Suy niệm tuần II Phục sinh - Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê

Thứ năm - 24/04/2025 22:05  155
Chúa Nhật 2 PS/C
TRUYỀN GIÁO BẰNG CÁCH CHẠM VÀO (Tưởng nhớ Đức Giáo hoàng Phanxicô)
I.
Đức Giáo hoàng Phanxicô chắc chắn là người được yêu quý nhất trên thế giới. Chúng ta hãy suy nghĩ về điều này trong giây lát: hàng triệu tín đồ ở các quảng trường, các chuyến viếng thăm mục vụ đến mọi ngóc ngách trên trái đất, các buổi tiếp kiến, các cuộc gặp gỡ với người bệnh, người nghèo, tù nhân, trẻ em, thanh thiếu niên... Vào cuối mỗi buổi tiếp kiến ​​riêng tại Điện Tông tòa, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chào đón hàng trăm người tham dự và bắt tay từng người. Bao nhiêu cái ôm. Bao nhiêu sự vuốt ve. Có bao nhiêu cái bắt tay. Và ngài không bao giờ lùi bước. Ngài chưa bao giờ nói ‘đừng chạm vào tôi’ (trừ lần có một người phụ nữ cố tình túm lấy ngài!). Đức Giáo hoàng Phanxicô đang tìm liên hệ, tương quan. Ngài cúi xuống, ôm và vuốt ve. Tại sao? Bởi vì chạm vào là một trong những ngôn ngữ đặc quyền của tình yêu. Chạm vào có nghĩa là nhận ra, chào đón, an ủi. Đôi tay lên tiếng khi lời nói không đủ sức diễn tả; trên thực tế, chúng thường có sức mạnh hơn lời nói. Các bà mẹ hiểu rõ điều này hơn ai hết và họ dỗ dành con mình bằng cách vuốt ve. Các bác sĩ biết điều này khi họ chạm vào cơ thể người bệnh. Các linh mục biết điều này nên họ cử hành các bí tích và xức dầu thánh lên thân thể người chết. Những người yêu nhau và bạn bè đều biết điều đó khi họ nắm tay nhau. Các nhà giáo dục biết điều này khi họ đặt tay lên vai học sinh, truyền cho chúng sự tự tin và lòng can đảm. Đức Giáo hoàng Phanxicô thường nói về ba ngôn ngữ cơ bản của giáo dục và đức tin: trí óc, trái tim và đôi tay. Chỉ suy nghĩ thôi thì không đủ. Chỉ cảm nhận thôi thì chưa đủ. Chúng ta phải hành động. Bạn phải chạm vào. Một nền giáo dục chỉ giới hạn ở ý tưởng hoặc cảm xúc thì chưa hoàn thiện. Cần phải có cử chỉ. Chúng ta cần phải cụ thể. Chúng ta cần đôi bàn tay biết xây dựng, biết phục vụ, biết vuốt ve, biết âu yếm. Giáo dục bằng cách chạm vào. Truyền bá phúc âm bằng cách chạm vào. Đây chính là phong cách của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Đây chính là Phúc Âm.
II.
Tông đồ Tôma, như chúng ta đã nghe trong Phúc Âm Chúa Nhật này, không hài lòng với việc nghe biết từ người khác rằng Chúa Giêsu đã phục sinh. Và thậm chí việc ông nhìn thấy Người vẫn chưa đủ. Ông cỏn muốn chạm vào Người: ‘Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, và nếu tôi không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi sẽ không tin’. Giống như người phụ nữ bị băng huyết: việc bà thấy Chúa Giêsu đi qua hay lắng nghe lời Người là chưa đủ. Bà phải chạm vào Người để được chữa lành. Giống như Maria Mađalêna: việc chứng kiến ​​Chúa sống lại thôi là chưa đủ đối với bà. Bà muốn giữ Người lại. Tôma muốn chạm vào các vết thương, muốn bước vào thân thể bị đóng đinh. Và Chúa Giêsu để cho mình được chạm đến. Người không nói với ông rằng, ‘Đừng chạm vào tôi’. Người đưa tay ra. Người bày tỏ chính mình. Người không hề ngại ngùng. Bởi vì đức tin không phải là trừu tượng. Đó là cơ thể. Đó là sự hiện diện. Đó là một mối quan hệ. Trong suốt thời gian rao giảng, Chúa Giêsu đã chạm đến con người để chữa lành, ban phước và giao tiếp với họ. Và sau khi phục sinh, Người vẫn tiếp tục được chạm đến. Trước sự kinh ngạc của các tông đồ, Chúa Giêsu mời họ chạm vào thân thể Người: ‘Hãy xem tay và chân Ta: chính Ta đây! Hãy rờ vào Ta và hãy xem; ma không có thịt và xương như các ngươi thấy Ta có’.
III. Để kết luận.
Có một phương pháp chữa bệnh bằng tay. Ngay cả khi khoa học không phải lúc nào cũng công nhận, chúng ta đều biết tác dụng sâu sắc của nó: một bàn tay vuốt ve, chạm vào bằng tình yêu thương có một sức mạnh bí ẩn. Nó có tác dụng làm dịu. Nó chữa lành. Nó trấn an. Đã bao nhiêu lần một cử chỉ yêu thương có thể làm chúng ta vơi đi nỗi đau, mang lại cho chúng ta sự bình yên, và chạm đến trái tim tốt hơn ngàn lời nói. Đức tin cũng hoạt động như thế đó: nó không chỉ là một ý tưởng để hiểu, mà là một thực tế sống động để chạm vào và được chạm vào.
Ngoài ra còn có một bài hát của Elton John có tên là Healing Hands (Những bán tay chữa lành). Nó nói chính xác về nhu cầu sâu sắc của chúng ta đối với đôi bàn tay biết chữa lành, yêu thương và an ủi. Ông nói: ‘Hãy đưa tay chữa lành của Người ra / Có ánh sáng nơi bóng tối kết thúc / Hãy chạm vào con ngay bây giờ và cho con thấy bàn tay chữa lành của Người’.
Đây là Chúa Nhật đầu tiên không có Đức Giáo hoàng Phanxicô, và chúng ta đã vô cùng nhớ ngài. Thiếu đi sự vuốt ve, bàn tay và cái ôm của Ngài. Bàn tay của Ngài đã chạm đến thân xác đau khổ của thế gian. Và thế giới khi chạm vào nó đều cảm thấy được yêu thương.
Kính gửi Đức Giáo hoàng Phanxicô, hàng triệu bàn tay đã chạm đến ngài, và đến lượt mình, ngài cũng đã chạm đến trái tim của thế giới. Ngài đã nắm lấy đôi bàn tay run rẩy, Ngài đã vuốt ve những khuôn mặt đầy vết thương và biến dạng, Ngài đã ôm lấy những người bị từ chối, Ngài đã rửa và hôn chân, Ngài đã trao ban sự bình an. Ngài đã giáo dục bằng cách chạm vào. Ngài tin tưởng bằng cách chạm vào. Ngài đã truyền giáo bằng cách chạm vào. Và chúng con, qua bàn tay của Ngài, đã chạm vào Chúa Kitô. Bây giờ Ngài đã ở trong tay Chúa, Ngài nhận được sự vuốt ve vĩnh cửu của Chúa. Và kính thưa Đức Thánh Cha, người luôn yêu cầu chúng con cầu nguyện cho (Xin hãy nhớ cầu nguyện cho tôi với), giờ đây hãy cầu nguyện cho chúng con. Hãy nói với Chúa rằng chúng con vô cùng biết ơn Người vì đã ban cho Giáo hội và thế giới một vị Giáo hoàng như cha, và cũng xin thay mặt chúng con mà ôm và vuốt ve Chúa. A-men.
+++
Chúng ta đang ở Chúa Nhật thứ hai sau Lễ Phục Sinh, còn được gọi là Chúa Nhật Lòng Thương Xót. Chúng ta hãy đọc dưới ánh sáng của lòng thương xót hai cuộc biểu lộ của Chúa Giêsu, một vào Chúa Nhật Phục Sinh, cuộc kia vào Chúa Nhật tiếp theo. Trong biểu hiện đầu tiên, chúng ta thấy các tông đồ giam mình trong phòng tiệc ly vì sợ người Do Thái. Họ tụ họp ở đó vào ngày Chúa Nhật. Bất chấp lời loan báo về sự Phục sinh của Maria Madalêna, nỗi sợ hãi vẫn ngự trị. Và Chúa Giêsu làm gì? Người đi đến gặp họ, bước vào qua cánh cửa đóng kín; chào đón/ban sự bình an và cho biết về mình. ‘Các môn đồ vui mừng khi thấy Chúa.’ Đây chính là điều giải thoát các môn đệ khỏi nỗi sợ hãi: sự hiện diện của Chúa Giêsu, lòng thương xót của Người!
Chúng ta cũng có thể sợ phải đối mặt với một số tình huống nhất định, gặp gỡ một số người nhất định; chúng ta cũng có thể cảm thấy nản lòng trước những khó khăn có thể dẫn đến một số quyết định quan trọng mà một số người có thể không thích và phản đối. Và chúng ta cũng có thể cảm thấy sợ mắc lỗi lần nữa, sợ không đạt yêu cầu, sợ không làm được... Điều gì giúp chúng ta tiến lên? Tiếp xúc với Chúa Giêsu hằng sống, để Người chạm đến chúng ta, đặc biệt khi chúng ta tụ họp với cộng đồng để cử hành Bí tích Thánh Thể. Vâng, chính sự hiện diện của Người soi sáng tâm hồn, chính lòng thương xót của Người làm cho tâm hồn được bình an! Và thật đẹp khi lưu ý điều sau đây: Chúa Giêsu không những không nói một lời trách móc nào với các môn đồ mà còn đổ Thánh Thần của Người trên họ và sai họ trở thành khí cụ tha thứ của Người cho người khác. Ở đây chúng ta thấy quyền năng cao cả được giao phó cho Giáo hội: truyền bá ơn tha tội, trước tiên qua phép rửa tội và bí tích hòa giải, sau đó qua lời nói, cử chỉ, dấu chỉ cụ thể giúp truyền bá văn hóa lòng thương xót, phá vỡ những bức tường oán giận, hiềm khích và hận thù! Thật tốt biết bao khi để Chúa tha thứ cho chúng ta trong việc xưng tội; và thật tốt biết bao khi chúng ta cũng tha thứ... Ai biết được liệu chúng ta có mở lòng đón nhận vẻ đẹp như vậy và có trải nghiệm được sự dịu dàng tuyệt vời như vậy không!
Lòng thương xót cũng là chìa khóa để hiểu cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với Tôma. Tôma không có mặt cùng những người khác vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh; Người ta không biết ông ở đâu. Chắc chắn, rõ ràng là ông không muốn tin vào trải nghiệm Phục Sinh của các tông đồ khác. Ai biết được, có lẽ sau ‘cái giá’ phải trả cho việc bỏ rơi Chúa Giêsu trên thập giá, và ‘sự biến mất’ của thân xác Người, ngài không chấp nhận ở lại khép kín trong phòng tiệc ly với những người khác và một mình tìm kiếm câu trả lời ở nơi khác. Tuy nhiên, Tôma vẫn có mặt ở đó vào Chúa Nhật tuần sau, cùng với cộng đồng tụ họp trong phòng tiệc ly; chúng ta có thể nói rằng ông đã tự đặt mình vào vị trí có thể gặp được Chúa Giêsu. Và kìa, Đấng Phục Sinh đến gặp Tôma, lặp lại từng lời mọi điều ông đã nói trong sự ngoan cố không thể tin nổi của mình (‘nếu tôi không thấy... nếu tôi không đặt ngón tay...’). Với lòng thương xót lớn lao, Chúa Giêsu đã cứu Tôma khỏi sự nghi ngờ của ông và cứu chính ông nữa. Thánh Tôma, người đã nói bằng lời: ‘chúng ta cũng hãy đi và chết với Người’ đã thất bại; giờ đây ông hiểu rằng chính Chúa Giêsu đã hiến mạng sống mình vì ông và ông cảm thấy và khám phá ra rằng mình được yêu thương, được tìm kiếm, được tha thứ. Bằng cách thâm nhập sâu xa vào sự thân mật của Chúa Kitô, Tôma đã được đưa lên một tầm cao mà không ai khác cho đến lúc đó đạt tới được. Thậm chí còn cao hơn cả Gioan, người chỉ được phép tựa đầu vào ngực Chúa, nhưng vẫn ở bên ngoài. Như bị sét đánh, Tôma quỳ xuống và kêu lên: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa tôi!’ Chưa có một vị tông đồ nào dám nói với Chúa như thế này: ‘Lạy Chúa tôi. Chúa Giêsu yêu thương ông rất nhiều, Người đã chữa lành ông bằng sự ngọt ngào đến nỗi Người đã biến đổi tội lỗi và sự sỉ nhục này thành một ký ức tuyệt vời. Do đó, Chúa Kitô tha thứ tội lỗi. Ngài biết cách biến mọi tội lỗi của con người thành ‘tội hồng phúc’ (như phụng vụ hát trong bài Exultet Công bố Tin Mừng Phục sinh).
LỜI CẦU NGUYỆN Lạy Chúa, là Cha nhân từ, Đấng đã mặc khải tình yêu của Chúa nơi Con Chúa là Chúa Giêsu Kitô, và đổ tình yêu đó xuống trên chúng con trong Chúa Thánh Thần, Đấng An ủi, hôm nay chúng con trao phó cho Chúa vận mệnh của thế giới và của mọi người. Xin cúi xuống trên chúng con là những tội nhân, chữa lành sự yếu đuối của chúng con, đánh bại mọi sự dữ, xin cho mọi cư dân trên trái đất được trải nghiệm Lòng Thương Xót của Chúa, để nơi Chúa, Thiên Chúa Ba Ngôi, họ luôn tìm thấy nguồn hy vọng. Lạy Cha hằng hữu, vì cuộc Khổ nạn và Phục sinh đau thương của Con Cha, xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Amen

Chúa Nhật II PS/B
Các ngôn sứ đã gọi Đấng Messia là ‘Hoàng Tử Bình An’(Is 9,5); họ đã khẳng định rằng một nền hòa bình vững bền mãi là đặc tính của vương quốc Ngài (Is 9,6; 11,6). Khi Đức Giêsu sinh ra, các thiên sứ từ trời cao đã loan báo bình an dưới thế cho người thiện tâm (Lc 2,14). Chính Đức Giêsu cũng đã nói: ‘Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng’(Ga 14,27).
Trên núi Cây Dầu, khi ngắm vẻ huy hoàng của Giêrusalem, Đức Giêsu ứa lệ thổn thức than trách dân của Ngài: ‘Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! (Lc 19,42). Bình an là ân ban của Đấng Cứu Thế. Ngài đã mang lại cho ta bằng đau khổ và hy sinh, cùng với cái chết và sự sống lại của Ngài.  Thánh Phaolô đã viết: ‘Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần. Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét (Ep 2,13-14). Khi từ cõi chết sống lại, tỏ mình cho các tông đồ, Đức Giêsu đã ban cho họ trước hết sự bình an, là ơn cao trọng cho người được cứu chuộc. ‘Bình an cho anh em’. Thấy mọi người hoảng sợ, Ngài đã trấn an họ là chính Ngài đã sống lại từ cõi chết và còn lập lại ‘Bình an cho anh em’.
Đức Giêsu muốn ban tặng ơn huệ cao quý của Đấng Cứu Chuộc – bình an – không chỉ cho các tông đồ mà còn cho tất cả những ai đã tin và sẽ tin vào Ngài. Do đó Ngài đã sai các tông đồ loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi dân tộc trên địa cầu, ban cho họ quyền mang bình an tâm hồn đến cho mọi người qua các bí tích rửa tội, giao hòa, ơn tha thứ tội lỗi. Đức Kitô còn thổi hơi trên các tông đồ và nói: ‘Các con hãy nhận lấy Thánh Thần; các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha; các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm buộc’(Ga 20,21-23).
Thánh vịnh còn bảo đảm với ta: ‘Đại bình an cho người yêu mến lề luật Chúa’ (Tv 119,165)
Đấng Phục Sinh đến tìm bạn
Các tin mừng của ngày Chúa Nhật này đặt cho ta câu hỏi: Làm sao ta có thể gặp được Đấng Phục Sinh? Ở đâu và bằng cách nào?
Từ sáng cho đến chiều ngày hôm ấy, chỉ mình Gioan thuật lại việc Đức Giêsu hiện ra giữa các ông dù cửa vẫn đóng. Các môn đệ, dù đã được nghe tin báo của sứ thần, vẫn sợ hãi vì người do thái đang tìm bắt họ. Thật đẹp biết bao khi thấy các cửa đóng kín không ngăn được Chúa, sự cứng lòng tin không chặn được khao khát của Thiên Chúa muốn gặp chúng ta.
Các cửa đóng kín của ta không ngăn được Đấng Phục sinh! Tình Yêu của Ngài mạnh hơn sự sợ hãi của ta. Cứ tưởng rằng họ đang chờ một lời quở trách, vì họ đã bỏ Chúa và phản bội Ngài; nhưng không, Đức Giêsu không trả thù: Ngài loan báo sự bình an và ban Thánh Thần
Những lời đầu tiên của Đấng Phục sinh là một ơn ban hạnh phúc. Từ do thái Shalom (mà ta dịch là bình an) diễn tả tất cả những gì mang lại hạnh phúc, và sự sống tràn đầy. Không phải là một lời mời gọi hay lời cầu chúc (ước gì bình an ở cùng anh em), nhưng là một lời xác quyết, một ân ban: bình an đang ở đây, đang ở trong anh em, đã khởi đầu. Đấng Phục sinh ban tặng cho con người tất cả những gì mang lại hạnh phúc.
Và Ngài nói với họ:’Các con hãy nhận lấy Thánh Thần’. Việc đón nhận Thánh Thần tùy thuộc vào khả năng tình yêu của con người. Tựa như Đấng Phục sinh nói: ‘Hãy nhận lãnh điều mà anh em có thể nhận lãnh’. Phục sinh là một tin vui, nhưng không dễ để tin. Nên ta có 50 ngày để suy tư và hoán cải và ta có một người bạn đồng hành: Thánh Tôma tông đồ. Trong các tin mừng Ngài đã nói một lời tuyên xưng đức tin thật đẹp nhưng trong lịch sử Ngài vẫn được xem như kẻ cứng lòng tin.
Trong tin mừng Gioan, tên của Tôma được nhắc đến 7 lần và ba lần ông còn được gọi là Đyđimô, nghĩa là sinh đôi. Sinh đôi với ai? ‘Sinh đôi’ với Đức Giêsu.Vì sao nói thế? Khi đến nhà Lazarô để cho ông này sống lại sau khi chết bốn ngày, các môn đệ đều sợ hãi khi phải quay lại Giuđêa nơi mà các thuọng tế đang tìm cách bắt Ngài, và chỉ có mỗi Tôma can đảm nói ‘chúng ta cùng đi để cùng chết với Ngài’.
Tôma không sợ hãi như những môn đệ khác (họ đang ở cùng nhau đóng kín cửa). Tôma đã hiểu rằng không cần hy sinh mạng sống vì Đức Giêsu, nhưng còn với Đức Giêsu và như Đức Giêsu nữa. Đó chính là ý nghĩa của tên gọi ‘Sinh đôi’ của ông, sinh đôi với Đức Giêsu, người anh em giống Đức Giêsu. Nhưng Tôma cũng còn là anh em sinh đôi của chúng ta nữa, là một trong nhóm mười hai, mẫu mực của người môn đệ. Thực tâm chúng ta cũng chẳng khác gì Tôma, để tin chúng ta không chỉ bằng lòng lắng nghe mà còn muốn chạm đến nữa. Ta giống Ngài vì một niềm tin có chút nghi ngờ, đừng quên rằng nghi ngờ là chất xúc tác dẫn đến đức tin (Đức Mara cũng đã diễn tả điều ấy với sứ thần ngày truyền tin).
Nhưng nhất là Tôma  không tin các bạn mình. Tại sao thế? Đơn giản bởi lẽ họ không đáng tin. Làm sao ông có thể tin những người đã trốn chạy khỏi cây thập giá, để lại mỗi mình Thầy trong cơn hấp hối. Là những kẻ giả hình. Làm sao có thể tin Phêrô người đã chối Chúa ba lần! Đó cũng là kinh nghiệm ta đang sống khi đang loan báo tin mừng và dân chúng không tin chúng ta. Có biết vì sao không? Vì chúng ta không đáng tin bao nhiêu.
Nhưng Tôma không rời bỏ nhóm và tám ngày sau vẫn còn về lại đó và còn làm tốt để Đấng Phục Sinh quay trở lại! Cuộc gặp này, xảy ra ngay trong cộng đoàn chứ không phải nơi nhà riêng của ông. Nơi gặp mặt là cộng đoàn quy tụ, một cộng đoàn tầm thường đã thuật lại những sự kiện ngay cả đến việc phản bội của một người trong nhóm họ nữa. Thật an ủi khi biết rằng cuộc gặp mặt Đấng Phục sinh không xảy ra nơi một cộng đoàn lý tưởng và hoàn hảo (sẽ không bao giờ có!) nhưng là trong cộng đoàn Ngài đang sống, trong cộng đoàn mà Đấng Phục sinh mời gọi bạn tiến bước. Chính là nơi ta hiện sống mà Đấng Phục sinh muốn gặp ta.
Đức Giêsu không dành cho Tôma những cuộc hiện ra riêng biệt nhưng hiện ra với ông ‘tám ngày sau’, nghĩa là khi cộng doàn họp nhau lần nữa để cử hành Thánh Thể. Thật hay khi biết rằng Đấng Phục sinh vẫn trở lại, dù tôi chậm trễ mở lòng ra với Ngài. Ngài kiên nhẫn, và không bao giờ mỏi mệt, ngừng trở lại để gặp tôi. Cũng như Ngài đã luôn tìm kiếm con chiên lạc.
Đức Giêsu bảo Tôma đặt ngón tay vào lỗ đinh và cạnh sườn Ngài, nhưng chắc Tôma đã không dám làm (chỉ có trong những bức tranh vẽ việc Tôma xỏ ngón tay vào lỗ đinh và cạnh sườn Chúa). Trái lại Ngài đã tuyên xưng đức tin mạnh mẽ: ‘Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi’.
Đâu là bằng chứng sự phục sinh của Đức Giêsu? Đau khổ và tình yêu! Đó là sự toàn năng của Ngài. Các vết thương của Đấng Phục sinh là dấu chứng của tình yêu.
Và ta có được mối phúc: ‘Phúc cho người không thấy mà tin’. Nghĩa là hạnh phúc cho ta, sau hai nghìn năm, vẫn còn trung thành tìm theo Thầy Giêsu. Là hạnh phúc cho người bắt đầu lại, cho người đã mỏi mệt kiếm tìm. Chúng ta là những người mà Đức Giêsu nói với, tám ngày sau, hai nghìn năm sau, chúng ta vẫn tiếp tục quy tụ với nhau nhân danh Ngài cho dẫu chúng ta chưa hề thấy Ngài. Thiên Chúa giải thoát ta khỏi một niềm tin tự mãn với chính mình, kiêu căng, xem thường những kẻ khó nhọc tìm kiếm đức tin  trong thử thách.
Gioan, ở cuối tin mừng của Ngài, để lại cho ta một khích lệ: trải nghiệm với Đấng Phục sinh là một trải nghiệm cá biệt. Thiên Chúa là một trải nghiệm: cần phải ‘chạm đến Ngài’, thấy Ngài và gặp Ngài. Ta đọc nhiều về tình yêu đó mới chỉ là hiểu biết tri thức, còn cảm nghiệm mình được yêu lại là một điều khác. Là trải nghiệm đưa ta đến sự hiểu biết đích thực, vì trải nghiệm là sự hiểu biết của con tim. Các nghi lễ phụng vụ của ta không cần phải nói về Thiên Chúa, nhưng phải làm cho ta cảm nếm Ngài, chạm đến Ngài, trải nghiệm Ngài.
Gioan kết luận: ‘Đức Giêsu còn làm nhiều điều khác trước mặt các môn đệ, nhưng không được ghi hết trong sách này’. Gioan mời gọi ta viết quyển sách của mình, tin mừng của riêng mình. Các cộng đoàn kitô tiên khởi đã truyền lại cho ta trải nghiệm của họ, đến lượt ta cũng phải viết lại tin mừng của riêng ta để lưu truyền cho hậu thế. Đó là điều đã xảy ra ít nhất là cho đến cuối thế kỷ IV nơi những cộng đoàn kitô tiên khởi. Mỗi cộng đoàn, mỗi giáo xứ cũng cần phải viết tin mừng của riêng mình.
Bao nhiêu thất bại, không quan trọng, vì Ngài đang sống! Bao nhiêu yếu đuối không quan trọng, vì Ngài đang sống! Bao nhiêu phản bội, không quan trọng, vì Ngài đang sống!
Thứ hai Tuần II Phục Sinh
Sinh ra bởi Thần Khí
Nicôđêmô, một trong những thủ lãnh người do thái, đến gặp Đức Giêsu ban đêm; ông muốn thảo luận với Ngài về ơn cứu độ. Trong số những biệt phái, cũng có một ít người cảm tình với Đức Giêsu. Có thể nói được là bất cứ ai thao thức về vấn đề ơn cứu độ; tất cả những ai đặt vấn đề về ý nghĩa tối hậu của cuộc sống.
Đức Giêsu vượt lên trên câu hỏi đặt ra; việc trao ban của Thiên Chúa luôn ở bình diện cao hơn khát vọng riêng của con người, là điều thuộc bình diện trần thế và chóng qua. Ơn cứu độ của con người chính là việc con người tham dự vào cuộc sống mai sau. Vì thế cần phải ‘tái sinh’.
Rõ ràng là vị thủ lãnh do thái cũng biết đến những tôn giáo ngoài do thái giáo, trong đó người ta thường đề cập đến vấn đề tái sinh. Trong các thủ bản Tân Ước khác, bí tích Thánh Tẩy kitô giáo được định nghĩa như là sự sinh ra một lần nữa (thư gởi Titô và thư thứ 1 của Phêrô). Đức Giêsu nêu cho thấy rằng việc sinh lại này không thuộc khả năng của con người: là sinh bởi nước và Thần Khí. Thần Khí là ơn huệ của Chúa Phục sinh ban cho cộng đoàn.
+++
Ga 3:5-8: Chúa Giêsu đáp: ‘Thật, Tôi bảo thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi nước và Thánh Thần, thì không ai được vào nước Thiên Chúa. Sự gì sinh bởi huyết nhục, thì là huyết nhục; và sự gì sinh bởi Thần Linh, thì là thần linh. Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy’.
Sự Phục Sinh của Chúa Kitô là sự kiện trọng đại mở ra cho chúng ta sự mới mẻ.
Hôm nay, đoạn Tin Mừng cho chúng ta biết cuộc gặp gỡ đã biết giữa Chúa Giêsu và Nicôđêmô. Giống như ông, chúng ta cũng ngạc nhiên trước lời của Chúa Giêsu: nhưng làm sao có thể được sinh ra lần nữa? Nhưng chúng ta thường nhắc lại, đây là những điều không thể, thế giới đang trở nên tồi tệ, chiến tranh, bất công là điều không thể ngăn chặn, sự độc ác của con người đạt đến giới hạn không thể tưởng tượng được, không còn hy vọng nữa, nhưng bạn có thực sự tin rằng mình vẫn có thể làm được điều gì đó mới không?
Và Chúa Giêsu đã đáp lại một cách chính xác theo sự mới mẻ của Thánh Thần: Gió muốn thổi đâu thì thổi, và thổi thế nào thì thổi. Còn bạn, có lẽ bạn không nghe thấy giọng nói của Chúa? Nếu bạn muốn, hãy nhắm mắt lại ngay bây giờ, để hơi thở thiêng liêng đi vào trái tim bạn và lắng nghe Chúa nói với bạn.
Gió thổi mà ta không biết từ đâu đến, nhưng ta biết gió sẽ đưa ta đến với tình yêu, hãy để Ngài dẫn lối.
Thế giới chúng ta cần Chúa Thánh Thần, có thể trái tim bạn là cánh cửa mà hơi thở sự sống này có thể tràn ngập người khác, rất nhiều người.
Xin hãy đến, xin hãy đến, xin hãy đến, xin hãy đến, xin hãy tràn ngập trái tim con.
‘Sự mới mẻ luôn làm chúng ta sợ một chút, bởi vì chúng ta cảm thấy an toàn hơn nếu chúng ta kiểm soát được mọi thứ, nếu chúng ta là người xây dựng, lên kế hoạch và thiết kế cuộc sống của mình (...). Và điều này cũng xảy ra với Chúa. (...) Thật khó để chúng ta phó thác bản thân cho Người với lòng tin tưởng trọn vẹn, để Chúa Thánh Thần trở thành linh hồn, người hướng dẫn cuộc sống của chúng ta, (...); chúng ta sợ rằng Chúa sẽ đưa chúng ta đi trên những con đường mới, khiến chúng ta rời khỏi chân trời thường hạn hẹp, khép kín và ích kỷ của mình, để mở ra cho chúng ta chân trời của Người. Nhưng, trong suốt lịch sử cứu độ, khi Chúa tỏ mình ra, Người mang đến sự mới mẻ - Chúa luôn mang đến sự mới mẻ -, Người biến đổi và yêu cầu chúng ta tin tưởng Người hoàn toàn.
Đức Giáo hoàng Phanxicô [Buổi tiếp kiến, ngày 19 tháng 5 năm 2013]
Thứ ba Tuần II Phục Sinh
Gió muốn thổi đâu thì thổi
Sinh ra bởi Thần Khí, đây chính là nguồn cội của con người. Chính là cái quyết định mức độ việc con người hiểu về chính mình, về hiện hữu của mình, về những quan điểm của mình và về cung cách sống của mình. Sinh bởi xác thịt, chỉ có thể cho chúng ta hiểu những gì thuộc thế gian. Nhưng sinh bởi Thần khí cho chúng ta có được một nhận thức mới về chính chúng ta. Con người cũ không chỉ, một cách giản đơn, trở nên tốt hơn khi được sinh lại, nhưng nó còn thủ đắc một nguồn gốc mới. Việc sinh lại là thiết yếu, Đức Giêsu quả quyết như thế. Qua điều mạc khải này, Thiên Chúa trả lời cho vấn nạn của con người về ơn cứu độ, để con người không còn một mình đi tìm lời giải đáp nữa.
Thế nhưng người ta không thể một cách giản đơn bảo rằng con người trở nên tốt hơn ngay khi tái sinh; cuộc sống của người đó có định hướng (ý nghĩa). Việc ấy cũng giống như gió; người ta không thể quy định nó theo sở thích của mình. Người ta không thể nắm bắt lấy nó, để nó thổi theo ý mình. Có điều gì đó diễn ra trong cuộc sống của người sinh bởi Thần Khí: tư tưởng và hành động của họ không thể rập theo những tiêu chuẩn của thế gian. Điều thiện mà người ấy làm không phát xuất tự mình nó.
Nhiều lúc, cũng giống như Nicôđêmô, chúng ta chỉ chấp nhận là mới mẽ nếu điều đó phù hợp theo những ý nghĩ sẵn có của chúng ta. Nếu chỉ tin những điều phù hợp với luận chứng của mình, thì niềm tin của người đó không hoàn hảo. Hãy làm như người ngư phủ: khám phá ra hướng gió thổi và giương buồm lên để đón lấy gió.
+++
Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý
Với một vài từ chính yếu thánh Luca vẽ cho ta thấy khuôn mặt lý tưởng của Hội Thánh từ thuở ban đầu, một lòng một ý với nhau.
Nhiều đoạn Tân ước khác cũng cho thấy cộng đoàn không hoàn toàn đẹp như thế, vừa có những điều đáng trân trọng nhưng cũng không thiếu những nhỏ nhen. Ta cũng gặp thấy ngay cả trong nhóm Mười Hai ngay khi Thầy còn sống giữa họ.
Tuy nhiên điều đó không làm mất đi cái cùng đích. Lời khẩn xin của Chúa ‘Lạy Cha xin cho chúng nên một’ vẫn là lời mời gọi để mỗi người cố gắng vượt lên trên những nhỏ nhen, ích kỷ để sống hiệp nhất với nhau.
Ở đây thánh Luca nhấn mạnh đến vấn đề nhu cầu vật chất mà người ta tìm cách đáp ứng nhờ tình bác ái. Thánh Phaolô nhấn mạnh đến sự cần thiết quan tâm đến những người yếu đuối để không một ai bị hư mất. Cách thức khác nhau để sống tình huynh đệ, quan tâm đến tha nhân để đến giúp đỡ họ ngay khi họ có nhu cầu.
Tắt một lời: đây là những con tim mở rộng để đón nhận nhau và được tiếp nhận, hiểu và được thông cảm. Những khác biệt vẫn còn đó, nhưng mọi tấm lòng hòa nhịp trong một nhịp yêu thương xuất phát từ trái tim Đức Kitô: chính Ngài là điểm tựa, là trung tâm của sự hiệp nhất mà mọi người phải hướng đến, mang đến cả sự phong nhiêu cũng như những giới hạn của mình.
Lạy Chúa xin dạy con biết những nẻo đường của sự hiệp thông.
Thứ tư Tuần II Phục Sinh
Thiên Chúa yêu thế gian
Thiên Chúa mà đoạn văn hôm nay nói đến không có điểm chung với những vị thần linh xưa kia. Quả thật Thiên Chúa đã yêu thế gian. Và không chỉ thế giới do thái mà thôi, nhưng toàn thế giới. Theo thánh Gioan, quan niệm ‘thế gian’ bao gồm toàn thể tạo thành. Tình yêu của Thiên Chúa trao ban cách công bình cho cả những ai không thuộc đoàn chiên của Ngài nữa. Trong đó có cả những người chống lại sự thiện. Là thế giới trong toàn thể tiến trình tục hóa của nó, như ta đang thấy hiện nay. Và chắc rằng cũng là thế giới thời Đức Giêsu, cùng với những hệ lụy luân lý, chính trị và tôn giáo, một thế giới tìm cách tránh xa tầm ảnh hưởng của Đức Giêsu, bởi lẽ không chấp nhận Thiên Chúa xen vào công việc của họ. Thánh Gioan nói rằng Thiên Chúa yêu cả những người làm điều dữ. Nếu Thiên Chúa chỉ yêu những con người tốt lành, Ngài đã tự giới hạn mình. Ngài không tránh xa kẻ dữ. Ngài không nhìn từ trời cao tất cả những điều vô vị của thế giới. Ngài còn đồng hóa mình với cái thế giới đầy sự gian ác này!
+++
Những người các ông đã tống ngục, kìa họ đang đứng trong Đền Thờ và giảng dạy cho dân
Việc liên kết giữa Thánh Thần và các môn đệ của Đức Giêsu đã đặt cho các thủ lãnh đạo đời của Palestina hai nghìn năm qua không ít vấn đề. Họ bắt các tông đồ tống giam vào ngục nhưng ngày hôm sau người ta gặp thấy các ngài trong đền thờ giảng dạy dân chúng, tuy không ai mở cửa ngục và lính canh vẫn còn đó. Thánh Luca nhấn mạnh đến biến cố này như là tác động của Thánh Thần mạnh mẽ, hiệu quả và hiền hòa. Đối lại với những phản ứng bạo lực là sự giải thoát nhẹ nhàng của Thánh Thần, làm cho các vị lãnh đạo bối rối: cảm thấy mình bị thất bại, lật đổ, cách nhẹ nhàng nhưng dứt khoát.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tín thác vào Thánh Thần để được Ngài hướng dẫn để đi tìm sự sống nơi mà, với con mắt người đời, chỉ thấy toàn chết chóc…
Thứ năm Tuần II Phục Sinh
Ai có Chúa Con thì có sự sống
Thánh Gioan nhận ra những mối liên hệ giữa trời với đất một cách rõ ràng hơn so với những thánh sử khác viết trước Ngài. Để trình bày, Ngài đã dùng những hình thái mới của ngôn ngữ. Nói đến một thế giới trên cao: nơi Thiên Chúa ngự. Và nói đến một thế giới bên dưới: nơi con người sinh sống. Thánh Gioan biết điều này là: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Ngài ở cùng Chúa Cha và sẽ mãi ở cùng Cha.
Đức Giêsu đến thế gian trong một giai đoạn của lịch sử. Cái chết của Ngài trên thập giá là biểu tượng cho sự hướng thượng mới. Theo cái nhìn nhân loại, thập giá là sự thất bại hoàn toàn của Đức Giêsu; cái chết dập tắt mọi dự tính của Ngài. Theo cái nhìn của Thiên Chúa, thập giá của Đức Giêsu biểu trưng chiến thắng của Thiên Chúa trên thế gian và là ơn cứu độ của chúng ta. Nếu chúng ta tin vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, chúng ta đã có sự sống vĩnh cữu. Đức Giêsu là mầm giống của niềm hy vọng qua đó Thiên Chúa hoạt động trong thế gian.
Trong sự kết hiệp với Con Thiên Chúa, Đấng mạc khải và thông ban sự sống, người tín hữu có sự sống vĩnh cữu. Ai có Chúa Con thì có sự sống (1 Ga 5,12).
+++
Bấy giờ Phêrô và các tông đồ khác đáp lại rằng: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. Đức Giêsu đã bị các ông trêo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người chỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng cứu độ…Về những sự kiện đó chúng tôi xin làm chứng cùng với Thánh Thần…Nghe vậy họ giận điên lên và muốn giết các ông
Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. Lời này ngày nay vẫn còn hiện thực. Trước mặt vị Thượng tế, giờ đây là một Phêrô hoàn toàn mới mẽ sau sự Phục Sinh của Đức Giêsu, đứng lên tuyên bố nhân danh các tông đồ khác, là nền tảng của sự tự do đức tin và sự nhất trí trong đời sống của các tín hữu. Phải vâng lời Thiên Chúa, cho dầu có phải đi ngược lại với người đời. Ngày nay, có nhiều kitô hữu, cho dẫu không phải vì có nguy cơ bị loại trừ hay khinh rẻ, vẫn thích chạy theo thói sống của người thời đại, nói rằng: tôi làm giống như mọi người.
Vâng lời Thiên Chúa có nghĩa là biết lựa chọn cách can đảm, không chỉ trong những lúc quan trọng nhưng còn trong những tình huống hàng ngày, trong những cử chỉ nhỏ nhặt thường ngày. Thế giới ngày nay đang cần những chứng nhân đích thực, biết loan báo tin mừng bằng một cuộc sống phù hợp với điều mình rao giảng, lội ngược dòng nếu cần thiết.
Lạy Chúa xin biến con nên một chứng nhân Tin mừng khiêm nhường và can đảm, ngay cả khi đòi hỏi phải chiến thắng tính nhút nhát, sợ hãi muốn che giấu căn tính kitô hữu của con trước mặt người đời.
Thứ sáu Tuần II Phục Sinh
Tấm bánh bẻ ra
Chúng ta không thể hiểu đoạn tin mừng thuật lại phép lạ hóa bánh, và cũng không thể họp nhau để bẻ bánh, nếu chúng ta lãng quên nạn đói đang dằn vật biết bao người trên thế giới. Đói là một sự bất lực; no nê, một loại quyền lực. Chính cái đói là dấu chỉ phân biệt người chẳng có gì với người có. Sự bất bình đẳng này là một bất công. Cả người nghèo, cả người giàu là thành phần trong Giáo Hội, không được nhân nhượng cho điều bất công này. Không có giải pháp vật chất nào cho nạn đói, vì đây là một vấn nạn của con người mang tính toàn cầu nhất. Sự nghèo đói và sự đàn áp đập lên những con người đang đói nhân phẩm. Nên người ta không thể chữa lành sự thiếu thốn này bằng những tặng phẩm để xoa dịu.
Đức Giêsu loại trừ sự đói: đói của sự tha hóa thể lý, chính trị, đói của việc đánh mất nhân phẩm. Và chính vì thế mà Ngài không để dân chúng ra về trong sự đói khổ của họ nhưng kêu gọi các môn đệ chuẩn bị cho họ ăn. Sự vâng phục của các môn đệ đã mở đường cho hành động của Thiên Chúa. Đức Giêsu không muốn hành động một mình mà không có sự cộng tác của Nhóm Mười Hai. Và cuối cùng, chính Đức Giêsu là tấm bánh bẻ ra cho muôn người. Chỉ mình Ngài mới có thể phân phát ân sủng của Ngài.
+++
Vậy giờ đây, tôi xin nói với quý vị: Hãy để mặc những người này. Cứ cho họ về, vì nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá hủy; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá hủy được; không khéo quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa.
Gamaliel vị Thầy của Phaolô, đã cho Thượng Hội đồng lời khuyên thật hay vì các vị này đang muốn chống lại quyền năng của Thánh Thần được diễn tả qua các môn đệ Đức Giêsu. Cứ để họ làm. Nếu sự việc là do Thiên Chúa sẽ có kết quả. Ngược lại sẽ chỉ là những hạt gieo trên đất khô cằn, chẳng sinh hoa quả nào, nhưng sẽ chết ngay tức khắc.
Việc can thiệp của Gamaliel cũng là một cách thế Thánh Thần dùng để cho sự sống được phát triển từ sự sống lại của Đức Giêsu, sinh ra những sự sống mới.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì nhờ Gamaliel, cũng như bất cứ một ai khác, qua mọi thời đại, chúng con nhận ra rằng sự hiện diện sống động của Chúa vẫn tồn tại nơi những con người, những biến cố, những hoàn cảnh nguy hiểm.
Thứ bảy Tuần II Phục Sinh
Trời đã tối mà Đức Giêsu chưa đến với các ông. Biển động, vì gió thổi mạnh.
Chiều đến, các môn đệ Đức Giêsu quyết định quay trở lại Caphanaum, có lẽ họ cảm thấy một chút thất vọng, vì đám đông đã muốn tôn Đức Giêsu làm vua, nhưng Ngài đã trốn đi!
Tác giả tin mừng với ngôn ngữ biểu tượng diễn tả tâm trạng đó bằng đêm tối, biển động, gió thổi mạnh; thiên nhiên phản ánh tâm trạng của các môn đệ, một mình không có Thầy ở cùng. Đức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với họ và ngay lập tức sự tĩnh lặng và đã tới bờ. Các môn đệ hoảng sợ nhưng Đức Giêsu làm các ông yên tâm: ‘Thầy đây mà, đừng sợ! Như thế Ngài tỏ mình là đấng làm những điều phi thường: hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng, đi trên mặt nước, khiến gió yên lặng…Ngài là Chúa, hiện thân và quyền năng của Thiên Chúa. Các môn đệ bắt đầu hiểu được cảm nghiệm của họ về Đức Giêsu với ánh sáng phục sinh.
Đây cũng chính là khám phá nền tảng cho ta ngày nay: Đức Giêsu vẫn còn thực hiện trong đời sống con người mỗi ngày; mỗi người nhờ Lời và Thánh Thể soi sáng, học biết nhận ra sự hiện diện năng động của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, Bánh Hằng sống, xin làm cho con ý thức hơn về sự hiện diện của Chúa trong đời sống mỗi ngày của con, để con cũng có thể nghe: ‘Thầy đây mà, đừng sợ!
+++
Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu do thái theo văn hóa Hy lạp kêu trách những tín hữu do thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà góa trong nhóm họ bị bỏ quên (Cv 6,1)
Thực tế sách Công vụ không có ý trình bày một cộng đoàn lý tưởng, hoàn toàn xa rời với đời thường cụ thể, nhưng chỉ cho ta một phương cách cảm hứng do tình yêu để giải quyết những vấn đề.
Trong các chương đầu ta lưu ý đến sự mọi người quan tâm đến nhau, làm giảm thiểu những bất bình đẳng ‘kinh tế’, làm sao để bảo đảm cho mọi người có cái cần thiết. Ở đây ta thấy vài người than trách vì sự thiếu thốn: một số người không hưởng được sự phân phối bình đẳng đó.
Bối cảnh cho ta thấy điều này xảy ra không do thiếu bác ái hoặc thiên vị, nhưng chỉ vì số các tín hữu gia tăng.
Phong cách sống như trong một gia đình cần phải nhường bước cho một bối cảnh có tổ chức hơn, trong đó người ta dự kiến một sự phân chia các phận vụ và vai trò khác nhau, làm sao toàn thể cộng đoàn có thể nhận được một cách tương xứng mọi nhu cầu của mình: vật chất cũng như tinh thần.
Việc chọn lựa, trong sự tôn trọng sự hiệp nhất của thân thể giáo hội, là để tránh một chủ nghĩa tinh thần trừu tượng, nơi đó chỉ có lo việc loan báo mà thôi, hoặc là chủ nghĩa duy vật tuyên bố mọi quan tâm chỉ nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của con người. Những đòi hỏi của việc loan báo, là dành riêng nhưng không một cách độc hữu cho các tông đồ, được nối kết cách hòa hợp với thực hành bác ái như là hệ quả, đó là phận vụ của các phó tế.
Sự hiệp nhất của Giáo hội và sự trung thành với lệnh truyền của Đức Kitô được bảo đảm từ sự quan tâm (được soi sáng) vào những dấu chỉ thời đại.
Lạy Chúa, xin ban cho con một lòng trung thành năng động và sáng tạo, để có thể để nhập thể vào thế giới ngày hôm nay những giá trị trường tồn của đức tin.
Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê



 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

ducchasi
 
closedbible
 
suy 5
 
thanhthan06sm 1
 
gdphanxicoxavie
 
lichconggiao2
 
giolecacnhatho adv2 copy
 
giolecacnhatho adv2
 

Tin mới nhất

Kết nối

 

 

 

Thống kê

  • Đang truy cập207
  • Máy chủ tìm kiếm26
  • Khách viếng thăm181
  • Hôm nay25,605
  • Tháng hiện tại476,638
  • Tổng lượt truy cập58,128,439

Copyright © [2018] Giáo phận Nha Trang. All rights reserved.
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Nha Trang
Email: gpnhatrangbtt@gmail.com
Địa chỉ: 22 Trần Phú - HT 42, Tp. Nha Trang - Khánh Hoà
Phone: (84) 258.3523842 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây