CẨM NANG: 9- THÀNH SỰ HÓA HÔN NHÂN - JB. Lê Ngọc Dũng
Có những kết hôn đã không thành sự, do không có kết hôn theo thể thức Giáo Luật hoặc đã kết hôn theo thể thức Giáo Luật rồi nhưng bị khiếm khuyết hoặc có ngăn trở tiêu hôn nên đã không thành sự. Nay tín hữu muốn hôn nhân của họ được trở nên hợp luật. Giáo Hội đã có những phương thức để hợp thức hóa cho chọ, nghĩa là, là thành sự hóa hôn nhân cho họ. Giáo Luật đưa ra hai phương thức: thành sự hóa đơn thuần và điều trị tại căn. Thành sự hóa đơn thuần vẫn đang thường áp dụng. Điều trị tại căn tại Việt Nam, tuy chưa được phổ biến, nhưng nó là một phương thức tốt nên được dùng, để hợp thức hóa cho những hôn nhân khác đạo mà chỉ có kết hôn dân sự và cho đến nay bên lương vẫn không chịu cử hành theo nghi thức đạo.
THÀNH SỰ HÓA HÔN NHÂN
Giáo Luật gọi là “thành sự hóa” hôn nhân, nghĩa là làm cho một hôn nhân bất thành hay vô hiệu trở nên thành sự hay hữu hiệu. Việc này thường được gọi là “hợp thức hóa” hôn nhân. Các đôi đang sống trong hôn nhân không thành sự, cũng quen gọi là đang sống "rối hôn phối".
Để "thành sự hóa" hay "hợp thức hóa" cho những đôi rối hôn nhân, Giáo Luật dự trù hai phương pháp: "thành sự hóa đơn thuần" (đ.1156-1160) và "điều trị tại căn" (đ.1161-1165).
9.1. Thành sự hóa đơn thuần
Thành sự hóa đơn thuần là giải pháp lâu nay các mục tử vẫn thường áp dụng mỗi khi hợp thức hóa một hôn nhân bất thành. Những hôn nhân này vô hiệu vì có ngăn trở tiêu hôn hoặc vì đã chưa có làm phép hôn phối, nghĩa là chưa có cử hành kết hôn theo thể thức giáo luật.
Ví dụ, hợp thức hóa cho đôi bạn khác đạo, mà trước đây không được miễn chuẩn ngăn trở, chỉ kết hôn dân sự rồi sống như vợ chồng với nhau.
9.1.1. Thành sự hóa do mắc ngăn trở tiêu hôn
a- Pháp lý
Điều 1156
§1. Để thành sự hóa một hôn nhân bất thành do một ngăn trở tiêu hôn thì buộc ngăn trở chấm dứt hoặc được miễn chuẩn, và ít là bên biết có ngăn trở phải lập lại sự ưng thuận.
§2. Luật Giáo Hội buộc phải lập lại sự ưng thuận ấy để việc thành sự hóa có hiệu lực, mặc dù cả hai bên đã biểu lộ sự ưng thuận và sau đó không rút lại sự ưng thuận.
Thành sự hóa phải bao gồm hai điều: 1- ngăn trở tiêu đã chấm dứt hay được miễn chuẩn; 2- lập lại sự ưng thuận.
Ví dụ: Một người đang mắc ngăn trở lời khấn dòng vĩnh viễn, kết hôn vô hiệu. Hôn nhân này có thể được thành sự hóa sau khi ngăn trở được miễn chuẩn và phải lập lại sự ưng thuận.
b- Ý nghĩa của lập lại sự "ưng thuận"
Lập lại sự ưng thuận phải là một hành vi mới của ý muốn kết hôn mà bên lập lại sự ưng thuận ấy biết hay quan niệm rằng hôn nhân đã không thành ngay từ đầu (đ. 1157).
Sự ưng thuận theo ý nghĩa trong tâm trí vừa nói trên lại phải được diễn tả qua một nghi thức hay nghi thức kết hôn ra bên ngoài.
Ví dụ:
- Trong nghi thức kết hôn Công Giáo, đôi bạn kết hôn biểu lộ sự ưng thuận làm vợ làm chồng: "Tôi… nhận em … làm vợ và hứa sẽ…"; "Tôi…. nhận anh … làm chồng và hứa sẽ…"
- Trong nghi thức dân sự hay tôn giáo khác…, trong đó bao giờ cũng phải có lời nói hay cử chỉ diễn tả sự nhận nhau làm vợ làm chồng (trao nhẫn, vái lạy nhau, vái lạy tổ tiên, ký giấy tờ kết hôn…).
“Lập lại” có ý nói là đã thực hiện một lần rồi, bây giờ làm lại. Nếu chưa thực hiện thì không nói là lập lại. Phải lập lại ưng thuận vì lần trước việc cử hành ưng thuận nhưng bị vô hiệu, hoặc do có ngăn trở tiêu hôn hoặc do thiếu thể thức. Nay muốn thành sự hóa thì phải là cử hành theo thể thức giáo luật, tức là cử hành kết hôn theo luật đạo.
c- Lập lại sự "ưng thuận" theo thể thức luật định
Luật quy định hai cách thức lập lại sự ưng thuận:
1) Cử hành theo thể thức giáo luật (forma canonica), tức là cử hành chứng hôn như nghi thức kết hôn Công Giáo thông thường: Vị chứng hôn cho đôi bạn, với hai người làm chứng (đ.1108§1).
Theo luật định, phải biểu lộ sự ưng thuận kết hôn theo thể thức giáo luật, nếu ngăn trở tiêu hôn là "công" dựa trên quy định:
Nếu ngăn trở là công, cả hai bên đều phải lặp lại sự ưng thuận theo thể thức Giáo luật, miễn là vẫn giữ nguyên những quy định của điều 1127§2 (đ.1158§1).
Trong thực tế, hầu hết các trường hợp xin được hợp thức hóa đều mắc những ngăn trở "công", vì đều có thể chứng minh được. Vì vậy, các cha sở cũng đã thường cử hành sự "ưng thuận" kết hôn theo "thể thức giáo luật".
Điều 1158§1 lại có quy định một luật trừ, là "giữ nguyên những quy định của điều 1127§2". Điều 1127§2 này có quy định về việc được miễn chuẩn nghi thức giáo luật đối với hôn nhân hỗn hợp hay dị giáo. Do đó, trong trường hợp được miễn chuẩn thể thức giáo luật theo điều 1127§2 thì không cần lập lại sự ưng thuận theo thể thức giáo luật nữa.
2) Cử hành "tư" việc lập lại sự ưng thuận
Cử hành việc lập lại sự ưng thuận theo một hình thức riêng tư (private) và kín đáo thì cũng đủ, nếu ngăn trở không thể chứng minh:
Nếu ngăn trở không thể chứng minh, thì chỉ cần bên ý thức có ngăn trở lặp lại sự ưng thuận cách riêng tư và kín đáo, miễn là bên kia vẫn duy trì sự ưng thuận đã được biểu lộ; hoặc cả hai bên phải lặp lại sự ưng thuận, nếu cả hai bên đều biết có ngăn trở (đ.1158§2).
Đây là xét về sự thành sự hóa một hôn nhân có ngăn trở không thể chứng minh được hoặc không thể được loan truyền.[1]
Ví dụ người chồng biết mình có họ máu với người vợ, nhưng những người thân đã mất tích không thể chứng minh được.
Trong trường hợp trên, chỉ cần người chồng lập lại sự ưng thuận cách riêng tư kín đáo, miễn là bên kia vẫn duy trì sự ưng thuận đã được biểu lộ trước kia.
Khi cả hai người đều ý thức có ngăn trở, thì cả hai phải lập lại sự ưng thuận.
Thể thức được cử hành một cách riêng tư, không cần theo một quy định chính thức nào.[2] Ví dụ, không cần có hai người chứng trong nghi thức.
9.1.2. Thành sự hóa do thiếu thể thức
Để thành sự hóa một hôn nhân bất thành do thiếu thể thức, phải được kết ước lại theo thể thức giáo luật, miễn là giữ nguyên những quy định của điều 1127§2 (đ. 1160).
a- Kết ước lại theo thể thức giáo luật
“Thiếu thể thức”, có thể là hoàn toàn thiếu vắng thể thức giáo luật, ví dụ như chỉ có kết hôn theo thể thức dân sự. Tuy nhiên, thiếu thể thức cũng có thể là đã cử hành thể thức giáo luật nhưng bị hà tỳ đến mức vô hiệu, ví dụ như trong cử hành nghi thức kết hôn vị chứng hôn không có năng quyền hay thiếu một người làm chứng.
Ví dụ 1: Hai người Công Giáo chỉ kết hôn dân sự với nhau do chồng bị có ngăn trở dây hôn phối. Nay người chồng hết ngăn trở vì vợ trước của ông chết. Để được thành sự hóa, họ phải kết hôn theo thể thức giáo luật, vì thể thức này chưa hề cử hành.
Ví dụ 2: Đôi bạn gồm Công Giáo và người lương, vì trước đây không được miễn chuẩn ngăn trở khác đạo, họ chỉ có kết hôn dân sự và sống rối hôn phối với nhau. Đôi này trước đây đã biểu lộ sự ưng thuận theo luật dân sự; đã hoàn toàn thiếu vắng thể thức giáo luật.
Nay, nếu họ muốn được thành sự hóa đơn thuần thì họ cần được Đấng Bản Quyền miễn chuẩn ngăn trở khác đạo và cử hành sự ưng thuận kết hôn theo thể thức giáo luật.
Ví dụ 3: Một hôn nhân được cử hành do một linh mục không có năng quyền chứng hôn hoặc do linh mục có năng quyền nhưng trong cử hành không có nhân chứng. Hôn nhân vô hiệu do thể thức giáo luật bị hà tỳ. Để được thành sự hóa, đôi bạn phải được kết hôn lại theo thể thức giáo luật.
Trong trường hợp được miễn chuẩn thể thức giáo luật, theo điều 1127§2 đối với hôn nhân hỗn hợp hay dị giáo thì không cần lập lại sự ưng thuận theo thể thức giáo luật nữa.
b- Thành sự hóa hôn nhân hay là bắt đầu hôn nhân?
Có sự khác nhau giữa một hôn nhân mà nay bắt đầu kết hôn và một hôn nhân đang sống bất hợp pháp do chỉ có kết hôn dân sự. Cần có sự phân biệt.
Thành sự hóa bao hàm ý nghĩa là hôn nhân đã hiện hữu một cách nào đó, do một kết ước dân sự hoặc tôn giáo,[3] nhưng vô hiệu theo quy định của Giáo luật. Do đó khi thành sự hóa hôn nhân, các việc chuẩn bị trước hôn nhân (như rao, học giáo lý hôn nhân...) được phép giảm bớt nếu thấy không cần thiết.
Vì vậy, nếu chỉ có kết hôn dân sự từ lâu năm, thì cũng áp dụng thành sự hóa, không cử hành hôn nhân như cách thức từ khởi đầu.
9.2. Điều trị tại căn
Trong thực tế, thành sự hóa một hôn nhân bị vô hiệu bằng phương pháp điều trị tại căn này còn là mới mẻ đối với Giáo Hội Việt Nam. Tuy nhiên trong thực tế, nó sẽ giúp rất nhiều vào việc hợp thức hóa cho những đôi hôn nhân chỉ đã có kết hôn dân sự và người chồng là người lương không chịu đến nhà thờ hay gặp cha sở.
Khác với thành sự hóa đơn thuần, trong điều trị tại căn một hôn nhân bất thành, sự lập lại thể thức ưng thuận được miễn.
Để dễ hiểu hơn giải pháp này, chúng ta tưởng tượng đến một kết hôn đã cử hành theo thể thức giáo luật, nhưng sau đó cha sở phát hiện là cha chưa xin miễn chuẩn ngăn trở tiêu hôn hoặc cha đã nhầm lẫn trong thể thức cử hành khiến hôn nhân vô hiệu. Vậy thì, sẽ phải giải quyết làm sao đối với những hôn nhân đó? Cha sở kêu gọi họ đến nhà thờ để cử hành lại lễ cưới hay cử hành lại nghi thức kết hôn hay sao?
Điều trị tại căn sẽ giúp giải quyết những bối rối đó, qua việc thành sự hóa những hôn phối mà không cần phải làm lại lễ cưới hay cử hành lại nghi thức kết hôn.
9.2.1. Ý nghĩa
Điểm khác biệt căn bản của điều trị tại căn là không đòi phải lập lại sự ưng thuận như trong thành sự hóa đơn thuần. Không cần lập lại sự ưng thuận có nghĩa là không cử hành lại nghi thức kết hôn nữa.
Điều 1161§1 quy định ý nghĩa của điều trị tại căn:
Điều trị tại căn một hôn nhân bất thành là việc thành sự hóa hôn nhân ấy mà không buộc lập lại sự ưng thuận, do nhà chức trách có thẩm quyền ban, bao hàm việc miễn chuẩn một ngăn trở, nếu có, và thể thức giáo luật, nếu đã không được tuân giữ, cũng như sự hồi tố của những hiệu quả giáo luật (đ.1161§1).
Điều trị tại căn khác với thành sự hóa đơn thuần ở những điểm:
- Không đòi phải lập lại sự ưng thuận, miễn là họ đã có sự ưng thuận và vẫn duy trì sự ưng thuận đó (đ.1162);
- Bao hàm (entail, comporta) việc miễn chuẩn một ngăn trở, nếu có; và thể thức giáo luật, nếu bị khiếm khuyết;
- Hồi tố giá trị hôn nhân;
- Được ban cho bởi nhà chức trách có thẩm quyền: Đức Giám Mục Giáo phận hay Tông Tòa.
Ví dụ: Hai người Công Giáo sau kết hôn phát hiện ra họ là anh em chú bác, có liên hệ huyết tộc 4 bậc hàng ngang. Họ đã có ngăn trở huyết tộc vì vậy hôn nhân bất thành. Nay cần thành sự hóa. Một trong hai cách sau đều được:
- Thành sự hóa đơn thuần (được nói ở phần trên), bằng cách xin Đấng Bản Quyền địa phương chuẩn ngăn trở huyết tộc và cử hành lại nghi thức ưng thuận kết hôn theo giáo luật;
- Điều trị tại căn, bằng cách làm đơn xin Giám Mục ban ơn, trong đó bao hàm việc chuẩn ngăn trở huyết tộc, không cử hành lại sự ưng thuận, nghĩa là không cử hành lại nghi thức kết hôn theo Giáo luật. Khi Giám Mục giáo phận ký chấp thuận ban ơn điều trị tại căn thì hôn nhân được thành sự và có giá trị hồi tố.
a- Sự ưng thuận đã được biểu lộ theo thể thức công
Luật quy định: không thể điều trị tại căn nếu ngay từ đầu, thiếu sự ưng thuận của cả hai bên hay một trong hai bên (đ. 1162).
Sự "ưng thuận" kết hôn chính là điểm cốt yếu nhất của một kết ước hôn nhân và nó phải được biểu lộ theo thể thức công (public), tức là phải được biểu lộ theo những nghi thức luật định. Một sự ưng thuận nếu chỉ được diễn tả theo một thể thức tư (private) thì kể như là không có về mặt pháp lý, là chưa được thực hiện. Một thể thức là tư khi nó được làm tự phát mà không theo một quy định của luật hay lệ gì cả.
Ví dụ hai người nam nữ kết ước hôn nhân trước tượng Đức Mẹ hay tượng Phật một cách tự phát, hoặc chỉ giao ước riêng để sống chung với nhau, thì những kết ước này là tư. Nếu họ chỉ đã kết ước hay thỏa thuận với nhau theo một cách thức tư như vậy thì coi như họ chưa có sự ưng thuận, nghĩa là chưa có sự kết ước vợ chồng. Khi đó, họ không được điều trị tại căn. Nếu muốn hợp thức hóa hôn nhân, họ phải được thành sự hóa cách đơn thuần, nghĩa là phải cử hành nghi thức kết hôn theo giáo luật.
b- Bao hàm miễn chuẩn ngăn trở, thể thức
Luật điều trị tại căn quy định: …"bao hàm việc miễn chuẩn một ngăn trở, nếu có, và thể thức giáo luật, nếu đã không được tuân giữ…," (đ. 1161§1).
Ơn ban điều trị tại căn bao hàm việc miễn chuẩn một ngăn trở, nếu có, và thể thức giáo luật. “Bao hàm” không có nghĩa là bao gồm. Vì vậy, không phải xin miễn chuẩn cho từng ngăn trở hoặc thể thức giáo luật nữa. Không cần phải làm các đơn xin miễn chuẩn khác nhau: đơn xin miễn chuẩn khác đạo, đơn xin miễn chuẩn thể thức, đơn xin điều trị tại căn... Chỉ cần làm một đơn xin điều trị tại căn là đủ, trong đó có nêu ra những ngăn trở hay thiếu thể thức giáo luật và những lý do để xin điều trị tại căn hôn nhân đã bị vô hiệu.
c- Hồi tố của những hiệu quả giáo luật
Hồi tố những hiệu quả có nghĩa là công nhận lại những hiệu quả đã có từ trước. Những giá trị, những quyền lợi và bổn phận của một hôn nhân (bất thành) mà trước đây đã không được Giáo Hội công nhận nay lại được công nhận khi ơn điều trị tại căn được ban; không kể từ lúc điều trị tại căn nhưng kể từ khi kết hôn trước kia. Nói cách khác, hôn nhân được kể là hữu hiệu kể từ khi cử hành ưng thuận trước, hoặc kể từ một kết hôn bất thành được cử hành, không kể từ ngày được điều trị tại căn.
Trong lịch sử Giáo Hội, điều trị tại căn có ý để hồi phục quyền lợi cho những đứa con sinh ra trong cuộc hôn nhân bất thành đó, đặc biệt là cho những đứa con trong hàng vua quan quý tộc.
Điều trị tại căn còn giúp tránh sự đối chọi với luật dân sự về việc nhìn nhận giá trị của hôn nhân, liên quan đến những quyền lợi và bổn phận, nhất là trong một quốc gia, luật kết hôn dân sự và tôn giáo có những liên kết với nhau. Ví dụ như trong một quốc gia, luật dân sự công nhận kết hôn Công Giáo. Sau một thời gian kết hôn, ví dụ 5 năm, thì mới khám phá ra hôn nhân bị vô hiệu. Những bổn phận và quyền lợi của đôi hôn nhân này, cũng như con cái, thực hiện trong 5 năm qua đối với xã hội dân sự thì được công nhận, nhưng đối với Giáo Hội thì không, vì hôn nhân bất thành. Điều trị tại căn hôn nhân đó giúp hồi tố lại gía trị hôn nhân kể từ 5 năm trước.
Cũng vì lợi ích trên, điều trị tại căn đã được sử dụng từ lâu trong Giáo Hội, nơi các quốc gia Công Giáo.
9.2.2. Quyền ban điều trị tại căn:
a- Tông Tòa
Dành cho Tông tòa ban ơn điều trị tại căn khi:
- Hôn nhân có những ngăn trở dành riêng cho Tông Tòa (Vd. tội ác, chức thánh) hoặc khi đã chấm dứt ngăn trở thuộc luật tự nhiên hoặc thuộc luật thiết định của Thiên Chúa (đ. 1165§2).
Ví dụ, một hôn nhân bất thành do có ngăn trở dây hôn phối (thuộc luật thiết định của Thiên Chúa) nay chấm dứt do người phối ngẫu bị chết, việc điều trị tại căn dành cho Tông Tòa.
- Ban cho nhiều trường hợp một lần (đ. 1165§2). Ví dụ như ban một lần cho nhiều cặp đã kết hôn, nhưng kết hôn bị vô hiệu do một linh mục không có năng quyền (Vd. cha sở đã chịu chức bất thành hoặc ngài chưa được rửa tội!).
b- Giám Mục Giáo Phận
Giám Mục Giáo Phận có quyền ban điều trị tại căn khi (đ. 1165§2):
- Hôn nhân có những ngăn trở mà không dành riêng cho Tông Tòa;
- Ban cho từng trường hợp, ngay cả khi có nhiều lý do bất thành.
Đối với kết hôn hỗn hợp hay dị giáo, thì cần hội đủ điều kiện ở điều 1125 (điều kiện bên Công Giáo phải cam kết tránh nguy hiểm mất đức tin, giáo dục con cái …)
9.2.3. Phạm vi của việc ban điều trị tại căn
a- Miễn chuẩn ngăn trở
Việc điều trị tại căn bao hàm chuẩn các ngăn trở nếu có, nhưng không phải bất cứ hôn nhân nào vô hiệu do ngăn trở cũng được điều trị tại căn.
Nếu hôn nhân vô hiệu do mắc ngăn trở theo luật tự nhiên hay thiết định của Thiên Chúa, thì không được điều trị tại căn (Vd. bất lực giao hợp, dây hôn phối, anh em ruột …) trừ khi các ngăn trở chấm dứt (đ. 1163§2). Trong trường hợp ngăn trở này chấm dứt thì cũng phải xin Tông Tòa ban điều trị tại căn (đ. 1165§2).
Trong trường hợp vừa nói trên chỉ có Tông Tòa mới có quyền ban điều trị tại căn, Giám Mục không có thẩm quyền. Vì vậy, nếu ngăn trở tự chấm dứt, nên thành sự hóa bằng con đường thành sự hóa đơn thuần cho thuận tiện, nghĩa là chỉ cần cử hành lại nghi thức ưng thuận theo giáo luật.
b- Miễn chuẩn thể thức
Trong điều tại căn có bao hàm việc miễn chuẩn "thể thức giáo luật nếu đã không được tuân giữ" (đ. 1161§1). Thể thức giáo luật không được tuân giữ có nghĩa là đã có cử hành nhưng bị hà tỳ đến mức vô hiệu hoặc đã không có cử hành.
1) Thể thức giáo luật bị hà tỳ (defected) có thể do: cha chứng hôn thiếu năng quyền, thể thức bị khiếm khuyết điều kiện để thành sự, ví dụ như không có người làm chứng trong nghi thức.
Trong những trường hợp trên, phần lỗi không thuộc về phía giáo dân nhưng về phía cha sở. Việc điều trị tại căn một cách âm thầm, không cho đôi bạn được biết (đ. 1164), thì được phép nếu có lý do nghiêm trọng. Đây quả là một giải pháp thuận lợi tránh được sự bối rối cho tín hữu.
2) Thể thức giáo luật đã không được cử hành.
Điều cốt yếu của một kết hôn chính là sự ưng thuận của đôi bên được biểu lộ cách hợp thức (đ. 1057). Vì vậy nếu hai người Công Giáo chưa có cử hành thể thức ưng thuận thì cũng không thể nào miễn chuẩn thể thức được.
Tuy nhiên, theo điều 1127§2 quy định, Đấng Bản Quyền địa phương có thể miễn chuẩn thể thức giáo luật cho hôn nhân hỗn hợp hay khác đạo nếu có khó khăn nghiêm trọng ngăn cản việc tuân giữ nó. Trong miễn chuẩn này, Giáo Luật đòi hỏi một điều thiết yếu để thành sự: phải có cử hành một thể thức kết hôn công (public) nào đó.
Dựa theo quy định của điều 1127§2 về miễn chuẩn thể thức, thì những hôn nhân khác đạo bất thành, giữa người Công Giáo và người lương, hoặc hôn nhân hỗn hợp giữa người Công Giáo và Tin Lành… có thể được điều trị tại căn. Việc điều trị tại căn này bao hàm:
- Miễn chuẩn ngăn trở khác đạo
- Miễn chuẩn thể thức giáo luật
Điều kiện là họ đã phải có cử hành một thể thức kết hôn công (public) nào đó theo điều 1127§2 đòi hỏi. Điều kiện này được coi là thỏa mãn, nếu trước đây, đã có cử hành một kết hôn dân sự, như đã đăng ký và được chứng hôn bởi chính quyền, hoặc đã có đám cưới theo tục lệ địa phương. Ngược lại, Nếu đôi bạn, chỉ có sống chung, chỉ có kết ước riêng tư thì không thể được điều trị tại căn. Để họ được thành sự hóa, phải dùng giải pháp thành sự hóa đơn thuần, tức là cử hành thể thức kết hôn theo giáo luật.
Ví dụ:
Một bà Công Giáo đã kết hôn dân sự với một người lương đã lâu. Nay bà xin giúp bà hợp thức hóa hôn nhân để an tâm giữ đạo. Người chồng lương, tuy vẫn muốn duy trì đời sống vợ chồng, nhưng lại không chấp nhận cử hành nghi thức hôn nhân đạo dù ở nhà thờ hay tại nhà tư.
Trong trường hợp này nên xin Đức Giám Mục Giáo phận ban ơn điều trị tại căn, bao hàm việc miễn chuẩn ngăn trở khác đạo và miễn chuẩn thể thức giáo luật. Tuy nhiên bà phải tuyên bố tránh xa nguy hiểm đức tin... theo quy định của điều 1125.
Giải thích: Hai vợ chồng bà đã biểu lộ sự ưng thuận làm nên vợ chồng trong kết hôn theo thể thức dân sự, tức là có đăng ký kết hôn ở chính quyền và/hoặc có kết hôn theo tục lệ Việt Nam (thể thức ưng thuận công, public). Sự ưng thuận như vậy đã có và bây giờ vẫn chắc chắn duy trì nên việc điều trị tại căn được ban cách hợp luật.
Nếu họ đã không có kết hôn dân sự, chỉ có tự động giao ước sống chung vợ chồng (thể thức ưng thuận tư, private) thì không được điều trị tại căn. Họ chỉ có thể được thành sự hóa cách đơn thuần, nghĩa là, phải cử hành kết hôn theo thể thức giáo luật.
Theo quy định thì, nếu có lý do nghiêm trọng, ví dụ như người chồng bách hại việc giữ đạo, thì không cần cho ông ấy biết là có sự điều trị tại căn (đ.1164) và những cam kết của bên Công Giáo theo đòi hỏi của điều 1125.
d- Điều kiện để điều trị tại căn
Để điều trị tại căn một hôn nhân bất thành, luật đòi hỏi phải biết chắc chắn là đôi bên muốn duy trì đời sống vợ chồng (đ. 1161§3).
Nếu họ chưa dứt khoát duy trì đời sống vợ chồng thì cứ để tình trạng rối hôn phối tiếp diễn, không được điều trị.
Nếu họ muốn chia tay, thì Giáo Hội có thể tuyên bố hôn nhân của họ bất thành và cho chia tay, không tiến hành điều trị tại căn.
e- Ngay cả khi cả hai bên hoặc một bên không biết
Điều 1164 quy định: “Điều trị tại căn có thể được ban thành sự, ngay cả khi hai bên hoặc một bên không biết, nhưng chỉ được ban vì một lý do nghiêm trọng”.
Việc điều trị tại căn có thể xảy ra do lỗi của cha chứng hôn, như cử hành thể thức bị khiếm khuyết hoặc cha thiếu năng quyền khiến hôn nhân bị vô hiệu. Có thể không cho các bên biết để tránh bất ổn.
Đôi khi, trong hôn nhân khác đạo, bên người lương chống đối hoặc bách hại việc giữ đạo của bên Công Giáo, việc điều trị tại căn nên làm âm thầm không cho bên người lương biết.
9.2.4. Một giải pháp mục vụ thiết thực
a- Khi linh mục chứng hôn bị sai lầm
Đôi khi cha chứng hôn bị sai lầm khiến việc kết hôn vô hiệu. Quả là bất tiện hoặc rắc rối nếu cha gọi đôi hôn nhân đến nhà thờ để cử hành hôn phối lại một lẫn nữa! Bằng giải pháp điều trị tại căn, vì không đòi phải cử hành kết hôn một lẫn nữa, tránh được sự gây bối rối cho đôi bạn kết hôn, tránh được thắc mắc và phê bình của tín hữu về phía cha chứng hôn.
Ví dụ 1
Sau khi cử hành cho hôn phối khác đạo, cha sở nhận ra rằng mình đã quên xin miễn chuẩn ngăn trở khác đạo. Hôn nhân vô hiệu cho dù cha vô tình quên sót. Cha sở nên xin Đức Giám Mục điều trị tại căn bằng một đơn xin, không cần phải cử hành lại thể thức kết hôn.
Ví dụ 2
Sau khi cử hành hôn phối được nhiều năm, cha sở được phát hiện là cha chưa được rửa tội. Do đó, cha đã chịu chức không thành sự và những đôi cha đã chứng hôn đều vô hiệu. Nhiều đôi hôn phối có thể được điều trị tại căn một lúc bởi Tòa Thánh. Đơn xin được làm bởi Đấng Bản quyền, không cần phải bởi những đôi hôn phối.
b- Khi giáo dân bị ngăn trở tiêu hôn
Một trường hợp khác có thể xảy ra: ngăn trở tiêu hôn (Vd. ngăn trở huyết tộc) được khám phá sau khi hai vợ chồng đang sống hạnh phúc với những đứa con đã lớn. Việc lập lại nghi thức kết hôn quả là gây ra sự bất bình an, thắc mắc và phê bình. Điều trị tại căn sẽ giúp tránh những sự bất ổn này.
Ví dụ 3
Một tu sĩ đã khấn khiết tịnh vĩnh viễn được phép xuất ra ngoài dòng sống nhưng chưa được giải lời khấn. Sau một thời gian, người này tiến tới kết hôn, hoặc tưởng rằng mình đã được miễn chuẩn lời khấn hoặc cố tình giấu giếm. Người này xin và đã được cha sở cho cử hành hôn nhân. Sau đó, hôn nhân được khám phá ra là bất thành do có ngăn trở lời khấn dòng. Khi ngăn trở khấn dòng đã được giáo quyền miễn chuẩn, đôi này có thể được hợp thức hóa bằng việc điều trị tại căn.
c- Khi phía bên lương hay Tin Lành từ chối cử hành nghi thức đạo
Ở Việt Nam hiện nay có nhiều trường hợp hôn nhân khác đạo mà trước đó chỉ có cử hành theo luật dân sự, do bên người lương không chịu đến nhà thờ hoặc gặp linh mục để tiến hành nghi thức kết hôn. Điều trị tại căn giúp hợp thức hóa hôn nhân cho họ.
Trường hợp, ví dụ, một bà Công Giáo kết hôn với người lương mà người lương này lại không chịu đến nhà thờ hoặc không chịu đến gặp linh mục, là một trường hợp điển hình, đang có rất nhiều ở Việt Nam. Việc điều trị tại căn là một giải pháp thực hiện được, giúp hợp thức hóa để cho người Công Giáo yên tâm sống đạo.
Quy định của điều 1125 đòi buộc người Công Giáo phải hứa xa tránh nguy hiểm mất đức tin …và phải thông báo cho bên kia biết. Trong trường hợp thấy bất lợi cho người Công Giáo hay có khó khăn thì có thể miễn thông báo cho bên không Công Giáo biết. Vì theo nguyên tắc, điều trị tại căn có thể tiến hành mà không cần cho các bên biết.
Thực tế, có những trường hợp, do bên kia ghét đạo, bên Công Giáo phải lén lút giữ đạo và âm thầm cho con được rửa tội. Cha sở nên giúp bên Công Giáo được điều trị tại căn miễn là thấy họ có thành tâm và có ý muốn giữ đạo tốt.
d- Mẫu đơn được đề nghị
Ở phần phụ lục, có hai mẫu đơn được phác thảo, một dành cho trường hợp hôn nhân bị vô hiệu đơn thuần do có ngăn trở, một dành cho trường hợp hôn nhân khác đạo đang rối mà bên lương không chịu cử hành nghi thức Công Giáo.
Việc đứng đơn xin thì tùy nghi, hoặc cha sở hoặc một hay hai bên đứng đơn.
Hai mẫu đề nghị này đều để đôi bạn đứng đơn xin và cha sở nêu ý kiến bên dưới đơn. Trong trường hợp, có lý do nghiêm trọng, không muốn cho đôi bạn biết việc điều trị tại căn, thì cha sở đứng tên xin, với nội dung đơn xin tương tự.
Đơn được gởi lên Đức Giám Mục Giáo phận, không gởi đến các Đấng Bản Quyền khác (Tổng Đại Diện, Đại Diện Giám Mục) như trong các trường hợp xin miễn chuẩn thông thường.
[1] x. L. SABBARESE, Il matrimonio canonico… 394.
[2] x. J.P. BEAL et alii, New Commentary…, 1382.
Trong trường hợp ngăn trở còn kín đáo thì một bên biết có ngăn trở bên tỏ bày sự ưng thuận trước vị chứng hôn là đủ, không cần có hai nhân chứng. Bên không biết có ngăn trở, không buộc lập lại ưng thuận, có thể hiện diện hoặc không.
[3] Ví dụ, một hôn nhân do ngăn trở chỉ có kết hôn dân sự, thì cuộc sống chung của hai vợ chồng không đơn thuần là việc sống dâm dục với nhau. Đức Gioan Phaolô II (x. Tông huấn Familiaris Consortio, 82) nói không chỉ là chuyện họ sống dâm dục nhưng họ cũng có những ràng buộc vợ chồng, khi họ đi tìm sự công nhận vợ chồng từ chính quyền hay xã hội.
Nguồn: giaoluatconggiao.com
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn