Lời Chúa: Is 53,10-11; Dt 4,14-16; Mc 10,35-45
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Đọc Tin Mừng, ta thấy dường như duy chỉ có trường hợp hai anh em nhà Giêbêđê (hay chính người mẹ của hai ông này) đến xin Chúa Giêsu cho xí phần tả hữu khi Chúa được vinh quang nghĩa là khi Chúa làm vua, theo mộng tưởng của hai vị. Dù rằng mười vị còn lại có biết chuyện này, vì các vị đã tức tối ra mặt, nhưng không thấy vị nào mon men đến xin xỏ Thầy một chức vị nào đó cho sau này. Có lẽ lý do là đây: Điều xin thì chưa chắc được nhưng điều không xin thì lại phải bị gánh chịu. “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống, phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”(Mc 10,39-40).
Phen này đúng là thua to, hai vị nhà Giêbêđê im hơi lặng tiếng đủ nói lên tâm trạng của các vị. Thực ra không phải hai vị mà cả nhóm Mười Hai đã lầm. Cái lầm căn bản của cả nhóm đó là mong sẽ được có chức vị cao trọng ngoài xã hội, và dĩ nhiên sẽ được hưởng vinh hoa phú quý khi đi theo Thầy Giêsu. Vị tôn sư người Nagiarét đủ đầy quyền năng trong lời nói lẫn hành động hẳn phải là Đấng Thiên Sai, nếu không thì cũng là một đại ngôn sứ. Với uy quyền cả thể như thế, chắc chắn Người sẽ giải phóng dân tộc mình khỏi ách nô lệ ngoại bang và sẽ được phong làm vua. Ngay cả trước khi Chúa về trời thì các ngài cũng còn hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quóc Israel không?” (Cvtđ 1,6).
Cả nhóm Mười Hai lầm thì cũng dễ hiểu vì các ngài chưa được nghe lời khẳng định của Thầy trước mặt Philatô rằng Người là vua nhưng nước Người không thuộc về thế gian này (x.Ga 18,33-38). Tuy nhiên cần khẳng định với nhau điều này: nơi con người, song hành với tính xã hội thì còn có bản năng thống trị. Ở giữa một tập thể, người ta có khuynh hướng tìm cách làm đầu kẻ khác. Dẫu sao đi nữa, làm dầu con tôm cũng hơn là làm đuôi con rồng. Dù lớn hay bé, khi đã được làm đầu thì không chỉ sẽ được kính trọng mà còn được cung phụng. Vì thế, chúng ta không mấy ngạc nhiên khi thấy đây là một chủ đề thường xuyên trở thành nguyên cớ tranh luận giữa tập thể nhóm Mười Hai.
“Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10,44). Lời khẳng định của Chúa Giêsu là một mệnh lệnh. Cả nhóm Mười Hai hôm ấy và cả chúng ta hôm nay, chẳng ai chối cãi hay biện bạch. Thế nhưng, thực tế minh chứng cho thấy chúng ta vẫn còn để mệnh lệnh ấy trên giấy cách nào đó. Không riêng gì người theo Chúa, quý vị nắm trọng trách ngoài xã hội cũng khẳng định rằng chính quyền là đầy tớ nhân dân. Thế mà chuyện đầy tớ ăn trên ngồi trước, còn các ông chủ thì khép nép tìm các hạt cơm thừa; đầy tớ thì chễm chệ ghế salon nệm dày, sở hữu nhà cao cửa rộng còn ông chủ lại vất vưởng trong các căn chòi ọp ẹp…đã trở thành “chuyện tử tế” của một thời và hình như là của mọi thời, nhiều nơi.
Có thể có nhiều lý do để biện minh về việc các ngài đầy tớ sở hữu cũng như sử dụng các phương tiện sang trọng. Các vị ấy cần có phương tiện thích ứng để làm đầy tớ tốt hơn, hữu hiệu hơn. Các vị ấy không chỉ cần có tác phong tương xứng, mà còn cần có những cái bên ngoài như y phục, đồ dùng, phương tiện đi lại…cách nào đó cho phù hợp với vai vế hay chức vụ đảm nhận mà thôi (noblesse oblige). Đây không phải là lời biện minh, nhưng là lời giải thích khá hữu lý và hợp tình. Thế thì đâu là dấu chỉ một người làm đầu đang thực sự làm đầy tớ?
Chúa Giêsu đã minh nhiên cho chúng ta một dấu chỉ bằng chính cuộc sống, cung cách hành động của Người: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Có thể nói việc hiến dâng mạng sống làm giá chuộc cho muôn người là bằng chứng của việc làm đầy tớ. Tác giả thư Do Thái triển khai việc làm đầy tớ qua hình ảnh vị Thượng Tế biết “cảm thương” nỗi yếu hèn của nhân loại (x. Dt 4,13). Ngôn sứ Isaia lại tiên báo việc làm đầy tớ bằng hình ảnh người tôi tớ trung thành chịu đau khổ để gánh lấy hậu quả tội lỗi con người (x. Is 53,10-11).
Số người được làm đầu con rồng trong Giáo Hội hay ngoài xã hội quả là không nhiều, nhưng số người làm đầu con tôm, tôm to, tôm vừa, tôm bé hay các loại tép thì đếm không xuể. Có một hoặc hai người thuộc quyền của chúng ta, dưới quyền của chúng ta, trong trách vụ của chúng ta thì chúng ta đang được đặt làm đầu. Đó là đàn chiên chúng ta đang chăn dắt, đó là con cái mà ta đã sinh thành, đó là nhóm học sinh ta đang dạy dỗ, đó là những người cô thân, bé phận ngoài xã hội hay trong Giáo Hội, đó là những người yếu đuối, tội lỗi đang cần chúng ta nâng đỡ, dìu dắt, chỉ lối, dẫn đường… Như thế, có thể nói hầu hết chúng ta đã được đặt làm đầu. Đã làm đầu thì phải làm đầy tớ.
Lịch sử cho thấy rằng những người “làm đầu” ngoài xã hội cũng như trong giáo hội, nếu xuất thân từ hoàn cảnh khó khăn hay đã từng kinh qua nhiều gian khổ thì thường dễ “làm đầy tớ” cách thực sự và đúng nghĩa hơn. Quả thật, để thực sự làm đầy tớ, tiên vàn cần phải có sự đồng cảm, đồng thân, chung phận một cách nào đó. Chúa Kitô đã nêu gương cho chúng ta khi “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…” (Pl 2,6-11).
Xã hội có ngày càng công bằng, văn minh, thinh vượng hay không, giáo hội có ngày càng tinh tuyền, thánh thiện hay không chắc hẳn phụ thuộc rất nhiều vào việc những người đứng đầu có thực sự sống tôn chỉ “làm đầy tớ nhân dân”, “làm tôi tớ của đàn chiên” hay không. Mong sao tôn chỉ ấy không dừng lại ở khẩu hiệu hay ở các bài phát biểu hùng hồn, nhưng được hiện thực hóa bằng việc làm và thái độ sống của những người làm đầu. Ngoài việc các đầy tớ phải hiến dâng mạng sống vì chủ, thì có thể nói một trong những tiêu chí để thẩm định các vai vế chủ – tớ có chính hiệu không, thì hãy xem các ông chủ tức là người dân, các con chiên, có được phép và được quyền mạnh dạn mở miệng nói lên suy nghĩ, nhận định của mình hay trình bày các nhu cầu chính đáng của mình trước các vị “đầy tớ” hay không, và dĩ nhiên không thể thiếu sự chân thành lắng nghe của các vị này.
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Sách Giáo Lý Thêm Sức cho các em cấp 2, bài 12 có câu hỏi thưa số 31:
– Một là để cứu chuộc ta khỏi tội lỗi,
– Hai là để tỏ cho ta biết tình yêu của Thiên Chúa,
– Ba là để làm mẫu mực cho ta sống thánh thiện,
– Bốn là để ta được kết hợp với người mà trở nên con cái Thiên Chúa.
Sau khi các em đọc câu hỏi thưa 3 lần, cô Giáo Lý Viên hỏi: “Có em nào biết chữ “chuộc” nghĩa là gì không?” Một em nhanh nhẹn giơ tay xin trả lời: “Thưa cô, chuộc là xin lại. Ví dụ như mình mất cái điện thoại, biết người lượm được, tới xin lại”. “Đúng chưa các em”. “Thưa cô chưa đúng. Tới xin không chắc gì người ta cho lại. Phải đưa tiền chuộc cô ạ!”
…Con người sa ngã phạm tội phản nghịch Thiên Chúa, con người thuộc về Satan, sự dữ, bị Satan làm chủ, thống trị. Thiên Chúa Cha “chuộc tội” cho thiên hạ, tức là, cho con người tái thuộc về Thiên Chúa, thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa, trở lại làm con Thiên Chúa không bằng tiền, không bằng vàng, không bằng ngai tòa Thiên Chúa cao sang quyền quí, nhưng bằng chính Con Một Mình, Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô. Ngài đến để yêu thương và phục vụ cho đến chết.
Cảm ơn cô Giáo Lý Viên.
Vâng, bài đọc 1 hôm nay, Ngôn Sứ Isaia loan báo về Đức Giêsu: “Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định của Chúa sẽ thành tựu” (Is 53, 10 – 11).
Chúa Giêsu là Lễ Vật Đền Tội đẹp lòng Thiên Chúa Cha nhất, nhờ lễ vật ấy, mà Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha mở ra, đón nhận lại con người tội lỗi đã được rửa sạch nhờ máu Con Của Ngài.
Chúng ta, những Kitô hữu, được ghi danh vào “dòng dõi trường tồn” nhờ ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô. Và khi đã được ghi tên mình vào danh sách ấy, hẳn phải cộng tác vào Ơn Cứu Chuộc bằng việc noi gương yêu thương phục vụ của Chúa. Đó là đức tin của chúng ta. Hơn nữa phải “giữ vững việc tuyên xưng Đức Tin của chúng ta”, nhờ đức trông cậy, vì lòng khiêm tốn nhận biết mình mỏng dòn yếu đuối (x. Dt 4, 14 – 16).
Ai dám nói mình không hèn mọn yếu đuối trước những cám dỗ của lòng kiêu ngạo về quyền bính, để được phục vụ hơn là phục vụ? Người càng chiều theo những khát khao phù du của lòng kiêu ngạo, càng chứng tỏ sự yếu đuối về Đức Tin về Đức Cậy và cả về Đức Kính Mến Thiên Chúa.
Chuyện hai anh em nhà Dêbêđê: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy” là chuyện thường tình rất con người của chúng ta.
Chúng ta có khác gì? Đôi khi còn tệ hơn nữa. Tệ hơn ở chỗ, không xin nhưng dùng mọi thủ đoạn hạ bệ người khác mà đưa mình lên cao. Chuyện ở đời, người ta thanh trừng nhau để kiếm một địa vị xã hội đã đành, trong Giáo Hội, tâm trạng khắc khoải bồn chồn vì sợ ảnh hưởng của người khác hơn mình vẫn cứ đeo bám.
Giáo Sĩ phải được trọng vọng, được kính nể hơn Giáo Dân, bất kể cuộc sống của ngài như thế nào đi nữa. Linh Mục phải là người lãnh đạo, là người quyết định tối hậu mọi chuyện trong Giáo Xứ, không phải Giáo Dân. Giáo dân biết gì? Bởi vậy có Linh Mục đã từng tuyên bố không cần Hội Đồng Giáo Dân cho đông người, chỉ cần hai người biết nghe gì làm nấy là đủ.
Cái ảo tưởng quyền bính thế gian đã xâm nhập vào Giáo Hội từ lâu rồi, đến mức Giáo Dân phải mang lấy những cái ách nặng nề không đáng có, rồi dù có thấp cổ bé miệng cách mấy cũng phải la toáng lên: Chúa ơi, đây là thời kỳ thống trị của Giáo Sĩ, thời kỳ Giáo Sĩ trị. Thời kỳ ấy có vẻ như vẫn còn kéo dài tới hôm nay!
Không dừng lại ở các Giáo Sĩ, mà bệnh quyền bính còn lây lan sang những Giáo Dân cộng tác, gần gũi với Giáo Sĩ, học đòi cách ăn cách nói cách ứng xử quyền bính mà xem thường kẻ khác cách quá đáng.
Một ông mới được cha sở chỉ định làm Trùm một họ lẻ, đã có thể đập bàn quát tháo với anh em rằng: “Tôi đã bảo không thể là không thể”, hoặc hù dọa bà con rằng: “Sao? Có muốn chôn trong Đất Thánh không đấy?”
Tội nghiệp cho ai bây giờ?
Theo tôi thì thật là tội nghiệp, thật là đáng thương cho những người tưởng mình có quyền bính và dùng quyền bính ấy khiến cho mọi người phải vâng dạ cả những chuyện sai trái, mọi người phải phục vụ mình xứng đáng.
Chúa Giêsu nào muốn cho các môn đệ của Ngài có lối hành xử như vậy? Có Chủng viện nào có đường lối đào tạo linh mục như vậy? Chẳng là vì con người ấy chỉ tu thân cho đến lúc đạt được chức linh mục thôi sao? Đạt được rồi, không cần tu thân nữa sao?
Chúa Giêsu trả lời cho người xin địa vị, quyền bính mà không xin hiến mình phục vụ rằng: “Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?”
“Uống chén Thầy sắp uống” hẳn không phải uống chén quyền bính, nhưng là uống chén yêu thương, phục vụ, và yêu thương, phục vụ cho đến chết.
Năm Đức Tin mở ra, để mọi người nhìn lại mà sám hối cải thiện cách sống đức tin của mình. Tin vào Chúa Giêsu là phải sống như Chúa Giêsu đã sống. Nếu không sống như Chúa Giêsu đã sống yêu thương phục vụ, thì việc chúng ta rao giảng Ơn Cứu Chuộc của Thiên Chúa trở nên mất tác dụng, đôi khi còn phản tác dụng và trở nên trò cười hổ danh Thiên Chúa của chúng ta.
Tin Mừng hôm nay thiết thực mời gọi cách sống Đức Tin của những người có trách nhiệm trong Giáo Hội, kể cả những Giáo Dân được tham dự vào những công việc của Giáo Hội:
“Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10, 42 – 45).
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc chúng con bằng lòng yêu thương phục vụ cho đến chết. Xin cho chúng con biết cộng tác vào ơn cứu chuộc bằng lòng yêu thương phục vụ hết mọi người. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chạy đua tranh giành quyền lực, địa vị là điều thường thấy trong thế gian ở mọi nơi mọi thời. Đó đây luôn có người tìm mọi cách để có được địa vị hay nắm được quyền hành trong xã hội, từ nhà nước, đến quyền lực của quân vương, lãnh chúa phong kiến, tới quyền lực của quốc hội, các đảng phái và của các tổ chức khác. Để đạt được mục tiêu, người ta sẵn sàng dùng mọi phương tiện, kể cả những phương tiện xấu nhất. Các môn đệ Chúa cũng không nằm ngoại cái đời thường ấy. Họ ước muốn ngồi trong hàng lãnh đạo cao nhất trong vương quốc vinh quang của Chúa Giêsu nghĩa là, khi Chúa Giêsu chiến thắng quân La mã, tái lập Vương quốc Israel. Lời họ cầu xin với đầy vẻ tự tin cho thấy họ theo đuổi cái hoàn toàn trần thế về đấng Messia.
Sau khi Chúa Giêsu loan báo cuộc Khổ nạn lần thứ nhất (x. Mc 8, 31-33) rồi lần thứ hai (x. Mc 9, 30-32), bài học về tư cách của người đứng đầu Chúa dành cho các môn đệ (x. Mc 9, 35-37), cách sử dụng danh Chúa trong cộng đoàn tín hữu dù là môn đệ hay không (x. Mc 9, 38-40); phần thưởng dành cho những ai sống xứng với danh Kitô hữu của mình (x. Mc 9,41); và đương nhiên kẻ làm cớ vấp phạm cho người khác, nhất là trẻ em sẽ bị trừng phạt thích đáng (9,42), Chúa Giêsu loan báo tiếp cuộc thương khó lần thứ ba (x. Mc 10,32-34). Hôm nay, Chúa Giêsu cho các ông một bài học dài về tư cách của người làm lớn, người có quyền và nhấn mạnh đến sự phục vụ cần phải có đối với các môn đệ Chúa.
Chúng ta tiếp tục cùng với các môn đệ đi theo Chúa Giêsu lên Giêrusalem, và chuyện “ai là người lớn nhất” trong họ vẫn đang được bàn tán, cho dù Chúa Giêsu nói cho họ biết là trong số họ, người lớn nhất là người sẵn sàng làm “tôi tớ cho anh em”. Bài học đắt giá như thế, các ông chưa thuộc lòng, tâm trí các ông vẫn không thay đổi là bao, chính vì lẽ ấy mà dọc đàng các ông vẫn còn tham danh vọng, quyền hành và địa vị dẫn đến cuộc cãi vã dọc đường (x. Mc 9, 34), tệ hơn nữa Giacôbê và Gioan đến xin Chúa Giêsu cho được một ngồi bên tả, một ngồi bên hữu Thầy (x. Mc 10, 35). Thầy vừa loan báo cuộc thương khó lần thứ ba xong thì Giacôbê và ông Gioan lại nghĩ đến ánh vinh quang đang đợi chờ Giêrusalem với Chúa Giêsu. Hai ông hẳn đã thống nhất với nhau giữ lại cho mình những vị thế quyền cao chức trọng, là sẽ được ngồi chỗ danh dự sau này.
Câu trả lời của Chúa Giêsu thật mạnh mẽ: “Ai trong các con muốn làm lớn nhất thì hãy tự làm đầy tớ anh em” (Mc 10,44); Và Người nói tiếp: “Cũng vậy, Con Người đến không phải để được người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống cho nhiều người” (Mc 10, 45). Chúng ta không trách hai ông, bởi trên đường đi với Chúa Giêsu, hai ông đã thấy tận mắt Chúa làm nhiều phép lạ và lôi cuốn dân chúng. Hai ông nghĩ rằng khi lên Giêrusalem, Chúa Giêsu sẽ được tôn vinh là vua, việc ngồi bên hữu bên tả trên ngai vinh quang, quyền thế là có thể. Chắc các ông không nghĩ đến một quền lực nào có thể lật đổ được Chúa Giêsu và đưa Người đến cái chết. Điều Giacôbê và Gioan nài van làm Chúa Giêsu có dịp một lần nữa nhấn mạnh: ai muốn theo Người thì sẽ làm “nô lệ cho tất cả” (Mc 10,44). Hình ảnh Chúa Giêsu dùng để minh hoạ cho giáo huấn của Người thật rõ ràng. Cũng như Con Người tự nguyện làm nô lệ cho mọi người, như khi quì xuống rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1-17), và chết bằng khổ hình thập giá dành cho các nô lệ, người kitô hữu bắt chước Chúa Giêsu cũng phải trở nên người phục vụ anh em.
Lời Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rằng, Nước Thiên Chúa không thuộc về thế gian này, chỉ gồm những người tranh giành quyền lực bằng bất cứ phương tiện nào, hay những kẻ tìm mọi cơ hội để lợi dụng. Trái lại, trong Giáo hội, quyền hành là để phục vụ. Chính Người nói với chúng ta: “Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban sự sống làm giá cứu chuộc cho mọi người” (Mc 10,45).
Hôm nay, chúng ta nhớ đến tất cả các linh mục, nam nữ tu sĩ và những người dấn thân loan báo Tin Mừng. Nhiều người đang phải đối đầu với đau khổ, bao lực, bách hại, diệt chủng, đói kém. Tất cả chúng ta làm nên một Giáo hội. Trong chính thân thể Chúa Kitô, khi một chi thể đau đớn thì toàn thân đều mang lấy hậu quả. Sứ mạng của Giáo Hội trước tiên là phục vụ, vì thế Giáo hội mời gọi mỗi người chúng ta hãy dấn thân hơn nữa trong việc cầu nguyện, chia sẻ và loan báo Đức Giêsu Kitô. Amen.
Khi mới đi theo Chúa Giêsu, các môn đệ còn rất mơ hồ về sứ mạng của Ngài, cũng như về ơn gọi của mình. Các ông mơ ước một cuộc sống giàu sang và quyền thế. Các ông tin chắc Chúa Giêsu sẽ tạo cho các ông cơ hội thực hiện giấc mơ trái mùa ấy. Thực ra ngồi bên tả hay bên hữu Chúa không phải chỉ là ước muốn riêng của hai anh em Giacôbê và Gioan, mà còn là điều thèm khát chung của tất cả các môn đệ khác. Chỉ có điều là những người này đã không dám công khai thú nhận mà thôi.
Nhưng họ đã lầm. Giàu sang và thế lực trần gian không phải là con đường được Thiên Chúa chọn để cứu thế. Xoá bỏ tội lỗi của loài người, hoán cải thế giới này để đưa về với Chúa Cha, chỉ cho mọi người thấy được phần nào lòng yêu thương của Chúa Cha. Chắc chắn không phải là con đường bằng phẳng êm ái. Để hoàn thành sứ mạng được trao phó, Chúa Giêsu đã chọn con đường đau khổ và hiến tế của Người tôi tớ. Ngài đã nhận lấy chén đắng và chịu thanh tẩy trong sự chết. Chắc chắn Đấng Cứu Thế là Vua cao cả, nhưng sự cao cả đó được thể hiện trong chính tình trạng tự hạ để phục vụ theo đúng quy luật mà Ngài đã đặt ra: ai muốn làm lớn thì hãy tự làm đầy tớ cho anh em mình. Ai muốn thành người cầm đầu thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người.
Quy luật này Ngài đã thực hành một cách trọn vẹn và gương mẫu trong chính cuộc sống của Ngài. Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu cho thấy: Cứu thế là phục vụ. Mà đã phục vụ thì làm sao tránh khỏi cảnh “uống chén đắng” và “chịu thanh tẩy”. Hy sinh, chấp nhận những thiệt thòi cho bản thân là điều không thể thiếu được của ơn cứu độ. Và chúng luôn có giá trị siêu nhiên to lớn. Bắt đầu các môn đệ còn ngây thơ chưa hiểu thế nào là cứu độ và cứu độ đòi hỏi phải trả giá nào. Nhưng qua cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã từng bước chỉ cho các ông thấy con đường chính Ngài sẽ phải đi và rồi chính các ông cũng phải bước theo. Dần dần các ông không còn quan tâm đến chỗi ngồi bên tả và bên hữu nữa, nhưng đã bước theo Chúa lên tận đỉnh cao thập giá để cùng uống chén đắng và cùng chịu thanh tẩy.
Lời Chúa nói với các con ông Giêbêđê xưa nay đã được thực hiện. Cuộc khám phá và hành trình của các môn đệ ngày xưa phải chăng cũng vẫn còn là điều mà chúng ta hôm nay phải thực hiện cho chính bản thân mình. Thực vậy, bằng phục vụ Chúa Giêsu đã cứu độ nhân loại, còn chúng ta, chúng ta đã đi con đường nào để lãnh nhận ơn cứu độ cho bản thân và cho những người chung quanh?
Qua đoạn Tin Mừng nay, chúng ta thấy rõ được cái tham vọng của Giacôbê và Gioan, đó là cái tham vọng xôi thịt, muốn được chia chác chức vụ nọ chức vụ kia, một khi Chúa Giêsu thành công trong việc giải phóng dân Israel khỏi sự kìm kẹp của đế quốc Lamã, dẫn đưa quê hương này tới một thời đại hoàng kim. Cái nhìn của các ông là một cái nhìn trần tục và ước mơ của các ông là ước mơ được làm lớn trong địa hạt chính trị. Nhân cơ hội này Chúa muốn dạy cho các tông đồ và tất cả những ai muốn làm chính trị một bài học. Người bảo: Trong các nước, những người làm lớn thường sai khiến dân chúng như ông chủ, họ lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con, không được như thế, ai trong các con muốn làm lớn thì hãy tự làm đầy tớ anh em và ai muốn cầm đầu giữa các con, thì hãy trở nên tôi tớ cho mọi người. Vì chính Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng đến để phục vụ và ban mạng sống làm gái cứu chuộc cho nhiều người.
Quan niệm của Chúa Giêsu thật gần với quan niệm của Nho giáo và hai quan niệm này thì lại khác xa tâm địa của nhiều người, coi làm chính trị là một kế sinh nhai, ăn trên ngồi trốc. Đúng thế, theo quan niệm của Nho giáo thì người cầm quyền chính trị là vua. Vua là người thay Trời để cai trị dân, nên được gọi là thiên tử, hay con của trời. Thế nhưng ông vua phải hành quyền như thế nào? Chữ Vương theo Hán tự, có ba nét ngang và một nét dọc. Ba nét ngang là chữ Tam, hay quẻ Càn, tượng trưng cho tam tài hay ba đạo, đó là thiên đạo, địa đạo và nhân đạo. Sổ dọc đứng giữa ngụ ý rằng vua là người thụ mệnh trời, đứng ra dung hoà ba đạo: trời đất và người, thành một mối duy nhất. Vì thế Khổng Tử đã nói: Nhất quán tam vi vương là thế.
Còn những người ra giúp vua trị an thiên hạ thì được coi như là con của nhà vua, vì vậy được gọi là quân tử. Người quân tử phải lấy sự học đạo của thánh hiền, tức là lấy sự tu thân làm căn bản. Muốn tu thân cho thành người đức hạnh, trước hết phải giữ tâm mình cho chính. Tâm đã chính rồi thì tự nhiên cái minh đức, hay là lương năng của mình sẽ thành ra mẫn nhuệ, lúc bấy giờ việc làm, cách xử sự sẽ điều hoà, hợp với đạo lý, thuận với thiên lý, tức là theo đúng lẽ trung dung vậy.
Trung dung được thì chính. Chữ chính cũng là chữ vương biến thể. Một bên ngang một bên dọc. Kẻ làm vua quan mà chính thì thiên hạ sẽ được thái bình trị. Cho nên mới gọi là chính trị. Vậy người làm chính trị phải ở cho chính. Nếu họ mà không chính, thì bên dưới sẽ loạn: Thượng bất chính hạ tất loạn. Bởi đó người xưa cũng đã bảo: Dục tri kỳ quốc, tiên tề kỳ gia. Dục tề kỳ gia, tiên tu kỳ thân. Có nghĩa là muốn trị quốc thì phải tề gia. Muốn tề gia thì phải tu thân. Hay nói một cách vắn gọn hơn, đó là: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Có nghĩa là phải tu thân, tề gia trước đã, rồi sau đó mới trị quốc và bình thiên hạ.
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Theo Chúa lâu năm, nhưng các Tông đồ vẫn đang còn nuôi mộng làm lớn. Tin mừng hôm nay cho biết, hai ông Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến gần Chúa Giêsu và thưa Người rằng: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”(Mc 10,37). Mười môn đệ kia, mặc dầu không công khai nói lên điều đó, nhưng khi nghe hai ông lên tiếng, họ đã tỏ thái độ“bực tức”. Chứng tỏ họ cũng không hơn gì hai ông, thích tranh dành quyền lực.
Chúa Giêsu giải thích về sứ mạng của Ngài và mời gọi các ông thông phần: “Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định”(Mc 10,39-40). Nhân dịp này, Chúa cũng dạy cho các ông bài học về việc phục vụ: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”(Mc 10, 43-44). Qua lời Chúa dạy hôm nay, chúng ta tìm hiểu về tinh thần phục vụ nơi Chúa Giêsu và tinh thần phục vụ của con người qua mọi thời đại.
Trong Kinh tin kính chúng ta đọc rằng: “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”. Thật vậy, cả cuộc đời của Chúa Giêsu từ khi sinh ra cho đến lúc chịu chết trên thập giá, là một chuỗi thời gian phục vụ: Sinh ra trong hang đá nghèo nàn. Lớn lên trong gia đình Nazareth đơn sơ. Trong ba mươi năm sống ẩn dật, Ngài làm nghề thợ mộc kiếm sống. Ngài làm nhiều việc như những người khác (ngoại trừ tội lỗi) để giúp đỡ Thánh Giuse và Mẹ Maria. Đặc biệt, Ngài hằng vâng phục hai ông bà. Trong ba năm hoạt động công khai, tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện một cách rõ nét hơn.
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua việc chọn lựa và huấn luyện các tông đồ. Từ những người quê mùa, dốt nát, ham danh tranh lợi, Chúa đã kiên nhẫn huấn luyện họ trở thành những tông đồ chân chính.
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua việc kiên trì giảng dạy. Mặc dầu “Lời giảng của Ngài có uy quyền” làm cho nhiều người thán phục, nhưng cũng không ít người phản đối, lên án, thậm chí bỏ Ngài mà đi. Dầu vậy, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy, khuyên nhủ trong tinh thần kiên trì, nhẫn nại và yêu thương.
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua những phép lạ Ngài làm. Cho kẻ què được đi. Kẻ câm nói được. Kẻ điếc nghe được. Kẻ mù được thấy. Kẻ chết sống lại. Ngài chữa bệnh cho những người bị bệnh phong cùi, người đàn bà bị bệnh loạn huyết mười hai năm. Ngài cho ông Lazarô đã chết bốn ngày được sống lại… Ngài cảm thông những nỗi yếu hèn của loài người vì chính bản thân Ngài cũng từng trải qua đau khổ(x. Bài đọc II).
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua sự lưu tâm đến những người tội lỗi: Những người thu thuế và các cô gái điếm. Ngài cho họ cơ hội cải tà quy chính, trở thành người tốt.
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua việc quan tâm đến những người không có chỗ đứng trong xã hội thời bấy giờ, đó là các trẻ em và các phụ nữ. Ngài nói với các tông đồ: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng”(Mt 19,14).
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện một cách cụ thể nhất khi Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Đỉnh cao của việc phục vụ là Ngài tự nguyện bước vào cuộc khổ nạn, hy sinh tính mạng của mình vì người mình phục vụ như lời Ngài nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”(Mc 10,45). Ngài chính là Người Tôi Tớ Giavê bị nghiền nát vì đau khổ để hiến thân làm lễ vật đền tội và làm cho muôn người nên công chính (x. Bài đọc I).
Nhà tu đức Jean Vanier, người sáng lập dòng Arche, phân biệt hai loại quyền bính: Một loại quyền bính từ trên áp xuống. Người nắm loại quyền bính này tự coi mình là kẻ ở trên và những kẻ thuộc quyền mình là những người ở dưới. Người này bắt những kẻ dưới phải làm theo ý mình, nếu không theo thì phạt. Loại quyền bính này được dùng để cai trị, hay nói chính xác hơn là thống trị. Loại quyền bính thứ hai không từ trên áp xuống mà đứng bên cạnh để giúp đỡ. Người nắm quyền bính này không coi mình là ở trên cũng không coi kẻ thuộc quyền mình là ở dưới. Người này không nhắm cho ý mình được người ta thực hiện, nhưng nhắm đến ích lợi chung và ích lợi của kẻ mình muốn giúp đỡ. Loại quyền bính này được dùng để phục vụ(x. SCĐ CHÚA NHẬT XXIX TN.B).
Thật vậy, nhìn vào Giáo hội và xã hội hôm nay, chúng ta vẫn thấy tồn tại hai thứ quyền bính trên.
May mắn cho Giáo hội và xã hội vì có rất nhiều những con người phục vụ vô vị lợi theo gương Chúa Giêsu. Đó là tinh thần phục vụ của các tông đồ sau ngày lễ Ngũ Tuần. Đó là tinh thần phục vụ của Giáo hội qua mọi thời đại. Đó là tinh thần phục vụ của Mẹ Têrêxa Cacutta. Tinh thần phục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô. Tinh thần phục vụ của những người cha người mẹ trong gia đình tận tuỵ hy sinh vì con cái. Tinh thần phục vụ của những người thầy cô giáo vì các học sinh thân yêu. Tinh thần phục vụ của các bác sĩ, y sĩ vì các bệnh nhân. Tinh thần phục vụ vì người nghèo, vì những người thấp cổ bé miệng. Họ phục vụ vì lợi ích chung và vì lợi ích người mình phục vụ.
Nhưng vẫn còn đó rất nhiều người trong đạo ngoài đời dùng quyền để “Sai khiến dân chúng như ông chủ, họ lấy uy quyền mà trị dân”(x. Mc 10,42). Họ phục vụ vì mình, vì tiền, vì lợi ích phe nhóm: Thích đến với người giàu, người có chức quyền, ngại gặp người nghèo, người thấp cổ bé miệng. Vì vậy, đối tượng ưu tiên để họ phục vụ là người giàu, người có chức quyền. Người có quyền, có tiền sẽ được phục vụ chu đáo. Người nghèo luôn bị bỏ rơi. Cho nên, vẫn còn đó những bệnh nhân không được phục vụ chu đáo và thậm chí còn bị chết oan trong bệnh viện vì không có tiền “Phong bì”. Có những người dân bị đánh đập dã man và chết oan tại các cơ quan công quyền. Có rất nhiều người nghèo đói, ốm đau bệnh tật không được ai quan tâm. Có thể họ là thành viên trong các cộng đoàn giáo xứ, thậm chí họ ở ngay trong gia đình của chúng ta.
Là người kitô hữu, chúng ta được mời gọi phục vụ kẻ khác theo địa vị và khả năng của mình. Là linh mục, tu sĩ, ban hành giáo, giáo lý viên, thành viên các hội đoàn, cha mẹ, vợ chồng, con cái… Chúng ta đang phục vụ với thái độ nào? Thống trị hay giúp đỡ? Phục vụ vì mình hay vì lợi ích của tha nhân?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có tinh thần phục vụ của Chúa, phục vụ vì lợi ích chung và vì lợi ích của người mình phục vụ. Amen.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Ở Việt Nam thời đệ nhị Cộng Hòa, 11 liên danh tranh cử làm Tổng thống, 480 người tranh nhau 60 ghế Thượng Viện và 1650 ông bà tranh giành những chiếc ghế Hạ Viện.
Thời nào và ở đâu đâu cũng có những người tranh nhau làm lớn để “lấy quyền hành áp chế dân, bắt dân phục vụ mình”. Đó là lý do người đời tranh nhau địa vị. Nhưng khi họ gặp nguy khốn, họ bỏ chạy trốn trước nhất. Họ thật là hèn nhát!
Còn những chức vụ cần phải hy sinh gian khổ, như bầu Ban Hành Giáo các xứ đạo, các đoàn thể từ thiện, đạo đức thì chẳng thấy ai tranh cử. Ai được bầu thì tìm hết cách từ chối.
Từ hai ngàn năm trước, Đức Giêsu cho ta thấy: Những thủ lãnh các nước lấy quyền sai khiến dân như ông chủ. Ông chủ thời xưa là người đầy quyền lực muốn bắt đầy tớ làm gì, đầy tớ phải làm theo, dù cực nhọc, khốn khổ đến đâu cũng không được từ chối. Nhiều nơi, đầy tớ như nô lệ, chủ cho sống thì sống, muốn giết thì giết. Thật kinh khủng! Đặc quyền đặc lợi như thế, ai chẳng ham. Đang tuổi đầy tham vọng và lợi dụng là anh em chú bác với Đức Giêsu, hai anh em thanh niên Giacôbê và Gioan tưởng Thầy mình lên thủ đô Giêrusalem với quyền phép lạ lùng thế này, chắc sẽ lên ngai vua dễ dàng, nên hai anh đã đến xin cho mình được ngồi hai bên tả hữu của Thầy trong vinh quang nước Thầy. Đức Giêsu đã tức khắc sửa sai thói tham danh tham lợi trần tục đó và bảo: “Các anh không biết điều các anh xin! Các anh có uống nổi chén đắng Thầy sắp uống hay có chịu nổi phép rửa Thầy sắp chịu không?”.
Các anh thưa được. Các anh thưa đại đi, chứ các anh đâu có biết chén đắng đó là gì, phép rửa đó là gì. Mãi đến khi Người bị bắt, bị đánh đòn, bị vác thập giá, bị đóng đinh, bị đâm thấu tim, máu cùng nước chảy ra, lúc đó, các anh mới hiểu chén đắng là hy sinh chịu xỉ nhục chua xót, chịu đau khổ cay đắng. Chịu phép rửa là đổ máu và nước trong trái tim ra để yêu thương hiến mạng sống làm giá cứu độ muôn người. Thấy thế, các anh trốn mất, chẳng còn thấy các anh đâu nữa.
Thật đắng cay, chua xót đến chừng nào! Nhưng Đức Giêsu đã hết sức bình tĩnh chỉ dẫn thêm cho mấy anh: “Ai muốn làm lớn, phải làm kẻ hầu hạ, ai muốn làm đầu, phải làm đầy tớ mọi người, vì Con Người đến không để được người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người”. Con Người đây chính là Đức Giêsu. Lời đó chính là Hiến Chương Nước Trời, là Hiến Pháp của Đức Kitô tuyên bố cho Giáo Hội, cho các cộng đồng Kitô giáo, cho các môn đệ: Mỗi người đều phải là đầy tớ mọi người. Không phải bô bô ngoài môi, ngoài miệng mình là đầy tớ, nhưng là sống đầy tớ, phục vụ mọi người thực sự mới phản chiếu rõ nét hình ảnh của Đức Giêsu. Trong Giáo Hội cần nhấn mạnh đến nguyên lý đó, để từ bỏ những đầu óc vụ lợi, vụ những danh hiệu, chức vị, danh dự, huy chương, phong thần, phong tước.
Chỉ có một nguyên tắc độc nhất là tôi tớ khiêm tốn hèn mọn. Những chức vụ có vai trò đặc biệt chỉ nên gọi là thừa tác, trợ tá, theo đúng nghĩa chữ La tinh minister là tôi tớ, chứ không phải bộ trưởng, thủ trưởng theo lối dịch tôn ty phong thần của người đời, không phải của đạo Đức Kitô.
Trong Giáo Hội Đức Kitô chỉ có kẻ thừa sai, thừa tác, trợ tá, tôi tá, nhân viên phục vụ hay mục tử, là đầy tớ chăm lo, săn sóc chiên như Đức Giêsu. Đức Kitô dầu là Con Thiên Chúa quyền phép vô cùng, Người không đến để ngự trị, nhưng để hầu hạ, không đóng vai trò ông chúa, ông chủ, ông Seigneur, nhưng phục vụ như nô bộc, như nội trợ, như người mẹ đích thực, làm tất cả, phục vụ tất cả, hầu hạ tất cả vì yêu thương con cái. Hầu hạ con từ trong trứng nước tới khi sinh ra, cho đến khôn lớn: Hầu hạ từ những việc đê tiện nhất như hót phân, lót tã, lau nhà, giặt giũ mọi đồ dơ, tắm rửa, nấu nướng, nuôi dưỡng, bú mớm đến những việc cao quý nhất như dạy dỗ con cái thành nhân, thành thánh, thành con Chúa. Người yêu thương hy sinh không còn nghĩ đến mình, sẵn sàng chịu mọi thiệt thòi, vất vả, đau khổ đến hiến cả mạng sống vì hầu hạ con. Hầu hạ như thế còn cao chót vót hơn cả thái sơn, mạnh mẽ tuôn trào hơn cả nước nguồn chảy ra. Đó là tình yêu hy sinh tuyệt hảo xứng đáng là hình ảnh Đức Giêsu.
Hình ảnh của Người đã được thể hiện qua các vị thánh nhân như: Maximiên Kolbê xin xung phong chết thay cho một gia trưởng còn một đàn con dại; như cha Trương bửu Diệp xin chịu bắn thay cho cả đoàn người ẩn náu trong nhà thờ; như thánh Martinô Porres xin bán mình đi làm nô lệ để nhà dòng lấy tiền trả nợ …
Hầu hạ và hiến dâng mạng sống, không phải là thứ phục vụ vì trách nhiệm hay bổn phận bó buộc hay tệ hơn nữa, hầu hạ vì sợ sệt như nô lệ. Cũng chưa phải là hầu hạ và hiến dâng mạng sống khi người ta phục vụ vì thích hy sinh, thích dấn thân, hay hy sinh cầm chừng hoặc hiến dâng có tính toán.
Chỉ khi nào hầu hạ vì yêu thương sẵn sàng hy sinh hiến dâng mạng sống mình cứu giúp người mới đích thực nên giống Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Người đã uống chén đắng, đã chịu phép rửa trên Thánh giá, trở nên người tôi tớ phải tan nát vì đau khổ để thông cảm với mọi nỗi yếu hèn của chúng con, để hiến thân làm lễ vật đền tội chúng con, cho chúng con được ơn cứu sống. Xin cho chúng con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Theo tâm lý chung của loài người, ai cũng muốn được giầu sang phú quí, muốn có địa vị cao, thích ăn trên ngồi trước, muốn được người ta hầu hạ… Nhưng những tiêu chuẩn đó không nhất thiết là của Chúa. Tham vọng lo liệu của những con trai ông Giêbêđê là Giacôbê và Gioan đã là dịp để Đức Giêsu nói rõ: sự cao trong đích thực ở tại cái gì?
Đức Giêsu không đáp ứng lời cầu xin của hai anh em Giacôbê và Gioan vì nó không thích hợp với đường lối của Ngài. Nhân dịp này Ngài dạy cho các ông là môn đệ đặc biệt của Ngài, và cũng là cho chúng ta một bài học: Sự cao trọng không cốt ở danh dự, giầu có, chức quyền danh vọng hay sức mạnh… nhưng ở tại sự phục vụ tha nhân. Chính vì vậy, Ngài mới nói:Ai muốn làm lớn phải làm tôi tớ mọi người”. Lời giáo huấn này đi ngược lại với lối hành xử của người đời, buộc chúng ta phải động não!
Đức Giêsu là vị Thượng Tế có thế giá, luôn chuyển cầu cho chúng ta trước tòa Thiên Chúa. Ngài cũng đã trải qua những đau khổ trong đời sống trần thế, đồng thời cũng hé mở cho chúng ta thấy được vinh quang của Ngài sau này khi đã sống lại. Mọi Kitô hữu đều có chức năng tư tế phổ quát, nên cũng phải sống và làm chứng bằng đời sống phục vụ. Và nếu cần, họ cũng phải sẵn sàng hiến mạng sống để chứng tỏ sự trung thực của đời sống phục vụ của mình. Yêu thương là phục vụ, càng phục vụ, tình yêu càng dồi dào thắm thiết.
+ Bài đọc 1: Is 53,10-11
Hai câu trong bài đọc 1 là một trích đoạn của Bài Ca thứ tư về Người Tôi Trung của Isaia. Cho mãi đến thời Giêrêmia, tư tưởng tôn giáo Do thái mới nhận biết một mối liên hệ giữa việc đền tội với những đau khổ của người công chính bị bách hại. Người công chính đây là Người Tôi Trung hiến mạng sống của mình để chuộc tội cho dân Người. Cái chết của Người sẽ là khởi điểm của vinh quang Người và là suối nguồn của mọi ơn phúc cho những người khác.
Khi suy tư về những đoạn văn như đoạn văn này, các Kitô hữu tiên khởi đã đi đến một sự hiểu biết về những đau khổ và cái chết của Đức Giêsu.
+ Bài đọc 2: Dt 4,14-16
Đức Giêsu là vị Linh mục Thượng phẩm tuyệt hảo của chúng ta. Thánh Phaolô kêu mời chúng ta hãy vững tâm đến với Ngài để được tiến đến cùng Chúa Cha. Ngài về trời để làm trung gian cho chúng ta. Chính Ngài đã có kinh nghiệm bản thân về những thử thách, những đau khổ mà chúng ta đang phải chịu. Do đó, Ngài dễ dàng thông cảm với những yếu đuối của chúng ta, Ngài nâng đỡ chúng ta và cầu bầu cho chúng ta trước tòa Chúa Cha.
+ Bài Tin mừng: Mc 10,35-46
Lần thứ ba Đức Giêsu loan báo cuộc Thương Khó sắp tới của Ngài cho các môn đệ, nhưng xem ra các ông chẳng hiểu gì. Họ vẫn còn giữ nguyên quan niệm của người Do thái là chờ đợi một nước vinh quang trần thế theo nghĩa chính trị.
Họ chỉ nghĩ đến địa vị trong nước mà Đức Giêsu sắp lập. Họ lo bàn cãi và tranh luận với nhau, lo chiếm cho mình một chỗ cao hơn trong vương quốc tương lai. Nhưng Đức Giêsu đã dạy cho các ông một bài học: ở trong vương quốc của Ngài sự cao trọng thực sự không cốt ở trong uy thế và danh dự, nhưng ở trong sự phục vụ tha nhân đến tột cùng, nếu cần:Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Những lời nói này của Đức Giêsu có liên quan đến tất cả chúng ta. Nó làm xẹp đi những tham vọng, tính kiêu căng và những mơ ước quyền thế của chúng ta. Phục vụ là đòi hỏi của tình yêu. Phục vụ là con đường duy nhất của sự cao trọng đích thực.
Trở nên tôi tớ mọi người
Ngày nay trên khắp thế giới, hầu hết các nước đều có cuộc bầu cử vào quốc hội, bầu Tổng thống hay một chức vụ tại một địa phương nào đó. Bất cứ ai ra tranh cử cũng tỏ ra mình có tài năng, xứng đáng lãnh nhận chức vụ, càng lên cao càng tốt. Thời nào và ở đâu cũng có những người tranh nhau làm lớn để lấy quyền hành áp chế dân, bắt dân phục vụ mình. Đó là lý do người đời tranh nhau địa vị trong xã hội.
Người ta tìm kiếm quyền bính vì những lý do khác nhau. Một số người thích có quyền lực đi chung với quyền bính: nó làm cho người ta cảm thấy quan trọng. Những người khác thích uy thế mà nó đem lại. Những người khác nữa thích được trả lương cao. Tất cả những lý do ấy đều có một điểm chung – quyền bính được xem như cơ hội để thăng tiến bản thân.
Mặc dầu đã đi theo Chúa gần ba năm, nhưng các môn đệ cũng chưa lãnh hội giáo lý của Ngài được bao nhiêu. Ngay sau lần thứ ba Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ sự Thương Khó của Ngài: “Nào chúng ta lên Giêrusalem… Con Người sẽ bị nộp cho các Thượng tế. Họ sẽ lên án tử Người. Họ sẽ nhạo báng Người, sẽ khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết Người”(10,32-34), các ông cũng không quan tâm đến lời loan báo ấy, có lẽ chẳng hiểu gì, hơn nữa đầu óc các ông còn đang mơ tưởng đến vương quốc Đức Giêsu sắp lập. Như vậy có nghĩa là vào lúc Đức Giêsu “chọn chỗ chót” thì các ông lại cố “đua nhau” chiếm chỗ tốt hơn: Họ vẫn còn mơ mộng về Đấng Cứu Thế vinh quang của dân tộc. Đấng Cứu Thế đối với họ, đó là Đấng chiến thắng hiển hách, sẽ dùng quyền lực của mình điều khiển mọi sự.
Riêng trường hợp đối với Giacôbê và Gioan, theo tục lệ tự nhiên trong nhiều nền văn minh phương Đông, họ cho là tự nhiên khi sử dụng đặc quyền của người trong họ: vì là anh em bà con với Đức Giêsu, họ đến xin người bà con “dòng họ” được tham dự vào vào sự thành công của một thành viên trong gia tộc như người ta thường nói:Một người làm quan, cả họ được nhờ”(Tục ngữ).
Có lẽ vì vậy mà hai anh em Giacôbê và Gioan đã lợi dụng người anh em bà con để được thăng tiến, được hưởng đặc quyền đặc lợi, được tiến cử. Các ông đã xin:Khi Thầy ngự trên ngai vinh hiển, xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy”{Mc 10,37).
Lời thỉnh nguyện này đã nói lên tham vọng của hai ông là muốn tham dự vào quyền điều hành trong vinh quang của Đức Giêsu. Thứ “vinh quang” mà các ông xin là vinh quang theo kiểu trần thế vì các ông tin Đức Giêsu sẽ lập nước Israel ở trần gian, chứ không phải vinh quang của Đức Giêsu sau khi tử nạn và phục sinh.
Đức Giêsu trả lời ngay:Các con không biết điều các con xin”. Khi nói câu này, Đức Giêsu mốn tỏ ra cho các ông biết lời thỉnh cầu của các ông thật là ngây ngô vì các ông chưa hiểu gì về việc tử nạn và phục sinh mà Ngài đã loan báo đến lần thứ ba này. Cho nên Ngài hỏi tiếp:”Các con có thể uống chén đắng Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không”? Nói như vậy có nghĩa là chấp nhận đau khổ và sự chết. Chúa có ý nói đến cuộc tử nạn của Ngài trên Thập giá. Chẳng hiểu gì, các ông thưa đại đi:Thưa được”.
Chúng ta cũng nên tìm hiểu thêm hai từ “chén đắng” và “phép rửa”.
Trong Cựu ước, “Chén” đôi khi người ta nói đến chén chúc tụng, nhưng thường là nói về chén đắng để diễn tả những đau đớn trước khi chết. Lúc hấp hối, Đức Giêsu đã xin Chúa Cha cất chén đắng cho Người, nhưng cũng nói tiếp:Nhưng đừng theo ý Con, cứ theo ý Cha”.
Còn “phép rửa” trong bí tích rửa tội, toàn thân được dìm xuống nước, tượng trưng cho việc “chìm đắm” trong cái chết trước khi “chỗi dậy” trong đời sống mới. Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu sẽ trải qua một phép rửa thật sự. Người sẽ bị dìm xuống làn nước chết, trước khi chỗi dậy vào ngày thứ ba (Fiches dominicales, tr 304).
Câu “Thưa được” đã đưa Giacôbê và Gioan đến cái chết. Sự việc xẩy ra: ông Giacôbê đã bị vua Hêrôđê Agrippa giết năm 44, Gioan chết trong tuổi già cuối thế kỷ I. Nhưng ông đã bị bỏ vào vạc dầu sôi ở cửa Latinh. Ông thoát chết được do phép lạ Chúa làm. Sau đó bị phát lưu ở đảo Patmos trong cảnh “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”, sống cũng như chết. Như vậy lời Chúa đã được thực hiện đúng.
Từ 2000 năm trước, Đức Giêsu đã cho thấy: những thủ lãnh các nước lấy quyền sai khiến dân như ông chủ. Ông chủ thời xưa là người đầy quyền lực muốn bắt đầy tớ làm gì, đầy tớ phải làm theo, dù cực nhọc, khốn khổ đến đâu cũng không được từ chối. Nhiều nơi, đầy tớ bị coi như nô lệ, chủ cho sống thì sống, muốn giết thì giết. Vì thế, Đức Giêsu nói:Các con biết: những người được coi là thủ lãnh thì cai trị dân như những bạo chúa, những người làm lớn thì lấy quyền mà áp chế dân”(Mc 10,42).
Tuy thế, có những loại quyền bính khác nhau. Jean Vanier phân biệt hai loại quyền bính: một quyền bình áp đặt, thống trị và điều khiển; và một quyền bính đồng hành, lắng nghe, giải phóng, phân quyền làm cho người dân tự tin và kêu gọi họ ý thức về những trách nhiệm của mình.
Còn có một loại quyền bính thứ ba thinh lặng, yêu thương và ẩn giấu – quyền bính yêu thương nhưng không dùng quyền lực, xây dựng lòng tín thác và đôi khi chờ đợi đêm ngày trong nỗi lo âu. Cha mẹ đôi khi phải chờ đợi suốt đêm trường mong sao đứa con mình lầm đường lạc lối trở về…
Giáo huấn mới của Đức Giêsu là sự đảo nghịch của Tin mừng. Khi nói với các tông đồ, cũng như với những người chịu trách nhiệm về các cộng đoàn Kitô hữu có mặt lúc đó hay trong tương lai. Đức Giêsu nêu lên một luật đối trọng với cách thế mà các xã hội dân sự chủ trương về quyền hành:Những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai trị dân”. Điều luật này chống lại lòng ham muốn thống trị, như Giacôbê và Gioan và mười tông đồ còn lại. Điều luật này không chỉ là một điều luật bình thường, mà Đức Giêsu coi nó là Hiến chế cho các cộng đồng môn đệ Người: mỗi người là đầy tớ mọi người (J. Delorme).
Đây là một đảo lộn tận gốc, một lý thuyết cách mạng bắt đầu một mối tương quan mới giữa người với người:Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em”.
Đối với Đức Giêsu, chức quyền là để phục vụ. Chức quyền cũng như tiền bạc, tự nó không xấu. Bất cứ nhóm nào cũng cần có một người phụ trách. Nhưng theo ý Chúa, phụ trách trước hết không phải là một địa vị thống trị hưởng lợi, hưởng uy thế, mà là một địa vị để phục vụ nhiều hơn:Con Người đến không phải được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”(Mc 10,45).
Người lãnh đạo trong Hội thánh là “đầy tớ”. Trong các văn kiện, Đức Giáo hoàng thường dùng danh hiệu “Servus servorum”: đầy tớ của các đầy tớ. Những chức vụ có vai trò đặc biệt chỉ nên gọi là thừa tác hay trợ tá theo đúng nghĩa của chữ Latinh “Minister” là tôi tớ, hoặc tiếng Hy lạp “Diakonos”: đầy tớ và “Doulos” là nô lệ.
Trong các vị lãnh đạo trong Hội thánh cũng phải có phẩm trật như người ta nói:Kim chỉ phải có đầu”(tục ngữ), cần phải có một người đứng đầu điều khiển một cộng đoàn, chứ không thể có cảnh “cá đối bằng đầu”(tục ngữ) mà mọi việc được xuôi lọt, vì sẽ không ai muốn phục tùng ai. Điều quan trọng mà Đức Giêsu muốn nhấn mạnh: không phải là hủy bỏ chức vụ của những người đứng đầu, chức vụ của những người lãnh đạo, nhưng đừng dùng địa vị và quyền bính của mình để áp bức người khác.
Truyện: Đức Hồng y Roncalli
Một hôm Đức Hồng y Roncalli vừa trên xe bước xuống. Ngài mới đi xa về. Phái đoàn tòa giám mục ra đón. Mọi người ngạc nhiên trên vai áo Hồng y có vướng mấy cộng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng cười xòa vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện. Chiếc xe của Đức Hồng y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vùng đồng ruộng. Giữa đường một chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc nhích. Đức Hồng y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.
Những cọng rơm trên vai Đức Hồng y đối với ngài chỉ cười xòa cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta một Hồng y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.
Sau này lên ngôi Giáo hoàng, Đức Gioan 23 vẫn tiếp tục nếp sống bình dị phục vụ.
III. QUYẾT TÂM CỦA CHÚNG TA
Chúng ta có quyền tự do chấp nhận hay từ chối lời dạy của Chúa là trở nên tôi tớ của mọi người, nhưng chúng ta phải chịu trách nhiệm về quyết định đó vì hậu qủa của nó sẽ khôn lường. Hãy chọn con đường đúng mà đi.
Con người chúng ta, trong mọi hoàn cảnh, cứ bị dẫn đến những ngã ba đường: nghĩa là trước mắt ta luôn có hai ngả mà ta phải chọn một. Hai ngả đó thường dẫn đến hai chiều khác nhau; một hướng vị kỷ và một hướng vị tha.
Hướng vị kỷ có một sức mạnh tự nhiên lôi cuốn ta vào, nó khiến ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, hạnh phúc hay đau khổ của mình, quyền lợi hay trách nhiệm của mình. Nói chung, nó thu hút ta vào chính bản thân ta. Hầu hết mọi người, trong hầu hết mọi trường hợp, đều bị lôi cuốn vào ngả này.
Còn hướng vị tha rất ít khi lôi cuốn ta, nhưng lương tâm ta lại thúc đẩy ta, đôi khi còn ép buộc ta bước vào. Nó đòi hỏi ta phải quên bản thân, quên những gì liên quan tới bản thân, để nghĩ đến người khác, đến đám đông bên ngoài ta, đến hạnh phúc hay đau khổ của họ. Dù đi vào hướng nào, thì sau khi đi một đoạn đường nữa, ta sẽ lại đến một ngã ba khác, cũng với hai hướng vị kỷ và vị tha trước mặt. Mỗi lần gặp ngã ba đó là mỗi lần ta phải lựa chọn hướng đi cho mình (JKN).
Đối với những người theo Chúa, hai hướng ấy vẫn luôn luôn mở ra đòi buộc họ chọn lựa mỗi lần họ phải quyết định để hành động.
* Chọn hướng vị kỷ: hướng vị kỷ sẽ cám dỗ họ lợi dụng con đường theo Chúa như một phương tiện để tiến thân, để bước vào vinh quang trần thế, với quyền lực, danh vọng, tiền bạc trong tay, là những thứ mà Giáo hội cũng như xã hội cống hiến cho họ, mong họ dùng chúng để phục vụ Thiên Chúa, Giáo hội và mọi người. Nhưng họ lại dùng chúng cho mục đích vị kỷ của mình, mặc dù trên danh nghĩa vẫn là để phục vụ Thiên Chúa, Giáo hội và tha nhân.
Truyện: Hòn đá vấp ngã
Một hôm, khách qua đường gặp một triết gia nổi tiếng người Hy lạp. Ông ta đứng ở góc đường và cười nắc nẻ một cách đắc chí. Ai cũng tưởng ông là người điên nên không thèm để ý.
Sau cùng, có một người đánh bạo đến gần và hỏi:
– Vì lý do gì ông cười như vậy?
Ông ta trả lời:
– Ông có thấy cục đá nằm giữa đường kia không? Từ sáng tới giờ không biết bao nhiêu người đã vấp ngã vì hòn đá đó, và họ bực mình chửi bới. Thế nhưng, không có một ai cúi xuống nhặt hòn đá vứt khỏi lối đi để người khác khỏi bị vấp ngã.
* Chọn hướng vị tha: Còn hướng vị tha sẽ khiến người theo Chúa coi việc theo Chúa như một phương cách hữu hiệu nhất để phụng sự Thiên Chúa, nhân loại, quê hương và tha nhân. Họ không quan tâm hay mong muốn chuyện thăng tiến bản thân, không bao giờ coi đó như một mục đích phải đạt tới trong cuộc đời. Nếu họ được giao địa vị, trách nhiệm, với những phương tiện hữu hiệu trong tay, họ sẽ lợi dụng tất cả những thứ ấy để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Điều họ quan tâm là: con người được hạnh phúc, và qua đó Thiên Chúa được vinh danh.
Chúng ta không bao giờ quên được những gương phục vụ một cách xả kỷ vô vị lợi như thánh Đamien tông đồ người hủi, thánh Maximilianô Kolbê xin chết thay cho một vị trung úy trẻ trong trại tập trung Đức quốc xã, các vị khác như Ozanam, chân phước Têrêsa Calcutta…
Đức Giêsu không nài ép chúng ta làm môn đệ Ngài, Ngài chỉ kêu mời chúng ta với tinh thần tự nguyện. Ngày nay chúng ta còn mang cái tâm trạng của các tông đồ ngày xưa khi Đức Giêsu chưa đi vào cuộc tử nạn và phục sinh không? Lời mời gọi của Đức Kitô hôm nay có giá trị đặc biệt để chúng ta xét lại thái độ của mình. Chúng ta lượng định thế nào về các thành công và tầm vóc quan trọng trong nội bộ Hội thánh, và ngoài xã hội? Chúng ta trân trọng những ai và khinh miệt kẻ nào? Cứ như cái nhìn của Tin mừng hôm nay, thì kẻ “vĩ đại” là người phục vụ kẻ khác. Nó mở mắt cho chúng ta thấy được tấm lòng “vĩ đại” trong nếp sống thường nhật chung quanh mình như người cha hy sinh, các bà mẹ chung thủy, dịu dàng, những người hiền lành khiêm nhường chất phác phục vụ không cần tiếng khen, không cần phần thưởng, cũng không cần lời cám ơn…
Phục vụ là một nhân đức gần gũi với đức bác ái. Nhân đức phục vụ bắt nguồn từ lòng yêu mến tha nhân. Như vậy quyền thế và phục vụ không xung khắc nhau, vì ai có nhiều quyền và quyền lớn thì có khả năng phục vụ nhiều hơn. Phục phụ phải là cái dấu chỉ của người môn đệ đích thực của Chúa Kitô. Hơn nữa, chính khi phục vụ tha nhân là lúc người ta tìm lại được chính mình vì “chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình, là lúc gặp lại bản thân”. Chính khi phục vụ tha nhân là lúc chúng ta tìm được hạnh phúc nhự thi sĩ Tagore người An độ đã viết:
Nằm ngủ, tôi mơ thấy đời sống toàn là Niềm vui và Hạnh phúc.
Tỉnh dậy tôi nhận ra sống là Phục vụ.
Tôi dấn thân Phục vụ và tôi khám phá ra rằng Phục vụ là Hạnh phúc.
Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy nổi bật lên tinh thần phục vụ.
Thực vậy, vì yêu thương nhân loại, Ngài đã xuống thế làm người và ở giữa chúng ta. Suốt quãng đời công khai, Ngài đã làm biết bao nhiêu phép lạ, cho kẻ què được đi, kẻ mù được sáng, kẻ phong cùi được lành sạch, hầu xoa dịu phần nào những đớn đau và bất hạnh. Chúng ta có thể nói về Ngài như sau: Đi tới đâu, Ngài liền thi ân giáng phúc tới đó.
Và sau cùng để cứu độ chúng ta, Ngài đã phải chịu chết trên thập giá, như lời Ngài đã xác quyết: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Chính Ngài cũng đã đúc kết về cuộc đời của mình: Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Đồng thời, Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài đi vào con đường dấn thân để phục vụ. Trong bữa tiệc ly vào buổi tối ngày thứ năm Tuần thánh, Ngài đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và nói: Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm. Nhưng nếu ta là Thầy và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Vậy chúng ta cần phải phục vụ và giúp đỡ người khác như thế nào?
Bác sĩ Tom Dolly, người đã từng hy sinh cả cuộc đời của mình giữa chốn rừng thiêng nước độc ở bên Lào, để giúp đỡ cho những người thiếu may mắn vào khoảng đầu thế kỷ này, đã nói như sau: Không ai quá nghèo đến độ không có một cái gì đó để trao tặng cho người khác.
Cũng vậy, dầu bất tài, xấu xí hay bệnh tật đến đâu chăng nữa, thì chẳng ai là một kẻ vô dụng cho người khác và cho xã hội. Như thế có nghĩa là ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng ta đều có thể thực hiện được những hành động bác ái yêu thương, phục vụ và giúp đỡ người khác.
Đúng thế, một người ăn xin ư? Họ có thể cho chúng ta một dịp để sống quảng đại và chia sẻ. Một kẻ tàn tật và đau ốm ư? Họ có thể mời gọi chúng ta sống cảm thông và nâng đỡ, đồng thời còn đặt ra cho chúng ta những câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời, của đau khổ và của sự chết. Một kẻ thù của chúng ta ư? Họ có thể đem lại cho chúng ta một cơ may để sống kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ.
Phải, bất kỳ ai cũng có thể ban tặng cho chúng ta một cái gì đó. Vấn đề là chúng ta có biết mở rộng cõi lòng để đón nhận hay không? Đồng thời chúng ta cũng phải tự vấn lương tâm xem chúng ta đã làm được những gì để phục vụ và giúp đỡ những người chung quanh? Chẳng hạn như một nụ cười, một ánh mắt, một sự lắng nghe, một lời nói cảm thông, an ủi và khích lệ.
Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ, mỗi việc làm của tình bác ái yêu thương sẽ là như một quà tặng mà từng giây từng phút, chúng ta có thể và phải đem đến cho người khác.
Giữa đám đông dân chúng đang dâng cúng tiền bạc tại đền thờ, đôi mắt Chúa Giêsu đã dừng lại nơi một bà goá nghèo hèn. Bà chỉ bỏ vào hòm tiền có một đồng xu, thế nhưng Ngài đã nhìn thấy giá trị to lớn của hành vi và đồng xu nhỏ bé ấy. Bởi vì dưới cái nhìn của Chúa, mọi sự dù nhỏ bé đến đâu chăng nữa cũng vẫn có giá trị của nó.
(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Mc 10: 35-45: Tin mừng hôm nay cho thấy các môn đệ, và có lẽ là tuyệt đại đa số nhân loại luôn mơ ước và nhào nắn một mẫu người lãnh đạo lý tưởng là người có quyền thống trị, chi phối người khác và được người khác phục vụ…
Trong một cộng đoàn, đăc biệt là Giáo hội luôn cần một cơ chế, một thể chế lãnh đạo. Vì thế, vai trò của người lãnh đạo rất cần thiết, tuy nhiên, lãnh đạo theo tinh thần của Chúa Giêsu không phải theo cách hiểu và sự hành xử quyền bính của thế gian. Lãnh đạo trong Giáo hội là một thừa tác vụ, một chức vụ để phục vụ làm phát triển con người và cộng đồng.
Ngay sau lời loan báo về cuộc Thương khó, xem ra các môn đệ chưa hiểu và chưa lãnh hội được mạc khải của Chúa Giêsu, các ông đã vội vàng cầu xin một địa vị, một chỗ tốt trong vinh quang Nước Chúa. Nhân đấy, Chúa Giêsu dạy một bài học về tinh thần phục vụ của người lãnh đạo.
Tin mừng hôm nay cho thấy các môn đệ, và có lẽ là tuyệt đại đa số nhân loại luôn mơ ước và nhào nắn một mẫu người lãnh đạo lý tưởng là người có quyền thống trị, chi phối người khác và được người khác phục vụ. Nhưng Chúa Giêsu lại phác họa và đòi hỏi các môn đệ của mình một khuôn mẫu ngược lại. Người lãnh đạo phải là người tôi tớ, người phục vụ. Chính Chúa Giêsu khi nói lên điều ấy, Người đã đi trước, đã thực hiện trọn vẹn điều Người giảng dạy. Người đã hiến mạng, đã phục vụ sự sống nhân loại. Chúa Giêsu là con người phục vụ.
III. Gợi ý bài giảng:
Các môn đệ xin Chúa được ngồi bên hữu và tả Người trong vinh quang, nghĩa là xin có một địa vị cao trọng, quyền thế trong Nước Chúa, trong cộng đoàn. Các ông cũng đã từng tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong số họ. Sự kiện này phản ánh não trạng tham chức, ham quyền, hám lợi danh của con người. Chỉ muốn mình được ở trên người khác, được người khác cung phụng, phục vụ. Lời dạy của Chúa Giêsu chỉ ra cách thế để có địa vị, để được làm lớn, làm lãnh đạo đó là hạ mình xuống làm đầy tớ phục vụ mọi người. Một lời dạy, một cách thế nghịch lý, nếu không muốn nói là phi lý. Đối với Chúa, điều làm nên môn đệ của Người không phải là quyền bính, chức tước mà là sự phục vụ. Quyền bính chỉ có thể đến với những ai biết phục vụ và chân thành phục vụ anh chị em mình. Ai càng biết hạ mình phục vụ, càng có uy thế trước cộng đoàn, trước Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã đi trước thực hiện trọn hảo điều Người dạy. Người đến để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhân loại. Môn đệ Đức Kitô cũng phải đi vào con đường khiêm hạ phục vụ của Thầy mình. Ngày nay, là Kitô hữu, môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta đã và đang hạ mình phục vụ như thế nào? Hay đang là những người mơ ước và tìm mọi cách ngay cả cách bất chính, bất công để tìm kiếm danh vọng địa vị trần thế.
Chức quyền danh vọng, địa vị, tự thân nó không xấu. Trong một cộng đoàn, một xã hội luôn cần có người đứng đầu để điều hành, lèo lái thì cộng đoàn ấy, xã hội ấy mới có thể vận hành tốt và tiến tới. Việc làm hết sức mình vì lợi ích chung, vì mọi người của người lãnh đạo là thái độ phục vụ chân thành. Ngày nay, người ta cũng đã nhận thức được lãnh đạo là phục vụ: nào là “đầy tớ của nhân dân”; quan chức là “nô bộc của dân”… Nhưng để sống tinh thần hạ mình làm đầy tớ phục vụ mọi người theo tinh thần của Chúa Giêsu không phải là chuyện dễ dàng. Theo tinh thần của Lời Chúa dạy, sự phục vụ có nghĩa là làm cho cộng đoàn được chăm sóc, mọi người được chăm lo, được lớn lên. Do đó, Kitô hữu trở nên người đầy tớ phục vụ anh chị em mình là làm cho họ được yêu thương, được quan tâm, được khơi dậy những tiềm năng phát triển đời sống toàn diện. Ngai vàng, quyền bính mà Chúa Giêsu hứa và mời gọi mọi người là hãy yêu mến như Người, hãy thí mạng sống vì tha nhân như Người. q
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đến trần gian để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhân loại chúng ta. Trong tâm tình tri ân, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến để phục vụ nhân loại chúng con bằng việc hy sinh chết trên thập giá để cho chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho mỗi người chúng con đây luôn biết mang lấy tinh thần phục vụ của Chúa để sống và đối xử chân thành với nhau trong cuộc sống hằng ngày. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
(Suy niệm chú giải Lời Chúa CN 29 TN B. Chúa Nhật truyền giáo – Lm. Inhaxio Hồ Thông)
Mỗi người Ki-tô hữu phải là nhà truyền giáo, vì đó là bản chất của Giáo Hội. Khi nói về công việc truyền giáo, chúng ta thường nghĩ ngay đến việc loan báo Tin Mừng. Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay xác định cho chúng ta nội dung của việc loan báo Tin Mừng được cô động ở nơi lời phát biểu của Đức Giê-su: “Con Người không đến để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Nếu công việc truyền giáo được định nghĩa theo truyền thống Đông Phương “kể cho nhau nghe cuộc đời của Đức Ki-tô”, thì mỗi người Ki tô hữu phải kể về cuộc đời của Đức Giê-su cho anh chị em mình không chỉ bằng lời nói mà bằng chính cuộc sống của mình, nghĩa là, tự đặt mình vào trong tình liên đới với những anh chị em chung quanh mình, biến cuộc đời mình thành cuộc đời phục vụ và những đau khổ của mình thành giá cứu chuộc muôn người. Đó là lời loan báo Tin Mừng cụ thể nhất, sống động nhất và hữu hiệu nhất.
Trong tuyến phát triển của Tin Mừng Mác-cô, chúng ta theo Đức Giê-su trên đường lên Giê-ru-sa-lem, ở đó cái chết đang chờ đợi Ngài. Viễn cảnh Thương Khó ở trung tâm của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay; hai trong số ba bài đọc: Bài Đọc I và Bài Đọc II, được mượn từ Phụng Vụ Lời Chúa Thứ Sáu Tuần Thánh.
Is 53: 10-11
Trong Bài Đọc I trích từ bài ca Người Tôi Trung chịu đau khổ, những khốn khổ và cái chết của Người Tôi Trung đã được Thiên Chúa chấp thuận như hiến lễ xóa tội, nhờ đó muôn người nên công chính.
Dt 4: 14-16
Trong Bài Đọc II trích từ thư gởi tín hữu Do thái, tác giả minh chứng Đức Giê-su là vị Thượng Tế đầy lòng cảm thương, Ngài đã tự đặt mình liên đới với nhân loại, cho đến mức chịu đau khổ và chịu chết để đưa con người đến bên lờng Chúa xót thương.
Mc 10: 35-45
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su trả lời cho những tham vọng của hai anh em nhà Dê-bê-đê và cho tất các môn đệ của Ngài nữa, bằng cách phác họa chân dung người tôi tớ lý tưởng, biến cuộc đời mình thành đời phục vụ và những đau khổ của mình thành giá chuộc cho muôn người.
BÀI ĐỌC I (Is 53: 10-11)
Đoạn văn này được trích từ bài ca thứ tư về Người Tôi Trung đau khổ trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55). Bài ca nầy mô tả số phận Người Tôi Trung mầu nhiệm của Đức Chúa: chịu đau khổ và bị giết chết, đoạn được tôn vinh, số phận tương tự với số phận của Đức Giê-su. Thân phận Người Tôi Trung này loan báo thân phận của Chúa Giê-su.
Người thuật chuyện, chắc chắn chính là vị ngôn sứ, hoàn tất những suy niệm của mình về số phận đau thương của Người Tôi Trung qua lời nguyện mà ông ngỏ lời với Đức Chúa:
“Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ.
Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội,
người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn,
và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu” (Is 53: 10).
“Kẻ nối dõi” chắc chắn có cùng một ý nghĩa như trong nhiều đoạn văn Cựu Ước, tức là hậu duệ của tổ phụ Áp-ra-ham, chính xác hơn, đông đảo những người tín hữu được hưởng nhờ việc Người Tôi Trung hiến thân mình làm của lễ đền tội. Người “sẽ được trường tồn” (cũng như: “Người sẽ nhìn thấy ánh sáng”) có thể ám chỉ đến “sự sống lại”.
Lúc đó, Đức Chúa trả lời cho vị ngôn sứ bằng cách hứa ban một số phận vinh quang cho Người Tôi Trung của Ngài, vì những đau khổ mà ông đã phải hứng chịu, và nhờ ông gánh lấy tội lỗi của muôn dân mà họ được nên công chính và thánh thiện. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su sẽ tự đồng hóa mình với “người tôi tớ”, “Ngài đến để phục vụ” và Ngài sẽ lập lại bằng những từ ngữ tương tự: “hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
BÀI ĐỌC II (Dt 4: 14-16)
Bài Đọc II tiếp tục trích thư gởi tín hữu Do thái. Trong đoạn trích trước, tác giả nhân cách hóa Lời Chúa: Lời Chúa thấu suốt lòng trí của chúng ta, xét xử tận cõi thâm sâu qua tiếng lương tâm mỗi người. Trong đoạn trích hôm nay, tác giả đem đến một viễn cảnh trấn an: Đức Ki-tô là Đấng chuyển cầu lý tưởng của chúng ta, vì Ngài “thông cảm được những nỗi yếu hèn của chúng ta; vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như chúng ta, nhưng không phạm tội”. Ngài là vị Thượng Tế tuyệt vời; Ngài đã không đơn giản băng qua Đền Thờ Giê-ru-sa-lem để đi vào nơi Cực Thánh – như vị Thượng Tế Cựu Ước – nhưng đã băng qua các tầng trời để tiến đến ngai Thiên Chúa và dẫn đưa chúng ta theo Ngài đến tận nơi Thiên Chúa ngự. Vì thế, chính nhờ Ngài mà chúng ta nhận được muôn vàn ân sủng.
Lời chuyển cầu đầy quyền năng của Đức Ki-tô bắt nguồn từ những đau khổ mà Ngài đã chấp nhận hứng chịu khi mặc lấy thân phận con người. Bản văn âm vang Bài Đọc I và loan báo bài học mà Đức Giê-su sẽ đưa ra cho các môn đệ Ngài trong Tin Mừng hôm nay.
TIN MỪNG (Mc 10: 35-45)
Cuộc vận động của hai anh em nhà Dê-bê-đê, Gia-cô-bê và Gioan, được thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu thuật lại (thánh Mát-thêu quy cuộc vận động nầy cho bà mẹ của họ). Cả hai thánh ký đều đặt tình tiết nầy ngay liền sau lời loan báo thứ ba của Đức Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Lời loan báo thứ ba nầy có nhiều chi tiết chính xác hơn hai lần loan báo trước; Đức Giê-su kể ra: Ngài sẽ phải chịu những lời nhạo báng, nhục mạ, đánh đòn và bị giết chết. Thánh ký đã không ghi nhận bất kỳ phản ứng nào của các môn đệ, ngoài việc họ im lặng, vì không hiểu và chắc chắn cũng sợ hãi nữa. Quả thật, trước khi thuật lại Chúa Giê-su loan báo lần thứ ba cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, thánh Mác-cô viết: “Đức Giê-su và các môn đệ đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi” (Mc 10: 32).
Cứ mỗi lần Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của mình, các môn đệ của Ngài luôn luôn tìm cách xua đuổi khỏi tâm trí của mình những hình ảnh đau thương mà chỉ nghĩ đến quyền hành, chức tước, bổng lộc. Sau lời loan báo thứ nhất, ông Phê-rô tìm cách ngăn cản Ngài và Chúa Giê-su yêu cầu các bạn hữu Ngài hãy từ bỏ chính mình để theo Ngài (8: 31-9: 1). Sau lời loan báo thứ hai, họ bày tỏ một thái độ dững dưng vô cảm đối với những lời bi thảm của Thầy mà chỉ tranh nhau về những đặc quyền đặc lợi giữa họ; lúc đó, Chúa Giê-su đòi hỏi họ phải tự hạ mình “làm người phục vụ mọi người” (9: 30-37). Sau lời loan báo thứ ba nầy, sự tương phản cũng không kém dữ dội: hai trong số họ có tham vọng riêng của mình.
Hai ông Gia-cô-bê và Gioan là những người thợ được gọi vào giờ thứ nhất: hai ông đã là đối tượng được Đức Giê-su ưu ái một cách đặc biệt: Ngài cho hai ông cùng với ông Phê-rô chứng kiến cuộc phục sinh bé gái ông Gia-ia; Ngài cho hai ông cùng với thánh Phê-rô chiêm ngưỡng cuộc Biến Hình của Ngài trên núi cao; chỉ hai ông cùng thánh Phê-rô và thánh An-rê, hỏi riêng Ngài khi nào thì Đền Thờ Giê-ru-sa-lem bị tàn phá và những điềm báo nào về thời chung cuộc (Mc 13: 3); cuối cùng, chỉ hai anh em nầy cùng với thánh Phê-rô sẽ chứng kiến cơn xao xuyến tận mức của Chúa Giê-su trong vườn Ghết-sê-ma-ni.
Chắc chắn hai người con của ông Dê-bê-đê đã được hưởng mối thân tình gần gũi với Đức Giê-su hơn các môn đệ khác; họ mong muốn được tiếp tục tình thân nầy trong Nước Chúa và chiếm những chỗ ưu tiên bên cạnh Thầy mình. Quả thật, đầy tham vọng, họ sẵn sàng chịu đựng tất cả để đạt cho bằng được những chỗ ưu tiên nầy; nhưng dù thế nào, lòng yêu mến của họ và sự ngây thơ của họ khiến chúng ta cảm động. Giả như họ biết rằng hai chỗ mà họ cầu xin sẽ là hai chỗ của hai tên cướp bị đóng đinh bên cạnh Thầy mình, liệu họ có thỉnh cầu không?
Đức Giê-su hứa với hai anh em ông Gia-cô-bê và ông Gioan, họ sẽ được dự phần vào vận mệnh đau khổ của Ngài: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu”. “Chén” để uống là hình ảnh Kinh Thánh được dùng để tượng trưng những đau khổ phải chịu (Tv 75: 9; Is 51: 17-22; vân vân). Diễn ngữ “uống cạn chén” đồng nghĩa với việc phải chịu thử thách cho đến tận cùng. Vào những giờ phút xao xuyến tận mức trong vườn Ghết-xê-ma-ni, chính Đức Giê-su sẽ nài xin Cha Ngài: “Xin cất chén nầy xa con” (14: 36).
Còn về phép rửa mà Ngài sắp chịu, đó là những giờ phút cam go, những giờ phút Ngài sắp phải bị dìm mình vào trong những cơn sóng đau khổ và cái chết bi thảm. Ngài sẽ chuẩn bị cho hai anh em những bách hại và phúc tử đạo; nhưng Ngài từ chối lời thỉnh nguyện của họ là được ngồi bên hữu bên tả của Ngài, bởi vì đó không thuộc thẩm quyền của Ngài; vai trò của Ngài thì khác: “Con Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con Người, mà được cứu độ” (Ga 3: 17). Các môn đệ chỉ có một cách hành xử phải theo: phó thác vào bàn tay của Chúa Cha.
Lời thỉnh cầu của hai anh em nhà Dê-bê-đê đã dấy lên một làn sóng tranh dành quyền cao chức trọng giữa các môn đệ, vốn đã tiềm tàng từ lâu trong lòng họ, nhưng chưa có cơ hội để bộc phát. Đức Giê-su đã hiểu rõ rằng các ông còn nghĩ đến một vương quốc trần thế mà họ tin triều đại nầy sắp đến gần. Với một sự kiên nhẫn vô tận để không gây thất vọng cho họ, Ngài lấy lại giáo huấn của Ngài về việc thay đổi tận căn những giá trị theo quan niệm trần thế. Giáo Hội của Ngài không được bắt chước những xã hội trần thế. Nếu những kẻ quyền cao chức trọng trong xã hội trần thế được hưởng những đặc quyền đặc lợi, được ăn trên ngồi trước, được kẻ hầu người hạ, thì trong Giáo Hội của Ngài “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em”.
Để làm cho rõ nghĩa lý tưởng “phục vụ” nầy, Đức Giê-su còn bổ túc thêm: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Trong bất kỳ xã hội nào, đầy tớ là hạng người thấp kém nhất và ai cũng biết người đầy tớ phải làm những gì rồi. Hơn nữa, việc phục vụ không chỉ dừng lại trong vòng anh em của mình, hay cho một tiểu số nào, mà phải trải rộng cho hết “mọi người”.
Như vậy, bài học thật sống động cụ thể, nhưng còn trở nên sống động và cụ thể hơn nữa khi được rút ra từ chính cuộc đời của Đức Giê-su: “Con Người không đến để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Những từ ngữ nầy được mượn ở nơi cuộc đời của Người Tôi Trung chịu đau khổ mà ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã phác họa trong Bài Đọc I. Chúa Giê-su sẽ trao ban mạng sống mình “làm giá cứu chuộc”, nghĩa là Ngài sẽ phải trả giá rất đắt cho tội lỗi của nhân loại, không trừ một ai hết.
“Vì Ngài trải qua thử thách”
Các bài phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa sự đau khổ trong chương trình cứu chuộc. Bốn câu thi văn của Isaia về người Tôi tớ đau khổ là chóp đỉnh của Cựu ước, là mạc khải ý nghĩa của sự đau khổ. Trước đây, người ta quan niệm sự đau khổ là hình phạt do tội lỗi. Đành rằng người phạm đến Thiên Chúa thì đáng lãnh nhận một hình phạt, nhưng rồi cả những ngươì trong trắng, các trẻ em vô tội và người công chính, các vị tử đạo cũng phải đau khổ. Người ta đi đến quan niệm rằng người công chính đau khổ có thể chuộc thay tội lỗi của người khác. Người Tôi tớ của Thiên Chúa chính là Chúa Giêsu đến, dùng sự đau khổ để cứu chuộc nhân loại.
Thánh Thư Hêbrêô gọi Chúa Giêsu là vị Thượng tế, “vì Ngài trải qua thử thách bằng đau khổ, thì Ngài có thể đáp ứng những ai chịu chử thách” (Hêb. 2,17). Ngài cũng là người anh em của chúng ta, vì Ngài cũng chia sẻ sự yếu hèn của chúng ta, khi nhận lãnh sự cám dỗ trên núi, khi lo buồn hấp hối trong vườn Cây Dầu: “Xác thịt thì yếu đuối” (Mt 26,41); “Nhưng nếu chén này không thể qua đi được mà con phải uống thì xin theo ý Cha” (c. 42). Với lời Fiat của Chúa Kitô, chúng ta có thể hiệp thông sự đau khổ của chúng ta làm giá cứu chuộc với Chúa vậy.
Phúc âm kể lại việc can thiệp của hai con của ông Giêbêđê, muốn được ngồi bên hữu và bên tả Thầy trong vinh quang. Việc đó đã gây bất bình cho các Tông đồ khác. Chúa Giêsu dùng dịp này để giải thích điều kiện làm lớn trong Nước Trời. Không có vấn đề nào lớn lao cho bằng vấn đề đau khổ. Vì sao đau khổ? Đây là câu trả lời của Chúa: Đau khổ là để phục vụ, một việc phục vụ công hiệu hơn cả. Cha Maximilien Kolbe đã hy sinh để cứu một người bạn tù khỏi chết phần xác thì Chúa Giêsu đã chết cho mọi người để họ được sống đời đời. Ngài nói: “Con người đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”. Phục vụ là cứu thoát, là dấn thân. Vì thế, trước ngày đi chịu nạn, Chúa đã quì dưới dân các Môn đệ, rửa chân cho họ và phán: “Chúng con hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu chúng con. Thầy ở giữa chúng con như một người tôi tớ”.
Như vậy, chúng ta mới hiểu vai trò của quyền bính trong Giáo Hội. Quyền bính được trao cho ai là để người đó giúp đỡ anh em có phương tiện phát triển, là để phục vụ kẻ khác chứ không phải để cho mình tiến thân. Người nắm quyền bính tối thượng trong Giáo hội là người “đầy tớ trên mọi đầy tớ”, servus servorum. Ngày này, không ai lại không biết Mẹ Têrêxa, thành Calcutta, một nữ tu Bác ái, áo trắng viền xanh, lặn lội với các chị em cùng dòng, để cứu giúp những người hấp hối nằm la liệt bên vỉa hè thành phố Calcutta, Ấn độ, để “cho họ được hưởng những giây phút hấp hối cuối đời xứng là một con người, trước khi chết”. Trước đây, có một vị Sư Phật Giáo nói với Mẹ: “Tôi biết và yêu mến Đức Kitô lắm. Nhưng tôi ghét Hội thánh của Ngài. Nếu các chị làm điều các chị nói, có lẽ chúng tôi có thể gặp gỡ Hội thánh của Đức Kitô”. Sau một năm làm việc với Mẹ, vị sư phát biểu: “Tôi đã quan sát. Bây giờ tôi thực sự tin các chị chỉ làm việc để phục vụ người nghèo và xấu số nhất. Chúng tôi sẽ dâng cho các chị một ngôi nhà trong khuôn viên Chùa chúng tôi để làm bệnh xá miễn phí”.
Phục vụ người nghèo là phương cách làm cho kẻ khác biết Chúa và thương mến Giáo hội.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Có chức quyền phải chăng là điều tốt nhất?
Dường như hầu hết mọi người đều nghĩ: giầu sang chức quyền, được người khác phục vụ, là điều đáng ao ước và làm người ta hạnh phúc! Thái độ của các tông đồ trong Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy như vậy. Gioan và Yacôbê mong ước được ngồi bên phải bên trái khi Đức Giêsu “lên ngôi”, còn các tông đồ khác tức tối khi biết Gioan và Giacôbê “chơi gác” mình. Nếu các tông đồ khác không tham muốn như hai anh em Gioan và Giacôbê, chắc các ngài không đến nỗi phải tức bực như vậy.
Đức Giêsu không cho Gioan và Giacôbê điều các ông mong muốn, vì đó không là điều tốt cho hai ông: “các anh không biết điều các anh xin”! Và Đức Giêsu đã cho hai tông đồ Gioan và Giacôbê điều tốt hơn: “Chén thày uống các anh sẽ được uống”, còn chuyện ngồi bên phải hay bên trái (không cần thiết cho hai anh) thì tùy Thiên Chúa Cha xếp đặt. Ngài sẽ xếp đặt cho ai Ngài thấy tốt nhất, tốt nhất cho người đó và tốt nhất cho cả Hội Thánh nữa.
Có nhiều điều chúng ta xin mà không được, vì điều đó không tốt cho chúng ta.
Phục vụ là hạnh phúc
Đứng trước thái độ của các tông đồ, Đức Giêsu đã gọi họ lại, dạy cho họ biết rằng người đời thì tìm được phục vụ, còn trong vương quốc của Ngài thì không như vậy: “ai muốn làm đầu thì phải làm tôi tớ phục vụ người khác”.
Cảm nghiệm hạnh phúc khi phục vụ người khác, đó là một ơn mà ngay cả các tông đồ trong thời gian đầu tiên cũng chưa cảm nghiệm được. Ước gì con người hiểu rằng chính khi mình phục vụ, chính khi mình giúp người khác hạnh phúc, thì chính mình cũng được hạnh phúc.
Yêu thì hạnh phúc hơn là được yêu. Phục vụ thì hạnh phúc hơn là được phục vụ. Ai cảm nghiệm được điều này, thì không ai tước được hạnh phúc nơi họ. Đây là một ơn mà chúng ta cần xin cho nhau.
Phục vụ theo gương Đức Giêsu
Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng làm giá chuộc con người. Ngài trở nên giống con người mọi đàng, Ngài chia sẻ những giới hạn của con người. Có thể nói: ai bị cám dỗ thử thách như thế nào thì Đức Giêsu ít nhất cũng bị cám dỗ và thử thách như vậy.
Ngài trở thành tôi tớ phục vụ con người! Tại sao Ngài phải sinh trong chuồng chiên cừu nghèo hèn như vậy? Tại sao Ngài phải lang thang rong ruổi hết nơi này nơi kia để rao giảng Tin Mừng? Tại sao Ngài phải bữa đói bữa no? Tại sao Ngài phải ngủ bờ ngủ bụi “chồn cáo có hang chim trời có tổ nhưng con người không có chỗ tựa đầu”? Tại sao Ngài phải nói sự thật để phải chết? Tại sao bây giờ Ngài vẫn tự hủy nơi bí tích Thánh Thể? Tất cả là để phục vụ con người, để con người biết sự thật về Thiên Chúa, về tình yêu Thiên Chúa đối với con người đến độ nào. Và Ngài sẵn sàng chấp nhận tất cả, miễn là con người nhận ra sự thật, được giải phóng và hạnh phúc.
Phục vụ là thái độ của người tôi tớ. Tôi tớ không ra lệnh cho chủ, không đòi chủ làm theo ý mình, không đòi chủ phải tôn trọng mình, nhưng sẵn sàng làm tất cả để thực hiện ý chủ. Người tôi tớ là người sau khi phục vụ xong, phải luôn luôn coi mình là tôi tớ vô dụng (Lc.17, 10). Ai muốn làm lớn thì phải là người phục vụ người khác. Đức Giáo Hoàng vâng theo lời Đức Giêsu, nên coi mình là “tôi tớ của các tôi tớ”. Tuy vậy, các môn đệ của Chúa phải phục vụ lẫn nhau: “Thầy đã rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga.13, 14). Không ai được đòi người khác phục vụ mình, cũng như không ai được từ chối phục vụ. Thái độ đòi người khác phục vụ mình, cũng như từ chối người khác “rửa chân” cho mình, đều là thái độ của người kiêu ngạo, không phải là thái độ của môn đệ Đức Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ của Thiên Phúc)
Một lần Ðức Hồng Y Roncalli vừa từ trên xe bước xuống. Ngài mới đi xa về. Phái đoàn tòa Giám mục ra đón. Mọi người ngạc nhiên trên vai áo Hồng Y có vương mấy cọng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng cười xoà vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện. Chiếc xe của Ðức hồng Y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vòng đồng ruộng. Giữa đường một chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc nhích. Ðức Hồng Y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.
Những cọng rơm trên vai áo Hồng Y đối với ngài chỉ cười xoà cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta một Hồng Y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.
Sau này lên ngôi Giáo hoàng, Ðức Gioan 23 vẫn tiếp tục sống nếp sống bình dị phục vụ.
Lần khác, cả giáo triều Rôma báo động: “Ðức Giáo hoàng mất tích”. Nhân viên an ninh đổ xô đi tìm. Cuối cùng người ta gặp ngài đang chuyện trò thân mật với các tù nhân trong khám đường Rôma.
****
“Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc.10,45).
Ðó là Hiến chương Nước Trời, là Hiếp Pháp Ðức Kitô đã tuyên bố cho Giáo hội. Từ đây, mỗi tín hữu Kitô phải là đầy tớ của mọi người.
Người lãnh đạo trong Giáo hội chính là “Ðầy tớ của các đầy tớ” (Sevrus Servorum). Chữ Latin “Minister” có nghĩa là đầy tớ. Vì thế, trong Giáo hội chỉ có kẻ thừa sai, người thừa tác, nữ tì, tôi tá, hay mục tử chăm lo cho đoàn chiên.
Mẹ của Giacôbê và Gioan xin Ðức Giêsu cho hai con bà được làm tể tướng trong nước của Người. Nhưng họ đã không hiểu rằng Ðức Giêsu không bước lên ngai vàng để thống trị, mà Người chỉ leo lên thập giá để hiến dâng mạng sống, để yêu thương và “yêu cho đến cùng”. (Ga.13,1).
Hôm nay, Chúa cũng mời gọi các tín hữu Kitô hãy noi gương Người: Phục vụ và hiến dâng mạng sống cho tha nhân. Trước nhất là yêu thương phục vụ những người trong gia đình: “Charity begin at home” (Bác ái bắt đầu từ gia đình), sau đó mới lan tỏa sang những người chung quanh, nhất là những người nghèo hèn, yếu đuối.
Nếu chúng ta chưa nên giống được như Cha Maximilien Kolbe xin chết thay cho bạn tù, như thánh Martino Porres bán mình làm nô lệ, hoặc như cha Damien tông đồ người hủi, thì ít là mỗi ngày chúng ta hãy âm thầm phục vụ hết mình những người thân yêu, những người Chúa giao phó trong gia đình mình, trong cộng đoàn mình.
Báo chí Pháp đăng hình của Cha Damien sau mấy chục năm phục vụ trong trại cùi, ghép cạnh hình cha hồi còn tẻ. Tấm hình gây xúc động cho biết bao con người. Khi nhìn vào tấm hình, mẹ Ngài không thể tin được con mình đã thay hình đổi dạng đến thế. Chính thái độ tận tụy phục vụ đã tiêu hao sức lực và tàn phá hình hài con người. Vì thế, chúng ta không thể phục vụ nếu không có sẵn một tấm lòng dấn thân quảng đại.
Người thành công nhất là người phục vụ cho đồng loại nhiều nhất. Albett Shweitzer đã nói: “Người hạnh phúc thật là người biết tìm cách sống thiện ích cho người khác”. Martin Luther King nói: “Chúng ta học bay như chim trên trời, học bơi như cá dưới nước, nhưng lại chưa học sống với nhau như anh em”. Ở giây phút định mệnh của mỗi con người chỉ có cường độ tình yêu và tinh thần phục vụ là có giá trị.
***
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có một chút ham mê địa vị, chức quyền. Nếu Chúa xếp đặt cho chúng con một chức vụ nào đó, xin cũng ban chúng con một ơn này, là chức vụ càng cao, chúng con càng biết khiêm tốn phục vụ anh em nhiều hơn. Amen.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Ngày 12.10.2012, để vận đông tranh cử vào Nhà Trắng, Phó Tổng Thống Joe Biden đã không ngần ngại dối trá về Sắc Lệnh của HHS: “Về vấn đề có liên quan đến Giáo Hội Công Giáo tôi xin nói tuyệt đối rõ ràng là không cơ sở tôn giáo nào, Công Giáo hay các tôn giáo khác, bao gồm các cơ sở xã hội Công Giáo, bệnh viện Geogetown, Mercy hay bất kỳ một nơi nào khác bị bắt buộc phải cung cấp phương tiện ngừa thai, phải trả tiền phá thai. Không ai phải thi hành các tiến hành ngừa thai trong chính sách bảo hiểm cho nhân viên. Đây chính là sự thật. Đây chính là sự thật.”
(Xin xem: http://www.usccb.org/news/2012/12-163.cfm)
Trong nhiều tháng qua, Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ đã phát động một chiến dịch rộng lớn chống lại Sắc Lệnh HHS vì nó xâm phạm trầm trọng đến sứ mạng Bảo Vệ Sự Sống của Giáo Hội. Theo Sắc Lệnh HHS thì các cơ sở xã hội và bệnh viện Công Giáo phải cung cấp các phương tiện ngừa thai và phá thai cho nhân viên. Chính quyền Obama không hề chùn bước khi cương quyết áp dụng Sắc Lệnh. Nhưng trước mắt để đừng mất thêm phiếu của khối cử tri Công Giáo vốn xem nhẹ việc Bảo Vệ Sự Sống, thì ông phó tổng thống cũng là một người Công Giáo cứ phát biểu sai lạc như vậy. Sau đó, nếu ông Obama được làm thêm một nhiệm kỳ nữa thì sẽ thẳng tay áp dụng.(Theo Ephata, NguyễnTrung, Một trò lường gạt của chính quyền Obama)
Như thế, để đạt được chiếc ghế thủ lãnh quốc gia người ta không chút ngượng miệng, công khai nói điều dối trá với toàn thể dân chúng Hoa kỳ.
Trong trích thuật Tin Mừng hôm nay, hai anh em ông Giacôbê và Gioan cũng mong được hai cái ghế bên tả và bên hữu Chúa Giêsu, khi Người “được vinh quang,” cùng sẵn sàng chấp nhận mọi sự khó trong tương lại.
Quyền bính từ Thiên Chúa
Khi nghe lời khẩn cầu, Chúa Giêsu hỏi lại các ông Giacôbê và Gioan: “Các ông có uống nổi chén thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Các ông đáp: “Thưa được.” Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống, phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.” (Mc 10, 38-40)
Như thế, Chúa Giêsu khẳng định quyền bính đều phát xuất từ Thiên Chúa trao ban, chứ không phải do thế lực tranh đấu, kế thừa, tài năng, hay may mắn tạo nên, như thiên hạ vẫn thường ngộ nhận.
Quyền bính để phục vụ
Nhân tiện, nói về quyền bính, Chúa Giêsu phân biệt rõ rệt hai loại quyền lực: Thế quyền và giáo quyền. Với thế quyền trong xã hội, thì dùng uy lực để cai trị dân chúng, dùng quyền hành đem lại phúc lợi cho dân, hoặc tệ hại thì đàn áp, bóc lộc dân.
Còn với giáo quyền của Hội Thánh, thì tính cách hoàn toàn trái nghịch, đó là sử dụng quyền hành để phục vụ tận tình mọi người. “Anh em biết, những người được coi là thủ lãnh các dân, thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.” (Mc 10, 43-44)
Thế quyền bao giờ cũng đi đôi với quyền bính, sức mạnh, danh lợi, vinh hoa phú quý, vinh thân phì gia. Còn giáo quyền trong Hội Thánh thì luôn kết hợp nhuần nhuyễn với bác ái, yêu thương, bất vụ lợi, hy sinh, dấn thân, chân chínhlàm người đầy tớ mọi người.
Chúa Giêsu đã làm gương sáng, quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ ngay trước bữa Tiệc Ly, rồi tiếp theo đỉnh điểm phục vụ, là cuộc Khổ Nạn vô cùng thảm khốc. Chính vì vậy, Đức Giáo Hoàng, người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo, nắm giữ một địa vị quan trọng nhất trên thế giới, thế mà ngài vẫn tự nhận cho mình là “Servus servorum,”tôi tớ của các tôi tớ. Đáng tiếc, vẫn còn những người lãnh đạo, cố tình quên đi điều rất căn bản và dị biệt này.
Tận hiến để phục vụ.
Nhân tiện, Chúa Giêsu đề cập đến sứ vụ cao quý, mà Người lãnh nhận. Đó là phục vụ nhân loại hết sức tận tình, cho đến hơi thở cuối cùng: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10, 45) Người mong mỏi người Kitô hữu thấm nhuần tinh thần phục vụ, và hiệp thông vào Ơn Cứu Độ, để được sống viên mãn.
“Lãnh đạo là phục vụ: phụng sự Thiên Chúa, phục vụ người mình điều khiển, phục vụ công ích. Lãnh đạo là nô bộc tình nguyện.” (ĐHV, 835)
Lạy Chúa Giêsu, xin ban con lòng can đảm, dũng mãnh theo chân Chúa, dù phải chịu nhiều cay đắng, ngược đãi, chống báng của thế gian, vẫn một lòng một dạ phục vụ tha nhân và Hội Thánh.
Lạy Mẹ Maria Sầu Bi, Mẹ đã đau khổ biết bao dưới chân Thánh Giá, vì Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, xin dạy cho con biết chấp nhận những thử thách cuộc đời, như phần nào được hiệp thông vào cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Amen.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Ngay mấy tháng đầu nhận chức vụ, Đức Cha Angelo Giuseppe Roncalli đã âm thầm rảo khắp nước Bảo Gia Lợi (Bulgarie). Từ Sofia Ngài đi Burgas, gần Hắc Hải rồi về Yamboli. Trong chuyến hành trình thứ hai, Ngài viếng thăm những địa điểm sát biên giới Hy lạp và Thổ Nhĩ Kỳ như Svilengrad Adrianopoli, Pakrovan, miền núi non hiểm trở, tuy phong cảnh rất ngoạn mục nhưng xa xôi và hay gặp cướp bóc. Những cuộc viếng thăm của Đức Kinh lược Tông Tòa Roncalli chẳng long trọng, tưng bừng như thường thấy, mà tựa như hành trình rao giảng gian lao của Chúa Giêsu trong Phúc âm.
Lúc đi Pakrovan vừa được nửa đường thì cảnh sát phải chận xe Ngài và cho một toán cảnh binh hộ vệ cho khỏi hiểm nghèo. Sau lúc đi được 50 cây số như thế Ngài qua đò. Bên kia sông đã có một con ngựa chực sẵn để đưa Ngài. Ngài ở lại trong một nhà xứ chật hẹp làm bằng đá, không sơn quét gì cả. Nhà tối đen và phải cần đến đường nứt ở vách soi sáng. Trong một góc nhà chỉ có hai cái giường, mà Cha xứ và Cha phó nhường cho Đức Kinh lược và vị thư ký…
Ngài lại ra đi giữa mưa gió. Lẽ ra có xe hơi đợi Ngài ở bờ sông, rủi thay tài xế sợ quân cướp, nên không đến như đã hẹn. Bây giờ chỉ còn một nước lên ngựa. Đến sườn núi Ngài gặp lính canh biên giới họ đưa Ngài về trại. Đêm ấy đồn trưởng cho Ngài một cái giường xếp, các người khác phải nằm dưới đất, hai hôm sau họ đã thuê được một chiếc xe có hai bò kéo để đưa Ngài đi. Lúc ra đi viên đồn trưởng có lòng lo lắng, yêu cầu Ngài giấu Thánh Giá, nhẫn và những tua ở mũ vì sợ quân cướp để ý. Chúa đã gìn giữ Ngài đi bằng an vô sự. Ngày hôm trước bọn cướp đánh phá xe phát thư và để lại ông tài xế nằm mê man giữa đường.
Ngài còn muốn thăm giáo dân ở Malko Ternovo vì đây là pháo đài Công Giáo của nước Bảo. Nhưng phần ở gần biên giới Thổ và Bắc Hải, phần đường sá xa xôi hiểm trở, nên mọi người khuyên Đức Cha rút lui. Nhưng không cầm lòng đậu, cùng với cha Don Stefano Kartev, Đức Kinh lược lên đường lần thứ ba. Ở đây Ngài đã làm êm dịu sự căng thẳng giữa Chính Thống và Công Giáo, Ngài vui vẻ tiếp xúc với mọi người, và để cho dân chúng tiếp đón cho thỏa lòng, họ xin hôn nhẫn, mời chụp hình, họ sắp hàng rước Ngài, trẻ con tung hô mừng Ngài. Đến đâu Đức Cha Roncalli cũng giảng. Đức Kinh lược trình bày ba ý kiến vắn tắt, cha thư ký dịch ra tiếng Bảo, tiếp theo ba ý kiến vắn tắt khác, cha thư ký lại dịch nữa, cứ thế độ nửa giờ, và thính giả chăm chú cảm động vì những lời lẽ thành thực và sự cố gắng của Đức Kinh lược.
Đến đâu Ngài cũng đánh tan ngờ vực, bầu không khí trở nên thành thực, thân mật. Tuy công việc của Ngài thầm lặng, nhưng cả nước Bảo đều chú ý. Báo “La Bulgaria” ở Sofia ngày 7-8-1925, đăng một bài tường thuật rất đầy đủ, kết luận “Dân Bảo đầy thiện cảm với Đức Kinh lược, và chúng tôi khen ngợi đức hy sinh và tính thành thực của Ngài trong công việc nặng nhọc và cao cả hằng ngày.” (Linh mục Fx Nguyễn Văn Thuận, Đức Thánh Cha Gioan XXIII)
Năm 1960, qua cuốn sách Đức Thánh Cha Gioan XXIII, Linh mục Fx Nguyễn Văn Thuận tường thuật lại thời kỳ Thánh Giáo Hoàng Gioam XXIII còn bôn ba, vất vả làm Kinh lược tại Bulgarie và Thổ Nhĩ Kỳ. Một khoảng thời gian khá dài ít được biết và nhắc đến sau này. Những hình ảnh chân thật của Đức Giám Mục Roncalli phản ảnh khá chính xác Lời Chúa hôm nay: “Ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người.“ Đức Kinh lược Roncalli đã không quản ngại khó khăn, nguy hiểm, đến thăm mục vụ, cùng tận tình phục vụ con chiên xa xôi hẻo lánh.
Nhưng đâu phải chỉ khi có chức cao quyền trọng mới phải phục vụ tha nhân, mà bất kỳ ai ở địa vị nào cũng cần phục vụ người khác. Một người cha, người mẹ, người anh, người em, con cháu, đều cần sống cho nhau, phục vụ lẫn nhau, thì gia đình đó mới yên vui tràn đầy yêu thương và hạnh phúc. Nhất là người gia trưởng cần thiết làm gương sáng phục vụ, để mọi thành viên trong gia đình noi theo. Nếu mỗi người chỉ biết sống ích kỷ, vị kỷ, bất cần quan tâm đến ai, thì tổ ấm gia đình chẳng sớm thì chày trở nên giá lạnh, dần nảy mầm nguy cơ tan vỡ, tan đàn xẻ nghé.
Yêu thương phục vụ
Phục vụ trước hết phát xuất từ con tim mới có ý nghĩa cao trọng. Nếu không chỉ là hành động đơn thuần, tẻ nhạt, tầm thường của kẻ hầu bị bó buộc phục dịch, dĩ nhiên chẳng có chút giá trị cao quý. Yêu thương phục vụ xả kỷ vị tha, hoàn toàn tự nguyện, vô tư, bất vụ lợi, chẳng màng báo đáp, cũng chẳng mảy may cầu cạnh lợi danh. Nhân ái phục vụ, cảm thương phục vụ tha nhân, vì những người nghèo nàn, đói rách, cô quả, cơ nhỡ, đau yếu chính là hiện thân cụ thể của Đức Giêsu Kitô đang chịu đau khổ. “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25, 34- 36)
Thấm nhuần Lời Chúa, Thánh Phaolô ân cần khuyên nhủ, mời gọi tín hữu vùng Galát, cũng như tất cả tín hữu Kitô ở mọi thời đại và mọi nơi:”Hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau!” (Gl 5, 13)
“Hãy yêu thương nhau không bằng lời nói, mà bằng việc làm. Hãy yêu thương nhau bằng tay mặt, mà tay trái không biết. “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con.”(Đường Hy Vọng, số 755)
Khiêm tốn phục vụ
Phục vụ không phải là trịch thượng ban phát ơn huệ, thương hại gia ân, đua nhau làm công quả, mà cần thiết âm thầm, khiêm tốn, tự hạ mình xuống ngang tầm, ngang vai, đồng cảm, chia sẻ với người được giúp đỡ, phục vụ. Kín đáo, lặng lẽ phục vụ, chia sẻ làm sao tay phải đừng cho tay trái biết, như Đức Giêsu từng dặn dò, nhắn nhủ rất thấu đáo.
Khiêm nhường, chân tình, thân mật, chan chứa yêu thương phục vụ, noi gương Đức Giêsu đích thân lấy khăn thắt vào lưng, đổ nước vào chậu, rửa chân cho từng môn đệ, lấy khăn thắt lưng mà lau. Chẳng thể nào có ai khiêm hạ phục vụ hơn thế nữa!“Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13, 13-15)
Hân hoan phục vụ
Đức Kinh lược Roancalli luôn lạc quan, hân hoan, vui vẻ đi thăm mục vụ các địa phận trong nước Bảo Gia Lợi và Thổ Nhĩ Kỳ, mặc dù ngài gặp biết bao gian truân, hiểm nguy thách thức trên đường. Hẳn ngài đã rất đồng cảm với các Tông Đồ bước đầu đi rao giảng: “Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu.” (Cv 2, 41)
Thánh Phaolô đã không quên khuyên nhủ các tín hữu Kitô luôn trung thành, nhiệt thành và vui vẻ phục vụ trong bất kỳ công việc nào được trao phó: “Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy bảo, thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân phát, thì phải chân thành. Ai chủ tọa, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái, thì hãy vui vẻ.” (Rm 12, 7-8)
“Nếu con làm vì Chúa, tại sao con nản lòng? Càng gian truân con càng vui tươi, như Gioan và Phêrô bị đánh đập ở hội đường “ra về vui vẻ vì được xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa”, như Phaolô: “Tôi tràn đầy vui tươi giữa những thử thách của tôi.” (Đường Hy Vọng, số 536)
Hy vọng phục vụ
Dấn thân phục vụ không chút ngần ngại, nửa vời với niềm hy vọng sâu xa là phục vụ chính Chúa Giêsu hiện diện ngay trong những người khốn khổ, đói rách, nghèo nàn, tàn tật, cô đơn,..
Chức vị càng cao càng cần hăng say phục vụ, vì có nhiều khả năng, phương tiện và nhân sự hỗ trợ, nếu dám xả kỷ vị tha, nếu dám hy sinh và dâng hiến cuộc đời cho Chúa và tha nhân.“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.”(Ga 12, 25-26)
Chớ gì từng Kitô hữu đều thấm nhuần lời tuyên bố lẫy lừng của Đức Giêsu, để làm kim chỉ nam cho cuộc đời: “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và trao mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người.”
Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường mê muội cái bả danh lợi, quyền hành, chức tước, địa vị, không thua kém hai ông con Dêbêđê. Xin Chúa soi sáng và ban chúng con can đảm tránh xa và dứt khoát đoạn tuyệt với thói ăn trên ngồi trốc, để chúng con dám xả thân phục vụ Tin Mừng, cũng như tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ luôn yêu thương, khiêm nhường, gần gũi với những người khốn khó nghèo nàn, như các mục đồng, đến đôi tân hôn khó khăn, để ân cần chia sẻ và giúp đỡ. Xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ, luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Có chức có quyền là điều nhiều người mong ước, vì người có chức có quyền thường thống trị người khác và bắt người khác phục vụ mình; tuy nhiên theo Đức Giêsu, người lớn nhất phải là người phục vụ người khác, phải là người “nô lệ” người khác.
Tiền của địa vị, giầu sang chức quyền, là những điều người đời vẫn tìm kiếm. Người có tiền của, có thể dùng tiền của để mua gần như được tất cả; người có chức quyền được người khác phục vụ, vì những người này có thể cho người ta điều họ mong muốn. Có những người có chức có quyền được hối lộ để họ cho người ta được quyền này quyền nọ, phép này phép kia, hầu những người này có thể làm được nhiều tiền hơn. Người có chức quyền thường được người ta trọng vọng, ăn trên ngồi trước. Có lẽ đó là những lý do nhiều người thích có chức vị quyền hành.
Các tông đồ khi theo Đức Giêsu cũng còn có tham vọng tương tự. Họ có ao ước lớn muốn giải phóng Israel khỏi ách thống trị của người Roma, nhưng cũng ao ước có chức có quyền. Điều này được thấy khi hai anh em Giacôbê và Gioan xin cho được ngồi bên tả bên hữu thầy khi thầy được vinh quang. Các tông đồ khác tức giận khi biết hai ông xin điều đó; sở dĩ vậy vì các ông cũng ao ước cùng một điều. Gioan và Giacôbê quá khôn nên muốn “qua mặt” các ông.
Đức Giêsu sẵn sàng cho hai môn đệ thân yêu được chia sẻ chén đắng và phép rửa của Ngài, nhưng còn việc ngồi bên tả bên hữu thì lại không thuộc quyền Ngài. Cái nhìn của Đức Giêsu về quyền hành chức vị khác người đời quan niệm rất nhiều. Với người đời, những người có chức có quyền được người khác phục vụ; còn đối với Đức Giêsu và cả những người theo Đức Giêsu, những người muốn làm lớn nhất giữa anh em mình, thì phải làm người phục vụ anh em, phải là tôi tớ anh em, phải là người “tùy thuộc” anh em để mưu lợi ích cho anh em mình.
Quyền hành đối với những người theo Đức Giêsu, không được dùng để trục lợi riêng cho mình như người đời thường làm, nhưng phải dùng để xây dựng, để làm tốt cho cộng đoàn. Với những thẩm quyền trong Giáo Hội, chẳng hạn như các cha xứ hoặc nơi những bề trên của các hội dòng, quyền bính là để phục vụ những thành viên trong giáo xứ hoặc cộng đoàn. Ai dùng quyền hành để bắt người khác phục vụ mình, là không sống theo lời dạy của Đức Giêsu, là không sống theo Đức Giêsu, và không là môn đệ đích thực của Ngài.
Trong Giáo Hội, có nhiều giáo xứ mà các tín hữu trong giáo xứ không phục tùng cha xứ, cũng có tu sĩ không phục tùng bề trên vì cho rằng bề trên không cai quản như người đại diện Thiên Chúa mà xử sự theo ý riêng của mình. Một người sống theo Đức Giêsu có lẽ cũng không buộc người khác phải vâng phục mình. Con người chỉ phải vâng phục Thiên Chúa thôi, và chỉ không vâng phục Thiên Chúa mới là tội thôi, còn con người với nhau, mình có khá gì hơn người khác mà đòi người ta tùng phục mình! Thiên Chúa đâu phải của riêng ai. Thiên Chúa đâu có thiên tư tây vị. Đâu phải chỉ mình có Thánh Thần còn người khác không có Thánh Thần! Đâu phải chỉ có những người có địa vị hoặc chức thánh mới có Thánh Thần! Đâu phải các tín hữu không có Thánh Thần! Kéo Thánh Thần về mình và “không cho” Thánh Thần hiện diện với người khác, là tội “ngăn cản” Thiên Chúa (mà đâu có ngăn cản được Thiên Chúa!).
“Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga.20, 23). Quyền này được ban để tha tội; còn nếu người đó không có tội thì quyền này đâu được ban để buộc tội người ta. “Ai nghe các con, là nghe Ta” (), nhưng điều này đâu có nghĩa: ai không nghe các con là không nghe Ta. Khi những người có trách nhiệm ở trên tòa giảng dạy dỗ nhân danh Thiên Chúa, thì phải vâng phục họ, nhưng đừng bắt chước việc họ làm (Mt.23, 2-3). Tuy nhiên, nếu có một vị nào đã không dùng quyền hành để phục vụ dân Chúa, thì cũng không vì vậy mà phải liên minh chống lại họ. Hơn nữa, có chắc là họ dùng quyền hành để phục vụ họ không? Sao mình dám làm quan tòa mà phán xét họ. Thiên Chúa là Đấng thông biết tất cả, biết cả những gì kín ẩn, sẽ là Đấng phán xét chí công. Còn con người, có chắc gì những điều tôi biết về người đó là đúng, có chắc gì những gì tôi biết về người đó không nằm trong một “âm mưu” của một con người nào đó?
III. Phục vụ giúp người ta triển nở và hạnh phúc
Có lẽ những ai bận tâm về quyền hành nhiều, cũng là người thích quyền hành. Phải chăng nên là đừng bận tâm về quyền hành, hoặc nên tự do với quyền hành? Hãy phục vụ theo gương Đức Giêsu, phục vụ những con người cụ thể, làm tất cả những gì mình có thể làm được. Ai muốn có quyền để phục vụ, cứ để họ dùng quyền mà phục vụ. Những người không có quyền, cứ phục vụ như những người không có quyền. Cứ vâng phục lẽ phải, sẵn sàng vâng phục tất cả mọi người, cứ coi mình như nhỏ bé nhất để phục vụ, như vậy là theo gương Đức Giêsu. Bận tâm về những điều thuộc quyền bính làm gì! Đòi hỏi người khác phải làm điều này điều kia để làm gì! Tại sao họ lại phải làm theo ý tôi? Đâu phải chỉ những điều tôi cho là đúng mới là đúng!
Quyền hành không quan trọng bằng phục vụ. Nếu chọn giữa chức quyền địa vị và việc phục vụ, thiết tưởng tôi sẽ chọn việc phục vụ, vì phục vụ làm mình lại gần con người, làm mình có “trọng lượng thật” hơn, làm mình có công phúc hơn, làm mình triển nở và hạnh phúc hơn. Quyền hành địa vị so với việc phục vụ, là như tiếng thanh la vang dội, như phù vân giả tạo, như hình bóng so với cái thực. “Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và làm giá cứu chuộc nhiều người”.
Tạ ơn Đức Giêsu, Ngài đã dạy con đường hạnh phúc đích thực cho con người. Phục vụ, là điều làm cho con người triển nở và hạnh phúc. Không có con đường nào tuyệt vời hơn con đường Đức Giêsu đã đi. Đức Giêsu đã tự hủy để phục vụ, để dạy con người bước đi theo Ngài; và một khi theo Ngài, con người sẽ tìm được bình an, triển nở, và hạnh phúc đích thực.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin mừng Mt 28: 16-20: “Đừng bao giờ nghĩ rằng các con không có gì để cho, hoặc nghĩ rằng không ai cần các con. Mỗi người trong các con hãy tự nhủ trong lòng: nhiều người cần tôi”.
Suy niệm
Hôm nay, Giáo hội cử hành Khánh nhật Truyền giáo. Một số người không thích dùng từ truyền giáo, vì nghe có vẻ tuyên truyền, quảng bá, áp đặt. Dùng từ truyền giáo thì rất khó đối thoại với người thuộc các tôn giáo khác hoặc lương dân, vì người ta thường quan niệm tất cả các tôn giáo đều tốt như nhau, đều dạy con người ăn ngay ở lành, tạo phước tránh nghiệp. Đồng ý rằng có nhiều người Công Giáo sống tốt và noi gương cho người lương dân, nhưng cũng không thiếu người ngoại sống tốt hơn một số Kitô hữu. Thế nhưng, vì sao Giáo hội Công giáo dành Chúa nhật tuần trước Chúa nhật cuối tháng Mười để cử hành Khánh nhật truyền giáo?
“Khánh nhật” là một từ Hán Việt, mang ý nghĩa mở ra một ngày trọng đại để nhắc nhớ một sự kiện. Khánh nhật Truyền giáo là ngày Giáo hội mời gọi tín hữu trên toàn thế giới một cách đặc biệt cầu nguyện và góp phần vào công cuộc loan báo Tin Mừng theo lệnh truyền của Chúa Giêsu.
Tin Mừng theo thánh Matthêu hôm nay mở ra cho chúng ta về lệnh truyền của Chúa Giêsu dành cho các tông đồ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Đây cũng là lệnh truyền trực tiếp của Chúa Giêsu mời gọi mọi người nam nữ, già trẻ không riêng gì một ai. Nếu như chỉ đi lễ, đọc kinh, cầu nguyện, tuân giữ các Giới Răn của Chúa thì chúng ta mới giữ đạo cho khỏi mai một. Để sống đạo cách tích cực, chúng ta cần ý thức trở nên chứng nhân cho Chúa Kitô. Đây là bổn phận của mọi Kitô hữu, những ai đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm Sức đều có quyền loan báo Tin Mừng. Chính điều này làm nên bản chất của người Kitô hữu.
Trong Sứ điệp nhân Khánh nhật Truyền Giáo 2018, Đức Thánh cha Phanxicô mời gọi Kitô hữu suy tư về sự kiện này: “Bản thân mỗi người có một sứ mạng trên trần gian này; đó là lý do tại sao tôi có mặt ở đây, trong thế giới này” (Evangelli Gaudium, số 273). Vâng, tâm điểm sứ mạng của Hội thánh là loan truyền đức tin, diễn ra nhờ sự lan tỏa của tình yêu, ở đó với “niềm vui” và “sự phấn khởi”, chúng ta công bố về những ơn lành mình đã được Thiên Chúa trao ban cách nhưng không, nghĩa là cho miễn phí mà không tính toán đang diễn ra hàng ngày. Mà hồng ân lớn lao nhất đó là Chúa Giêsu Kitô đã chết và sống lại vì chúng ta. Vì thế, tự đáy lòng mình, chúng ta nợ Thiên Chúa.
“Nợ tiền nếu trả thì vơi, nợ tình nếu trả ai ơi càng đầy”
Chúng ta nợ Thiên Chúa tình yêu. Nhưng không thể đặt giới hạn cho tình yêu, vì tình yêu còn mạnh như sự chết (x. Diễm Ca 8,6). Cho nên việc loan truyền đức tin “bằng sức lôi cuốn” đòi hỏi phải có những tâm hồn được mở rộng bởi tình yêu. Và sự lan tỏa tình yêu ấy phát sinh sự gặp gỡ, làm chứng.
Người Kitô hữu luôn tôn trọng tự do tôn giáo của người khác, vì tôn giáo là quyền căn bản của con người đã được Công đồng Vaticanô II nhìn nhận. Nhưng Kitô hữu cũng thực thi sứ vụ truyền giáo là việc rao giảng Tin Mừng từ chính điều mình cảm nhận được là một Tin Mừng thật sự, từ hồng ân đức tin mình đã nhận lãnh, được cảm hóa. Kitô hữu sẵn sàng trao gởi món quà quý giá mà mình trân trọng đến cho những người mình yêu thương nhất. Còn gì hạnh phúc hơn khi nhìn thấy người mình yêu thương cũng đón nhận cách trân trọng món quà mình trao tặng. Cho nên, khi người mình yêu thương cũng tin và bước theo một cách tự do, thì sự chia sẻ ấy sẽ trở nên niềm hạnh phúc được vỡ òa.
Thế nên, Chúa luôn mời gọi chúng ta trở nên môn đệ Chúa để thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng, hãy trao món quà đức tin vào Chúa cho anh chị em mình. Và vì là món quà, nên Chúa không đòi hỏi nơi người môn đệ khả năng, bằng cấp, học vấn, địa vị… và chúng ta không phải ái ngại rằng mình không thể đóng góp phần mình. Chúa chỉ cần người có lòng nhiệt huyết thực thi sứ vụ tông đồ.
Chúng ta đang sống trong thời công nghệ 4.0 giúp cho việc truyền thông được dễ dàng. Nhờ các mạng xã hội rộng khắp khiến khoảng cách và dị biệt dần được thu hẹp và thế giới trở nên thế giới phẳng. Đó là một cơ hội thuận tiện để chúng ta mạnh dạn diễn đạt niềm hạnh phúc từ hồng ân đức tin của mình, cũng như chia sẻ đức tin ấy cho anh chị em. Chỉ khi chúng ta dám đặt câu hỏi: “Nếu Đức Kitô ở trong hoàn cảnh của tôi, Người sẽ làm gì?”, chúng ta sẽ biết phải làm thế nào. Vị cha chung của chúng ta trong buổi gặp gỡ giới trẻ tại điện Maipu, Chilê ngày 17/1/2018 đã khích lệ: “Đừng bao giờ nghĩ rằng các con không có gì để cho, hoặc nghĩ rằng không ai cần các con. Mỗi người trong các con hãy tự nhủ trong lòng: nhiều người cần tôi”.
ƯỚC MƠ THIÊN ĐÀNG HAY CHIÊM NGẮM ĐỨC KITÔ THẬP GIÁ!
“Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”; thiết tưởng theo tư duy tự nhiên, thì lời khẩn cầu của hai anh em nhà Dê-bê-dê rất chính đáng. Phải chăng rất nhiều người chúng ta cũng đã từng có những ước muốn ‘chính đáng’ tương tự; chúng ta đã chẳng mơ ước được một chỗ cao sang trên thiên đàng, được giầu công nghiệp trước mặt Chúa, được phần thưởng trọng hậu là gì? Các môn đệ khác, chứ không cứ gì hai anh em, cũng đã không ít lần bàn cãi về chuyện đó, xem: “ai sẽ là người lớn nhất trong nước trời”. Trước thao thức của các ông, hình như Đức Giêsu muốn nhắc nhở rằng: công nghiệp hay chỗ cao trên thiên đàng là việc dành riêng cho Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”, môn đệ chân chính không nên quan tâm tới. Nếu hiểu đúng ý Đức Giêsu, thì điều duy nhất cần quan tâm trong việc sống Tin Mừng sẽ chỉ là theo sát Đức Kitô Thập Giá, và theo cho tới cùng, là “Uống chén thầy sắp uống, chịu phép rửa thầy sắp chịu”.
Trước hết, Kitô hữu chúng ta cần biết rõ: ‘chén của Thầy, phép rửa của Thầy’ là gì; trên đường tiến về Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh báo các môn đệ về cuộc thương khó và phục sinh sắp xảy ra (xem Mc 10:32-34), tuy nhiên bài học này lúc đó hình như các ông không kham nổi, đơn giản là vì các ông không thể hình dung nó sẽ ra sao? Kitô hữu chúng ta ngày nay thì không lạ lẫm gì về diễn biến Thập Giá, khi Đức Giêsu (Lời Thiên Chúa) tự hiến để phục vụ lợi ích thiết thực của con người nhân loại tội lỗi. Thập Giá là bằng chứng thuyết phục rằng: Người đến không phải để luận phạt theo lẽ công bình, mà để hiến mình cứu độ, qua đó chỉ cho mọi người thấy một Chúa Cha vô cùng nhân ái; chính vì vậy mà, trước cuộc thương khó, Người đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, một biểu tượng của hạ mình phục vụ để thanh tẩy và tha thứ (xem Ga 13). Qua hành động này, Đức Giêsu chắc hẳn không nhằm dạy các môn đệ mình một ‘chiến thuật’ để chinh phục và cai trị thiên hạ, như Lão tử – nhà hiền triết Trung Hoa đã từng vịnh rằng: “Sông, biển để làm gì, để cai trị trăm ngàn thung lũng? Nó đặt mình nằm dưới tất cả và vì thế nó cai trị hàng trăm thung lũng. Nếu thánh hiền muốn làm đầu dân tộc hãy học nói năng cho khiêm tốn. Nếu muốn lãnh đạo dân hãy đặt mình vào chỗ rốt hết”; Những lời khôn ngoan thật đấy, nhưng đâu phải là Tin Mừng!
Môn đệ là những người ‘theo Đức Kitô’, vì thế họ có thể tự hào: “Thầy coi, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo thầy” (Mc 10:28). Nhưng họ cũng cần hiểu rằng: từ bỏ là để đi con đường Thầy đi, và đó là con đường phục vụ, phục vụ tới độ tự hủy, tới độ hiến cả mạng sống mình; “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Điều khó chấp nhận nhất chính là: sự vĩ đại của Thiên Chúa mà lại đồng hóa với việc cúi xuống phục vụ người thấp hèn. Thầy Giêsu đã làm gương và dạy môn đệ làm theo: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”.Phải mất một thời gian dài nữa, các ông mới hiểu được điều này; phải đợi tới khi được Thấn Khí tác động, các ông mới dứt khoát “trở nên mọi sự cho hết mọi người…”
Kitô hữu chúng ta cũng vậy thôi! Quyết định theo Chúa đấy, nhưng bài học quên mình phục vụ thì mãi vẫn chưa thuộc. Lý do là vì, chúng ta mơ ước quá nhiều về thiên đàng, còn chiêm ngắm Thập Giá thì lại quá ít. Duy nhất Thầy Giêsu mới là đường, là chân lý, và là sự sống! Do đó thiên đàng không phải là cùng đích, nhất là cái thứ thiên đàng mà ta vẫn thường vẽ ra trong đầu. Nếu Thiên Chúa là Đấng nhân ái và xót thương, thì thiên đàng phải là nơi chan hòa nhân ái; bên hữu hay bên tả của Thiên Chúa nhân ái trên thiên đàng đó sẽ chỉ dành cho những ai có lòng thương xót mà thôi; “Phúc thay những ai xót thương, vì họ sẽ đươc Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7).
Nếu vậy, lạy Cha nhân ái, xin cho con được ngồi bên hữu Cha; không phải vì con đạo đức thánh thiện hơn người, nhưng chỉ vì con nhận biết Cha hằng xót thương những con người yếu hèn, nên sẽ yếu mến sự hèn kém của con. Đặc biệt, thể theo lời mời gọi của Cha, con sẽ quyết tâm chia sẻ lòng thương xót đó cho mọi người, đặc biệt cho các tội nhân thấp kém. Amen.
Ước muốn làm lớn hay ước muốn được trở nên cao trọng luôn được ấp ủ trong nơi sâu kín của tâm hồn mỗi người chúng ta. Ai lại chẳng muốn làm lớn? Ai lại chẳng muốn trở nên cao trọng? Điều này là một thực tại phù hợp với bản tính con người, vì chúng ta là thụ tạo “linh ư vạn vật”, được Thiên Chúa cao cả yêu thương tạo dựng theo giống hình ảnh của chính Người mà!
Điểm đáng lưu ý ở đây là điều gì làm cho chúng ta trở nên cao trọng thực sự? Đây chính là một trong những chủ đề được nhận thấy trong Phụng Vụ hôm nay.
Trong đời sống xã hội, người ta thường quan niệm việc làm lớn hay trở nên cao trọng luôn gắn liền với quyền bính, chức tước, danh vọng. Như vậy, làm lớn đồng nghĩa với việc được phục vụ, được ca tụng, được ngưỡng mộ. Biết bao người đã xử dụng mọi thời giờ, vận dụng mọi tài sức, chấp nhận mọi hy sinh và lắm khi không từ nan mọi thủ đoạn đê hèn để thực hiện ước muốn đạt được danh vọng, chức tước, quyền bính trong nhiều lãnh vực khác nhau: chính trị, kinh tế, văn nghệ, thể thao…và cả tôn giáo nữa!
Các môn đệ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu vì vốn nghĩ Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, Đấng Kitô, Đấng Thiên Sai và Đấng Thiên Sai đầy quyền bính trong lời nói và hành động. Như thế, chắc hẳn sẽ có ngày Người đạt tới một thứ vinh quang cao trọng nào đó, như Thánh Vương Đavít năm xưa chẳng hạn. Và chắc chắn họ sẽ được chia sẻ vinh quang với Người. Như để nắm chắc được phần thưởng tương lai, hai anh em con Ông Giêbêđê trong Tin Mừng hôm nay đã mạnh dạn đến bày tỏ với Chúa Giêsu ước muốn thầm kín xưa nay của họ: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy” (Mc10:37). Chúa Giêsu không trách mắng các ông vì sự mê muội của các ông, nhưng Người nhẹ nhàng hướng các ông về mầu nhiệm Thập Giá khi nói các ông: “Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10: 38).
Vốn có cùng ước muốn làm lớn theo lối thế gian như hai anh em con Ông Giêbêđê, mười môn đệ còn lại trong Nhóm Mười Hai nghe chuyện đó liền bực tức với hai ông. Chúa Giêsu nhân cơ hội này đã dạy các ông một bài học để đời, một bài học về con đường vương giả dẫn đến vinh quang đích thực, giúp người ta đạt được ước muốn làm lớn thực, trở nên cao trọng thực.
Đó là con đường Thánh Giá, con đường yêu thương được thể hiện qua tinh thần khiêm nhường phục vụ, xả kỷ vị tha. Đó là con đường mà chính Chúa Giêsu đã khai mở và bước đi đến cùng để cứu độ nhân loại, để trở thành Vua lòng mọi người, để trở thành gương mẫu tuyệt hảo cho mọi người bước theo. Người nói: “Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10:42-45).
Hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu-Đấng Mêsia-được ngôn sứ Isaia đã diễn tả như Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa nơi bài đọc một: “Chúa đã muốn hành hạ Người trong đau khổ. Nếu Người hiến thân làm lễ vật đền tội, Người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ Người, ý định của Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của Người, Người sẽ thấy và sẽ được thỏa mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hóa nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ” (Is 53:10-11).
Tác giả Thư Gửi Tín Hữu Do Thái trong bài đọc hai cũng nhắc lại việc Đấng Cứu Thế đã vì yêu thương loài người mà gánh lấy mọi đau khổ thử thách để cứu chuộc chúng ta. Chính vì thế mà Người đã trở thành Vị Thượng Tế đem lại ơn cứu độ cho chúng ta: “Vì chưng, không phải chúng ta có vị Thượng Tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi” (Dt 4:15).
Theo cùng một tinh thần ấy, tác giả sách Gương Chúa Giêsu nhận ra rằng Thiên Chúa chính là Đấng phụng sự con người hơn là Đấng để cho người ta phụng sự khi viết: “Mọi của con có, mọi cái con dùng để phụng thờ Chúa thảy đều là của Chúa! Mà xét lại, chính Chúa đã phụng sự con nhiều hơn là con phụng sự Chúa. Kìa, trời và đất Chúa đã tạo nên để mưu ích cho người đời; chúng sẵn sàng luôn và ngày ngày thi thành mệnh lệnh Chúa. Hơn nữa, Chúa đã tổ chức nên sứ bộ thiên thần cũng vì nhân loại. Nhưng cái trỗi vượt hơn cả chính là Chúa đã tự hạ để phụng sự người đời, và Chúa đã tự đoan sẽ ban cả mình Chúa cho người đời nữa” (Q. III, Ch. #10).
Bàn về sự cao trọng của con người, Mẹ Terêsa Calcutta nói: “Bạn được dựng nên cho những điều cao cả hơn: để yêu và được yêu”. Và Mẹ luôn tâm niệm: “Hoa trái của yêu thương là phục vụ” và “Yêu thương là trao ban đến đớn đau”. Đó là lý do khiến Mẹ từ giả đời sống êm đềm của một nữ tu dạy học để tìm đến phục vụ những người cùng khổ bị bỏ rơi trên những khu ổ chuột ở Calcutta và lập nên Dòng Thừa Sai Bác Ai. Đó cũng là lý do khiến Thánh Đamien đang là một linh mục Dòng Thánh Tâm tráng kiện tình nguyện đến sống và phục vụ những người phong cùi ở đảo Molokai, và chia sẻ cả bệnh phong cùi với họ, chết giữa họ. Đó cũng là lý do biết bao tín hữu Chúa Kitô tiếp tục dấn thân âm thầm phục vụ tha nhân đến hy sinh chính mình, trong mọi môi trường trong mọi nơi mọi thời mà chỉ có Chúa mới có thể thẩm định đúng mức sự cao cả của tình yêu trong trái tim họ.
Trong tác phẩm Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy vọng, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận kể về chứng từ của cô Sophie Berdanska. Vì túng nghèo, cô phải đi làm thuê cho một gia đình Do Thái tên là Merston. Công việc của cô là chăm sóc mấy đứa con của ông chủ. Biết Sophie là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là cô “không được giảng đạo” cho con cái ông. Tối hôm ấy, Sophie lấy một miếng giấy nhỏ ghi ít chữ vào đó rồi bỏ vào huy chương ba cô trối lại và đeo vào cổ. Các con ông chủ nhiều lần đòi coi huy chương ấy, nhưng cô không cho. Nhờ sự chăm sóc tận tâm của Sophie, các con ông Merston càng ngày càng ngoan ngoãn giỏi giang. Ít năm sau, các con ông lần lượt đau nặng. Cô Sophie tận tình lo lắng phục vụ lũ trẻ, và chúng lần lượt được bình phục. Nhưng vì quá tận tâm lo cho chúng, Sophie kiệt sức và qua đời. Ít lâu sau, ông Merston tình cờ mở chiếc huy chương nàng để lại và đọc được hàng chữ trong mảnh giấy trong đó: “Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo trước mặt họ như một chứng tích hùng hồn”. Chợt hiểu ra tất cả và cảm phục Sophie, cả gia đình Merston sau đó đã xin theo đạo! Sophie là người đã hiểu và bước theo con đường vương giả của Chúa Giêsu, đường yêu thương phục vụ, đường xả kỷ vị tha!
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ của tình yêu mỹ diệu. Xin Mẹ dạy con biết trung thành và vui tiến trên con đường vương giả của Chúa Giêsu, đường yêu thương phục vụ, đường xả kỷ vị tha, để đạt được vinh quang đích thực là được nên giống Chúa Giêsu, nên một với Người, và cảm hóa mọi người thiết tha yêu mến Chúa và Mẹ. Amen.
Khi bước vào trong nhà thờ Công giáo, chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh đau thương của Chúa Giêsu Kitô chết treo trên Thánh giá nơi cung thánh. Thân mình Chúa trần trụi, đầu đội mạo gai, hai chân hai tay bị đóng đinh vào thánh giá, cạnh sườn bị đâm thủng, mình mẩy dính đầy máu và chết trong tư thế gục đầu xuống. Cái chết của Chúa thật bi thương. Những người tin vào Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế đã kính thờ bái lạy và ghi dấu thánh giá trên mình. Chúa đã hiến thân mình làm hy tế để giao hòa nhân loại với Chúa Cha. Của lễ hiến tế là chính thân xác của Chúa Giêsu. Chúa Kitô đã chết trên Thánh giá và đã sống lại vinh hiển đang ngự bên hữu Chúa Cha. Nhiều người không biết và không tin vào Chúa Kitô, họ không thể hiểu tại sao người Công giáo lại tôn thờ một Đấng, bị xem như là tội nhân của đế quốc Rôma đã phải xử tội tử hình.
Tiên tri Isaia đã tiên báo về Đấng sẽ đến, người tôi tớ trung tín và công chính sẽ chịu khổ hình để gánh tội: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53,11). Làm người ai cũng muốn sống an vui và hạnh phúc, chẳng mấy ai muốn đời mình bị đau khổ. Thực ra, chỉ có đau khổ mới hoá giải được khổ đau. Nếu chúng ta không gặp đau khổ, chúng ta không biết thế nào là vui sướng hạnh phúc. Nếu chúng ta không có đau đớn bệnh hoạn, chúng ta không biết mình đang an khang khoẻ mạnh. Người tôi tớ công chính đã lãnh chịu mọi thống khổ ở đời để biến đổi nó thành hoa trái tốt lành của ơn cứu độ.
Người Tôi Trung của Tiên tri Isaia là hình ảnh của Đấng Được Xức Dầu, Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã chấp nhận thân phận con người yếu đuối, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chọn con đường thánh giá để giao hoà. Thư gửi tín hữu Dothái đã viết: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 14,15). Con đường Chúa đi là con đường ngược chiều, có nhiều đau thương và chông gai. Thư Dothái gọi Ngài là Thượng Tế để gắn kết với hy tế mà chính Ngài đã hiến dâng. Hy lễ đền tội cho nhân loại hiến dâng lên Thiên Chúa Cha một lần là đủ.
Câu truyện trong bài Phúc Âm rất tuyệt vời. Thánh Marcô rằng hai anh em ông Giacôbê và Gioan đến gần Chúa và thưa: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy”. Sự khẩn cầu của hai ông cũng giống như sự cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Mở lời cầu xin, nếu nhận được ơn ngay, thì dễ dàng quá. Ai cũng có thể cầu xin được. Chúa Giêsu vạch rõ con đường mà mỗi Kitô hữu phải đi qua: Đức Giêsu nói: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”(Mc 10,38). Không trải qua đắng cay thử thách, chúng ta không thể đạt được triều thiên vinh quang. Chúa Giêsu đã thẳng thắn trả lời cho hai ông và các Tông đồ về cách sống đạo. Muốn được hưởng vinh quang, các ngài phải uống chén đắng mà Chúa sắp uống. Có nghĩa là phải sống, phải tu luyện, phải phấn đấu trường kỳ và phải chịu mọi thử thách gian nan trong niềm tin.
Ngày nay, có những phong trào đưa dẫn nhiều người đi qua con đường tắt. Họ mở ra cho thấy hào quang thánh thiện hiện diện ngay trong đời sống mà không cần phải trải qua tu luyện và thử thách. Cứ đến mà xin, xin gì được nấy. Không phải tốn phí tiền bạc, thuốc thang, thời gian trị liệu hay phải hy sinh từ bỏ điều gì. Kiểu hành đạo quá nhẹ nhàng, dễ dãi và thoải mái, ai mà không mến chuộng. Có nhiều người quan niệm rằng chúng ta cứ tụ nhóm đọc kinh cầu nguyện và xin ơn chữa lành, Chúa sẽ ban cho tất cả. Trong khi đó chúng ta chối từ chén đắng của sự hy sinh, từ bỏ, sám hối, tránh tội, kiêng cữ và hãm mình. Chúng ta chỉ muốn thực hành đạo tại chỗ nơi hội họp và xin đừng nhắc đến đời sống riêng tư lầm lỗi. 2.000 năm trước, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh các Tông đồ về hành trình theo Chúa. Các ngài phải qua thánh giá và đau khổ để bước vào vinh quang.
Chúa Giêsu rất hài lòng với câu trả lời của hai ông: Các ông đáp: “Thưa được”. Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu”(Mc 10,39). Chúa Giêsu đã uống chén đắng qua tất cả những khổ đau mà Ngài phải chịu. Chúa bị người đời ruồng bỏ, chống đối, tẩy chay, khinh dể, nhạo báng, đánh đập, xô đẩy, khạc nhổ, la hét, phản bội, chối từ, đóng đinh và chết trên thập giá. Chúa chấp nhận tất cả như người tôi tớ trung tín để cảm thông mọi nỗi cơ cực của con người. Hai Tông đồ Gioan và Giacôbê đã đi trọn con đường theo Chúa. Tông đồ Giacobê là người đầu tiên trong mười hai tông đồ đã đổ máu đào làm nhân chứng cho Chúa Giêsu đã chết và sống lại. Thánh Gioan đã một đời rao giảng về tình yêu của Chúa và tín trung cho đến giây phút cuối cùng.
Tin vào Chúa là bước theo con đường Chúa đã đi. Chúng ta không thể đi theo con đường tắt để đạt vinh quang. Con đường vắn gọn, thư thái nhẹ nhàng chỉ là bánh vẽ và ảo tưởng. Muốn hành đạo tốt, chúng ta phải bước xuống: “Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em”(Mc 10,43). Sống đạo phải khởi đi từ trái tim yêu thương. Chúa Giêsu đã trải nghiệm kiếp người trong khiêm hạ phục vụ. Chúa là Thầy và là Chúa đã quỳ xuống, lấy nước rửa và lau chân cho các môn đệ. Chúa đã không loại trừ một ai, cho dù Chúa biết có những đôi bàn chân không xứng đáng. Chúa đã hạ mình xuống tận cùng để lãnh nhận công việc của người tôi tớ. Từ đáy vực thẳm thấp hèn, Chúa đã nâng con người lên làm bạn hữu và được đồng thừa tự vinh quang trong Nước Chúa.
“Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”(Mc 10,44). Lấy tinh thần phục vụ để làm thước đo giá trị đời mình. Phục vụ trên môi miệng thì rất dễ dàng nhưng phục vụ qua hành động mới mang giá trị. Đôi khi thực hành một việc rất nhỏ nhưng có giá trị lớn. Tự hỏi: Ai là người tôi tớ phục vụ trong mái ấm đời sống gia đình? Phải chăng là người mẹ. Mẹ không than van hay quản ngại việc gì, dù bề bộn khó khăn, bẩn thỉu và dơ dáy. Hằng ngày mẹ lau chùi nhà vệ sinh, quét dọn nhà cửa, rửa ráy từng cái ly, cái chén mà chồng con đã vô ý chất chồng trong bồn rửa. Có khi người bố và các con nghĩ rằng đã có người làm việc trong nhà, nên cứ việc bừa bãi. Người mẹ cứ phải nai lưng chịu đựng (after you). Trong đời sống chung, chúng ta đừng quá ỷ lại vào người khác. Mỗi người có thể góp phần phục vụ lẫn nhau, có đi có lại mới toại lòng nhau.
Chúa Giêsu mở con đường phục vụ trong khiêm hạ: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”(Mc 10,45). Một lời mời gọi phục vụ chân tình đối với tất cả các phẩm trật trong Giáo Hội. Đặc biệt trong các giờ phụng vụ thánh lễ và các nghi lễ, linh mục và các thừa tác viên có những trách nhiệm và bổn phận riêng phải chu toàn. Chúng ta hãy ý thức tôn trọng lẫn nhau, đừng dẫm chân lên nhau, đừng lớn tiếng phàn nàn, đừng tỏ thái độ cau có và xúc phạm danh dự của nhau. Chúng ta cùng đến để phục vụ cộng đoàn, chứ không phải được phục vụ.
Lạy Chúa, con đường Chúa đã đi xưa là con đường khổ giá, khiêm tốn và phục vụ, xin cho chúng con biết dõi theo lối gót của Chúa để cùng xả thân hy sinh phục vụ tha nhân.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Ai đi sáng tinh sương cũng có kinh nghiệm đi trong sương. Cái mát lạnh buổi tinh sương làm con người tỉnh ngủ. Cảnh vật tươi mát, đầy sức sống mang lại niềm hy vọng ngày mới phá tan màn đêm. Ánh bình minh chan hoà sự sáng mang lại nhựa sống cho thảo vật, sinh vật. Sương sáng mang tươi mát, sự sống, niềm hy vọng nhưng sương sáng thường che đường, mờ lối người đi khiến không nhìn thấu suốt và cản trở tầm nhìn xa.
Đi đường mờ sương có nguy cơ sa hố. Sa hố ít nhiều gì cũng cản trở việc tiến tới, hay ít ra tinh thần hăng hái lúc đầu bị chùn lại, không còn mạnh chân tiến bước như lúc mới ra đi. Hơn nữa đường dài tiêu hao sinh lực nên người đi thường hoặc mong cho chóng đến nơi, hoặc mong được dừng chân lấy sức. Trường hợp của anh em Giacôbê và Gioan không mong sớm đến nơi mà mong tột đỉnh danh vọng. Không phải thích thú được ngồi bên phải, bên trái Thầy mà thích được liệt vào hàng ăn trên, ngồi trước. Đây không phải là ước mơ của riêng hai ông mà là ước mơ của các môn đệ theo Thầy. Nhìn thái độ ganh tị, không hài lòng của mười ông khác để biết rõ các ông không hài lòng. Rõ ràng điều các ông mong ước, dù nói ra hay thầm kín trong lòng đều bị một làn sương mù bao phủ khiến các ông không nhìn rõ điều các ông mong.
Có quá nhiều làn sương mù che phủ trong việc theo Thầy.
Thứ nhất các ông tin là Thầy sẽ lập vương quốc trần gian, giải thoát dân tộc khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Xin ngồi bên phải, bên trái lãnh tụ là xin ghế lãnh đạo.
Thứ hai các ông không dự đoán phản ứng của các môn đệ khác khi các ông xin được ngồi ghế lãnh đạo.
Thứ ba các ông không hiểu về chén Thầy sẽ uống và phép rửa Thầy sẽ chịu vì thế các ông mạnh dạn thưa có.
Thứ tư các ông lờ mờ trong việc làm chứng nhân cho Thầy chính là phục vụ chứ không phải để được phục vụ.
Thứ năm các ông muốn lãnh đạo theo kiểu dân ngoại để hưởng tài lộc và danh tiếng.
Thứ sáu các ông cũng không hiểu giá cứu chuộc Thầy nhắc đến là gì. Bao nhiêu, nhiều ít và trả cho ai?
Điều chúng ta biết rõ là phục vụ đòi rộng lượng và hi sinh. Thiếu rộng lượng và hi sinh thì không thể phục vụ. Giá mà Đức Kitô nói đến không phải là trả cho Chúa Cha, cũng không phải là trả cho ma quỉ, cũng không phải trả cho chính mình cũng không phải trả cho nhân loại. Giá đó chính là giá của yêu mến chân thành, phục vụ thiết tha. Tình yêu chân chính luôn kèm theo hi sinh. Trong khi bản chất thật của hi sinh là từ bỏ. Từ bỏ có thể là từ bỏ thời gian hay ý riêng. Từ bỏ lợi danh hay tư lợi. Từ bỏ thiệt thòi và đau khổ là từ bỏ í riêng. Từ bỏ khó nhất, đau nhất và cao cả nhất là từ bỏ chính mình. Đức Kitô đã chọn từ bỏ cao cả nhất và cũng là giá cao nhất, cao đến độ không còn giá nào cao hơn nên đôi khi người ta nói đến hi sinh của Ngài là hi sinh vô giá. Nghĩa là không còn giá nào có thể vượt qua, thắng nổi giá đó nên trở thành vô giá. Ngài tự nguyện hi sinh để mang lại sự sống cho muôn người. Hi sinh đó được các tiên tri tiên đoán và loan báo nhiều ngàn năm trước.
Người phải bị nghiền nát vì đau khổ, nếu Người hiến thân làm lễ vật đền tội.
Vì nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính. Is 53,10.
Nhờ cái chết và sự phục sinh của Người đánh tan làn sương mù mà các tông đồ sau này trở thành những tôi trung không ngại đau khổ.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Phục vụ là giúp đỡ người khác, có thể đó là việc phải làm theo bổn phận, theo trách nhiệm, hoặc có thể là việc muốn làm vì tự nguyện. Tinh thần phục vụ làm cho chúng ta nên cao quí, vì phục vụ là dâng hiến chính con người bé nhỏ của chúng ta cho Thiên Chúa, Đấng tối cao tuyệt đối.
Hàng ngày, các công ty, các cửa hàng, các quán ăn hoặc giải khát,… luôn có những đợt tuyển nhân viên phục vụ. Công việc của người phục vụ rất bình thường, đôi khi bị coi làm tầm thường, nhưng thực ra lại rất cần thiết. Có thể nói rằng không có họ thì các sinh hoạt xã hội khó tồn tại. Không có các công nhân thì giám đốc chỉ bó tay, và xã hội sẽ không có sản phẩm để tiêu thụ. Cách phân biệt “cao – thấp” là do quan niệm của những người thiển cận, nông cạn – cũng là một dạng “thiểu não” đấy. Chỉ có người xấu chứ không có nghề xấu, cũng không có nghề nào hơn nghề nào. Tiền nhân nói: “Nhất sĩ, nhì nông; hết gạo chạy rông… nhất nông, nhì sĩ”. Ảnh hưởng “” là do quan niệm xưa: Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh. Kẻ sĩ được coi là “dân ngon”. Nhưng hết gạo ăn thì “ngon” cái nỗi gì? Ai hơn ai đây?
Ai cũng phục vụ lẫn nhau, dù là trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc bằng cách nào đó. Đừng tưởng tôi tớ mới phải phục vụ chủ nhân, mà chính chủ nhân cũng phải phục vụ tôi tớ bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có nhân viên mới phải phục vụ giám đốc, mà chính giám đốc cũng phải phục vụ nhân viên bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có đệ tử mới phải phục vụ sư phụ, mà chính sư phụ cũng phải phục vụ đệ tử bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có giáo dân mới phải phục vụ linh mục quản xứ, mà chính linh mục cũng phải phục vụ giáo dân bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có bề dưới mới phải phục vụ bề trên, mà chính bề trên cũng phải phục vụ bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có người nhỏ mới phải phục vụ người lớn, mà chính người lớn cũng phải phục vụ người nhỏ bằng cách nào đó;… Rất nhiều mối quan hệ trong xã hội, mọi mối quan hệ đều liên đới với nhau. Vợ chồng đối với nhau, cha mẹ và con cái đối với nhau, anh chị em đối với nhau, bạn bè đối với nhau,… nói chung là con người đối với con người. Chúa Giêsu đã có quy luật sống: “Ai làm đầu phải hầu thiên hạ” (x. Mt 20:25-28; Mc 10:40-45).
Sau khi được Chúa Giêsu chữa khỏi chứng sốt nặng, nhạc mẫu của ông Phêrô liền chỗi dậy phục vụ Người (x. Mc 1:29-31; Lc 4:38-39). Và rồi chính Chúa Giêsu đã minh định: “Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22:27). Quả thật, ngay tại Bữa Tiệc Ly, trước khi Chúa Giêsu bị bắt, chính Ngài đã đích thân hạ mình bằng cách quỳ xuống mà rửa chân cho các môn đệ, Ngài muốn làm gương và dạy chúng ta về tầm quan trọng của sự phục vụ (x. Ga 13:3-20).
Chuyện phục vụ cũng liên quan thái độ “chảnh”. Người ta thường thích “sai” người ta làm cái này, việc nọ, và cứ tưởng thế là oai lắm. Ảo tưởng quá, dại dột quá, vì đi ngược lại đường lối của Chúa mà lại dám “hãnh diện”, thế mới chết chứ! Phục vụ là việc bình thường mà lại nhiêu khê. Phục vụ là dấn thân, cũng rất cần phải khiêm nhường mới có thể phục vụ. Không dễ chút nào!
Phục vụ còn liên quan nịnh bợ, tâng bốc, ranh mãnh. Cứ thấy “ông to, bà lớn” thì họ tìm mọi cách để “đưa đón” và “đẩy đưa”, đãi bôi, tâng bốc,… cốt để tỏ ra mình “oai”, tìm mọi cách “nịnh trên, đạp dưới”. Thật ra họ chỉ là “cáo mượn oai hổ”, chứng tỏ đầu óc kém cỏi, ngu dốt với cái đầu rỗng tuếch. Họ tự thú với người khác rằng “ông ơi, tôi ở bụi này”, ngu dại mà cứ tưởng mình giỏi giang. Kinh khủng thật! Tục ngữ Đức có câu nói thú vị: “Người ta bắt thỏ rừng bằng chó săn, bắt đàn bà bằng bạc tiền, và bắt kẻ ngu si bằng lời khen dối trá”.
Ngôn sứ Isaia cho biết: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu“” (Is 53:10). Nghe chừng rất lạ, vì có vẻ rất… “ngược đời”, bình dân gọi là “trái khoáy”. Thế nhưng như vậy mà lại không phải như thế. Nghịch mà thuận, gọi là nghịch-lý-thuận.
Lý do vừa mặc nhiên vừa minh nhiên: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:11). Ai chân thành theo Chúa sẽ được tha thứ tội lỗi, được “trắng án” và được công chính hóa – tức là được “giải án, tuyên công”, vì chính Thiên Chúa “bù lỗ” cho họ. Thật hạnh phúc biết bao!
Thiên Chúa công minh và chính trực. Ngài giàu lòng thương xót (Ep 2:4), nhưng Ngài lại thẳng thắn, không thiên vị bất cứ ai (1 Pr 1:17; Gl 2:6; Cv 10:34). Mọi lời Ngài nói đều nên trọn: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:4-5).
Thiên Chúa nhất định là Đấng chân thật, còn mọi người đều giả dối (Rm 3:4). Thiên Chúa tốt lành tuyệt đối, Ngài “không thể bị cám dỗ làm điều xấu và chính Ngài cũng không cám dỗ ai” (Gc 1:13). Tác giả Thánh Vịnh đã minh chứng: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn. Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì” (Tv 33:18-20).
Thiên Chúa là Tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), là lòng thương xót, là lòng trắc ẩn. Chúng ta có biết yêu thương thì cũng là nhờ Ngài, bắt nguồn từ Nguồn Yêu Thương của Ngài. Thiếu tình yêu, chắc chắn con người sẽ chết sớm. Vì thế, chúng ta phải biết không ngừng cầu xin Ngài: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22).
Yêu thương là phục vụ, không yêu thương thì người ta không muốn phục vụ – dù có thể họ vẫn biết cách phục vụ. Nhưng để có thể phục vụ, người ta phải biết yêu thương; để có thể yêu thương, người ta phải biết lắng nghe nhau, đặc biệt là lắng nghe Thiên Chúa. Ước gì mọi người đều biết sẵn sàng và mau mắn như cậu Samuel ngày xưa: “Lạy Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:9).
Chúa Giêsu là vị Thượng Tế biết cảm thương, luôn chạnh lòng thương xót người khác, luôn động lòng trắc ẩn trước những con người khốn khổ. Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin” (Dt 4:14). Tuyên tín là điều cần thiết, nhưng lại không đơn giản, vì đơn giản như việc làm Dấu Thánh Giá mà nhiều người vẫn “e ngại”, nhất là khi có người khác tôn giáo hoặc ở nơi công cộng. Họ lý luận bằng cách phát âm là “làm dấu” nhưng thực ra là “làm giấu” đó mà!
Thánh Phaolô nói rõ ràng, dùng phủ định cách để làm nổi bật sự xác định: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Không đến với Lòng Chúa Thương Xót không chỉ là dại dột mà phải nói là ngu xuẩn. Tuy nhiên, nếu ảo tưởng thì chúng ta chỉ “lợi dụng” Lòng Chúa Thương Xót mà thôi. TIN mình được Chúa thương thì không là kiêu ngạo, nhưng TƯỞNG mình được Chúa thương thì lại là kiêu ngạo!
Kiêu ngạo là ảo tưởng. Vì ảo tưởng mà không yêu thương – mà yêu thương thì rất thực tế, vì cần hành động cụ thể. Do đó, không yêu thương thì không thể phục vụ. Phục vụ đối lập với quyền hành, địa vị, chức tước, vì người có chức quyền không muốn phục vụ, chỉ muốn “chỉ dạy” và muốn được phục vụ. Tại sao chúng ta khó phục vụ? Bởi vì chúng ta ích kỷ, ỷ lại, ngại khó, sợ hèn, quen “chảnh”. Thánh nữ Têrêsa Avila (1515-1582), Tiến sĩ Thần bí, nhận xét: “Chúng ta quá tự ái, quá vận dụng tài trí trần gian để khoe khoang mình, đó là sự dối trá to lớn và ngông cuồng, các thánh nhân không như thế”.
Chuyện phục vụ có “dính líu” tới chức quyền. Trình thuật Mc 10:35-45 là câu chuyện đầy kịch tính về vấn đề này, hầu như lúc nào cũng là vấn đề “thời sự nóng”.
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và “lấy lòng” Ngài bằng cách rào trước đón sau: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Ngài hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”. Họ không ngần ngại vào thẳng vấn đề: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”.
Đức Giêsu trách mắng họ và Ngài cũng nói thẳng: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”. Họ có vẻ “vô tư” khi trả lời Ngài: “Thưa được”. Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”. Nghe lời này, có lẽ họ cảm thấy… “ngại” lắm đấy. Và đó cũng là “tâm trạng” của chúng ta ngày nay!
Sau khi nghe hai anh em nhà Dêbêđê nói vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Bản tính ghen tỵ trong con người luôn muốn trỗi dậy, sẵn sàng vùng lên bất cứ lúc nào, nhất là khi cảm thấy mình “lép vế” hơn người khác. Ghen tỵ vì tự ái. Tính ghen tỵ có ở mọi nơi và trong mọi người. Tính ghen tỵ dễ thấy trong các cộng động – cả xã hội và tôn giáo. Trong các giáo xứ, đoàn thể, cộng đoàn tu trì, nhóm từ thiện, thậm chí ngay trong gia đình, chúng ta vẫn thấy có tính ghen tỵ – với các mức độ khác nhau. Con gà còn tức nhau vì tiếng gáy kia mà! Tự ái và ghen tỵ là “chướng ngại vật” khiến chúng ta khó “từ bỏ mình” theo ý của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu biết các đệ tử đang hậm hực với nhau vì muốn tranh giành quyền hành, Ngài gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Rõ ràng quá, không có gì khó hiểu, nói ngắn gọn là “ai muốn làm đầu phải hầu người khác”.
Tại sao lại “ngược đời” vậy chứ? Chúa Giêsu đã minh chứng cụ thể: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45). Chúng ta không thể viện cớ với bất cứ lý do gì để tự biện hộ nữa. Thật vậy, cứ “xem quả thì biết cây” (Mt 12:33; Lc 6:44).
Trong dịp viếng thăm đất nước Hoa Kỳ (cuối tháng 9-2015), ĐGH Phanxicô đã vấp bậc cầu thang và lảo đảo khi lên máy bay (*). Trong lúc đó, gió còn thổi khăn choàng vai phủ lên đầu, và không có ai đi kế bên ngài. Khi ngài lên tới cửa máy bay, có người muốn xách cặp giùm nhưng ngài từ chối. Gương khiêm nhường và phục vụ rốt rõ nét. Đúng như Chúa Giêsu đã nói: “Con Người đến KHÔNG phải để ĐƯỢC người ta phục vụ, nhưng là để PHỤC VỤ và HIẾN DÂNG mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Khi ăn uống, ĐGH Phanxicô hòa mình vào với mọi người, thân thiện và gần gũi, không thích ngồi “chỗ danh dự”, không muốn đi ăn với người sang trọng mà thích đi ăn với người vô gia cư.
Còn chúng ta, nhất là những “người lớn”? Thực tế, có nhiều người chưa “lớn” đã chảnh lắm! Trả lời với Chúa Giêsu thế nào đây? Ai “dám” noi gương ĐGH Phanxicô? Có lẽ người ta gãi đầu, ậm ừ, lần lữa, và… hậu xét!
Hôm nay, ngay bây giờ, và hơn bao giờ hết, có lẽ chúng ta phải suy tư nhiều và cố gắng chân thành cầu nguyện theo gương Thánh Phanxicô Assisi: “Lạy Chúa, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”. Lời cầu này mệnh danh là Kinh Hòa Bình vì đậm chất phục vụ theo Ý Chúa – phụng sự Chúa TRONG mọi người. Quả thật, đúng như lời Chúa Giêsu đã xác định khi “phân loại” Chiên và Dê: “Mỗi lần các ngươi LÀM [giúp đỡ] cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã LÀM cho chính Ta, mỗi lần các ngươi KHÔNG LÀM [giúp đỡ] cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta là các ngươi đã KHÔNG LÀM cho chính Ta” (x. Mt 25:31-46).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết nhận diện chính mình để đủ sức triệt hạ “cái tôi” trong con. Hạt-bụi-con không đáng gì mà đã làm bận mắt Ngài, con chỉ là kẻ vô dụng vì bất tài, nhưng vì Tôn Danh Ngài, xin biến con thành khí cụ bình an và yêu thương, để bất cứ ai gặp con cũng gặp được Ngài, và xin cho con cũng gặp Ngài nơi những người con gặp. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Không ai muốn “chạm trán” đau khổ, nghĩa là ai cũng tìm mọi cách và bằng mọi giá để tránh đau khổ, thế nhưng hầu như ngày nào chúng ta cũng phải đối mặt với đau khổ, dù ít hay nhiều, với các dạng và mức độ khác nhau.
Chính Chúa Giêsu đã từng tỏ cho các môn đệ biết rõ rằng “Ngài phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16:21). Một câu ngắn mà có tới 2 từ PHẢI và 1 từ BỊ, cả hai đều ở thể thụ động. Não lòng quá! Đau khổ có hệ lụy gần gũi với nước mắt, loại nước đặc biệt mang vị mặn đặc trưng.
Thế nhưng đau khổ như một phần tất yếu của cuộc sống, như “phần cứng” được cài đặt mặc định trong mỗi con người. Một đứa trẻ chưa hề nếm mùi đau khổ, thế mà vừa sinh ra đã bật tiếng khóc để chào đời. Vui sao lại khóc? Đứa trẻ nào không khóc là có vấn đề, cha mẹ lo sốt vó. Như vậy, mặc nhiên người ta đã chấp nhận sự đau khổ là phần tất yếu. Đúng vậy, Chúa Giêsu đã xác định: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34).
ĐAU KHỔ CÓ VỊ ĐẮNG HAY NGỌT?
Bài đọc I hôm nay là một phần của bài thứ tư trong số các Bài Ca Người Tôi Trung: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu” (Is 53:10). “Bị nghiền nát vì đau khổ” là để “được trường tồn”. Ngược đời quá! Với con người, như thế thật là chua chát, cay đắng, có thể không còn nước mắt để khóc nữa. Người Tôi Trung đó chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia giải thích: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:11).
Đau khổ nào cũng cay đắng, đắng đến tê lòng, nhưng đau khổ vẫn có vị ngọt bùi kỳ lạ. Trong thực tế cuộc sống, khi chịu đau khổ vì tình yêu, có người gọi nỗi đau khổ đó là “thú đau thương”, là “nỗi đau dịu êm”. Vậy đó, đau thương mà vẫn thú vị, đau khổ mà vẫn dịu êm. Còn nước mắt lại được ví von là “giọt nước mắt ngà”. Thế mới lạ, thế mới cao thượng. Người đời con khả dĩ nhận thức như vậy huống chi những người tin nhận Đức Kitô là Thiên Chúa! Ai có thể cảm nhận được như vậy chính là người ta đã vượt lên trên nỗi đau khổ. Chắc chắn không ai có thể tránh đau khổ, nhưng muốn tránh đau khổ thì chỉ còn cách đi xuyên qua đau khổ. Đó là cách độc đáo để tự “vượt qua số phận”.
Người can đảm chấp nhận đau khổ mà không than thân trách phận, không so đo với những người may mắn khác, chắc hẳn người đó phải có chiều sâu tâm linh, sống trong niềm phó thác nơi Thiên Chúa quan phòng. Thật vậy, tác giả Thánh vịnh bày tỏ: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin” (Tv 33:4). Nói được như vậy là biết rõ Chúa là người thế nào: “Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:9). Chúng ta không thể nào hiểu hết tình yêu Chúa, cũng không thể cân-đo-đong-đếm Lòng Chúa Thương Xót, vì tình yêu thương ấy hoặc lòng trắc ẩn ấy vẫn triền miên hết ngày dài lại đêm thâu, suốt từ thuở hồng hoang trải dài từ đời nọ tới đời kia (x. Lc 1:50).
Tác giả Thánh vịnh tiếp tục minh định: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Tv 33:18-20). Ngay cả khi chúng ta quên Ngài mà Ngài vẫn luôn nhớ đến chúng ta, thậm chí cả khi chúng ta hoàn toàn đối nghịch với Ngài mà Ngài vẫn miệt mài tìm chúng ta để đưa về hưởng an bình nơi “đồng cỏ xanh rì bên suối ngọt lành” [x. Tv 22 (23)]. Vô tri bất mộ. Nhưng đã nếm thử Chúa ngọt ngào thế nào rồi thì không thể giữ riêng cho mình, mà tự lòng mình sẽ thôi thúc chia sẻ với người khác về Chúa: “Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Ngài luôn che chở phù trì” (Tv 33:20), đồng thời tin tưởng và vui mừng cầu nguyện liên lỉ: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22).
Và tới lúc này thì sự đau khổ không còn vị đắng nữa mà lại hóa vị ngọt ngào và êm dịu. Nghĩa là người ta có thể cảm nhận sâu sắc thế nào là “thú đau thương”, là “nỗi đau dịu êm” hoặc “giọt nước mắt ngà”.
Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin” (Dt 4:14). Niềm tin luôn quan trọng trong cuộc sống đời thường, đức tin càng quan trọng gấp bội trong đời sống Kitô hữu, nhất là chúng ta đang sống trong Năm Đức Tin (*), đồng thời còn phải lưu ý việc tân Phúc Âm hóa.
Thánh Phaolô vừa giải thích vừa khuyến khích: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina: “Lòng Thương Xót của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của cả nhân loại”. Quả thật, nếu Lòng Chúa Thương Xót không lớn lao hơn mọi thứ xấu xa tồi tệ nhất trên đời này thì chúng ta chết ngay lập tức. Tại sao? Không khí là bằng chứng sống động về Lòng Chúa Thương Xót: Nếu không khí loãng hơn một chút hoặc đậm đặc hơn một chút, chúng ta đủ chết ngắc rồi chứ đừng nói chi đến thiếu không khí. Đơn giản về không khí thôi thì chúng ta cũng phải không ngừng tạ ơn Chúa rồi, đừng nói chi đến những thứ khác!
ĐAU KHỔ CÓ ĐÁNG MƠ ƯỚC?
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây” (Mc 10:35). Rào trước đón sau, thậm chí như “ra điều kiện” với Chúa vậy. Và chúng ta cũng thường xuyên có cách cầu nguyện như vậy. Chúa Giêsu hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” (Mc 10:36). Các ông thưa ngay, không hề ngại ngùng: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10:37). Rất thẳng thắn, rất thực tế, rất rõ ràng. Đây là cách cầu nguyện vị kỷ và tìm tư lợi. Hai con trai ông Dêbêđê chắc mẩm Sư phụ mình rất “ngon”, nổi tiếng như cồn, quyền phép vô song, uy tín vô cùng, chắc chắn Sư phụ sẽ lên ngôi báu trị vì thiên hạ, làm cận thần của Thầy mình thì còn gì oai hơn chứ? Trên cả tuyệt vời! Nếu là chúng ta, có thể chúng ta không muốn làm cận thần như họ, vì như vậy vẫn “bèo” lắm, mà có thể chúng ta muốn làm phó nguyên soái hoặc thủ tướng, chí ít cũng phải xin làm bộ trưởng.
Tuy nhiên, Đức Giêsu bảo ngay: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10:38). Chén này không phải là chén mật hoặc chén sữa, cũng chẳng phải là chén cà-phê, càng không phải là chén mật ngọt, mà là chén mật đắng; phép rửa này không rửa bằng nước mà rửa bằng máu tươi. Có lẽ các ông không hiểu ý Chúa nên mạnh dạn đáp: “Thưa được” (Mc 10:39a). Quá ngon!
Đức Giêsu thản nhiên: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được” (Mc 10:39b-40). Vế thứ hai trong câu nói của Chúa Giêsu thật đáng lưu ý. Nghe Thầy trò họ đối thoại, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với anh em Giacôbê và Gioan. Đó cũng chính là động thái của chúng ta ngày nay, cũng ghen ăn tức ở chứ chẳng hơn gì ai!
Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết rằng những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em;ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10:42-44). Và Ngài dẫn chứng: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45).
Vấn đề phục vụ là chuyện rất tế nhị, dễ “chạm” vào “phần mềm nhạy cảm” của bất kỳ ai – dù đời hay đạo. Nhưng Lời Chúa quá rõ ràng, không bóng gió, không “nói khéo”, không tránh né. Tuy nhiên, trong sinh hoạt thường nhật, cái mà người ta nói là phục vụ người khác nhưng thực chất có thể lại chỉ là cung cách “phục vụ có điều kiện”.
Phục vụ cũng liên quan đau khổ. Hầu như mọi thứ đều liên đới với nhau, nối kết như mạng nhện vậy, nối kết không trực tiếp thì gián tiếp. Trên một tấm bảng đồng, người ta khắc những dòng chữ này:
Lạy Chúa, con cầu xin được Mạnh Mẽ để thành đạt trong cuộc đời, Chúa lại làm cho con ra yếu đuối để biết vâng lời và khiêm hạ.
Con cầu xin có Sức Khỏe để mong thực hiện những công trình lớn lao, Chúa lại cho con chịu tàn tật để chỉ làm những việc nhỏ tốt lành.
Con cầu xin được Giàu Sang để sống sung sướng thoải mái, Chúa lại cho con nghèo nàn để học biết thế nào là khôn ngoan.
Con cầu xin có Uy Quyền để mọi người phải kính nể ca ngợi, Chúa lại cho con sự thấp hèn để con biết cần Chúa.
Con cầu xin cho Có Tất Cả để tận hưởng cuộc đời, Chúa lại cho con cả cuộc đời để tận hưởng mọi sự.
Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn. Nhưng những điều con đáng phải mơ ước mà con không hề biết cầu xin, thế mà Chúa vẫn ban cho con thật dư đầy từ lâu.
Lạy Chúa, hóa ra con lại là người hơn hết trên đời này, bởi con đã nhận được vô vàn ân phúc của Chúa.Toàn những thứ trái ngược nhau. Tuy nhiên, chúng ta khả dĩ nhận thấy rằng đau khổ không là điều đáng nguyền rủa, mà ngược lại, đau khổ là điều đáng mơ ước: Thánh giá Chúa trao – như người ta thường nói với người gặp đau khổ. Vui chịu đau khổ là sống đức tin, là bước qua cửa hẹp (Mt 7:13-14; Lc 13:24), là vác thập giá theo Chúa (Mt 10:38; Lc 14:27), là từ bỏ mình (Mt 10:39; Lc 14:33).
Năm Đức Tin đã khởi đầu, nhắc nhở chúng ta phải nghiêm túc xem lại đức tin của chính mình: “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10:32-33).
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin ban cho chúng con lòng can đảm và khôn ngoan để chúng con tuyên xưng Danh Chúa mọi nơi và mọi lúc, đồng thời biết dùng ánh mắt đức tin để nhân biết Thánh Ý Ngài trong từng nỗi đau khổ của cuộc đời. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
————-
(*) ĐGH Biển Đức XVI đã ban hành Tông thư Porta Fidei (Cổng Đức Tin) hồi tháng 10-2011, nói về việc mở Năm Đức Tin để kỷ niệm 50 năm Công đồng Vatican II (Chân phước GH Gioan XXIII) và 20 năm xuất bản sách Giáo lý Công giáo (Chân phước GH Gioan Phaolô II). Năm Đức Tin đã chính thức khai mạc tại Rôma ngày 11-10-2012, và sẽ kết thúc ngày 24-11-2013 (lễ Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ). Chủ đề của Năm Đức Tin là Tân Phúc Âm hóa.
Giáo hội Công giáo Việt Nam chính thức khai mạc Năm Đức Tin ngày 18-10-2012 tại GP Thanh Hóa, nơi diễn ra Hội nghị thường niên các Giám mục Việt Nam, và các giáo xứ khai mạc Năm Đức Tin ngày 21-10-2012, Chúa nhật Khánh nhật Truyền giáo.
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng)
Như chúng ta đã biết, vào thời điểm hiện nay tại Hoa Kỳ, người dân của cường quốc này đang chú ý đến cuộc bầu cử tổng thống. Để lấy điểm dân chúng, các chiến dịch vận động tranh cử được các ứng cử tổ chức rầm rộ và quy mô, nhiều điều hứa hẹn được nêu ra qua các cuộc tranh luận…Tuy nhiên nói và làm là hai điều khác nhau. Đôi khi người ta không thực hiện được lời hứa. Có muôn ngàn lý do được nêu ra để thanh minh, nào là những khó khăn khách quan, nào là những hoàn cảnh ngoại cảnh tác động. Điều đáng nói ở đây vẫn là sự thiếu tinh thần trách nhiệm và thiếu tâm. Người ta vẫn nói rằng khoảng cách xa nhất vẫn là từ miệng lưỡi đến trái tim.
Nhân lời đề nghị của hai anh em trai Giacôbê và Gioan nhà Zêbêđê về chỗ ngồi trong nước vinh quang, Đức Giêsu đã cho các môn đệ của mình bài học về tinh thần trách nhiệm phục vụ trong bất kể chỗ đứng nào của mình: “Ai muốn làm lớn thì trở nên người phục vụ. Ai muốn làm đầu thì hầu tất cả mọi người” (Mc10, 43-44).
Đức Giêsu đã thực sự sống điều này trước khi nói ra cho các môn đệ mình. Hành động của Người luôn luôn phù hợp với những gì Người chỉ dạy. Nơi Người không hề có khoảng cách giữa lời nói và thực hành, “vì chưng Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” (Mc10, 45). Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài đã tự hạ mình xuống tận đáy của nhân loại để chia sẻ kiếp phàm nhân với chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, nhằm nâng chúng ta lên địa vị làm con cái yêu dấu của Thiên Chúa.
Với Lời Chúa hôm nay, chúng ta được mời gọi đặt trọng tâm đến ý nghĩa của sự phục vụ hơn là tìm cho mình một chỗ đứng. Đó là điều căn bản để tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Đây cũng là cách thức nhìn nhận sự việc bằng con tim để tránh đi cái nhìn phiến diện bề ngoài.
Mỗi người đều có một chỗ đứng khác nhau để cùng xây dựng một kế hoạch chung trong tổng thể của việc cộng tác vào công trình sáng tạo. Tất cả công sức riêng của mỗi cá thể đều góp vào phần vào thành quả tốt đẹp chung. Cha Mẹ yêu thương con cái và làm hết bổn phận của mình để chúng được lớn lên về mọi phương diện. Người vợ và người mẹ được mời gọi trao hiến đời mình để phục vụ chồng và con. Cũng vậy, người chồng cần dấn thân để trở nên chỗ dựa cho vợ và con mình. Về phần mình, bậc làm con cần phải tôn trọng và vâng phục cha mẹ. Trong gia đình, mỗi thành viên thấy được chỗ đứng của mình để phục vụ người khác. Đó chính là bí quyết của hạnh phúc gia đình.
Trong khi suy niệm Lời Chúa của Chúa Nhật tuần 29 này, chúng ta nhớ đến thánh Phanxicô Khó Khăn, người đã muốn trở nên giống Đức Giêsu và sống sát với tinh thần Tin Mừng của Người. Chúng ta cũng được mời gọi trở nên sứ giả của tình thương và hòa bình:
“Lạy Chúa từ nhân
Xin cho con biết mến yêu
Và phụng sự Chúa trong mọi người
Lạy Chúa xin hãy dùng con
Như khí cụ bình an của Chúa
Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù
Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục
Ðem an hòa vào nơi tranh chấp
Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm
Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan
Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng
Ðể con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm
Ðem niềm vui đến chốn u sầu
Lạy Chúa xin hãy dậy con
Tìm an ủi người hơn được người ủi an
Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh
Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân
Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời
Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con
Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí
Ơn an bình”.
Cách đây vài tuần, chúng ta đã nghe Chúa tiên báo lần thứ hai về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải qua; và qua lần tiên báo ấy, Ngài cũng đã hứa với các môn đệ là Ngài sẽ cho họ được ngồi trên ngai để xét xử mười hai chi tộc Israen; và các ông vẫn cứ đinh ninh rằng Chúa sẽ làm vua thống trị và họ sẽ được một chức vụ nào đó, nên dọc đường, các ông đã tranh cãi với nhau xem ai là người lớn hơn cả.
Trên đường lên Giêrusalem lần này, hai con ông Giêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Chúa và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Ngài hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”.
Việc hai anh em con ông Giêbêđê xin được ngồi bên tả bên hữu Chúa, một lần nữa, lại gây ghen tức giữa các môn đệ, lại tranh giành địa vị xã hội vào ngày mà họ nghĩ Thầy sẽ lập vương quốc ở trần thế!
Đúng như lời Thầy khiển trách: ““Các anh không biết các anh xin gì!”
Gián tiếp Chúa cũng cho các ông biết: anh em lấy tư cách gì để xin ngồi bên tả, bên hữu Thiên Chúa! Ngồi bên tả hay bên hữu là việc Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được; “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”
Đây cũng là lần tiên báo thứ ba về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải chịu.
Hai ông dám công khai xin cho được ngồi bên hữu, bên tả Chúa kể ra cũng là một lời xin lộ liễu trước mặt các môn đệ khác, và tuy chẳng hiểu chén mà Thầy sắp uống, phép rửa mà Thầy sắp chịu là gì, nhưng hai ông vẫn quả quyết: “Thưa được”.
Có lẽ lúc bấy giờ hai ông “Thưa được” là để cho qua chuyện, nhưng về sau, lời quả quyết ấy đã trở nên sự thật. Hai ông đã uống chén đắng như Thầy đã uống và đã chịu phép rửa như Thầy đã chịu: Vào năm 44, thánh Giacôbê đã chịu tử đạo dưới thời vua Agrippa đệ nhất. Còn thánh Gioan bị bỏ vào vạc dầu sôi, nhưng được cứu thoát nhờ phép lạ; và cuối cùng ngài cũng chết anh hùng sau những tháng ngày sống lưu đày trên đảo Patmô.
Giacôbê và Gioan xin cho họ được ở vị trí cao nhất trong vương quốc của Chúa. Họ chỉ nghĩ đến mình nên gây bực tức cho người khác. Hai ông là biểu tượng cho những khát vọng trần thế: điạ vị xã hội, danh lợi, quyền thế, vinh quang, thống trị; đó là khát vọng của người đời.
Thực ra “ai ước mơ được làm thủ lãnh, là mơ ước một điều tốt lành” (1Tm. 3,1); Trong bất cứ tổ chức, tập thể nào cũng cần có người lãnh đạo. Chúa cũng không hủy bỏ vai trò của người đứng đầu, người thủ lãnh; nhưng làm thủ lãnh, làm đầu để phục vụ người khác thì khác với tinh thần làm lớn để người khác phục vụ mình.
Chúa Giêsu đưa ra hai mẫu người làm lớn, người cầm đầu thiên hạ, người thủ lãnh: mẫu người thứ nhất dùng uy quyền để thống trị và cai quản dân, mẫu người thứ hai đối nghịch với mẫu người thứ nhất là phục vụ và là đầy tớ của mọi người:“Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Mẫu người làm thủ lãnh theo yêu cầu của Chúa Giêsu là phục vụ và làm đầy tớ người khác.
Có ông vua nào trên trần thế này quì xuống mà rửa chân cho các gia nhân trong triều không?
Có người nào giàu nhất thế giới mà chịu sống cảnh không cửa, không nhà, không có gối đầu để tìm đến những người nghèo khổ không?
Có vị thủ lãnh nào dám hy sinh mạng sống mình để cứu muôn người không?
Có vị thủ lãnh nào, bị nghiền nát, chịu kiếp sống lao đao, bị liệt vào hàng ngỗ nghịch vì hạnh phúc của con người không?
Thưa có. Vị vua ấy, vị thủ lãnh ấy là Vua Giêsu Kitô.
Thánh Paulinô, Giám mục thành Nôla (353-431), sau khi thu xếp xong việc gia đình, từ bỏ chức lãnh sự ở Rôma, đã sống một cuộc đời tu đức khổ hạnh và làm đến chức Giám mục. Khi quân Goths chiếm đóng xứ ngài và bắt nhiều người làm nô lệ, ngài đã bán tất cả gia sản để nuôi người nghèo và chuộc nhiều kẻ nô lệ trong số đó. Tới lúc quân Vandales tiến đến, ngài không còn gì để bán nữa nên đã hy sinh chính bản thân mình, đi làm nô lệ thay cho con trai của bà góa và bị điệu sang Phi châu. Mãi lâu sau, ngài được trả tự do và trở về lại giáo phận Nôla của ngài trước niềm hân hoan cảm phục của mọi giáo hữu.
Ngoài ra, nhân dịp này Chúa còn dạy các môn đệ một bài học sâu xa về lòng khiêm nhường phục vụ mà người thủ lãnh, người cầm đầu cần phải có.
Bất cứ ở địa vị nào, chúng ta cũng có thế phục vụ người khác; nhưng người ở địa vị có quyền lực cao là người có nhiều điều kiện và cơ hội để phục vụ người khác hơn. Quyền bính phải đi đôi với phục vụ và làm đầy tớ mọi người. Người đứng đầu lại là người rốt hết. Người có quyền lực lại là người phục vụ kẻ khác, người tôi tớ của mọi người. Vị trí vai trò đảo ngược trong Vương quốc của Thiên Chúa! Chúa đời hỏi người làm lớn, người có địa vị, quyền lực phải chấp nhận uống chén Thầy đã uống, chịu phép rửa Ngài đã chịu khác với quan niệm của thế nhân là người có quyền lực áp bức người yếu thế, người giàu sang cai trị, bắt nạt người nghèo khó.
Câu hỏi Chúa Giêsu nêu lên cho hai môn đệ Giacôbê và Gioan cũng là câu hỏi Chúa đặt ra cho mỗi người chúng ta: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”
Chén mà Thầy sắp uống là chén đau khổ trong vườn cây dầu: “ Lạy Cha, nếu có thể, thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng không theo ý Con một theo ý Cha mà thôi”; và phép rửa Thầy sẻ chịu là phép rửa bằng máu, là cái chết đau thương trên Thập gía. Tóm lại, chúng ta có sẵn sàng chịu đau khổ với Chúa không?
Có lẽ chúng ta cũng “Thưa được” với Chúa, nhưng lại sống khác đi. Miệng chúng ta quả quyết mạnh mẽ là sẽ uống chén Chúa đã uống, sẽ sẵn sàng chịu phép rửa Chúa đã chịu, nghiã là vác lấy Thập gía theo Chúa, nhưng có thể trong thâm tâm chúng ta lại mong muốn có một cây Thập giá nhẹ nhàng, tiện lợi theo ý riêng của mình hơn là vác lấy Thập giá theo thánh ý của Chúa gởi đến cho mình.
Có lẽ chúng ta cũng đã “Thưa được” với Chúa, nhưng vẫn còn e dè tránh né chén và phép rửa Chúa đã đi qua. Chúng ta nói tới chứ chưa dám dấn thân thực sự vào, dầu Chúa đã tạo cho chúng ta nhiều cơ hội trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
Làm đầu hay làm người hèn mọn trong Nước trới đều là môn đệ của Chúa, đều được mời gọi phục vụ tha nhân đến quên mình, đến hy sinh mình. Không biết chúng ta đã đổ được bao nhiêu giọt mồ hôi cho Chúa, nói chi đến uống chén của Chúa, chấp nhận cuộc thanh tẩy của Chúa!
Chúa cho tôi một chỗ đứng trong Giáo hội, trong cộng đoàn, dầu chỗ đứng ấy lớn hay nhỏ, hãy lợi dụng nó để phục vụ anh em.
Chén đời sống của chúng ta có chén cay đắng, chén ngọt bùi, chén khó khăn trong việc đi theo Chúa là hy sinh và phục vụ người khác. Ai chia sẻ với Chúa chén cay đắng của Thập giá thì cũng sẽ chia sẻ với Ngài sự vinh quang Phục sinh.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Anh chị em thân mến
Ðức Giêsu dạy chúng ta nhiều điều rất ngược đời: đối với người đời, làm lớn thì có quyền sai khiến và được cung phụng, còn làm nhỏ thì phải hầu hạ người lớn. Ðức Giêsu dạy khác hẳn: “Ai muốn làm lớn thì phải làm người phục vụ, ai muốn làm đầu thì phải làm đầy tớ”.
Thực ra giáo huấn của Ðức Giêsu rất khôn ngoan. Nếu những người làm lớn đều biết phục vụ những kẻ dưới quyền mình thì xã hội sẽ rất bình an, và mọi người đều hạnh phúc.
Xin Chúa giúp chúng ta thấm nhuần bài học quý báu này.
Khi được làm lớn, chúng con không lo phục vụ những kẻ dưới quyền mình, trái lại thường hống hách bắt họ phục vụ chúng con.
Chúng con hay đòi hỏi người khác phục vụ chúng con mà không nhiệt tình phục vụ người khác.
Chúng con coi thường những công việc nhỏ nhặt ít người để ý tới.
III. Lời Chúa
Người Tôi Tớ Giavê bị nghiền nát vì đau khổ để hiến thân làm lễ vật đền tội và làm cho muôn người nên công chính.
Thiên Chúa cũng phục vụ loài người: Ngài để mắt trông nom người kính sợ Chúa, cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống họ trong buổi cơ hàn.
Chuyện xảy ra ngay sau khi Ðức Giêsu loan báo (đây đã là lần thứ ba) rằng Ngài sắp chịu nạn, chịu chết và sống lại.
– Hai môn đệ Giacôbê và Gioan lại xin hai địa vị ưu tiên trong “nước” mà họ nghĩ Ðức Giêsu sắp thành lập. 10 môn đệ kia bực tức. Không phải vì cho rằng hai môn đệ này sai mà vì nghĩ họ đã muốn “chơi trội” hơn mình trong cuộc chạy đua tranh dành địa vị.
Trong bối cảnh đó, Ðức Giêsu dạy về Nước Thiên Chúa và nước trần gian, về cách cư xử của những người lớn trong hai nước đó:
Trong nước trần gian, kẻ làm lớn thì lấy quyền mà trị dân, bắt dân phục vụ mình.
Trong Nước Thiên Chúa, làm lớn là làm đầy tớ, càng làm lớn thì càng phải phục vụ.
Ðức Giêsu là Vị Thượng Tế siêu phàm: (1) Ngài chính là Con Thiên Chúa; (2) Ngài cảm thông những nỗi yếu hèn của loài người vì chính bản thân Ngài cũng từng trải qua đau khổ. Bởi vậy chúng ta hãy mạnh dạn tiến đến gần Ngài để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp.
Một loại quyền bính từ trên áp xuống. Người nắm loại quyền bính này tự coi mình là kẻ ở trên và những kẻ thuộc quyền mình là những người ở dưới. Người này bắt những kẻ dưới phải làm theo ý mình, nếu không theo thì phạt. Loại quyền bính này được dùng để cai trị, hay nói chính xác hơn là thống trị.
Loại quyền bính thứ hai không từ trên áp xuống mà đứng bên cạnh để giúp đỡ. Người nắm quyền bính này không coi mình là ở trên cũng không coi kẻ thuộc quyền mình là ở dưới. Người này không nhắm cho ý mình được người ta thực hiện, nhưng nhắm đến ích lợi chung và ích lợi của kẻ mình muốn giúp đỡ. Loại quyền bính này được dùng để phục vụ.
Nhưng Ðức Giêsu đã từ chối. Lý do thứ nhất là Ngài thấy trong các tổ chức chính trị, hành chánh và xã hội, những người lãnh đạo đều thích loại quyền thống trị đó. Nhưng các tổ chức mà họ lãnh đạo người ta không được hạnh phúc gì cả, trái lại còn phải đau khổ. Lý do thứ hai là trong tổ chức mà Ngài thành lập, tức Giáo Hội, không có người trên kẻ dưới, không có người lớn kẻ nhỏ, mà tất cả đều bình đẳng với nhau vì tất cả đều là anh em với nhau, cùng là con của một Cha trên trời. Cho nên không có chuyện người này bắt người kia làm theo ý mình, nhưng mọi người đều giúp nhau để làm theo ý Cha trên trời. Bởi vậy trong Giáo Hội, quyền bính được trao không phải cho kẻ ham muốn kiếm tìm nó, mà trao cho những người nào có thiện chí và khả năng phục vụ.
Có một câu chuyện ngụ ngôn như sau: một chiếc đồng hồ đeo tay một hôm đi dạo ở công trường trước một nhà thờ. Nó nhìn lên tháp nhà thờ thấy một chiếc đồng hồ rất lớn nên thấy ghét. Nó nói: Anh tưởng là anh ngon lắm hả. Thực ra cái mặt anh to quá khổ chẳng đẹp chút nào, hai cánh tay thì dài thượt coi chẳng đẹp gì cả. Giọng nói thì khàn khàn. Chiếc đồng hồ lớn chỉ mỉm cười và nói “Hãy lên đây”. Chiếc đồng hồ nhỏ leo lên. Khi đứng bên chiếc đồng hồ lớn nhìn xuống thì nó mới hoảng sợ. Thì ra ở trên cao này nguy hiểm quá té xuống tan xác như chơi. Rồi lúc nào cũng bị bao nhiêu cắp mắt nhìn lên, và lại còn cô đơn nữa. Khi đó chiếc đồng hồ lớn khều nó nói “Ở dưới có người muốn biết giờ kìa. Em đưa mặt ra cho họ xem đi”. Chiếc đồng hồ nhỏ đáp: “Không được, từ đây xuống dưới xa quá mà mặt em nhỏ quá ở dưới xem không thấy đâu”. “Vậy thì em nói giờ cho họ nghe đi”. “Cũng không được, vì tiếng em nhỏ quá”. Khi đó chiếc đồng hồ lớn mới ôn tồn giải thích: “Ðó em thấy chưa. Em cũng không thể làm việc của anh, mà anh cũng không thể làm việc của em. Mỗi người chúng ta ai làm việc nấy, chỉ để phục vụ cho người ta thôi. Từ này về sau mình đừng chỉ trích nhau nữa nhé”.
Câu chuyện rất ý nhị: mỗi người có một nhiệm vụ để phục vụ người khác. Kẻ ở địa vị cao thì phải phục vụ nhiều hơn. Và ở địa vị cao thì càng gặp khó khăn nhiều hơn, có khi còn cô đơn hơn nữa.
Chuyện hai người con nhà Dêbêđê xin được hai địa vị trong Nước Ðức Giêsu không có gì lạ. Có lạ chăng là họ đã xin điều đó liền ngay sau khi Ðức Giêsu loan báo Ngài sẽ chịu nạn chịu chết.
Ai mà không thích địa vị. Nhiều người cũng giống hai môn đệ kia thôi, chỉ khác là không dám nói ra như họ.
Vả lại Ðức Giêsu cũng không muốn lập một Giáo Hội không có phẩm trật. Giáo Hội, như bất cứ tổ chức nào khác, cũng cần có phẩm trật, kẻ trên người dưới chứ.
Cái đáng nói là hai môn đệ ấy đã xin một điều mà họ không hiểu:
Họ không hiểu rằng trong Nước Chúa, địa vị rất khác với nước trần gian, vì địa vị là để phục vụ chứ không phải để được người ta phục vụ mình.
Họ không hiểu rằng có địa vị trong Nước Chúa thì họ sẽ phải uống chén đắng chứ không phải sẽ ngồi đó mà hưởng thụ.
Tóm lại, họ không đáng trách vì đã ham muốn địa vị, nhưng đáng trách vì chưa hiểu mục đích và điều kiện của địa vị trong Nước Chúa, thế mà đã nhanh nhẫu xin cho bằng được.
Một lần Ðức Hồng Y Roncalli vừa từ trên xe bước xuống. Ngài mới đi xa về. Phái đoàn tòa Giám mục ra đón. Mọi người ngạc nhiên trên vai áo Hồng Y có vương mấy cọng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng cười xoà vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện. Chiếc xe của Ðức hồng Y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vòng đồng ruộng. Giữa đường một chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc nhích. Ðức Hồng Y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.
Những cọng rơm trên vai áo Hồng Y đối với ngài chỉ cười xoà cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta một Hồng Y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.
Sau này lên ngôi Giáo hoàng, Ðức Gioan 23 vẫn tiếp tục sống nếp sống bình dị phục vụ.
Lần khác, cả giáo triều Rôma báo động: “Ðức Giáo hoàng mất tích”. Nhân viên an ninh đổ xô đi tìm. Cuối cùng người ta gặp ngài đang chuyện trò thân mật với các tù nhân trong khám đường Rôma.
“Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc.10,45).
Ðó là Hiến chương Nước Trời, là Hiếp Pháp Ðức Kitô đã tuyên bố cho Giáo hội. Từ đây, mỗi tín hữu Kitô phải là đầy tớ của mọi người.
Người lãnh đạo trong Giáo hội chính là “Ðầy tớ của các đầy tớ” (Sevrus Servorum). Chữ Latin “Minister” có nghĩa là đầy tớ. Vì thế, trong Giáo hội chỉ có kẻ thừa sai, người thừa tác, nữ tì, tôi tá, hay mục tử chăm lo cho đoàn chiên.
Mẹ của Giacôbê và Gioan xin Ðức Giêsu cho hai con bà được làm tể tướng trong nước của Người. Nhưng họ đã không hiểu rằng Ðức Giêsu không bước lên ngai vàng để thống trị, mà Người chỉ leo lên thập giá để hiến dâng mạng sống, để yêu thương và “yêu cho đến cùng”. (Ga.13,1).
Hôm nay, Chúa cũng mời gọi các tín hữu Kitô hãy noi gương Người: Phục vụ và hiến dâng mạng sống cho tha nhân. Trước nhất là yêu thương phục vụ những người trong gia đình: “Charity begin at home” (Bác ái bắt đầu từ gia đình), sau đó mới lan tỏa sang những người chung quanh, nhất là những người nghèo hèn, yếu đuối.
Nếu chúng ta chưa nên giống được như Cha Maximilien Kolbe xin chết thay cho bạn tù, như thánh Martino Porres bán mình làm nô lệ, hoặc như cha Damien tông đồ người hủi, thì ít là mỗi ngày chúng ta hãy âm thầm phục vụ hết mình những người thân yêu, những người Chúa giao phó trong gia đình mình, trong cộng đoàn mình.
Báo chí Pháp đăng hình của Cha Damien sau mấy chục năm phục vụ trong trại cùi, ghép cạnh hình cha hồi còn tẻ. Tấm hình gây xúc động cho biết bao con người. Khi nhìn vào tấm hình, mẹ Ngài không thể tin được con mình đã thay hình đổi dạng đến thế. Chính thái độ tận tụy phục vụ đã tiêu hao sức lực và tàn phá hình hài con người. Vì thế, chúng ta không thể phục vụ nếu không có sẵn một tấm lòng dấn thân quảng đại.
Người thành công nhất là người phục vụ cho đồng loại nhiều nhất. Albett Shweitzer đã nói: “Người hạnh phúc thật là người biết tìm cách sống thiện ích cho người khác”. Martin Luther King nói: “Chúng ta học bay như chim trên trời, học bơi như cá dưới nước, nhưng lại chưa học sống với nhau như anh em”. Ở giây phút định mệnh của mỗi con người chỉ có cường độ tình yêu và tinh thần phục vụ là có giá trị.
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có một chút ham mê địa vị, chức quyền. Nếu Chúa xếp đặt cho chúng con một chức vụ nào đó, xin cũng ban chúng con một ơn này, là chức vụ càng cao, chúng con càng biết khiêm tốn phục vụ anh em nhiều hơn. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Thiên Chúa đã gọi Cha Kỷ bước ra khỏi vực thẳm của nghèo khó
Một cậu bé nhà nghèo bị bố bỏ rơi, 4 tuổi đã phải đi ăn xin. Xong tiểu học ở tuổi 13, Giuse Lê Ðình Kỷ (Joseph Wresinski) học được nghề làm bánh ngọt để sống tới tuổi 19. Qua trung gian phong trào Thanh Sinh Công, cậu được hướng dẫn theo ơn gọi linh mục.
Năm 1937 cậu nhập ngũ theo tuổi quân dịch. Hai năm sau, chiến tranh bùng nổ ở Pháp, cậu bị bắt làm tù binh nhưng trốn được và về học ở chủng viện Sinh Ðông (Soissons), nơi Thầy Giuse thụ phong linh mục năm 1946. Kế đó là 4 năm làm cha phó và 6 năm làm cha sở.
Năm 1956 Cha Kỷ được giao nhiệm vụ mở ra một giai đoạn hoàn toàn mới không riêng cho cha. Cha ghi lại như sau:
Ðức Giám Mục đã phái tôi đến trại tiếp cư khẩn cấp vùng ngoại ô Noisy-le-Grand của Thủ đô Paris. Ngày đầu tôi tới đó là 14 tháng 7, 1956. Tôi được gặp những gia đình gợi nhớ tình cảnh túng quẫn của mẹ tôi. Trẻ con tới tấp tới quấy phá tôi, tôi kể đó là những người em trong gia đình tôi.
Ðó là hình ảnh của chính tôi, bốn mươi năm trước đây trên đường Gia-cô-bê của thành phố Aùnh Dương (Angers). Từ ngày tôi đặt chân tới trại, chính những gia đình ấy đã khởi hứng cho tôi về tất cả những gì tôi thực hiện nhằm giải phóng họ. Họ ôm chầm lấy tôi, ám ảnh tôi, thúc bách tôi, đưa đẩy tôi cùng với họ thiết lập một phong trào. Chính họ rèn luyện nên căn tính riêng và tự xưng là “Thế giới thứ Bốn”.
Ðể cha hiến thân phục vụ người nghèo
Tại sao gọi là “Thế giới thứ Bốn”? Cha Kỷ muốn người ta nhìn nhận phẩm giá của những gia đình đó. Ngài muốn nói lên thái độ của họ muốn từ khước túng quẫn. Chính vì muốn chấm dứt cảnh túng quẫn của họ nên Cha Kỷ đã khởi xướng kế hoạch phát triển cộng đồng cùng với họ. Cùng với những gia đình đó, cha Kỷ đã thiết lập phong trào Trợ Giúp người lâm bất cứ cảnh túng quẫn nào (Aide à Toute Détress (ATD), tức International Movement ATD Fourth World).
Nhật ký của Cha Kỷ ghi tiếp:
“Ngày đó, tôi nguyền làm cho thế giới biết đến những gia đình đó. Tôi đoan thề sẽ tìm cho họ nơi ở xứng đáng, thanh niên có việc làm, người trẻ được dạy nghề, trẻ con có trường để học hành. Hôm đó tôi chọn cho tôi con đường nhắm tới mục tiêu là làm cho người nghèo có chỗ đứng và chỗ đứng ấy được thế giới nhìn nhận và tôn trọng. Tôi sẽ phải làm thế nào để họ có cơ hội trèo lên những bậc thang của Liên Hiệp Quốc, của cơ quan Giáo Dục UNESCO, của Tổ Chức Lao Ðộng thế giới (ILO), của Hội Ðồng các nước Âu Châu và của Vatican, để tiếng nói của họ được nghe thấy.
Năm 1961 Cha Kỷ thiết lập Viện nghiên cứu đầu tiên để nghiên cứu về cảnh cùng cực (Research Institute on extreme poverty), lôi cuốn các chuyên gia đến từ các nước và các ngành khoa học. Qua những chuyến công du và những bài thuyết trình, nhiều dự án nghiên cứu của phong trào lan rộng đến nhiều nước Âu Châu và Hoa Kỳ.
Ðược thúc đẩy do thâm tín rằng túng quẫn phải được chấm dứt khỏi đời sống con người, những người thiện nguyện đầu tiên đến cộng tác với cha Kỷ từ năm 1960. Họ đến từ nước, thuộc nhiều quốc tịch, nhiều tín ngưỡng và nghề nghiệp. Một số có gia đình, một số độc thân. Con số những thành viên chí nguyện này hiện là 350 tại 20 quốc gia, trong số đó 200 người đã phụcvụ trên 5 năm và 35 người đã phục vụ trên 20 năm. Họ sống trong những cộng đoàn nơi họ phục vụ bằng cách cổ võ giao lưu giữa những gia đình nghèo và dân chúng nói chung.
Cuộc viếng Ấn Ðộ năm 1965 khiến Cha Kỷ có thêm phong trào Tapori, trong đó các em thiếu nhi từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội trở nên bạn thân với nhau. Song song nữa là phong trào thanh niên cũng nhằm mục tiêu là gây tình bạn vượt mọi rào cản.
Hai biến cố đánh dấu năm 1987 là năm chót đời cha Kỷ. Năm ấy cha đệ lên Hội Ðồng Kinh Tế và Xã Hội của Pháp Quốc một đề nghị tổng hợp nhằm diệt tận căn bệnh nghèo trường kỳ. Tài liệu của cha Kỷ nhan đề là “nghèo cùng cực và sự bấp bênh Kinh Tế và Xã Hội” khiến chó nước Pháp đã làm luật để bảo đảm đồng lương tối thiểu. Ðiều này đã gây hứng khởi cho những nước khác của Âu Châu và lôi kéo sự chú ý trên toàn cầu.
Cũng năm ấy, vào ngày 17 tháng 10, trước sự có mặt của trên 100,000 người từ khắp nơi trên thế giới, cha Kỷ đã đặt viên đá kỷ niệm nhằm tán dương những khổ đau và lòng can đảm của người nghèo. Viên đá kỷ niệm được đặt tại Công Trường Các Quyền Con Người tại Paris, đối diện tháp Eiffel. Bảng viết ghi rõ: “Bất cứ khi nào người nam hay nữ phải sống trong nghèo khổ thì quyền làm người của họ bị chà đạp (condemned). Ta có bổn phận cùng nhau bảo đảm cho những quyền đó được tôn trọng.”
Trong lễ an táng cha Kỷ tại nhà thờ chính toà Paris, Ðức Hồng Y Lustiger nói: “Thiên Chúa đã gọi cha Giuse Kỷ bước ra khỏi vực thẳm của nghèo khó để cha hiến thân trở nên sức hút nhằm loại bỏ tận căn tệ nạn người loại bỏ người. Ðiều dễ phát sinh ra căm hờn đã trở nên dấu chỉ của tình thương. Ðiều dễ phát sinh ra tàn phá đã mở lối vào để con người được triển nở, được nhận ra mình và khám phá ra phẩm giá của mình.
Lý tưởng cao đẹp nhất của người môn đệ Ðức Giêsu
Câu chuyện Cha Kỷ hiến thân phục vụ người nghèo được kể để giúp lãnh hội ý nghĩa bài Tin Mừng hôm nay. Ý nghĩa ấy quả thật ngược lại với xu hướng tự nhiên của Nhóm Mười Hai. Khởi sự là hai anh em trong nhóm, tức Giacôbê và Gioan, đã xin để được ngồi bên hữu bên tả Ðức Giêsu khi người thiết lập Vương quốc, nhưng Người đã giao cho hai ông vác thập giá theo Người. Lời hai anh em này yêu cầu cũng dễ hiểu vì cả nhóm đã từng: “cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả” (Mc 9,34). Tin Mừng Mátthêu còn cho thấy chính bà mẹ của hai ông nói lên lời thỉnh cầu của gia đình (Mt 20,20). Nhưng Ðức Giêsu đã phản ứng với lời thách đố: “các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10,38). Ðức Giêsu có ý nói tới cơn hấp hối và cái chết mà Người sẽ chịu. Hai anh em được thách đố để theo Ðức Giêsu đến cùng. Ðức Giêsu kết thúc đối thoại bằng cách đặt hai anh em trước một câu trả lời đòi họ phải được hoán cải để theo ý muốn của Thiên Chúa. Người nói: “Có thể Chúa Cha sẽ dành địa vị cho các anh, nhưng các anh phải sẵn sàng vác thập giá tôi vác, uống chén đắng tôi uống và chịu phép rửa tôi chịu.” Nghĩa là hai anh em phải bước theo Ðức Giêsu cho tới cái chết trên thập tự.
Không riêng hai anh em là Giacôbê và Gioan, mười người còn lại trong nhóm Mười Hai, đều bị chỉnh khi họ tỏ ra tức tối với hai anh em liên quan tới việc tranh giành ảnh hưởng giữa nhau. Ðể bước theo Ðức Giêsu cần phải dứt khoát loại bỏ thái độ “hống hách đối với người khác” (c.42). Là Kitô hữu có nghĩa là trở nên kẻ phục vụ tha nhân như Ðức Giêsu đã phục vụ (c.45). Ai ở địa vị cao nhất và uy thế nhất, người đó nhận lấy trách nhiệm đáp ứng nhu cầu của mọi người theo gương Ðức Giêsu (c.44). Ðó là con đường đưa người môn đệ vào vinh quang của Ðức Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay liên quan trước hết tới hai môn đệ thân cận nhất của Ðức Giêsu là ông Giacôbê và Gioan (cùng với Simon-Phêrô, hai ông này được Ðức Giêsu chọn để tháp tùng Ngài lên núi biến hình (9,2-9) và có mặt trong cơn hấp hối tại Vườn Dầu (14,32-42)). Sứ điệp mà Tin Mừng Máccô có ý truyền đạt liên quan tới địa vị lãnh đạo trong Giáo Hội, họ phải là người đầu tiên “uống chén đắng” bằng cách phục vụ nhu cầu của anh chị em, bất cứ là nhu cầu nào họ nhận thấy và bất cứ trong hoàn cảnh nào họ nhận ra. Ðó quả là một đòi hỏi tận căn, hầu như không bao giờ người được giao trách nhiệm cảm thấy mình đã chu toàn được nhiệm vụ.
Nơi Cha Kỷ, ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay được sáng tỏ. Thiên Chúa đã an bài để Cha sinh ra trong khó nghèo hầu cả đời hiến thân phục vụ người nghèo. Cha không căm hờn người giàu nhưng đòi họ bằng mọi giá phải hoán cải bản thân. Bằng mọi giá họ phải trả lại cho người nghèo quyền lợi và phẩm giá thuộc về họ. Lý tưởng cao đẹp nhất được nêu cho người môn đệ Ðức Giêsu là họ phải cúi mình phục vụ người nghèo theo gương chính Ðức Giêsu. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu đã tuyên bố: “Con Người đến để được người ta hầu, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa thương chúng ta và dâng lời cầu xin:
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, khi bắt đầu theo Chúa, các tông đồ còn mơ ước một cuộc sống giàu sang và quyền lực, nhưng sau các ngài đã hiểu và tự nguyện bước theo đường Chúa đã đi; Xin giúp mỗi người chúng con biết noi gương các ngài, chấp nhận hy sinh thiệt thòi, để phục vụ cho việc truyền giáo. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
– Trước khi rước lễ: Ðức Giêsu đã hiến thân làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta sau khi rước Chúa vào lòng cũng biết hiến thân phục vụ anh chị em chúng ta.
VII. Giải tán
Hôm nay chúng ta đã học được bài học phục vụ: người lớn phải phục vụ người nhỏ, càng làm lớn thì càng phải phục vụ. Chúng ta hãy ra về và cố gắng thực hành bài học này.
Sống không hơn thua, không tranh giành chắc không thú vị hay sao đó?
Hôm nay, chúng ta lại bắt gặp câu chuyện tranh giành và những người tranh giành không ai khác đó chính lại là những người thân cận, những môn đệ thân tín của mình.
Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến gần Chúa Giêsu và thưa với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con muốn Thầy ban cho chúng con điều chúng con sắp xin Thầy”. Nghe xong, Chúa Giêsu hỏi luôn: “Các con muốn Thầy làm gì cho các con?” Các ông nghe thế cũng thưa lại ngay: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy”.
Chúa Giêsu hết sức bình thản và từ tốn nới với các ông: “Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?” Nghe như thế, tưởng sẽ được Chúa ban cho điều mình xin nên đáp ngay: “Thưa được”. Chúa Giêsu bảo: “Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định”.
Các ông có lẽ buồn thiu trước lời của thầy mình. Tưởng chừng với hai tiếng thưa được đó các ông cũng được điều mà các ông xin.
Sau đó, Chúa Giêsu gọi các ông lại gần mà bảo: “Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.
Chúa Giêsu, có lẽ nhân cơ hội này muốn mời gọi các ông nhìn lại con đường của các ông theo Chúa. Con đường theo Chúa không phải là con đường vinh quang mà là con đường thập giá.
Trang sách ngôn sứ Isaia cho chúng ta hình ảnh của người tôi tớ đau khổ. Hình ảnh người ngôn sứ đó là Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định của Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của người, người sẽ thấy và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ.
Chắc có lẽ không cần phải nói nhiều, chúng ta phần nào thấy được cuộc đời của các ngôn sứ và cách riêng với ngôn sứ Isaia. Phải nói là quá đau khổ chứ không phải là đau khổ bình thường nữa. Thế nhưng mà, qua đau khổ đó, Chúa Giêsu cứu độ con người.
Trong thư Do Thái chúng ta vừa nghe, chúng ta lại bắt gặp một lần nữa hình ảnh, thân phận của Chúa Giêsu: Anh em thân mến, chúng ta có một Thượng tế cao cả đã đi qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Vì chưng, không phải chúng ta có vị Thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Vậy chúng ta hãy cậy trông vững vàng mà tiến đến trước toà ân sủng, ngõ hầu lãnh nhận lòng từ bi và tìm kiếm ân sủng để gặp được ơn phù trợ kịp thời.
Đây là chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian! Thánh Gioan đã hơn một lần giới thiệu với mọi người, giới thiệu với chúng ta về Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đến trong thân phận con người, Ngài đồng thân đồng phận để thông cảm sự yếu đuối của con người và thậm chí Ngài còn chịu những thử thách hết sức nghiệt ngã ngoại trừ tội lỗi để cứu con người tội lỗi của chúng ta.
Hành trình lịch sử, dòng lịch sử cứu độ đã để lại cho chúng ta bài học hết sức rõ ràng về vị ngôn sứ thời đại là Chúa Giêsu.
Quá nhiều lần, chúng ta đã than trách Chúa đủ thứ điều này điều kia hết. Và rồi, khi không được như điều mà ta xin thì ta lại quay quắt với Chúa.
Ngày hôm nay, nếu có mặt ở đây với ta, Chúa Giêsu cũng sẽ hỏi ta là ta có uống được chén đắng mà Chúa đã uống hay không? Có đi qua con đường thập giá như Chúa đã đi không?
Bao nhiêu lần chúng ta đau khổ với Chúa, bao nhiêu lần chúng ta cũng đã hát thật to rằng con xin theo Chúa đến giây phút cuối cuả cuộc đời nhưng rồi ta có theo thật hay không? Hay là chúng ta cũng chỉ hát ngoài môi ngoài miệng thôi.
Con đường đau khổ mà Chúa đang gửi đến cho chúng ta, chúng ta bình tâm nhìn lại thử xem? Chúng ta hạnh phúc hơn quá nhiều người nhưng chúng ta đâu có cảm nhận ra cái hạnh phúc đó để rồi chúng ta càm ràm thế này thế nọ. Và, có những đau khổ do chính chúng ta gây ra nhưng chúng ta không biết đó thôi.
Nhìn lại từ gia đình, từ bản thân chúng ta, Chúa ban cho qua nhiều nhưng rồi chúng ta không nhận ra để rồi cứ mãi ganh tỵ với anh chị em đồng loại thôi. Cũng chỉ vì ganh tỵ mà ngay trong chính gia đình của chúng ta mới xáo trộn.
Chúa Giêsu đã đến trong trần gian này để gánh tội cho chúng ta rồi, xin đừng chất thêm tội trên cuộc đời của Ngài nữa. Hãy bớt đi những lầm lỗi của chúng ta để Ngài bớt đi gánh nặng của chúng ta.
Nhiều lúc, do vô tình hay cố ý, chúng ta lại chất thêm gánh nặng cho anh chị em đồng loại của chúng ta.
Xin cho chúng ta trong sâu lắng của lòng mình, bớt đi những tôi lỗi, bớt đi những yếu đuối để làm bớt đau khổ cho Chúa. Và nếu có, xin Chúa thêm ơn cho chúng ta để chúng ta vác thập giá mà Chúa gửi cho đến hơi thở cuối cùng.
Chỗ nhất.
Giacôbê và Gioan không ngần ngại xin Chúa Giêsu điều mà các ông mơ ước có lẽ đã từ lâu. Trong vương quốc của Ngài, các ông muốn được những chỗ nhất, bên tả và bên hữu Ngài. Mười môn đệ kia nghe các ông xin như vậy thì lấy làm chướng tai… Điều đó cho thấy rõ rằng chính các ông này nữa muốn những chỗ nhất ấy.
Chúng ta đừng nói đó là chuyện trẻ con, là nhẹ dạ. Tự bản chất, con người muốn làm lớn, muốn ở trên kẻ khác, muốn thống trị, thích tìm ngồi chỗ nhất. Xã hội chúng ta lại khuyến khích và khơi dậy ước muốn đó, một ước muốn mà mọi con người bình thường đều có. Xã hội sùng bái những người đứng đầu, chiều chuộng những kẻ giàu nhất, mạnh nhất, thông minh nhất, đẹp nhất, táo bạo nhất. Chỗ nhất! Đôi khi chẳng có gì mà người ta không làm để đạt tới đó. Không phải ai cũng đều thành công, nhưng ai cũng ao ước, ai cũng mơ ước được như vậy.
Phục vụ chứ không phải được phục vụ.
Ta hãy lưu ý rằng Chúa Giêsu không trách hai môn đệ của Ngài vì muốn được gần Ngài trong vinh quang Thiên quốc. Ngài cũng không bảo các ông rằng ước muốn của các ông sẽ không thành đâu. Ngài không biết được. Không phải Ngài quyết định về việc này. “Về việc ở bên hữu hoặc ở bên tả Thầy thì không phải Thầy ban cho được”. Tuy nhiên Ngài lợi dụng dịp này để nhắc lại một giáo huấn cơ bản mà các môn đệ của Ngài khó hiểu.
Giáo huấn đã được lặp lại bao nhiêu lần rồi là: Những kẻ cao trọng trước mặt Thiên Chúa không phải là những kẻ để cho người ta phục vụ mình, nhưng là những kẻ phục vụ; những kẻ xứng đáng chỗ tốt trong Nước Trời, không phải là những kẻ chỉ biết ước mơ xin xỏ, nhưng là những kẻ bắt chước Chúa Kitô, uống chén đắng mà Ngài đã uống, làm đầy tớ như Ngài, chịu thanh tẩy bằng đau khổ như Ngài.
Uống chén đắng, được thanh tẩy bằng cuộc thanh tẩy bằng cuộc thanh tẩy của Chúa Kitô: làm đầy tớ, làm nô lệ mọi người, phục vụ chứ không mong người ta phục vụ mình, hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người, gặp thử thách, bị đau khổ nghiền nát, làm cho cuộc sống của mình trở thành một của lễ hy sinh đền tội… Đó là những từ ta gặp thấy trong các bài đọc hôm nay. Những từ ngày bổ túc cho nhau và diễn tả những gì làm cho chúng ta trở nên cao trọng trước mặt Thiên Chúa và những gì cho phép đạt đến những chỗ nhất bên cạnh Chúa Kitô. Ta có thể tóm tắt giáo huấn này bằng công thức sau đây: Phục vụ chứ không phải được phục vụ.
Một công việc khó nhọc.
Dĩ nhiên chúng ta có ý muốn bước theo Chúa Kitô và thực hành lời giáo huấn của Ngài. Nhưng chúng ta biết rằng điều này không dễ. Phục vụ, phục vụ cách vô vị lợi, phục vụ trong sự quên mình và xả thân, phục vụ cho đến nỗi phải đau khổ, không thể trong vòng một ngày mà chúng ta làm được và cứ phải làm lại mãi.
Bao nhiêu người muốn và tự nhủ phục vụ kẻ khác nhưng không phục vụ hoặc chỉ làm nửa chừng thôi. Người bán hàng nói với khách hàng “Xin phục vụ quý vị!”. Các nhà chính trị tuyên bố: “Hãy bỏ phiếu cho tôi để tôi có thể phục vụ quý vị!”. Các công đoàn tự nhủ sẽ phục vụ công nhân, các công ty lớn khẳng định là đưa tài sản phục vụ sự tiến bộ của xã hội, các bác sĩ muốn phục vụ bệnh nhân, các giáo sư phục vụ sinh viên. Các phụ huynh phục vụ con cái, các cha sở phục vụ con chiên và Giáo Hội phục vụ hết thảy mọi người bắt đầu từ những người nghèo nhất…
Có nguy cơ lạm dụng hai từ phục vụ. Bao nhiêu dịch vụ vẫn chẳng có gì là vô vị lợi cả! Nhiều tham vọng, có thể trà trộn vào ý muốn chân thành phục vụ.
Dù ở địa vị nào trong xã hội của chúng ta, bất chấp dù mức sống cao hay thấp, dù tài năng ra sao, dù làm công việc gì, chúng ta có quan tâm đến phục vụ kẻ khác không? Chúng ta có thực sự phục vụ họ không? Đó là những câu hỏi được đặt ra cho chúng ta hôm nay.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Món Bánh táo đảo ngược là món ưa thích đối với nhiều người. Trong lúc nướng nó có vẻ giống như là bình thường và bằng phẳng, nhưng khi được phục vụ với đường, nước sốt và mứt trên đỉnh. Chúng ta có thể tin rằng Mẹ Maria đã không bao giờ nướng bánh táo lật ngược cho Chúa Giêsu (vì Giuđêa thời gian đó chưa nhập khẩu của Hawai), nhưng nếu Mẹ đã làm bánh táo này thì đó là món ưa thích đối với Chúa Giêsu. Lý do là khi bánh đảo ngược xuống giới thiệu những giá trị của Chúa Giêsu vì chúng xuất hiện trên bề mặt úp xuống.
Xã hội thế tục nói rằng: “Hãy tiến lên phía trước, hãy cạnh tranh. Đừng để bất cứ ai vượt qua mặt bạn. Hãy trình bày cho mọi người biết ông chủ là ai. Hãy làm cho mọi người nghĩ rằng bạn là quan trọng. Hãy tự chăm sóc như là số một. Hãy làm điều đó”. Ngay những tông đồ mặc dù không sống trong kỷ nguyên của chúng ta “nơi cái bánh ngọt lật ngược” họ đã nếm, đã thưởng thức với những loại tham vọng mà xã hội của chúng ta ngày nay đang tiến cử và Chúa Giêsu thì chống lại nó.
Tham vọng nơi lòng của Giacôbê và Gioan thì mạnh mẽ khiến cho họ bạo gan đòi hỏi Chúa Giêsu cho họ được ngồi ở chỗ quan trọng, bên phải hoặc bên trái Người khi Ngài tiến vào trong vinh quang của Người. Họ nhấn mạnh: “Hãy xem”. Chúng ta không chắc là những tông đồ đã tranh luận điều đó với Chúa Giêsu trong bao lâu, nhưng Giacôbê và Gioan đã không hiểu cả hai: Giáo huấn và gương mẫu của Chúa Giêsu.
Giáo huấn chắc chắn của Chúa Giêsu là khiêm nhường không được kiêu ngạo, đó là chúng ta phải sẵn lòng phục vụ người khác, không thống trị người khác. Từ khi Giacôbê, Gioan và những tông đồ khác đã thất bại trong việc nắm bắt giáo huấn của Chúa Giêsu, Người đã trở thành rõ ràng bao nhiêu có thể. Ngài nói: “Bất cứ ai trong các ngươi muốn làm lớn thì phải phục vụ như người hầu hạ, bất cứ ai muốn ngồi chỗ nhất thì phải phục vụ tất cả những người có nhu cầu”. Đó là tóm tắt tất cả giáo huấn của Người.
Gương mẫu của Chúa Giêsu còn quan trọng hơn giáo huấn của Ngài nữa, Chúa Giêsu là người Con đời đời của Thiên Chúa, đã rời bỏ ngai tòa trên trời mà trở nên một với chúng ta. Ngài đã từ bỏ tất cả những xa hoa của xã hội thế tục, Chúa Giêsu đã khiêm tốn, Ngài khiêm tốn trong suy nghĩ, không phải cho chính Ngài nhưng cho chúng ta, Ngài đã trở thành con người, Người trở thành tư tế, trở thành Đấng Cứu độ chúng ta, Đấng mà chúng ta có thể tin tưởng và nhận được lòng thương xót và giúp đỡ trong những giây phút cần. Đó là gương mẫu của Người mà Người đã trình bày trong khi tuyên bố: “Này Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng phục vụ và hiến trao mạng sống để cứu chuộc muôn dân”.
Khi chúng ta tham dự Thánh Lễ, chúng ta vẫn còn tiếp tục là nhân chứng cho sự khiêm nhường của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến với chúng ta trong bí tích Thánh Thể không phải để đặt bẫy cho sự trung thành hoặc là ở giữa những tiếng xập xình của các tín hữu hoặc là ở giữa những tiếng kèn trumbét của các thiên thần trên trời. Ngài đã đến trong sự khiêm tốn, Ngài đã sẵn lòng trở nên tầm thường, một tấm bánh đơn giản trở nên thân thể của Người, và Người đã thay đổi rượu nho rẻ tiền trở thành Máu Người, Người đã làm như thế để phục vụ chúng ta và không có điều gì hơn là để cho chúng ta có thức ăn và thức uống, nhưng chính Người là của nuôi sống thiêng liêng cho chúng ta. Thiên Chúa có thể nghĩ được điều gì hơn, gương mẫu nào hơn, trong sự khiêm nhường và phục vụ để cạnh tranh hơn không? Hãy để cho những người khác ước ao cố gắng làm Chúa trên những người khác thấy điều này, tất cả chúng ta có gương mẫu và giáo huấn của Chúa Giêsu. Một số người đã cố gắng làm ra vẻ quan trọng, Chúa Giêsu nói: “Đừng làm như thế”.
Thật là tồi tệ khi các tông đồ đã không bao giờ ăn một cái bánh đảo ngược, điều đó thì có thể cho họ nhưng điều đo cũng sẽ là cho chúng ta, một dấu hiệu mà Chúa Giêsu đã đảo ngược lại thành đúng chiều.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Ghế tượng trưng cho địa vị, quyền lực và quyền lợi, nên ghế là nỗi ám ảnh của nhiều người.
Ghế trưởng phòng, ghế giám đốc, ghế đại biểu… Tất cả nỗ lực dồn vào việc có một ghế, sau đó là giữ ghế, hay tìm cách lên ghế cao hơn. Ngay cả những người đã bỏ mọi sự để theo Chúa cũng bị ám ảnh bởi những chiếc ghế danh dự.
Chính lúc Đức Giêsu nói đến cái chết gần kề của mình, thì Gioan và Giacôbê lại xin được ngồi hai bên tả hữu. Có vẻ họ không bắt được tần số của Thầy!
Thanh tẩy mình khỏi tội lỗi không khó lắm. Nhưng thanh tẩy mình khỏi nhân đức và công trạng của mình thì khó hơn bội phần.
Hai môn đệ đã từ bỏ những điều rất cao quý, nhưng bây giờ lại muốn kiếm chút lợi lộc từ chính sự từ bỏ và phục vụ của mình.
Họ dám lên tiếng đòi hỏi Đức Giêsu: “Chúng con muốn Thầy làm cho chúng con điều chúng con xin.” Thái độ bực tức của mười môn đệ còn lại có thể bắt nguồn từ một sự ganh tỵ ngấm ngầm. Nhiều môn đệ cũng ước mơ hai ghế tả hữu.
Đức Giêsu kéo hai ông ra khỏi tham vọng và đam mê để đưa họ trở về với thực tại gai góc sắp đến. Họ muốn được chung phần với Ngài trong vinh quang, nhưng liệu họ có dám chia phần với Ngài trong đau khổ? Uống chung chén đắng Thầy sắp uống, chịu chung phép Rửa Thầy sắp chịu là chấp nhận bị dìm sâu xuống dòng nước khổ đau.
Thật ra được ngồi hai bên tả hữu Thầy trong vinh quang đâu phải là phần thưởng để trả công cho người bền chí. Trung tín theo Chúa đến cùng đã là phần thưởng rồi.
Chúng ta không giữ đạo để đòi một chỗ thật cao, nhưng mong được ban một chỗ thật gần bên Chúa.
Người đứng đầu, người làm lớn, người có quyền thường dễ có thái độ thống trị, áp đặt, hống hách. Chức vụ và quyền lực trở thành phương tiện phục vụ bản thân. Đó là lối lãnh đạo dễ thấy nơi người đời.
Đức Giêsu không chấp nhận chuyện đó nơi Hội Thánh: “Nơi anh em thì không như vậy.” Ngài đề xướng một lối lãnh đạo mới. Ai muốn làm lớn, làm đầu trong Hội Thánh phải trở nên đầy tớ và nô lệ cho mọi người.
Đức Giêsu mời chúng ta làm một cuộc cách mạng lớn, không phải chỉ là đổi ngôi, mà là đổi lòng. Tận diệt trong tim những tham vọng ăn trên ngồi trước. Đức Giêsu không ủng hộ một xã hội hay Giáo Hội vô tổ chức. Nhưng Ngài coi lãnh đạo là khiêm nhường phục vụ.
Phục vụ là động từ tóm kết toàn bộ đời Đức Giêsu.
Ngài đến trần gian để phục vụ, sống như người phục vụ, và chết như dấu chứng lớn nhất của phục vụ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Giêsu chết để chuộc ta khỏi cảnh nô lệ. Ngài tự nguyện trở nên nô lệ để giải phóng ta. Theo bạn, con người hôm nay vẫn nô lệ cho những điều gì? Đâu là những hình thức nô lệ mới của thế kỷ 21?
“Lãnh đạo là phục vụ”. Câu này khá quen thuộc với chúng ta. Bạn nghĩ sống khẩu hiệu này có khó không? Tại sao?
Cầu Nguyện
Lạy Thầy Giêsu, Thầy không gọi chúng con là tôi tớ, Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ. Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy, vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con những điều riêng tư thầm kín nhất trong tương quan giữa Thầy với Cha. Hơn nữa, sau phục sinh, Thầy đã gọi các môn đệ là anh em. Mặc nhiên Thầy tự nhận mình là Anh Trưởng đứng đầu một đoàn em đông đúc. Xin cho chúng con luôn thi hành ý muốn của Cha để trở nên những người em cùng huyết nhục với Thầy.
Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy. Còn Thầy lại hạ mình xuống phục vụ chúng con như người tôi tớ rửa chân cho chúng con như một nô lệ và chết thay cho chúng con trên thập giá. Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’).
Vài ghi nhận chi tiết trước khi đi vào một khía cạnh sâu sắc của bài Phúc Âm Giacôbê và Gioan là con ông Zêbêđê và bà Salômê, bà này có họ xa với Chúa Giêsu. Theo một tục lệ phương đông và đặc quyền huyết tộc, hai anh em có lẽ cho việc cầu cạnh những chỗ trên trước là thường tình vì tất cả tộc họ đều được dự phần vào sự làm nên người trong họ. Mặt khác, ta ghi lại câu đáp của hai anh em trả lời Chúa: Thưa được. Tầm mức của câu đáp đi tới đâu? Có thể họ nghĩ tới sự thiết lập vương quốc mà toàn dân mong đợi, sẽ không tránh được khó khăn và hai anh em tuyên bố sẵn lòng đương đầu. Dường như họ không ý thức được thực tại sau này của Thập Giá. Trong Kinh Thánh, có những đoạn lấy chén uống làm biểu tượng cho niềm vui, trong những đoạn khác làm biểu tượng cho cay đắng, ở đây Chúa theo nghĩa chén uống chỉ sự cay đắng, và phép rửa Người nói đến trong đoạn này có nghĩa tương tự với câu chúng ta thường nói ngày này: ‘Bị dìm sâu trong thống khổ’.
1) Chén Ta phải uống… thanh tẩy ta chịu. Chúa dùng những từ ngữ mà mãi sau cuộc Khổ nạn và Phục sinh các môn đệ mới hiểu, để loan báo rằng số mệnh dưới thế của người không phù hợp với khái niệm của các môn đệ. Họ bám chắc lấy phương án trù hoạch, một vương quốc thế gian mà Chúa sẽ là Vua. Khó khăn lắm Chúa mới đảo ngược não trạng đó và chuyển đổi hy vọng của các môn đệ từ tầm mức tham vọng trần tục, đến thực tại công cuộc cứu rỗi. Cũng giống nhiều đoạn Phúc Âm khác, câu hỏi của Chúa chất vấn chúng ta ngày nay. Cuộc phấn đấu nói trong Phúc Âm, chúng ta quan niệm nó như thế nào? Mục tiêu chúng ta là gì? Giả sử nhân danh lý tưởng quảng đại của một nhân loại tốt đang sống, chúng ta phấn đấu cho một ý thức hệ trong đó Phúc Âm chỉ là một sự đóng góp trong giả thuyết ấy, chúng ta sẽ chỉ mưu tìm chiến thắng cho những tư tưởng của chúng ta. Trên hình diện này, ở ngoài Phúc Âm cũng có những chủ nghĩa độ thế có độ lượng nhưng là thứ độ lượng cuồng tín. Lời kêu gọi trước tiên và đặc thù của Phúc Âm thuộc một trật tự khác, Phúc Âm mời chúng ta tham dự thanh tẩy và chén đắng của Chúa Giêsu.
2) Ai muốn làm lớn trong các ngươi, thì hãy hầu hạ các ngươi. Chúa cố tháo gỡ một thứ xác tín theo bản năng ra khỏi đầu óc các môn đệ, thứ xác tín này khiến người ta nghĩ rằng điều quan trọng là tổ chức thế giới hiện đại theo những lời phán hứa của Thiên Chúa, được họ hiểu theo hướng nghĩ vật chất. Trong thế giới ấy, dịch vụ ‘tốt’ là chiếm lấy những chỗ tốt nhất. Vậy mà Nước Trời có những quy luật khác. Trước khi chính mình làm gương phục vụ hoàn toàn, Chúa cố giác ngộ các môn đệ cho họ ý thức được sự đòi hỏi đó. Chúa làm họ ngẩn ngơ, họ không hiểu Chúa muốn nói gì, nhưng sau này, họ sẽ hiểu và không quên bài học đó. Sau cuộc khổ nạn và Phục Sinh, họ sẽ phát hiện rằng: Tâm điểm của sự đòi hỏi phục vụ chính là tình yêu. Chúa tự hiến, vì tình yêu cho Cha Người, từ Chúa Cha phát xuất tình yêu của Chúa đối với loài người. Tình yêu thương của chúng ta đối với anh em nhân loại có đích thật vững vàng, bền bỉ, độ lượng, rộng lớn, sẵn sàng phục vụ là tùy thuộc ở mức độ chúng ta bị thâu tóm bởi tình yêu của Đức Kitô.
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm – theo gợi ý của cha Ngọc Hàm)
Đây là câu chuyện vạch rõ cho chúng ta thấy được nhiều điều hay, về 3 tuyến nhân vật: (1) về Matcô, người thuật chuyện; (2) về hai anh em kia, nhân vật phản diện; và (3) về Chúa Giêsu, nhân vật chính diện
Matthêu cũng kể câu chuyện này (Mt 20, 20-23) nhưng lời yêu cầu không do Giacôbê và Gioan đích thân nêu ra, nhưng do mẹ của hai ông là bà Salômê. Có lẽ Matthêu cảm thấy rằng một lời yêu cầu như thế là không xứng đáng cho một tông đồ, nên nhằm cứu vãn tiếng tăm cho Giacôbê và Gioan, ông đã gán lời yêu cầu đó cho tham vọng tự nhiên của bà mẹ. Còn Matco nói rõ: chính 2 ông đến xin. Câu chuyện này cho chúng ta thấy sự thành thực của Maccô.
Người ta kể rằng có một họa sĩ trong triều đình vẽ chân dung cho Oliver Cromwell là người đầy mụn cóc. Nghĩ là để làm vui lòng Oliver, họa sĩ không vẽ những mụn cóc đó trong bức họa. Khi Cromwell thấy như vậy ông nói “dẹp bức chân dung này đi, vẽ cho ta một bức đầy đủ các mụn cóc”.
Mục đích của Maccô là muốn chúng ta thấy đầy đủ mụn cóc của các tông đồ. Khi mười người môn đệ kia nghe biết thì đâm ra tức tối với hai ông. Không phải vì họ khiêm tốn nhưng vì họ cũng muốn những điều tương tự như hai ông. Và Maccô đã có lý, vì mười hai tông đồ vốn không phải là tập thể các vị thánh. Họ chỉ là những con người bình thường, đầy mụn cóc.
Chúa Giêsu đã dùng những con người tầm thường thế đó để thay đổi thế giới. Điều này đã thành hiện thực.
– Hai ông vốn có nhiều tham vọng. Họ nhắm những chức vụ cao nhất trong vương quốc của Chúa Giêsu khi cuộc chiến đã thắng và sự khải hoàn đã trọn vẹn. Có thể tham vọng đó đã manh nha, vì nhiều lần Chúa Giêsu từng biệt riêng họ ra trong số ba người chọn lọc tin cẩn. Hiển dung, chữa lành em bé chết sống lại, Lc 8, 51, vườn cây dầu. Có thể họ đã có một chỗ đứng khá hơn những tông đồ khác, dám xin lửa từ trời xuống thiêu đốt làng không cho thầy trò đi qua.
Thân phụ họ vốn khá giả đủ để thuê người giúp việc nên họ tưởng rằng ưu thế và địa vị xã hội có thể giúp họ chiếm được địa vị hàng đầu. Họ lại quen thượng tế: đâu phải dễ. “Môn đệ kia vì quen thượng tế, nên cùng với Chúa Giêsu vào sân trong tư dinh thượng tế” (Ga 18,15). Cho nên với câu chuyện xin xỏ nầy, để lộ cho thấy họ là những con người từ nơi sâu kín của lòng, có tham vọng chiếm giữ vị trí hàng đầu trong vương quốc trần gian.
– Nó cho chúng ta thấy hai ông hoàn toàn không hiểu Chúa Giêsu. Điều lạ lùng đối với chúng ta không phải là sự kiện ấy đã xảy ra, nhưng là thời gian mà sự việc ấy đã xảy ra. Lời yêu cầu này khiến chúng ta phải bàng hoàng vì nó được đưa ra hầu như trùng hợp với lúc Chúa Giêsu tuyên bố dứt khoát và báo trước chi tiết về cái chết của Ngài. Chứng tỏ họ đã hiểu quá ít ỏi những gì Chúa Giêsu nói. Lời lẽ của Ngài đã không gột rửa được ý niệm về Đấng Messia với quyền thế và vinh hiển thế gian, vốn ăn sâu trong tâm trí hai ông. [Chỉ có thập giá mới làm nổi việc ấy mà thôi.]
– Nhưng sau khi đã nói tất cả những gì có thể nói chống lại Giacôbê và Gioan thì câu chuyện này cho chúng ta thấy một điểm sáng chói về hai ông là: dù họ đang bàng hoàng, bối rối, họ vẫn tin vào Chúa Giêsu.
Điều đáng ngạc nhiên là họ vẫn còn gắn liền vinh quang với một người thợ mộc dân Galilê, người đã bị các cấp lãnh đạo chính thống giáo thù ghét, chống đối kịch liệt và rõ ràng đang tiến đến chỗ nhận lấy thập giá. Đây là một lòng tin cậy tập trung đáng cho chúng ta phải kinh ngạc. Họ vẫn đánh cuộc, vẫn “bắt” Giêsu (như trong cá cược bóng đá, biết một đội đủ mặt yếu, mà vẫn nhìn thấy được tương lai, tin mãnh liệt, để “bắt” đội đó thắng !). Dù Giacôbê và Gioan đã phạm sai lầm, tấm lòng của họ vẫn nằm đúng vị trí đáng phải có. Họ chẳng hề hoài nghi gì về chiến thắng khải hoàn tối hậu của Chúa Giêsu.
Chúa nói: ai muốn làm lớn (vĩ đại), phải trở nên người nhỏ nhất. Ai muốn làm đầu, phải hầu thiên hạ.
Câu nói xem ra nghịch lý nhưng sự đời lại thường như vậy, kiểu như câu nói cán bộ lớn đi xe con, cán bộ nhỏ đi xe lớn.
Nhà chiến lược kinh doanh Bruce Barton chỉ cho thấy rằng căn bản là một hãng ôtô dựa vào để lưu tâm của khách hàng là họ sẵn sàng chui xuống gầm xe bạn thường hơn, chịu dơ bẩn bất cứ lúc nào. Nói cách khác, họ sẵn sàng phục vụ nhiều hơn, thì hãng xe của họ lớn mạnh hơn.
Barton cũng chỉ cho thấy rằng trong khi người thư ký bình thường có thể đi về nhà từ 5 giờ 30 chiều, thì ánh đèn trong văn phòng giám đốc điều hành vẫn còn sáng đến tối. Vì sẵn sàng phục vụ thêm giờ mà người ấy đứng đầu xí nghiệp.
Mẹ Têrêxa Calcutta phục vụ những người hèn mọn nhất, những người hấp hối không một chút tiện nghi tối thiểu, những trẻ em bị bỏ rơi, mà rồi trở nên vĩ đại, đến nỗi khi chết, Ấn Độ, một nước Ấn giáo là quốc giáo, cử quốc tang với 21 phát súng tiễn mẹ.
Hôm nay cũng là lễ cầu nguyện cho truyền giáo. Sứ điệp truyền giáo năm nay của ĐGH có chủ đề: “Cùng với người trẻ, chúng ta mang Tin Mừng cho tất cả mọi người” nhân Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới đang họp tại Roma về chủ đề người trẻ.
Có 1 ông đã kể lại lý do và động lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá còn trẻ, chị tỏ ra rất tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: ‘Chị quỳ làm gì thế ?’. Chị trả lời: ‘Tôi cầu nguyện cho ông’. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy. Giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa. Khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những người bạn tốt của nhau.
Việc xin ngồi bên hữu bên tả của Thầy rút ra bài học hay này: Chúng ta không giữ đạo để đòi một chỗ thật cao, nhưng mong được ban một chỗ thật gần bên Chúa. Bên phải bên trái là sát bên Thầy. Mà Chúa đồng hóa mình với người tôi tớ, người bé nhỏ, người hèn mọn, cho nên càng là người tôi tớ, càng phục vụ, càng được ở gần Thầy.
Francis Joseph, hoàng đế nước Áo và vua nước Hungari từ 1848 đến 1916, một triều đại dài nhất trong lịch sử, cũng là triều đại tiến bộ nhất. Francis Joseph là người nghiêm khắc nhưng ông trị vì rất khoan dung. Khởi đầu triều đại ông, bệnh dịch tả lan tràn khắp Châu Âu. Người ta xin Francis rời Vienna để lánh nạn sang Salzburg cho tới khi tai nạn qua đi.
Hoàng đế hỏi: “Ở Salzbugr có đủ phòng cho các con ta không?” Quan cố vấn trả lời: “Chắc chắn, tâu Hòang Thượng, có nhiều phòng cho tất cả hoàng gia”.
“Có thực sự đủ phòng cho các con ta?” Vừa chỉ tay qua cửa sổ lâu đài, về phía đám đông dưới, hoàng đế vừa nhắc lại: “Hãy nhìn đám dân này. Chúng là con của ta. Cha của chúng bỏ mặc chúng trong nguy hiểm sao? Không, những người thành Viena yêu quí luôn chia sẻ vui buồn với ta. Ta sẽ không bỏ họ trong giờ lo âu”.
Chúng ta vừa nghe: Hai môn đệ Đức Kitô. Giacôbê và Gioan muốn được địa vị vinh dự và uy quyền trong Nước Chúa, Chúa Giêsu nhắc họ rằng: “Những người cai trị thế gian thì sai khiến con dân mình. Nhưng đó không phải là đường lối của Nước Chúa. Trong Nước Chúa ai có quyền bính phải là đầy tớ của người dưới quyền mình”. Francis Joseph là một tấm gương về điều ấy.
Ngày nay, người ta tranh luận nhiều về quyền bính và tự do. Một chân lý nền tảng cho cuộc tranh luận này là: Trong mọi xã hội, loài người đều phải có người nắm quyền bính, một người có quyền và có bổn phận ra lệnh, một người có quyết định tối hậu. Bạn không thể có một quốc gia không người thủ lĩnh. Bạn không thể có một đội banh không huấn luyện viên, một chiếc tàu không có thuyền trưởng, một quân đội không tướng, một bộ lạc không tù trưởng, một xí nghiệp không giám đốc. Mỗi tập thể loài người đều phải có “ông Bầu” hoặc chỉ định hoặc bầu lên.
Chúa Giêsu biết cần phải có quyền bính. Người chỉ than phiền là nhiều người lạm quyền, lạm dụng quyền bính. Người ta ích kỷ, bất công, có khi còn tàn bạo nữa. Trong Nước Chúa Kitô, người lãnh đạo phải là đầy tớ của mọi người.
Bây giờ chúng ta tìm câu trả lời cho vấn đề quyền bính và tự do. Người chỉ huy phải dự tính và hành động vì lợi ích của tập thế. Cùng lúc người dưới phải được tự do góp ý, có khi còn phải phê bình nữa. Tóm lại, mọi người phải hành động theo quyết định của người có trách nhiệm với đoàn thể. Cũng vậy trong một thể chế dân chủ, người lãnh đạo được bầu lên có bổn phận phải quyết định.
Đây cũng là đường lối trong đơn vị xã hội nhỏ bé nhất và quan trọng nhất: gia đình. Nhiều gia đình bàn luận về mọi vấn đề và quyết định như một tập thể. Rất nhiều gia đình không có ai chịu trách nhiệm tối hậu. Đó cũng là tình trạng của nhiều tổ chức như trường học và xứ đạo. Do đó chúng ta thường thấy: đáng lý những người phải vâng lời lại ra lệnh cho người có trách nhiệm.
Việc phượng tự chung của gia đình Chúa là một điển hình tập thể nghĩ tưởng và hành động với nhau. Thánh lễ có thể dạy chúng ta ra lệnh thế nào và tuân lệnh làm sao.
Xin Chúa chúc lành bạn.
CHUYỆN MINH HỌA LỜI CHÚA
Đức Hồng Y Roncalli đi xa về, phái đoàn tòa giám mục ra đón. Ngài vừa bước xuống xe, mọi người ngạc nhiên thấy trên áo còn mấy cọng rơm. Có người hỏi thì ngài cười xòa vui vẻ, nhưng các kẻ đi theo ngài thì biết rõ căn do. Trên đường về, ngài thấy chiếc xe bò chở rơm sa hố. Ngài bảo dừng xe lại, xuống phụ đẩy với anh nông dân, nên áo dòng của ngài dính rơm như thế.
Và sau khi lên ngôi Giáo hoàng, ngài lấy tên là Gioan XXIII, ngài vẫn sống giản dị và hy sinh phục vụ như thế. Chẳng hạn một hôm giáo triều báo động “Đức Giáo hoàng mất tích.” Nhân viên an ninh đổ xô đi tìm. Cuối cùng người ta gặp ngài đang chuyện trò thân mật với các tù nhân ở khám đường Rôma.
Vị sáng lập Cộng đoàn Emmaus là cha Pierre, chuyên lo phục vụ người nghèo. Cha kể một trong những cộng sự viên đắc lực nhất của cha là một cựu tù nhân lang thang không nhà không cửa. Người đàn ông này thất vọng chán đời đến nỗi dùng dao cắt mạch máu trên tay mình để tự vẫn. Thấy vậy có người điện thoại cho cha hay. Cha lập tức đến nơi, thấy người đàn ông với cánh tay máu chảy đầm đìa. Cha không an ủi mà nói như ra lệnh.
– Anh không được tự vẫn. Còn rất nhiều người kém may mắn hơn anh. Họ đang cần sự giúp đỡ của anh. Và chính tôi cũng đang bệnh và tôi cần đến anh…
Nghe những lời đó, người đàn ông với đôi mắt lờ đờ bỗng sáng lên. Anh để cho người ta băng lại vết thương, và từ đó trở thành cộng sự viên đắc lực của cha Pierre, tận tụy hy sinh phục vụ người nghèo khổ bất hạnh.
Cậu bé nọ đi học về trễ mãi mà không có lý do. Cha mẹ cậu hết lời khuyên bảo, nhưng cậu cứ chứng nào tật nấy. Quá thất vọng, cha cậu gọi cậu và nói, “Lần sau nếu con còn về trễ nữa, con chỉ được ăn tối với bánh mì và nước lã thôi, ngoài ra con không được ăn thứ gì khác. Con nghe rõ chưa?” Cậu bé nhìn cha nó và gật đầu.
Nhưng vài ngày sau, cậu lại đi về trễ hơn mấy ngày trước nữa. Tối hôm đó, khi mọi người vào bàn ăn, cậu bé thấy trên đĩa của cha cậu đầy dẫy thức ăn, trên đĩa của mẹ cậu cũng thế. Còn đĩa của cậu chỉ có ổ bánh mì, bên cạnh là một ly nước lã. Nhìn thấy đĩa thức ăn của mình, cậu bé buồn tủi đến nỗi chảy nước mắt. Phần vì bụng đói, phần vì biết chắc không thể nuốt trôi. Đây chính là hình phạt cha mẹ cậu đã nói trước.
Nhưng khi ngồi vào bàn ăn, cha cậu lặng lẽ cầm lấy đĩa thức ăn của cậu đặt trước mặt ông, rồi lấy đĩa thức ăn của ông đặt xuống trước mặt cậu. Cậu bé hiểu ngay việc cha cậu làm. Vì thương cậu, cha cậu hy sinh nhận lấy hình phạt thế cho cậu.
Bác sĩ Lloyd Judd hành nghề ở vùng quê Oklahoma. Nhiều bệnh nhân của ông nghèo và không có phương tiện di chuyển. Vì thế ông thường phải lái xe đến nhà họ và chữa trị cho họ. Một ngày nọ, bác sĩ đau nặng, phải nhập viện và khám phá mình mắc căn bệnh ung thư ở giai đoạn cuối. Ông nghĩ đến các con nhỏ của ông. Ông có nhiều điều muốn nói với chúng, nhưng chúng còn quá nhỏ chưa thể hiểu được. Do đó, ông ghi điều ông muốn nói vào một số cuốn băng. Ông nói với các con:
– Các con có sẵn sàng ra khỏi nệm ấm, xông vào đêm tăm tối giá lạnh, và lái xe suốt 20 dặm để thăm bệnh nhân, dù biết rằng họ không có tiền trả, và họ có thể chờ đến sáng chỉ để được chữa trị không? Nếu các con có thể trả lời “có,” tức là các con có thể theo học y khoa được.
Vào thời thập tự chinh, hoàng đế Philippe Auguste có làm cử chỉ đặc biệt. Trước mỗi lần lên đường ra trận, ông tháo gỡ triều thiên đang đội trên đầu xuống đặt nó trên bàn rồi ghi dòng chữ, “Dành cho người nào xứng đáng nhất.” Sau đó ông quy tụ quan quân lại và yêu cầu họ hãy quên ông là vua mà chỉ coi ông là người chỉ huy của họ thôi. Ông nói, “Chiếc vương triều này được dành cho người nào xứng đáng nhất trong cuộc chiến đấu.”
Cuộc viễn chinh đã hoàn tất tốt đẹp. Mọi người hát khúc khải hoàn ca trở về quê hương. Họ tụ hợp lại xung quanh vương triều, một viên cận thần tiến đến cầm lấy chiếc vương triều trước mặt vua và nói, “Tâu bệ hạ, bệ hạ là người xứng đáng nhất!”
Một hôm, khách qua đường gặp một triết gia nổi tiếng người Hy lạp. Ông ta đứng ở góc đường và cười nắc nẻ một cách đắc chí. Ai cũng tưởng ông là người điên nên không thèm để ý.
Sau cùng, có một người đánh bạo đến gần và hỏi:
– Vì lý do gì ông cười như vậy?
Ông ta trả lời:
– Ông có thấy cục đá nằm giữa đường kia không? Từ sáng tới giờ không biết bao nhiêu người đã vấp ngã vì hòn đá đó, và họ bực mình chửi bới. Thế nhưng, không có một ai cúi xuống nhặt hòn đá vứt khỏi lối đi để người khác khỏi bị vấp ngã.
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Đọc bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, hình như ai cũng đều thông cảm với phản ứng tự nhiên của các vị tông đồ về thái độ có vẻ vừa ham danh vừa ngông cuồng liều lĩnh của hai anh em Gioan và Giacôbê, khi cặp anh em tông đồ này công khai xin Chúa Giêsu cho một người ngồi bên phải và một người ngồi bên trái của Người khi Người được vinh quang. Như thế, qua mối cảm thông này, độc giả đọc bài Phúc Âm đây còn cho thấy họ cũng có cùng ý nghĩ như các tông đồ, nghĩa là họ cũng cho rằng hai anh em tông đồ này ham danh và ngông cuồng liều lĩnh. Tuy nhiên, thực tế có đúng như vậy hay chăng, hay các tông đồ bấy giờ và chúng ta hiện nay đã hiểu lầm cặp anh em tông đồ vốn được Chúa Giêsu dẫn theo cùng với tông đồ Phêrô đến một số nơi đặc biệt, điển hình nhất là cuộc biến hình trên núi cao của Người (x Mk 9:2), hay trường hợp Người hồi sinh đứa con gái của ông Giairô (x Mk 5:37)?
Nếu để ý kỹ chúng ta thấy Chúa Giêsu chỉ lên tiếng dạy các tông đồ làm đầu là phục vụ sau khi 10 vị tông đồ cảm thấy ghen tức với hai anh em tông đồ Gioan và Giacôbê mà thôi. Chứ trước đó, Người không hề nói gì, mà còn tỏ ra vui vẻ (dù nghiêm nghị) đối đáp với lời yêu cầu có vẻ điên cuồng của anh em họ. Hình như Người đã thấy được lòng thành của cặp anh em này trong việc họ muốn cương quyết theo Người cho đến cùng, dù có phải uống chén đắng đau thương với Người, vì khi được vinh dự chịu đau khổ với Người là hưởng vinh quang với Người rồi vậy. Lịch sử đã cho thấy, quả thực, sau đó, hai anh em tông đồ này, một người đã được ngồi bên hữu của Chúa Kitô, đó là tông đồ Gioan, người tông đồ duy nhất đã cùng với Mẹ Maria đứng bên thập giá của Người để chứng kiến và cảm thông (uống) với cảnh vô cùng đau thương của Thày mình, và một người bên tả, đó là tông đồ Giacôbê, vị đã là giám mục đầu tiên ở Giêrusalem cũng là vị tông đồ tử đạo (x. Acts 12:2) trước hết trong các tông đồ, vị tông đồ bởi thế là vị đầu tiên được Chúa Kitô cho uống chén tử nạn với Người và như Người.
Sau đây chúng ta hãy đọc lại chương 9: “Tham lam Liều Lĩnh như Trẻ Nhỏ” của người viết trong cuốn “Trở Nên Như Trẻ Nhỏ” (Cao-Bùi 1994, trang 133-148)
Trong câu chuyện xin được ngồi hai bên Chúa Giêsu trong vương quốc của Người (xem Mathêu 20:20-28), không biết ai là người đã nghĩ đến tư tưởng nay đầu tiên.
Một là chính từ ba mẹ của hai anh em Giacôbê và Gioan, vì bà đã lên tiếng xin điều hết sức quan trọng này một cách trịnh trọng và thẳng thắn. Trịnh trọng ở chỗ, thứ nhất, bà đến xin Chúa “cùng với hai con của bà” (Mathêu 20:20), thứ hai, bà “phục lạy Người mà xin” (Mathêu 20:20), thứ ba, chỉ sau khi Chúa Giêsu lên tiếng hỏi “Bà muốn điều gì đây?” (Mathêu 20:21), bà mới dám nói (xem Mathêu 20-21). Thẳng thắn ở chỗ, sau khi đã làm đủ các lễ nghi tương xứng theo như bà nghĩ, và sau khi được Chúa Giêsu ban phép, bà đã không úp mở gì cả:
“Xin hứa với tôi là hai đứa con của tôi đây, một đứa sẽ được ngồi bên phải và một đứa sẽ được ngồi bên trái của Thày trong vương quốc của Thày” (Mathêu 20:21).
Phần Chúa Giêsu, có ít nhất hai điều chắc chắn ở đây là, thứ nhất, trước khi ba mẹ của hai anh em Giacôbê va Gioan mở miệng xin Người điều này, thì Chúa Giêsu đã biết bà muốn gì rồi; thứ hai, Người cũng thừa biết trước phản ứng “bất mãn khó chịu của mười người kia đối với hai anh em này” (Mathêu 20:24). Thế mà Người vẫn gợi ý để cho bà ấy phát biểu ra trước mặt tất cả các tông đồ.
Hành sử như thế, có thể Chúa Giêsu muốn lợi dụng dịp này để dạy cho các thánh tông đồ biết về tinh thần va đường lối làm đầu là làm tôi như gương sống động của Người. Bởi thế, sau khi thấy phản ứng của mười tông đồ đối với hai anh em Giacôbê và Gioan, phản ứng có tính cách người lớn, tỏ ra tranh giành, ghen tương đố kị theo kiểu trần tục, Chúa Giêsu mới “gọi họ lại mà nói:
“Các con biết những kẻ cầm quyền trong dân ngoại thì làm chúa cai trị nhau, tỏ ra ta đây. Nhưng các con không được như vậy. Ai trong cac con muốn làm lớn thì phải phục vụ những người còn lại. Ai muốn lãnh đạo trong các con thì phải phục vụ nhu cầu của tất cả mọi người. Đó là cách thức mà Con Người đã đến không phải để được người khác phục dịch, nhưng là để phục vụ, để hiến mình làm giá chuộc cho nhiều người” (Mathêu 20:25-28).
Ngoài ra, Chúa Giêsu cố ý lên tiếng hỏi trước để cho ba mẹ của hai anh em Giacôbê và Gioan dễ dàng mở lời xin một điều ngoại lệ như thế, chứng tỏ điều yêu cầu có vẻ tham quyền cố vị phàm tục này của ba chẳng những không làm phật lòng Người là Đấng “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mathêu 11:29), mà còn làm cho Người có vẻ hài lòng nữa là đàng khác, bằng không, Người đã không mất giờ mặc cả với hai người con của bà làm gì!
Phần Giacôbê và Gioan, cũng có thể một trong hai người đã nghĩ đến điều yêu cầu này, song không dám trực tiếp xin cùng Thày mình, nên đã khôn khéo xúi mẹ mình đứng mũi chịu sào. Có thể kinh nghiệm sống với Thày đã gợi lên cho Giacôbê và Gioan chính điều yêu cầu này cũng như cho hai anh em cách chiếm được điều mình muốn xin với Thày.
Về chính điều yêu cầu được ngồi hai bên Chúa Giêsu trong vương quốc của Người có thể đã nẩy sinh từ kinh nghiệm nhiều lần hai anh em là bộ ba, (cùng với tông đồ trưởng Phêrô), dẫn đi sát với Người hơn các vị tông đồ khác nói riêng và các môn đệ của Người nói chung. Chẳng hạn như lần đến hồi sinh cho bé gái (xem Marcô 5:37) và lần được chứng kiến Chúa biến hình trên núi cao (xem Mathêu 17:1).
Theo tự nhiên, có thể vì thấy rằng hai anh em mình được Chúa Giêsu thương đặc biệt như thế, qua một số lần được Người ưu đãi cách riêng, (chưa kể còn một lần sau này cả hai còn được vao vườn cầu nguyện với Người trước khi Người nộp mình), mà cả hai đã nghĩ mình có giá, cần được Chúa Giêsu xác nhận vị thế của mình chăng?
Về cách thức nhờ đến bà mẹ để xin Chúa Giêsu điều yêu cầu của mình, chứ không dám đứng ra xin lấy, kinh nghiệm cũng dạy cho hai anh em Giacôbê và Gioan biết phán đoán của hai đấng cho dù tốt lành mấy cũng chưa chắc đã hợp với với ý của Thày Chí Thanh. Chẳng hạn lần hai vị bị Người “quở trách” (Luca 9:55) vì các vị tỏ ra mình là người lớn, bực tức khi thấy Thày Chí Thánh của mình bị dân Samaria không chịu tiếp rước, đã trở nên nóng nảy đến nỗi: “Thưa Thày, Thày có muốn chúng con gọi lửa trời xuống hủy diệt họ đi không?” (Luca 9:54).
Phải chăng vì bản chất trực tính nóng nẩy sốt sắng này của hai anh em Giacôbê và Gioan mà Chúa Giêsu, qua Phúc Âm thánh Marcô đã viết, “Người đặt cho hai anh em này cái tên là “những đứa con của sấm sét'” (Marcô 3:17).
Thật ra, Phúc Âm thánh Marcô lại tiết lộ cho chúng ta biết rằng chính hai anh em Giacôbê và Gioan trực tiếp đứng ra xin Thày điều này, chứ không phải là bà mẹ của hai vị. Cách thức của “những đứa con của sấm sét” này tuy thẳng thắn nhưng không tế nhị như của bà mẹ. Hai anh em đã chẳng những không tế nhị về chính lời lẽ yêu cầu mà còn về cả cách thức yêu cầu, khi bất kể Chúa Giêsu có cho phép hay không hai vị cũng cứ “như con trẻ” nhắm mắt nhào vô: “Thưa Thày, chúng con muốn Thày ban cho chúng con điều chúng con xin?” (Marcô 10:35)
Kết quả chúng ta thấy xem ra Chúa Giêsu đã chịu thua hai anh em “như trẻ nhỏ” này. Với những lý do có thể suy diễn sau đây.
Lý do thứ nhất, là vì Chúa Giêsu biết được hai anh em Giacôbê và Gioan hết lòng yêu mến Người. Bởi đó, ngay sau lần cuối cùng Người tiết lộ cho các tông đồ biết về cuộc tử nạn của Người, thì chỉ có hai anh em Giacôbê và Gioan đã có phản ứng qua lời yêu cầu của họ.
Lời yêu cầu này chứng tỏ hai vị đã hiểu và thông cảm được với Chúa Giêsu hơn ai hết. Chẳng lẽ hai vị ngớ ngẩn đến nỗi rõ ràng nghe thấy Chúa Giêsu nói về thân phận vô cùng bất hạnh và đen tối của Người như thế mà còn xin ngồi hai bên tả hữu của Người?
Chính vì thế mà khi Chúa Giêsu vừa hạch lại hai vị, (làm như Người muốn các vị tông đồ khác đang tức bực với hai vị biết rõ hơn chủ ý của hai vị), vừa tỏ ra thách thức hai vị: “Các con có biết được điều các con xin không. Các con có uống được chén mà Ta sẽ uống hay chịu được phép rửa trong cùng một cuộc khổ đau như Ta không?” (Marcô 10:38), “Họ thưa Người: ‘Vâng, được'” (Marcô 10:39).
Lý do thứ hai Chúa Giêsu tỏ ra chịu thua hai anh em Giacôbê và Gioan là ở chỗ này, ở chỗ, cả hai nhất định theo Người cho đến cùng, dù hai vị biết Người đi đâu và con đường Người đi như thế nào, chứ không phải như tông đồ Tôma cho đến giây phút Thày trò gần biệt ly mà còn đặt vấn đề: “Thưa Thày, chúng con không biết Thày sẽ đi đâu thì làm sao chúng con biết được đường lối” (Gioan 14:5).
Cuối cùng, Chúa Giêsu đã tỏ ra như chịu thua trước lòng trung kiên theo Người bất chấp mọi sự của hai anh em Giacôbê và Gioan, bằng câu nói hứa hẹn là “Thày ở đâu các con cũng sẽ được ở đó với Thày” (Gioan 14:3), bao gồm ở cả trong đau thương cũng như vinh hiển, như thế này: “Các con sẽ uống chén Ta uống’ các con sẽ thông phần phép rửa Ta chịu. Nhưng về việc ngồi bên hữu hay bên tả của Ta, thì không phải do Ta, mà là cho những ai đã được chỉ định trước” (Marcô 10:39-40).
Thực tế cho thấy, trong bữa tiệc ly, Gioan chẳng những được ngồi bên cạnh Chúa Giêsu mà còn được dịp ngả đầu vào ngực Người để nghe tâm sự thầm kín của Người (xem Gioan 13:23). Nhất là trên đỉnh núi sọ, dưới chân thập giá Chúa Giêsu, chỉ một mình Gioan đứng để nhận lời trăn trối cuối cùng của Người: “Này là Mẹ con” (Gioan 19:27), và cũng để “từ giờ ấy, vị môn đệ nhận Người làm mẹ của mình” (Gioan 19:27).
Theo Thày cho đến khi đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu như Mẹ Maria, thánh Gioan đã chúng tỏ lòng ngài yêu mến Chúa Giêsu là dường nào. Cũng chính vì tình yêu mãnh liệt này của ngài, (có thể vì thế mà sau này ở bờ biển Tibêria, ngài không cần phải trả lời với Thày ba lần như thánh Phêrô là “Thày biết con yêu Thày” – Gioan 21:15-17), mà phải nói là ngài đã cùng với Mẹ Maria chịu tử nạn với Chúa Giêsu.
(Phải chăng thánh Gioan bấy giờ đã “cùng chịu một phép rửa với Thày”, chịu đóng đanh với Thày, mà ngài đã là vị tử đạo đầu tiên, tử đạo bằng lửa, tử đạo trong tinh thần, thay vì tử đạo bằng máu, tử đạo ở ngoài thân xác như các tông đồ khác sau này. Thật ra, theo hạnh tích của ngài, có lần ngài đã bị bắt bỏ vào vạc dầu sôi, nhưng ngài đã được thiên thần cứu sống, rồi cuối cùng ngài đã chết già tại gò Patmô).
Thánh Gioan, bởi thế, đã không phải là “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu” (Gioan 20:2’21:7,20) hay sao, tức người môn đệ được gần Chúa Giêsu nhất, thương Chúa Giêsu nhất và hiểu Chúa Giêsu nhất. Do đó, không lạ gì, với mối thâm tình với Chúa Giêsu như thế, ngài la môn đệ đầu tiên, (sau thanh nữ Mađalena là người được Chúa dùng để đem Tin Mừng Phục Sinh cho chính các môn đệ), tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại (xem Gioan 20:8), và cũng là người môn đệ đầu tiên nhận ra Thày mình trên biển hồ Tibêria (xem Gioan 21:7).
Bằng chứng hiển nhiên hơn nữa về mối thân tình sâu nhiệm Thày trò này là cuốn Khải Huyền, nhất là cuốn Phúc Âm của “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu”. Cuốn Phúc Âm như “phượng hoàng bay bổng” (Khải Huyền 4:7) này, (so với bộ Phúc Âm Nhất Lãm đặt trọng tâm ở nhân tính của Chúa Kitô), là nguồn tài liệu Thanh Kinh duy nhất mạc khải trọn vẹn Thiên Tính của Chúa Kitô:
“Lời ở nơi Thiên Chúa ngay từ ban đầu” (Gioan 1:1),
“nhờ Người mà mọi sự được thành nên” (Gioan 1:3),
“trong Người chúng được sự sống, sự sống soi sáng cho con người” (Gioan 1:4).
“Ánh Sáng chiếu trong tăm tối (Gioan 1:5),
“Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta… đầy ân sủng và chân lý” (Gioan 1:14).
Tóm lại, qua câu chuyện hai anh em Giacôbê và Gioan xin ngồi bên phải và bên trái Chúa Giêsu, “Trở nên như trẻ nhỏ” là trở nên đồng lao cộng khổ với Chúa Giêsu, bằng cách chấp nhận tất cả mọi đau khổ mà kiên trung theo Người cho đến cùng. Chúng ta hãy nghe Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu Chúa Giêsu
“Linh hồn phải chịu hủy diệt dưới những đòn vọt của Cha. Bấy giờ Cha mới đưa nó vào con đường thánh thiện và Cha kết hợp mọi năng lực của nó vào quyền năng của Cha”. (Một trong những lời khai mở của Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu Chúa Giêsu trước tháng 8/1965).
“Những ai hiến thân cho tình yêu thì nhận chịu những đòi hỏi của tình yêu. Họ ôm lấy thánh giá Cha với lòng sùng mộ. Âu yếm chấp nhận sự đau khổ, hỡi con, ấy là con đường vương giả mau chóng dẫn đến đỉnh trọn lành. Chịu đau khổ là con giống Cha. Con đang đau khổ đó, hỡi con nhỏ đáng thương của Cha. Nhưng Cha, Cha còn đau khổ hơn con. Con chỉ còn sống cho tình yêu. Những gì không phải là tình yêu thì chỉ là đau khổ cho con”. (21/6/1966)
“Tất cả những gì làm nên giá trị một vị thánh, đó là tuân theo thánh ý của Cha. Đó là tình yêu đem ra đón nhận thánh gia. Đó còn là khát vọng đón nhận thánh giá. Muốn tìm bình an cho linh hồn phải vào trường học “tình yêu”, chứ không phải ở hưởng thụ tình yêu đâu con… Cha không thể miễn cho con vì yêu Cha mà khỏi chịu đau khổ. (19/4/1973)
“Người mạnh thì có thánh giá nặng, người yếu lại có thánh giá nhẹ hơn. Nhưng nếu được đón nhận với tình yêu, thì thánh giá nào cũng có giá trị như nhau để cứu rỗi các linh hồn. Ơn cứu chuộc đã được thực hiện bằng thánh giá. Thế giới sẽ được cứu rỗi bằng thánh giá. Cha dìu dắt các linh hồn đã được tuyển chọn, qua những con đường bí nhiệm mà tất cả đều gặp nhau ở chóp đỉnh. Nhiều linh hồn ẩn dật mà tạo được những kỳ công ân sủng và khoan hậu cho tha nhân”. (31/5/1967)
“Hỡi con nhỏ, con hãy hiểu cho kỹ tình yêu của Cha thì điên dại, Thiên Chúa là sức sống của hồn con vì tình yêu được đổ đầy tràn trong nó. Tình yêu hoạt động không ngừng: kích thích hồn nhỏ, làm nó khổ đau, nâng nó lên, xoa dịu nó, làm nó vui cười cũng như sa lệ… Con đừng sợ chi, Cha là sức mạnh của con, và cũng là sự yếu đuối của con. Là sức mạnh để chiến thắng, là sự yếu đuối để yêu thương” (28/10/1974)
Chúa Nhật tuần này, 19/10/2003, cũng là Ngày Chúa Nhật Truyền Giáo của Giáo Hội, bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này dù không phải là bài Phúc Âm về việc truyền giáo, nhưng vì chính Lời Chúa tự bản chất là truyền thông, là Tin Mừng Sự Sống mà ở bất cứ câu nào hay đoạn nào của Phúc Âm chúng ta vẫn có thể áp dụng vào việc truyền giáo hoặc có tính cách truyền giáo. Chẳng hạn bài Phúc Âm Chúa Nhật 29 Thường Niên Năm B tuần này có tính cách hay ý nghĩa truyền giáo ở chỗ ai gieo trong đau thương sẽ gặt trong vui sướng, tức là muốn được ngồi bên tả bên hữu Thày là Đấng đến để phục vụ, để hiến mạng sống mình, thì thành phần môn đệ chứng nhân đích thực của Người cũng phải cùng Người uống cạn chén khổ nạn, và cũng chỉ có ai dám uống chén khổ nạn với Người mới được.
Martin Caphu là người Bangla thuộc Cameroun Phi Châu. Cha anh là quốc vương Bangla. Từ thiếu niên, anh đã quen với phong trào Tổ Ấm, một tổ chức Công giáo làm việc xã hội ở Phi châu. Thấy các thành viên Tổ Ấm xả thân giúp đỡ người đồng loại, anh Caphu rất cảm phục, và tới năm 1963, vào lúc mười bảy tuổi, anh xin trở lại Công giáo. Sau khi tốt nghiệp Trung học, anh được Gia đình gởi về Rôma học ngành điện tử. Đậu tiến sĩ điện tử xong, anh Caphu gia nhập phong trào Tổ Ấm.
Năm 1980, cha anh qua đời, và theo chúc thư, ông đã chọn Caphu kế vị ngai vàng. Caphu vội vã trở về Bangla, anh họp cả sắc tộc lại và xin mọi người đề cử người khác làm vua. Còn anh, anh muốn dành cả cuộc sống làm việc xã hội theo tinh thần Kitô giáo. Và mọi người đã đồng ý.
Trong cuộc sống trần gian, ai cũng muốn có danh vọng, và người ta thường xếp tiền tài danh vọng như một cặp bài trùng. Caphu đã từ chối ngai vàng để phục vụ Chúa đắc lực hơn. Còn Giacôbê và Gioan, hai ông lại tới xin Chúa cho một địa vị trong Nước Chúa, các ông hiểu đây là nước trần gian mà các ông nghĩ Chúa sắp thiết lập.
Nhân dịp này Chúa Giêsu cắt nghĩa cho các ông hiểu thêm về công việc của Người. Người là Chúa Cứu Thế, Đấng Cứu chuộc trần gian bằng đau khổ, bằng thập giá chứ không phải bằng một hoạt động chính trị, Chúa buồn rầu trách nhẹ các ông. Các con chẳng biết mình xin cái gì! Nhưng Chúa thấy các ông chân tình và nồng nhiệt, nên Chúa cũng hé mở cho các ông một vài nét về tương lai: Các con sẽ uống chén đắng Ta uống, và đắm mình trong phép rửa bằng máu như Ta. Còn việc ngồi bền tả hay bên hữu Ta thì lại là chuyện khác. Những lời này làm hai tông đồ hoang mang, nhưng về sau các ông sẽ hiểu và coi đó là một động cơ cho niềm tin trong hoạt động rao giảng Tin Mừng.
Đọc lại câu chuyện hai tông đồ, có lẽ chúng ta mỉm cười. Nhưng trong cuộc đời Kitô hữu, nhiều khi chúng ta cũng chỉ nhằm lợi ích, địa vị cho mình, chúng ta nghĩ tới một bảo đảm cho cuộc sống hiện tại và mai sau. Đáng lẽ chúng ta phải đặt Chúa làm trung tâm đời sống, chúng ta muốn thực thi lòng tôn sùng, muốn dâng lời cảm tạ ngợi khen và phó thác tin tưởng vào Chúa. Còn tương lai của ta hoàn toàn do Chúa xếp định. Đó mới là tâm tình của người con thảo sống bên Cha hiền.
Lời thỉnh cầu của Giacôbê và Gioan đã làm các tông đồ khác khó chịu, vì tất cả các ông đều cùng tâm trạng như nhau, dù chưa dám xin Chúa. Cho tới lúc đó chưa ai hiểu được tư tưởng của Chúa. Chúa đã nói về cuộc khổ nạn của Người tới ba lần (Mc 10, 32-34) với những lời lẽ rõ rệt: Con Người sẽ bị bắt nộp, sẽ bị xử tử, bị chế giễu, ngừơi ta khạc nhổ vào mặt, đánh đòn và giết chết… Trong lúc Chúa Giêsu tự chọn chỗ rốt hết, thì các môn đệ lại mơ màng danh vọng, lại nghĩ tới địa vị cao sang. Một lần nữa Chúa nói lại chủ trương của Chúa trong tổ chức Người. Khác hẳn mọi tổ chức trần gian, ở đây người nào muốn lãnh đạo phải là tôi tớ, ai muốn đứng đầu phải trở thành nô lệ cho mọi người. “Vì Con Người không đến để cho người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn dân”. Đó là căn bản Hiến pháp của Giáo hội Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết noi gương Chúa, không màng tới địa vị cho mình, nhưng luôn dấn thân phục vụ anh em, như Chúa đã đến phục vụ và hy sinh cả mạng sống làm giá cứu chuộc chúng con.
Con Người đến để phục vụ.
Nhìn vào cuộc đời Chúa Giêsu, chúng ta thấy chính Ngài đã thực hiện lời giảng dạy của mình.
Thực vậy, với tinh thần phục vụ, Ngài đã xuống thế làm người, để giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ của tội lỗi. Với tinh thần phục vụ, Ngài đã thực hiện những phép lạ để xoa dịu nỗi đớn đau của những người mà Ngài có dịp tiếp xúc. Với tinh thần phục vụ, Ngài đã chấp nhận cái chết trên thập giá để cứu độ chúng ta khỏi án phạt đời đời.
Đồng thời, Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài thực hiện tinh thần phục vụ trong đời sống thường ngày. Ngài phán:
– Ai muốn làm lớn thì hãy trở nên rốt hết và làm tôi tớ cho mọi người.
Trong bữa tiệc ly vào buổi chiều ngày thứ năm tuần thánh, Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ để dạy cho các ông bài học khiêm nhường và phục vụ:
– Nếu Ta là Thày và là Chúa của các con, mà còn quỳ xuống rửa chân cho các con, thì các con cũng phải quỳ xuống mà rửa chân cho nhau.
Trải qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người đã thực hiện lời khuyên trên đây của Chúa Giêsu.
Phanxicô d’Assie, mặc dù thuộc về gia đình quyền quý và giàu sang, nhưng đã từ bỏ tất cả, để sống khó nghèo, trở nên một người anh em hèn mọn để phục vụ những người khổ đau.
Gần đây, một Kitô hữu Nhật Bản nổi tiếng, tên là Kagawa, cũng đã từ bỏ căn nhà tiện nghi, đến sống trong những khu tồi tàn vùng Tokyo, để chia sẻ chính bản thân và của cải mình cho những ai đang cần đến một sự giúp đỡ. Một tác giả đã viết về ông như sau:
– Ông đã cho đi tất cả quần áo của mình và chỉ mặc trên người chiếc áo thụng đã cũ. Lần kia, mặc dù đang ốm, ông vẫn tiếp tục đi dạy giáo lý dưới cơn mưa, ông lặp đi lặp lại không ngừng: Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu thì ở đó có Thiên Chúa. Trong một bức thư, chính ông đã viết như sau: Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất. Ngài hiện diện giữa những kẻ ăn xin, Ngài nằm chung với những bệnh tật. Ngài đứng về phe những người thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Chúa thì hãy đến thăm nhà tù trước khi đến nhà thờ, đến thăm bệnh viện trước khi tham dự thánh lễ. Hãy giúp đỡ người nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta phải làm gì để sống tinh thần phục vụ một cách thiết thực hơn? Chúng ta phải làm gì để trở thành những Kitô hữu đích thực trong chính gia đình và môi trường làm việc của mình?
Tất cả chúng ta đều có thể làm một điều gì đó, dù rất nhỏ bé và vô nghĩa, khởi đầu là cho những người thân yêu trong gia đình, rồi từ đó mở rộng việc phục vụ ra môi trường rộng lớn hơn. Còn nếu không khởi sự từ gia đình thì chúng ta cũng sẽ chẳng bao giờ khởi sự được ở bất cứ nơi nào khác.
Và để kết luận, chúng ta nên nhớ:
– Mỗi khi chúng ta phục vụ anh em, cho dù bằng những việc làm nhỏ bé và tầm thường nhất, thì đó cũng là chúng ta phục vụ cho chính Chúa vậy.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc hai ông Gioan và Giacôbê muốn ngồi hai bên tả hữu của Chúa Giêsu Kitô. Họ đang nghĩ đến chuyện thăng quan tiến chức. Họ cũng nghĩ rằng mình có khả năng và xứng đáng ngồi ở địa vị cao. Phản ứng của Chúa Giêsu là: “Các con không biết các con xin gì”. Thay vì nói đến vinh quang và sung sướng. Chúa Giêsu nói với họ về việc chia sẻ “chén đắng” và “phép rửa” với Chúa. Chén trong Kinh Thánh là hình ảnh tượng trưng cho những đau khổ lớn lao. Còn phép rửa tượng trưng cho những lo âu, buồn sầu, đau đớn. Đây là những điều đang chờ đón người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.
Khi người môn đệ kia nghe biết thì đâm ra tức tối với hai ông, không phải vì họ khiêm tốn nhưng vì họ cũng muốn những điều tương tự như hai ông. Họ tức giận vì nghĩ rằng họ có đủ tư cách hơn hai ông Gioan và Giacôbê.
Có lẽ mỗi người trong chúng ta cũng bực mình với hai ông Giacôbê và Gioan, vì họ đầy tham vọng và ích kỷ. Nếu chúng ta có thái độ đó, là do chúng ta quên rằng mình cũng đang khiển trách y như họ. Chúng ta cũng đang làm những điều tương tự đối với những bạn đồng nghiệp của mình. Chúng ta cũng muốn vượt lên trên họ, bước lên họ mà đi, dùng họ như bàn đạp để thăng tiến bản thân mình. Chúng ta cũng muốn phục vụ, cũng muốn cho đi thời giờ, cống hiến tài năng và tiền bạc, bao lâu chúng ta có thể thu lại được một điều gì đó.
Rất ít người tự nguyện làm việc cho Giáo hội, bởi vì không được trả lương. Người làm việc phụ thuộc vào sự từ tâm của các giáo dân trong giáo xứ. Nhưng tạ ơn Chúa, vì cũng còn những người muốn chia sẻ tài năng ít ỏi của mình, thời giờ và tiền bạc cho công việc của Giáo hội. Đó là những bậc làm cha mẹ muốn giáo dục con cái theo các giá trị Kitô giáo, những giáo viên khơi dậy nơi học trò của mình lòng khao khát sống cho một lý tưởng cao đẹp, những y tá chăm sóc cho các bệnh nhân, và những người tình nguyện thăm viếng những người tản cư.
Lạy Chúa, xin cho con nhớ Chúa là Thầy, là Chúa nhưng Chúa đã hạ mình xuống để phục vụ tất cả mọi người.
Một người đàn bà tên là Ruth đang đi ra khỏi nhà thờ sau Lễ Chúa Nhật. Bà nhìn thấy một người đàn ông lụ khụ đang gắng sức để mặc chiếc áo lạnh. Bà liền đi lại gần ông già, mỉm cười và giúp ông một tay.
Sau đó, Ruth lại gặp ông già ấy một lần nữa và hai người bắt đầu nói chuyện với nhau. Sau khi hỏi han, Ruth mới biết tên ông già là Gus và nhà ông già ở tiện đường về nhà Ruth nên bà cho ông già quá giang. Lần quá giang đó đã trở nên hằng tuần cho tới hai năm.
Vào một buổi sáng Chúa nhật, Ruth không nhìn thấy Gus đâu hết nên mới vào nhà ông xem. Khi vô thì Ruth thấy ông già Gus đang nằm bệnh gần chết. Ông được đem vô nhà thương ngay.
Một vài ngày sau, Ruth được nhà thương gọi và báo là Gus chỉ còn có thể sống thêm một ngày nữa. Ruth liền hỏi cô y tá: “Vậy cô có gọi cho họ hàng của ông ấy chưa?”
Cô y tá trả lời: “Ông ấy không có họ hàng gì cả. Ông ấy chỉ bảo cô là người thân duy nhất để liên lạc trong trường hợp khẩn cấp.” Nghe như thế, Ruth hết sức ngạc nhiên. “Chẳng lẽ Gus chỉ có một mình?”
Ruth liền đến nhà thương và đến bên cạnh giường ông già gần chết. Gus thở từng hơi rất mạnh và không thể nói được gì hết. Tuy vậy, Gus xem ra vẫn nhận ra Ruth. Gus chỉ biết dùng ánh mắt để đáp lại những lời an ủi và yêu thương của Ruth. Sau đó một vài phút, Gus đã ra đi trong bình an.
Câu truyện trên diễn tả một cách sống động hai chủ đề trong các bài đọc hôm nay, nhất là bài Phúc Âm. Hai chủ đề đó là đau khổ và phục vụ. Đau khổ và phục vụ giống như hai đường sắt của đường rầy xe lửa. Nếu bạn tìm thấy một ở đâu, thì đó bạn cũng tìm thấy cái kia. Hai cái luôn đi song đôi với nhau.
Thứ nhất, sự phục vụ người khác luôn đi với đau khổ. Bạn không thể nào giúp một người khác mà không phải hy sinh một cái gì đó. Chúng ta nhìn thấy điểm này trong câu truyện của Ruth và Gus. Trải qua hai năm, Ruth đã hy sinh để chở Gus về nhà sau lễ. Cho dù đây không phải là hy sinh lớn lao gì, nhưng đó cũng là hy sinh.
Thứ hai, đau khổ và phục vụ đi với nhau, bởi vì một trong những cách đơn giản nhất là chúng ta có thể giúp người khác làm cho gánh nặng đau khổ của họ nhẹ đi.
Chính Chúa Giêsu đã cứu giúp các anh chị em đau khổ của Ngài. Chúng ta hãy nhìn sâu xa hơn làm sao để chúng ta có thể phục vụ những người xung quanh chúng ta, nhất là những người thân trong gia đình, bằng cách là làm cho gánh nặng của họ được nhẹ đi.
Có lẽ điều cản trở lớn nhất để thực thi điều nói trên là tính lãnh đạm với những đau khổ của những người sống chung quanh chúng ta. Chúng ta bắt đầu dùng khả năng để ý tập trung đến những sự cần thiết của người khác hơn là những khó khăn của bản thân.
Trong thời gian ‘Great Depression’ (Đại Tình Thế Suy Nhược) vào năm 1930, các nhân viên chính phủ thường hay đi rảo qua các vùng núi tiểu bang Tennessee để phân phát tiền của cho một số nông phu nghèo để mua thức ăn và những thứ cần thiết.
Khi một nhân viên chính phủ đến một căn nhà lụp xụp nhỏ của một người đàn bà nọ, ông hỏi bà ấy rằng: “Nếu tôi cho bà $200 thì bà sẽ làm gì?” Sau một lúc, bà trả lời: “Tôi sẽ giúp cho những người nghèo ở chung quanh đây.”
Người đàn bà ấy đã tập được cái tính biết để ý quan tâm đến những sự cần thiết của kẻ khác hơn là của chính mình.
“Lạy Chúa từ nhân! Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.”
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng)
Như chúng ta đã biết, vào thời điểm hiện nay tại Hoa Kỳ, người dân của cường quốc này đang chú ý đến cuộc bầu cử tổng thống. Để lấy điểm dân chúng, các chiến dịch vận động tranh cử được các ứng cử tổ chức rầm rộ và quy mô, nhiều điều hứa hẹn được nêu ra qua các cuộc tranh luận…Tuy nhiên nói và làm là hai điều khác nhau. Đôi khi người ta không thực hiện được lời hứa. Có muôn ngàn lý do được nêu ra để thanh minh, nào là những khó khăn khách quan, nào là những hoàn cảnh ngoại cảnh tác động. Điều đáng nói ở đây vẫn là sự thiếu tinh thần trách nhiệm và thiếu tâm. Người ta vẫn nói rằng khoảng cách xa nhất vẫn là từ miệng lưỡi đến trái tim.
Nhân lời đề nghị của hai anh em trai Giacôbê và Gioan nhà Zêbêđê về chỗ ngồi trong nước vinh quang, Đức Giêsu đã cho các môn đệ của mình bài học về tinh thần trách nhiệm phục vụ trong bất kể chỗ đứng nào của mình: “Ai muốn làm lớn thì trở nên người phục vụ. Ai muốn làm đầu thì hầu tất cả mọi người” (Mc10, 43-44).
Đức Giêsu đã thực sự sống điều này trước khi nói ra cho các môn đệ mình. Hành động của Người luôn luôn phù hợp với những gì Người chỉ dạy. Nơi Người không hề có khoảng cách giữa lời nói và thực hành, “vì chưng Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” (Mc10, 45). Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài đã tự hạ mình xuống tận đáy của nhân loại để chia sẻ kiếp phàm nhân với chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, nhằm nâng chúng ta lên địa vị làm con cái yêu dấu của Thiên Chúa.
Với Lời Chúa hôm nay, chúng ta được mời gọi đặt trọng tâm đến ý nghĩa của sự phục vụ hơn là tìm cho mình một chỗ đứng. Đó là điều căn bản để tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Đây cũng là cách thức nhìn nhận sự việc bằng con tim để tránh đi cái nhìn phiến diện bề ngoài.
Mỗi người đều có một chỗ đứng khác nhau để cùng xây dựng một kế hoạch chung trong tổng thể của việc cộng tác vào công trình sáng tạo. Tất cả công sức riêng của mỗi cá thể đều góp vào phần vào thành quả tốt đẹp chung. Cha Mẹ yêu thương con cái và làm hết bổn phận của mình để chúng được lớn lên về mọi phương diện. Người vợ và người mẹ được mời gọi trao hiến đời mình để phục vụ chồng và con. Cũng vậy, người chồng cần dấn thân để trở nên chỗ dựa cho vợ và con mình. Về phần mình, bậc làm con cần phải tôn trọng và vâng phục cha mẹ. Trong gia đình, mỗi thành viên thấy được chỗ đứng của mình để phục vụ người khác. Đó chính là bí quyết của hạnh phúc gia đình.
Trong khi suy niệm Lời Chúa của Chúa Nhật tuần 29 này, chúng ta nhớ đến thánh Phanxicô Khó Khăn, người đã muốn trở nên giống Đức Giêsu và sống sát với tinh thần Tin Mừng của Người. Chúng ta cũng được mời gọi trở nên sứ giả của tình thương và hòa bình:
“Lạy Chúa từ nhân
Xin cho con biết mến yêu
Và phụng sự Chúa trong mọi người
Lạy Chúa xin hãy dùng con
Như khí cụ bình an của Chúa
Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù
Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục
Ðem an hòa vào nơi tranh chấp
Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm
Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan
Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng
Ðể con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm
Ðem niềm vui đến chốn u sầu
Lạy Chúa xin hãy dậy con
Tìm an ủi người hơn được người ủi an
Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh
Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân
Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời
Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con
Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí
Ơn an bình”.
Lắng nghe đoạn Tin Mừng hôm nay, tôi bỗng nhớ tới một vài câu đố, thoạt xem ra thì có vẻ vô lý, nhưng ngẫm nghĩ lời giải đáp thì lại thấy có lý.
Câu đố thứ nhất: cái gì càng kéo thì lại càng ngắn. Tôi xin thưa đó là điếu thuốc lá. Câu đố thứ hai: cái gì càng to lại càng bé. Tôi xin thưa đó là con cua.
Từ câu đố thứ hai này, tôi muốn đi vào tinh thần của lời Chúa:
– Ai muốn làm lớn thì phải trở nên kẻ hầu hạ. Còn ai muốn làm đầu, thì phải trở nên đầy tớ.
Như vậy có nghĩa là càng làm to thì càng phải sống bé nhỏ khiên tốn trong tinh thần phục vụ.
Suy đi nghĩ lại, tôi thấy lời Chúa hôm nay quả thật rất đúng cho mọi mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thời buổi nào cũng vậy, ngày xưa cũng như ngày nay. Thực vậy, bất kỳ chế độ nào cũng hô hào lấy dân làm gốc. Người công an cảnh sát là bạn của dân. Còn công chức cán bộ là nô bộc, là đày tớ của dân. Nhưng đó mới chỉ là những khẩu hiệu, việc thực hiện mới chỉ được phần nào, nếu không muốn nói là nhiều khi đã đi ngược lại với những lời hô hào kể trên.
Ngày xưa, ông vua làm đầu trong một nước. Vua phải tôn trọng dân, vì ý dân là ý trời, như người đời vốn thường bảo:
– Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Nghĩa là dân đáng quí nhất, tiếp đến là đất nước, rồi sau mới tới nhà vua.
Thế nhưng, nhiều ông vua đã không tôn trọng nguyên tắc ấy, cai trị dân như tên hôn quân bạo chúa, dùng pháp luật và quyền lực để áp chế dân, đúng như Chúa đã nói.
Còn ngày nay, những cán bộ và công nhân viên cấp lớn, cũng vốn tự xưng mình là bạn dân, là đầy tớ của dân, thế nhưng lại quan liêu hống hách, khiến cho người dân thấp cổ bé miệng phải khốn đốn khổ sở.
Nhiều kẻ vơ vét về cho đầy túi bằng tham nhũng hối lộ, theo kiểu làm quan để được vinh thân phì gia. Nhiều kẻ lợi dụng chức quyền để bênh vực hay đề bạt đàn em, gương cao ô dù theo kiểu: một người làm quan cả họ được nhờ.
Vì thế, trong những ngày gần đây báo Tuổi Trẻ cũng như nhiều báo khác đã có những bức biếm họa, những bài phiếm luận đượm mùi cay đắng, nói lên tình trạng trộn đảo lộn khác thường: đầy tớ thì đi xe con còn ông chủ thì đi xe lớn, đầy tớ thì quát tháo còn ông chủ thì đứng mà run…
Vì thế, cần phải đổi mới cách nghĩ và cách sống, nhất là cần phải bám sát vào tinh thần của lời Chúa. Càng làm lớn thì càng phải tỏ ra khiêm nhường và bé nhỏ trong tinh thần phục vụ. Chúa Giêsu đã nói và đã làm như vậy. Là Thiên Chúa, Ngài đã trở nên một người như mọi người và hơn thế nữa, Ngài còn vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta.
Trong ngày thứ năm tuần thánh, để nêu gương khiêm nhường và phục vụ, Ngài đã quì xồng rửa chân cho các môn đệ, như lời Ngài đã phán:
– Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người… Các con gọi Ta là Thày và là Chúa thì phải lắm. Nếu Ta là Thày và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Trải qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người đã thực thi lời Chúa, đã sống khiêm nhường và phục vụ anh em. Ngay cả đến Đức Thánh Cha, trong mọi văn thư chính thức, bao giờ cũng tự xưng là “Servus servorum” nghĩa là đầy tớ của các đầy tớ.
Chúng ta cũng vậy, dù nắm giữ chức vụ nào trong xã hội cũng như trong tôn giáo, phần đạo cũng như phần đời, chúng ta hãy sống khiêm nhường và phục vụ. Bởi vì như lời Chúa đã xác quyết:
– Ai muốn làm lớn thì phải trở nên kẻ hầu hạ. Còn ai muốn làm đầu thì phải trở nên đầy tớ.
Nghĩa là càng to, thì lại càng phải nhỏ.
Trên đường đi lên Giêrusalem, một lần nữa, đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu lại loan báo cho các môn đệ về những đau khổ và cái chết Ngài phải chịu ở Giêrusalem. Lần này thánh Marcô không kể lại phản ứng của các môn đệ như thế nào, nhưng câu chuyện kể ra liền sau đó đã nói lên một cách sâu sắc rằng các ông vẫn chưa hiểu gì. Trái lại, các ông tưởng đâu Chúa sẽ ra đi làm vua thống trị, thì họ sẽ được những ghế cao trong nước Chúa, bởi vì trước đây vài tuần Chúa đã hứa là họ sẽ được ngồi trên ngai xét xử mười hai chi tộc Ítraen. Nhân câu chuyện này, Chúa Giêsu lại giảng thêm về ý nghĩa cái chết của Ngài và về cách thức làm môn đệ của Ngài.
Khởi đầu câu chuyện là việc hai anh ruột Giacôbê và Gioan đến xin Chúa Giêsu cho họ được ngồi hai bên tả hữu Chúa trong nước Chúa. Tức là hai ông muốn xin được địa vị cao trong nước Chúa khi Ngài được làm vua dân Do thái. Theo bài Tin Mừng thánh Marcô hôm nay thì chính hai môn đệ Giacôbê và Gioan xin Chúa Giêsu. Còn Tin Mừng thánh Matthêu lại cho biết: không phải hai môn đệ thỉnh nguyện mà là bà mẹ của hai ông đã đến thỉnh cầu cho hai con bà. Bà mẹ nào chẳng thế! Ai lại chẳng muốn cho con mình được chỗ tốt nhất, được vinh dự. Chúa Giêsu quá biết tâm lý tự nhiên của mỗi người: muốn được làm lớn, được vinh dự, được làm thủ lãnh sai bảo người khác. Chúa đã sửa bảo họ một cách tế nhị.
Trước hết, Chúa hỏi họ: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Hai ông vui vẻ và mau mắn trả lời ngay: “Thưa được”. Chắc chắn lúc ấy hai ông chưa ý thức và chưa hiểu rõ thế nào là uống chén và thế nào là chịu phép rửa. Bởi vì ngay những tư tưởng về nước trời và vinh quang nước trời hai ông cũng chưa hiểu đúng, nên mới xin Chúa một cách đơn sơ được ngồi hai bên tả hữu Chúa.
Vậy “chén” và “phép rửa” Chúa Giêsu nói ở đây là gì? Trong Cựu ước, “chén” đôi khi cũng dùng để chỉ phúc thái ơn lộc, nhưng qua thời các ngôn sứ, “chén” thường được dùng để chỉ đau khổ, bất hạnh. Trong vườn cây dầu, Chúa Giêsu đã cầu nguyện: xin Chúa Cha cất chén đau khổ, nhưng đừng theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi. Còn “phép rửa” ở đây là cái chết đau thương của Ngài, đây là phép rửa bằng máu, cũng có nghĩa là đau khổ. Nói chung, điều kiện mà Chúa đòi hỏi hai anh em Giacôbê và Gioan là có sẵn sàng chịu đau khổ với Ngài không? Lúc ấy hai ông thưa được dù chưa hiểu, nhưng sự thật sau này hai ông đã uống chén và chịu phép rửa như đã cam kết với Chúa. Vào năm 44, thánh Giacôbê đã chịu tử đạo dưới thời vua A-gờ-ríp-pa đệ nhất, và là thánh tông đồ chịu tử đạo đầu tiên. Còn thánh Gioan, nếu không có một phép lạ thì cũng đã chết tử đạo khi bị bỏ vào vạc dầu sôi. Nhưng dù sao ngài cũng chết anh hùng sau chuỗi ngày bị lưu đày ở đảo Pát-mô.
Ngoài ra, nhân dịp này Chúa còn dạy các môn đệ một bài học sâu xa về lòng khiêm nhường phục vụ và thắng vượt lòng ghen tị. Sở dĩ các môn đệ khác bực mình với Giacôbê và Gioan bởi vì họ cũng có lòng ghen tị không muốn cho hai anh em kia được phần hơn. Các môn đệ suy nghĩ về nước Chúa Giêsu ở trần gian này. Nhưng Chúa lại suy nghĩ một cách khác. Nước Ngài không thuộc về thế gian, nơi đó người có quyền áp bức người yếu thế, người giàu sang cai trị người nghèo đói. Nước Trời ngay trong lòng mỗi người, là Giáo Hội của Chúa, nơi đó không dựa trên quyền bính nhưng dựa trên tình thương. Đó là nơi không có hận thù, ghen tị, tranh chấp.
Trong Giáo Hội cũng như trong bất cứ một tập thể nào, thường có một người đứng đầu để điều khiển những người khác và tổ chức sinh hoạt, không thể nào có cảnh “cá đối bằng đầu” mà mọi việc được xuôi lọt, vì sẽ không ai muốn tùng phục ai. Điều quan trọng mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh: không phải là hủy bỏ chức vụ của những người đứng đầu, chức vụ của những người lãnh đạo, nhưng đừng dùng địa vị và quyền bính của mình để áp bức người khác, lên mặt ta đây tự cao tự đại. Trái lại, phải biết phục vụ. Lòng kiêu ngạo muốn tranh đấu để làm đầu mọi người vốn là điều không tốt, nhưng lòng ghen tị cũng không tốt đẹp gì. Hai tật xấu này vốn là những khuyết điểm đã từng làm cản trở sự phát triển đời sống con người về mọi phương diện. Nên Chúa Giêsu bảo chúng ta phải loại bỏ hai tật xấu ấy.
Xin Chúa cho chúng ta luôn có tham vọng tốt để phát triển khả năng của chúng ta và sử dụng khả năng đó để phục vụ mọi người. Đồng thời xin Chúa cho chúng ta luôn vui vẻ với mọi người, không ghen tị, để chúng ta luôn được mọi người yêu mến, và nhất là Chúa Giêsu cũng sẽ hài lòng về chúng ta.
Bài Tin Mừng bàn về một chủ đề quan trọng – sự thực thi quyền bính. Nó liên can đến tất cả chúng ta. Nhiều người đã có kinh nghiệm xấu về quyền bính.
Người ta tìm kiếm quyền bính vì những lý do khác nhau. Một số người thích có quyền lực đi chung với quyền bính: nó làm cho người ta cảm thấy quan trọng. Những người khác thích uy thế mà nó đem lại. Những người khác nữa thích được trả lương cao. Tất cả những lý do ấy đều có một điểm chung – quyền bính được xem như một cơ hội để thăng tiến bản thân.
Jean Vanier phân biệt hai loại quyền bính: một quyền bính áp đặt, thống trị và điều khiển; và một quyền bính đồng hành, lắng nghe, giải phóng, phân quyền, làm cho người dân tự tin và kêu gọi họ ý thức về những trách nhiệm của mình.
Còn có một loại quyền bính thứ ba thinh lặng, yêu thương và ẩn giấu – quyền bính yêu thương nhưng không dùng quyền lực, xây dựng lòng tín thác và đôi khi chờ đợi đêm ngày trong nỗi lo âu. Cha mẹ đôi khi phải chờ đợi suốt đêm trường mong sao đứa con mình lầm đường lạc lối trở về.
Một vài người có tham vọng quyền lực, và sử dụng quyền bính của họ để thống trị những người khác. Đó là một sự lạm dụng quyền bính. Tham vọng quyền lực không mọc rễ trong sức mạnh nhưng trong sự yếu đuối. Chỉ có kẻ yếu mới đo lường giá trị của mình bằng những con người mà họ có thể thống trị. Thực hành quyền bính theo cách này sẽ làm cho người có quyền bị cô lập và lúc đó quyền bính chỉ đem lại điều xấu nhất cho mọi người.
Khi Giacôbê và Gioan xin Đức Giêsu cho họ có chỗ cao nhất trong vương quốc của Người thì họ chỉ nghĩ về mình. Họ không nghĩ đến lòng ganh tị và sự bực bội to lớn mà họ gây ra cho các bạn mình. Rõ ràng họ đã nghĩ đến vương quốc của Người theo kiểu mẫu của các nước ở trần gian trong đó những người ở địa vị cao phải được hưởng danh dự, vinh quang và quyền lực. Nhưng Đức Giêsu nói với họ điều ngược lại. Trong vương quốc của Người, ai lớn nhất phải sẵn sàng phục vụ người khác thay vì chính bản thân mình.
Trước tiên, Đức Giêsu phác họa tiêu chuẩn mà người ta chấp nhận về chính quyền dân sự: sự thống trị với quyền lực của các thủ lãnh trên những thần dân của họ. Nhưng trong cộng đoàn của Người thì không phải như thế. Người coi quyền bính như một cơ hội để phục vụ. Và lúc nào cũng thế, Người lấy chính mình làm gương. Người không làm một chúa tể hống hách trên dân. Người kêu gọi, mời gọi để họ đáp lại. Người muốn hướng dẫn nhưng không muốn điều khiển. Quyền bính của Người phản ánh quyền bính của Thiên Chúa. Thiên Chúa dùng quyền lực của Người không phải để điều khiển mà để cho phép.
Đó là cách thi hành quyền bính mà Người muốn có trong cộng đoàn của Người. Quyền bính không nên ban cho những người tìm kiếm nó, nhưng chỉ ban cho những người đã chứng tỏ mình sẵn sàng để phục vụ. Những người được giao cho quyền bính trên anh em mình phải cẩn trọng, công bằng, nhân hậu, khôn ngoan, khoan dung và quảng đại.
Để phục vụ, người ta phải sẵn sàng uống chén mà Đức Giêsu đã uống – chén hy sinh và đau khổ. Người ta có thể phục vụ ở bất cứ địa vị nào. Tuy nhiên, những người ở địa vị có quyền bính có vị trí tốt nhất để phục vụ. Chúng ta đang khám phá lại tinh thần này trong Giáo Hội và đây là một điều rất tốt. Quyền bính được sử dụng để phục vụ của người Kitô hữu có thể trở thành một sức mạnh kỳ diệu cho điều thiện hảo.
Trong bữa Tiệc ly, Đức Giêsu đã rửa chân cho các tông đồ. Người bắt các tông đồ phải nhớ lại một bài học mà Người đã dạy họ trước đó, tức là bài học quyền bính đối với họ là một hình thức của sự phục vụ. Thế nên trong tâm trí các tông đồ không còn chút mơ hồ, nghi hoặc về những lời Đức Giêsu muốn nói: “Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”.
Ngày nay, thường có một hố sâu ngăn cách giữa những người cai trị và những người bị cai trị. Đặc biệt một số tổn hại là do những điều sau đây. Những người ở địa vị thấp cảm thấy không được những người ở địa vị cao đánh giá đúng. Họ thấy những người này xa cách và coi thường họ. Những người đã cố sức leo lên địa vị cao rất dễ quên lúc mình còn dưới “đất đen” thì sự việc ra sao. Nhớ lại chính là hiểu biết. Cha mẹ tốt nhớ lại sự việc như thế nào khi mình còn nhỏ như con mình bây giờ.
Giá mà những người quyền cao chức trọng theo được tấm gương của Đức Giêsu đã đưa ra trong Bữa Tiệc Ly. Hãy để cho anh cảnh sát bị bắt; linh mục xuống ngồi ở hàng ghế dành cho giáo dân; ông thầy giáo xuống ngồi ở bàn học trò, đốc công xuống con mương; cai ngục bị nhốt vào xà lim; bác sĩ bị bệnh nặng; quan tòa ngồi vào ghế bị cáo; ông tướng phải ra tiền tuyến; người có công việc ổn định phải đứng xếp hàng nhận trợ cấp… hẳn chúng ta sẽ có sự quan tâm và nhạy cảm nhiều hơn trong việc thực thi quyền bính?
Dĩ nhiên trường hợp ngược lại cũng xảy ra – những người cấp trên không được người cấp dưới hiểu, và những lời phê phán khó nghe đôi khi được truyền cho nhau nghe.
Một ngày nọ một đồng hồ đeo tay đi ngang qua quảng trường tháp đúng lúc đồng hồ lớn trên tháp chuông gõ mười hai giờ trưa. Chiếc đồng hồ đeo tay nhìn lên đồng hồ lớn và nói: “Có phải ông tưởng rằng mình tốt hơn chúng tôi sao? Ông hãy nhìn lại chính mình xem. Khuôn mặt ông thì thường quá, tay ông thì vụng về, lóng ngóng, còn giọng nói của ông thì thô lỗ?”
Nhưng đồng hồ lớn bình tĩnh đáp lại: “Chú em nhỏ của tôi hãy lên đây và anh sẽ chỉ cho chú em cái này”.
Đồng hồ đeo tay leo lên những cầu thang dài và sau cùng đứng bên cạnh đồng hồ lớn. Phong cảnh nhìn từ nơi này đẹp làm sao! Nhưng chẳng mấy chốc, nó nhận thấy ngất ngưởng trên này thật nguy hiểm và cũng luôn cô độc.
“Này chú em, có một người ở dưới kia muốn biết giờ. Tại sao chú em không nói cho người đó biết?”
“Ôi, tôi không thể nào làm cho người đó nghe và thấy tôi từ chỗ này. Đồng hồ đeo tay đáp.
“Thế thì chú em không thể nói cho người đó biết”, đồng hồ lớn đáp: “Nhưng tôi có thể làm được. Mỗi người chúng ta có một việc phải làm. Việc tôi làm được thì chú em không thể, việc chú em làm được thì tôi không làm được. Vì thế, chúng ta không nên phê phán lẫn nhau. Trái lại, mỗi người hãy theo cách của mình và từ vị trí của mình để nói cho người ta biết thời giờ. Bằng cách đó, chúng ta không những bình đẳng mà còn là anh em của nhau”.
Đức Giêsu phá bỏ khoảng cách giữa ông chủ và tôi tớ. Trong Người hai bên đã trở nên một.
Một trong những hình ảnh mà Kinh Thánh dùng để chỉ đời sống là cái chén. Cũng giống như một cái chén có thể đựng một thứ đồ uống vừa đắng vừa ngọt, cuộc đời của mỗi người chúng ta có thể nói được là sự pha trộn giữa ngọt ngào và đắng cay. Đây là một hình ảnh phong phú và mạnh mẽ.
Nếu chén có thể hiểu như cả một cuộc đời thì nó cũng có thể hiểu như một phần cuộc đời. Vậy thì, có những lúc chén đời sống đầy những điều đắng cay, đắng cay đến nỗi chúng ta không muốn uống hoặc cảm thấy không thể nào uống được. Nhưng có những lúc khác, chén ấy tràn đầy sự ngọt ngào. Có lúc chúng ta không có đủ. Và còn những lúc khác, chén ấy có thể nhạt nhẽo và vô vị. Sau cùng, có những lúc, chén của đời mình trống rỗng.
Giacôbê và Gioan đến cùng Đức Giêsu với một đòi hỏi rất ích kỷ. Họ đòi được một người ngồi bên tay phải và người kia ngồi bên tay trái Đức Giêsu trong nước trời. Rõ ràng họ nghĩ vương quốc của Đức Giêsu cũng theo kiểu mẫu của các nước ở trần gian. Người ở địa vị cao sẽ được hưởng danh dự, vinh quang và quyền lực.
Đức Giêsu đáp lại bằng một câu hỏi: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Họ liền đáp lại: “Thưa được”. Bởi vì họ nghĩ rằng đó là một chén rất ngọt ngào.
Nhưng điều mà Đức Giêsu thật sự muốn hỏi hai môn đệ là: “Các anh có sẵn sàng đi qua những đau khổ mà Thầy sắp trải qua không?”
Uống chén đau khổ và hy sinh không phải là việc dễ dàng. Dĩ nhiên khi giờ đã đến để Đức Giêsu phải uống chén đó, Người đã chùn bước. Ba lần Người xin Chúa Cha cất chén ấy khỏi tay Người: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”, và Người đã uống chén đó.
Các tông đồ lúc đó không biết chén của Chúa sẽ là chén rất đắng cay. Họ cũng không biết sự yếu đuối của mình. Thế nên khi giờ của Chúa đến, họ không cùng uống chén ấy với Người mà để Người uống chén đắng cay ấy một mình.
Chúng ta không biết trước chén đời sống nào được đưa cho chúng ta. Chúng ta khám phá dần dần khi chúng ta tiến bước. Đức Giêsu, Đấng vô tội đã chọn uống chén rất đắng cay. Nhưng như chúng ta đã thấy. Người không thấy việc đó dễ dàng. Thế nhưng Người đã uống cạn chén đó và làm thế vì yêu thương chúng ta (sự cần thiết bi thảm cũng thế – hãy nghĩ đến những viên thuốc đắng mà người ta phải uống)
Dù Đức Giêsu vô tội, Người đã cảm nghiệm sự yếu đuối và cám dỗ mà chúng ta cảm nghiệm. Người biết sự yếu đuối của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải đến gần Người với lòng trông cậy, vì biết rằng Người có thể và sẽ giúp đỡ chúng ta.
Nếu chúng ta thấy chén đời sống cay đắng lạ lùng, thì chúng ta không cần phải cho rằng nó ngọt ngào hoặc nghĩ rằng chúng ta uống nó bởi sức mạnh của riêng mình. Không giống như hai môn đệ Giacôbê và Gioan, chúng ta không nên sợ hãi hay xấu hổ mà nói rằng: “Không, Lạy Chúa, con không thể uống và không muốn uống. Nhưng nếu con phải uống thì với sự giúp đỡ của Chúa con sẽ uống được”.
Uống chén đời sống, đặc biệt chén khó khăn được làm bởi một cuộc đời hy sinh và phục vụ người khác, chính là đi theo Đức Kitô. Nhưng những ai chia sẻ với Người chén đắng cay của thập giá Người thì cũng sẽ chia sẻ với Người vinh quang phục sinh của Người.
Tôi viết bài suy niệm này, khi đang rao giảng ở vịnh San Francisco, bang California. Hồi này là cuối tháng Chín. Tiểu bang đang vào mùa tranh cử. Không khí hùng biện thật sôi nổi. Người ta vận động truất phế thống đốc đương nhiệm và tranh nhau cái ghế của ông. Địa vị chỉ có một mà người tranh cử lại quá nhiều, cho nên cuộc ganh đua thật ráo riết. Thêm vào đó, chức vị thống đốc tiểu bang là cơ hội tốt để hướng tới những tham vọng chính trị khác, kể cả chức tổng thống hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Ngoài ra, bây giờ cũng là cuối mùa bóng chày (Baseball). Các đội mạnh cũng đang quyết tâm đoạt giải vô địch, thực tế đội San Francisco hay Oakland đang thư hùng những trận đấu cuối cùng, thành thử chỗ nào cũng nhan nhản các động viên, chính trị và thể thao. Đầu mùa đội San Francisco Forty Niners đã chịu một vài thất bại. Nếu như không thắng phen này thì quả là đại hoạ! Chỉ có mưu kế chui xuống đất để tránh xấu hổ cùng bàn dân thiên hạ! Mọi người đều muốn đội “ruột” của mình thắng, bởi lúc ấy chúng ta cùng “thắng” với họ. Chẳng ai dại liên kết với kẻ thất bại. Ông bầu Vince Lombardi một lần đã nói: “thắng là điều duy nhất chúng tôi nhắm tới.”
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hai mươi chín này, các môn đệ Chúa Giêsu cũng khao khát là kẻ chiến thắng, bởi trong quá trình rao giảng họ đã kỳ mục sở thị danh tiếng và quyền năng của Ngài. Họ đã nếm trước vinh quang khi Chúa thực hiện các phép lạ, loại trừ các đối thủ một cách vẻ vang. Nhưng thực ra họ đã nhầm. Bài Phúc Âm cho thấy quan điểm của họ hoàn toàn trái ngược với mạc khải của Chúa về những đau khổ Ngài sắp phải chịu: “Các anh chẳng hiểu biết điều các anh xin! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Thực tế, bài Tin Mừng nối tiếp ngay sau lời tiên báo thứ ba về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu (Mc 10,32). Nếu để ý, chúng ta thấy Chúa huấn luyện các môn đệ đang trong hành trình lên Giêrusalem. Ngài dạy bảo họ nhiều điều và ngày càng hết thời gian. Các Ngài đã đến ngoại ô thành phố. Vậy mà các môn đệ chẳng tiếp thu được bao nhiêu, vẫn cái não trạng xôi thịt. Nếu như Chúa làm một cuộc kiểm tra cuối học kỳ, chắc chắn họ sẽ thất bại, ăn điểm loại. Có đúng là họ đã trốn học trong những ngày Chúa dạy về từ bỏ mình để có thể theo Ngài. (Mc 8,34). Hoặc những điều kiện để lắng nghe lời Thiên Chúa? Hay những kẻ giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao? Hoặc phải trở nên trẻ nhỏ để vào được Nước Hằng Sống?… Khi lắng nghe hai anh em Giacôbê và Gioan yêu cầu, hẳn Chúa Giêsu phải thất vọng ghê gớm! Họ chẳng thấm được chi hết! Tuy nhiên, phần chúng ta thế nào? Suốt đời nghe Chúa rao giảng, mời gọi, có học được gì không? Lương tâm và nếp sống mỗi người trả lời cho câu hỏi!
Cứ như tiến trình bình thường thì tham vọng của cuộc sống là như thế. Các ông Gioan và Giacôbê không thể ra ngoài thông lệ. Họ nhìn về phía trước, lượng định cho mai sau. Khi cho con đi học, vừa bước chân vào cổng trường là chúng ta đã hy vọng tương lai: bằng cấp, công ăn việc làm, địa vị, lương bổng,… Chúng ta muốn chúng thành công trong học hành, để có thể đạt tới các mục tiêu. Chúng phải cắt ngắn các ngày nghỉ hè, cắp sách đi học thêm, bỏ bớt các hoạt động ngoại khoá, các vui chơi giải trí, mùa hè xanh, lửa trại. Phải “cày” ngay từ buổi đầu năm học, thuê mướn gia sư phụ đạo, chạy chọt trường điểm, trường chuyên để đảm bảo việc học hành cho con cái và thoả mãn ước vọng tương lai. Như vậy, chúng ta hiểu được những hy sinh, gian khổ gắn liền với mục tiêu đề ra, khác hẳn các đệ tử ham chơi của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, dễ dãi mà tính đạt danh vọng cao!
Nhưng cũng không thể quá nghiêm khắc với họ được, bởi lẽ trong cuộc sống xã hội cũng như riêng tư của các Ngài, toàn bị các phù phiếm tấn công (như chúng ta phải chịu đựng ngày nay): khao khát quyền lực, giàu sang phú quý, danh vọng, giai cấp. Họ mong đợi một Đấng Messiah, quyền uy mạnh mẽ, lật đổ ách thống trị ngoại bang, thiết lập vương quyền như thời David và dĩ nhiên, họ được chia phần, không khanh tướng thì cũng bộ trưởng nọ kia. Họ sẽ được ăn trên ngồi chốc, sai bảo, cắt cử, trị vì. Giấc mộng thật là đẹp. Hai tông đồ Gioan và Giacôbê chẳng qua can đảm hơn, nói lên được suy nghĩ của mình. Vì thế, họ mới phát ghen khi hai ông dự định dành chỗ nhất, và thẳng thừng nhờ mẹ (chỗ thân thích với Thầy Giêsu) yêu cầu giùm. Đúng là Giacôbê và Gioan ranh mãnh. Chiếc vé vinh quang hai bên tả hữu Chúa Giêsu hai ông tính chiếm đoạt! Trong lúc các môn đệ khác đều ước ao quyền bính, tiếng thơm và địa vị.
Sự thật là chiến thắng cuối cùng sẽ được Thiên Chúa ban cho Đức Kitô và các môn đệ. Nhưng phải thông qua đau khổ và cái chết. Đức Kitô đã mạc khải rõ như vậy. Thầy trò phải trở nên “tôi tớ” phục vụ nhân loại trong ý nghĩa “thí mạng sống để cứu chuộc loài người”. Chắc chắn ý nghĩa này không phải là tham vọng trần tục của các tông đồ, và cũng không nằm trong ý đồ của chúng ta, khi vỗ ngực tự xưng là kẻ theo Chúa. Đức Kitô chẳng muốn xỉ nhục và đau khổ cho chính mình và các môn đệ. Nhưng đó là con đường không thể tránh khỏi khi tuân theo thiên ý Đức Chúa Trời. Đường lối Thiên Chúa trái ngược với những yêu thích xác thịt. Đau khổ của Đức Kitô là hậu quả tất yếu của việc Ngài lựa chọn con đường Thiên Chúa, đồng hoá với những kẻ nghèo hèn, tối tăm và bị loại. Ngài vươn tới những tội nhân, kết bạn với phường bị xã hội và tôn giáo nguyền rủa, tẩy chay. Bởi Ngài luôn đau nỗi đau của những số phận ngoài lề, cho nên bị loài người và dường như cả Thiên Chúa trừng phạt. Cuộc đời của Ngài nhằm mục tiêu duy nhất là phục vụ những ai bị khinh bỉ, dày xéo hoặc bỏ qua. Lòng của Ngài đối với những kẻ nghèo hèn thúc đẩy đến cái chết nhục nhã. Ngài đâu có dấu vết gì là thuộc thành phần thượng lưu, thống trị. Vậy mà luôn luôn đối đầu với giai cấp giàu sang, quyền quý cả đạo lẫn đời. Họ căm phẫn, cay đắng về cách hành xử và rao giảng của Ngài, đến độ nhất trí triệt hạ Ngài. Vậy thì không chi lạ lẫm nếu như hơn hai ngàn năm nay, những kẻ thực sự nhận Ngài làm tôn sư đều bị thế gian, ma quỷ và xác thịt truy lùng và giết hại. Bởi họ cũng như Ngài là cái gai gây nhức nhối thiên hạ: “Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian yêu thích cái gì thuộc về nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian, nên thế gian ghét bỏ anh em.” (Ga 15,19) Đó là những gì Chúa Giêsu tiên báo về số phận của Ngài và của tông đồ, khi các Ngài đang trong hành trình tiến về Giêrusalem.
Nhưng xin nhớ Chúa Giêsu không cưỡng ép ai làm môn đệ Ngài. Ngài chỉ kêu mời và chúng ta hoàn toàn tự nguyện. Tuy nhiên vào giai đoạn này của Phúc Âm Marcô, Chúa có một lời mời gọi khác, quyết liệt hơn nhiều cho những kẻ sẵn sàng bước theo Ngài: “Các anh có uống nổi chén đắng Thầy sắp uống không?” Chả là vì lúc này theo Ngài có nghĩa là hy sinh triệt để cùng Ngài. Ẵm lấy thánh giá, chịu treo lên và chết nhục nhã. Cái chết của một tử tội, mọi người ghê sợ và xa tránh. Khi mới theo, có lẽ các môn đệ chưa nhận ra nội dung này, nhưng bây giờ thì họ được mời gọi chấp nhận, và họ vẫn còn tự do theo hoặc không theo. Đây là thực tế của ơn Ngài kêu gọi, các môn đệ chưa thể nhận ra lúc ban đầu, tuy nhiên điều phải đến đã đến. Hậu quả là đa số chạy trốn, ngoại trừ Gioan và các phụ nữ! Chúng ta cũng đã nói “vâng” với tiếng Chúa mời gọi, liệu có ý thức được đau khổ và hy sinh là một phần của thửa ruộng đã mua? Liệu có bằng lòng đi theo Ngài lên Giêrusalem để chịu chết? Liệu còn sẵn sàng chấp nhận số phận của Ngài trên thập giá? Xem chừng câu trả lời rất khó. Không kể các linh hồn thật sự can đảm. Con số này xưa nay hiếm!
Bởi lẽ, đa phần nhân loại đều tìm kiếm vẻ vang. Là con cháu dòng giống xây tháp Babel, luôn luôn có khuynh hướng nhìn lên cao, ngưỡng mộ những thành công rực rỡ, những công trình “vĩ đại”. Nhanh hơn, cao hơn và xa hơn, là khẩu hiệu của các cuộc đua Olympic, phần nào nó nói lên tâm lý Babel này. Bất hạnh thay, các đệ tử của Chúa Giêsu trong Giáo Hội cũng mắc phải cùng một tâm trạng, ganh đua nhà thờ, tranh giành ảnh hưởng, địa vị cao sang, là nhân vật quan trọng trong địa phận, địa giới, âm mưu hạ bệ bạn bè, vươn lên chiếm ghế chủ toạ. Nói gọn lại, đủ mọi mánh khoé như con cháu Giacóp. Do đó, lời mời gọi của Chúa Giêsu hôm nay có giá trị đặc biệt để chúng ta xét lại thái độ của mình. Chúng ta lượng định thế nào về các thành công và tầm vóc quan trọng trong nội bộ Hội Thánh, và ngoài xã hội? Chúng ta trân trọng những ai và khinh miệt kẻ nào? Cứ như cái nhìn của Tin Mừng hôm nay, thì kẻ “vĩ đại” là người phục vụ kẻ khác, tinh thần và vật chất. Nó mở mắt cho chúng ta thấy được tấm lòng “vĩ đại” trong nếp sống thường nhật chung quanh mình. Những người cha hy sinh, các người mẹ chung thuỷ, dịu dàng, các con cái vâng lời, cần mẫn, những nông dân, công nhân vất vả làm ra của cải cho xã hội. Chúng ta cũng cần nhìn vào những con người hiền lành khiêm nhường chất phác phục vụ không cần tiếng khen, phần thưởng. Những giúp đỡ không cần lời tạ ơn. Những lòng trung thành với bổn phận không cần biểu dương ầm ĩ.
Trong giáo xứ tôi đang rao giảng có một nhóm ông bà lớn tuổi. Họ là những thành viên tích cực của hội từ thiện thánh Vinhsơn đệ Phaolô. Nhờ họ mà hội này sống được và hoạt động. Họ nuôi dưỡng những gia đình nghèo khổ trong giáo xứ. Họ đi xin lương thực, quần áo, chăn mùng rồi tập trung phân phát cho các gia đình thiếu thốn, nhập cư. Một giáo dân cho tôi hay, không có những người này thì hội đã tan rã từ lâu. Vậy mà xem dáng vẻ bên ngoài, họ toàn là những người quê kệch, lôi thôi, chẳng ai muốn nhìn, mặc dù công việc của họ là then chốt cho việc từ thiện trong giáo xứ. Ai mà biết được sự “vĩ đại” của họ nằm ở đâu? Họ thực thi sứ vụ và ơn gọi của mình khiêm tốn và lặng lẽ. Mục tiêu duy nhất của họ là người đói nghèo có cơm ăn áo mặc. Phải chăng họ đang nhắm đến nếp sống “vĩ đại” mà Phúc âm hôm nay chỉ bảo? Xin Chúa cho chúng ta cũng được trở nên các linh hồn sáng giá như họ. Amen
*** Ai đó hỏi linh mục John Wesley tại sao nhiều người vất vả vượt quãng đường xa để đến nghe ông giảng. Linh mục trả lời: “Tôi tự thiêu đốt mình và người ta đến xem tôi bốc cháy.” Câu nói đáng chúng ta suy nghĩ. Tuy nhiên nó ngầm ý hy sinh và khổ hạnh.
“Chúng ta phải bắt chước Chúa Giêsu, Đấng đã đến để phục vụ người khác chứ không phải để được người khác phục vụ“
Câu cuối cùng trong bài Phúc Âm ngày hôm nay là một trong những câu hỏi nổi bật nhất trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta hãy nghe lại câu ấy: “CON NGƯỜI không đến để được phục vụ, nhưng để Phục vụ và hiến thân cứu chuộc nhiều người”. Ít câu nào trong Kinh Thánh tóm tắt được cuộc đời Chúa Giêsu một cách hoàn hảo như thế.
Lần đầu tiên nghe nói về cuộc đời Chúa Giêsu, một Kitô hữu Nhật Bản nổi tiếng tên là Kagawa kêu lên: “Lạy Chúa, xin cho con nên giống Đức Kitô của Ngài”. Và để nên giống Đức Kitô hơn, Kagawa đã từ bỏ căn nhà tiện nghi để đến sống trong những khu tồi tàn vùng Tokyo. Ở đó, ông chia sẻ chính bản thân và của cải mình cho bất cứ ai cần sự giúp đỡ. Trong cuốn sách nhan đề “Quyết Định Nổi tiếng Về Cuộc Đời” (Famous Life Decision), Cecil North Cott viết: Kagawa đã cho đi hết áo quần của mình, và chỉ mặc trên người chiếc áo thụng rách nát tả tơi; vào một dịp khác, dù lâm bệnh rất nặng, ông vẫn tiếp tục thuyết giáo dưới cơn mưa, miệng lập đi lập lại không ngừng, “Thiên Chúa là Tình yêu, Thiên Chúa là Tình yêu. Ở đâu có tình yêu ở đấy có Thiên Chúa”.
William Barclay cho chúng ta thấy tâm hồn và trí tuệ của Kagawa qua những lời của Kagawa mà ông trích dẫn như: “Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất, Ngài hiện diện giữa những kẻ ăn xin, Ngài nằm chung với những người bệnh hoạn, Ngài đứng về phía những người thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Thiên Chúa thì hãy đến thăm tù ngục trước khi đi tới đền thờ, hãy đến thăm tù ngục trước khi đi tới đền thờ, hãy đến thăm bệnh viện trước khi đi dự lễ, hãy giúp đỡ kẻ nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh.
Khi đọc về một người như Kagawa, chúng ta nên tự vấn chính mình; chúng ta phải làm sao để có thể sống Phúc Âm một cách nghiêm chỉnh hơn trong đời sống mình? Phải làm sao để bắt chước đời sống phục vụ của Chúa Giêsu một cách thiết thực hơn? Phải làm sao để trở thành Kitô hữu đích thực hơn trong chính gia đình và trong môi trường làm việc của mình?
Dĩ nhiên không ai có thể trả lời dùm chúng ta, vì đây là những câu hỏi mà chúng ta phải tự trả lời lấy, nghĩa là mỗi người đang hiện diện ở đây sẽ phải trả lời những câu hỏi ấy theo cách thức của mình. Tuy nhiên, đừng bao giờ vịn cớ rằng: “Tôi không thể đến những khu tồi tàn ở Tokyo để sống giống như Kagawa đã làm”, để rồi chúng ta chẳng làm gì nữa cả; vì nếu chúng ta không thể làm được một điều thật can đảm, thật anh hùng, thì điều đó không có nghĩa là chúng ta không còn có thể làm được bất cứ việc gì khác.
Tất cả chúng ta đều có thể làm một điều gì đó dù rất là nhỏ bé và xem ra vô nghĩa, khởi đầu là cho chính những người thân trong gia đình chúng ta, rồi từ đó chúng ta sẽ có những may mắn mở rộng việc phụng sự ra môi trường xa hơn, còn nếu chúng ta không khởi sự ngay từ gia đình mình thì chúng ta cũng sẽ không bao giờ khởi sự được ở bất cứ nơi nào khác.
Sau đây là một trong những ví dụ hấp dẫn nhất nói về việc phục vụ tha nhân khởi sự từ chính gia đình mình. Đó là câu chuyện được đăng trong tạp chí Leadership (Giới lãnh đạo) cách đây ít lâu:
Một cậu bé nọ cứ cố tình đi học về trễ hoài mà chẳng có lý do gì chính đáng cả, dù đã có biết bao lời khuyên nhủ răn bảo cậu. Cuối cùng, vì quá thất vọng, bố cậu bảo cậu ngồi xuống và nói; “Lần sau con còn về trễ nữa là con chỉ được ăn tối bằng bánh mì với nước lã thôi, ngoài ra không được ăn thứ gì khác nữa nhé. Con nghe rõ chưa?” Cậu bé nhìn thẳng vào mắt cha và gật đầu. Cậu đã hoàn toàn hiểu ý bố cậu.
Vài ngày sau, cậu bé về nhà còn trễ hơn bình thường nữa, Mẹ cậu gặp cậu ở cửa song chẳng nói một lời. Cha cậu gặp cậu trong phòng khách nhưng cũng vẫn chẳng nói lời nào với cậu. Tuy nhiên, tối hôm ấy, khi mọi người quây quần bên bàn ăn, trái tim cậu bé như muốn thót lại khi thấy đĩa cha cậu chất đầy thức ăn, đĩa của mẹ cũng thế, còn đĩa của cậu thì chỉ có một khúc bánh mì, bên cạnh có một ly nước lã, trông hiu quạnh làm sao! Đầu tiên cậu liếc nhìn miếng bánh, sau đó lại nhìn qua ly nước lã. Đây chính là hình phạt bố mẹ cậu đã nói trước với cậu, đáng buồn hơn nữa là tối nay cậu lại cảm thấy đói quá chừng.
Câu chuyện trên giúp ta hiểu thật dễ dàng điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ qua lời Ngài nói trong Phúc Âm hôm nay; “Con Người…. đến… để hiến mạng cứu chuộc nhiều người”. Đức Giêsu đã đến trong thế gian để làm cho chúng ta điều mà bố cậu bé đã làm cho cậu. Ngài đến để đền tội lỗi chúng ta bằng chính cái chết của Ngài trên thập giá.
Vậy, để kết thúc, chúng ta hãy nhớ rằng bài Phúc Âm hôm nay đưa ra cho chúng ta một thách thức; Đó là chúng ta phải hiến mạng sống mình để phụng sự tha nhân như Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta và nơi chốn tốt nhất để khởi sự việc này là chính gia đình ta và môi trường làm vịêc của ta. Nếu chúng ta khởi đầu từ những môi trường này, chúng ta sẽ mở rộng được lòng yêu thương phục vụ của chúng ta sang những môi trường khác nữa.
Biết đâu vào một thời gian nào đó, chúng ta sẽ có dịp phục vụ kẻ khác cũng quảng đại như Kagawa đã làm nơi những căn nhà tồi tàn vùng Tokyo. Chúng ta sẽ có thể có dịp phục vụ tha nhân cũng quảng đại như người bố trong câu chuyện đối với đứa con hư của mình. Tuy nhiên, trước khi chúng ta hy vọng có thể bay được thì chúng ta phải tập đi bộ đã. Và bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta bắt đầu tập đi bộ, mời gọi chúng ta bắt đầu phục vụ lẫn nhau, ngay từ trong gia đình và môi trường làm việc của chúng ta; Đó chính là lời mời gọi chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu là Đấng đã phán”
“Con Người đến không phải để được phục vụ, mà để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc nhiều người”.
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”. Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.”
Đức Giêsu bảo: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không? “. Các ông đáp: “Thưa được.” Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.”
Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”
Các con thiếu nhi thương,
Thời Thế chiến, một tù nhân đã vượt ngục trốn khỏi trại tập trung Auschwitz, một nhà tù khét tiếng tàn ác của Đức Quốc Xã tại Ba Lan. Để cảnh cáo những tù nhân còn lại, bọn cai ngục đã bắt mười tù nhân khác phải chịu tử hình để thế mạng. Chúng chỉ ra mười tù nhân, trong đó có một người là bố trong một gia đình. Khi mười nạn nhân bước ra khỏi hàng, thì một người tù khác, cha Maximilianô Kolbê, một linh mục dòng Phanxicô, đã tiến ra và tình nguyện chết thay cho người cha gia đình kia.
Viên sĩ quan cai tù sửng sốt, nhưng cũng chấp nhận lời đề nghị kia. Và Cha Maximilianô đã chết (ngày 14/08/1941). Trong nghi thức phong hiển thánh cho vị tử đạo được cử hành 41 năm sau, người ta đã chứng kiến gương mặt giàn dụa nước mắt của người cựu tù năm xưa đã được thánh nhân thế mạng được truyền hình trên khắp thế giới (10/10/1982).
Ông ấy đã gặp được một con người thực sự có lòng yêu thương: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu mình.” (Ga 15, 13).
Các con thiếu nhi thương,
Câu chuyện của cha Maximilianô Kolbê mà các con vừa nghe có vẻ đi ngược lại với khuynh hướng tự nhiên của Nhóm Mười hai Tông đồ trong thời gian đầu đi theo Chúa Giêsu. Các ông muốn nắm hai chức vụ lớn nhất trong Vương quốc mà các ông tưởng rằng Chúa Giêsu sắp thiết lập, điển hình là hai anh em nhà Dêbêđê là ông Giacôbê và ông Gioan.
Hai ông đã xin gì, các con biết không? Thưa, hai ông đã xin rằng: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời, như thách thức hai ông cũng như các Tông đồ còn lại: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”.
Đức Giêsu cố ý nói đến cơn hấp hối và cái chết mà Người phải chịu. Hai anh em được thách đố để theo Đức Giêsu đến cùng.
Đức Giêsu kết thúc cuộc trao đổi bằng cách đặt hai anh em trước một câu trả lời đòi họ phải được hoán cải để theo ý muốn của Thiên Chúa. Người nói: “Có thể Chúa Cha sẽ dành địa vị cho các anh, nhưng các anh phải sẵn sàng vác thập giá tôi vác, uống chén đắng tôi uống và chịu phép rửa tôi chịu”. Nghĩa là hai anh em phải bước theo Đức Giêsu cho tới cái chết trên thập tự.
Các con thương,
Sau này, khi Chúa Giêsu về trời, các vị Tông đồ Giacôbê và Gioan cùng với các Tông đồ khác đã hiểu được lời của Chúa Giêsu: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Và các Tông đồ đã đem ra áp dụng trong đời sống của mình, khi hầu hết các ông đã chịu chết vì Danh Chúa trong khi các ông phục vụ công việc rao giảng Tin mừng. Làm như thế, các ông đã bắt chước Thầy của mình là: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Các con thương,
Thầy Giêsu, các Tông đồ, Cha thánh Maximilianô đã “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”, trong số đó có cha, có các con và nhiều người khác nữa. Ngày nay, noi gương Thầy Giêsu, các Tông đồ và thánh Maximilianô Kolbê, thiếu nhi có thể làm gì để phục vụ và hiến mạng vì người khác? Cha nghĩ rằng, các con có thể làm những việc nhỏ cụ thể sau đây:
– Phục vụ và hiến thân vì người khác khi các con biết nghĩ tốt cho bạn bè, không ghen tị, nói xấu hay chửi tục;
– Phục vụ và hiến thân vì người khác khi các con bớt tiền ăn sáng để đóng góp cùng với nhiều người để cứu giúp những người nghèo khổ, già cả, bệnh tật…
– Phục vụ và hiến thân vì người khác là các con học biết yêu mến Chúa Giêsu và bắt chước thánh Maximilianô Kolbê lòng yêu mến Đức Maria qua tràng chuỗi mân côi trong tháng Mân côi này và đặc biệt trong tháng Mân côi.
Thực hành:
Tâm niệm: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Đi tìm kho báu: Mời các con cùng suy nghĩ và trả lời các câu hỏi sau
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Tham vọng chung của loài người là có được một chỗ đứng trong bậc thang xã hội. Vì thế mà hai tông đồ Giacôbê và Gioan toan ngỏ ý xin Thầy mình một ân huệ là được ngồi: một người bên tả và một người bên hữu trong vinh quang của nước Chúa. Nghe lỏm được ý đồ của họ, các môn đệ khác bèn tức tối với hai ông này (Mc 10:41). Xét theo công trạng, thì hai ông Giacôbê và Gioan chưa có làm được gì đáng kể. Nói kiểu bình dân, các ông chưa có điểm với Chúa Giêsu và với các tông đồ khác, nên việc xin ngồi bên tả và bên hữu chi là việc muốn ăn mảnh.
Đến đây, Chúa liền thách thức hai ông: Các con có uống nổi chén mà Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không? (Mc 10:38). Thời cổ xưa tại đất Do thái, việc uống cùng một chén với ai, có nghĩa là muốn tham phần vào vận mệnh của người đó: hoặc may hay rủi. Vậy thì vận mệnh của Chúa cứu thế là gì? Vận mệnh của Chúa là việc tự nguyện chấp nhận khổ hình thập giá để làm giá cứu chuộc nhân loại. Như vậy lời Chúa có nghĩa là lời thách đố xem hai ông có muốn trả giá cả để được ngồi bên tả và bên hữu Chúa không, nghĩa là xem các ông có muốn chịu khổ hình với Chúa và vì Chúa không? Chúa nhận lời quả quyết chấp nhận bách hại và chịu đau khổ của hai ông. Tuy nhiên ghế danh dự mà hai ông xin là tuỳ thuộc vào sự quyết định của Chúa Cha.
Trong những lần giảng dạy, Chúa Giêsu hứa sẽ thiết lập một vương quốc vĩnh cửu, nhưng Người sẽ phải chịu đau khổ và chịu chết trước khi hoàn thành theo như lời tiên báo trong sách Isaia: Thiên Chúa đã muốn người tôi trung phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn (Is 53:10). Và như vậy thì Chúa Giêsu đồng hoá với người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê trong lời tiên tri Isaia. Nỗi đau khổ mang lại sự cứu độ còn được Thánh Phaolô đề cập đến trong thư gửi tín hữu Do thái (Dt 4:16).
Phúc âm hôm nay ghi lại Chúa Giêsu chặn đứng tham vọng cá nhân của ông Giacôbê và Gioan bằng cách dạy họ: Ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ mọi người (Mc 10:44), nghĩa là phục vụ mọi người. Các tông đồ muốn phần thưởng cho những cố gắng của họ. Chúa bảo họ trong Nước Chúa thì có sự khác biệt. Nước Chúa không phải là nơi để người ta tâng bốc cái tôi. Trong Nước Chúa, tất cả những ai muốn có ảnh hưởng, địa vị thì phải làm đầy tớ người khác, nghĩa là phục vụ người khác. Nếu để các ông nuôi tham vọng cá nhân, có thể trở nên mối nguy hại cho Giáo hội mà Chúa sẽ thiết lập sau này.
Chúa dạy các tông đồ như vậy để cho những người kế vị và những người cộng sự hiểu biết đường lối Phúc âm hầu tránh việc lạm dụng chức tước mà gây ảnh hưởng cá nhân, thay vì tìm kiếm vinh danh Chúa và xây dựng Giáo hội. Như vậy khi hiểu được bản chất của Nước Chúa, các tông đồ sẽ là người cuối cùng tìm kiếm địa vị và danh dự. Các tông đồ nhận thức được rằng, họ sẽ có địa vị trong Nước Chúa, cũng như trong Giáo hội của Chúa. Tuy nhiên Chúa bảo họ không được dùng quyền để bá chủ và áp đặt, mà phải dùng quyền để phục vụ như Chúa đã phục vụ: Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người (Mc 45).
Có nhiều việc phục vụ khác nhau. Trong quá khứ, có những việc phục vụ do đầy tớ và nô lệ thực hiện. Vào thời cổ xưa tại đất Do thái, khi khách vào nhà ai, thì việc của đầy tớ là đem nước để rửa chân cho khách. Chân đi dép trên đất cát giữa trời nóng nực mà được dội nước vào thì cảm thấy khoan khoái biết bao. Trong bữa Tiệc ly Chúa Giêsu đã làm công việc của người nô lệ, lấy nước rửa chân cho các tông đồ vì yêu thương. Và Chúa dặn các ông phải rửa chân lẫn cho nhau, nghĩa là phục vụ lẫn nhau. Phục vụ cũng được thực hiện do người làm công hay tình nguyện. Việc phục vụ được coi là việc nhân đạo nếu được phát xuất tự chủ nghĩa nhân bản. Việc phục vụ được coi là việc bác ái nếu được làm vì yêu mến. Việc phục vụ có đượm tình yêu mến là điểm thiết yếu của đạo Kitô giáo. Phục vụ người khác vì yêu mến là một nhân đức mà mỗi người Kitô hữu cần thực hành. Khi phục vụ vì tình yêu mến Chúa thúc đẩy, công việc phục vụ sẽ trở nên nhẹ nhàng và người làm việc phục vụ mới cảm thấy vui được. Có những người khi không có việc gì làm, thì buồn chán, sinh bệnh; khi làm việc phục vụ giúp đỡ tha nhân, họ tìm được ý nghĩa của cuộc sống, lại lên tinh thần, rồi được khỏi bệnh. Và đó là ý nghĩa của tình yêu biến đổi. Thánh Âu-tinh cũng nhận định: đâu có yêu, đấy không còn khổ, mà giả như có khổ đi nữa, người ta sẽ chấp nhận cái khổ vì yêu.
Nếu muốn sống tinh thần phục vụ, người ta sẽ tìm thấy rất nhiều việc để làm trong nhà thờ như quét dọn nhà thờ, hốt lá khô, nhặt rác rưởi xung quanh nhà thờ; và nhiều việc để làm trong làng xóm, phố phường như tình nguyện giúp việc từ thiện, bác ái, việc xã hội và việc nhân đạo.
Là người công dân và người Kitô hữu, người tín hữu cần học để coi việc phục vụ trong gia đình, trong giáo xứ và trong xã hội như là phương thế để hoàn thành ơn gọi làm người Kitô giáo.
Lời cầu nguyện xin cho được biết sống tinh thần phục vụ:
Lạy Chúa Giêsu!
Chúa đến thế gian dạy các môn đệ
bài học phục vụ trong yêu thương.
Xin dạy con biết làm việc phục vụ vì yêu mến Chúa
và nhận ra hình ảnh của Chúa
nơi nguời anh chị em mà con phục vụ
nhất là những người nghèo đói, bệnh tật
đau khổ và bất hạnh. Amen.
LẦN THỨ BA LOAN BÁO VỀ CUỘC KHỔ NẠN (10,32-34)
Sau chuỗi huấn dụ chúng ta vừa đọc (9,33-10,31) quả là thích hợp khi Maccô nhắc lại cho chúng ta nhớ Chúa Giêsu đang cùng các môn đệ trên đừơng tiến về Giêrusalem, trung tâm của dân riêng Chúa (c. 32a). Dù không có ghi lại những chỉ dẫn địa lý chính xác người ta cũng biết rằng Đấng Mêsia đang tiến đến gần các biến cố trọng yếu của định mệnh Ngài. Ngài đã băng ngang vùng Galilê từ bắc tới nam (9,30). Ngay từ trước, ngài đã cố gắng dạy dỗ các môn đệ chuẩn bị cho những gì đang chờ đón Ngài.
Maccô đã nhấn mạnh “hành trình lên Giêrusalem này qua ba lần loan báo về cuộc khổ nạn. Con số “ba” mang tính cách tượng trưng muốn nói lên rằng điều đó được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại trong suốt cuộc hành trình. Và đây là lần thứ ba và cũng là lần cuối Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về cái chết sắp tới và cuộc phục sinh của Ngài. Người ta nhớ lại lần loan báo đầu tiên (8,31-33) đã làm các môn đệ thất vọng sâu xa. Nhân danh họ, Phêrô vừa mới nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, nhưng viễn cảnh về một Đấng Mêsia khổ đau và chết chóc đã làm cho Phêrô kịch liệt chống đối (8,32). Người Do Thái chỉ có thể mường tượng đặc sứ của Thiên Chúa mang ơn cứu độ cho họ qua lăng kính một vị anh hùng vinh thắng. Lần loan báo thứ hai về cuộc khổ nạn (9,32-33) được Chúa Giêsu nói với môn đệ trong khi băng ngang qua vùng Galilê. Ngài phải không ngừng đạt tâm trí bạn hữu mình hướng tới những khổ đau Ngài sẽ phải chịu. Ngài nói: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta” (9,31). Một lần nữa, sứ điệp này cũng không được tiếp nhận: Tin rằng vị đặc sứ của Thiên Chúa phải nếm mùi thất bại thì quả thật khó khăn biết bao!
Hiện giờ, đang khi Chúa Giêsu càng dấn bước đi tới thì bầu không khí càng lúc càng trở nên bi ai. Maccô nêu bật lên điều này. Ông viết: “Người dẫn đầu các ông” trong khi nhất quyết dẫn họ đi trên con đường đưa Ngài đến cái chết (c. 32b). Nỗi sợ hãi của đám bạn hữu Chúa Giêsu cũng ảnh hưởng lây đến tất cả mọi kẻ đang bước theo Ngài. Các Kitô hữu Rôma của Maccô cũng có thể nhận ra mình ở trong số những kẻ này. Tuy nhiên trong những kẻ đi theo Ngài, Chúa Giêsu cảm tâh1y cần phải huấn luyện và đào tạo đặc biệt hơn những ai mà sau này sẽ trở thành những nhà lãnh đạo dân chúng: “Lần nữa Ngài tách riêng nhóm Mười Hai ra và bắt đầu nói cho họ về những gì sắp xảy đến cho Ngài” (c. 32c). Lần loan báo tối hậu này quả thực còn chính xác hơn hai lần trước. Trách nhiệm của nhà cầm quyền Do Thái rõ ràng được nêu bật đúng như những gì liên quan tới vụ án của Chúa Giêsu (c. 33-34). Việc chuyển giao bị cáo cho Philatô (biểu trưng cho dân ngoại) cũng như các nhục hình gây ra cho Chúa đều là các chi tiết Chúa Giêsu không thể biết trước. Ngài không biết Ngài sẽ chết như thế nào. Maccô đã rút ra những xác định này từ trình thuật về cuộc khổ nạn.
Cần phải hiểu rõ tại sao Maccô ghi nhận những chi tiết này. Sở dĩ thế là vì các Kitô hữu sơ khai vẫn còn hoang mang về số phận dành cho Chúa Giêsu. Vụ án của Ngài được các chức sắc Do Thái xét xử sơ sài, rồi tiếp đó Ngài bị trao vào tay dân ngoại rồi chịu đóng đinh bi đát: tất cả những điều này đối với họ là một “nghịch chướng” không thể chấp nhận nổi (x. 1Cr 1,23a). bằng cách đặt vào miệng Chúa Giêsu lời loan báo, về số phận mà Chúa biết đến tận những chi tiết nhỏ nhặt nhất, Maccô muốn giúp đỡ các độc giả vượt qua “nghịch chướng” này. Giữa lòng đức tin Kitô giáo, mầu nhiệm CON NGƯỜI chịu đóng đinh vẫn luôn là một yếu tố khó chấp nhận. Cuối cùng nói về cuộc chiến thắng trên cái chết: “Ba ngày sau Người sẽ sống lại” (c. 34b) chỉ được thực sự lưu tâm một khi việc phục sinh của Chúa Giêsu đã hoàn tất.
Cũng như suốt Phúc Âm của mình, ở đây Maccô lặp lại bài học thâm thúy Chúa Giêsu sẽ ban cho các lữ khách trên đường Emmau: “Há Đức Kitô không phải chịu đau khổ rồi mới bước vào vinh quang của Ngài sao?” (Lc 24,26). Giáo Hội sơ khai sẽ phải suy nghĩ sâu xa về ý định của Thiên Chúa “trong toàn bộ Kinh Thánh” để có thể tháp nhập vào đức tin mình sứ điệp về một Đấng Mêsia chịu đóng đinh (Lc 24,27).
LỜI YÊU CẦU CỦA CÁC CON ÔNG GIÊBÊĐÊ (10,35-45)
Ở đây Maccô cũng sử dụng lược đồ quen thuộc của ông. Sau mỗi lần loan báo về cuộc khổ nạn, Maccô đều đặt một cảnh miên tả chậm hiểu của cá môn đệ, từ đó kéo theo lời giảng dạy của Chúa Giêsu về cách thức họ phải cư xử để có thể trung thành với Thầy của mình.
Lần đầu tiên, khi Chúa Giêsu nói với nhóm Mười Hai về các đau khổ Ngài sẽ phải chịu, người ta đã thấy Phêrô “sừng sộ” lên và Chúa Giêsu đã yêu cầu các bạn hữu Ngài hãy từ bỏ chính mình để theo Ngài “cần” phải đón nhận cái chết, thì người ta thấy các môn đệ vẫn chả quan tâm gì tới sứ điệp mà chỉ lo tranh giành nhau quyền hành. Lúc đó Chúa Giêsu đã mạnh mẽ đòi hỏi phải tự hạ mình “làm tôi tớ mọi người” (9,30-35).
Và lần thứ ba này khi Chúa đặt ra trước mắt các bạn hữu Ngài số phận không tránh khỏi đang chờ đón Ngài thì họ lại cũng vẫn không biểu lộ khá hơn khả năng tiếp nhận sứ điệp (10,32-34). Này đây hai người trong đám họ (c. 35a) do không ý thức, đã tạo cho Chúa Giêsu cơ hội mới để chỉnh đốn lại cách cư xử xứng hợp của những kẻ muốn theo Ngài. Tuy là những kẻ theo Chúa Giêsu từ thuở ban đầu, những kẻ dám đưa ra lời yêu cầu quá táo bạo (c. 37). Họ muốn tự trấn an về một tình cảnh tương lai. Tham vọng của họ không chỉ nhắm đến một chỗ danh dự bên cạnh vị Vua – Mêsia trong Vương Quốc Ngài, mà còn phải nắm được uy quyền cai trị thực sự nữa. Thật là một giấc mơ ngu ngốc biết bao! Thay vào đó, sự khôi hài của số mệnh sẽ sắp xếp cho hai gã ăn cướp một đứa bên hữu, một đứa bên tả Chúa Giêsu… trên thập giá (15,27).
Lập tức Chúa Giêsu tố cáo ngay kỳ vọng phù phiếm của hai người bạn thân thiết nhất của Ngài. Ngài đặt họ đối diện với những gì sắp xảy ra. Liệu họ có chắc chắn chia sẻ với Ngài số phận đẫm máu đang chờ đợi Ngài không (c.38). Ngài nói với họ về cái chết bằng những hình ảnh mạnh mẽ. Trong Thánh Kinh “chén” để uống rất thường dùng để tượng trưng các đau khổ phải chịu (x. Tv 75,9; Is 51,17-22 v.v…). Người ta há không thường ám chỉ các thử thách phải chịu bằng câu nói: “Uống cạn chén” đó sao? Vào giờ hấp hối, chính Chúa Giêsu nài xin Cha Ngài: “Xin cất xa con chén này” (14,36), còn hình ảnh “phép rửa” xem ra xa lạ với sự đau khổ xét theo lối diễn dịch. Tuy nhiên không phải thế đâu, việc dìm toàn thân vào trong nước, kể cả đầu, làm cho người chịu phép rửa trải qua một giây phút cam go: anh ta bị dìm trong cái chết. Trong cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu sẽ cảm nếm một “phép rửa” thực sự. Ngài sẽ bị các cơn sóng của tử thần dìm ngập. Liệu các môn đệ có thể theo Ngài đến đó không? Giacôbê và Gioan đoan chắc với Ngài điều này mà chẳng phiền hà gia cả (c. 39a). Tuy nhiên chắc chắn họ đã trả lời mà chẳng hề thực sự nhận biết những gì chờ đón họ. Lúc đó, Chúa Giêsu xác nhận với họ rằng họ sẽ chịu một số phận giống như Ngài (c. 39). Thực thế, tông đồ Giacôbê sẽ chịu tử đạo vào khoảng năm 44 sau Chúa Giêsu (Cv 12,1-2). Còn phần tông đồ Gioan, tùy theo truyền thống cho biết, ông đã chết một cách bình thường, nhưng thực ra trước đó ông cũng phải trải qua những thử thách kinh sợ.
Dù sao, Chúa Giêsu cũng khước từ quyền hành mà Ngài có thể vay mượn để cung cấp cho các môn đệ yêu quý của Ngài những vị trí béo bở trong vinh quang của Ngài. Xét về mặt nhân loại, Chúa Giêsu ý thức rằng quyền hành ấy không nằm trong tầm tay Ngài. Vì thế Ngài dùng công thức ở thể thụ động (những vị trí này đã được chuẩn bị) mà người Do Thái ưa thích dùng để xác định Thiên Chúa là tác giả mà khỏi cần nêu danh Người (c. 40b). Rõ ràng Đấng Mêsia không dành cho mình những quyền hành xuất phát từ quyền hành duy nhất của Thiên Chúa.
Sự tức giận của các môn đệ khác chẳng phải là tấm gương đáng noi theo (c. 40b). Không biết là do sự táo bạo quá mức của Giacôbê và Gioan hay do một sự ghen tuông thầm kín nào đó đối với hai ông này mà các môn đệ kia nổi giận? Hẳn không phải là lần đầu tiên Maccô vạch ra sự tranh giành địa vị thường thấy trong các cuộc tranh luận của nhóm tông đồ (x. 9,33-34). Dù thế nào đi nữa, Chúa Giêsu cũng phải nhóm họp Mười Hai ông lại để dạy cho các ông một bài học súc tích. Ngài bảo các ông (tức các vị hữu trách tương lai của cộng đoàn Kitô giáo) hãy ý thức về quan niệm quyền hành thường thấy nơi Đế quốc Rôma cũng như các xã hội dân sự khác. Theo các thể chế này, quyền hành đồng nghĩa với cai trị, thường mang tính cách độc tài. Các tập tích cực nơi những thể chế dân ngoại đối nghịch với những gì Chúa Giêsu muốn thấy nơi việc cai quản Giáo Hội Ngài (c. 42-43a). Và Chúa Giêsu nhấn mạnh đặc tính hoàn toàn độc đáo trong quan niẹm của Ngài về quyền hành trong Giáo Hội. Từ ngữ “tôi tớ” Ngài dùng ở câu 43b lại được bổ sung bằng từ “nô lệ” để làm gương trong việc phục vụ tha nhân (c. 44). Vào thời đó, những kẻ nô lệ thuộc hạng cùng đinh trong xã hội. Hình ảnh đưa ra thật sống động. Nhóm Mười Hai thì mơ ước quyền cao chức trọng, nhưng Chúa Giêsu lại muốn họ phải từ bỏ ảo vọng này và phải biết chấp nhận “phục vụ” kẻ khác trong bất cứ điều kiện thấp hèn nào.
Đây là lúc Chúa Giêsu chọn để xác định vị thế của Ngài bằng cách đưa chính bản thân Ngài ra làm gương: Ngài đã đến “không phải để được phục vụ, mà là để phục vụ”, đồng thời còn dâng hiến cả mạng sống mình “để làm giá chuộc cho nhiều người” (c. 45). Ở đây Chúa Giêsu vén mở cho thấy ý nghĩa cuối cùng cuộc đòi và sứ mệnh của Ngài. Lẽ ra Ngài có thể tự cho mình là vị thủ lãnh độc tài của đám môn đệ và đám dân Chúa mà Ngài đã đến quy tụ lại, nhưng Ngài không làm thế, Ngài lại đóng vai trò đầy tớ khiêm tốn phục vụ tất cả mọi người (x. 9,35-37). Sự phục vụ này sẽ không dừng lại ở một vài lần Ngài tự hại mình vì lợi ích của đám bạn hữu Ngài mà còn đi xa đến độ dám hiến dâng mạng sống mình để cứu độ mọi người. Điều này được diễn tả bằng những hình ảnh của thời bấy giờ. Chúa Giêsu sẽ ban mạng sống mình “làm giá chuộc”, nghĩa là Ngài sẽ phải trả giá cho tội lỗi của nhân loại. Ngài sẽ trao dâng mạng sống mình “vì đám đông” nghĩa là “vì tất cả mọi người” không trừ ai.
Các thành ngữ này được mượn từ bản văn trình bày khuôn mặt mầu nhiệm của “Người Tôi Tớ đau khổ” mà tiên tri Isaia đã phác họa: “Nếu người dâng mạng sống mình làm hy tế chuộc tội (vì tội lỗi loài người) thì người sẽ thấy miêu duệ (…) Bởi vì người đã chịu đau khổ (Chúa nói) nên Đấng Công Chính, tôi tớ Ta sẽ công chính hóa nhiều người” (Is 53,10-11).
Nhằm tạo hòa điệu thân ái trong cộng đồng Giáo Hội sơ khai, Maccô đã rút tỉa từ Thánh Kinh hình ảnh “Người Tôi Tớ đau khổ” để cắt nghĩa cho các Kitô hữu đôi chút về mầu nhiệm Chúa Kitô. Đấng đã dâng hiến mạng sống mình, tự hạ đến chết đẫm máu trên thập giá để cứu rỗi nhân loại. Bắt nguồn từ hy sinh của Chúa Giêsu, cộng đoàn Kitô hữu phải luôn luôn kiểm chứng xem cách hành xử của mình có phù hợp với cách hành xử của Đấng sáng lập không: nghĩa là mình có phục vụ và dâng hiến toàn vẹn bản thân mình không?
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.”
Đây là hai chàng thanh niên con trai của ông Dêbêđê, làm nghề chài lưới, ở Bết-sai-đa một cảng nhỏ trên bờ hồ Ti-bê-ri-át. Mẹ của họ có lẽ là bà Xalômê, chị em với Đức Maria mẹ Đức Giêsu (Mc 15,10 – 16,l). Theo tục lệ tự nhiên trong nhiều nền văn minh phương Đông, họ cho là tự nhiên khi sử dụng các quyền của người trong dòng họ: Vì là anh em bà con với Đức Giêsu, họ đến xin người bà con cho “dòng họ” được tham dự vào sự thành công của một thành viên trong gia tộc.
Vả lại Đức Giêsu đã chẳng nói như thế sao: “Các ngươi hãy xin, thì sẽ nhận được”. Vậy họ đưa ra một lời xin: “Thưa Thầy, chúng tôi muốn Thầy ban cho điều mà chúng tôi xin”. Đây là một dịp mà chúng ta cần phải nắm vững, vì đôi khi chúng ta cũng ngạc nhiên về một số lời cầu xin của mình không được chấp nhận, ‘như’ chúng ta mong muốn.
Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”
Lời cầu xin của họ quá mơ hồ. Đức Giêsu bảo họ hãy nói rõ lời yêu cầu đó.
Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy.
Lần thứ ba, Đức Giêsu vừa loan báo cho các môn đệ sự thương khó của Người (Mc 10,32-34) “Nào chúng ta lên Giê-ru-sa-lem; Con Người sẽ bị giao nộp cho các Thượng tế. Họ sẽ lên án tử hình Người. Họ sẽ nhạo báng Người, sẽ khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết Người”. Vào lúc Đức Giêsu “chọn chỗ chót” thì các ông lại cố “đua nhau” chiếm chỗ tốt hơn: Họ vẫn còn mơ mộng về Đấng Cứu Thế vinh quang của dân tộc. Đấng Cứu Thế đối với họ (và đối với chúng ta?), đó là Đấng chiến thắng hiển hách, sẽ dùng quyền lực của mình điều khiển mọi sự. Vậy tại sao lại không lợi dụng người anh em bà con để được thăng tiến, được hưởng đặc quyền, được tiến cử? Chúng ta chớ nên xét đoán các ông một cách khắt khe.
Chính chúng ta đã không làm như thế, khi chúng ta có dịp hay sao? Đó là chuyện thường tình của con người! Khi chúng ta quen lớn, thì tự nhiên chúng ta không muốn nhờ vả để trục lợi sao? Nhưng chúng ta hãy đi xa hơn: Đời sống Kitô hữu của chúng ta có phải là một cuộc sống phụng sự Thiên Chúa hay không? Hay đó là một cuộc sống mà chúng ta chỉ muốn Thiên Chúa phục vụ chúng ta? Việc hành đạo của chúng ta có phải là một sự thờ phượng, ca ngợi và vâng phục hướng về Thiên Chúa không? Hay đó chỉ là một thứ “bảo hiểm cho đời sau”? Lạy Thầy, xin dành cho con một chỗ phụ chắc chắn ở trên trời.
“Các anh không biết các anh xin gì!”
Thực vậy, họ đâu có biết “ai” sẽ ở “bên phải và bên trái” của Đức Giêsu, khi Người ở trong “vinh quang” của Người trên thập giá? Họ đang xin mà không biết chỗ của hai tên cướp bị đóng đinh cùng với Người trên đời. Họ vẫn chưa hiểu gì cả về định mệnh đích thực của Chúa Giêsu. Bằng những câu hỏi, Đức Giêsu đang cố chuyển biến tư tưởng của họ từ “vinh quang của Đấng Mêsisa” sang “con đường dẫn đến vinh quang” đó. Chúng ta cũng vậy thường chúng ta không biết điều mà chúng ta xin: Đó là lý do tại sao những lời cầu xin của chúng ta không được chấp nhận.
Chúng ta hãy để cho Thiên Chúa dời chúng ta đi, cho Người sửa đổi lời xin của chúng ta. Thiên Chúa nói: “Các con không biết các con xin những gì, các con hãy tin Ta hơn”. “Sự vinh quang” mà các ông xin, hỡi Giacôbê và Gioan, các ông sẽ nhận được vào một ngày nào đó! ước mộng tuổi trẻ của các ông sẽ được thực hiện trong tuổi chín muồi của các ông.
Thực vậy, Giacôbê sẽ là vị tử đạo đầu tiên ở Giêrusalem (Cv 12,2) và Gioan sẽ phải chịu bắt bớ thời hoàng đế Nêrông, bị khổ sai tại đảo Patmos (Kh 1,9).
Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Đức Giêsu dùng hai hình ảnh cổ truyền của Kinh Thánh để giúp họ sửa đổi lời yêu cầu và ý muốn của họ: Đó là chén đắng và phép rửa. “Chén” trong Kinh Thánh là “chén đắng”, thức uống ghê tởm, khó nuốt. “Chúa cầm chén trong tay”. Người rót một thứ rượu thuốc đã lên men: Họ sẽ uống rượu này, họ nốc đến cạn (Tv 75,9). ‘Phép rửa’ có một ý nghĩa tương tự: Đó là hình ảnh sự nhào nặn, chìm nghỉm; “Hết thảy nước đó sóng tràn ngập lút trên tôi” (Tv 42,9). Đức Giêsu biết rõ những gì sẽ xảy đến cho Người. Và Người hỏi hai môn đệ: “Các con có thể uống được chén đắng của sự thương khó Thầy không? Và chịu dìm vào phép rửa bằng máu của Thầy không? Như Thầy và cùng với Thầy, các con có chấp nhận vùi sâu dưới dòng nước chết đuối bi thảm này nghĩa là chia sẻ cái chết của Thầy không?
Các ông đáp: “Thưa được”
Họ tỏ ra quảng đại trong sự hăng say của tuổi trẻ.
Họ sẵn sàng trả giá bằng chính bản thân của mình, để ‘uống’ chén đắng và bị dìm sâu trong phép rửa. Chúng ta đừng quên rằng khi Máccô viết Tin Mừng của ông, thì đã có 2 bí tích đang được các Kitô hữu thể nghiệm, như chúng ta ngày nay. Chúng ta gán cho Phép rửa tội và Thánh Thể mà ta lãnh nhận ý nghĩa nào? “chén mà chúng ta hiệp thông có thông hiệp với sự hy sinh của Đấng đã hiến ban mạng sống của Người không? Đức tin ngày chịu phép rửa có làm cho chúng ta “Theo Đức Giêsu không? và theo tới đâu?
Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu.
Khi Máccô ghi lại lời tiên tri này của Đức Giêsu, thì nó đã được thực hiện một phần rồi. Vào năm 44, Giacôbê đã tử đạo. Vào thời đó Vua Hêrôđê đã bách hại một số thành viên của Giáo Hội. ông ấy đã cho chém đầu Giacôbê, người “anh em” của Gioan. Và khi nhận thấy người Do Thái hài lòng về việc làm đó, ông lại cho tiến hành cuộc bắt giữ khác (Cv 12,2-3). Kitô hữu là theo Đức Giêsu!
Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.
Một lần nữa Đức Giêsu nói lên những lời khiêm nhường lạ lùng, trước Cha của Người: Người nói Người “không có quyền”. Người tỏ ra vâng phục. Qua lời này Người mời gọi chúng ta đến lượt mình, cũng để Thiên Chúa tùy nghi định đoạt về chúng ta. “Vinh quang” đó, Giacôbê và Gioan sẽ nhận được, nhưng không phải là thứ vinh quang mà hai ông ước vọng: Đó sẽ là vinh quang của Đức Giêsu cho. Do đó Chúa đã chấp nhận lời cầu xin của hai ông. Còn chúng ta thì sao? Khi lời cầu nguyện của chúng ta xem ra không được chấp nhận, chúng ta có luôn phó thác nơi Chúa, để Chúa chấp nhận, lời xin đó theo ý của Người hay không? Chính Đức Giêsu cũng đưa dẫn các bạn hữu của Người tới mầu nhiệm không thể dò thấu được của ý định Thiên Chúa.
Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan
Các ông bực mình vì các ông cũng có tham vọng như thế!
Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân
Một lần Đức Giêsu nói về “chính trị” thì Người lại mô tả quá mạnh và khá mù tối. Ta không thể nói, Đức Giêsu muốn thiết lập một thế giới không có hệ thống hành chánh hay san bằng cấp bậc.
Nhưng, một lần nữa như đối với cách sử dụng (tiền bạc hay vấn đề tính dục), Người bác bỏ những lạm dụng: Quyền thế không được áp dụng như một cách để thống trị và hà hiếp, hay như một “tương quan lực lượng” mạnh được yếu thua. Đức Giêsu nói: “Không được như vậy”.
Nhưng giữa anh em thì không được như vậy
Đức Giêsu dứt khoát loại bỏ trong Giáo Hội, trong cộng đoàn Kitô hữu, kiểu quyền bính vẫn được thực thi trên thế giới.
Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.
Đây không phải là một điều luật trong những điều luật khác nhưng đó là “hiến chương” của Giáo Hội, của cộng đoàn các môn đệ: Mỗi người phải trở nên đầy tớ của mọi người.
Hình ảnh mà Đức Giêsu đưa ra ở đây lại càng rõ nét. Ý mà chủ “đầy tớ” không nói ra ở đây, thì từ “nô lệ” lại nói lên một cách mạnh mẽ, bằng cách thêm ý “tùy thuộc” vào người mà ta phục vụ. Trong Giáo Hội, phải triệt để từ bỏ nguyên tắc thăng thưởng, quân hàm, công nghiệp, tước vị huy chương và chỗ danh dự. Chỉ có một nguyên tắc mà thôi: Đó là sự phục vụ, khiêm tốn. Cần nói về những vị có một vai trò đặc biệt, ta sẽ dùng kiểu nói “thừa tác viên” chữ này trong tiếng La tinh có nghĩa là “đầy tớ”. Không có lãnh tụ theo nghĩa thế gian trong Giáo Hội. Chỉ có những “thừa tác viên”, những “người phục vụ”.
Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Lý do căn bản của “hiến chương” nguyên thủy này của Giáo Hội, là Giáo Hội đương nhiên phải bắt chước Đức Giêsu. Cần lưu ý về ý nghĩa tích cực mà Đức Giêsu đã gán cho cái chết của Người. Trong ý thức của Người, Người không nghĩ về cái chết này một cách đau khổ; con đường thập giá đối với Người không phải là “chịu đau khổ” mà là “phục vụ”. Mặc dù Người có quyền hạn đầy đủ vì là con Thiên Chúa, thế mà Đức Giêsu đã không hành xử như một vị thống trị, nhưng như “một người đầy tớ”. Người đã không đóng vai “lãnh chúa” mà là “gia nhân” (Ga 13,13) bằng cách hầu bàn chiều Thứ Năm Thánh. Các bác cha mẹ Kitô hữu cũng phải hành xử như thế, đối với những kẻ dưới quyền của mình. Các người có trách nhiệm cũng phải hành xử như thế, đối với thuộc cấp của mình. Chúng ta có đón nhận lời mời gọi của Đức Giêsu một cách nghiêm chỉnh không? Chúng ta chớ nên xét lương tâm kẻ khác. Tôi đang có khuynh hướng “thống trị” ai? Tôi phải “thương yêu” ai? Tôi phải “phục vụ”ai?
CON NGƯỜI ĐẾN KHÔNG PHẢI ĐỂ ĐƯỢC PHỤC VỤ, NHƯNG ĐỂ PHỤC VỤ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Trên đường lên Giêrusalem, lúc này đã gần tới nơi, bầu không khí càng lúc càng thêm bi thảm. “Người dẫn đầu các ông”, những người đi theo “kinh hoàng” và “sợ hãi”, tiến trên đường dẫn đến cái chết.
Đây là lần thứ ba Chúa loan báo cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Người. Loan báo mà Đức Giêsu gởi tới nhóm Mười Hai, là tế bào đầu tiên và cũng là những người phụ trách cộng đoàn môn đệ của Người. Một lời loan báo rõ rệt hơn hai lần trước (8, 31-33 và 9,32-33), vì đã phác họa trước những gì sẽ xảy ra bị nhà cầm quyền Do thái kết án (xem 14,64), trao nộp cho quan Philatô, kẻ “ngoại giáo” (xem 1 5,1), bị phỉ báng và chịu cực hình: “chúng sẽ nhạo báng người” (xem 15,30-31) “chúng sẽ khạc nhổ vào Người” (xem 14,65 và 15,9), “chúng sẽ đánh đòn Người” (15, 15) “chúng sẽ giết Người” (xem 15, 37) “và ba ngày sau sẽ sống lại”. Cũng như các lần loan báo trước, lần loan báo thứ ba này gây ra những phản ứng; chứng tỏ các môn đệ không hiểu, nên Đức Giêsu phải giải thích cho họ.
Rõ ràng lời xin của Giacôbê và Gioan chẳng thích đáng chút nào trong bối cảnh đó (Đức Giêsu vừa mới loan báo về cuộc khổ nạn của Người). Hai ông đã từng là những người được gọi ngay thời kỳ đầu sứ vụ rao giảng (1,19-20), lúc Chúa hồi sinh con gái ông Giairô, hai ông đã có thể xác minh quyền năng của Người trên sự chết (5,37); hai ông đã cùng với Phêrô là những người duy nhất được chứng kiến Chúa hiển dung trên núi (9,28); và sau này cũng cùng với Phêrô chứng kiến Chúa hấp hối trong vườn Ghêtsêmani (14,33).
Khi Đức Giêsu vừa mới loan báo cuộc khổ nạn lần thứ ba, thì hai ông nóng lòng muốn bảo đảm chiếm cho được chỗ tốt, được một tương lai sáng lạn trong vương quốc. Các ông tiến lại thưa Chúa: “Xin cho hai anh em chúng con được ngồi một người bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”. Số phận mỉa mai thật! khi sau này Chúa hấp hối trên thập giá, hai người được đặt ở bên tả bên hữu Chúa là hai người trộm cướp (15,37) đang cùng chia sẻ cực hình với Người!
– Đức Giêsu cố gắng tỏ cho hai ông biết: đặc ân họ xin là quá lớn và họ thật quả vô tâm, nhưng vô ích. “Các anh không biết các anh xin gì”. Rồi dùng hình ảnh mạnh mẽ, như ‘chén phải uống’; “phép rửa phải chịu” để cho các ông thấy trước những gì sắp xảy ra: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa thầy sắp chịu không?”.
+ Trong Cựu ước, “Chén” đôi khi người ta nói chén chúc tụng, nhưng thường là nói về chén đắng để diễn tả những đau đớn trước lúc chết. Lúc hấp hối, Đức Giêsu đã xin Chúa Cha cất chén đắng cho Người, nhưng cũng nói tiếp: “Nhưng đừng theo ý con, chỉ xin theo ý Cha mà thôi” (14,36).
+ Trong “Bí tích rửa tội”, toàn thân được dìm xuống nước, tượng trưng cho việc “chìm đắm” trong cái chết trước khi chỗi dậy trong đời sống mới. Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu sẽ trải qua một phép rửa thật sự, Người sẽ bị dìm xuống làn nước chết, và chỗi dậy vào ngày thứ ba.
Xin được vinh dự bên cạnh Chúa trong Nước Người, tức là thuận theo cùng một con đường Người đã đi.
Hai môn đệ có dám theo Chúa tới đó không? “Thưa được” ông đáp không hề do dự, không đếm xỉa gì đến những điều Chúa đã cảnh báo.
Mười ông kia đã nghe rõ câu chuyện. Nếu họ “tức tối” thì hẳn không phải vì chê trách mưu đồ của Giacôbê và Gioan, mà vì sợ hai anh em ông này dành được chỗ nhất.
Đức Giêsu qui tụ nhóm Mười Hai lại và long trọng giảng giải cho các tông đồ về sự đảo nghịch của Phúc âm.
Khi nói với các tông đồ, cũng như với những người chịu trách nhiệm về các cộng đoàn Kitô hữu có mặt lúc đó hay trong tương lai, Đức Giêsu nêu lên một luật đối trọng với cách thế mà xã hội dân sự chủ trương về quyền hành: “Những người được là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người lớn thì lấy quyền mà cai trị dân”. Điều luật này chống lại lòng ham muốn thống trị và lòng khao khát quyền lực ta mang trong mình, như Giacôbê và Gioan và mười tông đồ còn lại. Điều luật này không chỉ là một điều luật bình thường, mà Đức Giêsu coi nó hiến chế cho các cộng đồng môn đệ Người: mỗi người là đầy tớ người (J. Delorme).
Đây là một đảo lộn tận gốc, một lý thuyết cách mạng bắt đầu cho một mối tương quan mới giữa người với người: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em (người phục vụ, tiếng hy lạp là diakonos, còn có nghĩa là thầy phó tế).
Lý do và gương mẫu cho nguyên lý cách mạng này chính là cách đối xử của Đức Giêsu, Người kết luận: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Câu này nhắc lại lời ngôn sứ nói về Người Tôi Tớ đau khổ (Bài đọc l), nhờ lời này soi sáng, Đức Giêsu nhận biết số phận của Đấng Mêsia-tôi tớ; Lời đó còn nói lên ý nghĩa sự sống và cái chết của Người và loan báo lời mà Chúa sẽ tuyên bố về “chén” vào thứ năm, trước khi Người bị bắt: “Này là máu Thầy, máu Giao ước sẽ đổ ra cho nhiều người”. Để có thể sống như một Kitô hữu chân chính, cộng đoàn môn đệ hôm nay, hôm qua cũng như ngày mai, cần phải xét xem lối hoạt động của mình có hợp với ý và gương mẫu của Đấng Sáng lập, Đấng đã đưa tinh thần phục vụ đến tột đỉnh không.
BÀI ĐỌC THÊM.
Cuộc chuyện trò cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ (10,38-43) là cuộc thảo luận lần nữa về ngôi thứ trong cộng đoàn, như vậy, nó nối kết với ý tưởng của phần đầu chương này. Lời xin của hai anh em Giacôbê và Gioan đưa đến cuộc chuyện trò này, đồng thời cũng biểu lộ ước muốn chỗ cao nhất: ngồi bên tả bên hữu Chúa trong vinh quang.
Diễn tiến của ước muốn này mang dấu ấn của Máccô. Trước hết, khi hai tông đồ vừa tỏ lộ ước muốn của mình, Đức Giêsu hỏi ngay: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”. Đức Giêsu thăm dò, tìm hiểu hết mọi khát vọng của ta, đôi khi những ước muốn mà chính ta cũng không hiểu rõ (“Các anh không biết các anh xin gì”). Con đường mà ước muốn phải đi qua để tới đích không gì khác hơn là thập giá, ở đây được diễn tả bằng hai hình ảnh: chén và phép rửa. Cách nói lặp lại nhiều lần (ở đây lặp lại bốn lần) là đặc điểm của Máccô. Đối với ông, điều không thể tránh được trong cuộc sống Kitô hữu chính là thập giá. Còn vinh quang là một ơn hoàn toàn nhưng không, ta không thể biết trước, chỉ một mình Thiên Chúa biết mà thôi. “Cho những lời mà Thiên Chúa đã chuẩn bị”. Đối với những người xin nhiều, xin cả đến vinh quang Thiên Chúa, thì Máccô đề nghị họ sống theo tấm gương của Con Người, một tấm gương đi ngược lại cách sống của người đời: đến để phục vụ, và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người (10,45).
Sống theo gương Đức Giêsu là đề tài rất phổ biến, nhất là khi cuốn sách “Gương Chúa Giêsu” xuất bản ở thời Trung cổ, trở thành nền tảng cho toàn bộ “luân lý” và chính thánh sử Maccô đãtrình bày cho chúng ta điều đó. Ngài đã nói lên mối hệ gần gũi giữa đời sống của Đức Giêsu (nhất là cuộc khổ của Người) và đời sống của người Kitô hữu. Mối quan hệ gần gũi đó luôn là ví dụ điển hình cho mọi nỗ lực tìm hiểu cuộc sống người Kitô hữu. Máccô mời gọi ta suy nghĩ lại những thói quen giữ đạo: những hoạt động, bi kịch, và khát vọng của ta dưới ánh sáng của tấn thảm kịch duy nhất của Đức Giêsu: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (9,31).
Chức quyền cũng như tiền bạc, tự nó không xấu. Bất cứ nào cũng cần có một người phụ trách. Nhưng theo ý Chúa, phụ trách trước hết không phải một địa vị thống trị, hưởng lợi, hưởng uy thế, mà là một địa vị để phục vụ nhiều hơn. Trong Hội Thánh nói riêng, người cầm quyền là những thừa tác viên trong tiếng Latinh từ này có nghĩa là “đầy tớ” – Bản Hy lạp của Tin Mừng Máccô dùng hai từ diakonos = đầy tớ và doulos = nô lệ. Điều đáng buồn là ngày nay đôi khi còn có những người tranh giành quyền lực trong Hội Thánh. Đức Giáo Hoàng cũng tự xưng mình là “Tôi tớ các tôi tớ” của Thiên Chúa.
Thật vậy, cần phải đạt tới cách sống như thế. Người lãnh đạo giỏi là người biết làm cho người dưới cùng chịu trách nhiệm. Giáo sư giỏi là người biết khơi dậy sáng kiến của môn sinh. Chủ doanh nghiệp giỏi là người biết hỏi ý kiến của công nhân và cán bộ của mình. Cha mẹ tốt là người biết nghệ thuật làm triển nở con cái một cách tích cực. Những giáo xứ mạnh là nơi mà các tín hữu biết tham gia cộng tác với mọi tầng lớp và trong mọi việc.
Có lẽ người ta đã quên rằng từ “quyền thế”‘ trong tiếng Latinh: ‘auctoritas’ bởi gốc “augere” = làm cho lớn lên, thêm lên. Đối với Đức Giêsu, chính là như vậy: quyền hành là sự phục vụ trong một nhóm, nhằm giúp các thành viên lớn lên, dám tự mình chịu trách nhiệm. Người lãnh đạo chân chính là người biết nghe, hiểu, đánh giá, tôn trọng người khác, chứ không phải là người thống trị, hạ nhục, lợi dụng người khác, và để người khác thụ động vô trách nhiệm.
Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
ĐÒI HỎI THAM VỌNG (10,35-40)
Đây là một câu chuyện cho chúng ta thấy nhiều điều hay:
1/ Nó cho chúng ta biết đôi điều về Maccô.
Matthêu cũng kể lại câu chuyện này (Mt 20,20-23) nhưng trong tường thuật của ông thì trước hết, lời yêu cầu không do Giacôbê và Gioan đích thân nêu ra, nhưng do mẹ của hai ông là bà Salômê. Có lẽ theo Matthêu thì một yêu cầu như thế là không xứng đáng cho một tông đồ, nhưng nhằm cứu vãn tiếng tăm cho hai anh em, ông đã gán lời yêu cầu đó cho tham vọng tự nhiên của bà mẹ. Câu chuyện này cho chúng ta thấy sự thành thật của Maccô. Người ta kể rằng có một họa sĩ trong triều đình vẽ chân dung cho Oliver Cromwell. Mặt Cromwell đầy mun cóc. Nghĩ để vui lòng ông, họa sĩ không vẽ những mụn cóc đó trong bức họa. Khi Cromwell thấy như vậy, ông nói “Dẹp bức chân dung này đi, vẽ cho ta một bức với đầy đủ mụn cóc”. Mục đích của Maccô là muốn chúng ta thấy đầy đủ mụn cóc của các tông đồ. Và Maccô đã có lý, vì mười hai tông đồ vốn không phải là tập thể các vị thánh. Họ chỉ là những con người giống như chúng ta để thay đổi thế giới. Điều này đã thành hiện thực.
2/ Nó cho chúng ta biết vài điều về Giacôbê và Gioan.
(a) Hai ông vốn có nhiều tham vọng. Họ nhắm vào những chức vị cao nhất trong vương quốc của Chúa Giêsu khi chiến thắng và khải hoàn trọn vẹn. Có thể tham vọng đó đã manh nha, vì nhiều lần Chúa Giêsu từng tách riêng họ ra trong số ba người chọn lọc tin cẩn. Có thể họ đã có một chỗ đứng khá hơn những người khác. Thân phụ họ vốn khá giả đủ để thuê người giúp việc (Mc 1,20) nên họ tưởng rằng ưu thế về địa vị xã hội có thể giúp họ chiếm được địa vị hàng đầu. Dù sao họ cũng để lộ cho thấy họ là những con người, từ nơi sâu kín của lòng họ, có tham vọng chiếm giữ vị trí hàng đầu trong vương quốc trần gian.
(b) Nó cho chúng ta thấy hai ông hoàn toàn không hiểu Chúa Giêsu. Điều lạ lùng đối với chúng ta không phải là sự kiện ấy đã xảy ra, nhưng là thời gian mà sự việc ấy đã xảy ra. Lời yêu cầu này khiến chúng ta phải bàng hoàng vì nó được đưa ra hầu như trùng hợp với lúc Chúa Giêsu tuyên bố dứt khoát và báo trước chi tiết cái chết của Ngài. Ngoài chuyện này, không có việc nào khác có thể bày tỏ cho chúng ta thấy họ đã hiểu quá ít những gì Chúa Giêsu nói. Lời lẽ của Ngài đã không gột rửa nổi ý niệm về Đấng Mêsia, với quyền thế và vinh hiển thế gian,vốn ăn sâu trong tâm trí hai ông. Chỉ có thập giá mới làm nổi việc ấy mà thôi.
(c) Nhưng sau khi chúng ta đã nói tất cả những gì có thể nói chống lại Giacôbê và Gioan, thì câu chuyện này cho chúng ta thấy một điểm sáng chói về hai ông là dù họ đang bàng hoàng, bối rối, họ vẫn còn tin vào Chúa Giêsu. Điều đáng ngạc nhiên là họ vẫn còn gắn liền vinh quang với một người thợ mộc dân Galilê, người đã bị các cấp lãnh đạo Do Thái giáo thù ghét, chống đối kịch liệt và rõ ràng Ngài đang tiến đến chỗ nhận lấy thập giá. Đây là một lòng tin cậy, tận trung đáng cho chúng ta phải kinh ngạc. (Giacôbê và Gioan đã phạm sai lầm nhưng tấm lòng của họ vẫn nằm đúng vị trí đáng phải có, họ chẳng hề hoài nghi chút gì về chiến thắng tối hậu của Chúa Giêsu).
3/ Nó cho chúng ta biết đôi điều về tiêu chuẩn của Chúa Giêsu.
Bản dịch của chúng ta đã dịch nguyên văn theo nghĩa đen câu hỏi của Chúa Giêsu “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”. Ở đây Chúa Giêsu đã dùng hai lối nói bóng theo người Do Thái. Theo tập tục, trong các dạ hội hoàng gia khoản đãi, nhà vua sẽ tự tay trao chén cho khách được mời. Do đó, chén muốn nói về đời sống và kinh nghiệm phúc lộc mà Thiên Chúa trao cho loài người? Tác giả Kinh Thánh cũng nói “Chén tôi đầy tràn” (Tv 23,5), khi ông đề cập đời sống và kinh nghiệm sống mà Thiên Chúa đã ban cho ông. Tác giả Kinh Thánh cũng nói “Trong tay Chúa có cái chén” (Tv 75,8) khi ông nghĩ đến số phận dành cho kẻ ác và không vâng lời. Khi nghĩ về những tai họa giáng trên Israel, Isaia mô tả dường như họ đã uống say “chén thịnh nộ từ tay Thiên Chúa” (Is 51,17). Vậy chén ám chỉ về kinh nghiệm sống mà Thiên Chúa dành cho loài người. Câu thứ hai Chúa Giêsu phán cũng dễ gây hiểu lầm. Ngài muốn đề cập đến phép rửa Ngài đã chịu. Động từ Hy văn baptizein có nghĩa là nhúng. Quá khứ phân từ của nó là bebatismenos, có nghĩa là bị chìm ngập và thường được dùng để chỉ một việc bị chìm ngập trong một kinh nghiệm nào đó. Chẳng hạn như chúng ta nói người hoang phí bị nợ ngập đầu. Người uống rượu được bảo là uống như hũ chìm. Người gặp đau khổ quá nhiều được gọi là chìm trong đau thương. Từ này thường được dùng để chỉ chiếc tàu bị đắm và chìm dưới nuớc. Cách nói bóng ở đây rất giống với lối nói bóng mà tác giả Kinh Thánh thường dùng. Tv 42,7. Chúng ta đọc thấy “Các lượn sóng và nước lớn của Chúa đã ngập tôi” Tv 124,4 “nước đánh chìm chúng ta, dòng nước tràn qua ngập linh hồn chúng ta”. Thành ngữ Chúa Giêsu dùng ở đây không liên hệ gì với thuật ngữ phép rửa. Điều Ngài ngụ ý muốn nói là “các ngươi có bằng lòng trải qua phần kinh nghiệm từng trải khủng khiếp mà ta sắp phải trải qua không? Các ngươi có dám đương đầu với thù ghét, đau khổ và cái chết sắp nhận chìm, như ta sắp phải chịu không?” Chúa Giêsu đang muốn dạy hai người môn đệ này rằng nếu không có thập giá thì sẽ chẳng bao giờ có được triều thiên. Tiêu chuẩn về sự cao trọng vĩ đại trong Nước Thiên Chúa là thập giá. Thật vậy, những tháng ngày sau đó, trải qua kinh nghiệm của Thầy mình, vì Giacôbê đã bị vua Ácríppa chém đầu (Cv 22,2) còn Gioan tuy không tử đạo nhưng ông đã chịu nhiều khổ nạn vì Chúa Giêsu. Họ đã chấp nhận lời thách thức trên đây của thầy mình, dẫu chưa hề hay biết gì.
4/ Chúa Giêsu bảo với họ rằng kết quả tối hậu của mọi việc là thuộc về Thiên Chúa.
Số phận tối hậu dành cho một người là do quyền của Chúa định đoạt. Chúa Giêsu không bao giờ lạm quyền của Thiên Chúa. Cả đời sống Ngài, chính là một hành động tuân phục ý Thiên Chúa cách trường kỳ, và Ngài biết rằng đến cuối cùng, thì ý của Thiên Chúa tối cao, tuyệt đối.
GIÁ CỦA CÔNG CUỘC CỨU RỖI LOÀI NGƯỜI (10,41-45)
Điều không thể tránh được là chuyện của Giacôbê và Gioan khiến mười tông đồ kia tức giận. Theo họ hai anh em cố giành bước trước, đã chơi xấu, muốn chiếm ưu thế đối với họ. Lập tức, vấn đề tranh cãi xem ai sẽ là người lớn hơn hết bắt đầu nổi lên dữ dội hơn bao giờ. Tình hình bỗng trở nên nghiêm trọng, thông điệp giữa các tông đồ bị sứt mẻ nếu Chúa Giêsu không hành động ngay. Ngài vạch rõ các tiêu chuẩn khác nhau về sự cao trọng trong Nước Thiên Chúa với các nước trên thế gian. Trong các vương quốc trần gian, tiêu chuẩn về cao trọng là quyền thế. Cách thử nghiệm là: một người cai trị được bao nhiêu người khác? Khi một người truyền lệnh, thì được bao nhiêu kẻ bị buộc phải răm rắp tuân theo? Người ấy có thể áp đặt ý của mình trên bao nhiêu người? Chẳng bao lâu sau đó, Galba đã tóm tắt quan niệm ngoại đạo về vương quyền và tính cách cao trọng khi ông ta bảo bây giờ ông ta đã là hoàng đế, ông muốn làm gì thì làm, ông có quyền thực hiện bất cứ việc gì cho bất kỳ ai. Trong vương quốc của Chúa Giêsu, tiêu chuẩn lại là phục vụ. Sự cao trọng không bao gồm việc bắt người khác phục vụ mình, nhưng là đặt chính mình vào việc phục vụ tha nhân. Cách thử nghiệm không phải là: tôi được thiên hạ phục vụ tới mức độ nào, nhưng là: tôi có thể phục vụ tới mức độ nào.
Chúng ta có khuynh hướng nghĩ đây là một tình trạng lý tưởng ở đời. Thật ra, đây chỉ là một lẽ thường hợp lý, là nguyên tắc đầu tiên của cách sống. Bruce Barton chỉ cho thấy rằng căn bản mà một hãng ô tô dựa vào để kêu gọi sự lưu tâm các khách hàng của mình là họ sẵn sàng chui xuống gầm xe của bạn thường hơn, chịu dơ bẩn hơn bất cứ một hãng cạnh tranh nào. Nói cách khác, họ sẵn sàng phục vụ nhiều hơn. Ông ta cũng chỉ cho thấy rằng trong khi người thư ký văn phòng bình thường có thể đi về nhà từ 5g30 chiều, thì ánh đèn trong văn phòng giám đốc điều hành vẫn còn sáng đến khuya. Vì sẵn sàng phục vụ thêm giờ, mà người ấy đứng đầu xí nghiệp. Chỗ rắc rối trong tâm trạng của con người, là ai cũng muốn làm ít nhất, nhưng lại được hưởng lợi nhiều nhất. Chỉ khi nào người ta muốn đầu tư vào cuộc sống nhiều mà lấy ra ít, thì đời sống mới phong phú và hạnh phúc cho chính họ và cho tha nhân. Thế giới này đang cần những con người có lý tưởng phục vụ, là những con người nhận thức được ý nghĩa sâu xa của câu mà Chúa Giêsu phán dạy ở đây.
Nhằm nhấn mạnh vào lời phán dạy của Ngài, Chúa Giêsu đã chỉ vào chính gương của Ngài. Với quyền năng sẵn có, Ngài có thể sắp xếp cuộc sống hoàn toàn phù hợp với chính Ngài, nhưng Ngài đã sử dụng bản thân và tất cả để phục vụ người khác. Ngài phán rằng, Ngài đã đến để phó mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người. Đây là một trong những câu quan trọng nhất trong Phúc Âm, thế nhưng lại thường bị hiểu sai và bị xuyên tạc một cách đáng buồn. Nhiều người nỗ lực dùng câu nói đầy yêu thương đó để dựng nên một lý thuyết về chuộc tội. Chẳng bao lâu sau đó, người ta đã đặt vấn đề là giá chuộc của Chúa Giêsu được trả cho ai? Origen đưa ra câu hỏi “Ngài đã phó mạng sống trả giá cho ai để cứu chuộc nhiều người? Giá ấy không phải để trả cho Thiên Chúa vậy trả cho ma quỷ chăng? Vì ma quỷ vẫn muốn nắm chặt lấy chúng ta cho đến khi một giá chuộc phải được trả cho hắn, và đó chính là sinh mạng của Chúa Giêsu, vì nó đã bị lừa gạt bở tưởng rằng nó có thể cầm quyền trên sự sống ấy mà lại không thấy rằng nó không thể nào chịu nổi sự hành hạ trên quan điểm việc cầm giữ sự sống ấy”. Đó là một quan niệm xưa cũ chủ trương rằng sự sống của Chúa Giêsu đã được trả cho ma quỷ như một giá chuộc để giải thoát cho loài người khỏi xiềng xích nô lệ mà nó đã dùng trói buộc họ, nhưng ma quỷ đã thấy khi đòi hỏi và nhận được giá chuộc đó, nó đã cắn nhằm miếng mồi khó nuốt như ta thường nói là khạc chẳng ra, nuốt chẳng vào.
Gregory ở Nyssa đã nhìn thấy vết rạn trong lý thuyết ấy, thuyết ấy đã đặt ma quỷ ngang hàng với Chúa, mặc cả với Ngài trên tiêu chuẩn bình đẳng. Vì vậy Gregory ở Nyssa lại cưu mang một ý tưởng khác thường về việc Chúa đánh lừa ma quỷ. Ma quỷ đã bị lừa phỉnh với sự dường như yếu đuối của nhập thể. Nó lầm tưởng rằng Chúa Giêsu chỉ là một con người bình thường. Nó cố gắng thực thi quyền lực của nó trên Chúa Giêsu và khi làm vậy, nó bị mất đi phần quyền lực ấy. Đây cũng lại là một quan niệm kỳ quái, chủ trương rằng Thiên Chúa phải chinh phục ma quỷ bằng một mưu lược lừa phỉnh. Hai trăm năm nữa trôi qua và Gregory lại trở về với quan niệm ấy. Ông ta dùng một dụ ngôn kỳ dị. Sự nhập thể của Chúa Giêsu là một mưu lược của Thiên Chúa nhằm cài bẫy để bắt con Lêviathan khổng lồ. Thần tính của Chúa Kitô là cái lưỡi câu, còn xác thịt Ngài là miếng mồi. Khi miếng mồi được nhử trước mặt Lêviathan là ma quỷ, thì nó đã nuốt miếng mồi, đồng thời cũng muốn nuốt luôn cả lưỡi câu vì vậy nó đã bị chinh phục vĩnh viễn. Cuối cùng, Phêrô người Lombard đã đưa quan niệm ấy tới chỗ lố bịch và đáng ghê tởm nhất, ông ta nói “Thập giá là chiếc bẫy chuột để bắt ma quỷ mà máu của Chúa Cứu Thế đã được dùng làm mồi”. Tất cả những gì vừa trình bày cho thấy điều gì xảy ra khi con người lấy một bức tranh quý báu đáng yêu để tạo ra một lý thuyết thần học lạnh giá.
Khi chúng ta nói “Đau khổ là giá trả cho tình yêu” chúng ta ngụ ý rằng tình yêu không thể tồn tại mà không có đau khổ cặp theo, nhưng chúng ta không bao giờ nghĩ đến việc giải thích xem giá phải trả cho ai. Khi chúng ta nói tự do phải được trả giá bằng máu lao lực mồ hôi và nước mắt, chúng ta chẳng bao giờ tra vấn xem cái giá trả cho ai. Câu nói trên đây của Chúa Giêsu chỉ là một cách nói gợi hình, ngụ ý rằng Chúa Giêsu phải trả giá bằng chính mạng sống Ngài để đưa loài người đang đắm chìm trong tội lỗi, trở về với tình yêu thương của Chúa. Nó có nghĩa rằng cái giá phải trả để chúng ta được cứu rỗi chính là thập giá. Chúng ta không thể và cũng không cần vượt xa hơn điều đó, chúng ta chỉ cần biết đã có một việc gì đó đã xảy ra trên thập giá, và con đường đến cùng Thiên Chúa đã được mở rộng cho chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
Ý CHÍNH:
Sau khi Đức Giê-su loan báo lần thứ ba về cuộc Thương Khó Người sắp trải qua, các môn đệ xem ra vẫn không hiểu và không muốn chấp nhận con đường đó. Các ông vẫn đinh ninh rằng Thầy các ông sắp lên Giê-ru-sa-lem để làm Vua Mê-si-a và các ông đã tranh giành nhau vị trí quan trọng trong Nước Thiên Chúa mà Người sắp thiết lập (Mc 9,33-34; 10,35-40); Đức Giê-su đã nhắc nhở các môn đệ về bổn phận của người làm đầu là phải hầu thiên hạ và nên tôi tớ phục vụ mọi người (9,33; 10,41-45).
CHÚ THÍCH:
– C 35-38: + Hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an: Gia-cô-bê và Gio-an là con ông Giêbêđê và bà Salomê và là anh em bà con của Đức Giê-su.. Hai ông thuộc Nhòm 12 Tông đồ, được Đức Giê-su kêu gọi đầu tiên và đã mau mắn bỏ thuyền và từ giã cha già mà đi theo Người (x Mt 4,21-22). Hai ông nhiệt thành bảo vệ Đức Giê-su và được Người gọi là “con cái của sấm chớp”. + Chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin: Tin Mừng Mát-thêu thay lời xin của hai anh em bằng lời xin của bà mẹ. Có người cho rằng Mát-thêu muốn làm giảm tính tiêu cực của hai anh em qua việc đổ lỗi cho bà mẹ!
– C 37-38: + Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang: Hai ông nghĩ Thầy sắp vào trong vinh quang là lên làm Vua Thiên Sai, nên xin hai chỗ vinh dự nhất là được ngồi hai bên tả hữu. + Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?: Hai ông đã không hiểu được ý nghĩa thực sự và kết cục là cái chết đau thương đang chờ đón Thầy tại Giê-ru-sa-lem, nên Đức Giê-su đã nhắc cho các ông về điều ấy.
– C 39-40: + “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu: Đức Giê-su hứa cho các ông được chia sẻ trọn vẹn thân phận của Người. “Chén Thầy sắp uống” tượng trưng cho những đau khổ, “phép rửa Thầy sắp chịu” ám chỉ việc Người sẽ bị dìm trong lòng đất khi chết và được an táng trong mồ. Nhưng ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Lời tiên báo này đã được ứng nghiệm khi Gia-cô-bê là vị Tông đồ đầu tiên chịu tử vì đạo vào n ăm 42 do vua Hêrôđê An-ti-pa, như sách Tông Ðồ Công Vụ đã cho biết như sau: “Cùng thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay bắt bớ và làm khổ mấy người trong Giáo Hội, vua đã truyền chém ông Gia-cô-bê, anh của ông Gio-an” (Cv 12,2). Còn Tông đồ Gio-an thì bị đi đày một thời gian trên đảo Pát-mốt thời hòang đế Do-mi-ti-en. Người đã bị bỏ vào vạc dầu sôi nhưng được Chúa cứu thóat. Ngài qua đời tại Ephêsô (Tiểu Á) dưới thời hòang đế Tra-jan sau năm 98. + Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được: “Chuẩn bị cho ai” ám chỉ là do ý muốn của Chúa Cha, chứ không phải sự tiền định.
– C 41-42: + Mười môn đệ kia đâm ra tức tối: Các ông tức tối vì chính các ông cũng muốn được ngồi chỗ nhất trong Nước Thầy sắp thiết lập. + Những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân: Đức Giê-su giáo huấn môn đệ về quyền lãnh đạo: Quyền bính xã hội thường mang tính áp chế do tham vọng ca nhân muốn được ăn trên ngồi trước.
– C 43-45: + Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em: Đức Giê-su phân biệt quyền bính trong Nước Trời hay Cộng đòan Hội Thánh mà Người sắp thiết lập. + Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người: Người đòi môn đệ và các mục tử lãnh đạo Cộng đòan phải noi gương Người để sống khiêm hạ và sẵn sàng phục vụ người dưới. + Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ: Đức Giê-su thường tự xưng mình là Con Người. Người luôn nêu gương khiêm hạ phục vụ và đòi môn đệ cũng phải học tập sống như vậy. + và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người: Giá chuộc ở đây thường là số tiền bỏ ra để mua sự giải thoát cho một tù nhân, hoặc để chuộc lại một người đang làm nô lệ. Tuy Đức Giê-su không bỏ tiền ra chuộc ai cả, nhưng Người chấp nhận trải qua cuộc tử nạn và phục sinh theo thánh ý Chúa Cha giống như giá chuộc để đền tội thay và giải thóat mọi người khỏi án chết muôn đời.
CÂU HỎI:
1) Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an là ai?
2) Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an xin Đức Giê-su điều gì?
3) Chén Thầy sắp uống và phép rửa Thầy sắp chịu ám chỉ biến cố gì? 3)Bạn biết gì về cuộc tử đạo của Tông đồ Gia-cô-bê?
4) Tông đồ Gio-an đã uống chén khổ nạn do Chúa trao cho thế nào?
5) Chúa Cha “chuẩn bị cho ai” nghĩa là gì?
6)Tại sao mười môn đệ kia lại tức tối với hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an?
7) Đức Giê-su giáo huấn các ông về quyền lãnh đạo trong Nước Thiên Chúa thế nào?
8) Người muốn các môn đệ và các mục tử sau này phải noi gương Người ra sao? 9)”Giá chuộc muôn người” nghĩa là gì?
Một câu chuyện phục vụ Mẹ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA hay kể lại như sau:
“Vào năm 1982, một hôm có đôi thanh niên nan nữ tới nhà chúng tôi tại Can-quýt-ta đến trao tặng một món tiền lớn giúp bữa ăn cho người nghèo. Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi: “Do đâu mà hai con có món tiền lớn vậy?” Họ trả lời: “Chúng con vừa tổ chức lễ cưới được hai ngày nay. Trước lễ cưới, chúng con bàn nhau sẽ thuê áo cưới thay vì đi may, cũng không liên hoan linh đình, mà dùng khoản tiền ấy trao tặng cho những người kém may mắn. Vì chúng con yêu nhau và muốn có một kỷ niệm đẹp nhân ngày cưới nhau”.
Ðể biết rõ thêm, mẹ Têrêsa hỏi: “Tại sao chúng con quyết định táo bạo như thế? Chúng con không sợ việc làm như vậy sẽ làm cha mẹ và họ hàng buồn lòng hay sao?” Hai bạn trẻ ấy trả lời: “Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống bằng một sự hy sinh mà cả hai đều cùng nhau thực hiện”.
Mẹ Tê-rê-sa kết luận: “Thật là tuyệt vời khi nghĩ đến một tình yêu cao quí như vậy. Tôi luôn cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho những người trẻ ơn thánh và sức mạnh, để trong ngày thành hôn, họ có thể trao cho nhau trái tim trong sạch, trái tim trinh khiết, thân xác trong trắng… là món quà lớn lao của tình yêu nhau”.
1) Con người ai cũng muốn được ngồi vào chỗ nhất:
Hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đã không ngần ngại xin Đức Giê-su cho ngồi hai bên tả hữu Thầy, là hai chỗ tốt nhất khi Thầy lên làm Vua Mê-si-a. Mười môn đệ kia nghe vậy rất bực mình. Điều này cho thấy họ cũng muốn ngồi chỗ ấy.
Thực ra, tự bản chất, mỗi chúng ta đều muốn được “ăn trên ngồi trước”. Xã hội cũng tôn vinh những người địa vị cao, khuyến khích những ngừơi đoạt giải nhất trong các cuộc thi, hoan hô các nhà vô địch “khỏe nhất, nhanh nhất, xa nhất” như trong các Đại Hội Thể Thao Ô-lym-pic…
2) Đức Giê-su “đến để phục vụ hơn là được phục vụ”:
Khi đi giảng đạo, Đức Giê-su luôn nêu gương khiêm hạ phục vụ tha nhân: Người đã làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế như: “Cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Lc 7,22; Is 35,5-6; 42,7). Để cứu độ chúng ta, Người chấp nhận hy sinh chịu chết trên thập giá, hầu chứng tỏ một tình yêu tột đỉnh (x Ga 15,13). Người cũng nói với các môn đệ rằng: “Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”(Mc 10.45). Trong bữa tiệc ly Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và sau đó đã dạy các ông bài học yêu thương phục vụ lẫn nhau như sau: “Anh em gọi Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Vậy nếu Thầy là “Chúa” là “Thầy”, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,13-15).
3) Chúng ta phải làm gì?
– Bác sĩ TOM DOLLY đã nói như sau: “Không ai quá nghèo đến độ không có một cái gì đó để trao tặng cho người khác”. Dù là người bất tài, xấu xí hay bệnh tật đến đâu, không ai trong họ là người hòan tòan vô dụng”.
– Ở bất cứ đâu và trong bất cứ hòan cảnh nào mỗi người chúng ta đều có thể yêu thương và phục vụ tha nhân: Là người bán hàng: chúng ta có thể nói với khách hàng rằmg: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn?”. Là bác sĩ hay y tá bệnh viện, chúng ta có thể ân cần phục vụ bệnh nhân; Là linh mục, tu sĩ hay giáo dân, chúng ta có thể phục vụ người nghèo, bệnh tật và bị bỏ rơi noi gương Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta. Vấn đề là chúng ta có sẵn sàng mở rộng con tim để đón nhận và yêu thương phục vụ tha nhân như chính Đức Giê-su hay không?
– Buổi tối mỗi người hãy dành một phút xét mình trong giờ kinh tối gia đình: “Hôm nay tôi đã làm gì để phục vụ tha nhân? Như: Nở nụ cười thân thiện với người mới gặp; Trao cái nhìn yêu thương cho một người ăn xin; Lắng nghe cảm thông với một người đang lo âu; Nói một lời an ủi người chán nản …Mỗi lời nói, cử chỉ, việc làm kèm theo tình thương sẽ là món quà quý phục vụ tha nhân.
1) Bạn cần làm gì để tránh thói ham mê danh vọng chức quyền thế gian?
2) Tuần này bạn sẽ làm gì để thực tập khiêm hạ phục vụ?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hạ mình như đầy tớ phục vụ môn đệ và tình nguyện chịu chết đền tội thay cho chúng con. Xin giúp chúng con hiểu được tình yêu vô biên của Chúa và noi gương Chúa yêu thương phục vụ mọi người. Xin cho chúng con biết năng nghĩ đến người bên cạnh và phục vụ họ như phục vụ chính Chúa để xứng đáng thành môn đệ thực sự của Chúa.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn