Chúa Nhật XIII TN / B
Đây là hai phép lạ Chúa Giêsu thực hiện, có liên quan đến nhau, bổ sung cho nhau. Họ là hai người nữ: một người khi mới bắt đầu cuộc đời, người kia ở cuối những đau khổ kéo dài khiến bà kiệt sức. Cả người này lẫn người kia đều không thể được cứu nhờ con người (c.23 và 26). Nhưng cả hai sẽ được cứu nhờ tác động của quyền năng phát xuất từ Chúa Giêsu và từ đức tin: người phụ nữ nhờ đức tin của chính mình, đứa trẻ nhờ đức tin của cha mình (câu 34 và 36).
Trên hết cần lưu ý rằng: đứa trẻ được mười hai tuổi (câu 42) và người phụ nữ đã đau khổ trong mười hai năm (câu 25). Bà đau khổ trong mười hai năm (câu 25). Con số này không được đưa ra cách ngẫu nhiên. Có một giá trị biểu tượng lớn bởi vì nó được liên kết với một cái gì đó được thực hiện. Chúng ta nhớ rằng Chúa Giêsu đưa ra lời tiên tri đầu tiên vào lúc mười hai tuổi (Lc 2:42 và 49). Chúa Giêsu chọn mười hai tông đồ, vì thời điểm đã đến. Mười hai giỏ bánh mà Chúa Giêsu cho các môn đệ ăn cũng có ý nghĩa tương tự (Mc 6:43). Và thời kỳ cuối cùng được tượng trưng bởi mười hai cửa của Giê-ru-sa-lem trên trời (Khải huyền 21: 12-21). Giống như người phụ nữ trong Khải huyền (hình ảnh của Đức Maria, của Giáo hội) được đội vương miện với mười hai ngôi sao (Kh 12: 1). Chưa kể đến cây sự sống ban đầu nằm ở trung tâm trong một khu vườn, và cho mười hai vụ thu hoạch. Và khi chúng ta biết rằng ngày của Chúa Giêsu có mười hai giờ (Ga 11:9), chúng ta hiểu rằng hai phép lạ của chúng ta không phải là những cử chỉ đơn giản của lòng thương xót, nhưng chúng còn mang một mặc khải: thời điểm [giờ] đã đến, nhân loại tội lỗi (St 3:12) được giải thoát khỏi sự dữ. Con người không thể làm được gì, nhưng đối với Thiên Chúa không gì là không thể (Lc 1:37). Chúa Giêsu chỉ đòi hỏi hai điều: "Đừng sợ, hãy tiếp tục tin" (câu 36).
Đẹp biết bao khi tin vào Thiên Chúa Sự Sống!
Sau cơn giông bão mà chúng ta nghe tường thuật Chúa Nhật tuần trước, Chúa Giêsu và các môn đệ lên bờ đến vùng Thập Tỉnh [dân ngoại], ở Decapolis. Ở đó, Chúa chữa lành một người bị quỷ ám, nhưng bị cư dân trong vùng đó buộc phải rời đi, bởi vì việc chữa lành cho người bị quỷ ám đã xảy ra với cái giá là năm nghìn con heo chết đuối, nguồn sinh sống duy nhất của những người vùng đó. Vì thế, sứ mệnh đầu tiên của ngài ở nước ngoài không có gì to tát: tất cả những gì còn lại đối với ngài - như bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu - là trở về bờ bên kia, về quê hương, nơi ngài cảm thấy an toàn vì ngay lập tức có một đám đông lớn tụ tập xung quanh ngài. Quê hương của một con người, cội nguồn, nền văn hóa, thậm chí cả tôn giáo của người đó là một nền tảng chắc chắn, một sự an toàn: luôn cảm thấy như ở nhà. Hầu như luôn luôn...
Trong thực tế, đối với Chúa Giêsu, câu nói này không hoàn toàn đúng: ngay từ đầu, Ngài đã thấy có sự thù địch giữa những người dân làng Nazareth của Ngài, những người mà Ngài sẽ thốt lên câu tục ngữ nổi tiếng ‘Không ai là tiên tri ở quê hương mình’ . Nhưng ngay cả trên lãnh thổ rộng lớn hơn của đất Israel, Chúa Giêsu cũng gặp phải sự chống đối: không quá nhiều từ nơi quần chúng, trong đám đông - những người, như Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta ba lần, tụ tập quanh Người có lẽ thậm chí chỉ để được ưu ái – nhưng là giữa các nhà chức trách dân sự, các nhà lãnh đạo tôn giáo, những người vì ghen tị không chấp nhận sự nổi tiếng của Ngài, và không chấp nhận cách hiểu đức tin ‘khác biệt’ của Ngài vào Thiên Chúa của cha ông họ. Và việc Chúa Giêsu đến để lật đổ các nền tảng đức tin, hay đúng hơn là tính tôn giáo của những người lãnh đạo dân chúng và của chính những người được họ giáo dục, có thể thấy rõ trong đoạn Tin Mừng Chúa nhật này.
Có hai tình tiết chữa lành, dường như không liên quan đến nhau, một của người phụ nữ bị xuất huyết, được coi là thứ yếu so với tình tiết chính, sự hồi sinh của một bé gái 12 tuổi. Thay vào đó, chính con số 12 năm đã gắn kết câu chuyện của hai người nữ, một người bệnh 12 năm và một người qua đời lúc 12 tuổi: và vì con số 12 là biểu tượng của các chi tộc Israel, có lẽ Mátcô đã muốn cho chúng tôi biết điều gì đó, cụ thể là mọi thứ liên quan đến tính tôn giáo trong Cựu Ước chỉ có thể khiến một người bị bệnh và dẫn đến tử vong, và do đó cần có một người mang lại sức khỏe và sự sống cho dân Chúa. Luôn là con cái Thiên Chúa Cha: cả hai người nữ đều là ‘con gái’, một người là của ông trưởng hội đường, người kia là của chính Chúa Giêsu, người gọi bà bằng thuật ngữ này, thay vì là ‘người phụ nữ’ thông thường. Cả hai đều mang trong mình cái chết, cả hai người ‘con gái’ của một tôn giáo chết chóc, họ tìm lại được sự sống: những câu chuyện của họ hoàn toàn không liên quan đến nhau. Và chính tình tiết ‘trong ngoặc’, việc chữa lành người phụ nữ bị băng huyết, cho chúng ta cảm nhận về sự cao cả và mới mẻ trong sứ điệp của Chúa Giêsu liên quan đến mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa: lòng đạo đức của chúng ta không cứu được chúng ta; việc tuân thủ luật lệ của một tôn giáo cũ kỹ và lỗi thời không cứu được chúng ta. Điều cứu chúng ta là việc tự do gắn bó trong tương quan làm con cái và trong tình yêu với Thiên Chúa, tức là đức tin.
Lòng tôn giáo cũ kỹ và mốc meo của người dân Israel cổ xưa - hay đúng hơn là của những người ‘cũ’ - ở Israel đã ngăn cản người phụ nữ đau bệnh đó nhận được sự cứu rỗi: các bác sĩ đã không thành công, là những người dường như cũng đã được hưởng lợi từ căn bệnh của bà, nhưng không ai có thể thành công, có lẽ ngay cả Thiên Chúa cũng không, vì bà ấy bị cấm đến đền thờ (vì sự ô uế của bà ấy sẽ làm ơ uế cho đền thờ và tất cả những tín hữu có mặt), bà ấy bị ngăn cản có một đời sống tình cảm bình thường, chồng hoặc bạn tình sẽ vì bà mà nên ô uế, bà ấy bị ngăn cản không được ở giữa mọi người (vì sự ô uế của bà sẽ khiến mọi người trở nên ô uế). Tệ hơn nữa nếu có ai đã ‘chạm vào’ bà, dù chỉ là vô tình: cả hai đều có nguy cơ bị loại khỏi cộng đồng, bị vạ tuyệt thông. Nhưng đức tin của người phụ nữ này mạnh hơn não trạng tôn giáo nơi bà lớn lên; tính ưu việt của lương tâm của bà mạnh hơn đám đông vây quanh Chúa Giêsu, ngăn cản bà đến gần Ngài. Và thực ra, một cách bí mật, từ phía sau, bà thậm chí chỉ chạm vào gấu áo choàng của Ngài: bà không muốn làm phiền Thầy, bà hài lòng với những mẩu ân sủng mà Ngài biết cách phân phát cho những ai tin vào Ngài. Và nếu tùy thuộc vào bà ấy, mọi thứ sẽ diễn ra suôn sẻ như thế này: được chữa lành, được cứu rỗi và được khám phá lại sự sống.
Nhưng đây không phải là trường hợp của Chúa Giêsu, người xem ra đặt câu hỏi thừa khi hỏi ‘Ai đã chạm vào áo tôi? trước một đám đông chắc chắn đang xô đẩy Ngài, Ngài buộc bà ấy bước ra ngoài, chắc chắn không phải để trả giá, nhưng để - Marco tiếp tục - bà nói ‘toàn bộ sự thật’ từ phía trước. Đúng, vì sự thật phải nói ‘trước mặt’, không giấu giếm, không nói sau lưng như dối trá, vu khống; và sự thật của người phụ nữ này là bà ấy được cứu không phải bởi một tôn giáo khép kín, gạt ra ngoài lề, chối bỏ, giết chết (nghĩ mà xem, tôn giáo này cũng giết chết một bé gái 12 tuổi... suy cho cùng, cô bé là ‘con gái của người đứng đầu’ của hội đường Do Thái’, của một người đứng đầu tôn giáo và thay vào đó sẽ phải có đức tin để thấy nó được chữa lành) nhưng từ một đức tin mang lại sự sống vì cần sự tiếp xúc trực tiếp, thiết yếu với Thiên Chúa. Một Thiên Chúa không loại trừ, nhưng là đón tiếp; một Thiên Chúa không muốn tuân theo các luật lệ của Lề Luật, nhưng là Đấng ban cho Lề Luật một tinh thần mới; một Thiên Chúa cứu rỗi không phải những người trung thành với giới luật tôn giáo, mà là những người thể hiện niềm tin vào Ngài dù bị mọi người coi là ‘không trong sạch’, bị loại trừ, khác biệt, nguy hiểm.
Tình tiết này có ý nghĩa quan trọng cho Giáo hội; và dạy chúng ta biết rằng một tôn giáo loại trừ không phải là một tôn giáo mà là một giáo phái; một cộng đồng không biết chào đón thì không phải là một cộng đồng mà là một đẳng cấp; một Giáo hội gồm những người xua đuổi những kẻ ô uế, cô lập những người tội lỗi, chỉ ra những người thất bại trong cuộc sống, loại trừ khỏi sự hiệp thông trọn vẹn những người mà cuộc sống đã phủ nhận vẻ đẹp của một tình yêu thanh thản, lên án những người khác biệt, ….có mùi mốc meo thay vì không khí trong lành, có mùi cái chết thay vì sự sống... đó không thể là một Giáo hội. Chắc chắn đó không phải là Giáo hội mà Chúa Giêsu mong muốn.
Thật là đẹp đẽ khi tin vào Thiên Chúa của sự sống: tại sao chúng ta lại để Người bị đóng khung trong một chiếc hộp chứa đầy những quy tắc, phán xét và định kiến?
Thứ Hai tuần XIII Tn
Chủ đề ơn gọi. Những mong ước của con người thể hiện nơi người luật sĩ trong tin mừng: ‘Dù Thầy đi đâu con cũng sẽ theo Thầy’, ‘Cho phép tôi về …trước..’ đối nghịch với những yêu sách của Đức Giêsu. Loan báo tin mừng, hiến thân cho người khác, phục vụ cho Nước Thiên Chúa, đòi hỏi một thái độ vượt trên những giới hạn của con người. Trong khi tất cả đều biết những điều kiện tối thiểu của tổ ấm, gia đình, của sự thoải mái, thì người theo Đức Giêsu bị đòi hỏi từ bỏ hoàn toàn tất cả, tựa cách thức của Đấng ‘không có chỗ gối đầu’. Những lời của Đức Giêsu thật quyết liệt: ‘Hãy theo Thầy’. Những lời này vẫn còn hiệu lực cho hôm nay cũng như cho thời của Đức Giêsu. Lòng quảng đại theo Đức Giêsu không thiếu, cũng không thiếu ý muốn theo Đức Giêsu. Nhưng điều cần thiết là hiểu được đòi hỏi triệt để của tin mừng. Chúng ta thường làm cho đòi hỏi ấy nhẹ bớt bằng những chỉ dẫn, những điều kiện, những giải thích, để không bị thương tổn… Chỉ có một điều cần: ‘Hãy theo Thầy’. Con tim quảng đại sẽ đáp trả tiếng gọi rõ ràng này.
Thứ Ba tuần XIII Tn
Vì Đức Chúa là Chúa Thượng không làm điều gì mà không bày tỏ kế hoạch của Người cho các ngôn sứ, tôi tớ của Người được biết. Sư tử đã gầm lên, ai mà không sợ hãi? Đức Chúa là Chúa thượng đã phán, ai chẳng nói tiên tri?
Vương đế, tư tế và ngôn sứ: là những ân ban của bí tích Thánh Tẩy. Việc hiến thánh cho Thiên Chúa ban cho ta chức bậc này. Phụng vụ hôm nay nhấn mạnh đến ân ban ngôn sứ. Làm ngôn sứ là ân ban sự sống thân tình đặc biệt với Thiên Chúa, Đấng tỏ cho các ngôn sứ biết những mong ước kín nhiệm của Người, là ‘điều chưa tỏ ra’ trong lịch sử, trong đời sống. Các ngôn sứ dự phần vào chương trình của Thiên Chúa, biết được chương trình đó và phải làm tất cả để cho chương trình đó có thể được con người nhận biết, yêu mến, thực hiện trong thời gian.
Sự thân tình là dấu chỉ của chiều kích này: sự hiểu biết do năng tiếp xúc với Thiên Chúa làm cho không chỉ đức tin, mà ngay cả lòng cậy trông vào Người tiếp tục phát triển. Trang tin mừng hôm nay là một bằng chứng. Cơn giông bão bất ngờ xảy ra đặt các tông đồ vào tình trạng thử thách. Lòng tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa làm cho ta có tầm nhìn vượt lên trên những biến cố của giây phút hiện tại. Cơn giông bão xảy đến không che kín cái nhìn đầy hy vọng về điều sắp đến. Và giúp ta sống vì điều đó.
Lạy Chúa, ước gì không phải sự sợ hãi, chủ nghĩa cơ hội ngăn cản lời hy vọng của chúng con. Xin biến chúng con nên ngôn sứ can đảm trong một thế giới đang chờ đợi chân lý, công bình và nhiều lần bị chết dần mòn vì sự nhỏ nhen và bất công
+++
Sao nhát thế, hỡi những kẻ kém lòng tin? Chúa đang ở trên con thuyền của Giáo hội đang vượt qua biển đời, giữa những bách hại của thế gian và những an ủi của Thiên Chúa, và luôn phải tin tưởng vào duy một mình Thầy. Sao nhát thế, hỡi những kẻ kém lòng tin? Chúa ở cùng chúng ta, trên con thuyền đời, ngay cả khi những điều tồi tệ xảy đến và chúng ta có cảm tưởng như mình đang chìm do những biến cố hoặc do những giới hạn của ta hoặc do rủi ro. Sao nhát thế, hỡi những kẻ kém lòng tin?
Chắc chắn tất cả chúng ta muốn biển phẳng lặng như chiếc mặt bàn, nhưng không bao giờ có được như thế đâu. Giông bão dạy ta cách lèo lái giữa sóng gió, học biết khi nào ra đi với con thuyền hoặc lúc nào phải ở lại nhà! Sao nhát thế, hỡi những kẻ kém lòng tin? Chúa đang hiện diện, ngay cả khi hình như Ngài đang ngủ. Và chúng ta mệt mỏi, ý thức mình là những thủy thủ nước ngọt (những nhà hàng hải có khả năng vượt qua các đại dương một mình), cuối cùng có khả năng nhận ra những giới hạn hiển nhiên của mình…. Sao nhát thế, hỡi những kẻ kém lòng tin?
+++
Cùng thuyền với Chúa
Các bài đọc hôm nay cho chúng ta hai bài học bổ túc cho nhau. Một đàng chúng ta được mời gọi chiêm ngắm việc Thiên Chúa ân cần cứu ông Lót, để cứu ông thoát khỏi những tai ương chụp xuống Sôđôma và Gômôra; đàng khác, trong tin mừng, chúng ta lại nghe Đức Giêsu khuyên giữ vững đức tin khi hiểm nguy ập tới.
Sự ân cần của Thiên Chúa cứu ông Lót thật ấn tượng, và đoạn văn nhấn mạnh: ‘Các thiên thần giục ông Lót rằng: Đứng lên! Đưa vợ và hai con gái ông ở đây đi đi, kẻo ông phải chết lây khi thành bị phạt’. Lót không vội vã, chần chừ, muốn ở lại nhà mình, bầu khí quen thuộc, muốn chờ xem nguy hiểm có thực sự xảy ra ngay không; nhưng các thiên thần đã nắm lấy tay ông, đưa ông ra để bên ngoài thành. Và còn căn dặn ông: ‘Ông hãy trốn đi để cứu mạng sống mình! Đừng ngoái lại đằng sau, đừng dừng lại bất cứ chỗ nào trong cả vùng. Hãy trốn lên núi kẻo bị chết lây’. Lót một lần nữa lại chần chừ, nại cớ rằng tai ương sẽ đuổi kịp ông.
Thiên Chúa mau mắn cứu chúng ta. Còn chúng ta thường thì thinh lặng, uể oải, chẳng chút quan tâm đến những nguy hiểm; chúng ta muốn ở lại trong những thói quen, bám vào của cải, vào những tình huống thường ngày của cuộc sống. Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy đi theo con đường chắc chắn, lương thiện, còn chúng ta lại thích những con đường mòn tăm tối, nước đôi, chúng ta không muốn từ bỏ cách quyết liệt những tình trạng nguy hiểm. Thiên Chúa luôn nhẫn nại. Phúc cho chúng ta có được Người Cha ân cần như thế, Đấng biết những hiểm nguy rõ hơn chúng ta và kêu gọi chúng ta lắng nghe Ngài, và đi theo Ngài để tìm được sự sống viên mãn.
Trong bài tin mừng, tình cảnh khác hơn. Các Tông Đồ đang lênh đênh trên biển, trên thuyền cùng với Đức Giêsu. ‘Bỗng nhiên biển động mạnh’. Đối với người trên thuyền khi giông bão ập đến, không có lựa chọn nào khác là: phải đối mặt với nguy hiểm, không thể trốn chạy được. Lời cầu xin. Các Tông đồ chạy đến kêu cầu Chúa Giêsu, (đang ngủ) và đánh thức Ngài: ‘Lạy Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất!’. Chúa Giêsu chỗi dậy ngăm đe gió và biển. Biển liền lặng như tờ.
Ngài quở trách các tông đồ. Lời cầu xin của các ông không xuất phát từ lòng tin mạnh mẽ nhưng chỉ vì sợ hãi. ‘Sao nhát thế? Hỡi những kẻ kém lòng tin’! Cùng đồng thuyền với Đức Giêsu, chúng ta không có gì phải sợ hãi. Điều quan trọng là có Chúa Giêsu trong thuyền cuộc đời mình, dù hình như Ngài đang ngủ, chúng ta chắc chắn được bảo vệ. Điều đó không có ý muốn nói là chúng ta sẽ có cuộc sống an bình, khỏi mọi đau khổ, mọi thử thách; nhưng chỉ muốn nói rằng chúng ta bảo đảm được Chúa trợ giúp và đạt đến chiến thắng.
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Roma đã viết với giọng thách thức: ‘Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?...Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta’ (Rm 8,35-37). Nếu chúng ta ở với Đức Kitô, chúng ta sẽ là người chiến thắng. Do đó chúng ta có tinh thần của người chiến thắng; không nhượng bộ sự sợ hãi, nhưng tin tưởng chạy đến Chúa trong cơn nguy hiểm, trong mọi thử thách, trong nỗi gian truân. Van xin tình yêu của Ngài tặng ban cho ta sự giải cứu khỏi cảnh khó khăn, bởi vì luôn luôn trong tình yêu của Ngài có ơn giải cứu. Nếu chúng ta biết lo lắng để lưu lại trong tình yêu của Đức Kitô, chúng ta có thể luôn bảo đảm là những kẻ chiến thắng.
Cả hai bài đọc đưa đến kết luận: điều thiết yếu là kết hiệp với Thiên Chúa trong tình yêu, một kết hiệp giả thiết phải từ bỏ bao nhiêu điều phụ thuộc. Chỉ những ai biết từ bỏ những điều phụ thuộc mới có thể được cứu, mới có thể đạt đến chiến thắng: ‘Chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta’. Thánh Phaolô nói: ‘Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta’.
Thứ Tư Tuần XIII Tn
Thánh Tôma Tông Đồ
Tin mừng trình bày cho chúng ta cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với vị Tông đồ muốn thấy mới tin. Nên nhiều người gọi kẻ cứng lòng tin là Tôma. Thực ra sứ điệp tin mừng hôm nay thật khác hẳn. Rất sâu xa và rất hiện thực.
Ga 20,24-25: Nghi ngờ của Tôma. Tôma, một trong nhóm Mười Hai, không có mặt khi Đức Giêsu hiện ra cho các môn đệ tuần lễ đầu tiên. Ông không tin vào lời chứng của các người khác nói lại: ‘Chúng tôi đã được thấy Chúa’. Ông đặt điều kiện: ‘Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin’. Không! Ông muốn nhìn thấy những thương tích trên bàn tay, bàn chân và cạnh sườn! Ông không tin vào Đức Giêsu vinh quang, tách rời khỏi Đức Giêsu đau khổ trên thập giá. Khi thánh Gioan viết tin mừng, vào cuối thế kỷ thứ nhất, có nhiều người cũng không chấp nhận Con Thiên Chúa trong bản tính con người (2 Ga 7; 1Ga 4,2-3). Đó là những người theo ngộ đạo thuyết, họ khinh chê thân xác vật chất. Thánh Gioan trình bày bận tâm của Tôma để chỉ trích những kẻ theo ngộ đạo thuyết: ‘thấy mới tin’. Sự nghi ngờ của Tôma cũng khơi lên cho thấy sự khó khăn tin vào sự phục sinh!
Ga 20,26-27: Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin. Trình thuật kể lại: ‘Tám ngày sau’ khi cộng đoàn họp nhau, họ đã trải nghiệm cách sâu xa sự hiện diện của Đấng phục sinh ở giữa họ. Các cửa đóng kín không ngăn được sự hiện diện của Đức Giêsu giữa những kẻ tin vào Ngài. Ngày nay cũng thế. Khi chúng ta họp nhau, dù cửa có đóng kín, Đức Giêsu cũng hiện diện giữa chúng ta. Cho đến nay và mãi mãi, lời đầu tiên của Đức Giêsu vẫn là: ‘Bình an cho anh em’. Điều ấn tượng là lòng nhân lành của Đức Giêsu. Ngài không chỉ trích, cũng không xét sự cứng lòng của Tôma, nhưng chấp nhận sự thách thức: ‘Tôma, đặt ngón tay vào đây và xem tay Thầy!’ Đức Giêsu chứng thực xác tín của Tôma và của cộng đoàn, nghĩa là, Đấng phục sinh vinh quang cũng chính là Đấng đã bị đóng đinh. Chính là Đức Giêsu đã sống trên trần gian và trên thân xác Ngài vẫn còn thương tích của cuộc khổ nạn. Những thương tích ấy vẫn còn thấy nơi những nỗi đau, nơi những đói khổ, những vết tích của tra tấn, của sự bất công của con người ngày hôm nay. Và Đức Giêsu hiện ra giữa chúng ta nơi những con người phản kháng, tranh đấu cho sự sống, không để mình bị đè bẹp. Tôma tin vào chính Đức Kitô ấy và cả chúng ta nữa ngày nay nữa!
Ga 20,28-29: Phúc thay những người không thấy mà tin. Cùng với Tôma chúng ta tuyên xưng: Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con! Ân ban của Tôma là thái độ lý tưởng của đức tin. Và Đức Giêsu kết thúc sứ điệp: ‘Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc cho những người không thấy mà tin!’ Đức Giêsu tuyên bố phúc cho chúng ta vì đang sống trong cùng cảnh ngộ: không thấy, nhưng chúng ta tin Đức Giêsu đang ở giữa chúng ta, chính là Đấng đã chết trên thập giá!
Từ Đức Giêsu bị đóng đinh và sống lại, chúng ta nhận được cùng một mệnh lệnh như Ngài đã nhận từ Chúa Cha: ‘Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con’. Trong lần hiện ra thứ hai này, Đức Giêsu cũng lập lại: ‘Bình an cho các con’. Xây dựng bình an là thành phần của sứ vụ. Bình an mang ý nghĩa bao quát hơn là việc vắng bóng chiến tranh. Nghĩa là xây dựng một chung sống hòa hợp trong đó mọi người có được tất cả những gì thiết yếu để sống, sống chung trong hạnh phúc và bình an. Đó là sứ vụ của Đức Giêsu và cũng là sứ vụ của mỗi người chúng ta.
+++
Tin mừng hôm nay trình bày cho ta một cách biểu trưng hành động giải phóng của Đức Giêsu và chiến thắng của Ngài trên sự dữ.
Xứ Gađara nằm ngoài biên giới Israel, là vùng đất của dân ngoại. Những người bị quỷ ám thật bất hạnh vì bị nằm dưới quyền lực của ma quỷ và mất đi bản tính người. Họ sống giữa các mồ mả, điều đó chứng tỏ cho thấy họ bị tách biệt khỏi cộng đoàn kẻ sống, do sự ô uế của họ. Tin mừng ghi nhận: ‘Không một ai dám đi ngang qua con đường đó’, cho thấy quyền lực hoành hành của sự dữ và thật khó thâm nhập vào lãnh địa này.
Đức Kitô cho thấy không có hoàn cảnh nào, cho dù vô nhân đến đâu, mà Tin mừng không thâm nhập vào được, không có hoàn cảnh tách biệt nào có thể bị hủy diệt, nhưng trái lại là một thách đố nhờ quyền năng Thiên Chúa, trở nên một cuộc hội ngộ cứu độ. Cảnh trái ngược giữa lời than van của ma quỷ và lời duy nhất của Đức Giêsu, nêu bật quyền năng của Thiên Chúa, tính phổ quát của ơn cứu độ mà Người ban tặng cho ta. Mọi người đều nhận được tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, ngay cả những người bị loại trừ bên lề xã hội. Mọi rào cản của tình trạng bất hiệp thông và xiềng xích của tình trạng nô lệ đều bị vượt qua nhờ lòng nhân lành và thương yêu của Thiên Chúa. Các tạo vật, được giải thoát khỏi sự dữ, được phục hồi trong tình hiệp thông với Chúa. Sự kinh ngạc của dân chúng Gadara đối nghịch lại với tình thương nhận được của những người bị quỷ ám được giải cứu, chứng tỏ sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa luôn cần đến sự đáp trả của con người. Đức Giêsu một lần nữa vẫn còn là cớ vấp phạm và dấu chỉ cho người ta chống đối.
+++
Đôi mắt nhận ra ơn cứu độ
Thật cảm động câu chuyện của Agar thất thểu trong sa mạc, cùng với đứa con thơ sắp chết khát. ‘Sao cho tôi đừng nhìn thấy đứa bé chết’. Agar không nghĩ đến việc cầu nguyện, nhưng Thiên Chúa sắp đặt kế hoạch cho đứa bé ‘và từ trời sứ thần Thiên Chúa gọi Agar và nói: ‘Sao thế Agar? Đừng sợ…Đứng lên! Đỡ đứa trẻ dậy và ôm nó trong tay…’ Hoàn cảnh lúc đó theo con người thì hoàn toàn thất vọng, nhưng Thiên Chúa trung tín, đã ra tay can thiệp. Những lời của Thiên Chúa: ‘Thiên Chúa mở mắt cho nàng, và nàng thấy một giếng nước’. Đã có sẵn giếng nước nhưng sự thất vọng quá lớn làm mờ mắt nàng: can thiệp của Thiên Chúa làm cho nàng thấy sự cứu thoát.
Ta cần luôn xin Chúa mở mắt cho ta nhìn thấy, cầu xin Chúa trong kinh nguyện. Nếu Thiên Chúa ban cho ta ánh sáng của Ngài, ta có thể nhìn mọi sự trong thực trạng của chúng và tìm ra những giải pháp tích cực trong sự rối rắm không chắc chắn.
Ta cần cầu nguyện xin Chúa mở mắt những người có trách nhiệm trên thế giới, để họ tìm ra những giải pháp đúng đắn và nhân bản cho biết bao xung đột, bất công, để họ biết đề nghị những luật lệ công bình xứng đáng với phẩm giá mỗi người. Cầu nguyện để những người mù quáng do tính ích kỷ hoặc do sự chản nản, cuối cùng mở mắt nhìn ra con đường cứu thoát chân thật. Chúng ta ở bên Đấng cứu thoát nhưng chúng ta lại không thấy Ngài. Trái lại, chúng ta thường làm như dân thành Gađara đã làm sau khi thấy hai người bị quỷ ám được chữa lành: ‘Bấy giờ cả thành ra đón Đức Giêsu, và khi gặp Người, họ xin Người rời khỏi vùng đất của họ’. Họ đã nhìn thấy Người, nhưng với những đôi mắt trần tục, mù quáng vì ích kỷ. Họ không nhận ra Người là đấng cứu thoát quyền năng trên ma quỷ, nhưng chỉ là người gây ra sự thiệt hại đàn heo và họ không biết rằng họ đang tự tách mình xa khỏi ơn cứu độ.
Thứ năm Tuần XIII Tn
Khốn khổ và thương xót. Đó là lời tổng kết của thánh Augustinô về công trình cứu độ của Đức Kitô. Khốn khổ của con người. Lòng thương xót của Thiên Chúa. Phép lạ của Đức Kitô, tha thứ tội lỗi và chữa lành bệnh tật, tuyên bố rằng lòng thương xót của Thiên Chúa thì mạnh hơn nỗi khốn khổ của con người. Tuyên bố giữa loài ngưòa ơn cứu độ của Đấng Messia mà các ngôn sứ đã loan báo: người mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người què nhảy như nai.
Đức Giêsu là ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chính tên của Ngài nói lên điều đó. Ơn cứu độ của Thiên Chúa, chữa lành, cứu rỗi và làm cho sống. Được Thiên Chúa xức dầu, Đức Kitô chúc lành cho bản tính con người chúng ta cùng với sự sống của ngài; và đỉnh cao của ân sủng ngài: tái tạo chúng ta. Làm cho chúng ta nên tạo vật mới. ‘Này đây Ta đổi mới mọi sự’ (Kh 21,5). Do đó những kẻ nhìn ngắm phép lạ của Đức Kitô thì kinh ngạc và thán phục trước ơn cứu độ được thực hiện ngay trước mắt họ, và họ vỡ lỡ trong tiếng ca khen. Lời ca khen và niềm vui là lời đáp trả của con người được cứu rỗi, lìa xa lỗi tội và nô lệ tội; là lời đáp trả duy nhất của ai nhận ra Đấng hay thương xót cúi xuống trên mình.
+++
Thấy họ có lòng tin như vậy…
Đứng dậy mà đi, đức tin con đã chữa con. Đức Giêsu thường kết thúc các phép lạ của mình như thế: nêu bật đức tin của người van xin và lòng nhân lành vô cùng của Thiên Chúa là nguyên do làm nên phép lạ. Trong đoạn tin mừng hôm nay có một ngoại lệ: là đức tin của những người khiêng người bất toại, nằm bất động trên chõng chờ nhận phép lạ. Và chính Chúa đã tuyên bố: Thấy họ có lòng tin, Đức Giêsu nói với người bất toại: ‘Này con, cứ an tâm, tội con được tha rồi’. Là một giáo huấn thật hay cho ta: Đức Giêsu mang lấy tội lỗi của ta, chúng ta cũng mang những điều dữ của tha nhân để van xin, trong tình bác ái, sự can thiệp của Chúa cho người anh em mình. Đức tin và lòng bác ái của ta thay thế cho sự thiếu sót nơi anh em và giúp họ nhận được sự chữa lành hồn xác. Thật thú vị khi nhận thấy rằng Đức Giêsu tha thứ tội lỗi trước rồi sau đó mới thực hiện phép lạ chữa lành thân xác người bất toại. Ai không sống trong tình yêu của Thiên Chúa không hiểu được những can thiệp đầy lòng thương xót của ngài: ‘Vài người luật sĩ nghĩ thầm: Ông này nói phạm thượng’. Họ nhầm lẫn tình thương tha thứ với tội phạm thượng! Đám đông ngược lại đầy lòng kính sợ, tôn vinh Thiên Chúa, cho dù họ chưa hiểu rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa; họ cho rằng quyền tha tội đã được ban cho loài người. Chính Đức Kitô đã ban quyền này cho các tông đồ và những kẻ kế vị các ngài.
+++
Thiên Chúa sẽ liệu
Chúng ta đang có trước mặt trang sách súc tích nhất về hy tế của Abraham. Thiên Chúa đòi ông một điều ‘khủng khiếp’: ‘Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi…mà dâng nó làm lễ toàn thiêu’. Abraham không chối từ, không giữ cho mình đứa con yêu. Ông đã hiểu ý nghĩa đích thực của hy tế, ông biết đó là hành vi kết hiệp với Thên Chúa, đó là hành vi của Thiên Chúa hơn là của con người, vì chỉ duy mình Thiên Chúa mới có thể thánh hóa và điều gì được dâng hiến làm hy lễ thì được thánh hóa. Ông ra đi. Không hiểu cũng không biết Thiên Chúa sẽ hành động như thế nào, nhưng một mực tin tưởng vào Ngài, ông tiến bước trong đức tin, như thánh Phaolô viết, vì ‘Ông nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết chỗi dậy’ (Dt 11,19). Một hy sinh luôn là một sự sống lại, bởi vì đó là hành động của Thiên Chúa; nếu đó là hành động của con người, thì sẽ chỉ đưa đến hủy diệt, nhưng không, đó lại là hành động của Thiên Chúa.
Thật tuyệt đẹp cuộc đối thoại giữa Abraham và Isaac trong trình thuật sách Sáng Thế chương 22. ‘Isaac thưa với cha là ông Abraham: Cha! Ông Abraham đáp: Cha đây con! Cậu nói: Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu?’. Chuyện kể cho biết con chiên chính là Isaac, nhưng cậu ta không biết nên mới hỏi như thế. Abraham đáp: ‘Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu con ạ!’ Không phải là cách tránh né câu hỏi: quả thực chính ông cũng chẳng biết lấy đâu ra chiên. Ông làm điều ông nghĩ mình phải làm để thi hành mệnh lệnh Thiên Chúa, nhưng ông trực giác có điều gì đó sẽ xảy ra, rằng Thiên Chúa sẽ lo liệu tế vật làm lễ toàn thiêu. Và lòng tin của Abraham đã được khen thưởng. Giây phút cuối cùng, Thiên Chúa can thiệp: ‘Abraham! Abraham!...Đừng giơ tay hại đứa trẻ…Bây giờ ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa, đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc’. Isaac không bị sát tế nhưng thay vào đó là con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. ‘Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi Abraham một lần nữa và nói: bởi vì ngươi đã làm điều đó…nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi…Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được chúc phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta’.
Ngày nay chúng ta biết rằng trang thánh kinh này là lời sấm ngôn về hy tế của Đức Giêsu, là con chiên mà Thiên Chúa tiên liệu làm lễ toàn thiêu. Con chiên không phải là Isaac, cũng chẳng phải con cừu đực, mà là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian như Tin Mừng nói đến. Isaac vác củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, chính là hình ảnh của Đức Giêsu, vác cây thập giá, lên đồi Calvariô, tự hiến chính mình. Thánh Phaolô viết: Thiên Chúa đã không dung tha chính Con mình, nhưng đã trao nộp vì tất cả chúng ta. Hy tế duy nhất đẹp lòng Chúa Cha là hy tế của Đức Giêsu, là ân ban cao cả nhất của Chúa Cha cho con người. Chúng ta cần phải tháp nhập vào hy tế này, để tăng triển trong sự kết hiệp với Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin cho chúng ta được ơn hiểu thấu ý nghĩa đích thực của hy tế cuộc đời chúng ta và nhận ra, với cùng một niềm tin phó thác như Abraham, rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện: ‘Trên núi Đức Chúa sẽ liệu’. Chúng ta hiến dâng, Thiên Chúa thánh hóa. Khi Thiên Chúa mời gọi chúng ta hy sinh, thông thường chúng ta không hiểu hết ý nghĩa, và ta cảm thấy hình như không có lối thoát. Chính lúc đó lại là lúc của lòng phó thác cao độ: ‘Thiên Chúa sẽ lo liệu’. Ngài đã lo liệu con chiên để làm lễ toàn thiêu và Ngài thực hiện nơi chúng ta hy tế theo cách thức riêng của Ngài, luôn luôn tích cực và ích lợi.
Thứ sáu Tuần XIII Tn
Việc Đức Kitô tiếp đón các người tội lỗi và người thu thuế đã làm cho người khác khó chịu. Cộng đoàn bàn ăn ở Đông phương là một hình thức của hiệp thông, vượt lên trên việc tham dự bàn tiệc. Điều này muốn diễn tả tình bạn hữu, tình thân mật, tình huynh đệ; là một cách cho người khác cơ hội để bước vào trong sự thân tình của mình. Những kẻ tưởng mình là thanh sạch và hoàn hảo loại trừ khỏi bàn ăn của họ những kẻ tội lỗi theo luật của nhóm Biệt phái.
Đức Giêsu gọi một người thu thuế tội lỗi, ông Matthêu, và được ông mời dự tiệc, cùng đồng bàn có những người thu thuế (tội lỗi) khác. Làm như thế, Đức Giêsu mời gọi những ai đang cần, bước vào sống tình bạn hiệp thông với Thiên Chúa. Nơi Ngài, chính Thiên Chúa để mình được mời vào bàn những kẻ tội lỗi đáng thương. Chúng ta biết rằng thái độ của Đức Giêsu trong trường hợp này là một trong những nguyên do thúc đẩy thượng hội đồng lên án chết cho Ngài. Đây là mầu nhiệm của nghịch lý kitô giáo: Thiên Chúa đến cứu độ con người, lại bị lên án bởi những kẻ tưởng mình công chính; Thiên Chúa, đấng trao ban tình bạn cho con người, lại bị lên án do những kẻ không nhận biết lòng thương xót. Chỉ có những ai như Matthêu, tự nhận mình là tội nhân, mới có được hạnh phúc nhìn thấy Thiên Chúa đồng bàn với mình, và tránh khỏi kiêu căng tự cho mình là công chính.
+++
Matthêo là một con người thực tế: một người thu thuế, một cộng tác viên cho đế quốc Lamã, lúc nào cũng đút đầy túi mình. Là một người phản quốc, một tên trộm vì đòi người ta phải nộp thuế cao hơn mức ấn định; khác xa với mẫu mực của người môn đệ đạo đức thịnh hành lúc bấy giờ nơi nhóm biệt phái: Mathhêu không chút ngại ngùng, ngồi nơi bàn thu thuế tại Caphanaum, để thực hiện ước mơ quyền lực của mình. Rồi một ngày Đức Giêsu đi ngang qua, gọi ông. Điều gì khiến ông đứng dậy? Cái nhìn? Nụ cười? Lêvi đứng dậy và đãi tiệc, trở thành môn đệ. Matthêu diễn tả ơn gọi của mình khoảng ba mươi năm sau những biến cố ấy, đưa vào câu chuyện của riêng mình trong tin mừng được viết cho cộng đoàn những người kitô hữu gốc do thái. Thật chẳng bỏ công! Matthêu không chút hối tiếc, trái lại ta còn đọc thấy qua những trang tin mừng của ngài niềm vui sâu xa của việc chọn lựa này.
Hôm nay, ta hãy nhớ lại ngày mà ta nhận biết Thầy Giêsu. Và trong thinh lặng cầu nguyện hãy thưa với Chúa: Lạy Chúa, thật chẳng bỏ công làm môn đệ Chúa!
Thứ bảy Tuần XIII Tn
Sự mới mẽ của Đức Giêsu –trong lời nói cũng như trong hành động- không gặp thấy trong Cựu ước. Khi Đức Kitô xuất hiện, đồng thời cũng xuất hiện Chân Lý, Khôn Ngoan, Sự Sống. Là phu quân mà Israel mong chờ. Là Đấng Messia.
Việc Đức Kitô đến được sánh ví như rượu nho, biểu tượng của niềm vui thời thiên sai. Đức Giêsu tại Cana đã ban cho rượu ngon, mà người ta không biết từ đâu ra, vì chỉ duy mình Thiên Chúa mới có thể ban cho, vào giờ của Người. Đức Giêsu là rượu làm hoan lạc con tim Giáo hội; là đấng ban tặng rượu cứu độ; là ân ban của Thiên Chúa cho con người.
Để hiểu được Đức Giêsu, hay đúng hơn, để đón nhận Ngài, điều cũ kỹ không còn đủ nữa. Cần tái sinh, từ nước và Thần khí. Luật Môsê không đủ; cần phải đón nhận các mối phúc. Ăn chay không đủ; cần có tinh thần nghèo, nghĩa là thái độ thiêng liêng (thuộc linh) giúp ta đón nhận bất cứ điều gì từ Thiên Chúa. Đức Kitô không phải là kết quả của những nỗ lực của riêng ta, nhưng là ân ban của Chúa Cha; không phải là hoa quả của việc chúng ta tìm kiếm, nhưng là vinh quang của Thiên Chúa chiếu dọi cách vô vị lợi cho nhân loại. Điều cũ đã qua. Công trình tạo dựng mới đã bắt đầu.
+++
Thiên Chúa hào phóng
Bài tin mừng tường thuật việc các môn đệ của Gioan khó chịu vì thấy các môn đệ của Đức Giêsu không ăn chay; còn chúng ta, có lẽ cũng lấy làm khó chịu khi nghe bài đọc 1 thuật lại việc bà Rêbecca đánh lừa Isaac làm thiệt hại cho đứa con cả. Cả hai bài đọc có chung một giáo huấn: chúng ta cần bỏ đi cách suy nghĩ của chúng ta để hiểu rằng ơn của Thiên Chúa là điều hoàn toàn mới mẽ, nhưng không, gây kinh ngạc. Một bài học mà Đức Giêsu lập đi lập lại nhiều lần. Đối với ân sủng của Thiên Chúa, con người không có quyền đặt ra những quy luật. Thiên Chúa tự do, quảng đại, và chúng ta cần đón nhận lòng quảng đại vô cùng của Ngài, vượt quá sự chờ đợi của con người. Đúng vậy, ‘Ngài lật đổ người quyền thế khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Ngài ban cho kẻ đói khát dư đầy ân phúc và để người giàu có trở về tay không’: ai nghĩ mình có quyền trên ân sủng của Thiên Chúa, người ấy sẽ không nhận được, trong khi đó chỉ dành cho người không bám víu vào bất cứ quyền thế nào. Cần loại bỏ đi những phạm trù suy tư của chúng ta về công nghiệp, quyền lợi, để mở lòng ra cách đơn sơ và khiêm tốn cho điều lạ lùng của ân sủng. Là việc chúng ta cần khởi động mỗi ngày, bởi vì chúng ta luôn cắm rễ sâu vào lối lý luận chật hẹp của tâm trí chúng ta: chúng ta sống trung thành, nên chúng ta đáng hưởng ân sủng, Thiên Chúa phải ban cho ta điều này điều kia. Trái lại, Thiên Chúa không hề bị giam hãm trong lối lý luận của con người. Những người thợ làm giờ cuối cùng, trong dụ ngôn của Đức Giêsu, được trả lương truớc tiên và trả cùng một mức lương như những người đã chịu đựng nắng nôi khó nhọc suốt cả ngày. Là một xì-căng-đan. Nhưng ông chủ vườn nho vẫn bình tỉnh: ‘Lẽ nào tôi không được làm điều tôi thích sao’? Hãy tập làm quen với lối hành động của Thiên Chúa và chúng ta sẽ hài lòng vì sự hào phóng của Ngài, Đấng ban tặng dư tràn cho những ai chẳng có công trạng gì, cho người tội lỗi, Đấng yêu thích những kẻ bé mọn. Những kẻ quyền thế phải sống khiêm tốn: khi đó họ cũng sẽ được nhận lãnh dư tràn, không phải do công trạng của họ, nhưng do họ tự đặt mình vào địa vị của những người bé mọn. Bài học quan trọng mà ngay cả thánh Phaolô cũng nói đến khi viết rằng Thiên Chúa tự do khi thi ân: Ngài đã yêu Giacób và ghét Esau; Ngài đã chọn điều không không, những kẻ nghèo, những người yếu đuối và ban cho họ sức mạnh, ân sủng, tình yêu của Ngài.
Chúng ta phải vui mừng và nhảy mừng trong tự do, không nên khép mình trong sự nhỏ nhen của tính toán nhân loại. Như thế chúng ta làm chứng cho niềm vui của những con cái Thiên Chúa, vì lòng quảng đại vô cùng của Chúa Cha trên trời.
Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê