu trả lời đó đưa ta từ thân phận “đám đông” đi sang địa vị “môn đồ”.
KẾT LUẬN
Tất cả mọi dụ ngôn đều nói cho ta về Nước Trời; hết thảy chúng đều mặc khải một khía cạnh nào đó và trước hết diễn tả thực tại Chúa Giêsu, biến cố trung tâm của lịch sử và là giao điểm dứt khoát giữa đất và trời: trong Người, Nước Trời đã đến gần nhân loại một lần thay cho tất cả.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Đức Giêsu nói với đám đông các “dụ ngôn” sau đây.
Đức Giêsu như mọi người kể chuyện ở phương Đông, không giảng dạy một cách trừu tượng, người đưa ra những hình ảnh đẹp những từ ngữ chứa đựng những biểu tượng phổ quát mà mọi người có thể hiểu gợi ra nhiều ý nghĩa hơn định nghĩa của các từ ngữ và do đó thường có thể có nhiều cách giải thích khác nhau. Cũng như trong văn nói, những sự lặp lại, những điệp khúc cho phép khắc ghi một bài học vào trong trí nhớ.
Những dụ ngôn của Đức Giêsu, dù được đọc chỉ một lần, không thể nào quên được. Người ta cũng nghĩ rằng Đức Giêsu cũng như những kinh sư của thời đại Người thực tế là đã dạy cho các thính giả của Người thuộc lòng những bản văn ngắn. Nhưng như thế thì rất dễ. Vậy chính các bạn hãy thử lại xem-! Các bạn hãy đọc một dụ ngôn và sau đó đọc lại bằng trí nhớ của mình.
Nước trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
Một “kho báu”! Mỗi người có thể hiểu điều đó theo cách hiểu của mình. Trên khắp trái đất, trong mọi nền văn minh, con người đều có những đồ vật mà họ coi như những “kho báu’: một vật gì đó đáng được ao ước làm người ta thèm muốn, ở Palestin, vào thời của Đức Giêsu, không có nhiều ngân hàng để gởi những món tiết kiệm mà một gia đình dành dụm cho được an toàn. Vậy, người ta chôn món tiền ấy trong một góc của cánh đồng. Và có khi chủ sở hữu chết di mà không thể tiết lộ nơi giấu kho báu cho ai. Khi làm ruộng, một nông dân sau này có thể tình cờ khám phá ra.
Người nào đã khám phá ra… liền chôn giấu lại!
Thái độ này kỳ lạ… kích thích sự tò mò. Người ấy sắp làm gì?
Rồi vui mừng, đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
Rõ ràng đây là cao điểm của bài dụ ngôn mà Đức Giêsu muốn gợi ý cho chúng ta. Các bạn có đồng ý với cách làm đó không? Nếu các bạn gặp được một sự may mắn như thế, một cơ hội tương tự, bạn có làm giống vậy không. Phải, trong đời sống của chúng ta, chúng ta có thể thực hiện những hy sinh to lớn vì một điều mà chúng ta ấp ủ ở trong lòng: các sinh viên làm việc không nghỉ ngơi khi kỳ thi và một kỳ thi tuyển mà họ mơ ước một cách mãnh liệt sắp đến… các vận động viên kiêng cữ đủ thứ để tiến hơn trong bộ môn thi đấu và phá kỷ lục… cha mẹ trong gia đinh hy sinh cho con cái họ… các chính khách trong lãnh vực chính trị và công đoàn bỏ qua các thú vui và sự thư giãn vì chính nghĩa mà họ đang chiến đấu… Đối với Đức Giêsu, Nước Thiên Chúa là một thực tại rất cao quý đến nỗi đáng để hy sinh tất cả, để khám phá, và để sống. Ở đây chúng ta ghi nhận rằng Đức Giêsu nói về “niềm vui chúng ta đoán được niềm vui ngây ngất của Người thấy một kho báu”. Trong sự vui mừng, người ấy bán tất cả những gì mình có…” Đối với Đức Giêsu, sự hy sinh không phải là một việc đau buồn:
Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.
Rõ ràng ở đây có cùng một bài học, với cùng một điệp khúc. Nhưng thêm một khía cạnh quan trọng. Người làm thuê tình cờ khám phá được kho báu… còn người bán kim hoàn “tìm kiếm” như một người sưu tập tìm một món đồ quý hiếm. Chúng ta cũng thế, chúng ta đều đi tìm hạnh phúc. Nhưng, than ôi; nhiều người trong chúng ta đã lầm lẫn khi tìm những hạnh phúc không giá trị gì, những viên ngọc giả cũng sáng như những viên ngọc thật, nhưng không giá trị như những viên ngọc thật… và chỉ đánh lừa người dốt nát… Đức Giêsu, Người biết hạnh phúc thật của chúng ta là gì. Người đề nghị chúng ta phải trả giá và phải làm tất cả để có được hạnh phúc ấy. Không có niềm vui chân thật và lâu dài bên ngoài sự hiệp nhất với Thiên Chúa… điều mà Người: gọi là Nước Trời!
Để sống hạnh phúc vô giá, tuyệt vời ấy, hãy mua cho được viên ngọc đó… phải làm gì đây?
Ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.
Chúng ta hãy thử tưởng tượng trong thực tế cảnh tượng mà Đức Giêsu kể lại. Xung quanh con người “bán tất cả những gì mình có”, hẳn người ta phải nói: “Thằng cha này điên! Vậy sao? Chính vì những người khác không biết. Khi bán tất cả tài sản của mình, người ấy biết rằng mình không mất gì cả… bởi vì người ấy biết giá trị của viên ngọc! Và tôi cố tưởng tượng Đức Giêsu đang kể lại câu chuyện lôi cuốn này. Không chút lưỡng lợ. Đức Giêsu quả là con người có những quyết định cao cả, có vẻ điên rồ. Trong thực tế Người đã cho tất cả, đã đặt vào đó cái giá tối đa. Ngày hôm nay, thật là tốt đẹp khi có những con người, nam cũng như nữ nghe được tiếng gọi “hiến dâng tất cả” một cách triệt để lập tức thánh hiến cả cuộc đời mình cho Nước Trời qua đời sống linh mục và tu trì.
Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài.
Đức Giêsu có lẽ đang nói về các thủy thủ ở bờ hồ Tibêria. Người nói về Thiên Chúa xuyên qua ngôn ngữ và những hoàn cảnh người ta đang sống. Đó là một biểu mẫu tốt nhất cho những cách dạy giáo lý về mầu nhiệm của Thiên Chúa, nếu chúng ta cũng quan tâm một cách cụ thể đến cuộc sống hàng ngày của anh em.
Nước Trời! Matthêu sử dụng công thức này để tránh nói ra từ ngữ về Thiên Chúa đối với dân Do Thái. Cách diễn tả này cũng có ý nghĩa như “Nước” của những con người hoàn hảo về mọi phương diện, là một sự quy tụ đủ mọi hạng người… tốt và ít tốt hơn! Chúng ta đã thấy tư tưởng này có trong dụ ngôn cỏ lùng và lúa mì: Thiên Chúa nhẫn nại chờ đợi những kẻ tội lỗi và… cho họ có thời gian.
Trước hết, Thiên Chúa chịu đựng tôi và cho tôi một thời gian. Nhưng hãy coi chừng! Sự nhẫn nại của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi không thể được giải thích như một sự “bỏ mặc” khiến chúng ta sống thụ động, sống chờ thời và sống dửng dưng. Chúng ta hãy nghe phần tiếp theo…
Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính rồi quăng chúng vào lò lửa, ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Một lời cảnh báo hết sức nặng nề! Lòng nhân từ của Thiên Chúa không phải là sự đồng lõa với điều xấu. Vừa rồi, Đức Giêsu nói về niềm vui! Giờ đây Người nói về khóc lóc và nghiến răng… sáu lần công thức đe dọa này trở lại trong Matthêu (8,12; 13,12; 13,50; 22,13; 24,51; 25,50). Chúng ta thường có xu hướng quên rằng sẽ có một sự phán xét. Thái độ của chúng ta không trung lập: chúng chuẩn bị cho sự sống vĩnh cửu của chúng ta, Đức Giêsu nói. Và chúng ta phải mau lẹ hoán cải. Bởi sự nghiêm khắc này, Đức Giêsu muốn thức tỉnh chúng ta.
Không có gì là sự thích thú đày đọa trong những công thức ấy nhưng là tình yêu của một người sáng suốt muốn làm cho ta hiểu rõ cái được cái mất của đời sống. Khi bác sĩ phẫu thuật đưa con dao mổ vào vết thương mưng mủ, đó không phải vì ông dữ tợn mà vì ông muốn cứu người bệnh. Ngay cả khi dùng đến ngôn ngữ khải huyền (“khóc lóc và nghiến răng” là một phần của văn phong thời đại đó) rõ ràng là Đức Giêsu muốn tạo ra trong chúng ta một cú sốc sinh ơn cứu độ.
Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?
Thiên Chúa không áp đặt. Người tra hỏi chúng ta. Người tôn trọng tự do của chúng ta. Nhưng Người hỏi chúng ta “hiểu” không? Anh em có hiểu không? Từ “hiểu” là một từ được Matthêu lặp lại: Mt 12,7; 13,13; 13,14-15-19-23-51; 15,10-17; 16,9-11-12; 17,13; 19,11-12;21,45-46; 24,15-32-33-43. Đây là câu hỏi nền tảng.
Chẳng phải là trong lòng tôi có nhiều ngõ ngách của cuộc đời mà tôi không muốn hiểu đó sao? Chẳng phải là có những hoàn cảnh mà tôi không muốn đối chiếu với Tin Mừng đó sao? Lạy Chúa, xin thương nhắc con câu hỏi của Người: “Con có hiểu không?”
Họ đáp: “Thưa hiểu”.
Trong sự ngay thẳng, con cũng muốn nói rằng “con hiểu” những dự án của Thiên Chúa trong đời con. Nhưng con xin Chúa sức mạnh để hoàn thành chúng cho đến cùng, cho đến sự lựa chọn cao cả sau cùng, khi Chúa đưa ra ánh sáng “điều gì tốt” và “điều gì không có giá trị” trong cuộc sống.
Người bảo họ: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ”.
Đức Giêsu không khinh thường khoa học của các “kinh sư” các học giả về Luật, cho dù nhiều người trong bọn họ thực ra đã chống lại cái mới của Tin Mừng. Chính Matthêu soạn ra Tin Mừng, ngài tự giới thiệu như một “kinh sư” một người hiểu biết sâu xa Truyền thống của Cựu ước… nhưng có khả năng rút ra từ truyền thống ấy điều mới mẻ!
Dụ ngôn nhỏ này và cũng là sau cùng làm kết luận cho một loạt các dụ ngôn mà chúng ta đọc từ ba Chúa nhật và mang đầy tính thời sự. Cuộc tranh luận của những người theo xưa và theo nay. Sự đối lập giữa những người bảo thủ và những người cấp tiến. Đối với Đức Giêsu, người “theo truyền thống” thật sự không thể chỉ là người lặp lại cứng ngắc. Để không phản bội tư tưởng của Đức Giêsu, phải hiểu biết tư tưởng ấy từ nền văn hóa và ngôn ngữ của thời đại mình và vì thế, làm sáng tỏ tư tưởng ấy và thích ứng nó với thời đại của chúng ta mà vẫn tôn trọng ý nghĩa sâu xa của nó. Đức Giêsu hầu như không mã hóa gì cả. Bởi vì ‘Thiên Chúa là người cùng thời với chúng ta”: Người nói với chúng ta ngày hôm nay. Truyền thống (cái cũ) là chân chính nếu nó sống động, đầy những chồi nụ (cái mới). Cái mới chân chính không hủy hoại truyền thống: đối với những vấn đề mới, nó rút ra những lời giải đáp mới phù hợp. Với sự khôn ngoan của mọi thời đại. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết chú ý đến mọi “cái mới” trong Giáo Hội “cũ xưa” của Chúa. Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn trung tín với Người.
DỤ NGÔN KHO BÁU VÀ NGỌC QUÝ, DỤ NGÔN CHIẾC LƯỚI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Từ hai tuần qua, chúng ta đã khởi sự đọc “Bài giảng bằng dụ ngôn”, với dụ ngôn người gieo giống. Hôm nay chúng kết thúc với những dụ ngôn kho báu và ngọc quí dụ ngôn chiếc lưới và lời kết thúc bài giảng.
Như một cặp, nên hai dụ ngôn kho báu và ngọc quí đều được xây dựng cách cân đối. Không muốn ta chú ý đến những sự vật là kho báu ngọc quí vì cho ta ít giáo huấn- hai dụ ngôn muốn tập trung chú ý của ta vào thái độ ửng xứ của các nhân vật. Việc họ khám phá ra kho báu, viên ngọc chỉ làm nên điều giả sử đã có, sẽ cho phép ta hiểu được ngay cách hành xử mà hai người đã chọn.
+ Người thứ nhất là một người làm công nhật, cầy ruộng của một người khác, tình cờ trong lúc làm ruộng, anh gặp thấy chôn giấu miếng đất một kho báu. Một kho báu mà theo con mắt của anh là vô giá, nên anh liền “đi bán tất cả những gì có là mua thửa ruộng ấy”.
+ Người thứ hai là một thương gia buôn bán ngọc quý. Tình cờ trong khi chạy hàng anh đã tìm được một viên ngọc thượng thặng, liền bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy”.
Cả hai đều không muốn bỏ lỡ cơ hội có một không hai, không muốn để cho vận may của cuộc đời qua mất, và vì thế họ hành động. Lời đáp trả cho sứ điệp Tin Mừng về Nước Chúa, như J. Dupont chú giải, có thể khác nhau tuỳ theo hoàn cảnh và ơn gọi của mỗi cá nhân; nhưng không làm tất cả những gì cần thiết để được vào Nước Chúa, không lợi dụng vận may hiếm có đưa đến, đó là tỏ ra một thái độ khờ dại không thể tha thứ được. Chẳng có gì là phải trả giá quá đắt đối với -sự thiện có được: lấy tất cả những gì ta có, đem tất cả con người của mình để đặt cọc cho sự thiện này, đó chính là việc mua bán tuyệt vời. Đã cam kết trọn vẹn, lẽ nào lại keo kiệt, đắn đo? Hiểu như vậy, ta mới thấy hai dụ ngôn khó ăn ý với nhau để minh hoạ cho lời rao giảng ban đầu của Chúa Giêsu: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17) (cf. Assemblées du Seigneur, số 48, trang 20).
Tiếp theo là dụ ngôn chiết lưới, đúng hơn là lưới vét: một loài lưới để là, hoặc là được kéo đi nhờ hai thuyền, hoặc được một thuyền đánh cá bố trí, rồi dòng giây dài vào bờ mà kéo đi.
+ Rất gần gũi với dụ ngôn cỏ lùng và hạt giống tốt, dụ ngôn thứ bảy và cũng là dụ ngôn cuối cùng này đưa chúng ta gặp lại biển, bờ biển cùng những người ngồi trên bờ lúc Chúa bắt đầu giảng (Phúc âm Chúa nhật thứ XV). J. Dupont giải thích: “Đức Giêsu loan báo việc Nước Chúa đến là điều sắp xảy ra. Thế nên mọi người biết rằng việc đến này phải bắt đầu bằng một cuộc tẩy rửa lớn lao… Bởi vậy, người ta chờ đợi xem Đức Giêsu bắt đầu cuộc thanh tẩy: luận phạt kẻ có tội, qui tụ người công chính chung quanh Người. Nhưng sứ vụ của Đức Giêsu lại chẳng tương xứng chút nào với sự mong chờ đợi này… Đức Giêsu phải tự giải thích. Người thực hiện điều này bằng nhiều cách khác nhau: Sứ mệnh của Người liên can tới những người tội lỗi mà Chúa muốn cho họ được cứu độ (Mt 20,1-15; Lc 15); làm cho giờ xét xử đến trước thời gian, việc đó không thuộc quyền Người… Thiên Chúa xử sự không khác với các ngư phủ; họ gom tất cả vào lưới rồi mới tiến hành việc lựa chọn. Bởi vậy lòng nhân từ yêu thương Đức Giêsu tỏ ra đối với những người tội lỗi không được là căn cớ gây nên xì-căng-đan: trong viễn ảnh ngày cánh chung khi mà Thiên Chúa ra tay can thiệp, thì sứ vụ của Đức Giêsu được coi là giai đoạn một, giai đoạn mà lưới được đầy cá đủ loại. Thời điểm tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính hãy còn chưa tới. Nhưng sẽ tới, đó là điều chắc (O.C., trang 22-23).
+ Lời giải thích tiếp theo ngay dụ ngôn này rõ ràng có một sự chuyển hướng tầm nhìn. Trong dụ ngôn, Đức Giêsu có ý cắt nghĩa tình trạng hiện hành là việc trà trộn người tốt với kẻ xấu. Còn cách giải thích của Phúc âm thứ nhất thì nhấn mạnh đến sự trừng phạt sẽ giáng xuống những kẻ có tội vào ngày tận thế, vào giờ sẽ thực hiện sự lựa chọn. J. Dupont kết luận: “Trong lời cảnh giác nghiên nhặt này, người ta nhận thấy mối bận tâm có tính huấn giáo của thánh sử. Ngài lo lắng vì thấy có biết bao tín hữu mà nơi họ lời Chúa vẫn trơ trơ không sinh kết qủa gì” (O.C. trang 24).
BÀI ĐỌC THÊM:
Bằng hai dụ ngôn nhỏ này. Đức Giêsu gợi ý rằng nước Trời là giá trị tuyệt đối không thể đem ra so sánh được với cái gì khác. Mọi sự còn lại đều mờ nhạt khi ta nhận thức được Nước Trời là gì và cao quý thế nào. Nhân vật trong dụ ngôn như bị thôi miên, bị choáng ngợp vì sự khám phá của mình, từ nay trở đi chỉ có một cái đó là đáng kể đối với anh mà thôi. Và để cái đáng kể đó trở thành của mình, anh sẵn sàng rũ bỏ mọi sự. Đức Giêsu chỉ cho thấy chỉ có một thực tại đáng kể chính là Thiên Chúa, Đấng mà ta phải loại trừ và hy sinh tất cả mọi sự khác ở trần gian này để mà chiếm lấy”.
Vì thế phải nhìn Kitô giáo trong sự thực sâu xa của nó. Không phải là tôn giáo chủ trương tìm kiếm đau khổ hay cam chịu đau khổ, không phải là tôn giáo sùng bái những hy sinh và từ bỏ chỉ vì phải từ bỏ, hy sinh. Đức tin mới là trường học được ưa chuộng nhất và hấp dẫn, là bước dẫn đến kho báu đích thực làm cho cuộc sống và trọn vẹn cuộc sống được phong phú. Sứ điệp và giáo huấn của Đức Kitô là Tin Mừng chân lý và hạnh phúc.
Đối diện với kho báu, chúng ta bị dồn vào thế phải chọn lựa và chọn lựa ngay không tên hoãn: bán đi để có được, từ bỏ để chiếm hữu, khước từ để được tự do. Chắc chắn là phải khởi sự đi tìm và tìm cho được, bởi lẽ tài sản quý giá vô cùng này, viên ngọc vô giá kia được chôn giấu trong đất mà chúng ta vẫn dằm lên mỗi ngày. Kho báu và viên ngọc quý ấy hoà trộn vào cái làm nên sinh hoạt đời thường của ta. Bởi vậy ta có thể đến gần nó mà không biết, xéo lên chúng mà lại vô tình. Vì thế ta phải biết chú ý đến “những dấu chỉ của thời đại”, những tiếng gọi bí ẩn vang dội lên mỗi ngày và trong mọi trường hợp. Bị loá mắt nếu không muốn nói là mù quáng bởi ánh sáng của những của cải phù vân giả dối, chúng ta có nguy cơ bỏ qua “chiếc đồng hồ vàng” và lạc đường khi đuổi theo những ảo ảnh. Bí tích Thánh Thể là phút dừng chân đặc biệt trong cuộc săn đuổi tìm kiếm kho báu. Hãy mượn lời ca của thánh vịnh để hát lên: “Niềm hy vọng của con, chính là lời Chúa! Nhờ để tâm lắng nghe Lời khôn ngoan, lòng ta “bừng cháy”. Việc khám phá ra tài sản quý giá không xa. Nhưng liệu ta có đủ tin tưởng và lòng tin để bán đi những gì ta có hầu mua lấy viên ngọc quí hoặc thửa ruộng có kho báu ấy chăng?
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay thúc dục chúng ta hãy tìm kiếm sự khôn ngoan. Vua Salomon trong bài đọc 1 đã không xin Chúa điều gì khác ngoài sự khôn ngoan. Lời cầu xin ấy làm đẹp lòng Chúa, nên Salomon đã được như ý và Chúa cho ông trở thành người khôn ngoan nhất trên đời.
Dụ ngôn kho tàng và viên ngọc qúi trong bài Tin mừng cũng nhắc cho chúng ta phải đi tìm kiếm sự khôn ngoan. Hai người tìm được kho tàng và viên ngọc qúi tỏ ra khôn ngoan, sẵn sàng bán hết của cải để mua cho được hai thứ đó. Người Kitô hữu đã được biết Chúa Giêsu, là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa, đã lãnh nhận được đức tin thì phải dứt bỏ tất cả để chiếm hữu cho được của qúi giá ấy, mặc dầu phải hy sinh.
Đức tin là một kho tàng vô giá, nó đem đến cho chúng ta sự sống vĩnh cửu và sự sống bất tận của Thiên Chúa. Chính nhờ Đức tin chúng ta chiếm hữu được Thiên Chúa là nguồn mọi sự thiện hảo. “Đức tin cho ta biết liên hệ giữa đời này và đời sau, giữa người ta và Thiên Chúa. Với Đức tin ta được đón nhận ánh sáng siêu nhiên để nhận biết ở trong ta những khả thể mà đến nay ta không biết. Đức tin đổi mới cái nhìn của ta về Thiên Chúa, về vũ trụ và về chính chúng ta. Nó làm cho ta có cái nhìn siêu việt của Thiên Chúa” (Lm Thân văn Tường trong tập “Đối diện với Chúa”).
+ Bài đọc 1: 1V 33,5.7-12.
Bài đọc 1 cho chúng ta biết Salomôn là ông vua sáng chói nhất trong Cựu ước và của riêng dân Israel. Vị vua này lúc 20 tuổi lên kế vị cha là vua Đavít vào năm 960 trước công nguyên. Salomôn đến Gabaon và cầu nguyện. Trong khi cầu nguyện, Thiên Chúa hiện ra và bảo:”Ngươi muốn xin gì thì hãy xin và Ta sẽ ban cho”. Salomon không xin sống lâu, được giầu có, tiêu diệt quân thù mà lại xin được ơn khôn ngoan để biết suy xét và lãnh đạo dân chúng. Thiên Chúa khen ông và ban cho sự khôn ngoan, đến nỗi sau này trong lịch sử, ông được mang tên là “Ông Vua Khôn Ngoan”. Sự khôn ngoan biến thành từ ngữ “Khôn ngoan như vua Salomôn”.
Nhưng bất hạnh thay, lúc về già, vua Salomôn thay tính đổi nết, đã trở nên dại dột, đã làm những điều ngang trái và đây là cả một sự tai hại lớn cho Israel.
+ Bài đọc 2: Rm 8,28-30.
Trong thư gửi cho tín hữu Rôma, thánh Phaolô đã đề cập đến ơn “Tiền định”. Theo đó, tiền định đây chỉ có nghĩa là ngay từ trước khi tạo thành thế giới, Thiên Chúa đã định cho loài người nên con cái của Người, theo hình ảnh Con của Người, Đấng đã trở nên người Anh Cả của một đàn em đông đúc.
Đối với những người được Thiên Chúa thương yêu thì:
– Người giúp họ được sự lành,
– Người kêu gọi họ nên thánh,
– Người kêu gọi họ và sẽ cho họ được vinh quang.
+ Bài Tin mừng: Mt 13,44-52.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra ba dụ ngôn để khuyến khích thính giả hy sinh tất cả, không do dự, để sở hữu được Nước Trời.
Hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc qúi dạy chúng ta rằng Nước Trời là một thứ qúi giá nhất, đối tượng của mọi nỗ lực tìm kiếm của ta, đáng cho mọi người bán đi tất cả để mua lấy.
Dụ ngôn mẻ lưới kéo nhiều cá từ biển lên cũng cùng một ý nghĩa với dụ ngôn lúa và cỏ lùng của tuần trước. Dụ ngôn nhắc cho chúng ta: trong Nước Trời có người tốt kẻ xấu sống lẫn lộn. Thiên Chúa chỉ phân xử trong ngày tận thế để lựa lọc: kẻ tốt sẽ được thuởng, còn kẻ xấu sẽ bị phạt trong lửa đời dời.
Hãy tìm kiếm sự khôn ngoan.
Người ta thường nói:”Khôn sống mống chết”(Tục ngữ) hay “Khôn sống bống chết”, nghĩa là khôn ngoan thì sống, dại dột đần độn thì chết. Tục ngữ “khôn sống mống chết” dùng nói về việc ở đời, nếu biết cách lo liệu, tính toán làm ăn, cư xử thì mọi việc đều đạt được đời sống khá giả. Ngược lại, sẽ lâm vào cảnh thất bại, khổ sở.
Trong đời sống thiêng liêng, người Kitô hữu cũng phải biết khôn ngoan lo cho tương lai của mình. Đời sống mai hậu hoàn toàn tùy thuộc ở nơi mình: được hạnh phúc vĩnh cửu hay trầm luân đời đời. Nước Trời là đối tượng của mọi sinh hoạt nơi trần thế, nhiều khi phải từ bỏ tất cả để chiếm hữu được Nước Trời, vì Nước Trời chỉ có thể chiếm được bằng sức mạnh (Regnum coelorum vim patitur). Theo Kinh thánh thì “Đầu mối sự Khôn ngoan là lòng kính sợ Chúa”.
Dụ ngôn Nước Trời giống như kho báu chôn trong ruộng có vẻ hơi lạ đối với một số người, nhưng lại hoàn toàn tự nhiên đối với dân chúng ở Palestine. Trong thời Chúa Giêsu và cả ngày nay nó cũng vẽ ra bức tranh mà dân ở Đông phương đều biết cả.
Người thường dân hay cất giấu tài sản qúi giá nhất dưới đất, xem đó là nơi an toàn. Trong dụ ngôn về các nén bạc, người đầy tớ không trung tín chôn giấu nén bạc mình dưới đất để khỏi mất (Mt 25,25) đều nói lên thói quen đó. Ở Việt nam chúng ta thỉnh thoảng cũng có người tình cờ đào được chum vàng hay những vật qúi giá chôn dưới đất từ lâu mà nay đã mất chủ.
Truyện: Kho tàng ở Sidon.
Thompson trong quyển “Xứ thánh và Kinh thánh” xuất bản đầu tiên năm 1876 kể lại một trường hợp chính ông đã chứng kiến một kho tàng ở Sidon. Trong thành phố đó có một đại lộ nổi tiếng có trồng cây, một số công nhân đang đào xới trong một khu vườn trên đại lộ đã khám phá ra nhiều hũ bằng đồng chứa đầy những đồng tiền vàng. Họ có ý giữ kín chuyện khám phá này, nhưng vì họ đông và vì quá mừng nên chuyện lộ ra và chính quyền địa phương sung công kho tàng ấy. Đó là kho tàng của Alexandre đại đế và phụ hoàng Philipphê. Thompson cho rằng khi Alexandre bất ngờ qua đời ở Babylon và tin này đến Sidon thì một số viên chức chính quyền đã chôn giấu số tiền này với ý định chiếm đoạt chúng trong cuộc khủng hoảng sau cái chết của Alexandre.
Cả ba dụ ngôn này có ý nói rằng Chúa muốn dạy chúng ta phải là người khôn ngoan chân chính, là người biết đi tìm Nước Chúa, biết lo phần rỗi linh hồn mình, lo việc Chúa trước đã. Nói thế không phải là không lo đến đời sống vật chất, đời sống gia đình. Chúng ta phải lo việc Chúa trước đã “Mọi sự khác Chúa sẽ ban cho sau”.
Nếu nói về chuyện” khôn dại dại khôn” thì chúng ta hãy nói đến chuyện vua Salômôn. Vua Salômôn xem ra “dại” nhưng thực ra lại quá “khôn”. Chúa đã bảo:”Ngươi muốn gì cứ xin, Ta sẽ ban cho ngươi”. Ông dại quá, không xin giầu có, không xin sống lâu, không xin một thế lực hùng mạnh… mà lại xin khôn ngoan. Tuy nhiên, thực ra ông quá khôn, bởi vì Khôn ngoan là nền tảng và nguồn gốc của mọi thứ khác: nhờ khôn ngoan nên sau đó ông giầu có, triều đình ông vững bền, đất nước ông giầu mạnh… và nhất là ông được Thiên Chúa che chở bảo vệ.
Thi sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm, sau khi đã chán ngán với đường danh vọng, và bị ảnh hưởng triết lý “vô vi” của Lão Tử đã về ở ẩn. Ông đã nói lên cái “triết lý dại khôn” của ông trong một bài thơ:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người tìm chốn lao xao.
(Nguyễn bỉnh Khiêm)
Ở đời, có những người khôn mà không ngoan, có người ngoan mà không khôn. Có những người khôn vặt, khôn láu cá, khôn lỏi, cái khôn mà Thánh Kinh gọi là sự Khôn ngoan của con cái tối tăm. Nghĩa là chỉ biết khôn ngoan trong việc trần thế vật chất, tội lỗi, mà không có một chút khôn ngoan trong sự sáng, biết phân biệt lành dữ, biết lo phần rỗi. Chúa phán:”Được mọi sự thế gian, nghĩa là khôn ngoan nơi trần thế mà mất linh hồn thì nào được ích gì “? Vì thế người ta mới nói:
Khôn thế gian làm quan địa ngục,
Dại thế gian làm quan thiên đàng.
Muốn có sự khôn ngoan, con người phải dùng đến lý trí và lương tâm trong sáng mới đạt được, nghĩa là đừng để cho vật dục lôi kéo, trấn áp, làm cho tâm trí trở nên mê muội. Có những người học thức cao, bằng cấp đầy mình mà hành động hết sức thiếu khôn ngoan. Trường hợp của vua Salômôn cũng nói lên điều đó. Salômôn là vị vua khôn ngoan nhất trần gian, sáng tác được những câu châm ngôn tuyệt vời, không ai sánh bằng, nhưng khi về già đã đổi tính đổi nết, kết hôn với những người đàn bà ngoại đạo, đưa các thần ngoại vào trong triều đình, khiến nhà vua mất khôn ngoan sáng suốt, làm những việc ngu xuẩn khác với thời trước.
Truyện: Ngọc bích họ Hòa.
Nước Sở có người họ Hòa, được một hòn ngọc ở trong núi, đem dâng vua Lệ Vương. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói:”Đá, không phải ngọc”. Vua cho người họ Hoà là nói dối, sai chặt chân trái.
Đến khi vua Vũ Vương nối ngôi, người họ Hòa lại đem ngọc ấy dâng. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói:”Đá, không phải ngọc”. Vua lại cho họ Hòa là nói dối, sai chặt nốt chân phải.
Đến khi vua Văn Vương lên ngôi, người họ Hòa ôm hòn ngọc, khóc ở chân núi Sở-sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy máu mắt ra. Vua thấy thế, sai người đến hỏi. Người họ Hoà thưa:”Tôi khóc không phải là thương hai chân tôi bị chặt, chỉ thương về nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho là nói dối”. Vua bèn sai người xem lại cho rõ kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên gọi là “Ngọc bích họ Hòa”.
(Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, tr 144)
III. CÁCH HÀNH XỬ CỦA TA.
Trong cuộc đời có nhiều sự chọn lựa. Quyền chọn lựa là do mỗi người và mỗi người phải nhận lấy hậu quả của sự chọn lựa ấy. Không một chọn lựa nào có thể hoàn toàn bảo đảm cho tương lai, nên con người luôn bị day dứt về sự lựa chọn: bởi vì có người lựa chọn trong sự khôn ngoan sáng suốt, có người lựa chọn trong sự u tối mờ mịt. Nhưng riêng trong việc lựa chọn Nước Trời luôn là một sự lựa chọn khôn ngoan, một chọn lựa đúng hướng. Muốn lựa chọn Nước Trời, chúng ta phải có thái độ can đảm, dám hy sinh tất cả, dám gạt bỏ mọi trở ngại trong việc tìm kiếm, dám nhận lấy cái nhãn hiệu là “người dại, người khờ”
Hai người trong bài Tin mừng hôm nay rất khôn ngoan: người thứ nhất khám phá một kho tàng giấu trong một thửa ruộng. Anh vội về nhà bán hết tài sản rồi trở lại mua thửa ruộng đó. Người thứ hai thấy được một viên ngọc qúy, cũng về nhà bán hết tài sản để trở lại mua viên ngọc qúy đó. Ai trong chúng ta khám phá một kho tàng hay một viên ngọc qúy mà không làm như hai người ấy! Đương nhiên chúng ta sẽ làm như họ thôi. Chúng ta dám bỏ tất cả vì chúng ta biết mình sẽ được lại cái còn qúi giá hơn nhiều.
Truyện: Cách bắt khỉ.
Muốn bắt khỉ, người ta cho quả táo vào cái ống to, miệng nhỏ, chỉ để vừa tay con khỉ thò vào, đầu kia gắn vào gốc cây, rồi người ta ngồi rình chờ. Khỉ đến thấy quả táo ngon thì thò tay vào lấy luôn nhưng không rút tay ra được vì vướng miệng ống. Muốn rút tay ra được thì phải buông quả táo ra. Nhưng con khỉ không biết buông quả táo ra mà cứ nắm chặt lấy nó mà la hét. Người ta đến bắt dễ dàng.
Con khỉ thật dại dột, không biết buông quả táo ra để có thể rút bàn ta ra khỏi ống mà cứ khư khư giữ lấy quả táo thì không bao giờ có thể rút tay ra được. Con khỉ không biết bỏ cái nhỏ mà chọn lấy cái lớn, không biết bỏ quả táo đi mà giữ lấy bản thân.
Chúng ta đôi lúc cũng hành động như vậy. Chúng ta muốn thờ Thiên Chúa vừa muốn thờ thần Mammon, trong khi đó Chúa đã nhắc nhở:”Không ai có thể làm tôi hai chủ”. Bao lâu chúng ta còn hành động theo kiểu “bắt cá hai tay” thì không bao giờ thành công, phải chọn một trong hai.
Muốn vào Nước Trời thì phải hy sinh, phải từ bỏ những gì làm cản trở:”Không phải cứ kêu Lạy Chúa, Lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo ý Cha trên trời”. bởi vì Nươc Trời chỉ có thể chiếm được bằng sức mạnh, sức mạnh tinh thần (regnum coelorum vim patitur). Chúng ta dám bỏ tất cả để được một kho tàng, để chiếm được một viên ngọc qúi. Tại sao chúng ta không dám bỏ tất cả để chiếm hữu được Nước Trời.
Hình ảnh chiếc lưới vét hết mọi loại cá thường được dùng chỉ ngày tận thế, ngày cuối cùng của lịch sử (x.Lc 21,34). Điều khác biệt với dụ ngôn trên đây là vào ngày đó, tất cả mọi người, dù muốn hay không đều phải ra trình diện truớc toà phán xét. Ngày ấy sẽ là cuộc thanh lọc người dữ người lành. Sự lành sự dữ không thể được xếp đồng hạng với nhau. Sẽ có thời điểm phân tách để thưởng phạt công minh.
Như vậy người khôn ngoan là người sống hôm nay mà đang chuẩn bị cho tương lai ngày mai. Họ sống trên trần gian nhưng không thuộc về trần gian, vì họ luôn hướng về Quê Hương vĩnh cửu. Tuy vậy, hạnh phúc đời đời không làm chúng ta quên đi bổn phận đối với anh em, đối với cuộc sống hiện tại. Vì hạnh phúc vĩnh cửu chính là kết quả của những gì chúng ta đã thực thi trong cuộc đời này.
Truyện: Cần phần rỗi linh hồn
Attila xâm chiếm nước Italia với các binh đoàn hùng hậu của ông. Khi đã chiếm đóng làm chủ khắp mọi nơi thuộc đế quốc Rôma, ngày kia quân lính đến báo cáo với ông ta rằng:”Ở vùng ông ta đang trú đóng có một vị ẩn tu rừng”, Attila, ông vua hiếu chiến, hung dữ, rất kiêu căng này luôn muốn mọi người run sợ sụp lạy trước mặt mình nên ông ta nảy ra ý định thử đến gặp vị ẩn sĩ xem sao.
Tưởng rằng vị tu hành sẽ sợ hãi khi đối diện với nhà chinh phục khét tiếng này, không ngờ, người của Thiên Chúa chẳng những không run khiếp, trái lại còn tỏ ra ung dung tự tại khiến Attila vừa nể phục vừa cảm mến. Sau khi trò truyện với một người khôn ngoan, có tài đáp ứng mau lẹ, Attila bèn hứng chí nói:”Ta sẽ cho ngươi tất cả những gì ngươi có thể ước muốn trong vương quốc ta”. Lúc đó, vị ẩn sĩ vừa ngửa tay chìa về phía Attila vừa nói:”Thưa Ngài, trong toàn vương quốc của Ngài, tôi chỉ ước muốn một điều duy nhất: Phần rỗi của linh hồn Ngài thôi”.
(Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 98)
Phần rỗi linh hồn là một điều quan trọng và khẩn thiết nhất trong cuộc đời. Đức tin đưa chúng ta đến phần rỗi đời đời. Như người lái buôn tìm được ngọc quí, ông ta về bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy. Người Kitô hữu được Thiên Chúa tặng ban cho Đức tin là một hồng ân quí giá, chúng ta hãy về bán tất cả để giữ cho được cái kho tàng ân sủng ấy, có nghĩa là chúng ta phải dứt khóat từ bỏ những sở hữu phàm trần như: những đam mê thấp hèn, lòng tham danh vọng, tiền tài vật chất quá lẽ, tính ích kỷ kiêu căng, sự thờ ơ trước những đau khổ của người khác…
Suy gẫm các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu đưa ra ba dụ ngôn này là muốn mỗi người chúng ta phải nhận thức cho bằng được bài học quan trọng này: đang lúc còn sống ở trần gian, ai cũng phải ghi tâm khắc cốt rằng không có gì cao qúi và quan trọng cho bằng NƯỚC TRỜI. Nước Trời là kho báu tuyệt vời mà mọi người đáng mong ước. Xác tín như thế, người ta mới dám hy sinh từ bỏ mọi sự khác, hy sinh cả bản thân mình để chiếm được hạnh phúc thiên đàng.
Thánh Phaolô viết: “Những kẻ yêu mến Thiên Chúa, thì Người giúp họ được sự lành, họ là những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên Thánh; tức là được tiền định nên giống Chúa trong sự thánh thiện” (xem Rom 8:29).
Trong sách Levi Chúa đã truyền dạy: “Chúng con hãy nên Thánh, vì Ta là Thánh” (Lv. 11:45). Thánh Phaolô cũng nhắc lại cho chúng ta thánh lệnh đó khi nói với chúng ta rằng: “Thánh ý Chúa là muốn cho anh chị em nên Thánh” (I Thess 4:3). Giáo Hội qua Công Đồng Vaticanô II với quyền giáo huấn Chúa trao, đã nhắc lại cho con cái trong hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân: “Mọi Tín Hữu bất cứ bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu mời tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô Giáo và tới sự thánh thiện” (L. G. # 40). Chúa Kitô khi nhắc lại thánh lệnh đó, Ngài còn nêu cho chúng ta mẫu gương thánh thiện và truyền cho chúng ta phải họa theo: “Chúng con hãy nên thánh thiện như Cha các con trên trời là Đấng thánh thiện” (Mt 5:48). Như thế, mẫu gương thánh thiện của chúng ta là chính Thiên Chúa cao cả.
Mọi người chúng ta bất cứ ở chức vị, địa vị, nghề nghiệp, lứa tuổi nào đều có thể nên Thánh được; vì Chúa không bao giờ truyền làm một điều mà chúng ta không có thể thực hiện được. Nếu lệnh Chúa truyền đó là điều khó khăn đối với bản tính tự nhiên con người, thì Chúa lại ban ơn trợ giúp đủ để chúng ta có thể thực hiện, trừ khi chúng ta không muốn hoặc chống lại ơn Chúa ban.
Chính Thánh Augustinô đã luôn tự hỏi mình: “Ông nọ bà kia nên Thánh được sao tôi lại không nên Thánh được?” Vì lời tự vấn đầy nghị lực đó đã luôn phấn khích, mà ngài đã từ một chàng thanh niên trác táng, theo các bè rối lạc đạo, đã trở nên một vị Đại Thánh, Một Giám Mục và Thánh Tiến Sĩ Giáo Hội. Do đó, mà chúng ta có thể tìm thấy trong Giáo Hội có đủ một bậc người, mọi tầng lớp xã hội, mọi lứa tuổi đều có các vị Thánh như gương mẫu cho mỗi người chúng ta noi theo bắt chước.
Thánh Tôma tiến sĩ, một vị thông thái đã nên Thánh.
Thánh Terexa Nhỏ, một Nữ Tu tầm thường sống trong 4 bức tường kín nhà Dòng cũng đã nên thánh.
Người kẻ trộm, bị đóng đánh cùng với Chúa Giêsu, nhưng với lòng sám hối tội lỗi chân thành đã nên Thánh, từ kẻ ăn trộm của cải trần gian đến kẻ ăn cướp được cả Nước Trời.
Mettolbot, một chàng trai nghiện ngập nhậu nhẹt li bì cũng đã nên Thánh. Tiểu sử ngài đã đang tựa đề: “Từ say rượu tới say Chúa”.
Goretty, một cô bé 12 tuổi đã sẵn sàng chịu chết để bảo vệ đức trinh khiết đã được hiến dâng cho Chúa.
Đaminh Savio, một cậu bé mới 10 tuổi đã nên một Thánh.
Phải kể đến biết bao vị anh hùng tử đạo Việt Nam đã sẵn sàng chết vì Đức Tin, để chứng minh lòng trung kiên với Thiên Chúa…
Một hôm, Thánh Bonaventura vừa đi ngang qua nhà bếp lúc một Thầy Trợ Sĩ đang nấu đồ ăn; vừa thấy Thánh Nhân, Thầy đã lớn tiếng kêu lên: “Chớ gì tôi được thông thái như Cha Bonaventura của tôi, để tôi được yêu mến Chúa như ngài”. Thầy Dòng đơn sơ này tưởng rằng phải thông thái hiểu biết Chúa như Thánh Bonaventra mới mến Chúa và nên Thánh được. Thánh Nhân đã trả lời: “Thầy ơi, Thầy lầm rồi, không cần phải thông thái như Bonaventura mới mến Chúa được, một bà lão nhà quê dốt nát cũng có thể yêu mến Chúa và nên Thánh được”. Nghe thấy thế, Thầy Dòng đã sung sướng nhảy bổ tếu lên và chạy ra ngoài làng xóm, kêu lớn tiếng: “Hỡi các bà lão nhà quê, các bà cũng có thể yêu mến Chúa như Cha Bonaventra của tôi”. Sau đó, mọi người đều thấy Thầy bay bổng lên trong cơn xuất thần lâu giờ trước sự kinh ngạc và mến phục sự thánh thiện của một Thầy Dòng khiêm nhu.
III. PHƯƠNG THẾ NÊN THÁNH
Làm thế nào để có thể nên Thánh được khi chúng ta chỉ là những con người tầm thường, đầy khuyết điểm, nhiều tính mê nết xấu với những bản năng luôn hướng hạ? Các vị đã đạt tới đích thánh thiện như chúng ta đã thấy, cũng chỉ là những con người tầm thường như chúng ta, có khi còn là những tội nhân đã từng sống đời trụy lạc bề bối… nhưng các ngài cũng đã nên Thánh được. Vậy các ngài đã dùng những phương thế nào để đạt tới đích thánh thiện như vậy? Chỉ có một phương thế rất đơn sơ dễ dàng để nên Thánh mà ai trong chúng ta cũng thể thực hiện được đó là: “Làm mọi việc thông thường một cách khác thường”. Chúa không đòi chúng ta phải thông thái, phải làm nhiều việc lớn lao, phải ở địa vị cao, chức quyền lớn, hay là những vị có bẩm tính thánh thiện ngay từ lòng mẹ… Chỉ cần chu toàn mọi nhiệm vụ to nhỏ tầm thường hằng ngày trong bậc mình vì lòng yêu mến Chúa. Chúng ta tội lỗi ư? Thánh Phêrô nói: “Tình Yêu xóa mọi tội lỗi”. Giá trị công phúc không phải là do làm các việc lớn lao anh hùng, nhưng là do lòng yêu Chúa lớn lao. Thánh Têrêxa nhỏ đã quả quyết: “Chỉ có tình yêu là đáng kể”. Như vậy mọi người chúng ta đều có thể nên Thánh được. Là những vị gia trưởng, các bà mẹ, các bà vợ, các người con, mọi thành phần xã hội đều có thể nên Thánh.
Kết Luận
Xin Mẹ giúp chúng con biết thánh hóa đời sống chúng con, bằng cách làm mọi việc tầm thường hằng ngày, với một lòng yêu mến Chúa lớn lao phi thường như Mẹ và các Thánh đã thực hiện, để Chúa được vinh danh và hài lòng với chúng con.
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Chúng ta thường đọc thấy trên trác phương tiện truyền thông hay báo chí rất nhiều những tin đồn như ở nơi này, nơi kia có kho báu gồm: vàng, bạc, kim cương cũng như cổ vật. Khi nghe tin đồn như thế, không ít người đã làm mọi cách và dùng mọi chiến thuật để mong sao đạt được điều mà họ đang hy vọng. Còn đại đa số con người ngày nay thì kho báu của họ có lẽ là: tiền, tài, tình. Vì thế, cũng đã không ít người hăng say, lăn xả để chiếm đoạt cho kỳ được.
Với người kitô hữu chúng ta, kho tàng là gì? Làm thế nào để chiếm hữu?
Dụ ngôn “kho tàng” và “viên ngọc quý” là một trong hàng loạt dụ ngôn Đức Giêsu dùng mặc khải về Nước Trời. Bên cạnh đó, dụ ngôn “chiếc lưới” cũng giúp cho chúng ta hiểu thêm về sự kiên trì của Thiên Chúa và giá trị của những người được chọn trong ngày sau hết.
Qua ba dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn ám chỉ “kho tàng” trong thửa ruộng chính là Nước Trời, còn Đức Giêsu chính là “viên ngọc quý”.
Người lái buôn đi tìm ngọc và anh thanh niên tìm kho tàng chính là những người có đức tin, khao khát chân lý và hạnh phúc thật.
Trong công cuộc tìm kiếm này, không phải chuyện dễ dàng để gặp được. Vì thế, người tìm kiếm phải có tài, có đức và phải kiên trì, trung thành.
“Kho tàng” và “ngọc quý” vẫn có đó, nhưng có khi có người tìm thấy sớm, có người thấy muộn và cũng có kẻ đến giờ phút chót không thấy được.
Thật vậy, con người khi đã có khát khao, nhất là sự khao khát đó lại được nuôi dưỡng trong sự chờ đợi, hy vọng, thì khi tìm được, người ta đã phải bán hết mọi sự mình đang có để mua, với ý thức rằng có “kho tàng” và “ngọc quý” là có tất cả.
Khi mua được rồi, họ đâu còn tiếc nuối công khó với mồ hôi và nước mắt mà họ đã đổ ra trên hành trình tìm kiếm.
Anh thanh niên và người lái buôn quả là người khôn ngoan. Sự khôn ngoan của họ rất giống với vua Salomon mà bài đọc I đã đề cập đến. Ông đã không xin Chúa sức khỏe, tiền tài và danh vọng, cũng như những thứ có giá trị ở đời, nhưng ông đã xin Chúa sự khôn ngoan. Lòng chân thành của ông đã được Chúa nhận lời và người đã ban cho ông gấp trăm ngàn lần. Như vậy, có sự khôn ngoan, ông có tất cả.
Đức tin là quà tặng vô giá mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Biết xử dụng đức tin trong đời sống qua các mối tương quan với Thiên Chúa và tha nhân là người khôn ngoan. Bởi vì nhờ có đức tin, chúng ta biết mình và biết Chúa. Biết mình giới hạn và biết Chúa quyền năng. Biết sự sống đời này là hữu hạn và sự sống đời sau sẽ trường tồn. Người khôn ngoan theo Kinh Thánh là người sẵn sàng để cho Lời Chúa hướng dẫn cuộc đời mình.
Tuy nhiên, con người ngày nay, mấy ai để cho Lời Chúa được lớn lên, sinh hoa kết trái như ý Chúa???
Họ là những con người lầm lạc, sự khôn ngoan của họ là sự ngu đần trước mặt Thiên Chúa. Khôn ngoan của những người này chính là “Khôn ngoan của con cái tối tăm” họ thực hiện điều họ cho là khôn ngoan trong tội lỗi, và như một hệ lụy, họ không nhìn ra đâu là sự thiện, sự ác, không biết lo cho phần rỗi đời đời, nên đến cuối đời, họ như những con cá bị loại ra ngoài, không được cho vào giỏ của ông chủ.
Thật vậy, người khôn ngoan theo ý muốn của Thiên Chúa là người biết xác định rõ: “Khôn thế gian làm quan địa ngục”; “Dại thế gian làm quan Thiên Đàng” và “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích gì?” (Mt 16, 26).
Người khôn ngoan theo Kinh Thánh chính là người sống hôm nay mà biết lo cho tương lai. Phải chu toàn bổn phận trần thế, nhưng không phải vì thế mà quên thực tại Nước Trời mai hậu. Sống trên trần gian nhưng không thuộc về trần gian.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải khước từ những thứ được coi là thấp hèn. Không quá coi trọng vật chất. Khước từ tính kiêu ngạo, thích ăn trên ngồi trước. Phải sống chan hòa tình nghĩa với nhau.
Phải tin tưởng vào Chúa tuyệt đối, không thể tin nửa vời để rồi dẫn đến tình trạng mê tín dị đoan như tin thầy bùa, thầy ngải, thổ địa…
Hãy mau mắn thi hành Lời Chúa dạy. Trung thành với Giáo Huấn của Giáo Hội.
Sẵn sàng hy sinh tất cả, để chỉ còn “… mối lợi truyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô (9) và được kết hợp với Người”(Pl 3, 8-9).
Nước trời không thể đến với những người: “Bắt cá hai tay”; vì: “Không ai có thể làm tôi hai chủ”; và hạnh phúc không thể có đối với người chỉ biết “há miệng chờ sung rụng”.
Lạy Chúa Giêsu, Xin Chúa ban Thánh Thần của Ngài xuống giúp chúng con biết nhận ra đâu là điều tốt, đâu là điều xấu để chúng con lựa chọn. Xin cho chúng con ơn can đảm và trung thành vì Nước Trời. Amen.
Jos. Vinc. Ngọc Biển
THỨ HAI
HÃY LÀ MEN CHO ĐỜI
Gr 13, 1-11; Mt 13, 31-35
Ở đời, người ta thường xem nhẹ những điều nhỏ mọn và coi đó như là chuyện không cần bàn, vì thế chẳng cần quan tâm.
Tuy nhiên, những điều tưởng chừng như bé nhỏ ấy lại là nguyên nhân cần thiết để trở thành những điều lớn lao.
Thật vậy, trong nhà Phật có câu:
“Hãy nhìn một em bé
Xin người chớ xem thường
Trong em có chất liệu
Của một bậc đế vương.
Hay;
Hãy nhìn một đốm lửa
Xin người chớ xem thường
Dù nhỏ bằng đầu đũa
Đốt cả rừng lẫn nương”.
Hôm nay, Đức Giêsu muốn dùng dụ ngôn“men trong bột” để ám chỉ Nước Trời. Thật vậy, được khởi đi từ những gì là nhỏ bé, đơn sơ, âm thầm trong sự khiêm tốn, nhưng một khi đã hội đủ những cơ hội thuận tiện, Nước ấy sẽ lớn mạnh và lan rộng khắp nơi, khiến cho quyền lực của thế gian và ma quỷ có mạnh đến đâu cũng không thể thắng nổi.
Qua hình ảnh này, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta rằng: hãy bắt đầu hành trình đi tìm và sống những giá trị Tin Mừng trong sự khiêm tốn và âm thầm, chúng ta sẽ gặp được chân lý. Nước Trời chỉ đến với những người thực sự đơn sơ, chân thành.
Mỗi người kitô hữu, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều được mời gọi trở nên chứng tá của Tin Mừng thông qua đời sống gương sáng của mình. Mong sao mỗi chúng ta ý thức điều đó và thi hành cách xuất sắc như “men” được trộn vào trong bột và làm cho bột được dậy men.
Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết mau mắn đón nhận thánh ý Chúa và sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng, để ước gì, nhờ đó, chính chúng con được biến đổi và những ai gặp chúng con cũng được biến đổi theo. Amen.
THỨ BA
PHỤC VỤ TRONG YÊU MẾN
Gr 14, 17-22; Mt 13, 36-43
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hân hoan mừng lễ thánh Mátta. Thánh nhân là chị ruột của Maria và Lazarô. Tin Mừng cho biết: các ngài sống tại ngôi làng nhỏ có tên là Bêtania gần thành phố Giêrusalem. Ba chị em là bạn rất thân thiết với Đức Giêsu, đến nỗi, mỗi khi có việc đi ngang qua, Đức Giêsu thường xuyên ghé thăm và xin nước uống hay dùng bữa, đồng thời Ngài thường hiện diện trong những dịp quan trọng của gia đình. Đức Giêsu yêu mến Mátta, Maria và Lazarô cách đặc biệt.
Trong vai trò là chủ gia đình, Mátta đã thể hiện xuất sắc vai trò làm chị của hai em, đồng thời cũng làm toát lên tính hiếu khách và quý mến Đức Giêsu cách đặc biệt.
Tin Mừng kể lại: sau khi đã chào đón Đức Giêsu vào nhà, thánh nhân rất bận rộn với công tác bếp núc để thiết đãi Đức Giêsu và các môn đệ một bữa ăn thịnh soạn. Tuy nhiên, trong khi phục vụ, thánh nhân nghĩ rằng mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn, nếu có Maria giúp đỡ một tay, vì thế, ngài đã xin Đức Giêsu nói với Maria giúp mình một tay. Tuy nhiên Đức Giêsu đã nói về sự lựa chọn tốt nhất đó là lắng nghe và thực hành Lời Chúa thì có phúc hơn. Không phải vì Đức Giêsu không hài lòng với cách phục vụ của Mátta, nhưng Ngài muốn cho Mátta tiến sâu, tiến xa hơn nữa trong mối tương quan với Ngài.
Thánh nhân còn được biết đến như một người có niềm tin tuyệt đối vào Đức Giêsu:
Khi thấy Lazarô em mình lâm trọng bệnh, bà đã nhờ người đến báo tin cho Đức Giêsu biết, để hy vọng Ngài sẽ ra tay cứu giúp. Sau khi Lazarô đã qua đời, Đức Giêsu và các môn đệ đến thăm, ngài đã thưa: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy!”; sau khi được Đức Giêsu giải thích, Matta thưa: “Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”. Nhờ niềm tin của Mátta, Đức Giêsu đã làm phép lạ cho Lazarô sống lại.
Mừng lễ thánh Matha hôm nay, chúng ta học được hai bài học quý báu từ cuộc đời của thánh nhân.
Bài học thứ nhất: sẵn sàng đón tiếp khách đến nhà với sự kính trọng và yêu mến, với ý thức là chúng ta đang tiếp đón chính Đức Giêsu.
Bài học thứ hai: tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Không có chuyện tin nửa vời. Càng thân thiện, yêu mến, càng tin mãnh liệt.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa tha thiết, và tin tưởng Chúa tuyệt đối như thánh Mátta khi xưa. Amen.
THỨ TƯ
KHO TÀNG VÀ VIÊN NGỌC QUÝ
(Gr 15, 10. 16-21; Mt 13, 44-46)
Thánh Phanxicô X. là con một người giàu có, ngài thuộc thành phần quý tộc. Vì thế, không lạ gì khi còn trai trẻ, thánh nhân ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng trần gian. Tuy nhiên, nhờ người bạn thân của ngài là thánh Inhaxiô Loyola, một hôm đã gieo Lời Chúa vào tai Phanxicô: “… được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?”(Mt 16,26).
Nhờ câu Lời Chúa trên mà ngài được ơn biến đổi hoàn toàn. Từ con người ham mê của cải trần thế trở thành một tu sĩ nghèo khó. Từ một người ham mê khoa bảng trần gian trở thành một người chỉ biết rao giảng chân lý Tin Mừng.
Hôm nay, Đức Giêsu muốn mỗi người chúng ta hãy xác định lại căn tính ơn gọi của mình đó là đi theo Đức Giêsu. Đi theo Đức Giêsu là đón nhận Ngài làm gia nghiệp. Lấy lời Ngài làm kim chỉ nam hướng dẫn. Sẵn sàng sống những giá trị Tin Mừng ấy trong cuộc đời dù gặp những khó khăn. Quyết tâm từ bỏ những điều bất chính trái với Thánh ý Chúa. Làm được điều đó, ấy là lúc chúng ta khôn ngoan như người lái buôn và chàng thanh niên trong Tin Mừng đi tìm “kho tàng” và “viên ngọc quý”.
Mong sao mỗi người chúng ta hiểu rằng: Nước Trời là “kho tàng” bền vững, Ðức Giêsu là “viên ngọc quý” đích thực. Đạt được “kho tàng” là Nước Trời, chiếm hữu được “viên ngọc quý” là chính Đức Giêsu không phải là chuyện dễ. Muốn có nó, chúng ta phải đánh đổi bằng những hy sinh, cố gắng và tin tưởng tuyệt đối, ngay cả cái chết.
Lạy Chúa, có Chúa là có tất cả, không có Chúa kể như không có gì. Xin cho chúng con hiểu được điều đó, quyết tâm và đánh đổi bằng mọi giá để có Chúa làm gia nghiệp của cuộc đời chúng con. Amen.
THỨ NĂM
CHÚA YÊU HẾT MỌI NGƯỜI
(Gr 18, 1-6; Mt 13, 47-53)
“Thiên Chúa là Tình yêu” (1 Ga 4, 8), vì thế, Ngài luôn yêu thương hết mọi người không phân biệt tốt xấu, giàu nghèo hay chức vị cao thấp.
Bản chất đó hôm nay được Đức Giêsu mặc khải qua dụ ngôn: “chiếc lưới”.
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói: chiếc lưới như là Nước Trời. Chụp xuống biển là hành động Lời Chúa được trao ban. Bắt được đủ mọi thứ cá chính là mọi người đều được Lời Chúa dạy dỗ. Cá tốt, là những người nghe và thực hành Lời Chúa. Cá xấu là những người không nghe, hay có nghe nhưng Lời Chúa không biến đổi được họ vì sự ích kỷ và kiêu ngạo. Tuy nhiên, cá tốt và cá xấu đều tồn tại, chỉ khi chiếc lưới chụp xuống và được kéo lên, lúc ấy chúng mới bị phân biệt. Cá tốt thì cho vào giỏ. Cá xấu thì quăng ra ngoài.
Hôm nay, phụng vụ mừng kính thánh Inhaxiô Loyola, đấng sáng lập dòng Tên. Chúng ta được biết đến ngài như: một con người rất giỏi, nhưng tinh nghịch, ham vui hơn học hành, nên lớn lên sống phóng túng, xa đà, trụy lạc.
Nhưng từ khi được ơn Chúa hoán cải, nên ngài đã ý thức được quá khứ ngông cuồng của mình, vì thế, thánh nhân đã quyết tâm hãm mình, đánh tội, ăn chay cầu nguyện, than khóc ăn năn tội vì những điều lỗi đã phạm mất lòng Chúa. Cuối cùng ngài đã thực hiện cuộc xưng tội trong ba ngày.
Lược qua một chút về cuộc đời của thánh Inhaxiô Loyola, để cho chúng ta thấy rằng: “Thánh nhân nào cũng có quá khứ”; “Tội nhân nào cũng có tương lai”. Điều quan trọng là chúng ta biết sám hối và trở về với Chúa khi được Chúa yêu thương.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy ta bài học về sự kiên nhẫn và sẵn sàng yêu thương hết mọi người. Biết mở lòng để đón nhận sự bất toàn của anh chị em mình, hầu chờ cơ hội để Chúa và cả chúng ta cải hóa anh chị em. Cuối cùng chúng ta cần xác định quyền xét xử là của Chúa và do Chúa. Bổn phận của chúng ta là tin tưởng, cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con tin tưởng, phó thác nơi Chúa, cậy dựa vào ơn Chúa để can đảm biến đổi. Xin cho chúng con được trở thành cá tốt trong ngày sau hết để được Chúa cho vào giỏ của Chúa. Amen.
THỨ SÁU
LOAN BÁO TRONG MỌI HOÀN CẢNH
(Gr 26, 1-9; Mt 13, 54-58)
Không ai được tôn trọng ở quê hương của mình. Đây chính là câu nói nổi tiếng của Đức Giêsu mang tính tiên tri. Thật vậy, trải qua biết bao thế hệ, từ những bậc tiền nhân đến chúng ta, hẳn mọi người đều biết hay đã cảm nghiệm được tính tiên tri của Đức Giêsu qua câu nói trên.
Hôm nay, chính Đức Giêsu cũng đã trải qua sự thật đó khi về quê hương của mình.
Khi biết rõ về thân thế, gia cảnh của Đức Giêsu, những người Dothái sinh thời với Ngài đã không thể chấp nhận được, và như một lẽ tất yếu, họ không tin và cũng chẳng tôn trọng Ngài. Vì thế, Đức Giêsu đã không làm được phép lạ nào tại quê hương của mình vì sự cứng lòng tin nơi họ.
Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội mừng kính thánh Anphong. Thánh nhân là một con người đạo đức, thánh thiện. Có lòng yêu mến Chúa chịu đóng đinh và Đức Mẹ rất đặc biệt, từ đó, ngài tha thiết với việc cứu rỗi các linh hồn. Ngài còn được biết đến là một vị thánh lỗi lạc về nền tảng thần học luân lý.
Nền thần học của ngài mang tính thực tiễn, cụ thể chứ không phải là những sự trừu tượng cao siêu. Vì thế, thánh Anphong đã được Giáo Hội đặt làm bổn mạng các nhà thần học luân lý.
Thánh nhân là người đã rập cuộc đời của mình trong khuôn đúc của Đức Giêsu, vì thế, chúng ta không lạ gì khi chân dung Đức Giêsu trong bài Tin Mừng được hiện tại hóa trong cuộc đời và sứ vụ của thánh Anphong. Thật vậy, bị hiểu lầm, cô lập và thất bại luôn đến với ngài. Nhưng nhờ ơn Chúa, ngài đã vượt qua để chỉ còn bận tâm đến một việc duy nhất, đó là làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhớ cho chúng ta biết rằng: trong cuộc đời và trên hành trình loan báo Tin Mừng của người môn đệ, chúng ta cũng sẽ gặp phải những khó khăn, thất bại và chống đối, hiểu lầm và cô đơn… Tuy nhiên, hình ảnh Đức Giêsu lướt qua họ khi chúng muốn xô Ngài xuống vực cho thấy rằng: bổn phận của chúng ta là loan báo Lời Chúa, nên chúng ta cứ can đảm và sẵn sàng loan báo cho dù có những cản trở, khó khăn đến từ mọi phía…
Chúng ta không bận tâm đến quá nhiều kết quả, vì thành công hay không là việc của Chúa. Chúng ta chỉ là người thợ trong bàn tay Chúa và chỉ biết làm những việc phải làm mà thôi. Có được tâm tình ấy, chúng ta sẽ rao giảng Lời Chúa: “… lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tm 4,2).
Lời Chúa hôm nay còn nhắc cho chúng ta biết: hậu quả của sự thành kiến, đã làm chúng ta bỏ lỡ hay cố tình không chấp nhận nhiều việc tốt của người khác, hoặc nhất định không làm việc hữu ích chỉ vì điều đó được khởi xướng từ một người mà chúng ta đã có thành kiến.
Lạy Chúa, xin cho chúng con vững tin rằng: Chúa là tất cả đời con, nên mọi khó khăn thử thách sẽ không làm cho chúng con chùn chân bước theo Chúa. Xin cho chúng con xóa bỏ thành kiến để công cuộc loan báo Tin Mừng đạt được nhiều kết quả. Amen.
THỨ BẨY
CHỨNG NHÂN CHO SỰ THẬT
Khi xem các chương trình nhạc kịch, khán giả thường có những nhận xét đúng – sai nơi các nhân vật, đồng thời qua các nhân vật và đặc điểm của vai diễn, độc giả còn nhận thấy hình ảnh của mình thông qua con người và diễn xuất của các nghệ sĩ…
Hôm nay, trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy xuất hiện 4 nhân vật, mỗi nhân vật mang một nét đặc trưng riêng cả về nhân thân và lối sống. Các nhân vật đó là: Gioan Tẩy Giả; vua Hêrôđê, bà Hêrôđia, và con gái bà Hêrôđia. 4 nhân vật đó như thế nào? Chúng ta cùng nhau tìm hiểu.
Gioan Tẩy giả:
Gioan Tẩy giả là ngôn sứ vĩ đại, đến để loan báo về Đấng Cứu Thế và chuẩn bị lòng dân đón nhận Ngài. Vì thế, ông đã biểu lộ vai trò làm ngôn sứ bằng một thái độ sống hết sức khiêm tốn, hy sinh, can đảm, mạnh mẽ và bất khuất trước bạo lực, cho dù phải chịu tù đày và cái chết.
Vua Hêrôđê:
Ông được biết đến như một kẻ ác nhân. Ông đã lộng hành khi dùng quyền. Coi thường đạo lý và buông theo sắc dục mà bất chấp đúng – sai. Ông đã làm trái với lương tâm khi truyền lấy đầu ông Gioan để thỏa mãn điều thề hứa bất chính của mình.
Bà Hêrôdia:
Vì ưa thích điều bất chính, nên đã không chấp nhận sự thật mà Gioan loan báo. Vì thế, lòng thù ghét nổi lên như nước thủy triều. Thay vì dạy dỗ con mình làm điều tốt, bà lại xúi con mình làm điều bất chính khi xin vua lấy đầu Gioan Tẩy Giả. Sự ác tâm này là con đẻ của hận thù và ghen ghét vì mối lợi trước mắt.
Con gái bà Hêrôdia:
Cô gái trẻ này được biết đến như một nhân vật có tài mà không có đức. Vì thế, thay vì sử dụng tài của mình để làm việc thiện, cô ta đã dùng nó như là một thứ mua vui thuần túy và phá hoại. Tệ hơn nữa là không hề áy náy khi biết rõ rằng việc cô làm chỉ là để thỏa nãm sắc dục của vua quan và phục vụ sự hận thù của mẹ cô với Gioan Tẩy giả.
Trong cuộc sống hôm nay, không thiếu gì những hình ảnh của Hêrôđê đang hiện lên trên những hành động của những người chỉ thích ham mê sắc dục mà bất chấp sự thật để làm những điều lỗi lầm ghê tởm.
Cũng vẫn còn đó nơi ta hình ảnh của bà Hêrôdia. Nhiều lúc, thay vì dạy con làm điều tốt, thì lại chỉ vẽ cho trẻ những điều sai trái, miễn sao đạt được điều bất chính nơi ta mà thôi. Và cũng không thiếu những sự ngộ nhận nơi ta như con gái bà Hêrôdia…
Gioan Tẩy Giả:
Thế nhưng, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy mang trong mình hình ảnh và đặc tính của Gioan Tẩy Giả. Luôn tìm mọi cách để Lời Chúa được loan báo mọi nơi, mọi lúc. Sẵn sàng chấp nhận hy sinh và ngay cả cái chết để làm chứng cho Thiên Chúa và sự thật của Ngài.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được yêu mến Lời Chúa và sẵn sàng rao giảng Lời ấy cho mọi người, dù có phải hy sinh. Amen.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn