Suy niệm Tin Mừng tuần 4 Phục Sinh - Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê

Thứ năm - 18/04/2024 01:20  390
Chúa Nhật 4 PS

Đức Giêsu là món quà của Chúa Cha. Đức Giêsu thật sự là ai? Không có gì ngoài đối nghịch giữa người chăn chiên tốt lành và kẻ làm thuê có thể làm cho ta hiểu điều ấy. Hai hình tượng này khác nhau những điểm nào?

Ngoài vai trò ra, xét vẻ bề ngoài cả hai đều giống hệt nhau. Đối nghịch và chia cách nhau khi xét về bản chất sâu xa của mối tương quan với đàn chiên: chúng không thuộc về người chăn thuê nhưng thuộc về người chăn chiên tốt lành. Nếu các con chiên không thuộc về mình thì khi sói đến kẻ làm chăn thuê sẽ bỏ đàn chiên mà chạy. Nếu là kẻ chăn thuê các con chiên chẳng đáng quan tâm vì nó không biết chúng. Không biết chúng qua ‘trải nghiệm’, không biết chúng bằng tình yêu: chúng không thuộc về nó.

Và điều gì sẽ xảy ra nếu đàn chiên thuộc về bạn? Bạn thí mạng vì chúng. Đức Giêsu thí mạng sống vì ta. Chính Ngài ban sự sống cho ta, không ai có thể lấy mất. Chỉ có Ngài có quyền hiến mạng sống và lấy lại. Nơi điều này chứng tỏ thẩm quyền của Ngài, đó là trong quyền năng của sự hoàn toàn bất lực, bằng cái chết tự ý. Con người chúng ta có thể theo Đức Giêsu bằng cách này. Bằng cách này ta nhận biết tiếng của Ngài, bị Ngài thu hút, sẵn sàng đi theo. Chỉ khi sống theo cách này người kitô hữu mới cảm thấy mình tự do, nghĩa là có thể gặp gỡ người khác, yêu mến họ và thí mạng cho họ.

Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành là mẫu mực cho mọi mục tử trong Giáo Hội

Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh, như chúng ta biết được dành cho việc suy tư về Vị Mục Tử Nhân Lành và là ngày mà Kitô giáo được kêu gọi cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ. Bản văn Tin Mừng được đề nghị suy niệm vào Chúa nhật này chính là bản văn của Thánh Gioan, trong đó ngài giới thiệu Chúa Giêsu như người mục tử nhân lành, tương phản với hình ảnh người chăn thuê không quan tâm đến đàn chiên, ngay cả khi sói đến bắt chúng, phân tán và xé xác chúng thành từng mảnh. Người mục tử nhân lành nhìn về Người Thầy chăm sóc đàn chiên của mình, đặc biệt là những con chiên lạc, và do đó là cả Giáo hội của Người. Hình ảnh này nhằm minh họa nhiệm vụ của mọi mục tử trong Giáo hội, những người qua ơn gọi sống đời linh mục, trở thành người quản lý các linh hồn, liên quan đến chiều kích thiêng liêng của cuộc sống con người trần thế.

Mục Tử Nhân Lành - Chúa Giêsu nói - bảo vệ, biết rõ và gìn giữ đàn chiên của mình. Hành động cơ bản đầu tiên phải được thực hiện bởi mọi mục tử chăm sóc dân thánh của Thiên Chúa là bảo vệ đàn chiên của mình khỏi những con sói săn mồi đang lang thang khắp thế giới để tàn sát những người vô tội và những linh hồn ngay thẳng.

Sau đó làm nhiệm vụ nhận biết đàn chiên. Đó là việc làm quen với những người thuộc cộng đồng giáo xứ, giáo phận để thực hiện và thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của mục tử. Nếu bạn không biết, bạn không thể giúp đỡ và can thiệp. Chúa Giêsu nói rằng Người biết chiên, nhưng chiên cũng biết người chăn. Đó là sự tìm hiểu lẫn nhau, bởi vì bất cứ ai muốn gặp nhau đều sẽ bước vào mối quan hệ giao tiếp và hiểu biết. Sự hiểu biết này trong Thánh Kinh trở thành một phần của phạm trù tình yêu và dẫn tới tình yêu.

Tình yêu là một công cụ của sự hiểu biết. Đây là tình yêu mang tính thiêng liêng. Thực ra, càng yêu thì bạn càng hiểu rõ người đó. Hơn nữa, càng được yêu, bạn càng có khả năng yêu, vì tình yêu đòi hỏi tình yêu. Logic của Tin Mừng bắt đầu từ việc Thiên Chúa là tình yêu và là Đấng đã sai Con mình là Chúa Giêsu Kitô đến thế gian để cứu rỗi nhân loại.

Một khía cạnh quan trọng khác của sự hiểu biết và sứ mệnh của người mục tử là việc anh ta đi tìm con chiên lạc, khi anh ta biết rõ rằng có điều gì đó không ổn trong đàn, một số người đang hành động không tốt, đang lạc đường trong đức tin, lạc lối trong việc thực thi bác ái, mất niềm hy vọng và niềm tin tưởng vì nhiều lý do khác nhau. Người chăn chiên không bỏ rơi chiên một mình. Nhưng sẽ đi tìm con bị lạc, để lại chín mươi chín con được an toàn trong chuồng. Cuộc thảo luận liên quan đến những tín hữu đã rời bỏ đức tin và cần được phục hồi, truy tìm, gặp gỡ và đưa trở lại đàn chiên, mà như chúng ta hiểu và hiểu rõ là hội thánh của Đức Chúa Trời. Nhưng cũng có những chiên khác không thuộc về đàn chiên. chuồng chiên và những người đó cũng phải được dẫn đến cuộc sống đúng đắn. Đó là sứ mệnh của Giáo hội Ad Gentes , đến với dân ngoại, với những người chưa biết Chúa Kitô và sứ điệp cứu độ phổ quát của Ngài.

Những điều này chỉ liên quan đến thừa tác vụ linh mục. Có một khu vực cụ thể của giáo hội địa phương và giáo hội hoàn vũ được xác định là mục vụ. Đây là một cam kết ở cấp độ từng giáo xứ, các tổ chức tôn giáo và trên hết là giáo hội địa phương, được thực hiện để làm cho Chúa Giêsu được biết đến, để truyền bá Tin Mừng, hoạt động vì mục đích tốt đẹp và để đảm bảo rằng xã hội loài người có thể trải nghiệm được sự ngọt ngào và hạnh phúc. sự dịu dàng của Thiên Chúa. Có nhiều lĩnh vực chăm sóc mục vụ, thậm chí liên quan đến một số vùng miền. Ở một số Giáo phận có những lĩnh vực đặc biệt như chăm sóc mục vụ cho người bệnh, thể thao, du lịch, từ thiện, môi trường, ơn gọi, người trẻ, người già, trường học. Chỉ cần nghĩ đến một Giáo phận trong đó hoạt động du lịch diễn ra phổ biến, nơi mà lĩnh vực chăm sóc mục vụ này phải được quy hoạch, cũng có đặc điểm là chăm sóc mục vụ biển hoặc núi, hoặc một giáo xứ nơi sự hiện diện của giới trẻ chiếm ưu thế và điều đó là cần thiết. để đáp lại sự mong đợi của giới trẻ.

Cơ bản trong một số thực tế nhất định là việc chăm sóc mục vụ cho trường học hoặc chăm sóc sức khỏe, cho người tị nạn, người nhập cư, người nghèo, người bị bỏ rơi. Việc chăm sóc mục vụ luôn đòi hỏi sự hiện diện của các linh mục, ngay cả khi ngày nay, đúng ra, một giáo hội có tính đồng hành và giáo dân đang phát triển, cùng với các giáo sĩ hành động vì lợi ích của chính giáo hội và nhân loại.

Do đó, việc cử hành Chúa nhật thứ tư Phục sinh mời gọi chúng ta chú ý nhiều hơn đến ơn gọi, hiện đang gặp khủng hoảng ở nhiều quốc gia phương Tây giàu có. Lĩnh vực chăm sóc mục vụ này là nền tảng cho sự phát triển nhận thức trong đời sống Giáo hội rằng ơn gọi linh mục và tu sĩ là nền tảng cho chính sứ mệnh của Giáo hội trên thế giới.

Ơn gọi là điều không thể thiếu để thực hiện việc phục vụ giáo hội trong các cộng đồng giáo xứ, giáo phận, hội dòng thánh hiến hoặc các tu đoàn tông đồ, những ơn gọi không chỉ cần được phục vụ trong những điều cụ thể của đời sống con người và đời sống hằng ngày, mà còn phải được phục vụ trên bình diện thiêng liêng qua việc ban các bí tích của đời sống Kitô hữu. Vì vậy, nếu thiếu các linh mục, nam nữ tu sĩ, thì việc đảm bảo sự hiện diện ở một nơi, trong một lãnh thổ, của một thừa tác viên Thánh Thể, người có thể cử hành Thánh lễ và cũng có thể tha tội cho những người muốn thú nhận tội lỗi của mình và hòa giải với Thiên Chúa và anh em.

Việc cầu nguyện hôm nay cho ơn gọi linh mục nói riêng là rất quan trọng. Không một Kitô hữu nào được miễn trừ trách nhiệm hỗ trợ hoạt động mục vụ ơn gọi, đặc biệt tại các giáo xứ nơi ơn gọi đã ra đời. Ơn gọi này phải được hỗ trợ, khuyến khích, làm cho lớn lên, trưởng thành và bảo vệ về mọi mặt, bởi vì linh mục là một món quà Thiên Chúa ban cho gia đình, cho cộng đồng giáo xứ nơi mình thuộc về, cho giáo hội địa phương và hoàn vũ. Các gia đình, các giáo xứ và các nhóm giáo hội nên tự hào nếu trong số đó có một người trẻ đảm nhận con đường linh mục hoặc đời sống thánh hiến. Điều này không phải lúc nào cũng xảy ra, trái lại, những người trẻ nghe tiếng Chúa gọi và lên đường một cách tự do nhưng gặp những trở ngại mạnh mẽ trên con đường đức tin, ơn gọi của họ đều bị cản trở và nản lòng. Nhiều người, chính vì họ tin tưởng chắc chắn vào điều đó, đã đi theo con đường riêng của mình và đạt được chức linh mục, vẫn trung thành với hồng ân đã nhận được trong suốt cuộc đời của họ.

Thứ hai Tuần IV Phục Sinh

Tôi sực nhớ lại lời Chúa nói rằng: Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì sẽ được rửa trong Thánh Thần. Vậy nếu Thiên Chúa đã ban cho họ một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa?

Trong bài đọc hôm nay ta nhận thấy Thiên Chúa hoàn toàn tự do, thay đổi trật tự mọi sự và vị tông đồ cần phải nhận ra lòng nhân hậu trong hành động của Chúa, ngay cả bên ngoài những chương trình của mình. Thánh Thần ngự xuống trên Cornêliô người dân ngoại và gia đình ông trước cả khi nhận lãnh phép rửa. Và Phêrô, từ nay đứng trước những quyết định của Chúa không còn chống đối nữa, ông đã nói cách đơn sơ: tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa? Ông đã được một bài học.

Chúng ta cũng thế, cần phải học từ bài tin mừng hôm nay: các con chiên thuộc về Đức Giêsu. Người biết chúng và gọi chúng bằng tên, thí mạng sống mình vì chúng (chỉ trong vòng 5 câu ta thấy 5 lần lập đi lập lại từ ‘hy sinh mạng sống’. Có những chiên khác không thuộc ràn này, chúng có thể nghe tiếng của Người và chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.

Những việc Chúa làm thật kỳ diệu trước mắt chúng ta!

Hãy để ý đến việc đánh giá của ta: các cậu bé đang đứng trên bức tường bên ngoài nhà nguyện là những con chiên, không phải là những người không thể lắng nghe người nói bên trong. Những tù nhân nhiều lúc có ước muốn nghe tin mừng hơn cả chúng ta nữa, và đặt ra những câu hỏi cụ thể, chân thực và sống động hơn chúng ta là những người thường cho mình biết hết tất cả.

Những người đó không phải là những con chiên bên ngoài đàn nhưng là những con chiên thuộc những đàn khác mà Đức Giêsu muốn đưa về và thường họ sẽ ngoan ngoãn hơn vì họ đang tìm kiếm.

Họ đói khát cho dù chưa biết rõ là điều gì và bên trong họ Thánh Thần đang hoạt động. Đừng tìm cách ngăn cản Thiên Chúa bằng những xét đoán của mình, bằng việc tự cho mình là những ‘kẻ được chọn’, những người tài giỏi, tốt lành, đạo đức, luôn biết phải làm gì, và chỉ thấy toàn là sói dữ nơi kẻ khác mình và không phải là chiên vì không có mục tử.

Lạy Chúa, xin mở mắt con để con khỏi tự phụ. Xin mở mắt con để con thấy những khốn cùng của con vì khi nhìn thấy rõ những điều đó, con sẽ biết dừng lại trước khi dễ dàng liệt kê bao nhiêu điều về người anh em con. Đừng bao giờ nói: ‘Ta chẳng có gì phải học nơi kẻ khác’, là một tội phạm đến Thánh Thần.

+++

Ta là cửa

Đoạn tin mừng hôm nay tiếp nối chương trước (Ga, 9). Diễn từ về cửa chuồng chiên và Mục Tử nhân lành giải thích ý nghĩa đoạn kết mang tính bi kịch của việc anh mù tuyên xưng niềm tin sau khi được chữa lành. Là người bị trục xuất khỏi cộng đoàn chính trị hoặc tôn giáo, vì lý do làm chứng về Đức Giêsu, trở nên thành viên trong đàn chiên của Đức Kitô và nơi đây anh gặp được sự sống dồi dào, ơn cứu rỗi trọn hảo.

Các đầu mục dân Do thái qua cách hành xử của họ cho thấy họ là kẻ trộm (c.8 ), chứ không phải là mục tử dân Israel. Anh mù được chữa lành, bị trục xuất, sẽ không phải sống như chiên không đàn và không chủ chăn; anh ta đã gặp được Vị Mục Tử nhân lành và qua việc tuyên xưng niềm tin, anh đã đi vào đàn chiên của Chúa qua khung cửa: Đức Giêsu.

Cách nói ‘Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi’ (c.1) tiên báo những điều hệ trọng và thâm thúy. Hình ảnh cửa (c.1) mang ý nghĩa: những chủ chăn đích thực của đàn chiên Thiên Chúa cần phải đi qua cửa là Đức Kitô. Nơi Ngài, Thiên Chúa hiện diện, là đường dẫn đến Chúa Cha và là đền thờ mới.

Ai không biết Đức Kitô và chối từ Ngài là kẻ trộm, kẻ cướp, nghĩa là không thể hướng dẫn đàn chiên đến đồng cỏ của sự sống vĩnh cữu, nhưng chỉ gây thiệt hại và chết chóc. Trong cụ thể, những người Do thái và các biệt phái, là những người không muốn chấp nhận trung gian cứu độ của Đức Giêsu, đều là những kẻ trộm cướp. Như thế ngay cả những kẻ phiến loạn, các người phái Zêlót và chiến sĩ du kích như Barabba, đã gây nhiều cuộc nổi dậy trong dân, nhưng vì không đi vào cộng đồng Israel qua cánh cửa mà Thiên Chúa thiết lập, nên chỉ gây thiệt hại và chết chóc. Người chủ chăn đàn chiên Thiên Chúa đi vào cánh cửa Giêsu và qua Đức Giêsu tiếp cận với các con chiên.

Với câu ‘gọi tên các con chiên và dẫn chúng ra’ (c.3), Đức Giêsu cho thấy hành động Ngài dẫn đưa các chiên của Ngài ở bên ngoài phạm vi hội đường. Anh mù được chữa lành, bị trục xuất khỏi cộng đồng Do thái, thực ra anh ta được Vị mục tử nhân lành dẫn ra khỏi hội đường và được đưa vào ràn chiên của Đức Kitô là Giáo Hội.

Cũng như Thiên Chúa đã đưa Israel ra khỏi Aicập, Đức Giêsu dẫn đầu đàn chiên của Ngài để đưa họ thoát khỏi Do thái giáo. Với hành động này Giáo Hội tách hẳn khỏi hội đường.

E rằng những lời của Ngài khó hiểu, Đức Giêsu lập lại hình ảnh trước và làm sáng tỏ hơn: cửa của các chiên chính là Ngài, kẻ trộm cướp là những chủ chăn giả hiệu Israel. Đức Giêsu là đấng trung gian để bước vào đàn chiên Thiên Chúa, là con đường đến với Chúa Cha (Ga 14, 6), là con đường bắt buộc để hiệp thông với các chiên của Ngài.

Cửa, trong ngôn ngữ kinh thánh, cũng có nghĩa thành phố hay đền thờ (x.Tv 87, 1-2; Tv 112, 2…). Do đó Đức Giêsu tuyên bố Ngài là nơi người ta tìm được sự cứu rỗi. Ngài là đấng Chúa Cha sai đến thế gian để nhân loại tội lỗi được cứu rỗi (Ga 3, 17). Do đó các con chiên muốn có sự sống vĩnh cửu dồi dào không thể từ chối trung gian của Ngài: họ phải đi qua cửa Giêsu để đi vào sự sống vĩnh cửu.

Trung gian cứu độ này không phải là điều gì mang tính áp đặt, nhưng là phương cách để hưởng được tự do hoàn toàn và cảm nghiệm sự sống tràn đầy.

Con Thiên Chúa không đến thế gian để giết chết, để mang thiệt hại cho nhân loại, như những chủ chăn giả hiệu, nhưng để cứu độ tất cả mọi người.

Thứ ba Tuần IV Phục Sinh

Khi tới nơi và thấy ơn Thiên Chúa như vậy, ông Banaba mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa. Ông là người tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin.

Bài sách Công vụ tông đồ cho thấy một vài đặc tính của người loan báo tin mừng.

Thứ nhất: một vài môn đệ tản mác (vì bị bách hại) đến Antiokia, bắt đầu nói về Đức Giêsu không chỉ cho người do thái mà còn cho người Hy lạp và những người khác trong vùng. Họ làm điều này hoàn toàn tự nguyện vì điều thiện hảo cho mọi người chứ không chỉ cho vài người. Là người có can đảm đi ra bên ngoài những dự tính vì người đầu tiên làm như thế chính là Đức Giêsu.

Thứ hai: Banaba được mô tả là người đạo đức, đầy Thánh Thần và lòng tin. Thánh Thần là động cơ bên trong người loan báo tin mừng, là Đấng thúc đẩy, là đấng đến không phải để dừng lại mà là để linh hoạt, để làm cho chúng ta cũng hoạt động. Là Đấng không muốn để những khoảng trống rỗng trong lòng ta, để tất cả trong ta đều thuộc về Chúa.

Thứ ba: Banaba đi tìm Phaolô. Người loan báo tin mừng không muốn làm việc một mình, biết nhận ra những ân ban nơi kẻ khác và muốn những ân ban ấy được biểu lộ ra bên ngoài.

Thứ tư: Phaolô và Banaba cùng làm việc chung với nhau trong một năm. Sự hiện diện của hai ngài mang đến ổn định. Để cho cộng đoàn mới sinh có những nền tảng tốt cần phải có thời gian lâu dài, hiện diện giữa họ. Dụ ngôn người gieo giống tỏ cho thấy hạt giống có nhiều nguy cơ bị chết do nhiều nguyên nhân khác nhau.

Họ tránh mọi hình thức hời hợt. Họ biết rằng lòng hăng hái cần phải giảm bớt, cần thinh lặng và được nuôi dưỡng bằng suy niệm và cầu nguyện. Cùng với sự xẻ chia.

Đọc lại những biến cố trong sách Công vụ tông đồ, ta không chỉ khám phá ra những bước khởi đầu của hội Thánh mà còn học hỏi nhiều điều. Học yêu mến Nước Thiên Chúa, hiện diện giữa mọi người và phục vụ để Hội Thánh có thể luôn luôn ra đi loan báo.

Lạy Chúa, xin dạy con biết đặt Nước Chúa trên tất cả, như các tông đồ xưa đã không tìm kiếm chính mình, tìm thỏa mãn mình, không bao giờ muốn làm ‘bà chủ’. Họ biết rằng chỉ như thế lời của Chúa mới có chỗ hành động và không mất đi sức sống. Xin ban cho chúng con được ý thức và được lòng khiêm tốn như thế.

Tiếng chủ chăn

Lại thêm một nét bút nữa để vẽ Vị Mục Tử nhân lành – Messia. Là con người khiêm nhu không cần phải lớn tiếng. Chỉ với chất giọng quen thuộc Ngài được nhận ra ngay. Đó là chất giọng của tình yêu vì tin mừng của Ngài không phải là là một giáo thuyết chỉ cho người ta con đường cứu độ, nhưng là một con người, Đức Kitô, tuyên bố mình là ‘Là Đường, là Sự Thật và là sự Sống’. Ai theo Ngài sẽ không bao giờ hư mất và sẽ được bảo vệ trước mọi bạo lực.

Trong một thế giới như ngày nay, người ta nói nhiều đến những biện pháp an ninh, hình ảnh tin mừng của vị Mục Tử nhân lành, khi chiều đến, đi tìm những con chiên lạc hoặc những con chiên chậm bước, vẫn có giá trị– không phải ý nghĩa tiêu cực- bởi vì Ngài bảo vệ chúng ta và nâng đỡ chúng ta khi mà chúng ta đang dấn sâu trong đau khổ và đang cảm thấy tuyệt vọng.

Ân ban của Ngài là sự sống vĩnh cửu, vượt trên không gian và thời gian, là hai phạm trù của các kỹ thuật hiện đại. Hình ảnh vị Mục Tử Nhân Lành: mang trên vai các chiên con và nhẹ nhàng dẫn dắt các chiên mẹ. Những lời của vị tiên tri vẽ nên bức tranh vừa dịu dàng vừa mạnh mẽ, mời gọi phó thác.

Hôm nay tôi tự hỏi: tôi có biết tiếng của vị Mục Tử Nhân Lành đã thí mạng sống vì tôi không? Tôi có đạt đến việc hòa hợp giữa cái mạnh mẽ và dịu dàng trong các mối liên hệ với người khác? Xin Chúa cho tôi được nhận biết Ngài cách sâu xa và theo Ngài bất cứ nơi đâu Ngài đi.

‘Tôi không cần đến những biện pháp cứng rắn để củng cố trật tự. Sự nhân lành mang tính cảnh tỉnh, nhẫn nại và trắc ẩn có hiệu quả vượt bậc và nhanh chóng hơn sự cứng rắn của roi đòn. Về vấn đề này tôi không bao giờ nghi ngờ’. Gioan XXIII (Nhật ký tâm hồn).

Thứ tư Tuần IV Phục Sinh

Vậy, được Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Xêlêukia, rồi từ đó đáp tàu đi đảo Sýp. Đến Xalamin, hai ông loan báo lời Thiên Chúa trong các hội đường người do thái.

Barnaba và Saolô là những người được Thánh Thần sai đi xuống Xêlêukia. Trong phụng vụ lời Chúa hôm qua, ta gặp thấy Barnaba được sai đến Antiokia để xem những việc đã xảy ra. Barnaba không chỉ xem xét điều tốt lành xảy ra ở đó mà còn ở lại đó với họ. Ông đi Tarsê để tìm Phaolô và cùng nhau ở lại Antiokia ít là một năm. Ông cùng với họ đến Giêrusalem một thời gian để sống cầu nguyện và đối chất với các Tông đồ. Trở lại Antiokia ông gặp các bạn hữu cũ mới: cũng có Lucio de Cirene và Luca thánh sử. Nhưng để nên một cộng đoàn, Giáo hội không chỉ có mục đích là vui hưởng thành quả của chính mình mà còn phải rộng mở đến khắp nơi. Sách Công vụ cho ta thấy Lời Chúa, không còn hiện diện nơi thân xác của Đức Giêsu nữa, nhưng sống động, lan đi khắp mọi nơi đến tận cùng trái đất. Không có điểm dừng cho Lời Chúa. Do đó tiếp tục một hành trình mới: Barnaba và Phaolô đi Sýp và từ đó ngang qua Perge (gần Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) đó là cuộc hành trình mà ta gọi là hành trình thứ nhất của Phaolô. Cho đến lúc này, Barnaba luôn là người dẫn đầu, khôn ngoan dẫn dắt nhóm nhỏ, trong đó có cả Gioan Mátcô, tác giả tin mừng. Là những trụ cột trong lịch sử của cộng đoàn kitô đầu tiên, họ biết sử dụng những nhân lực và tài lực, văn hóa và đức tin, những tính khí và tầm nhìn khác biệt nhau về thế giới để làm cho tin mừng được nghe và hội nhập vào nhiều hoàn cảnh khác nhau.

Lạy Chúa, các vị chứng nhân này vẫn còn dạy cho chúng con ngày nay nhiều điều về việc loan báo tin mừng.  Xin ban cho chúng con tinh thần tự do của các ngài để hành động bằng tình yêu, diễn tả rõ ràng vẻ đẹp mới mẽ của Chúa, chứ không chỉ giải thích như một lề luật mới, để tôn trọng và biến thành những quy luật phải giữ.

Ánh sáng thế gian

Đoạn tin mừng hôm nay trình bày phần cuối của sách tin mừng Gioan, là một bảng tổng kết. Nhiều người tin vào Đức Giêsu và can đảm tuyên xưng Ngài cách công khai. Các môn đệ khác tin nhưng lại không có can đảm tuyên xưng đức tin. Họ sợ bị trục xuất ra khỏi hội đường. Và nhiều người không tin: ‘Ngài đã làm ngần ấy dấu lạ trước mặt họ, thế mà họ vẫn không tin Ngài; như vậy là ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia: Lạy Đức Chúa, ai đã tin lời chúng con rao giảng? Và quyền lực của Đức Chúa tỏ cho ai’? (x.Ga 12,37-38 ). Sau nhận xét này, thánh Gioan lặ̣p lại vài đề tài chính trong Tin mừng của Ngài:

Ga 12,44-45: Tin vào Đức Giêsu là tin vào Đấng đã sai Ngài. Là câu tóm cả Tin mừng thánh Gioan. Chủ đề xuất hiện nhiều lần với nhiều hình thức khác nhau. Đức Giêsu liên kết với Chúa Cha, Ngài không nói nhân danh Ngài mà nhân danh Cha. Ai thấy Đức Giêsu là thấy Cha. Nếu muốn nhận biết Thiên Chúa, hãy nhìn Đức Giêsu. Thiên Chúa chính là Đức Giêsu.

Ga 12,46: Đức Giêsu là ánh sáng đến trong thế gian. Ở đây thánh Gioan lặp lại điều mà Ngài đã nói trong phần mở đầu: Ngôi Lời là ánh sáng thật chiếu soi mọi người. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, nhưng bóng tối không nhận lấy ánh sáng. (x.Ga 1,5.9). Ngài lặp lại: ‘Ta là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào Ta, thì không ở lại trong bóng tối’. Đức Giêsu là câu trả lời sống động cho những vấn nạn lớn khởi hứng và thúc đẩy việc tìm kiếm của con người. Là ánh sáng chiếu rõ hướng đi. Giúp khám phá ra bề mặt sáng chói của bóng tối đức tin.

Ga 12,47-48: Ta không đến để xét xử thế gian. Việc xét xử sẽ ra sao? Trong hai câu, thánh sử làm rõ chủ đề của việc xét xử. Không xét xử theo sự đe dọa kèm theo những lời chúc dữ. Đức Giêsu nói: ‘Ai nghe những lời Ta nói mà không tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử người ấy; vì Ta đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. Ai từ chối Ta và không đón nhận lời Ta, thì có quan tòa xét xử người ấy: chính lời Ta nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết’. Sự xét xử hệ tại người ấy đối diện với lương tâm mình.

Ga 12,49-50: Cha truyền lệnh cho Ta phải nói điều gì. Những lời cuối cùng của Sách các dấu lạ (Tin mừng Gioan) là bảng tóm những gì Đức Giêsu đã nói và làm. Ngài quả quyết lần nữa những điều Ngài đã xác quyết ngay từ đầu: ‘Ta không nói về Ta. Cha là Đấng sai Ta, Ngài truyền lệnh cho Ta phải nói gì. Và Ta biết rằng lệnh truyền của Ngài thì vĩnh cửu. Những gì ta nói với các ngươi, thì Ta nói như Cha đã nói với Ta’. Đức Giêsu là phản ánh của Chúa Cha. Vì vậy, ngài không cần đưa ra bằng cứ và lý chứng cho những người khiêu khích Ngài. Chính Chúa Cha biện minh cho Ngài qua những công việc Ngài làm. Khi nói công việc, không có ý nói đến những phép lạ cả thể, mà tất cả những gì Ngài nói và làm, cả những điều tiểu tiết. Đức Giêsu là dấu chỉ của Chúa Cha. Ủy nhiệm thư của một vị đại sứ không do ông viết mà do chính người mà ông đại diện viết. Từ Chúa Cha.

Biết bao lần chúng ta như mù trước ánh sáng của Chúa, trước mặt trời chân lý. Nhưng để có thể đi vào trong luồng sáng của Chúa, cần phải mở cửa lòng ra. Một kinh nghiệm thời thơ ấu: Đi xe đạp vào buổi tối. Mỗi chiếc xe đạp có gắn một chiếc đèn nối liền với chiếc môtơ phát điện nhỏ áp sát vào vòng bánh xe. Nếu ta ngưng đạp, thì sẽ không có ánh sáng. Mỗi ngày, việc cầu nguyện, nghiên cứu Thánh Kinh, chay tịnh và phục vụ, sống Tin Mừng và tuân thủ các giới răn làm phát ra ánh sáng để chúng ta tiến bước chắc chắn đúng hướng.

Đêm sắp tàn và ngày đang đến. Hãy loại bỏ những công việc của bóng tối và mang lấy những khí giới của ánh sáng.

Thứ năm Tuần IV Phục Sinh

Thánh Mátcô.

Đoạn trình thuật tin mừng Mátcô hôm nay được gọi là ‘phần kết thúc tin mừng Mátcô’ góp lại những lần hiện ra và lệnh truyền cho các Tông Đồ đi rao giảng (Mc 16,14) và cùng với các ngài là toàn thể Giáo Hội (Mt 28,18-20). Đoạn văn khởi đầu bằng lời hứa của Chúa. Những lời đầu tiên là một lệnh truyền và lời mời gọi: ‘Hãy đi khắp thế gian rao giảng tin mừng cho mọi tạo vật’. Giáo Hội phải rao giảng, nghĩa là sứ vụ phúc âm hóa của giáo hội là một lệnh truyền của Chúa phục sinh. Đối tượng là tất cả mọi người hiện hữu trong thế giới (mọi thụ tạo). Điều này cho thấy tất cả mọi người cần biết lắng nghe tin mừng cứu độ. Nội dung của việc rao giảng là Tin Mừng, tin vui được thực hiện nhờ Đức Giêsu Kitô, chính con người và công trình của ngài. Việc loan báo này được gọi là rao giảng nghĩa là công khai và công cộng, được thực hiện với lòng can đảm và tín thác vào Thiên Chúa cứu độ.

Đoạn văn tiếp tục  nhấn mạnh về tính siêu nhiên của việc loan báo và đón nhận: ‘Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu, nhưng ai không tin sẽ bị luận phạt’ (Mc 16,16). Như thế ta đối diện với những lời của sự sống; không tin là cửa của luận phạt (x. Ga 3,14-21).

Tiếp theo một loạt những dấu lạ đã được thuật lại đi theo những người được sai đi: khử trừ ma quỷ, nói các tiếng lạ, không bị rắn và thuốc độc làm hại, và sau cùng là ơn chữa lành bệnh. Tất cả những việc này là những hiện tượng ân sủng đồng hành với Giáo Hội suốt dòng lịch sử.

Đoạn văn kết thúc với việc loan báo Đức Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc 16,19) và với chỉ dẫn về việc thực hiện lệnh truyền rao giảng của các tông đồ, mang tin mừng đến mọi nơi cùng sự trợ giúp của Chúa (x. Mt 28,20). Nhiều dấu lạ đi theo với họ (Mc 16,20). Giáo hội truyền giáo đang lên đường.

+++

Còn hai ông Phaolô và Barnaba thì rời Pécgiê tiếp tục đi Antiokia miền Pixiđia. Ngày sabát hai ông vào hội đường ngồi tham dự. Sau phần đọc sách Luật và sách các Ngôn sứ, các trưởng hội đường cho người nói với hai ông: Thưa anh em, nếu anh em muốn khuyên nhủ dân điều gì, xin cứ nói.

Phaolô được mời để lên tiếng trong hội đường như thông lệ thời đó, vì thông thường người ta nhường lời cho người khách lạ hiện diện trong hội đường. Điều đó cho phép vị tông đồ loan báo Đức Kitô như đấng cứu thế cho mọi người hiện diện.

Đối với ta ngày nay, điều này có vẻ xa lạ: làm sao có thể tin vào lời của một người không quen biết, chưa được chuẩn bị trước, chưa biết niềm tin thế nào, có quân bình tâm lý không? Chắc chắn Phaolô đã chuẩn bị sẵn sàng nhưng họ chưa biết Ngài là ai.

Trong các cộng đoàn phụng vụ của chúng ta khi có trường hợp nhường lời cho một ai, nếu không phải là một linh mục, người ta phải chắc chắn lắm về người ấy, để tránh những bất ưng đáng tiếc.
Đó là điều tốt. Tuy nhiên việc cơ cấu hóa và sự chuẩn bị đến từng chi tiết nhỏ nhặt trong mọi sự kiện, mọi cuộc gặp gỡ, có thể làm tắt đi tiếng nói của Thánh Thần, đấng làm cho ta biết con người của Đức Giêsu và thường nói qua những con người bé nhỏ, ít ai để ý và chẳng có tài năng gì.

Nhiều lúc chỉ cần một lời nói của một người đã từng sống những gì mình nói, nổi khổ và mệt nhọc của họ như cũng có tiếng nói, họ cho thấy rõ ràng điều gì cộng đoàn đức tin đang thiếu và cần phải thay đổi. Không phải luôn luôn ‘những vị cao niên’, ‘những tiến sĩ’ mới nắm bắt được điều thiết yếu của các sự việc, mới biết đi đâu và khám phá ra những thiếu sót. Quá ‘cao siêu’, nhiều khi họ không còn thấy con người tại thế nữa, không còn thấy những nhu cầu thiết yếu của họ nữa. Nhưng người nghèo, người bé nhỏ, cảm thấy mình là thành phần của nhân loại bị thương tổn, lại có thể thấy vì sao mình sống ở trần gian này. Và khi đó lời của họ làm cho người ta nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu.

Đáng tiếc nhiều lần chúng ta không dám tin để nhường lời cho một ai đó. Chúng ta không tin rằng Chúa có thể nói qua môi miệng của một người bé mọn hoặc một người không quen biết.

Anrê Louf, một người trí thức và làm tu viện trưởng lâu dài một tu viện Xitô, quả quyết rằng thông thường trong cộng đoàn của ngài Thánh Thần của Thiên Chúa nói qua miệng của người trẻ tuổi nhất hoặc khiêm tốn nhất. Và dập tắt những tiếng nói này là bởi vì ta xét họ không có kinh nghiệm hoặc không được chuẩn bị, có thể dẫn đến lầm lạc. Nên ta cần phải có can đảm để cho họ lên tiếng. Chúng ta sẽ ngỡ ngàng biết bao điều thốt ra từ miệng của người tìm kiếm Thiên Chúa và con người, cho dù trước mắt chúng ta hình như chẳng xứng hợp.

Lạy Chúa, chúng con đã đóng miệng biết bao người mà chúng con xét là không thích hợp, không có khả năng. Xin hãy tha thứ những phán đoán quá dễ dãi của chúng con và xin ban cho chúng con biết tín thác vào Chúa và cũng tin tưởng nơi người anh em vì Chúa hiện diện nơi họ.

Một chị em nhút nhát, khiêm tốn là một khí cụ nhiều khi thích hợp cho hoạt động của Thánh Thần vì người đó không gây cản trở cho sự hiện diện của Người.

+++

Sẽ rửa chân cho ai?

Trong vòng ba tuần, tin mừng ngày thường sẽ trích từ những chương (13-17) tin mừng của Thánh Gioan: cuộc đối thoại dài của Đức Giêsu với các môn đệ trong bữa ăn tối cuối cùng. Là cuộc đối thoại thân tình khắc ghi trong tâm trí người môn đệ Chúa yêu. Đức Giêsu hình như muốn kéo dài tối đa cuộc gặp gỡ sau cùng này, những giây phút hết mực thân tình. Ngày nay cũng có nhiều cuộc gặp gỡ như vậy. Có cuộc gặp gỡ hời hợt chỉ toàn những lời lẽ môi mép, phản ánh cái trống rỗng của tâm hồn. Có cuộc gặp gỡ đi sâu vào tâm hồn và đọng mãi trong tâm trí. Tất cả chúng ta đều có những giây phút đầy thân tình như thế, những tấm lòng cởi mở cho nhau, giúp nhau sức mạnh vượt qua những khó khăn, giúp nhau tin tưởng và chiến thắng sợ hãi.

Khi nhiều người thánh thiện lên đường vào sa mạc để sống như những ẩn sĩ, Thánh Grêgôriô thấy thất vọng nên cất tiếng hỏi: ‘Nếu các bạn đi vào sa mạc tất cả, các bạn sẽ rửa chân cho ai’? Một câu hỏi xác đáng, gợi lên cử chỉ của Đức Kitô như in vào lòng mỗi kitô hữu. Nhắc lại bữa tối cuối cùng Chúa Giêsu tự hạ mình làm người tôi tớ và dạy cho mọi người noi theo, không chỉ là một cử chỉ chóng qua, nhưng như là một lời đáp trả cho những tìm kiếm hạnh phúc của con người qua mọi thời.

Biết những điều ấy và đem ra thực hành, thì sẽ có hạnh phúc. Rửa chân cho những người nghèo là một hình ảnh mang tính kitô, đi ngược lại mọi quy luật thế gian. Khôn ngoan của thế gian lấy bản thân mình làm chính. Uy quyền đi đôi với việc cai trị. Khinh thường những kẻ yếu thế, những kẻ không được bảo vệ, những kẻ bị loại trừ. Hạnh phúc được quan niệm như những kẻ có quyền lực, thế lực và tiền của.

Là một ngẫu tượng hấp dẫn. Có lẽ Giuđa cũng đã bị hấp lực này lôi cuốn khi ông quyết định bán Thầy mình, từ chối cách thức mà Đức Giêsu đề nghị để đạt được hạnh phúc. Đó là tội thô bạo nhất. Nó làm cho các môn đệ khiếp sợ! Do đó Đức Kitô đã báo trước, để giảm thiểu cú sốc và, đồng thời minh chứng Ngài là Đấng được sai đến.

Tôi tớ không lớn hơn chủ. Tôi làm gì để cuộc đời mình là một phục vụ thường hằng cho người khác? Đức Giêsu chung sống với những người không chấp nhận Ngài. Còn tôi thì sao?

Thứ Sáu Tuần IV Phục Sinh

Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người chỗi dậy từ cõi chết. Trong nhiều ngày, Đức Giêsu đã hiện ra với những kẻ từng theo Người từ Galilê lên Giêrusalem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân.

Đây là trích đoạn bài diễn từ của Phaolô tại Antiokia: loan báo việc Đức Giêsu sống lại, tâm điểm của tin mừng, được thực hiện qua tường thuật những lần hiện ra của Người.

Tường thuật chính yếu, diễn từ mạnh mẽ để lôi kéo sự chú ý của dân chúng, những người biết rõ Sách Thánh. Vừa đến thành phố, Phaolô và Barnaba tìm đến hội đường, nơi mà cộng đoàn do thái hải ngoại gặp nhau và các ông loan báo tin mừng ở đó. Dân được tuyển chọn được quyền đón nhận tin mừng trước tiên hết, nhưng họ đã từ khước. Và chỉ khi ấy Phaolô và Barnaba mới quay sang những kẻ kính sợ Thiên Chúa và dân ngoại. Một công thức dành kính trọng, ưu tiên cho dân do thái, được lập đi lập lại nhiều lần trong sách Công vụ và trong các thư của Phaolô.

Lạy Chúa, việc mục vụ và loan báo tin mừng của chúng con nhiều lúc quá nặng nề. Xin đừng để chúng con biếng nhác. Xin giúp chúng con trung thành với Thánh Thần bằng cách sử dụng trí khôn và đam mê của chúng con để không một ai bị lãng quên, loại trừ.

+++

Từ ngữ ‘Thiên Chúa’ hình như có vẻ lạnh lùng và gợi lên sự xa cách. Tiếng gọi ‘Cha’ đầy tình cảm và yêu thương: là từ riêng của Mạc khải. Người ta có thể run sợ đối với Thiên Chúa vì sự thánh thiện của Người là lời quở trách đối với những điều phàm tục của ta. Ngược lại đối với tên gọi ‘Cha’, chúng ta cảm thấy thân mật hơn! Các dân tộc gọi đất nước của họ là ‘patria’ (quốc gia). Điều này ngầm nói lên một sự che chở, một nâng đỡ và tình yêu thương. Ta sẽ cảm thấy ‘như ở nhà mình’ trong nhà của Cha, ta sẽ cảm thấy tự nhiên, tự tin.  Đó là điều kỳ diệu của tình yêu: biến đổi một ngôi nhà trở nên nhà mình, biến người đầy tớ thành người con.

Tôma hỏi: Làm sao biết được đường? Đức kitô trả lời: Chính Thầy là con đường. Đức Kitô như thế định nghĩa vai trò của mình, và chúng ta học biết rằng Ngài không đến vì chính mình Ngài, mà vì chúng ta. Nhà của Ngài là nhà của chúng ta, Cha của Ngài là Cha của chúng ta. Thật hết sức đơn giản và dễ hiểu giáo lý kitô giáo! Chúng ta không tiến đi một mình, không đi mà thiếu người dẫn đường. Đức Kitô có đôi tay: một để chỉ cho chúng ta con đường, một để đỡ nâng chúng ta trên suốt con đường. Đó là tất cả những gì mà người lữ hành cần: Là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.

Thứ bảy Tuần IV Phục Sinh

Bấy giờ ông Phaolô và ông Barnaba mạnh dạn lên tiếng: Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.

‘Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân’. Những lời của ngôn sứ Isaia đã được Đức Giêsu lấy lại khi Ngài quả quyết rằng người ta không thể mang đèn để đặt dưới gầm giường, nhưng là đặt trên đế đèn, vì nhiệm vụ của nó là làm cho ánh sáng không còn bị giấu ẩn (x.Mc 4,21).

Nếu Thiên Chúa làm cho ta nên ánh sáng, phản ánh chính hữu thể của Người là ánh sáng, như thế chúng ta không thể bị bỏ rơi. Nếu Người trao cho ta trách nhiệm, công việc, đặc sủng, vai trò và đặt chúng ta lên đế (dù nhỏ hoặc lớn) ta không được chối từ. Người chiếu sáng chúng ta không phải để chúng ta làm tắt đi ánh sáng đó mà là để đến lượt ta trở thành ánh sáng.

Điều quan trọng là tất cả đều từ Người mà đến, không để ta tìm kiếm quyền lực hoặc tham vọng nào, nhưng là để đặt chúng ta phục vụ bằng việc chấp nhận gánh nặng trở nên ánh sáng cho kẻ khác. Vì quả thật là một gánh nặng tinh thần (cả thể lý nữa). Vì phải đưa ra những quyết định, chấp nhận những rủi ro, làm người hướng dẫn, hết sức tỉnh thức để không rơi vào chủ nghĩa vị kỷ hoặc một tham vọng quyền lực nào. Là một gánh nặng nhưng chúng ta không gánh một mình.

Các tông đồ đã đón nhận: họ biết giới hạn của mình (văn hóa, thể lý, tính tình…) nhưng họ đã không thối lui trước trách nhiệm. Trong khi người nghe các vị, như chúng ta vừa nghe đọc, trong vài trường hợp tự cho mình không xứng đáng sự sống đời đời, các ngài xét thấy mình có thể đáp trả lại lời mời gọi của Chúa.

Các ngài không rơi vào sự khiêm tốn giả tạo, không viện đủ trăm nghìn lý do để rút khỏi nhiệm vụ được trao.

Mỗi người chúng ta ngay từ đầu cũng nghèo hèn, sợ hãi và lo lắng nhưng Chúa ban cho ta can đảm, khôn ngoan và lòng tín thác. Nếu Thiên Chúa đã tin tưởng ta, thì chúng ta là ai mà lại không tín thác vào Người, biết bao điều có thể được thực hiện trong tiếng xin vâng của ta?

Cám ơn Chúa đã tin tưởng con. Xin làm cho sự tự tin yếu kém làm con chùng bước hoặc tính vị kỷ lừa dối con, đừng bao giờ làm hạ giá những ân ban của Chúa. Xin làm cho con luôn là ngọn đèn bé nhỏ chỉ mạnh mẽ nhờ vào dầu tình yêu và sự khôn ngoan của Chúa.

Người kiêu căng chỉ tin tưởng chính mình, có trăm nghìn lý do để không bắt tay khởi đầu; nhưng người khiêm tốn tìm thấy sự can đảm nơi khả năng thiếu thốn của mình: càng thấy mình yếu hèn thì càng bạo gan, vì họ đặt tất cả lòng tín thác nơi Thiên Chúa, đấng vui lòng thể hiện quyền năng của Người trong sự yếu hèn và chiến thắng sự khốn cùng của ta bằng lòng thương xót của Người. (Thánh Phanxicô Salêsiô)

Xin chỉ cho chúng con thấy Cha

‘Sự Thật’ là một từ chìa khóa. Đối với người đời từ ngữ ‘sự thật’ gợi lên một công thức, một lý thuyết, một cái gì thuộc tinh thần, là cái mà người ta thủ đắc được. Đức Kitô lật đổ quan niệm này, vì nó hoàn toàn hời hợt bên ngoài. Ngài không tuyên bố: ‘Ta có’ nhưng nói ‘Ta là’: ‘Ta là Sự Thật’.
Sự Thật là một con người chứ không phải là một mệnh đề. Mọi người đều đi tìm sự thật, nhưng không đúng chỗ, họ bằng lòng với những chủ thuyết hoặc ý thức hệ. Tất cả những chủ thuyết ấy, như cơn mưa rào mùa hạ, sẽ chóng lỗi thời.

Tìm Sự Thật, chúng ta đi tìm con người đích thực, tìm Chúa Cha và Đức Kitô là mạc khải của Chúa Cha. Nơi đây không đề cập đến Sự Thật của Chúa Cha mà Chúa Con học biết để rồi truyền đạt lại cho con người. Chính Đức Kitô là Sự Thật.

Điều này vượt quá trí hiểu của các tông đồ. Philipphê diễn tả ưu tư của các ông: ‘Lạy Thầy, xin chỉ cho chúng con thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con rồi’. Các tông đồ không hiểu được căn tính của Chúa Cha và Chúa Con. Họ chỉ biết rằng họ sắp lìa xa Đức Kitô và nghĩ rằng đến nhà Cha thì sẽ được ở cùng với Đức Giêsu và lưu lại với Ngài mãi mãi.

Đức Giêsu tuyên bố Ngài là con đường duy nhất dẫn đến Thiên Chúa, Cha Ngài và ai biết Ngài thì biết Cha. Động từ biết trong ngôn ngữ do thái muốn diễn tả điều gì hơn một liên hệ tri thức với người được nhận biết, vì từ ngữ này thường được dùng để diễn tả kinh nghiệm trong quan hệ vợ chồng.

‘Tôi sống, không còn là tôi sống, nhưng Đức Kitô sống trong tôi’. Điều Đức Kitô xác quyết cũng được áp dụng cho các kitô hữu. Với niềm tin vào Đức Kitô, người tín hữu sẽ sống mật thiết với Thiên Chúa và cũng như Đức Kitô, chúng ta có bổn phận làm sao cho người khác, khi nhìn chúng ta, nhận biết Chúa Cha. Để những việc chúng ta làm tôn vinh Chúa Cha trên trời.

Câu hỏi của Philipphê cũng là câu hỏi của mỗi người chúng ta và mỗi người tự cố gắng trả lời bằng chính cuộc sống của mình: sao các bạn hỏi ‘Xin chỉ cho chúng tôi thấy Cha. Các bạn không thấy rằng Chúa Cha tỏ hiện trong các công việc của chúng tôi sao’? Đó là bổn phận làm chứng tá của mỗi kitô hữu.

Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê

Thánh Matthia, Tông đồ

Ông Matthia trúng thăm. Đức Giêsu Kitô đã thiết lập Hội Thánh của Ngài trên nền tảng các Tông đồ. Hôm nay chúng ta tôn vinh cây cột thứ mười hai, thánh Matthia, người thay thế chỗ của Giuđa, kẻ phản bội. Con số mười hai không phải được Chúa Giêsu chọn cách ngẫu nhiên. Số mười hai rất ý nghĩa vì có liên kết với mười hai chi tộc Israel. Trong ngày Phán xét, các tông đồ sẽ được đặt xét xử mười hai chi tộc Israel. Matthia được tuyển chọn để trở thành chứng nhân việc sống lại của Chúa cùng với mười một vị khác. Trước khi tiến hành việc tuyển chọn một trong hai ứng viên là Giuse và Matthia, họ đã cùng nhau cầu nguyện: ‘Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người; giữa hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai để nhận chỗ trong sứ vụ Tông đồ, chỗ Giuđa đã bỏ để đi về nơi dành cho y’. Các Tông đồ ý thức rõ những lời Đức Giêsu nói về việc kêu gọi họ theo Người: ‘Không phải các con chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và đã cắt đặt để các con ra đi mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại’. Vì thế họ đã cầu xin Chúa Giêsu chỉ cho biết ai trong hai người là kẻ được chọn để lãnh nhận sứ vụ tông đồ.

Tin mừng Gioan nói đến việc Đức Giêsu cầu nguyện và khích lệ các tông đồ, Người yêu cầu họ phải trung thành trong tình yêu để sống trong niềm vui và hưởng tình bạn thân tình với Người. ‘Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết’.

Đó cũng chính là những phận vụ và đặc ân của các tông đồ hôm nay. Của thánh Matthia và của các đấng kế vị các tông đồ. Cùng một điều kiện: Hãy yêu thương nhau.

Lễ Thánh Philipphê Và Giacôbê

Đức Giêsu loan báo việc Ngài sắp ra đi ngay trong bữa tiệc sau cùng (Ga 13,33), làm cho Phêrô phải hỏi ngay: ‘Thưa Thầy, Thầy đi đâu’ (Ga 13,36). Sau khi tiên báo việc Phêrô chối Thầy, Đức Giêsu an ủi các tông đồ bằng cách bảo cho họ biết rằng Ngài ra đi là để dọn chỗ cho họ: ‘Thầy đi đâu, chúng con đã biết đường rồi’ (Ga 14,4). Những lời này của Đức Giêsu có hai mục đích theo suy tư của thánh sử. Trước hết nhắc đến lời giáo huấn của Đức Giêsu, đặc biệt là giới luật mới (Ga 13,34-35), chỉ cho biết đâu là con đường phải bước theo. Những lời ấy còn gợi lên những thắc mắc của Tôma. Tôma hỏi: ‘Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?’ Đức Giêsu đáp: ‘Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy’ (Ga 14,5-6). Câu trả lời của Đức Giêsu một lần nữa dẫn ta vào trong mầu nhiệm con người của Ngài. Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, là con đường dẫn đến Chúa Cha. Con đường duy nhất (Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy). Một con đường cá biệt. Con đường đồng hóa với mục đích vì Ngài là sự thật và là sự sống (Thánh Tôma Aquinô).

Ngài còn nói tiếp: ‘Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy’ (Ga 14,7). Biết Đức Giêsu nghĩa là biết Chúa Cha, Thiên Chúa tình yêu. Các tông đồ đã biết Chúa Cha và một cách nào đó đã thấy Người nơi Chúa Con, trong quà tặng tình yêu của Người. Câu hỏi của Philipphê và câu trả lời của Đức Giêsu (Ga 14,8-10) cho biết sự kết hiệp giữa Chúa Cha và Chúa con, mật thiết trong lời nói và hành động cứu độ, tình yêu, ân ban sự sống. Công việc của Đức Giêsu làm  là cách trình bày tốt nhất cho biết về sự kết hiệp này.

Trong ba câu cuối Đức Giêsu hứa cách long trọng. Trước hết Ngài hứa cho người tin Ngài sẽ làm những việc lớn hơn việc Ngài làm nữa (Ga 14,12) và còn hứa sẽ luôn thực hiện điều người tin cầu xin Chúa Cha nhân danh Ngài (Ga 14,13-14).

Thánh Atanasiô

Tin mừng trình bày cách cụ thể những khó khăn của các chứng nhân đức tin: Thánh Atanasio, bốn lần bị lưu đày, buộc phải trốn chạy vì niềm tin của Ngài vào thiên tính của Đức Giêsu. Đức Giêsu Con Thiên Chúa hoàn toàn vượt xa chúng ta về mọi mặt, chúng ta biết điều này trong trình thuật về việc biến hình, và chấp nhận bằng lòng tin. Nhưng trong lịch sử Hội Thánh từng có những người muốn giản lược Đức Giêsu vào trong phạm vi nhân loại, bình diện các thụ tạo. Điều này đã xảy ra thời thánh Atanasiô, với bè rối Ariô, cho rằng Đức Giêsu chỉ đơn thuần là con người, dẫu vĩ đại, thánh thiện được Thiên Chúa chọn, nhưng không phải là Con Thiên Chúa. Và nhiều người ngay cả các Giám mục và hoàng đế đã chấp nhận ý nghĩ này, vì quá dễ dàng, dễ hiểu, không đòi hỏi phải nại đến mầu nhiệm.

Thánh Atanasio đã bảo vệ chân lý đức tin này: là một mầu nhiệm có liên quan đến phần rỗi chúng ta, vì nếu Đức Giêsu không phải là Con Thiên Chúa, chúng ta không được cứu rỗi, bởi lẽ ơn cứu độ là công trình của Thiên Chúa. Đây là một việc làm gian truân và nặng nhọc của người tín hữu. Thật khó mà tin rằng Đức Giêsu đã chiến thắng thế gian khi mà phải chịu bao bách hại. Nhưng chiến thắng nào cũng đòi hỏi chiến đấu, phải trải qua cuộc thương khó của Chúa. Chúng ta tin vào mầu nhiệm toàn thể của Đức Giêsu: mầu nhiệm của sự chết bị tiêu diệt trong sự sống lại. Người kitô hữu không ngạc nhiên nhiều khi thấy mình cũng như Đức Giêsu, bị bách hại, vì nhờ thế họ đạt đến chiến thắng của niềm tin.

Chiến thắng của niềm tin nghĩa là gì? Nghĩa là tiếp tục tin, dẫu trong những cơn bách hại, rằng Thiên Chúa luôn yêu thương ta và thử thách ta để ta được hưởng hạnh phúc lớn lao.

Linh mục Phêrô Phạm Ngọc Lê

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

ducchasi
 
closedbible
 
suy 5
 
thanhthan06sm 1
 
gdphanxicoxavie
 
lichconggiao2
 
giolecacnhatho adv2 copy
 
giolecacnhatho adv2
 

Tin mới nhất

Kết nối

 

 

 

Thống kê

  • Đang truy cập138
  • Máy chủ tìm kiếm38
  • Khách viếng thăm100
  • Hôm nay24,621
  • Tháng hiện tại681,454
  • Tổng lượt truy cập52,850,402

Copyright © [2018] Giáo phận Nha Trang. All rights reserved.
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Nha Trang
Email: gpnhatrangbtt@gmail.com
Địa chỉ: 22 Trần Phú - HT 42, Tp. Nha Trang - Khánh Hoà
Phone: (84) 258.3523842 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây