Suy niệm Chúa Nhật III Phục Sinh - Lm. Xuân Hy Vọng
Thứ năm - 01/05/2025 06:00
96
NHẬN RA CHÚA PHỤC SINH TRONG ĐỜI THƯỜNG
Vào buổi sáng Chúa Nhật Phục Sinh nọ, bầu trời trong xanh với làn gió mát khẽ lay cành lá xanh mướt trên cành cây kia, người mẹ bảo đứa con trai: “Hôm nay mẹ muốn con chở mẹ, rồi cùng đi tham dự Thánh lễ”. Vì đã lâu, anh ta chẳng buồn bước chân đến nhà thờ, còn chuyện tham dự Thánh lễ chỉ rất ư là xa xỉ. Trong lúc đang buồn ngủ, còn mệt mỏi với dư âm đêm qua anh đi chơi về rất khuya. Vả lại, anh ta cũng chẳng tha thiết gì với đạo nghĩa nữa. Bực dọc vì bị mất giấc ngủ, anh ta trả lời với người mẹ rằng: “Mẹ đi theo Chúa của mẹ đi. Và nếu mẹ thấy Chúa thì hãy chỉ cho con, chứ con có thấy Chúa đâu”. Người mẹ nghe thế, nén lòng lại rồi lặng lẽ đi lễ.
Thật vậy, khá nhiều người Công giáo đang sống chỉ với đôi mắt thể xác, mà quên con mắt đức tin. Thánh Phao-lô nói trong thư gửi giáo đoàn Cô-rin-tô: “Chúng ta tiến bước nhờ đức tin chứ không phải nhờ đôi mắt phàm trần” (x. 2 Cr 5,7). Giả sử chỉ dừng lại ở việc thấy hay không thấy với con mắt thể lý, thì chúng ta được lãnh nhận đức tin để ‘làm kiểng’ à, để thêm vào bộ sưu tập ‘trang sức’ hay ‘của cải’ mình ư? Nếu chỉ dựa vào đôi mắt phàm trần thôi, thì Tông đồ Gio-an, người môn đệ được Chúa yêu mến, không thể nào nhận ra Chúa Ki-tô Phục sinh lúc trời còn tờ mờ sáng. Nhưng chính nhờ đức tin mãnh liệt, nhờ đôi mắt sáng suốt của đức tin, mà Gio-an đã nhận ra Chúa Phục sinh và ‘loan báo’ cho Tông đồ cả Phê-rô nữa: “Chính Chúa đó!” (Ga 21,7). Tại sao chỉ mình Gio-an nhận ra, còn các Tông đồ khác không nhận ra? Có lẽ cũng dễ hiểu vì các ông đã vất vả mệt nhọc cả đêm, mà chẳng được mẻ cá nào. Cực chẳng đã, tưởng chừng thu dọn lưới chài rồi về nhà đánh một giấc cho khoẻ, sau đó có ra sao thì tính tiếp; nhưng oái ăm thay Chúa Giê-su hiện đến trên bờ biển lại vào lúc rạng đông tờ mờ sáng, thì mắt mũi các ông tèm lem, lờ mờ vì buồn ngủ, nên không nhận ra Chúa Phục Sinh chăng! (x. Ga 21,3-4).
Với đôi mắt đức tin bén rễ sâu trong đời sống đạo, đời sống cầu nguyện, gắn kết thân tình với Chúa, thì chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra sự hiện diện của Chúa Phục Sinh nơi mọi trạng huống cuộc sống, trong vô vàn biến cố cuộc đời. Hơn thế, vì lòng mến dạt dào mà Chúa dành cho Tông đồ Gio-an, và cũng như tình mến mà ông dành cho Chúa Giê-su đậm sâu, nên ông dễ nhận ra Ngài. Và Tông đồ cả Phê-rô sau khi lầm lỗi, được Chúa Phục Sinh trao ban cơ hội sửa sai bằng việc tuyên tín: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21, 15. 16); “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21, 17), thì cũng cho chúng ta thấy lòng mến quan trọng dường nào không chỉ giúp chúng ta cảm nghiệm tình Chúa, mà còn trở nên động lực khiến chúng ta nhận ra Ngài trong đời thường. Ngoài ra, Chúa Giê-su hỏi Phê-rô 3 lần chẳng phải Ngài nghi ngờ hay không tin ông, nhưng một mặt cho ông chuộc lỗi, mặt khác cho ông xác tín lòng mến, tình yêu mà ông dành cho Chúa Phục Sinh sau biết bao biến cố đã xảy ra với ông. Với lời tuyên tín ấy, ông được trao phó sứ mệnh “chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Thầy” (x. Ga 21, 15-17), cũng như trở nên chứng tá kiên vững dù không như ý muốn, hay phải hy sinh tính mạng (x. Ga 21, 18-19). Lời chứng hùng hồn này được vang dội khắp nơi sau khi Chúa Giê-su về trời, “Phê-rô và các tông đồ trả lời (trước Thượng Hội đồng) rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”” (Cv 5, 29), và mạnh mẽ hơn nữa, “Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Ngài!” (Cv 5, 32).
Trải qua bao thời đại, dẫu thịnh vượng hay điêu tàn, phát triển hay suy thoái, vinh quang hay lụn bại, các Tông đồ, các Thánh nam nữ và hết thảy tín hữu đó đây đều sống đức tin, đức cậy và đức mến. Nhờ đó, các ngài luôn cảm nghiệm và nhận ra sự hiện diện của Chúa Phục sinh trong đời, giữa bao thăng trầm cuộc sống cũng như biến cố lớn nhỏ. Chẳng hạn Thánh Phan-xi-cô Sa-lê-zi-ô từng cảm nhận: “Tình yêu của Thiên Chúa cao cả đến nỗi Ngài đã ban Con Một của Ngài để cứu chúng ta, và chúng ta chỉ có thể đáp lại bằng cách yêu mến Ngài hết lòng, dù điều đó không bao giờ đủ để sánh với tình yêu của Ngài” (nguồn: Treatise on the Love of God [Luận về Tình yêu Thiên Chúa]); hoặc Thánh I-nha-xi-ô Lô-yo-la cảm nghiệm: “Không có đức ái mà đi truyền giáo thì giống như mình hái quả trên cây, rồi tự mình đốn ngã cây vậy” (nguồn: Monumenta Ignatiana và Spiritual Exercises [Linh Thao]).
Sau cùng, trong lớp học cấp hai kia, cô giáo dạy sinh vật hỏi một học sinh nữ người Công giáo: “Em tin có Thiên Chúa không?” Cô bé niềm nở trả lời: “Thưa cô, có ạ! Em luôn tin có Thiên Chúa”. – “Nhưng sao em biết có Thiên Chúa mà tin?” Cô bé không ngần ngại, vô tư trả lời: “Hãy nhìn bầu trời, cảnh vật núi rừng, biển khơi, thì chúng ta có thể nhận ra Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên những thứ đó. Qua đó, em tin có Thiên Chúa”. – “Vậy, em chỉ cho cô biết Thiên Chúa của em ở đâu đi?” – Cô bé vui vẻ đáp: “Dạ, thưa cô, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, không có chỗ nào mà không có Thiên Chúa, và Chúa ở trong tâm hồn của em nữa”.
Thật vậy, Thiên Chúa vượt thời gian, không gian, địa điểm, nơi chốn, nhưng lại rất gần, cư ngự nơi tâm hồn chúng ta như chính Chúa Ki-tô Phục sinh hằng hiện diện trong đời sống hằng ngày ta vậy. Chỉ với đôi mắt đức tin, với niềm cậy trông vững vàng và với lòng mến nồng nàn, chúng ta sẽ nhận ra Ngài và cùng với Thánh Félix de Nole dám khẳng định: “Với Chúa, thì màng nhện cũng trở nên tường thành. Còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi”. Amen!
Lm. Xuân Hy Vọng