Lời Chúa: Gr 31,7-9; Dt 5,1-6; Mc 10,46-52
MỤC LỤC
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Con đường Chúa Giêsu đang đi là đường tiến về Giêrusalem để cử hành Bữa Tiệc Vượt Qua cuối cùng. Trước khi gặp anh mù, Chúa đã loan báo cuộc thương khó lần thứ ba. Sau khi “Nhìn thấy được”, anh mù đã theo Chúa trên con đường của Người. Chúng ta cùng dừng lại một chút để khám phá hành trình bước đi niềm tin của anh mù hôm nay.
Trong hoàn cảnh của kiếp mù lòa, anh Báctimê ngồi ở vệ đường. Ngồi cho chúng ta thấy một trạng thái tĩnh và thụ động. Trong Kinh Thánh, ngồi là lúc người ta học hỏi, thụ huấn, suy tư và chiêm niệm. Anh mù ngồi ở vệ đường có thể là đánh động lòng trắc ẩn của bá tánh. Nhưng anh ngồi đó cũng là để suy nghĩ về những gì đang xảy đến chung quanh cuộc sống của những kẻ bất hạnh như anh, liên quan đến một nhân vật có tên gọi Giêsu. Một điều đặc biệt, Giêrikhô là vùng đất dân ngoại, vậy tại sao anh mù lại biết Đức Giêsu là Con Vua Đavít, một danh xưng mà chỉ những người dân Do thái thuộc Kinh Thánh mới biết? Bởi đó, việc anh ngồi bên vệ đường không chỉ đơn thuần là ăn mày lòng thương xót của người sáng mắt, mà đó còn là những ngày tháng anh tìm hiểu và đem niềm tin đặt vào Đức Giêsu, Đấng anh chưa nhìn thấy nhưng đã tin. Vì thế thánh sử Mác-cô tường thuật: “Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nazarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10, 47) Niềm tin vào Đức Giêsu trong anh đã được thai nghén và cưu mang theo dòng thời gian. Niềm tin ấy sẽ được diễn tả bằng việc: Càng la to hơn, tung áo choàng, đứng phắt dậy. Những hành động dứt khoát và cương quyết phát xuất từ một niềm tin mãnh liệt.
Mỗi loài có một thứ ngôn ngữ. Ngôn ngữ đó là tiếng kêu của chúng. Tiếng kêu giúp chúng nhận ra đồng loại. Con chim kêu gọi bầy. Con sói hú gọi nhau. Tiếng gà gáy để thị uy một góc sân vườn. Tiếng kêu cũng giúp chúng nhận ra hoàn cảnh hiện tại của nhau. Khi nghe được tiếng kêu, tùy theo âm thanh, những con vật cùng chủng loại sẽ kéo đến tiếp cứu hoặc biết mình có đồng loại đang ở gần.
Hôm nay, tiếng kêu của anh mù không đánh động được lòng thương xót của người đồng loại. Tiếng kêu của anh khiến họ khó chịu và bực mình. “Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi.”(Mc 10,48) Tiếng kêu của anh không gợi lên trong những người đồng loại một chút xót xa. Tai họ nghe thấy, nhưng đôi mắt tâm hồn họ khép chặt. Dường như họ không muốn nhìn và nghe thấy tiếng kêu của anh. Trong nhãn giới của họ, bất hạnh của anh là hệ quả do tội lỗi, không của anh thì cũng bởi những người đã sinh thành ra anh: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” (Ga 9,2) Khi quát nạt và ngăn anh kêu, những người đồng loại gián tiếp nói với anh rằng: “Lẽ ra mày không nên có mặt trên đời. Mày là đồ chúc dữ. Mày là gánh nặng của cuộc đời.” Người ta muốn phủi tay trước nỗi thống khổ của người anh em.
Tuy nhiên, anh mù không chấp nhận đầu hàng số phận “Nhưng anh càng kêu lớn tiếng hơn: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” Anh kêu to vì anh biết trong đoàn hành hương có Đấng mà anh chờ đợi. Anh kêu to vì anh hy vọng vào cơ may này trong đời mình. Anh kêu to cho thấy những dự cảm của anh về Đấng mà anh mong chờ hoàn toàn chính xác. Anh kêu to cũng là để diễn tả niềm tin mãnh liệt của anh vào Đức Giêsu, con vua Đavít. Anh cũng tin vào lòng thương xót của Chúa mà anh đã nghe truyền tụng. Điều này khẳng định với chúng ta về niềm tin của anh đã được nung nấu theo thời gian, không phải chỉ lúc ngồi bên vệ đường, nhưng từ khi anh có trí khôn. Vâng, niềm tin của anh không làm anh thất vọng, vì Chúa đã gọi anh.
Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng đã từng rơi vào hoàn cảnh như anh mù. Nhiều lần tiếng kêu, lời thanh minh, ý kiến của chúng ta bị những thế lực, những con người áp đảo. Tiếng kêu của chúng ta như rơi vào cõi thinh không. Ngay cả lời cầu nguyện của chúng ta dường như Chúa cũng chẳng nghe thấy. Lúc ấy, phản ứng của chúng ta như thế nào? Niềm tin của chúng ta vào lòng thương xót của Người có còn bền đủ? Và cũng nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta cũng lạnh lùng như đám đông, bỏ qua, không nhìn, không nghe và thậm chí quát nạt tiếng kêu than từ những thân phận nhỏ bé trong cuộc sống. Tôi hỏi lại mình: Trái tim tôi còn đủ bén nhạy trước những lời kêu, những tiếng than của những anh chị em mình hay không?
Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy!” Hành động đầu tiên thể hiện niềm tin của mình là thoát khỏi chiếc áo choàng. Chiếc áo choàng là cơ nghiệp duy nhất của anh. Chiếc áo ấy là tài sản gắn liền với đời sống tự nhiên của anh. Chiếc áo là căn nhà che nắng, che nóng ở vùng đất khô cháy da người. Áo choàng cũng là cái chăn cho anh hơi ấm duy nhất còn lại trong cuộc sống khi màn đêm buống xuống. Áo choàng cũng có thể là chiếc áo quan, bọc xác khâm liệm đời anh! Tóm lại, chiếc áo choàng là tài sản duy nhất của thân phận một người hành khất mù lòa. Tung chiếc áo choàng là chấp nhận đánh rơi tất cả tài sản đời anh. Tung chiếc áo choàng là chấp nhận giã từ tất cả dĩ vãng, dù chưa biết tương lai mình ra sao. Tung chiếc áo choàng, anh chấp nhận giũ bỏ mọi ràng buộc của cuộc đời. Tung chiếc áo choàng là chấp nhận phó mặc đời mình theo tiếng gọi. Cuộc đời mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng được mời gọi từ bỏ mọi sự để theo Chúa và đấy là điều kiện tiên quyết: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Hình ảnh anh mù tung chiếc áo choàng về đằng sau gợi lên cho tôi nhiều suy nghĩ. Tôi nghĩ đến những tài sản vật chất mình đang sở hữu hay hưởng dùng. Tôi suy nghĩ về những mối tương quan của tôi trong cuộc đời. Tôi cũng nghĩ đến những địa vị mà tôi đang đảm trách… Càng suy nghĩ, tôi càng cảm thấy mình yếu đuối và tầm thường hơn cả anh mù. Hành động của anh đẹp cả hình thức bên ngoài lẫn nội dung niềm tin bên trong. Anh chấp nhận thoát khỏi cái kén tối tăm để trở thành cánh bướm bay tới vùng ánh sáng mới. Điều này được thể hiện qua việc đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu.
Đây là một hành động dứt khoát, không trì trệ, không chút do dự, tiếc xót. Đứng phắt dậy như một cú bật của lò xo. Điều này diễn tả một nội lực bên trong rất mạnh. Đứng phắt dậy là không nấn ná thêm chút nào nữa. Mấy chục năm làm người, những buồn tủi đè nặng trên thân phận! Miếng cơm, manh áo và tương lai cuộc sống như bóng ma vô hình cứ xiết lấy tâm hồn anh; phân mù lòa tù túng như cảnh chim lồng cá chậu vây hãm anh; tiếng xì xầm, lời ong tiếng ve tủi nhục ngày nào cũng phải nghe. Tất cả như những tảng đá vô hình muốn đè bẹp niềm tin bé nhỏ của anh. Đứng phắt dậy là cú đập cánh của niềm tin để bay vào bầu trời của tự do; là cái quẫy đuôi của kình ngư thoát ra khỏi vũng bùn nhơ nhớp, chật chội để xuôi về biển lớn.
Và bước nhảy của anh là hành động đáp trả sau cùng. Anh không dò dẫm nữa mà anh nhảy. Đây là hành động rất đơn sơ, nhưng diễn tả một sự tự do nhẹ nhàng. Nhảy là lao mình về phía trước. Cặp mắt thể lý của anh mù lòa đi lại cũng đầy khó khăn huống hồ là băng mình về phía trước. Anh mù không nhảy tới mục tiêu phía trước bằng ánh sáng tự nhiên, nhưng bằng tất cả niềm xác tín của niềm tin. Anh để đời mình rơi cách tự do vào vòng tay quan phòng và lòng thương xót của Chúa. Anh tin là phía trước Đức Giêsu đã chờ và đón anh. Như Thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều là quên đi chặng đườn đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Giêsu Kitô. Song dù đạt tới đâu đi nữa, chúng ta cũng cứ theo hướng ấy mà đi”(Pl 3, 13-14.16)
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót chúng con. Xin mở con mắt đức tin cho chúng con biết nhận ra Chúa, nghe được tiếng Chúa, mau mắn đến với Chúa và bước theo Chúa trên con đường Chúa đã đi. Amen.
XIN CHO THẤY TOÀN DIỆN VẺ ĐẸP CỦA
CHÚA, THA NHÂN VÀ THIÊN NHIÊN
Thiền gia tên là Unađa kể về những anh khiếm thị đi sờ voi và đoán xem con voi nó như thế nào. Anh rờ trúng ngay cái đầu thì bảo con voi giống như cái nồi. Anh rờ trúng cái đuôi thì bảo nó giống như cái chổi. Anh trúng cái tai thì bảo voi như cái quạt. Qua câu chuyện này tác giả muốn nói rằng khiếm thị là không có khả năng nhìn thấy và không có khả năng nhận diện sự thật toàn diện về một đối tượng nào đó. Đối tượng bị xé thành những mãnh vụn. Chúng ta có mắt rất tốt vì nhìn thấy toàn diện nhưng không chừng rơi vào những tình trạng khiếm thị bởi có những khi mình không nhận diện sự thật toàn diện một đối tượng mà mình chỉ thấy được một khía cạnh của đối tượng.
Bài Tin mừng hôm nay cảnh báo cho chúng ta điều đó. Đối tượng là Chúa Giêsu và Ngài đang trên con đường đi tới Giêrusalem, có nghĩa là đang tới đồi Canvê, tới thập giá nhưng tiếc thay mọi người chẳng nhìn ra sự thật về Chúa Giêsu, kể cả các môn đệ của Ngài nữa. Cụ thể, Tin Mừng kể Thầy trò đang đi, thì họ tranh cải với nhau ai là kẻ lớn nhất trong vương quốc của Thầy. Cho nên, hai anh em con ông Dêbêđê chạy đến Chúa Giêsu để xin được ngồi bên tả bên hữu. Chứng tỏ các môn đệ không hiểu gì và cũng không thấy hết được toàn diện con người Giêsu Nagiarét, là Con Thiên Chúa, là Đấng Mêsia, Đấng cứu độ trần gian. Cho nên, nói cho cùng không chỉ một mình anh Batimê mù mà là tất cả đám đông vây quanh Chúa Giêsu bấy giờ đều ở trong tình trạng khiếm thị, ngược lại, anh chàng khiếm kia hóa ra lại sáng nhìn ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia nên anh ta gọi Chúa Giêsu là con vua Đavít một tước hiệu trong Thánh Kinh dành cho Đấng Mêsia, đang khi đó những người khác thì không nhận ra.
Có lẽ cuộc sống hôm nay chúng ta bị phân tán đủ mọi thứ đối tượng đang khi đó đối tượng căn bản nhất là Thiên Chúa, tha nhân, thiên nhiên mà mình không biết, hay có thấy cũng chỉ thấy một phần cho nên dễ dàng đánh mất Chúa, tha nhân và hủy hoại môi trường nhiên nhiên. Chúng ta đã có ánh sáng là đức Giêsu Kitô, Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là ánh sáng để nhờ ánh sáng ấy mọi người khám phá ra Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên muôn loài muôn vật, đặc biệt còn cứu chuộc loài người khi con người sa ngã. Vì vậy, tác giả Thánh vịnh ca rằng: “Lạy Chúa trong ánh sáng của Người, xin cho con nhìn thấy ánh sáng”.
Cuộc sống con người chúng ta được đan kết các mối quan hệ: với Thiên Chúa, với mọi người và với thiên nhiên. Chúng ta nhìn thấy rõ sự cần thiết của các mối quan hệ này nhưng nhiều khi chúng ta bị khiếm thị tức là thấy không toàn vẹn Thiên Chúa và Lời của Ngài, không thấy con người là quý giá vô vùng và môi trường thiên nhiên là mái ấm, là ngôi nhà chung của nhân loại. Cho nên, chẳng lạ gì, khi chúng ta đến với Chúa, nghe lời Ngài, rước Ngài vào lòng nhưng trong cuộc sống chúng ta vẫn phạm tội, vẫn đi coi bói và có khi bỏ Chúa nếu gặp khó khăn khốn đốn. Rồi đối với tha nhân, vào Facebook, chuyện gì xảy ra trên thế giới này chúng ta cũng thấy thế nhưng thấy cũng như không, vì thấy mà không cảm thông gì, không chia sẻ gì hay giúp được gì cho những người cùng khổ đang thống thiết kêu gì. Cuối cùng, đối với môi trường thiên nhiên, chúng ta thấy và biết rằng môi trường thiên nhiên ô nhiễm là gây tác hại đến con người như thế nào, nhưng chúng ta vẫn phá hoại, vẫn gây ô nhiễm môi trường sống của mình một cách vô trách nhiệm. Vì vậy, trong thông điệp đang “hot”, “Laudato si” (chăm sóc ngôi nhà chung), Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi toàn thể nhân loại: “Hãy có cái nhìn mới về sự vật, hãy thực hiện cách mạng văn hoá triệt để. Chúng ta đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng cấp bách, khi mà, vì những hành động của chúng ta, trái đất đã bắt đầu ngày càng trở nên một bãi rác khổng lồ. Chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta, rằng chúng ta có thể nỗ lực cả về phương diện cá nhân lẫn cùng nhau hợp tác để thay đổi tình hình. Chúng ta phải thức tỉnh tâm hồn và hướng tới một hoán cải về sinh thái, trong đó chúng ta thấy được sự liên kết mật thiết giữa Thiên Chúa và mọi sinh vật, để sẵn sàng lắng nghe tiếng kêu cứu của trái đất và tiếng khóc than của người nghèo” (số 49).
Có lần các môn đệ đến gần hỏi Đức Giê-su rằng: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với dân chúng? Chúa Giêsu nói rằng bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành” (Mt 13,10-16). Vì vậy, chúng ta hãy khiêm tốn chạy đến với Chúa để người chữa trị. Người sẽ giúp chúng ta nhìn thấy chân lý toàn vẹn. Người sẽ giúp chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Cha của chúng ta và mọi người là anh em của ta. Người sẽ giúp ta nhận ra con đường tiến về nhà Cha trên Trời.
Lạy Chúa Chúa Giêsu, xin mở mắt tâm hồn chúng con để chúng con nhận ra Chúa và bước theo Ngài là sự thật và là Sự Sống của con đồng thời nhìn ra Chúa trong mọi người để chúng con hy sinh phục vụ họ trong yêu thương nhất nữa là biết gìn giữ và bảo vệ môi trường thiên nhiên nơi chúng con đang sống. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong cuốn sách “Những người lữ hành trên đường hy vọng”, Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận kể câu chuyện “Đôi mắt xanh của chị Nữ Tu” thật cảm động. Trên khắp các nước, thế chiến đã bùng nổ. Quân phát xít chiếm cứ khắp nơi. Một viên tướng Phát xít đến một nhà dòng kia, yêu cầu kêu Mẹ Bề trên cho ông ta gặp… Khi vừa dốc cạn ly nước từ tay Mẹ Bề trên, viên tướng Phát xít lập tức vào đề: – Xin bà cho tôi gặp chị Maria. Bà Bề trên bấm chuông gọi chị ấy ra. Ông tướng vui vẻ hẳn lên và nói cách sổ sàng: “Tôi yêu cầu bà trao ngay cho tôi chị này, tôi say mê chị”.
Hai mẹ con nhìn nhau lúng túng. Chị Maria vội đỡ lời: “Tôi là một nữ tu tầm thường, nào có gì để ông say mê. Xin ông tìm ở ngoài thế gian, lắm người nhan sắc lộng lẫy…”. – Không! Không! Tôi yêu chị vì chị có đôi mắt xanh tuyệt đẹp. Tôi say mê quá! – Không! Xin lỗi ông, không bao giờ tôi chấp nhận điều ấy. – Nếu chị không chấp nhận, nội ngày mai, tôi sẽ ra lệnh tiêu diệt cả Nhà Dòng này! Một bầu khí thinh lặng ghê rợn ập xuống phòng khách. Ông tướng đứng lên và bảo: “Tôi cho một đêm suy nghĩ, sáng mai tôi sẽ trở lại. Phải trả lời dứt khoát, nếu không tôi sẽ…”. Ngày hôm ấy, cả Nhà Dòng thiết tha cầu nguyện sốt sắng hơn. Thâu đêm chị không thể nào chợp mắt: “Chẳng lẽ vì mình mà cả nhà phải bị tiêu diệt? Không, không thể được! hay tôi phải bỏ Nhà Dòng, bỏ Tình yêu Chúa Kitô, bỏ đức trinh khiết? Không, không bao giờ như thế!”. Sáng hôm sau, khi chị em còn nguyện kinh, ông tướng Phát xít đã có mặt ở phòng khách, đôi mắt hau háu, nôn nóng, sốt ruột. Từ đầu hành lang, Chị Maria đang tiến lại, nhưng… bên cạnh lại có một người khác dẫn đi, tay chị cầm một cái dĩa. Viên tướng há hốc mồm, trố mắt kinh ngạc. Chị đã bước vào phòng khách, nhưng ông vẫn không ngớt ngẩn ngơ. Chị Maria khuôn mặt đầy máu me, đang sờ soạng đặt cái dĩa trên mặt bàn và nhỏ nhẹ trình bày: “Thưa ông, vì ông say mê cặp mắt của tôi… nên tôi xin sẵn sàng biếu ông cặp mắt ấy… trên dĩa này. Còn thân xác tôi, đời tôi, tôi đã hiến dâng cho Thiên Chúa”. Viên tướng Phát xít vừa bàng hoàng kinh ngạc vừa cảm phục. Ông xấu hổ đứng dậy bỏ ra về và không đả động gì đến Nhà Dòng nữa. (trang 175-177).
Nữ tu Maria hy sinh đôi mắt xanh tuyệt đẹp để “dọi ánh sáng vào nơi tối tăm” của cõi lòng viên tướng, nhờ vậy ông ta được sáng đôi mắt và nhìn thấy sự cao quý của một tâm hồn thanh khiết.
Đọc câu chuyện, liên tưởng đến chuyện vua Đavít được tiên tri Natan “mở mắt”. Dù đã có nhiều thê thiếp, nhưng vua lại chiếm đoạt bà Bátsabê là vợ của Uria và sau đó lại mượn tay quân thù giết chết chồng bà để chính thức cưới lấy Bátsabê làm vợ. Thế là vua đã phạm hai tội ác tày đình: ngoại tình và giết người. Vậy mà vua vẫn ung dung như không có gì xảy ta. Sau đó, Thiên Chúa sai tiên tri Natan đến cảnh tỉnh nhà vua. Tiên tri nói với vua: Trong thành kia, có một người giàu có đến cả ngàn dê cừu. Trong khi đó, bên cạnh nhà ông ta có một ông lão nghèo khó và cô độc, chỉ có một con chiên nhỏ làm bạn cho vui tuổi già. Ông lão thương con chiên đó như con gái của ông. Ông cho chiên ăn trên tay và cho ở trong nhà. Thế rồi khi người giàu có khách, ông ta không chịu bắt chiên mình làm tiệc, trái lại, cho tôi tớ qua nhà ông lão nghèo khổ bắt con chiên độc nhất của ông nầy làm thịt đãi khách. Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng nổi giận. Vua muốn trừng trị tức khắc tên bất lương đó. Nhà vua phán: “Nó đáng chết vì tội ác nó đã phạm. Nó phải bồi thường gấp bốn thiệt hại nó đã gây ra.”. Bấy giờ tiên tri Natan mới tỏ cho vua biết tên bất lương đó chính là nhà vua và Chúa sẽ trừng phạt vua vì tội ác đã gây ra.Vua Đavít bừng sáng mắt ra, thấy rõ tội ác của mình nên đã ăn năn thống thiết. (II Samuel 11,1-12,12).
Câu chuyện cũng gợi nhớ về đôi mắt mù của Nguyên Tổ trong sách Sáng Thế: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon… mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn… Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng” (St 3, 4-7).
Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình: – Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra. – Evà nhìn trái táo và thấy sướng mắt. – Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng. Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế. Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: “mắt cả hai người đã mở ra”. Không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. “Mắt hai người đã mở ra”. Câu Thánh kinh thật ngắn ngũi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. Ađam – Evà đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù loà chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế. (x. Nước mắt và hạnh phúc, trg 69-71, Lm Nguyễn Tầm Thường).
Chúa Kitô đã đến chữa lành sự mù loà ấy, hàn gắn lại vết thương thưở sa ngã của Nguyên Tổ. Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù loà của Nguyên Tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian.
“Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thưở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian. Ngài ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức Tin.
Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin. Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Silôác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisiêu đang tra vấn, khủng bố anh: Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Silôác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì. Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không?” thì anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin.” Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy. Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin.
Phép lạ chữa người mù thưở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù loà của nhân loại với điều kiện: Tin vào Ngài. Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù loà tâm hồn. Ngài mở mắt cho Giakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9, 1-10). Ngài mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7, 36-50). Ngài mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23, 32-43)…
Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xoá tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô. Ðôi mắt đức tin giúp chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa và yêu mọi người, mọi sự trong Chúa và yêu như Chúa đã yêu.Nhiều Thánh vịnh giúp chúng ta tập nhìn cuộc đời và con người bằng đôi mắt tin yêu, như Thánh vịnh 104, các Thánh vịnh Job 38-39.
Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt thì đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Bartimê tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Chúa Giêsu là Ðấng Messia “Con Vua Ðavít”. Anh kêu xin: “Rabbuni, xin cho tôi được thấy”, và Chúa Giê-su trả lời: “Hãy đi! Niềm tin của con đã cứu chữa con”. Bartimê được thấy và anh theo Chúa Giêsu trên con đường của Người; khi thấy được, anh cùng hành hương lên Giêrusalem (x. Đức Giêsu thành Nazareth phần II, trg 13). Bartimê thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy Chúa là con vua Đavít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.
“Muốn trong trắng, con phải hy sinh; cành huệ trắng tinh, cành mai thơm tho, cành đào xinh đẹp, vì nó đâm rễ sâu vào lòng đất, vì nó cầm cự với mưa bão, vì nó chịu đựng những bàn tay cắt tỉa” (ĐHV 431). Lạy Chúa Giêsu, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt; để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt; để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên; để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa. Và lạy Chúa, “Chúa chỉ ban sự trong trắng cho linh hồn khiêm nhường. Con cầu xin hàng ngày với tâm hồn đơn sơ chân thành, thực sự nhìn nhận sự yếu đuối của con” (ĐHV 427); xin cho con được thấy bản thân con với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Dõi theo hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu, với những làm phép lạ Chúa làm, lời Chúa dạy, người môn đệ được dạy về phẩm chất tông đồ. Cùng với các môn đệ Chúa Giêsu tiếp tục hành trình lên về Giêrusalem. Nếu dọc đường có chàng thanh niên đến quỳ gối xin Chúa chỉ cho biết việc phải làm để được sống đời đời (x. Mc 10, 17), thì giữa các môn đệ cũng có sự năn nỉ nài van cho được ngồi ‘bên tả’ hay ‘bên hữu’ Chúa (x. Mc 10, 35-45).
Hôm nay vẫn trong hành trình trước khi vào thành thánh, có chàng thanh niên mù loà con ông Timê tên là Bartimê kêu xin gặp Chúa để được sáng mắt (x. Mc 10, 46-52). Thật lý thú và kỳ diệu biết bao cho những ai khát mong tìm gặp Chúa, họ sẽ rạng rỡ mừng vui, vì có được điều họ tha thiết nài xin.
Chúa là niềm vui của Israel
Khi dân Israel bị bắt đi lưu đày ở Babylon trở về, người trung thành với Chúa chỉ còn là số ít, họ quá yếu đuối, nghèo nàn và dễ bị tổn thương, đến nỗi không có phương tiện trở về từ phương Bắc không thể tự giải thoát. Họ là những kẻ trở về để xây dựng đất nước: “trong chúng có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ”. Bàn tay xây dựng lại Israel là những kẻ đui mù, chứ không phải các thanh niên cường tráng! Làm thế nào họ có được khả năng xây dựng lại quốc gia? Thanh niên, người khoẻ mạnh đã bị đế quốc tiêu diệt trong các lao động khổ sai. Họ phải cáng đáng công việc xây dựng lại quê hương.
Trong lúc cùng đường bế tắc như thế Giêrêmia tuyên sấm: Đây Chúa phán: Hỡi Giacóp, hãy hân hoan vui mừng! ” (Gr 31, 7). Không thể vui mừng sao được khi mình đang đui mù, què quăt, mang thai nay có được Thiên Chúa toàn năng trợ giúp dẫn dắt trở về: “Đây, Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về, sẽ tụ họp chúng lại từ bờ cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con đi chung với nhau, hợp thành một cộng đoàn thật đông quy tụ về đây” (Gr 31, 8). Theo Dianne Bergant: “Phụ nữ mang thai và các bà mẹ tuy yếu ớt, dễ bị tổn thương nhưng cũng là biểu tượng của phong phú và hy vọng. Họ nắm giữ tương lai trong bản thân mình. Khi họ rời bỏ chốn lưu đày về đất hứa, họ mang theo khả năng sinh sản và khởi sự một tương lai mới”.
Đúng là người công chính, đạo đức thực thi công bình, bác ái, sống thánh thiện siêu nhiên, mặc cho thế giới này sa đoạ đến đâu, mặc cho gièm pha độc ác của kẻ giả hình, những vẫn khao khát tìm gặp và cậy dựa vào Chúa, người ấy sẽ có được niềm vui lớn lao. Anh mù thành Giêricô, tên là Bartimê trong Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng.
Chúa Giêsu là niềm vui của anh Bartimê
Chúng ta chiêm ngắm một anh chàng mù, nghèo khổ, gặp được hạnh phúc thật nhờ Chúa Giêsu. Anh thiếu hai điều: cái nhìn thể lý và khả năng tìm kiếm công ăn việc làm để kiếm sống, nên buộc anh phải đi ăn xin. Anh cần sự giúp đỡ và anh ngồi bên vệ đường lối vào thành Giêricô, nơi có nhiều người qua lại.
May mắn cho anh, một hôm chính Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một số người khác đã đi ngang qua đó. Chắc chắn anh mù đã từng nghe nói về Chúa Giêsu, là Đấng đã làm nhiều phép lạ, Đấng ấy đang đến gần anh ta, chớp thời cơ, anh kêu lên: “Hỡi Con vua Davít, xin thương xót tôi!” (Mc 10, 47). Đối với những người đang đi theo Chúa thì tiếng kêu của anh mù thật khó chịu, họ ích kỷ, không chịu thấu hiểu hoàn cảnh của anh. Nhưng lời kêu xin lớn tiếng của anh chứng tỏ anh khao khát gặp Chúa lắm. Lời ấy vang tới tai Chúa và động đến tâm hồn Chúa Giêsu. Người muốn đáp ứng lời van xin của anh mù ăn mày này, nên truyền gọi anh đến đến và chữa lành anh ta.
Lập tức anh mù được đối diện với Con vua Đavít. Giây phút quyết định là sự khát khao gặp gỡ cá nhân, trực tiếp, giữa Chúa với người đang đau khổ. Hai người đối diện nhau: Thiên Chúa với ý muốn chữa lành và con người với ước ao được chữa lành. Hai sự tự do và hai ý chí đều huớng về một điểm. Cuộc đối thoại bắt đầu kẻ hỏi người thưa, “Chúa Giêsu nói với anh: ” Anh muốn Ta làm gì cho anh? “Người mù đáp: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy” Chúa ra lệnh: “Con hãy đi! Ðức Tin con đã cứu chữa con!” (Mc 10,51) Lập tức Chúa Giêsu cho anh thấy, anh hết sức vui mừng và đi theo Chúa.
Chúa là nguồn vui của chúng ta
Niềm vui của Thiên Chúa, niềm vui của con người. Theo Phúc âm kể tiếp như sau: Bước vào ánh sáng, anh mù Bartimê bắt đầu theo Chúa khắp nơi! Ðiều này có nghĩa là anh mù trở thành môn đệ Chúa và theo Người lên Giêrusalem, để cùng với Chúa tham dự vào mầu nhiệm cao cả của ơn cứu rỗi.
Cái nhìn thể lý thật quan trọng, cái nhìn từ bên trong của Thiên Chúa. Thánh Clêmentê Alexandria nói, “Chúng ta hãy chấm dứt việc lơ là sự thật, hãy ra khỏi bóng tối và sự vô minh, như một áng mây, hãy ra khỏi đám mây che lấp chúng ta để chiêm ngưỡng Thiên Chúa thật”.
Chúng ta thường hay than phiền và nói rằng, tôi không biết cầu nguyện. Hãy noi gương anh chàng Bartimê mù trong Tin Mừng: Anh không ngần ngại kêu lên cùng Chúa Giêsu tất cả những gì anh ta cần. Phải chăng chúng ta thiếu đức tin? Nếu thiếu, hãy thưa cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con”. Phải chăng chúng ta có người thân bằng hay trong gia đình có người bỏ bê việc sống đạo? Vậy, hãy cầu nguyện như thế này: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho họ được nhìn thấy”. Liệu đức tin có quan trọng như vậy không? Nếu chúng ta so sánh cái nhìn thế lý, chúng ta sẽ nói gì đây?
Ðức Tin là cuộc hành trình của sự soi sáng: đức tin khởi sự từ thái độ khiêm tốn nhìn nhận mình cần đến ơn cứu rỗi và đạt đến cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Kitô, Ðấng là nguồn vui và là ơn cứu độ. Tình trạng của anh mù thật là buồn, nhưng nhiều người còn chưa tin vào Chúa còn buồn hơn. Chúng ta hãy nói với họ: Thầy gọi anh và hỏi anh cần gì, Chúa Giêsu sẽ đáp trả bạn cách hào phóng.
Lạy Mẹ Maria, xin dẫn chúng con đến gặp Chúa, để chúng con được no thỏa niềm vui ân tình của Chúa. Amen.
Một người vô thần hỏi một người Ả rập đang ngồi cầu nguyện giữa sa mạc hoang vắng: Làm sao anh có thể tin vào Thiên Chúa, Đấng anh không hề trông thấy? Người Ả rập trả lời: Khi nhìn vào những dấu chân con sư tử trên cát, thì tôi biết được rằng con sư tử mới đi qua đây, mặc dù tôi không trông thấy nó. Với Thiên Chúa cũng vậy, mặc dù Ngài là Đấng vô hình, nhưng những kỳ công của Ngài nói cho tôi biết về Ngài.
Chúng ta thật may mắn vì ngay từ lúc mở mắt chào đời, chúng ta đã có một niềm tin vững chắc vào Thiên Chúa, như điều răn thứ nhất đã truyền dạy. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều dân tộc mê tín, tin vào những chuyện nhảm nhí như lửa, như gió và các vì tinh tú, hay như ca dao đã diễn tả: Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề. Tại sao lại có tình trạng ấy?
Lý do thứ nhất, đó là vì sự yếu đuối, sự hạn hẹp của trí khôn con người, coi tất cả những gì đẹp đẽ, những gì oai hùng đều là thần minh. Họ giống như một bác nông dân, lần đầu tiên được bước vào cung vua, thấy bất kỳ ai ăn mặc đẹp đẽ cũng tưởng là nhà vua, nên quỳ gối chào kính.
Nhưng nguyên nhân chính yếu, đó là mưu mô của ma quỷ. Đã từ lâu, nó nuôi tham vọng được bằng Thiên Chúa, như lời tiên tri Isaia đã nói về nó: Ta sẽ lên tới trời và ta sẽ đặt ngai tòa của ta dưới những vì sao. Nó xúi bẩy con người đi tới chỗ thờ lạy nó và dâng tiến cho nó những lễ vật. Nhất là nó mong muốn người ta tôn kính nó như là Thiên Chúa. Chính vì thế, nó đã nói với Chúa Giêsu trong cơn cám dỗ: Ta sẽ ban cho ngươi mọi vương quốc trần gian, nếu ngươi quỳ gối thờ lạy ta.
Điều ma quỷ không thể tìm được nơi Chúa Giêsu, thì nhiều người kém lòng tin đã hiến dâng cho nó. Tình trạng mê tín không phải chỉ ngày xưa, mà ngay cả hôm nay trong thời buổi văn minh cũng vẫn có. Không thiếu gì những tín hữu đã làm những chuyện nhảm nhí để cầu mong cho được điều nọ điều kia. Họ đã vâng phục loài người hơn là vâng phục Thiên Chúa. Họ đã chạy theo những đam mê dục vọng bất chính, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Họ lấy cái bụng của họ làm chúa.
Tội mê tín hiểu theo một nghĩa rộng, đó là việc từ bỏ Thiên Chúa, để tìm kiếm hạnh phúc nơi những thụ tạo. Những đam mê mù quáng như kiêu căng, hà tiện, những khát vọng quá đáng về tiền bạc, danh vọng và lạc thú chính là những thần tượng giả tạo, chúng ta cần phải trục xuất ra khỏi tâm hồn, để tâm hồn trở thành đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị. Có khử trừ tội lỗi, thì cặp mắt tâm hồn chúng ta mới được trong sáng và chúng ta mới có thể nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi vũ trụ và nơi những người chung quanh, cũng như nơi thẳm sâu cõi lòng chúng ta.
Có một cô bé khó tính, luôn phê bình và chỉ trích bởi vì cô bé không bao giờ tìm thấy được một điều gì tốt nơi người khác. Bất kể ai làm được một việc tốt, thì cô bé cũng phải tìm cho ra một điều sai, một nguyên do xấu. Cô bé thường hay nói: Nó phải có ý đồ đen tối, nó phải rút ra được cái gì lợi trong đó. Và cô bé luôn bắt lỗi mọi người. Nhiều người trong chúng ta cũng hành động như cô bé bới bèo ra bọ, vạch lá tìm sâu. Để rồi lúc nào cũng cau có, lúc nào cũng bực bội, lúc nào cũng bất mãn.
Thế rồi một ngày kia, nghe cha sở cắt nghĩa về đoạn Tim Mừng kể lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù bẩm sinh, mà chúng ta vừa mới được nghe đọc. Cô bé bỗng sực tỉnh và nhận thấy rằng: Tâm hồn mình đã thực sự bị mù loà vì đã không nhận ra được những cái tốt đẹp của người khác.
Chúa Giêsu đã chữa lành sự đui mù thể xác, để chứng tỏ Ngài cũng có thể chữa lành sự đui mù tâm hồn. Chính sự đui mù tâm hồn này còn tác hại cho chúng ta hơn cả sự đui mù thể xác. Vì một trong những cách biểu hiện của nó là không nhìn thấy chân lý, không nhìn thấy tình thương, không nhìn thấy những điều tốt đẹp của những người chung quanh. Tật đui mù này lại thường hay lân lan. Chính vì thế mỗi người chúng ta phải không ngừng tự hỏi: Tôi có bị đui mù về tâm hồn hay không? Nếu có, thì chúng ta hãy vội vã kêu cầu Chúa cứu chữa chúng ta như người đui mù trong đoạn Tin Mừng hôm nay.
Nơi tốt nhất để chúng ta bắt đầu sửa chữa tật đui mù này chính là gia đình. Chẳng hạn người mẹ quên đính nút áo hay quên vá chiêc quần cho chúng ta, thay vì càu nhàu trước sự sơ sót này, chúng ta hãy nghĩ đến những việc tốt mà mẹ đã làm cho chúng ta, chẳng hạn như nấu ăn, giặt giũ, lau chùi nhà cửa. Người anh của chúng ta hay nóng tính, thay vì nghĩ đến những lần gắt gỏng, thì chúng ta hãy nhớ tới công việc nặng nhọc mà người anh ấy phải làm ngoài thửa ruộng thần nông hay trong nhà máy để đem lại chén cơm manh áo cho gia đình và những người thân yêu.
Thay vì nghĩ đến những lầm lỗi của người khác, chúng ta hãy tập cho quen biết mở mắt để nhìn thấy những cái tốt cái đẹp của họ. Nghĩ tới nó và luôn nói về nó, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo: dù là một tên tướng cướp, thì trong lồng ngực của hắn cũng vẫn có một một mảnh tim vàng. Nhờ việc khám phá ra những cái tốt đẹp nơi họ, chúng ta sẽ xích lại gần họ hơn và dễ dàng yêu thương họ như Chúa đã truyền dạy chúng ta.
Bởi đó, cùng với anh mù trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta hãy kêu cầu Chúa: Lạy Chúa, xin thương xót con và cho con được sáng.
Có một chi tiết nhỏ qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay đã làm cho tôi phải suy nghĩ và muốn được đem ra để chia sẻ. Đó là đang khi chàng hành khất kêu van cùng Chúa Giêsu: Lạy Con Vua Đavid xin thương xót tôi, thì nhiều người đã quát mắng và bảo anh hãy im đi, hãy câm miệng lại. Những người này đã trở thành một thứ rào cản, ngăn chặn không cho anh tiến đến cùng Chúa Giêsu. Đáng lẽ họ phải nắm lấy tay anh mà dẫn tới Chúa, thì họ lại túm cổ, lôi anh ra xa Ngài. Chẳng có một ai ngoài chính Chúa Giêsu đã giúp đỡ anh mà thôi.
Thực vậy, khi nghe dân chúng quát mắng anh, thì Ngài đã dừng lại, truyền dẫn anh đến với Ngài. Chỉ lúc đó, họ mới thay đổi thái độ. Chỉ lúc đó, họ mới chịu giúp đỡ con người bất hạnh kia.
Từ chi tiết nhỏ bé trên chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống, vì biết đâu, chính chúng ta đôi lúc cũng đã trở thành một thứ rào cản, ngăn chặn không cho Chúa đến với người khác, cũng như không cho người khác đến với Chúa. Vậy chúng ta đã trở nên một thứ rào cản như thế nào?
Tôi xin thưa: trước hết là bằng những ý nghĩ chủ quan đầy thiển kiến, những lời nói thiếu ý thức gây sứt mẻ và những cử chỉ mang tính cách ghen tị. Thực vậy, đứng trước một thanh niên rượu chè cờ bạc hay trộm cắp, mà nay muốn làm lại cuộc đời của mình để trở nên tốt lành hơn, thì phản ứng tự nhiên của chúng ta là nghi ngờ cái thiện chí của anh ta. Từ sự nghi này, chúng ta thường có thái độ cảnh giác, đề phòng bằng cách không liên hệ với anh ta. Và nếu có liên hệ thì cũng dè chừng, mắt trước mắt sau. Cũng vì sự nghi ngờ ấy, chúng ta thường có những lời nói vô ý thức, thiếu trách nhiệm, chẳng hạn: ngựa quen đường cũ. Người như nó mà bỏ được tật xấu này, tật xấu kia thì tôi chỉ bé bằng con kiến.
Tất cả những ý nghĩ, lời nói và thái độ như thế sẽ vùi dập mất chút thiện chí vừa mới lóe sáng trong tâm hồn người thanh niên, để rồi anh ta sẽ chẳng thể nào trở về cùng Chúa. Thay vì kéo anh ta đến với Chúa, thì chúng ta đã trở nên một thứ rào cản, thậm chí còn đẩy anh ta xa lìa Ngài. Hiện thời, đời sống và cách cư xử của chúng ta đã là một thứ rào cản, hay đã là một nhịp cầu, trên đó Chúa đến với những người anh em chúng ta, cũng như trên đó họ sẽ đến cùng Chúa.
Ngoài ra, chúng ta còn có thể trở nên một thứ rào cản bằng chính cuộc sống bê bối của chúng ta. Thực vậy, có những anh em lương dân đầy thiện chí, muốn tìm hiểu Kitô giáo cũng như sứ điệp Tin mừng, thế nhưng thiện chí này đã bị khựng lại khi họ nhìn vào đời sống cụ thể của chúng ta.
Thực vậy, khi nhìn vào đời sống, họ thấy chúng ta cũng gian tham và bất công, cũng độc ác và hà hiếp, cũng giận hờn và thù oán, cũng vợ nọ con kia, lem nhem trong lãnh vực tình cảm… để rồi có lúc họ đã phải thốt lên: Tôi tưởng người Kitô hữu tốt lành như thế nào. Không ngờ họ còn thua cả những người cộng sản, những người Hòa Hảo, những người Cao Đài.
Đáng lẽ ra đời sống của chúng ta phải là một bài giảng hùng hồn, có sức thuyết phục cuốn hút họ về với Đức Kitô, thì do những bê bối, đời sống của chúng ta đã trở thành một thứ thuốc nổ, phá hủy chút thiện chí còn đọng lại nơi họ, hay là đã trở thành một thứ rào cản không cho họ tiến đến cùng Chúa.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Từ thế kỷ 19, những người mù đã được học hành như người sáng mắt. Có những người mù đậu tiến sĩ, giáo sư như bà Killer, ông Braille (Brai-ơ) (1809-1852).
Ông Braille đã bị mù từ lúc lên ba tuổi. Lúc đầu ông được học nhạc ở học viện và đánh đàn tại nhiều nhà thờ. Ông đã trở thành giáo sư và chính ông đã sáng chế ra hệ thống chữ nổi cho người mù học. Nhờ đó, ông đã cứu giúp được bao nhiêu thế hệ mù khỏi mù chữ. Ông đáng được tôn vinh là ông tổ ân nhân của thế giới mù. Tuy nhiên, ông đã không thể cứu họ khỏi mù mắt. Họ vẫn phải sống trong tối tăm.
Nếu họ được sáng mắt, họ sẽ thấy muôn cảnh vật tuyệt diệu lạ lùng đến chừng nào. Một bà cụ ở Rạch Giá, bị mù từ 56 tuổi. Thế là tất cả mọi người mọi vật chung quanh bà đều trở thành đen tối, tất cả đối với bà như đã chết. Bà quên hết mọi mầu sắc, hình ảnh, cảnh vật. Đến năm 73 tuổi, khi được bệnh viện Điện Biên Phủ (Saint Paul) chữa khỏi, bà được thấy lại cảnh vật và người ta, bà quá sung sướng hạnh phúc, khi gặp tôi bà nói: “Đẹp quá cha ơi, đẹp như thiên đàng vậy cha ơi!”. Thực ra, bà đâu đã thấy thiên đàng đẹp thế nào? Đó chỉ là ước mơ và nay ước mơ của bà đã thành sự thực, thì đúng là thiên đàng của bà.
Tâm trạng sung sướng bà mù này giúp chúng ta thấy được anh mù Bartimê sung sướng đến chừng nào khi được Chúa Giêsu chữa anh sáng mắt và cũng cho ta thấy nỗi khổ cùng cực của tật mù. Anh Bartimê cùng cực hơn nữa, mù còn phải lần mò đi ăn xin, vì đi lại quá khó khăn, nên anh chỉ biết ngồi bên vệ đường, lắng tai nghe có ai đi qua thì giơ tay ra van xin bố thí. Hôm nay, anh ngạc nhiên, nghe thấy tiếng người ồn ào đông đảo bước đi rầm rập trước mặt anh. Họ xôn xao cười nói về Đức Giêsu mà bao nhiêu lần anh đã được nghe tin đồn về Ngài là con vua Đa vít đã thương cứu chữa bao nhiêu người tàn tật. Anh đã bao nhiêu lần khao khát được gặp Ngài. Không ngờ, đây là dịp may nhất đời anh. Thế là anh lấy hết sức kêu gào, át cả tiếng ồn ào dọa nạt. Anh kêu như thét lên: “Lạy Con Vua Đa vít, xin thương xót tôi”. Trước tiếng kêu não nùng đó, Đức Giêsu đã dừng lại gọi anh. Anh liệng áo choàng nhảy chồm lên đến với Người. Người cúi xuống hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Anh thưa: “Xin cho con được sáng”. Người nói: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Tức khắc, anh nhìn thấy được và theo Người lên đường. Sung sướng biết bao cho anh, chẳng những được sáng mắt, anh còn được sáng trong đức tin mạnh mẽ để theo Đức Giêsu và trở nên những người Kitô hữu có mặt trong cộng đồng Công giáo đầu tiên, vì thế thánh Marcô viết Tin mừng đã kể đích tên anh. Anh đã không còn bị ngồi cô độc bên vệ đường nữa. Anh đã được sống chung với mọi người, được sống trong cộng đồng chan hòa tình thương, chan hòa ánh sáng trong vũ trụ bao la đầy cảnh vật mầu sắc huy hoàng. Thật là kỳ diệu, ánh sáng đã cho anh thấy được muôn người, muôn vật sống động và hiện hữu mà Thiên Chúa dựng nên.
Trước đây, anh đã phải sống trong một vũ trụ như chưa có ánh sáng, trời đất muôn vật lù mù, tăm tối, hỗn độn, mông lung, hiu quạnh trống không như thuở khai nguyên, cho tới lúc Thiên Chúa gọi: “Hãy có ánh sáng”, trời đất muôn vật mới xuất đầu lộ diện với muôn hình muôn sắc (St. 1, 1-3).
Đức Giêsu chữa anh mù được sáng để khẳng định cho nhân thế nhận ra Người là ánh sáng đôi mắt, ánh sáng trời đất và nhất là ánh sáng phục sinh, ánh sáng sự sống vinh quang muôn thuở: “Lúc khởi đầu, nhờ Ngôi Lời mà muôn vật được tạo thành … Người là Sự Sống và Sự Sống là Sự Sáng cho nhân loại … Thế gian nhờ Người mà có” (Ga. 1, 2-4 và 10). Nhưng vì phạm tội, loài người đã chết trong tăm tối: “Mọi người đã sinh ra trong tối tăm” (Eph. 4, 18). Đến nay, nhờ Người, “Thiên Chúa đã gọi chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng huyền diệu của Ngài” (1P. 2, 9 và Col. 1, 12). “Đức Kitô chiếu sáng trên chúng ta” (Eph. 5, 14) để “trong Chúa, chúng ta là ánh sáng” (Eph. 5, 8). Chính Đức Giêsu đã làm chúng ta nên ánh sáng để “chúng ta là ánh sáng thế gian” (Mt. 5, 14), nên “chúng ta phải sống như con cái sự sáng” (Eph. 5, 8 và 1Th. 5, 5).
Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt tâm hồn con, cho con được thấy ánh sáng của Người chiếu ra từ lời Chúa, từ việc Chúa làm và từ đời sống thương yêu “thông cảm với những kẻ ngu muội và lầm lạc, yếu đuối và bệnh tật để dâng mình tế lễ đền tội cứu chuộc muôn dân” (Dt. 5, 1-6).
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Mc 10: 46-52: khi Chúa Giêsu và đám đông dân chúng đi theo Ngài qua thành Giêricô tiến lên Giêrusalem. Một thế giới huyên náo, sinh động đang diễn ra trước mặt anh mù, nhưng anh vẫn ngồi đó, không thấy gì, ngoài những tiếng ồn ào vọng đến tai anh và cát bụi tung bay vào mặt anh.
Ngày 15 tháng 10 hằng năm được gọi là “ngày cây gậy trắng”. “Cây gậy trắng” là dấu hiệu của người mù. “Cây gậy trắng” giúp người mù dò đường đi. “Ngày cây gậy trắng” hằng năm được lập ra để nhắc mọi người nhớ đến những người mù đang sống trong thế giới loài người, nhưng lại xa cách và chìm sâu trong một thế giới tăm tối, không ánh sáng, cô độc và ngừng trệ, không ai ngó ngàng tới…
Đó cũng là tình cảnh của anh mù có tên là Bartimê, ngồi ăn xin bên vệ đường, khi Chúa Giêsu và đám đông dân chúng đi theo Ngài qua thành Giêricô tiến lên Giêrusalem. Một thế giới huyên náo, sinh động đang diễn ra trước mặt anh mù, nhưng anh vẫn ngồi đó, không thấy gì, ngoài những tiếng ồn ào vọng đến tai anh và cát bụi tung bay vào mặt anh.
Nhưng cảnh tượng tương phản đó đã chấm dứt và bị đảo ngược nhờ sự xuất hiện của Chúa Giêsu. Ngài đã dừng lại trước tiếng kêu thống thiết của anh mù. Ngài đã khơi lên một niềm tin kiên vững và sáng suốt nơi anh mù, đảo ngược vị trí giữa anh mù và đám đông kể cả các môn đệ đi theo Ngài. Thật vậy, đám đông chạy theo Ngài ồn ào bên ngoài, nhưng bên trong họ lại rất hờ hững, xa lạ với Chúa. Họ chỉ là những người nhập bọn chạy theo người khác. Thấy người ta đông đảo thì cũng hùa theo chứ không hiểu hiện tượng gì đang xảy ra và cũng chẳng cần quan tâm tìm hiểu điều gì sâu xa đằng sau hiện tượng đó. Cả một đám đông, tuy sáng mắt nhưng tâm hồn lại mù tối hơn cái mù của người hành khất ngồi thu mình bên vệ đường, mất hút giữa dòng người rầm rộ bước đi. Còn người hành khất, tuy mù mắt nhưng tâm hồn lại sáng suốt. Anh lắng nghe đám đông và biết được có ông Giêsu, người Nagiarét đi ngang qua, anh liền kêu lớn át tiếng ồn ào của đám đông: “Lạy ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin thương xót tôi!” Đám đông vô tâm với Chúa lại vô tình với anh. Họ quát mắng anh câm mồm. Họ muốn bịt miệng anh lại. Nhưng bất chấp, anh càng kêu to hơn: “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót tôi!”. Chúa Giêsu dừng lại và bảo người ta gọi anh lại. Lúc đó đám đông mới chú ý đến anh. Vừa nghe được Chúa gọi, anh vui mừng đứng dậy, vứt bỏ tấm áo choàng dùng để nhận của bố thí, chạy nhào đến với Chúa. Thấy vậy, Chúa Giêsu hỏi anh: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù liền đáp: “Thưa Thầy, xin cho con được thấy”. Chúa Giêsu nói với anh: “Cứ về đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh thấy được và theo Chúa lên đường.
Thưa anh chị em,
Qua lối diễn tả ngắn gọn và linh động, Thánh sử Marcô đã cho chúng ta thấy một biến chuyển lớn lao diễn ra trong tâm hồn anh mù. Từ tình trạng mù tối, ngồi ăn xin bên vệ đường, đến hạnh phúc được nhìn thấy và đi theo Chúa lên Giêrusalem. Đám đông sáng mắt háo hức theo Chúa nhưng lại tối lòng, chẳng nhận ra Chúa là ai. Trái lại, anh mù thì lại sáng mắt và sáng cả lòng. Trước kia anh chẳng thấy gì, đành chịu ngồi nép bên vệ đường. Khi nghe người ta kháo láo với nhau về Chúa Giêsu, anh liền nhận ra Ngài là Con Vua Đavít, Đấng Thiên Sai Cứu Thế. Mãi cho đến khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, đám đông mới tung hô Ngài với danh hiệu “Con Vua Đavít”, Đấng Thiên Chúa sai đến, Đấng muôn dân trông đợi.
Người ta kể lại rằng: Năm 1945, tại nhà ga Verona ở Italia, dân chúng đang náo nức chờ đợi các binh sĩ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Một người lính trẻ hai mắt đã mù lòa, đang lần mò từng bước trên sân ga tiến về chỗ một bà già đang đứng dõi mắt trông chờ. Anh la lên: “Mẹ!” và hai mẹ con ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Bà mẹ xót xa hỏi: “Làm sao một người mù lòa như con mà vẫn tìm về được với mẹ?” Người lính trả lời: “Con không nhìn thấy mẹ bằng mắt, nhưng trái tim đã hướng dẫn con”.
Người mù thành Giêricô cũng đã tìm đến với Chúa Giêsu bằng trái tim. Anh không được nhìn thấy Chúa, nhưng đức tin của anh đã dẫn anh đến với Ngài. Và Chúa đã chữa anh bằng một lời khen ngợi: “Lòng tin của anh đã cứu anh!”. Đức tin quả là giác quan thứ sáu để người kitô hữu có thể tiếp xúc với thế giới siêu nhiên vô hình. Cặp mắt đức tin được coi như một thứ giác quan thứ sáu, nó cho chúng ta thấy được chiều kích siêu nhiên của cuộc sống con người ở trần gian mà những người không có đức tin không thể thấy được. Người kitô hữu là người đã được Chúa Giêsu mở mắt, được nhìn thấy ánh sáng chân lý, đọc được ý nghĩa của cuộc sống con người. Do đó, người kitô hữu tự nhận lãnh sứ mạng soi đường dẫn lối cho những người anh em “chưa trông thấy”, những người còn “ngồi trong bóng tối”, những anh mù Bartimê hôm nay. Chính anh mù khi được Chúa cho trông thấy đã đem cho đám đông ánh sáng của anh, ánh sáng của lòng tin vào Đức Kitô, Đấng Cứu Độ.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại câu chuyện về một người đàn ông phong cùi, sống trơ trọi trong túp lều tăm tối, xa tránh và hận thù xã hội cũng như mọi người. Một ngày nọ mẹ đến thăm và đưa ông ra khỏi túp lều tăm tối. Vừa đến bên cạnh cửa, nơi ánh sáng mặt trời chiếu qua, người đàn ông đã có một thái độ mà mẹ không bao giờ quên được: ra khỏi căn lều, đứng giữa ánh sáng, ông ta đã kêu lớn tiếng: “Tôi thấy, tôi đã thấy”. Kể từ khi bóng tối của bệnh phong cùi ập xuống trên cuộc đời, thì hôm nay thật sự là lần đầu tiên ông ta cảm nghiệm được có ánh sáng trong cuộc đời.
Anh chị em thân mến,
Có những người tự giam mình trong bóng tối, có những người bị giam hãm trong phòng tối. Vô tình hay hữu ý, có lẽ chúng ta cũng đã xô đẩy biết bao người vào trong bóng tối. Một cuộc sống không muốn làm chứng tá, một khước từ giúp đỡ, đó có thể là hành động xô đẩy người khác vào bóng tối cô đơn của thất vọng, và dĩ nhiên khi xô đẩy người khác vào bóng tối, chúng ta cũng tự giam mình vào bóng tối, hay ít ra cũng giảm bớt ánh sáng nơi chúng ta.
“Anh em là ánh sáng thế gian”. Người kitô hữu chỉ là kitô hữu khi họ là ánh sáng cho người khác. Ánh sáng sẽ trở thành tăm tối khi không còn khả năng chiếu sáng. Một cuộc sống đầy gương sáng, một lời nói khích lệ, một nụ cười thông cảm, một đường hướng đưa ra để đồng hành, đó là những việc làm của ánh sáng mà những người chung quanh đang chờ đợi nơi chúng ta, và chúng ta cũng tin rằng một ánh lửa càng được chia sẻ thì càng được đốt sáng lên.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa như anh mù đã xin: “Lạy Chúa, xin cho con được thấy”. Xin cho con được thấy hình ảnh Chúa nơi những anh em nghèo đói, ốm đau, bệnh tật, đui mù chung quanh con, để con biết yêu thương và nâng đỡ. Xin tha thứ cho con, vì biết bao lần, vô tình hay hữu ý, con đã xô đẩy người khác vào bóng tối cô đơn và tội lỗi. Xin cho con luôn biết chia sẻ ánh sáng của Chúa trong mọi người. Xin cho con niềm vui vì được biết rằng mỗi lần thực thi một nghĩa cử cho người anh em là chúng con được lớn lên trong ánh sáng của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Mc 10: 46-52: Con mắt đức tin chỉ thực sự sáng tỏ khi người ta nhận ra thiên tính của Chúa Giêsu, để cho Người biến đổi tận căn bản thân và rồi từ bỏ tất cả để đi theo Chúa.
Con mắt đức tin chỉ thực sự sáng tỏ khi người ta nhận ra thiên tính của Chúa Giêsu, để cho Người biến đổi tận căn bản thân và rồi từ bỏ tất cả để đi theo Chúa.
Chúa Giêsu chữa người mù Bartimê tại Giêricô, trên đường Người lên Giêrusalem. Cùng với đức tin của anh mù khi được sáng đã dứt khoát đi theo Chúa, bản văn Tin mừng này như là một lời mời gọi tin và bước theo Chúa Giêsu, Đấng Mêsia, Con Vua Đavít. Theo Người là chấp nhận tiến vào Giêrusalem chịu tử đạo.
Tin mừng hôm nay gợi lên hình ảnh Chúa Giêsu, Con Vua Đavít, một tước hiệu của Đấng Thiên Sai. Anh mù đã nhạn ra thiên tính của Chúa Giêsu và được chữa lành để rồi vững bước theo Người. Kitô hữu hôm nay, cũng được mời gọi khám phá, chiêm ngưỡng Chúa Giêsu là Chúa, là Đấng Thiên Sai đích thực để can đảm dấn bước theo Người trên đường tiến tới Giêrusalem, chịu khổ hình.
III. GỢI Ý BÀI GIẢNG:
Anh mù là hình ảnh của những người nghèo khó, những người thấp hèn, bị loại trừ, thế nhưng đức tin của anh lại trở nên khuôn mẫu cho những ai muốn làm môn đệ của Chúa. Nhìn đến anh, chúng ta thấy rõ cả một hành trình đi lên của đức tin. Khởi đầu là nghe biết về Chúa, kêu cầu Chúa; khi được Chúa gọi liền liệng áo choàng, đứng dậy theo Chúa. Một bước tiến mới trên hành trình đức tin: Từ bỏ để đi theo tiếng gọi của Chúa; và cuối cùng được sáng mắt và theo Chúa. Cao điểm của đức tin là được biến đổi (từ mù nên sáng) và lên đường với Chúa. Mỗi người chúng ta, Kitô hữu của ngày hôm nay, cần nhìn vào anh Bartimê để nghiệm xét lại chính mình, xem mình đang ở đâu trên hành trình đức tin.
Hình ảnh đối lập giữa anh mù Bartimê và đám đông dân chúng, khiến cho chúng ta phải nghiêm túc nhìn lại bản thân, nhìn lại đời sống đức tin của mình. Tôi có thật sự là con người sáng con mắt đức tin hay mù lòa? Tin và theo Chúa sẽ đưa tới kết quả là được biến đổi. Tin vào Chúa là chân thành tìm kiếm khám phá ra dung mạo của Người trong cuộc sống đời thường, chứ không phải đổ xô đi tìm một điều kỳ lạ, một phép lạ… Con mắt đức tin sáng hay mù hệ tại ở việc chính nội tâm của mỗi người có nhạy cảm nhận ra ý Chúa, nhận ra Chúa đang hiện diện giữa đời thường nơi Giáo hội, nơi xã hội và nơi anh chị em chung quanh cũng như qua các biến cố của cuộc sống. Nhận ra Chúa chưa đủ mà còn phải biết từ bỏ để đi theo Chúa. Cần cảnh giác, Chúa Giêsu thường được vây quanh bởi những con người mù lòa, còn vệ đường Người đi qua lại đầy những người mù sáng mắt.
III. LỜI CẦU CHUNG:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, nhờ tin vào Đức Giêsu, anh mù Bartimê đã được sáng mắt và đổi đời. Tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
Lời kết: Lạy Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương ban Đức Giêsu đến cứu độ chúng con và cho chúng con được làm con cái Chúa. Xin thêm ơn đức tin cho chúng con để chúng con can đảm vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Cuộc sống thường có hai mặt, phải và trái. Điều này không có nghĩa là phải trái luôn trái nghịch nhau. Trong nhiều trường hợp phải trái bổ túc nhau làm cho sự kiện hoặc vật thể trở nên trọn vẹn hơn. Hai mặt phải trái của lá cây, hai mặt phải trái của xấp vải, hai mặt phải trái của tờ giấy. Phúc Âm hôm nay đưa ra nhiều hình ảnh phải trái xem ra có vẻ trái nghịch nhau. Cảnh trái nghịch rõ nhất là ánh sáng và bóng tối, hình ảnh người mù ngồi vệ đường và hình ảnh người sáng mắt theo Đức Kitô, hình ảnh đám đông ngăn cản anh đến gặp Đức Kitô và hình ảnh một mình anh cô đơn giữa đám đông ồn ào. Hình ảnh đám đông coi thường anh và hình ảnh Đức Kitô tỏ lòng xót thương anh. Đa số chúng ta thích chọn theo ý kiến của đa số, ý kiến của đám đông và bị ảnh hưởng đám đông lôi kéo. Người mù chọn đứng riêng bởi anh biết rõ anh muốn gì. Anh chọn theo thiểu số, thực ra một mình anh một ý và điều đó khiến anh tách biệt khỏi đám đông. Đám đông dùng sức mạnh đa số lấn át anh, cấm anh lên tiếng. Anh đã không im tiếng, trái lại, anh còn la to hơn trước. Bị xã hội chê cười, chối bỏ và anh đã sống cảnh đó trong bao năm. Anh nhất quyết gặp Đức Kitô để có đời sống mới tốt lành hơn. Anh biết đám đông không giúp anh, mình anh không đủ khả năng thay đổi kiếp sống đoạ đầy nên anh quyết tâm gặp Đức Kitô xin Ngài giúp. Nghe người ta ồn ào nói về Đức Kitô, anh biết Ngài sắp đi ngang qua và anh lên tiếng nài van: ‘Lậy Đức Kitô, con Vua Đavít, xin thương đến con’ c.47. Chúng ta không biết bởi đâu anh mù biết Đức Kitô thuộc dòng dõi vua Đavít nhưng vương hiệu hoàng tộc đó đóng vai trò quan trọng vào cuối đời của Đức Kitô. Đám đông đón Ngài vào thành thánh Jerusalem như một quân vương thắng trận trở về. Philatô đối chất Đức Kitô là Vua dân Do Thái và tấm bảng ghi phía trên đầu thập tự ‘Vua Dân Do Thái’. Chúng ta cũng không rõ từ đâu anh mù nhận biết danh tánh Đức Kitô và tin chắc Đức Kitô có thể làm cho anh sáng mắt. Có lẽ anh nghe người ta nói nhiều về Đức Kitô và lòng anh ao ước được gặp Ngài và mong Ngài chữa mắt cho. Anh bị mù mắt, mù thể lí nhưng tâm linh anh không mù, mắt tâm linh anh sáng, nhận biết Đức Kitô, con vua Đavít, tâm anh tỏ bởi anh nhận biết sự thật. Xã hội coi khinh anh nhưng không thể cấm anh đến gặp Đức Kitô, nghe tiếng anh kêu gào Đức Kitô lên tiếng cứu anh. Đám đông trước là rào cản cấm anh lên tiếng, giờ họ lại hỗ trợ khuyến khích anh. Nghe tiếng Đức Kitô mời gọi anh vui mừng nhảy như sáo đến gặp Ngài. ‘Anh muốn ta làm gì cho anh?’ Đức Kitô hỏi thế. Anh biết rõ điều anh cần, anh xin cho được sáng mắt. Lời xin thật rõ ràng, ngắn gọn, mạch lạc. Có người xin được quyền thế, kẻ xin được giầu sang, kẻ xin được chức tước. Anh xin rất thực tế. Xin được sáng mắt và Đức Kitô đã thoả mãn lòng anh mong ước. Hành động vất áo choàng là dấu chỉ từ nay anh sống cuộc sống mới, trong sáng, thanh tao, không còn lệ thuộc vào chiếc áo choàng che nắng, chắn mưa nhưng anh có Đức Kitô dẫn đường, có bầu trời trong xanh bao bọc và đồng hành với môn đệ Đức Kitô. Đức Kitô trên đường vào thành thánh và cũng nơi đây Ngài trải qua đau khổ, cứu độ nhân trần. Người mù giờ sáng mắt chứng kiến những đau khổ Đức Kitô trải qua vì Ngài đến ban hy vọng, ủi an, xoá tan bóng tối. Chính anh cảm nhận điều đó trong đời và tiếp tục chứng kiến lòng nhân từ Đức Kitô qua đau khổ Ngài tự nguyện lãnh nhận. Chúng ta tự xét mình xem mình là người dẫn người khác đến Đức Kitô hay là rào cản ngăn người khác đến nhận ơn lành Chúa.
Rất nhiều người may mắn không bị mù loà, nhưng hầu như ai cũng có lúc bị mù quáng. Người mù quáng dễ dàng thấy rõ những sai lầm của người khác nhưng mù tối về những sai lỗi của mình. “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng”.
Vua Đa-vít được xem là một vị vua khôn ngoan, dũng cảm và đức độ; thế nhưng nhà vua cũng có lúc bị mù quáng nặng nề. Dù đã có nhiều thê thiếp, nhưng vua lại chiếm đoạt bà Bát-sa-bê là vợ của Uria và sau đó lại mượn tay quân thù giết chết chồng bà để chính thức cưới lấy bà nầy làm vợ. Thế là cùng một lúc vua đã phạm hai tội ác tầy đình: tội ngoại tình và tội giết người. Ấy thế mà vua vẫn ung dung như không có gì xảy ta. Sau đó, Thiên Chúa sai tiên tri Na-tan đến cảnh tỉnh nhà vua. Tiên tri nói với vua:
Trong thành kia, có một người giàu có đến cả ngàn dê cừu. Trong khi đó, bên cạnh nhà ông ta có một ông lão nghèo khó và cô độc, chỉ có một con chiên nhỏ làm bạn cho vui tuổi già. Ông lão thương con chiên đó như con gái của ông. Ông cho chiên ăn trên tay và cho ở trong nhà. Thế rồi khi người giàu có khách, ông ta không chịu bắt chiên mình làm tiệc, trái lại, cho tôi tớ qua nhà ông lão nghèo khổ bắt con chiên độc nhất của ông nầy làm thịt đãi khách.
Nghe đến đây, vua Đa-vít bừng bừng nổi giận. Vua muốn trừng trị tức khắc tên bất lương đó. Nhà vua phán: “Nó đáng chết vì tội ác nó đã phạm. Nó phải bồi thường gấp bốn thiệt hại nó đã gây ra.” Bấy giờ tiên tri Na-tan mới tỏ cho vua biết tên bất lương đó chính là nhà vua và Chúa sẽ trừng phạt vua vì tội ác đã gây ra.
Vua Đavít bừng sáng mắt ra, thấy rõ tội ác của mình nên đã ăn năn thống thiết. (II Samuel 11, 1-12,12)
* * *
Tuy bị mù loà là một thua thiệt lớn, nhưng không đáng sợ bằng mù quáng, vì người mù loà chẳng gây hại cho ai, còn người mù quáng có thể gây ra vô vàn điều tai hại cho mình và cho xã hội. Mặt khác, người mù quáng không hề tự biết là mình mù quáng, vì thế sự chữa trị lại càng khó khăn hơn.
* * *
Đã mang lấy phận người, mấy ai không bị mù quáng? Nhưng nhận ra mình mù quáng và cần được cứu chữa cũng là điều rất khó khăn.
Điều kiện cần thiết nhất để được Chúa Giêsu cứu chữa là phải khao khát được sáng.
Anh mù Bartimê có lòng khao khát được sáng rất mãnh liệt. Khi anh ta nghe biết là có Chúa Giêsu đi ngang qua, anh ta liền cất tiếng kêu to: “Lạy ông Giêsu, con vua Đa-vít, xin hãy thương xót tôi”. Dù người qua kẻ lại quát mắng anh im đi nhưng không gì có thể dập tắt được khao khát được sáng bừng lên mãnh liệt trong lòng, nên anh càng la to hơn: “Lạy ông Giêsu, con vua Đa-vít, xin hãy thương xót tôi!
Thế rồi, khi được biết là Chúa Giêsu cho vời mình đến, anh vui mừng đến độ vứt cả áo choàng, vứt cả bị gậy để đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: Anh muốn tôi làm gì cho anh? Anh mau mắn thưa ngay: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy.”
Cầu được ước thấy, ánh sáng đã bừng lên cho anh. Anh thấy được Đức Giêsu, thấy mọi người chung quanh, thấy thế giới rực rỡ muôn màu.
Muốn được chữa lành bệnh mù quáng, chúng ta phải có lòng khao khát mãnh liệt được sáng như anh mù Bartimê. Lòng khao khát đó sẽ thúc đẩy chúng ta đến với Đức Giêsu là Ánh Sáng đích thật và Ánh Sáng của Ngài sẽ xoá tan sự mù quáng đang vây phủ lòng trí chúng ta. Khi đó, chúng ta sẽ tránh được rất nhiều điều đáng tiếc và đáng hổ thẹn trong đời mình.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở Anh Quốc. Mỗi sinh viên được phát một nón bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước nón có gắn bóng đèn nổi với một bình điện đeo ở thắt lưng.
Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên nón bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.
Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: “Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên nón”. Mọi người đều làm theo. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: “Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn”. Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: “Đây là tình trạng của những người mù”. Tất cả sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.
*****
“Có đau mắt mới biết thương người mù”. Các sinh viên trong câu chuyện trên đây đã cảm nghiệm trong giây lát nỗi khổ của người mù. Họ không chỉ khổ nơi thân xác mà còn khổ trong tâm hồn. Quả thật, người mù đã không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn ngắm người thân bạn bè, mà còn bị mặc cảm lệ thuộc kẻ khác, sống bên lề xã hội.
Hôm nay Đức Giêsu chữa người hành khất mù Báctimê. Anh mù loà, “ngồi bên vệ đường” ăn xin, nghe biết Đức Giêsu đi qua, anh thống thiết kêu van: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót con” (Mc.10,47). Người ta ngăn cấm anh, nhưng anh càng tin tưởng kêu to hơn: “Hỡi con vua Đavít, xin thương xót con”. Người cho gọi anh, anh sung sướng, liệng áo choàng, đứng phắt dậy, đến cùng Người: “Lạy Thầy, xin cho con được sáng” (Mc.10,51). Tức thì anh ta thấy được.
Và khuôn mặt đầu tiên anh nhìn thấy chính là Đức Giêsu, Đấng đã đến để thắp sáng đời anh. Người phán: “Đức tin của anh đã chữa anh” (Mc.10,52).
Đích thực, Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt Đức tin, vì anh đã thấy Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế khi gọi Người là “con vua Đavít”.
Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt tâm hồn, vì anh đã thấy Đức Giêsu là người có quyền chữa anh khỏi bệnh mù loà.
Với đôi mắt đức tin, anh đã chẳng sợ người ta cấm cản. Càng đe dọa, anh càng lớn tiếng kêu xin thống thiết hơn.
Với đôi mắt đức tin, anh đã liệng bỏ áo choàng là phương tiện để nhận quà tặng, cởi bỏ đời sống ăn xin, từ bỏ thân phận mù loà, rũ bỏ đời sống tối tăm, đến miền ánh sáng tình yêu và sự sống.
“Lạy Thầy, xin cho con được thấy”. Đó phải là lời cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Vì sẽ có những lúc chúng ta không thấy, hoặc cố ý không muốn thấy. Có những lúc chúng ta thấy mặt này mà chẳng thấy mặt kia. Mù loà thể xác ai cũng biết, nhưng mù loà tâm hồn thì không dễ nhận ra. Nên chúng ta hãy xin Chúa xóa cảnh mù loà cho mình. Vì chỉ “trong ánh sáng của Chúa, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng”.
***
Lạy Chúa,
Xin cho mắt tâm hồn chúng con được sáng, để chúng con thấy Chúa là tất cả, thấy anh em thật dễ mến dễ thương, và thấy mình càng nhỏ bé đi, trong bàn tay yêu thương của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Con mắt là đèn soi cho thân xác con. (Mt 6, 22)
Christine Hà, cô gái khiếm thị đầu tiên tham dự chương trình MasterChef đã khiến mọi người phải kinh ngạc, vì tài năng và nỗ lực hiếm có của cô và giành được giải quán quân Vua đầu bếp Mỹ lần thứ ba, vượt qua hơn 100 đầu bếp của nước Mỹ, vừa diễn ra vào tối 10/9/2012.
Trong vòng chung kết, hai thí sinh được yêu cầu nấu 3 món ăn trong vòng hai giờ. Các món của Hà được đánh giá cao về cân bằng dinh dưỡng và thực hiện hoàn hảo, mà cô miêu tả là ” bản giao hưởng của những hương vị”.
Khi 19 tuổi, Hà được chẩn đoán mắc một chứng bệnh về thị giác rất hiếm gặp khiến cô bị rối loạn khả năng tự miễn dịch và dần dần các dây thần kinh thị giác, và một số dây thần kinh trong tủy sống bị tê liệt. Thị lực của cô mất dần kể từ năm 1999 và hoàn toàn mất hẳn vào năm 2007.
Trước đây, Hà không biết nấu ăn và mới chỉ cách đây vài năm cô mới bắt đầu khởi động từ những món ăn đơn giản nhất. Cô mày mò tự học, dù trước đó cô chưa trải qua một trường lớp, hay được một vị đầu bếp nào đứng ra dạy bảo.
Tường thuật Tin Mừng hôm nay, kể về anh chàng Batimê cũng mù lòa, ngồi ăn xin bên vệ đường, đã phải cố gắng vượt qua những rào cản của đám đông, đe dọa, cấm đoán, để xin Chúa Giêsu cứu chữa.
Mù mắt sáng lòng
Tuy bị tách ra khỏi cộng đồng xã hội, ngồi ăn xin vất vưởng vệ đường với đôi mắt mù lòa, anh Batimê vẫn nóng bỏng niềm hy vọng được cứu chữa. Dù hẩm hiu số phận, anh vẫn chờ đợi và sẵn sàng tỉnh thức, đón nhận phúc lành. “Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêricô, anh nghe nói đó là Đức Giêsu Nazaret, anh ta liền kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con Vua Đa vít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10, 46-47)
Cũng như cô Christine Hà mù lòa, chàng Batimê được Thiên Chúa bù đắp lại bằng các giác quan còn lại phát triển hơn người bình thường. Điều khác biệt giữa chàng Batimê và cô Christine Hà, là kết quả nhận được, một bên chỉ là tiền bạc, danh vọng phù vân và bên kia kho tàng viên mãn đời đời.
Nhưng tại sao cả đám đông đang mải mê đi theo Chúa, không một ai công khai xưng tụng danh Chúa Giêsu là Con Vua Đa vít? Đó là tước hiệu của Đấng Mêsia trong dân gian, mà Chúa Giêsu, trong các chương Tin Mừng Mác Cô trước đây, đã cấm quỷ và người được hưởng phép lạ, cũng như chính các môn đệ, nói ra Người là ai. Nhưng ở đây, chàng Batimê thoải mái gọi Người ngay giữa đám đông bằng tước hiệu Mêsia, thì Người không cấm nữa. Có lẽ vì lời tuyên xưng đó phát xuất từ Niềm Tin mạnh mẽ, không phải cậy nhờ vào các phép lạ hay dư luận. Trong khi đó, các thầy tư tế, Biệt phái, luật sĩ đang ráo riết phủ nhận Người là Đấng Mêsia. Nên ai dám khẳng định điều đó, thì đương nhiên gây thù chuốc oán với họ.
Chính Đức Tin đã soi sáng cho anh Batimê nhìn thấy Đấng Mêsia, đã ban cho anh thêm sức mạnh, dũng cảm tuyên xưng thánh danh Người. Chính Đức Tin đã thúc đẩy anh công khai cầu xin Chúa, không e ngại bị gây khó dễ, bắt nạt, đàn áp, không sợ bị bịt miệng vì công bố sự thật thánh thiêng. Chính con mắt Đức Tin đã soi đường chỉ lối cho anh.
Vượt qua thách đố
Hành trình của anh Batimê đến với Chúa Giêsu, lại còn tiếp tục chịu nhiều thách đố trở ngại, tưởng chừng không thể vượt qua nổi. Đám đông xúm xít rẻ rúng, khinh rẻ, hoặc nghi ngờ, cũng như cảnh giác anh ăn xin Batimê nghèo nàn rách rưới, hôi hám, dơ bẩn, ngăn cản anh lại gần Chúa Giêsu. Dẫu vậy, anh cứ la lên, lớn tiếng, kêu xin Chúa rủ lòng thương anh. “Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: Lạy Con Vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10, 48)
Nếu anh Batimê không dốc lòng, dốc sức kêu van thống thiết, thì liệu anh có át nổi tiếng những tiếng hỗn loạn, đe nạt của đám đông, để thấu nổi đến tai Chúa chăng? Dẫu vậy, Người không bao giờ bỏ quên những người khốn cùng, bệnh hoạn, tật nguyền, như mù, què, câm điếc, phong hủi.
Nhưng nếu anh cứ do dự, yếu bóng vía, sợ hãi các thế lực đàn áp, những lời hăm dọa, quát nạt, không còn tin tưởng, trôngcậy vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa Giêsu, thì liệu anh được đoái thương chăng?
Đáp lại Ơn Gọi
Đức Giêsu đứng lại và nói: ”Gọi anh ta lại đây!”Người ta gọi anh mù và bảo: ”Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. (Mc 10, 49-50)
Nghe tiếng gọi, anh Batimê vội vàng đáp lại, bỏ ngay những gì đang cản trở, thoát khỏi sự níu kéo, ràng buộc vào vật chất, tiện nghi, áo choàng vướng víu, đứng phắt dậy, dứt khoát mau chóng đến với Chúa. Chứng tỏ lòng nhiệt tình, lòng thành tâm sôi sục, sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi.
Dù anh mù lòa, nghèo nàn, bộ dạng xấu xí, thảm não, nhưng lòng anh rạng ngời, luôn sẵn sàng rộng mở, nhạy bén đón nhận Ơn Gọi. Anh đã hân hoan, mừng rỡ nhận lãnh phước lành.
Hai con mắt hướng dẫn chúng ta trên con đường đi tới Nước Trời là con mắt của đức Tin và đức Mến. Lòng tin càng mạnh mẽ và lòng mến càng nồng nàn thì đường đi càng sáng sủa và chắc chắn. (DC de Ségur)
Dứt khoát đi theo Chúa
Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”Anh mù đáp: ”Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.”Người nói: ”Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi. (Mc 10, 50-52)
Từ lòng Tin, niềm trông Cậy, lửa Mến đã cháy bừng trong tâm hồn anh. Batimê đã được giải thoát khỏi sự u mê, tăm tối, khỏi ách satan ma quỷ giam cầm anh trong bóng đêm dày đặc tội lỗi. Nay anh đã thấy ánh sáng nẻo ngay, chân lý, sự sống viên mãn, sẵn sàng can đảm đi theo Chúa.
“Hãy theo Thầy!” các Tông đồ đã bỏ mọi sự theo Chúa. Con có dứt khoát một phen theo Chúa không? Chúa phải gọi con mấy lần rồi? (ĐHV, 61)
Lạy Chúa, xin cho con luôn sáng lòng, để thoát khỏi u mê tội lỗi giam cần vây hãm, để con nhận ra tiếng Chúa gọi, mà đi theo Chúa mãi.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ soi sáng lòng trí con luôn nhận ra ánh sáng ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu, đang mời gọi, mong chờ con tìm đến, để kết hợp sống chặt chẽ với Người. Amen.
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Trở lại Assisi, một tối kia bè bạn đặt chàng Phanxicô đứng đầu để chi tiêu thỏa thích. Chàng cho dọn một bữa tiệc thịnh soạn như chàng vẫn thường làm trong quá khứ. Ăn uống no nê xong, họ kéo nhau ra khỏi nhà. Đám bạn đi phía trước, vừa đi vừa ca hát qua các ngả đường thành phố. Tay cầm cây trượng thủ lãnh, chàng lùi lại sau họ một ít, không ca hát nhưng mải miết suy tư. Bỗng nhiên chàng được Chúa viếng thăm. Chúa đổ đầy tâm hồn chàng một sự êm dịu lớn lao đến mức chàng không nói năng, hay cử động gì được. Chàng không thể cảm nghiệm và nghe thấy gì khác ngoài sự êm dịu kỳ lạ này, nó khiến chàng thoát ra ngoài mọi cảm giác. Và như Phanxicô sau này cho biết, giả sử lúc đó người ta có định xẻ thịt mình, thì chàng cũng không thể nào cử động được.
Khi các bạn ngoảnh lại và thấy chàng cách họ khá xa, họ liền quay trở lại, ngạc nhiên vì thấy chàng đã biến đổi thành một con người khác. Họ hỏi chàng: “Anh nghĩ ngợi gì mà không đi theo chúng tôi? Có phải đang tính đến chuyện cưới vợ không?” Chàng mạnh dạn trả lời: “Các bạn nói đúng đấy! Tôi đang nghĩ đến việc cưới một người vợ quí phái, giàu sang và kiều diễm hơn bất cứ người nào các bạn đã từng thấy.” Họ cười nhạo chàng. Thực ra chàng nói câu ấy không phải tự ý mình, nhưng do được Thiên Chúa linh ứng, vì vị hôn thê là đời sống tu trì chân thực, mà sau này chàng sẽ noi theo, một vị hôn thê quí phái, giàu sang và kiều diễm hơn nhờ có đức khó nghèo.
Kể từ giờ phút ấy, chàng bắt đầu coi thường bản thân và khinh chê những gì trước đây chàng ưa thích. Vì chưa hoàn toàn tách khỏi các sự phù vân của thế gian, nên sự biến chuyển vẫn chưa trọn vẹn. Tuy nhiên chàng cũng dần dần rút lui khỏi cảnh huyên náo và bon chen của trần thế và chăm chú tìm kiếm Chúa Giêsu Kitô trong con người nội tâm. Để che giấu khỏi tầm mắt những kẻ thích nhạo cười viên ngọc quí, mà chàng đem bán mọi tài sản để mua lấy, chàng thường xuyên và gần như mỗi ngày, lánh mình cầu nguyện ở nơi kín đáo. Chàng được thúc đẩy làm như vậy, vì chính niềm êm dịu đã được nếm trước đó. Nay niềm êm dịu ấy lại viếng thăm chàng thường xuyên hơn nữa, cuốn hút chàng vào cầu nguyện ngay giữa quảng trường hay giữa những nơi công cộng khác.
Mặc dầu từ lâu chàng đã là ân nhân của người nghèo, nhưng kể từ đấy, chàng quyết tâm không bao giờ từ chối bất kỳ người nghèo nào đến xin bố thí nhân danh Chúa, trái lại còn sẵn lòng cho rộng rãi hơn thường lệ. Như thế, mỗi lần có kẻ nghèo đến xin ngoài đường, chàng đều lấy tiền cho. Nếu không sẵn tiền, chàng lấy mũ hay giây thắt lưng của mình cho người ấy, để chắc chắn là người ấy không ra về tay không. Nếu không có cả những thứ ấy, chàng không ngần ngại đến một chỗ khuất, cởi áo ra, đem trao cho người nghèo và năn nỉ người ấy nhận lấy vì lòng mến Chúa. Chàng cũng mua cả những vật dụng để trang hoàng nhà thờ, và kín đáo gởi các thứ đó đến các linh mục nghèo túng. (Truyện thánh Phanxicô do ba người bạn thuật, Ofmvn.org)
Chàng công tử hào hoa Phanxicô thành Assisiô bất ngờ nghe tiếng Chúa gọi. Chàng cảm thấy ngây ngất, hạnh phúc vô cùng. Con tim mù lòa của chàng được hào quang Nước Trời chiếu dọi vào, trở nên ấm áp lạ lùng. Bỏ mặc những tiếng cười chê của bạn bè, thị phi của thiên hạ, chàng Phanxicô can đảm canh tân cuộc đời, y như anh chàng mù Bartimê được Chúa cho sáng mắt.
Tin Mừng Chúa nhật 30 hôm nay, Thánh sử Máccô thuật lại hành trình đức tin của chàng hành khất Bartimê mù lòa. Công khai hóa niềm tin, tích cực khấn xin chữa lành, anh tìm đến Đức Giêsu, vượt qua gian nan, thử thách, dám từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa.
Tin Người
Giữa đám đông chen chúc, hỗn độn, ô hợp, xô bồ, anh Bartimê mù lòa đang ngồi ăn xin bên vệ đường, được biết Đức Giêsu đi ngang qua, liền cất lên tiếng cầu khẩn: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương con.” (Mc 10, 46-47) Tiếng kêu tha thiết, mãnh liệt, tràn đầy tin cậy, tưởng chừng lạc lõng, bị lấn át đi, chẳng ai có thể nghe được. Không bỏ cuộc, anh lại lớn tiếng lập lại ước nguyện: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi.”
Hình như lời xưng tụng “Con Vua Đavít” không được đông đảo quần chúng đồng tình ủng hộ? Bởi vì thiên hạ đang mong đợi một Đấng Messia, cứu nhân độ thế, giải phóng Israel khỏi ách nô lệ Roma, phải uy nghi, hùng dũng, tiền hô hậu ủng, chứ không phải ông Giêsu Nazareth bình dân bụi đời. Mặc cho quần chúng sáng mắt nhưng tối lòng, đang vây quanh Đức Giêsu, dọa nạt, cưỡng bức Bartimê phải im lặng, anh vẫn không chịu khuất phục, càng khẳng định, xưng tụng, gào to hơn: “Con vua Đavít!” càng van xin lòng thương xót của Đấng Cứu Thế. Như ánh sáng chói lọi giữa đêm u ám kiếp mù lòa, đức tin anh Bartimê bỗng rạng ngời bừng sáng, không cần giấu diếm, che đậy, không đắn đo, không khôn ngoan theo thế gian, bất chấp những đòn trả thù dã man của những kẻ quá khích kình chống Đức Giêsu, đang lởn vởn vây quanh gầm ghè hăm dọa. Bartimê vẫn anh dũng tuyên xưng đức tin.
Tìm Người
Mặc dầu nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi.” Giữa tiếng ồn ào, giữa đám đông huyên náo, giữa xã hội nhiễu nhương, đa dạng, Đức Giêsu vẫn luôn lắng nghe, luôn thấu hiểu, luôn đáp lại bất cứ ai khẩn cầu Người, cần đến Người cứu chữa, giúp đỡ, che chở. Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh.” Không bao giờ Người phụ lòng bất cứ một ai chân thành tìm đến Người cứu giúp. “Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giêsu.”
Vượt qua những rào cản hữu hình, vượt qua nỗi sợ hãi đến với Đức Giêsu, anh Bartimê còn can đảm vất bỏ đi tấm áo choàng bất ly thân của anh, vốn gắn bó che thân và mưu sinh. Cương quyết bỏ đi tất tần tật những gì vương vấn, vướng víu, trở ngại để đến với Chúa. Đức tin trưởng thành của anh dẫn đến hành động xả kỷ rất quyết liệt, rất dũng cảm, không chút e dè, chần chừ, so đo, tính toán: “đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giêsu,” dứt khoát bỏ mình, dấn thân theo Chúa. Hành trình đức tin khi này đưa Bartimê đến tầm cao mới, thoát khỏi sự lệ thuộc vật chất tầm thường. Thánh Phanxicô cũng đã noi gương anh Bartimê, cho đi áo quần, giày mũ, của cải, để hân hoan, thảnh thơi đi theo Chúa.
Theo Người
Chúa Giêsu đáp: “Được, đức tin của anh đã chữa anh.” Tức thì anh ta thấy được và đi theo. Dù hoàn toàn hiểu nguyện vọng của anh, Đức Giêsu vẫn tôn trọng tự do của anh, muốn chính anh bộc lộ ra công khai. Rồi chính quyền năng Người đã cứu chữa anh sáng mắt, nhưng Người nhấn mạnh đó là thành quả của đức tin đáng được tưởng thưởng của anh Bartimê. Một sự khiêm tốn cả thể và một tầm quan trọng vô cùng của đức tin.
Hành trình đức tin của Bartimê bắt đầu từ lặn lội đi tìm Chúa, vượt qua gian khó, thử thách, từ bỏ mình, khám phá ra Ánh Sáng, được chiếu sáng cả thân xác lẫn tâm hồn, được nhận biết chân dung nhân ái của Đức Giêsu, tiếp tục dìu dắt anh đồng hành cùng Người, hướng về Giêrusalem theo Thánh Ý Đức Chúa Cha.
“Quyết định theo Chúa của con không phải chỉ là một chữ ký, không phải là một lời tuyên thệ thôi. Nhưng là một sự hiến dâng liên lỉ thực hiện trong cả cuộc sống.” (Đường Hy Vọng, số 69)
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con trở nên chàng Bartimê mới, biết tin yêu lắng nghe, từ bỏ của cải, bươn chải tìm đến Chúa, hội ngộ với Chúa, được chiếu sáng tâm hồn và được đồng hành với Chúa trên đường hy vọng.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã từ bỏ mọi sự thế gian, dâng hiến trọn đời theo Chúa, xin cầu bầu cứu giúp chúng con thoát khỏi đêm đen đầy ma lực cám dỗ, để tỉnh thức tìm đến Ánh Sáng Chúa Kitô. Amen.
(Suy niệm chú giải Lời Chúa CN XXX TN B – Lm. Inhaxio Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX này có chung một chủ đề: tấm lòng của Thiên Chúa đối với nỗi khốn cùng của nhân loại.
Gr 31: 7-9
Bài Đọc I được trích từ sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Vị ngôn sứ ca ngợi tấm lòng ưu ái của Đức Chúa. Ngài đã bày tỏ tấm lòng phụ tử đối với những người lưu đày khi đích thân dẫn đưa họ trở về quê cha đất tổ.
Dt 5: 1-6
Thư gởi tín hữu Do thái so sánh Đức Giê-su với vị thượng tế Cựu Ước. Đức Giê-su là vị Thượng Tế Tân Ước thập toàn biết cảm thông những yếu đuối của con người.
Mc 10: 46-52
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đã lắng nghe lời khẩn cầu đầy lòng tin của anh mù thành Giê-ri-cô và đã đáp trả ước nguyện của anh.
BÀI ĐỌC I (Gr 31: 7-9)
Bản văn nầy được trích từ chương 31 sách Giê-rê-mi-a. Chương 31 nầy liên kết với chương 30 trước đó để hình thành nên một đơn vị. Đây là một trong những bản văn cảm động nhất mà vị ngôn sứ viết để ca ngợi tấm lòng phụ tử của Thiên Chúa.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem vào khoảng những năm 626-587 trước Công Nguyên. Ông đã chứng kiến những năm tháng bi thương của đồng bào ông dưới gót dày xâm lược của đế quốc Ba-by-lon, nào cảnh nước mất nhà tan, cảnh thành thánh đổ nát và cảnh Đền Thờ Giê-ru-sa-lem hoang phế. Đây là thảm họa mà ông có sứ mạng báo trước, nhưng đồng bào ông đã để ngoài tai những lời cảnh báo của ông.
Trước khi những biến cố bi thảm nầy xảy đến, ông đã trải qua một thời kỳ hạnh phúc dưới triều đại của vua Giô-si-gia-hu (522-509 tCn.). Chính vào thời kỳ nầy mà bản văn hân hoan nầy được viết, chủ yếu liên quan đến những dân cư Ga-li-lê và Sa-ma-ri. Vào thế kỷ trước đó, hai miền này đã bị đế quốc Át-sua xâm chiếm và một phần dân cư đã bị dẫn đi lưu đày. Ấy vậy, đế quốc Át-sua trở nên suy yếu và không còn đủ sức bành trướng. Nhờ đó, vua Giô-si-gia-hu mới có thể thực hiện công cuộc canh tân cải tổ toàn diện của mình trên toàn cõi đất nước.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a tràn đầy hy vọng. Phải chăng giờ phục hưng Ít-ra-en và thống nhất dân Thiên Chúa đã điểm? Ông mơ ước, ít ra một sấm ngôn bày tỏ niềm mơ ước này được gặp thấy ở chương 30-31. Cùng chung nhịp với tấm lòng của Thiên Chúa, vị ngôn sứ phác họa niềm cảm xúc của Đức Chúa trước cảnh khốn cùng của con cái Ngài (30: 1-11). Chắc chắn Ngài đã trừng trị họ vì những lỗi phạm của họ (30: 11, 15), nhưng Ngài không bao giờ ngừng yêu thương họ “bằng mối tình muôn thuở” (31: 3). Và Giê-rê-mi-a hình dung Đức Chúa kêu mời muôn dân: “Reo lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân tộc đứng đầu chư dân!”. Ít-ra-en được gọi “dân tộc đứng đầu chư dân”, vì dân này đã được Thiên Chúa tuyển chọn, tách riêng ra giữa muôn dân và được Ngài rất mực yêu thương.
“Nào loan tin, ca ngợi và công bố: Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn lại của Ít-ra-en”. “Số còn lại của Ít-ra-en” là những người đã kinh qua gian khổ của cuộc lưu đày, họ sẽ là chất xúc tác đối với toàn dân Chúa chọn. Cũng danh xưng nầy sẽ được dùng để gọi những người lưu đày ở Ba-by-lon vào thế kỷ sau đó.
“Nầy Ta đưa chúng từ phương Bắc trở về”: Đây là cách nói kinh điển để chỉ ách thống trị của ngoại bang, dù đế quốc Át-sua hay đế quốc Ba-by-lon. “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng”. Ngay cả những kẻ yếu nhược nhất, thông thường không thể tự mình trở về, Đức Chúa sẽ an ủi và nâng đỡ để không một ai vấp ngã trên đường, vì Đức Chúa là Người Cha tận tình săn sóc: “Vì đối với Ít-ra-en, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ép-ra-im chính là con trưởng”. Tên “Ép-ra-im” được dùng để chỉ toàn bộ các chi tộc phương Bắc và tước hiệu “con trưởng” để chỉ đứa con rất mực yêu dấu.
Niềm ước mơ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không được thực hiện. Đế quốc Ba-by-lon đã thay thế đế quốc Át-sua. Dân Ít-ra-en phải chịu cảnh đời nô dịch này thay thế cảnh đời nô dịch khác. Vì thế, những viễn cảnh tươi đẹp mà vị ngôn sứ phác họa chỉ được ứng nghiệm sáu mươi năm sau thời kỳ lưu đày Ba-by-lon. Chính từ những viễn cảnh tươi đẹp này sẽ được ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ của thời lưu đày Ba-by-lon, lấy lại và khai triển những đề tài chứa chan hy vọng cho những người lưu đày Ba-by-lon. Tuy nhiên, trong trực giác sâu xa của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị đánh lừa. Khi mô tả tấm lòng phụ tử của Thiên Chúa: cảm thương thân phận con cái của Ngài, nhân loại vừa tội lỗi vừa đau khổ, vị ngôn sứ đã đem lại cho niềm ước mơ của mình một tầm mức mà chính ông không thể ngờ được, một tầm mức Mê-si-a.
BÀI ĐỌC II (Dt 5: 1-6)
Trọng tâm của Thư gởi tín hữu Do thái là sứ vụ của Đức Ki-tô, vị Thượng Tế thập toàn và trổi vượt vô vàn so với vị Thượng Tế Cựu Ước.
Hai khía cạnh chủ yếu tiêu biểu chức tư tế: một mặt, vị Thượng Tế nào cũng là người được chọn trong số phàm nhân; mặt khác, ông là người của Thiên Chúa, người trung gian giữa con người và Thiên Chúa. Dưới ánh sáng của hai khía cạnh nầy, tác giả đối chiếu tấm lòng biết cảm thông với con người yếu đuối và tội lỗi giữa vị thượng tế Cựu Ước và Đức Ki tô, vị thượng tế Tân Ước.
Tác giả nhấn mạnh những phẩm chất phàm nhân của vị thượng tế Cựu Ước: là một con người như bao nhiêu người khác, ông chia sẻ những yếu đuối của con người; ông lại càng cảm thông hơn nữa với những tội lỗi của họ bởi vì chính ông cũng là một tội nhân: “Mà vì yếu đuối, nên ông phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy”. Không ai có thể tự phong cho mình là người của Thiên Chúa, nhưng phải lãnh nhận chức vị nầy từ chính Thiên Chúa. Thật ra, chức thượng tế Cựu Ước là một chức vụ cha truyền con nối. Thiên Chúa đã chọn ông A-ha-ron một lần cho tất cả, bao gồm hậu duệ của ông (Xh 28: 1 và Lv 18: 1-13).
Tác giả sẽ đối lập vị Thượng Tế biết cảm thông của Cựu Ước với Đức Ki tô, vị Thượng Tế biết cảm thương của Tân Ước. Ông tiến hành theo trật tự đảo ngược khi bắt đầu gợi lên lễ tấn phong của Đức Ki-tô với hai đặc tính biệt phân: trước hết, Đức Ki-tô là một vị Thượng Tế có phẩm chất khôn sánh, vì Ngài là Con Thiên Chúa; thứ nữa, Đức Ki-tô là vị Thượng Tế không theo phẩm trật A-ha-ron, nhưng theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.
Khi bắt đầu gợi lên tính siêu việt của chức tư tế Đức Ki-tô, tác giả thư gởi tín hữu Do thái lưu ý rằng Đức Ki-tô là vị Thượng Tế biết cảm thông tuyệt vời vì Ngài là Đấng Trung Gian trực tiếp lòng xót thương của Thiên Chúa. Chức tư tế độc nhất vô nhị của Đức Ki-tô diễn tả một chuyển động từ trên xuống: tấm lòng Phụ Tử của Thiên Chúa đối với con người.
Quả thật, chính từ sáng kiến của Chúa Cha mà Chúa Con nhận được lễ tấn phong của mình. Tác giả trích dẫn Tv 2 để làm chứng: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con”. Thánh Vịnh nầy là một trong những Thánh Vịnh phong vương. Thời quân chủ Đa-vít, vào ngày lễ phong vương, vị tân vương được công bố là Thiên Tử. Tước hiệu Thiên Tử của vị tân vương là biểu tượng, còn tước hiệu Thiên Tử của Đức Ki-tô mới là đích thực. Tước hiệu Thiên Tử của Chúa Giê-su không chỉ hàm chứa biến cố Nhập Thể (“Cha đã sinh ra con”) nhưng còn tính cách vương đế của Ngài. Đức Ki-tô vừa là vương đế vừa là thượng tế, như vậy làm trọn niềm ước mơ Mê-si-a.
Đức Giê-su không thuộc chi tộc Lê-vi, vì thế, Ngài không thể tự nhận mình là thượng tế theo luật Mô-sê. Chức tư tế của Ngài thuộc phẩm trật khác, phẩm trật Men-ki-xê-đê. Men-ki-xê-đê là một nhân vật huyền nhiệm mà sách Sáng Thế nói về ông (14: 18-20). Ông vừa là “vua thành Sa-lem” (thành Giê-ru-sa-lem tương lai) vừa là “tư tế của Thiên Chúa Tối Cao”. Chính ông đã chúc phúc cho ông Áp-ra-ham và đại diện vị tổ phụ, tiến dâng bánh và rượu lên Thiên Chúa. Còn ông Áp-ra-ham thì biếu tặng cho “con người của Thiên Chúa” nầy một phần mười chiến lợi phẩm của mình.
Truyền thống đối lập chức thượng tế A-ha-ron với chức thượng tế Men-ki-xê-đê. Chức thượng tế Men-ki-xê-đê thì không giới hạn, không lai lịch, muôn đời, có nguồn gốc thiên giới. Chính ở nơi mẫu thức chức thượng tế Men-ki-xê-đê nầy mà Tv 110 quy chiếu đến: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Tv 110: 4). Thánh Vịnh này, cũng là một Thánh Vịnh phong vương, loan báo vị thượng tế lý tưởng trong tương lai, vì thế, Thánh Vịnh nầy cũng mang một cung giọng Mê-si-a. Những sấm ngôn nầy được ứng nghiệm nơi Đức Ki-tô, Ngài là vị Thượng Tế biết cảm thông với những yếu đuối và tội lỗi của con người và Ngài là Đấng Trung Gian muôn đời bên cạnh Chúa Cha.
TIN MỪNG (Mc 10: 46-52)
Việc chữa lành anh mù thành Giê-ri-cô được cả ba sách Tin Mừng nhất lãm thuật lại (tại Mát-thêu, có đến hai người mù được chữa lành). Câu chuyện nầy có một tầm quan trọng đặc biệt, bởi vì nó đóng chức năng như bản lề giữa lời loan báo thứ ba về cuộc Thương Khó và cuộc khải hoàn của Đức Giê-su vào thành thánh Giê-ru-sa-lem.
Chúa Giê-su rời thung lũng sông Gio-đan và trực chỉ tiến về thành thánh Giê-ru-sa-lem, băng qua thành Giê-ri-cô. Chính ở thành Giê-ri-cô nầy mà vào thời điểm lễ Vượt Qua những người hành hương từ khắp nơi quy tụ lại trước khi cùng nhau lên thành thánh Giê-ru-sa-lem, cách đó khoảng hai mươi sáu cây số. Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài cùng với đám đông đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. Vì thế, việc thánh ký ghi nhận “Đức Giê-su cùng với đám đông dân chúng ra khỏi thành Giê-ri-cô” phù hợp với khung cảnh của khách hành hương trước đại lễ Vượt Qua.
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và anh mù thành Giê-ri-cô được mô tả rất sinh động và ngoạn mục. Mọi người đang lũ lượt kéo nhau đi trong khi anh ngồi mà lại ngồi một mình bên vệ đường. Tư thế này diễn tả cảnh ngộ của anh, anh hoàn toàn bị gạt ra ngoài cuộc sống, bị khai trừ khỏi cộng đoàn đang nhộn nhịp lên đường lên Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, anh không cam chịu số phận bị khai trừ của mình. Anh lắng nghe dư luận quần chúng, nhờ đó biết rằng Đức Giê-su đang đi qua đây; vì thế, lòng anh tràn đầy hy vọng. Chắc chắn anh đã nghe nói về việc ông Giê-su Na-da-rét nầy đã mở mắt cho nhiều người mù. Vì thế, anh kêu to và bạo dạn gọi Đức Giê-su là “Con vua Đa-vít”, tước hiệu của Đấng Mê-si-a mà dân chúng từ lâu mong đợi (2Sm 7: 1-17). Nhiều người quát nạt bảo anh im đi. Đám đông trở nên chướng ngại ngăn cản anh đến với Đức Giê-su. Nhưng mặc kệ, không chịu thua cuộc, anh mù lại càng kêu gào hơn nữa át cả những lời quát tháo ngăm đe của đám đông để làm thế nào lời kêu cứu của anh đến được với Đức Giê-su.
Đức Giê-su cứ để mặc anh mù kêu to tước hiệu Mê-si-a mà không đòi buộc anh phải im lặng như trước đây nữa. Thời kỳ nầy đã qua, thời Ngài đã cố giữ mầu nhiệm chung quanh con người của Ngài để tránh những giải thích sai lạc về sứ vụ Mê-si-a của Ngài. Giờ đây, Ngài đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường mặc khải tuyệt mức sứ vụ Mê-si-a của Ngài ở nơi biến cố Tử Nạn và Phục Sinh. Giờ của sự thật đã điểm. Chẳng bao lâu nữa dân thành Giê-ru-sa-lem sẽ tung hô Ngài dưới tước hiệu nầy.
Đức Giê-su không thể nào làm ngơ trước những tiếng kêu đầy niềm tin của anh mù thành Giê-ri-cô nầy được, vì thế, Ngài dừng bước và ra lệnh: “Gọi anh ta lại đây!”. Một lần nữa, Đức Giê-su biểu lộ cho thấy Ngài muốn liên lụy đến những kẻ mà người ta khăng khăng muốn khai trừ, loại bỏ. Đám đông tức khắc thay đổi thái độ từ ác cảm sang thiện cảm khi khuyến khích anh mù: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”.
Khi được Đức Giê-su gọi, “anh mù liền vất áo choàng lại”. Trong Kinh Thánh, y phục không chỉ để che thân nhưng nhất là tượng trưng cho nhân cách người mặc nó. Khi “vất áo choàng”, anh vất thân phận bị khai trừ của mình. “Áo choàng” cũng là của cải duy nhất mà người nghèo có (Xh 22: 25-26); đối với anh hành khuất mù này, áo choàng còn là phương tiện sinh sống, bởi vì người mù thường trải chiếc áo choàng ra trước mình để đón nhận của bố thí. Khi vất áo choàng, anh đã bỏ tất cả những gì anh có mà đến với Đức Giê-su. Đây đúng là lời đáp trả mà Đức Giê-su đã mong đợi nhưng không gặp thấy ở nơi chàng thanh niên giàu có. Anh “đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giê-su” trong khi mắt vẫn mù, thì đúng là thái độ của đức tin.
Khi diện đối diện với anh mù, Ngài hỏi anh: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Dĩ nhiên, Đức Giê-su biết rõ ước muốn của anh, nhưng Ngài luôn luôn tôn trọng sự tự do của những người đến gặp Ngài, vì thế Ngài muốn anh phải tự mình nói lên ước nguyện của mình: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Tác giả sách “Hạt Giống Nẩy Mầm” viết: “Đây cũng là lời cầu xin của các tín hữu trong cộng đồng của Mác-cô. Họ đang sống trong một thời kỳ bị bách hại, nghi kỵ và khinh miệt. Họ không biết phải sống như thế nào. Họ xin Chúa cho họ thấy con đường mà họ phải sống và đi theo Người. Một phần nào đó, tôi cũng không biết phải sống như thế nào trong hoàn cảnh hiện tại của tôi. Tôi hãy mượn lời anh Ba-ti-mê để cầu xin với Chúa: ‘Lạy Chúa, xin cho con được thấy’”.
“Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”. Lời của Đức Giê-su mặc lấy một chiều kích sâu xa bất ngờ đối với anh mù cũng như đối với đám đông vây quanh. Lệnh truyền “Anh hãy đi” hàm chứa một sứ mạng. Thay vì “lòng tin của anh đã chữa lành anh”, Đức Giê-su lại nói với anh: “lòng tin của anh đã cứu anh!”, nghĩa là, nhờ đức tin, Đức Giê-su không chỉ cứu chữa anh khỏi đôi mắt mù lòa của thể xác, mà còn ban cho anh ơn cứu độ mà Ngài đem đến nữa. Như vậy, anh mù không chỉ được sáng mắt mà còn sáng cả cõi lòng trước sứ điệp Tin Mừng.
Câu chuyện kết thúc với lời đáp trả tích cực của anh: “Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi”. Con đường mà Đức Giê-su đi là con đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường dẫn Đức Giê-su đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh. Đó cũng là con đường mà anh mù Ba-ti-mê vừa được sáng mắt đi theo Ngài để được dự phần vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Như vậy, câu chuyện kết thúc với việc ghi nhận rằng anh mù Ba-ti-mê được sáng mắt trở thành người môn đệ lý tưởng của Ngài, và chắc chắn vì lý do đó mà tên anh vẫn được truyền trong ký ức của các Ki-tô hữu tiên khởi.
Như vậy, câu chuyện anh mù thành Giê-ri-cô là dịp làm chứng về một đức tin năng động và kiên vững tương phản với tâm trí u mê mù tối của các Tông Đồ trước ba lần loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Thầy. Câu chuyện nầy cũng đã đánh dấu việc vén mở bí mật Mê-si-a, chuẩn bị cho việc dân chúng hân hoan đón tiếp Ngài vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Một lần nữa, chúng ta thấy nghệ thuật kể chuyện bậc thầy của thánh Mác-cô. Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Mác-cô là người kể chuyện với nhiều chi tiết sinh động nhất và phong phú nhất.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Anh mù ăn xin, con ông Timê, hôm nay được chữa lành. Khi được Đức Giêsu gọi, anh ta vui mừng đã vứt tung cả áo choàng để có thể mau đến với Đức Giêsu. Nhờ đức tin soi dẫn, anh ta đã được sáng.
Vào thế kỷ VI trước công nguyên, khi dân Do Thái đang lưu đày, Yêrêmia đã nói với tư cách ngôn sứ: Thiên Chúa sẽ đem dân Israel lưu đày trở về. Thiên Chúa sẽ cứu dân Người, số sót của Israel; ngay cả những người què và đui mù, phụ nữ với trẻ thơ, từng đoàn từng lũ kéo nhau về. Thiên Chúa sẽ an ủi dân Người khi Người đem họ về. Thiên Chúa sẽ dẫn họ tới suối nước, đi trên đường bằng phẳng kẻo họ bị vấp ngã, vì Thiên Chúa là cha của Israel.
Vì tội lỗi của dân, Thiên Chúa để dân Do Thái phải lưu đầy nơi đất khách quê người; và vì lòng nhân từ, Thiên Chúa đưa dân Israel trở về. Đây là những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho dân Do Thái trước mắt mọi dân tộc. Khi một dân bị lưu đầy giữa một dân tộc khác, họ sẽ bị kỳ thị, khinh bỉ, hà hiếp, và cảm thấy nhục nhã. Dân Do Thái đã một thời sống nơi đất khách quê người hơn bốn trăm năm, từ thời ông Giacóp và mãi đến thời Thiên Chúa dùng Môsê giải phóng dân Chúa khỏi Aicập và đưa về Đất Hứa. Lần này khi bị lưu đày ở Babylon, Thiên Chúa đã dùng vua người ngoại Kyrô đem dân Ngài trở về quê hương xứ sở. Được trở về quê hương, cũng tương tự như được giải phóng khỏi ách nô lệ, dân Chúa vui mừng dường bao!
Thiên Chúa là Đấng thương xót dân Ngài. Ngài rung động trước nỗi khổ của dân, và Ngài đáp cứu họ. Thiên Chúa tỏ cho dân biết Ngài là Thiên Chúa giầu lòng thương xót, quan tâm đến dân, muốn giải phóng dân thoát khỏi mọi nỗi khổ đau. Thiên Chúa rất gần con người, Ngài luôn ở bên con người để có thể nghe được tiếng họ kêu xin. Thiên Chúa là người kề cận, là người bạn, người anh, người cha và người mẹ đối với con người.
Đức Giêsu trong cuộc đời đi rao giảng, Ngài cũng rung động trước nỗi khổ của con người. Với người nghèo đói, Ngài cho họ cơm bánh; với những người bệnh tật như người mù, người bại liệt, người phong cùi, người điếc lác, Ngài chữa lành họ. Ngài đã trải qua kiếp nghèo nên Ngài dễ thông cảm với người nghèo; Ngài đã khổ nên Ngài dễ thông cảm với những ai đau khổ; Ngài được sinh ra trong hoàn cảnh cùng khổ nhất, nên có thể thông cảm với tất cả mọi người.
Người mù con ông Timê nghe biết Đức Giêsu đi ngang qua, anh ta kêu lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Người ta quát mắng bảo anh im đi, nhưng anh ta lại càng la to hơn: “Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Đây là tiếng kêu của người đau khổ, người cùng khốn, không biết nại vào điều gì để xin người khác ban ơn cho mình, chỉ còn biết nại vào lòng thương xót của người khác. Anh ta không có lý do gì để xin điều mình muốn xin, chỉ nhờ hoàn toàn vào lòng thương của người khác. Đức Giêsu là người cảm thương anh hơn cả; người khác quát mắng đòi anh im lặng nhưng Đức Giêsu thì khác. Người khác có thể không tin, nên đòi anh im lặng; còn anh, anh hy vọng, anh tin, nên anh càng la to hơn. Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi. Đức Giêsu dừng lại. Ngài đã nghe thấy tiếng kêu cứu, kêu xin Ngài cứu. Ngài không thể bước đi vì tiếng kêu xin này! “Gọi anh ta tới đây”. Anh ta mừng, nhẩy lên, vứt cả áo choàng. Hy vọng tràn trề: Ngài đã cho gọi anh, Ngài đã nghe tiếng anh, đã quan tâm tới anh. “Anh muốn ta làm gì cho anh? Lạy thầy, xin cho tôi được sáng”. Một câu quá ngắn, nhưng lại quá khó khăn đối với con người! “Lòng tin của anh đã cứu anh”.
Đức Giêsu là đại diện Thiên Chúa đối với con người. Ngài sống giữa con người như những người nghèo hèn nhất, cùng khốn nhất; Ngài có thể nghe tiếng kêu cứu của con người. Ngày xưa, Thiên Chúa đã nghe tiếng dân Israel kêu cứu khi phải sống lầm than ở Aicập, Ngài đã sai Môsê đi cứu họ; ngày nay, Thiên Chúa cũng luôn nghe tiếng kêu cứu của con người. Thiên Chúa cũng sai bao người đại diện Ngài thương cứu con người hôm nay. Mỗi người đều được Thiên Chúa mời gọi trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho tha nhân.
III. Đức Giêsu- Vị thượng tế cảm thông nỗi khổ đau của con người
Một người không thể là thượng tế theo ý mình muốn, nhưng là một ân huệ được Thiên Chúa trao tặng. Đó là một ơn gọi. Vị thượng tế cũng là một người như bao người khác, cũng yếu đuối và lỗi lầm, nên phải dâng lễ tạ tội cho dân và cho chính mình. Vị thượng tế là người thông cảm với người khác, vì chính ngài cũng cảm thấy mình mong manh mỏng dòn như người khác vậy. Vị thượng tế được chọn giữa bao người, để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người.
Tác giả thư Do Thái nhận ra Đức Giêsu Kitô là vị thượng tế; vị thượng tế này không phạm tội cho dù Ngài chia sẻ hoàn toàn thân phận con người. Vị thượng tế này rất gần con người cho dù Ngài không phạm tội, vì Ngài cũng chia sẻ tất cả những gì là con người. Ngài không là tội nhân vì phạm tội không thuộc về bản chất con người. Thiên Chúa không tạo dựng con người để con người phạm tội, nhưng tạo dựng con người để con người nên giống Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa.
Đức Giêsu Kitô là biểu lộ tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu thương cảm con người, tức là, Thiên Chúa thương cảm con người. Đức Giêsu là Thiên Chúa ở với con người: Thiên Chúa hiện diện với con người trong mọi nỗi gian khổ và thăng trầm của họ trong cuộc sống, Ngài đói với người đói, khát với người khát; Ngài đau với người đau, khổ với người khổ. Ngài muốn con người nhận ra rằng: Thiên Chúa yêu con người, và Thiên Chúa muốn con người ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình thương. Ai sống yêu thương là con cái Thiên Chúa. Ai yêu thương anh em là yêu thương Thiên Chúa. Thiên Chúa thương cứu con người nhờ Đức Giêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Tin mừng Mc 10: 46-52: Đoạn Tin Mừng hôm nay khi nghe biết Chúa Giêsu đang đi ngang qua, thì liền lớn tiếng kêu Người. Những người trong đám đông mắt sáng, đầy học thức và có công ăn việc làm, còn anh Bartimê chỉ là kẻ mù ăn xin lòng thương hại của mọi người…
Suy niệm:
Những lần đi mục vụ thăm viếng trong chương trình đào tạo tại Đại Chủng viện thánh Giuse Saigon, các Chủng sinh được dịp đặt chân tới địa chỉ Mái ấm Nhật Hồng, nơi những người khiếm thị sinh sống. Vừa bước vào, khi thấy những bạn nơi đây đang làm việc lúc trời chập choạng tối, một bạn trẻ bất chợt hỏi: “Sao anh không bật đèn lên cho sáng dễ làm”. Nói xong mới biết mình bị hố. Vâng, người bị mù thường được Chúa bù lại bằng khả năng nghe, cảm nhận rất tốt. Vì thế, có những việc người mắt sáng không thấy và nhận ra nhưng những người khiếm thị thì lại rất nhạy.
Chàng mù thành Giêrikhô trong đoạn Tin Mừng hôm nay khi nghe biết Chúa Giêsu đang đi ngang qua, thì liền lớn tiếng kêu Người. Những người trong đám đông mắt sáng, đầy học thức và có công ăn việc làm, còn anh Bartimê chỉ là kẻ mù ăn xin lòng thương hại của mọi người. Thế nhưng trong khi hầu hết mọi người xem Chúa là ông Giêsu Nazaréth, một người giảng dạy nổi danh thì chàng mù lại kêu lên cách xác tín với danh xưng khác hẳn: “Hỡi ông Giêsu con Vua Đavít, xin thương xót tôi”. Đó là một lời tuyên xưng của người mù giữa đám người mắt sáng về danh tính Mêssia của Chúa Giêsu.
Niềm tin là sự thể hiện giữa con người với nhau và có thể kiểm chứng bằng con mắt thể lý, còn đức tin là dựa vào con mắt thiêng liêng để cảm nhận, để xác tín. Anh mù nhận ra người mà mọi người vây quanh chính là Đấng mà Thiên Chúa hứa ban. Vì thế, anh bất chấp đám đông ngăn cản cũng như mắng anh im đi, anh càng hô to xác tín. Với những hành động của người mù được liệt kê trong Tin Mừng như kêu lên, rồi càng kêu lớn hơn, liệng áo choàng, đứng dậy, bước đến cùng Chúa Giêsu cho thấy từ một niềm tin vào một người mà anh nghĩ rằng có khả năng chữa khỏi bệnh mù thể lý đến một thái độ thể hiện đức tin rõ nét vào Đấng Thiên Sai được hứa ban xuất thân từ dòng dõi Đavid. Nhờ Đức tin ấy, chẳng những anh được chữa bệnh mù thể lý mà còn được sáng trong đức tin. Thánh sử Marcô đã ghi rõ tên người mù Bartimê vì anh sẽ là một trong những chứng nhân đức tin đầu tiên cho Chúa Kitô.
Vậy mới nói: “Mù không phải là bất hạnh; mà bất hạnh là có mặt như mù”. Con mắt sáng thể lý có khi lại là rào cản người ta đến với Chúa Giêsu vì sự mù lòa trong tâm hồn. Đây mới chính là dạng thức mù lòa khiếp sợ hơn rất nhiều. Một trong những cách biểu hiện của sự mù lòa tâm hồn là không nhận ra chân lý, không nhìn thấy tình thương, chẳng cảm nhận được những ơn lành trong cuộc sống mình được Chúa ban cho, và bị che mắt bởi những điều tốt đẹp của người xung quanh. Đây là dạng thức mù lòa của những người Biệt phái năm xưa mà Chúa nhiều lần sửa dạy. Nơi họ, vì tính tự kiêu, ganh tỵ, ý nghĩ chủ quan đầy thiển kiến, lời nói thiếu ý thức, sự phê bình chỉ trích kết án gây sứt mẻ mối tương quan, luôn lấy mình làm thước đo để định giá người khác khiến con người ta bị che mắt. Tật đui mù này có khi lại trở nên bệnh truyền nhiễm hay lân lan thêm do lời gièm pha, nói xấu sau lưng.
Vậy cùng nhìn lại chính mình xem trong từng lời ăn tiếng nói, cách cư xử, đời sống của chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa không? Và bản thân chúng ta có là rào cản hay là một nhịp cầu, qua đó giúp người khác đến với Chúa và Chúa đến được với anh chị em?
Trên phi thuyền Apolo 15, đại tá không quân James Irwin đổ bộ xuống mặt trăng cuối tháng 09/1971, ông đã sống trên nguyệt cầu suốt 78 giờ và trở về trái đất an toàn. Ngày 29/10/1972 phi hành gia James Irwin đến thăm Việt Nam trong chuyến du hành vòng quanh thế giới của ông để truyền giảng Tin Mừng. Xin trích một phần phỏng vấn phi hành gia James Irwin do phóng viên Nguyễn Văn An thực hiện: Một trong những câu hỏi: Chương trình không gian của Hoa Kỳ có đem lại tia sáng nào về sự sáng tạo vũ trụ không? James Irwin đáp: Tôi không biết câu nói đùa mà người ta nói về thuyết tiến hóa và thuyết sáng tạo, và tôi cũng không thể phát biểu cho các nhà khoa học gia khác. Tôi chỉ phát biểu cho chính cá nhân tôi là: James Irwin với kinh nghiệm của tôi, tôi không thể nào tin rằng tất cả trật tự hiện hữu trong vũ trụ là do tiến hóa mà có. Bất cứ một điều gì có thể nói tên, điều đó phải được hoạch định, phải được sáng tạo bởi Thiên Chúa trước đã.
Lạy Chúa, xin cho mỗi lần hợp dâng Thánh lễ với cộng đoàn, con ý thức hơn để khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối và lầm lỗi của mình, cũng như cần đến lòng thương xót của Chúa chữa lành khỏi những u mê nơi tâm hồn con. Xin Chúa khai sáng cặp mắt của tâm hồn con, để con biết sống tốt và nhận ra điều tốt nơi anh chị em con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
CÓ NHỮNG KẺ MÙ MÀ SÁNG MẮT. CÓ NHỮNG KẺ SÁNG MẮT MÀ MÙ.
Ngày xưa có một anh mù, mù cả 2 mắt, chẳng làm được gì. Sáng vợ dắt ra ngõ làng ăn xin, chiều vợ dắt về nhà ăn tối. Hai vợ chồng lương thiện sống an vui bên nhau. Một hôm, vợ bận việc không ra ngõ đón chồng về được. Chồng chờ mãi không thấy, dò dẫm tìm đường về. Lần mò thế nào mà lạc ngay vào rừng. Tối đến tiếng thú rừng kêu rống khiến người chồng sợ quá. Anh mò leo lên cây cao để tránh cọp. Đúng lúc đó, bầy quỉ ma đến hội họp dưới gốc cây. Chúng chỉ cho nhau biết chỗ giấu kho tàng và nói cho nhau hay cây thuốc quí có khả năng chữa bách bệnh, kể cả mù loà.
Anh chàng mù nghe được. Sáng hôm sau, lần tìm kiếm đến cây thuốc quí, xoa vào mắt, mắt sáng. Rồi tìm đến kho tàng, thấy được của cải. Từ đó anh chàng mù giàu có ra. Người anh keo kiệt hỏi lý do tại sao em sáng mắt, tại sao giàu có. Người em (tức người mù) thành thật chỉ cho anh. Bấy giờ người anh giả vờ mù, đi đến gốc cây trong khu rừng đó, leo lên chờ đợi. Bọn quỉ cũng đến họp. Nhưng thấy kho tàng đã mất, bèn bủa nhau đi tìm. Gặp được người anh đang trốn trên cây, chúng cho là kẻ trộm, nên giết liền.
Câu chuyện cổ tích trên đây chắc chắn là không có thật. Nhưng người xưa kể ra nhằm dạy con cháu nhiều bài học, như ở hiền gặp lành, như “tham thì thâm cổ nhân dạy thế, lấy chuyện gà ra để răn đời…”
Hôm nay kết hợp với bài Tin Mừng Chúa chữa người mù thành Giêricô, ta rút ra bài học: Có những người mù mà sáng mắt – có người sáng mắt mà lại mù.
Người mù trong truyện cổ tích biết leo lên cây để tránh thú dữ. Biết lắng tai nghe lời quỉ họp bàn, biết lúc nào mới xuống khỏi cây cao, biết tìm đến cây thuốc quí, biết dùng kho tàng cho cuộc sống. Người mù tại Giêricô cũng là một người mù mà sáng.
* Cái sáng 1: là anh biết anh đang mù, đang rất cần sáng. Có những người sáng mà mù vì nghĩ rằng mình chẳng cần ánh sáng nào cả.
* Cái sáng 2: là anh biết ai là người có thể làm cho anh sáng mắt: anh đã nghe nói về Ngài nhiều rồi. Anh còn sáng ở chỗ nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế: Nghe tin có Đức Giêsu Nazaret, anh kêu to: Lạy Giêsu, con Vua Đavit. “Con Đavit” là tước hiệu Đấng Cứu Thế.
* Cái sáng 3: là anh biết anh phải làm gì. Tìm và chờ cho gặp được người có thể chữa mình. Không chạy đến với Người bằng đôi chân (vì mắt mù) thì chạy đến bằng tiếng kêu. Người ta bảo chàng im đi, muốn át tiếng kêu của chàng, thì chàng lại la to hơn: “Lạy Con vua Đavit xin thương xót thân con !”
* Cái sáng 4: là khi tiếp xúc được với người có thể chữa mình, anh biết từ bỏ. Anh ta liền vất cả áo choàng nhảy chồm lên mà đến với Đức Giêsu. Rồi khi Đức Giêsu đã chữa anh, anh liền đi theo Người.
Đó là một mẩu người mù mà vẫn sáng, vì người đó biết mình cần gì. Mình phải làm gì để đạt được điều mình cần. Và khi đạt được rồi phải làm gì để giữ mãi được điều mình cần đó. Đó là đi theo Ngài, là chính Ánh sáng.
Qua Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trao nến sáng, tượng trưng cho Đức Kitô là Ánh Sáng. Chúng ta giữ mãi ánh sáng này không, hay là chúng ta như hạng người thứ hai: sáng mắt mà mù.
Như người anh trong câu truỵên cổ tích: nghe nói đến kho tàng của cải là mù tối ngay. Sẵn sàng giả vờ mù, đi trong đêm tối để rồi bị chết vào tay bầy quỉ. Thì cũng vậy:
– Có người người mắt thật sáng, mà vì một chút lợi lộc cỏn con, không thèm nhìn thấy người kia là bạn mình nữa. Có những người mắt thật sáng mà chỉ vì một câu nói chạm tự ái, một hành vi nhỏ động khẽ đến danh dự là muốn làm cho to chuyện, làm cho ra nhẽ, lại hoá ra đánh mất luôn cái danh cỏn con ấy.
– Có những người mắt thật sáng, mà hoá mù trước cái tốt của kẻ khác.
. Xin mẹ 1000, mẹ không cho, em bé phụng phịu khó chịu. Em nhìn thấy thật sáng tờ 1000 mà mù, không thấy bao nhiêu là tiền của công sức nuôi dạy em, từ bé cho tới giờ, để rồi tức tối với cha mẹ. (chuyện một em bé đòi tiền công rửa chén, quét nhà bằng một tờ giấy viết tay, là 10 ngàn. Mẹ đưa bé tờ một chục. Tối đến mẹ chìa cho bé xem một hóa đơn dài, ghi sẵn tiền công sinh, công dưỡng, công chăm sóc bé…cho đến nay. Cộng chung con số tiền cực to).
. Người vợ quên pha cà phê, người chồng khó chịu. Chàng chỉ thấy cái mầu đen của cà phê mà mù trước biết bao chăm sóc khác của vợ dành cho mình, để rồi giận dỗi bỏ đi.
. Người chồng quên sửa chiếc ghế, người vợ đay nghiến. Nàng chỉ thấy chân ghế gãy chưa sửa mà mù trước biết bao công sức chàng đã làm cho nhà cửa gia đình.
Để nhìn cho được cái tốt của kẻ khác, nói cách khác để mắt ta không mù trước cái tốt của tha nhân, cần có Đức Kitô Con vua Đavit mở cho chúng ta. Không phải dễ. Và khi đã mở rồi, ta phải gắn bó với Ngài, tức là phải tìm ánh sáng nơi Ngài trong các cư xử hằng ngày của ta. Chớ gì trước khi nóng giận chỉ trích, ta thử hỏi Đức Giêsu trong hoàn cảnh này sẽ làm gì. Ta hãy cầu xin Đức Giêsu, Con vua Đavit mở mắt cho chúng ta nhìn thấy người khác là hình ảnh và là chính thân thể Đức Kitô vậy.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô kể lại cho chúng ta việc chữa lành người mù thành Giêricô. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa luôn yêu thương con người. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và là con vua Đavít về phương diện con người, là Đấng mang lại ơn cứu độ nếu chúng ta tin tưởng đón nhận. Nhưng cần phải có đức tin tinh tuyền, can đảm giống như niềm tin của anh mù Bartimê.
Chúng ta cũng là những người mù, những người mù từ mới sinh. Biết bao chân lý căn bản, chúng ta đã không thấu hiểu và vì không hiểu biết những chân lý đó, chúng ta đã không tiến nhanh trên con đường sự sống đời đời. Nhưng Chúa Kitô vẫn hiện diện, sẵn sàng chữa lành con mắt chúng ta. Chúng ta hãy biết cầu cứu Ngài như người mù Giêricô: ”Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi”.
Sau khi đã được mở mắt tâm hồn để biết Chúa, chúng ta phải tin theo Ngài trên mọi nẻo đường của cuộc sống như anh mù đã làm, không dám ngăn cản người khác đến với Chúa bằng gương xấu, trái lại, phải xin Chúa làm cho “sáng mắt sáng lòng” để lôi kéo ngườ ta đến với Chúa bằng đời sống chứng nhân được thể hiện qua cuộc sống gương mẫu hằng ngày.
Bài đọc 1: Gr 31,7-9
Theo lịch sử, dân Do thái phản bội, Thiên Chúa để cho quân đội Assyri đến tàn phá hai vương quốc Israel và Giuđa, bắt dân cư đi lưu đầy ở Babylon. Đây là thời kỳ đen tối nhất của dân tộc Do thái. Tuy thế, tiên tri Giêrêmia vẫn tin tưởng vào Chúa và loan báo cho dân biết Thiên Chúa sẽ giải phóng họ, sẽ đưa họ trở về quê hương.
Giêrêmia hát lên bài ca hy vọng: họ ra đi trong nước mắt sẽ hân hoan trở về quê hương, dưới bàn tay phụ tử của Thiên Chúa.
Bài đọc 2: Dt 5,1-6
Theo tác giả thư Do thái, Vị Thượng Tế người phàm là người được chọn giữa dân chúng, mang sự yếu hèn như tất cả mọi người, đại diện cho loài người trong các tương quan với Thiên Chúa, cũng phải được Thiên Chúa tuyển chọn, để dâng lễ đền tội cho dân và cũng dâng lễ đền tội cho chính mình nữa.
Rõ ràng chính Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Ngài sở hữu ở một mức độ phi thường những đức tính phải có để làm Đấng Trung gian cầu bầu cho loài người và dẫn đưa họ đến cùng Thiên Chúa: Ngài là vị Thượng Tế tuyệt hảo.
Bài Tin mừng: Mc 10,46-52
Trên đường đi đến Giêrusalem, tại Giêricô có một người mù tên là Bartimê kêu xin Đức Giêsu chữa để được trông thấy. Đức Giêsu động lòng thương và nói với anh: ”Con hãy đi, lòng tin của con đã cứu con”. Tức khắc anh thấy được và đi theo Ngài trên con đường Ngài đi.
Có một chi tiết chúng ta nên lưu ý: khi được xem thấy, anh liền đi theo Chúa. Anh ta có mấy động tác diễn tả ý định của anh đi theo Chúa: Trước đó, khi Đức Giêsu gọi, anh đã từ bỏ (“liệng áo choàng”), thay đổi nếp sống (từ “ngồi ở vệ đường” đến “đứng dậy”), qui hướng về Đức Giêsu (“nhảy đến với Đức Giêsu”. Người mù này có can đảm gắn bó với Đức Giêsu đi vào đường tử nạn ở Giêrusalem.
Chúng ta cũng phải có can đảm đi theo Chúa Kitô như người mù trên mọi nẻo đường đời, dù có phải qua đỉnh Canvê.
Xin được sáng mắt sáng lòng
Hiện nay trên thế giới có nhiều người mù. Trong những xứ nghèo phương Đông, người bị mù khá đông. Trước khi phát minh ra phương pháp Braille cho người mù đọc được chữ nhờ ngón tay, người mù chỉ sống bằng cách ăn xin, ngồi tại chỗ. Trong biểu tượng Kinh Thánh, người mù là hình tượng của sự đói nghèo, của con người bị bỏ rơi.
Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và đám đông dân chúng ra khỏi thành Giêricô thì gặp một anh mù tên là Bartimê ngồi ăn xin bên vệ đường. Anh này có một thính giác rất đặc biệt, anh ta đã nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu, người Nazareth. Anh kêu lớn tiếng: ”Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Người ta mắng anh, hãy im đi đừng quấy rầy. Nhưng anh càng la to hơn: ”Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Đức Giêsu cho gọi anh ta lại. Được tin, anh ta vứt bỏ áo choàng, nhảy chồm lên và đến với Chúa. Tuy biết anh ta muốn xin gì, nhưng Đức Giêsu cũng cứ hỏi: ”Con muốn ta làm gì cho con”? Anh ta thưa ngay: ”Lạy Thầy, xin cho con thấy được”. Đức Giêsu nói tiếp: ”Cứ về đi, lòng tin của con đã chữa con”. Tức khắc anh ta nhìn thấy được và theo Ngài lên đường.
Đức Giêsu chữa bệnh lần này hơi khác thường. Marcô nói đến những sự việc chung quanh thì nhiều, làm cho phép lạ càng hoành tráng, còn việc chữa bệnh thì rất ít. Đức Giêsu chỉ dùng một câu và phán một lời thôi. Đang khi có lần khác, để chữa lành một người câm điếc (Mc 7,31-37), Ngài đã làm nhiều cử chỉ, không khác những lang y hoặc pháp sư thời bấy giờ. Ngài đem người có tật ra chỗ vắng, thọc ngón tay vào tai y, nhổ nước miếng và sờ vào lưỡi y, rồi ngước mắt, rên lên, thốt ra một lời lạ tai: Ephphata! Ngay đến lần chữa người mù ở Betsaida (Mc 8,22-26), Ngài cũng đã dắt y ra ngoài làng, đoạn nhổ nước miếng vào mắt nó, rồi đặt tay khoa trước mặt nó và hỏi: có thấy gì không?… Hôm nay, Ngài không làm một cử chỉ nào như vậy. Ngài chỉ nói một câu: hãy đi, lòng tin của con đã chữa con. Và người mù đã được khỏi tức khắc.
Như vậy có nghĩa là hôm nay tác giả Marcô không muốn chú trọng nhiều đến chính phép lạ chữa lành một người mù. Ngài đặt câu truyện này trong một bối cảnh có ý nghĩa cứu độ của nó. Marcô muốn nói Bartimê là con người đại diện của con người thời Cựu ước cũng như thời nay đang mù lòa không thấy gì hết và chẳng biết đường đi. Y ngồi bên vệ đường, không theo được con đường cứu độ mà Thiên Chúa đang đi. Y chỉ biết giơ tay ăn xin, tức là nhân loại chỉ biết cầu cứu được thương xót. Bartimê, người mù Giêricô, chính là kẻ đang ngồi trong bóng tối cho dù chung quanh đều đang hưởng ánh sáng ban ngày. Đó cũng là kẻ đang lầm than khổ sở, bất động và bất di bất dịch. Bóng tối đang bao phủ kẻ ấy, đúng là bóng tối của tử thần.
“Đức tin của con đã chữa con”. Qua lời nói vắn tắt của Đức Giêsu, anh mù được chữa lành. Đúng thực, Bartimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng con mắt đức tin vì anh đã thấy Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế khi gọi Ngài là “Con vua Đavít”.
Bartimê đã mù đôi mắt thể xác nhưng lại sáng mắt tâm hồn. Anh thấy nhiều cái mà người sáng mắt không thấy: anh thấy Đức Giêsu là Con vua Đavít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin, và chính vì lòng tin này, Đức Giêsu đã thương anh, cho anh được sáng mắt.
Từ thế kỷ 19, những người mù đã được học hành như người sáng mắt. Có những người mù đậu tiến sĩ, giáo sư như bà Keller, ông Braille (1809-1852).
Ông Braille đã bị mù từ lúc ba tuổi. Lúc đầu ông được học nhạc ở học viện và đánh đàn tại nhiều nhà thờ. Ông đã trở thành giáo sư và chính ông đã sáng chế ra hệ thống chữ nổi cho người mù học. Nhờ đó, ông đã cứu giúp được bao nhiêu thế hệ mù khỏi mù chữ. Ông đáng được tôn vinh là đại ân nhân của thế giới người mù. Tuy nhiên, ông đã không thể cứu họ khỏi mù mắt. Họ vẫn phải sống trong tối tăm.
Và đây cũng là tâm sự của bà Helen Keller. Keller bị mù và điếc từ lúc 19 tháng tuổi. Cô tâm sự như sau:
Một hôm, một người bạn của tôi vừa đi dạo trong rừng trở về. Tôi hỏi xem cô ấy đã thấy những gì? Cô bạn đáp: ”Chẳng có gì đặc biệt cả”.
Tôi rất ngạc nhiên và tự nhủ “Không thể nào như thế được”. Bản thân tôi đây, vừa mù vừa điếc, thế mà chỉ với đôi tay sờ soạng, tôi vẫn cảm nhận được hàng trăm điều thích thú quanh tôi. Tôi cảm thấy được hình dáng dễ thương và mềm mại của chiếc lá. Chỉ cần đặt bàn tay lên cành cây nhỏ đang rung rinh là tôi cảm nhận được tiếng hót líu lo của con chim nhỏ đang đậu trên đó.
Bất hạnh lớn nhất không phải là bị mù, mà là có mắt nhưng không nhìn thấy.
* Có lòng tin vững vàng. Bartimê đã có lòng tin sắt đá. Như tất cả mọi người, Bartimê biết rằng Đức Giêsu là người thợ mộc thành Nazareth. Nhiều người vấp phải vấn đề này. Còn Bartimê biểu lộ công khai niềm tin của mình. Anh là người đầu tiên la lớn lên rằng Đức Giêsu Nazareth là con Vua Đavít, là Đấng Cứu Thế. Đã được soi sáng, người mù nói: ”Lạy Thầy”. Anh ta kêu xin với một niềm tin mạnh đến độ quyền năng của Đức Giêsu có thể biến đổi anh hoàn toàn.
* Nhiệt tình đến với Chúa. Nhiều người khi được nghe tiếng gọi của Đức Giêsu đã thật sự tự nhủ: ”Hãy chờ một chút để tôi làm việc này cho xong đã”. Nhưng khi Bartimê nghe tiếng gọi, anh lập tức đến với Chúa ngay. Có nhiều cơ may chỉ xẩy đến một lần mà thôi. Do bản năng, Bartimê biết rõ điều đó. Lắm khi chúng ta cũng muốn vứt bỏ một thói quen, muốn thanh tẩy đời sống khỏi một điều say quấy, muốn hiến thân cho Chúa trọn vẹn hơn, nhưng thường thường chúng ta không chịu hành động ngay, rồi dịp may đó qua đi và chẳng bao giờ còn trở lại.
* Biết đúng nhu cầu của mình. Bartimê biết mình cần gì và tha thiết xin cho bằng được điều đang mong ước với sự khôn ngoan.: “Rabboni, Thưa Thầy, xin cho con nhìn thấy được”. Anh mù đã đáp lại câu hỏi của Chúa, cũng là câu mà Chúa đã hỏi hai người con ông Giêbêđê: ”Con muốn Ta làm gì cho con”? Đàng sau khát vọng được nhìn thấy, Đức Giêsu đã nhận ra nơi anh đức tin, khát vọng được biết nhiều hơn về Đấng Messia, được nhìn thấy thực tại tối hậu ẩn sau dáng vẻ bên ngoài.
Lắm khi chúng ta chiêm ngưỡng Đức Giêsu chỉ là một sự thu hút mơ hồ. Khi đi bác sĩ, chúng ta muốn bác sĩ giúp điều trị một tình trạng nhất định nào đó. Khi đến nha sĩ chúng ta muốn ông ta nhổ giúp chiếc răng đang đau chứ không chữa bất kỳ một chiếc răng hư nào khác. Giữa chúng ta với Đức Giêsu cũng vậy. Điều này liên hệ đến một điều mà ít người muốn đối diện tự xét mình. Khi đến với Đức Giêsu, nếu chúng ta tha thiết mong ước được một điều rõ ràng, dứt khoát như Bartimê, sẽ có chuyện lạ xẩy ra.
* Thể hiện lòng biết ơn. Bartimê chỉ là người ăn mày mù ngồi bên vệ đường, nhưng anh là người biết tri ân. Sau khi được chữa lành, anh ta đã đi theo Đức Giêsu. Anh không ích kỷ đi theo con đường riêng sau khi nhu cầu của mình được đáp ứng.
Nếu không có lòng biết ơn khi Bartimê được chữa khỏi, anh có thể ra về để sống cuộc đời của mình và quên đi câu chuyện về Đức Giêsu. Nhưng không, anh đã trở thành một môn đệ trực tiếp và nhiệt thành của Đức Giêsu. Anh đi theo Ngài trên con đường Ngài đi. Đó là đỉnh cao của câu chuyện.
Từ chỗ chỉ là người tin, Bartimê đã trở thành một môn đệ. Có một sự khác nhau rất lớn. Người môn đệ sống như Đức Giêsu đã sống. Sự sẵn sàng đi theo Đức Giêsu của Bartimê tương phản với thái độ của các môn đệ còn biết cách lờ mờ và còn lưỡng lự trong suốt cuộc hành trình lên Giêrusalem.
III. XIN CHO ĐƯỢC SÁNG MẮT SÁNG LÒNG
Marcô không muốn chỉ tường thuật một phép lạ mà còn muốn đi xa hơn nữa, muốn ám chỉ việc Chúa đến để thắp sáng đời anh mù bằng nhân đức tin. Vì thế Ngài phán: ”Đức tin của con đã chữa con”. Muốn thấy Chúa, cần phải có nhân đức tin. Đức tin mở mắt chúng ta để nhìn thấy Chúa. Có bao nhiêu người sáng mắt, nhưng mù tối linh hồn.
Trên con đường Damas, Saulê đi lùng bắt giáo hữu, Chúa hiện ra với Saulê. Ông ngã ngựa, đứng lên thì bị mù mắt cho đến khi vào thành Damas, chịu phép rửa tội. “Một cái gì, như những cái vảy bong ra và Phaolô được nhìn thấy”(Cv 9,18). Đức tin mở mắt tâm hồn. Vì thế, giáo hữu thời xưa, gọi phép rửa tội là “phép thắp sáng” (Illuminatio). Và từ đây, chúng ta nhìn thấy Đức Giêsu. Thánh Inhaxiô thành Antiochia nói: ”Với đức tin, tôi được thấy và sờ đụng Ngài”.
Đọc Tin mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu chỉ làm phép lạ cho những người có lòng tin. Đối với những người không có lòng tin như luật sĩ, biệt phái, những người đồng hương Nazareth thì Ngài không làm phép lạ nào. Để ý nhận xét, trong các phép lạ, Đức Giêsu hay dùng công thức: ”Lòng tin của con đã chữa con”.
Chúng ta nên nhớ, tin không phải là trí khôn chấp nhận một chân lý. Tin còn là tình nguyện đi theo một người, người đó là Chúa. Tình nguyện theo như thế có một phần sáng sủa vì có những lẽ để mà tin, nhưng cũng có một phần mịt mù để việc tin đem lại công phúc. Vì thế kẻ tin thì làm vinh dự cho Chúa phần nào. Tin tức là lựa chọn đứng về phía Chúa. Việc lựa chọn đó là một việc do trí tuệ mà một trật do lòng mến: Scio cui credidi: tôi biết Đấng mà tôi giao phó niềm tin(Trần văn Khả).
Khi được Đức Giêsu gọi đến, Bartimê đã vứt áo choàng, nhảy chồm lên mà đến với Ngài. Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, chiếc “áo choàng” là biểu tượng cho quyền lực của con người (1Sm 18,4; 2v 2,14). Động chạm đến áo ngoài của Đức Giêsu cũng đủ để được lành bệnh. Việc người mù vứt bỏ áo ngoài của mình, tượng trưng cho một thứ “đoạn tuyệt với quá khứ” của anh.
Khi nghe anh Bartimê kêu xin Chúa thương cứu, mọi người nạt nộ, không cho anh nói. Thực ra, thời nào cũng có những người bắt buộc kẻ đang thường phải im miệng. Luôn có những hạng người khó mà làm cho kẻ khác hiểu mình: đó là những kẻ sống bên lề xã hội, những kẻ khuyết tật và những nạn nhân đủ loại.
Còn Đức Giêsu, Ngài nghe, Ngài luôn để tai nghe. Ngài nghe tiếng kêu của những người van xin, Ngài dủ lòng thương xót, van xin Ngài cho họ được trông thấy, được đứng dậy. Nếu chúng ta nhận biết Chúa quan tâm đến tiếng kêu xin của con người, chắc chúng ta sẽ trở thành những người “trung gian” tốt, để nói với họ: ”Hãy an tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy”.
Chúng ta đã được chịu phép rửa tội, đã được Chúa đến thắp sáng đời ta, chúng ta cũng phải sống đức tin, phải làm tỏa sáng đức tin ấy cho những người chung quanh, không được ngăn cản người ta đến với Chúa, trái lại phải đem họ về với Chúa qua cuộc sống gương mẫu của ta.
Truyện: Thánh Phanxicô Salêsiô.
Thánh Phanxicô Salêsiô có một đức tin mạnh mẽ, nhất là đối với Phép Thánh Thể. Ngài thường rao giảng cho dân vùng Chablais (Thụy sĩ) đang bị ảnh hưởng nặng của ly giáo Calvinô. Mỗi buổi tối, ngài hay đến trước nhà chầu sốt sắng cầu nguyện. Một hôm, đang mê say cầu nguyện thì có tiếng ai đi lại trong nhà thờ. Tưởng là kẻ trộm, ngài lên tiếng hỏi. Ai? Một bóng người lạ đi tới và nói: ”Thưa Đức Giám mục, con là người không có đạo. Con nghe Đức Cha giảng nhiều lần về Chúa Giêsu trong Thánh Thể, con không tin. Chiều hôm nay, con lẻn vào nhà thờ rình xem thái độ Đức Cha như thế nào. Con thú thực, đã nhìn thấy đức tin của Đức Giám mục. Giờ đây con xin Tin. “Lạy Chúa xin cho con được nhìn thấy” (Mc 46,51).
Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi? Số người “thấy mà xem chẳng thấy” (kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người của mình, là bản thân mình.
Nói chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng. Anh mù Bartimê đã nhìn ra Đức Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.
Riêng chúng ta, những môn đệ của Chúa, ai dám nói mình không bao giờ bị mù trước những thực tại thiêng liêng? Nhiều người cho là mình sáng mắt sáng lòng nhưng thực tế họ luôn mù tối không nhìn ra chân lý; và tệ hơn nữa họ vừa mù vừa hướng dẫn người khác thì hậu quả sẽ khôn lường.
Truyện: chiếc đèn lồng.
Có một người mù, một đêm kia đến thăm người bạn thân. Hai người trò truyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một chiếc đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói:
– Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng nhu nhau.
Người bạn trả lời:
– Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối người ta có thể đụng phải anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi.
Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đụng phải anh. Với vẻ tức giận, anh mù nói:
– Người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi?
Người kia đáp:
– Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không trông thấy. Mong anh thông cảm
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu truyện kết luận: Con người tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy.
Nhiều khi cuộc đời chúng ta chỉ là chiếc lồng đèn bị tắt lửa không còn ánh sáng để soi chiếu cho người khác, chúng ta bắt chước anh mù Bartimê mà kêu lên: ”Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tiếng Hy lạp là Kyrie eleison. Một truyền thống lâu đời của Giáo hội Đông phương đã dạy các tu sĩ ở Hy lạp, Ai cập, Liban… phương thế tự thánh hóa mình nhờ “lời cầu xin với Đức Giêsu” bằng cách chỉ lặp đi lặp lại cách đơn sơ và không biết mệt mỏi những từ này: Iesou, Eleison, Iesou, Eleison…
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện anh mù Bartimê kêu xin Ðức Giêsu “Lạy Thầy, xin cho con được thấy”. Và Ðức Giêsu đã cứu chữa anh. Chúng ta cũng có thể dùng lời của Bartimê để cầu xin với Chúa, bởi vì chúng ta cũng mù loà về rất nhiều điều.
– Chúng ta mù lòa không thấy những bằng chứng của tình thương Chúa rất nhiều chung quanh chúng ta và trong cuộc đời chúng ta.
– Chúng ta mù lòa không thấy những cảnh khổ của anh chị em chúng ta.
– Chúng ta mù lòa không thấy lỗi lầm khuyết điểm của chúng ta.
III. Lời Chúa
Ngôn sứ Giêrêmia nói tiên tri về thời giải phóng. Khi đó Thiên Chúa sẽ đưa dân từ chốn lưu đày trở về quê hương; tất cả những người đau khổ, mà đại biểu là những người mù, què, tàn tật sẽ được cứu chữa.
Bài ca mừng cuộc giải phóng khỏi kiếp lưu đày.
Liền sau chuyện Giacôbê và Gioan xin địa vị ưu tiên trong “nước” Ðức Giêsu sắp thành lập, Mc viết tiếp chuyện anh Bartimê như để “sửa lưng” các môn đệ. Bartimê là tấm gương cho tất cả những ai muốn “thấy” Ðức Giêsu thực sự là ai và thực lòng muốn “đi theo” Ngài.
– Mặc dù mù, nhưng anh tha thiết “xin cho tôi được thấy”, và cuối cùng anh đã thấy. Khi thấy rồi, anh còn “đi theo” Ðức Giêsu lên Giêrusalem (ở đó Ngài sẽ chịu nạn chịu chết và sống lại).
– Trước đó, khi được Ðức Giêsu gọi, anh đã từ bỏ (“liệng áo choàng”), thay đổi nếp sống (từ “ngồi ở vệ đường” đến “đứng dậy”), quy hướng về Ðức Giêsu (“nhảy đến với Ðức Giêsu”).
Tác giả thư Do thái tiếp tục suy tư về vai trò của Vị Thượng Tế người phàm: (1) Vị đó được chọn từ giữa loài người, (2) để đại diện cho loài người trong các tương quan với Thiên Chúa. (3) Vì cũng mang thân phận loài người tội lỗi, nên chẳng những vị ấy dâng lễ đền tội cho dân, mà còn phải dâng lễ đền tội cho chính mình.
Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở Anh Quốc. Mỗi sinh viên được phát một nón bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước nón có gắn bóng đèn nổi với một bình điện đeo ở thắt lưng.
Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên nón bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.
Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: “Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên nón”. Mọi người đều làm theo. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: “Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn”. Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: “Ðây là tình trạng của những người mù”. Tất cả sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.
*****
“Có đau mắt mới biết thương người mù”. Các sinh viên trong câu chuyện trên đây đã cảm nghiệm trong giây lát nỗi khổ của người mù. Họ không chỉ khổ nơi thân xác mà còn khổ trong tâm hồn. Quả thật, người mù đã không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn ngắm người thân bạn bè, mà còn bị mặc cảm lệ thuộc kẻ khác, sống bên lề xã hội.
Hôm nay Ðức Giêsu chữa người hành khất mù Báctimê. Anh mù loà, “ngồi bên vệ đường” ăn xin, nghe biết Ðức Giêsu đi qua, anh thống thiết kêu van: “Hỡi ông Giêsu, con vua Ðavít, xin thương xót con” (Mc.10,47). Người ta ngăn cấm anh, nhưng anh càng tin tưởng kêu to hơn: “Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót con”. Người cho gọi anh, anh sung sướng, liệng áo choàng, đứng phắt dậy, đến cùng Người: “Lạy Thầy, xin cho con được sáng” (Mc.10,51). Tức thì anh ta thấy được.
Và khuôn mặt đầu tiên anh nhìn thấy chính là Ðức Giêsu, Ðấng đã đến để thắp sáng đời anh. Người phán: “Ðức tin của anh đã chữa anh” (Mc.10,52).
Ðích thực, Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt Ðức tin, vì anh đã thấy Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Thế khi gọi Người là “con vua Ðavít”.
Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt tâm hồn, vì anh đã thấy Ðức Giêsu là người có quyền chữa anh khỏi bệnh mù loà.
Với đôi mắt đức tin, anh đã chẳng sợ người ta cấm cản. Càng đe dọa, anh càng lớn tiếng kêu xin thống thiết hơn.
Với đôi mắt đức tin, anh đã liệng bỏ áo choàng là phương tiện để nhận quà tặng, cởi bỏ đời sống ăn xin, từ bỏ thân phận mù loà, rũ bỏ đời sống tối tăm, đến miền ánh sáng tình yêu và sự sống.
“Lạy Thầy, xin cho con được thấy”. Ðó phải là lời cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Vì sẽ có những lúc chúng ta không thấy, hoặc cố ý không muốn thấy. Có những lúc chúng ta thấy mặt này mà chẳng thấy mặt kia. Mù loà thể xác ai cũng biết, nhưng mù loà tâm hồn thì không dễ nhận ra. Nên chúng ta hãy xin Chúa xóa cảnh mù loà cho mình. Vì chỉ “trong ánh sáng của Chúa, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng”.
***
Lạy Chúa,
Xin cho mắt tâm hồn chúng con được sáng, để chúng con thấy Chúa là tất cả, thấy anh em thật dễ mến dễ thương, và thấy mình càng nhỏ bé đi, trong bàn tay yêu thương của Chúa. Amen.
(Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Cần phải phân biệt thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy: nhiều hay ít, xa hay gần, rõ hay mờ v.v. Người cận thị chỉ thấy được rất gần; người viễn thị thì thấy xa hơn. Thí dụ này giúp ta hiểu rằng chỉ có thị giác thôi thì chưa đủ, mà còn phải có thị lực tốt.
Hiểu rộng hơn một chút, thị lực không phải chỉ là mức độ thấy của đôi mắt, mà còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác.
Ðức Giêsu là người có thị lực rất tốt: Ngài thấy Natanael đang ngồi dưới gốc cây vả trước khi ông tìm đến với Ngài; Ngài thấy tấm lòng của một bà goá dâng hai xu trong thùng tiền đền thờ; Ngài thấy cõi lòng tan nát của người phụ nữ ngoại tình bị lôi đến sân đền thờ để chịu xét xử v.v.
Anh chàng Bartimê trong bài Tin Mừng hôm nay tuy mù nhưng cũng có thị lực tốt vì anh đã thấy được Ðức Giêsu là Ðấng Messia “Con Vua Ðavít”.
Không phải chúng ta có đôi mắt tốt thì đương nhiên chúng ta có thị lực tốt đâu. Vậy chúng ta hãy xin với Ðức Giêsu: “Thưa Thầy xin cho con được thấy”.
Ðoạn Tin Mừng của Thánh Marcô kể chuyện Chúa Giêsu cứu chữa một người mù có thể gợi lên vài suy nghĩ:
Ðứng trước những người tàn tật ấy, người ta có thể có nhiều thái độ khác nhau: trẻ con thì vô tâm đến tàn nhẫn và chọc ghẹo những người đó “1,2,3 thằng cha bán kẹo què giò, còn một giò đi kéo xe lôi”; những kẻ có lòng hơn thì không nở chọc ghẹo nhưng ngậm ngùi tội nghiệp thông cảm; người thân của kẻ tàn tật thì đau khổ xót thương: năm 1962, tại thành phố Liège nước Bỉ có một bà mẹ sinh ra một đứa con hình dáng không ra con người mà là giống như một con vật. Bà đau đớn quá và giết chết đứa con ấy đi. Người ta đem bà ra toà vì tội giết con. Nhưng toà án tha bổng vì thông cảm với nỗi đau khổ của bà và nỗi đau khổ của đứa con ấy nếu nó sống và phải gánh chịu.
Nhưng ngoài những thái độ chọc ghẹo, tội nghiệp và thương xót đó, người tín hữu chúng ta còn có thể có suy nghĩ nào hơn nữa không? Thưa có, đó là suy nghĩ về cuộc đời và những bất công của cuộc đời. Cuộc đời này quả thực có nhiều bất công: có người sinh ra thì mạnh khoẻ xinh đẹp, có người sinh ra thì tàn tật xấu xí. Có kẻ sinh ra đã nằm sẵn trong một gia đình giàu có, địa vị; còn có kẻ sinh ra nhằm một gia đình cơ cực túng thiếu. Một người vừa mới sinh ra đã mạnh khoẻ, thông minh và thuộc một gia đình giàu có thì hầu như sẽ rất dễ thành công trong đời; còn một người sinh ra mà tàn tật, ngu đần lại nghèo khổ nữa thì rất khó mà ngóc đầu lên được trong xã hội. Thử hỏi những kẻ xấu số đó bản thân của họ có làm gì nên tội mà phải gánh chịu những thiệt thòi như vậy? Họ không có tội nhưng họ phải chịu thiệt thòi, đó là một sự bất công.
Mà bất công thì đòi hỏi phải sửa lại cho công bằng. Nhưng có những trường hợp không thể sửa lại cho công bằng được. Chẳng hạn trường hợp cái quái thai do bà mẹ người Bỉ kia sinh ra, người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Bà mẹ ấy đã giết nó chết đi, như thế có phải là công bằng không? chắc chắn là không. Còn nếu không giết chết nó thì phải nuôi sống nó, nuôi thật chu đáo, đầy đủ, cưng chiều nó đủ thứ, nhưng như thế có phải là công bằng chưa? Cũng chưa vì chăm sóc chiều chuộng bao nhiêu đi nữa cũng chỉ là xoa dịu phần nào những đau khổ của nó mà thôi, chứ không thể nào bù đắp được những thiệt thòi cho nó bằng một người bình thường không tàn tật. Bất công cũng vẫn còn là bất công thôi.
Nhưng chính những cái bất công ở đời này và sự bất lực không tạo được sự công bằng ở đời này đã giúp cho chúng ta tin rằng phải có một thế giới công bằng ở đời sau. Bởi vì nếu tất cả đều kết thúc ở đời này thì thật là chua xót quá đối với những kẻ xấu số tàn tật, thà họ không được sinh ra còn hơn. Thiên Chúa, Ðấng đã tạo dựng nên họ không thể nào tàn nhẫn quá đến nỗi tạo ra họ chỉ là để cho họ chịu khổ đau. Vì thế mà chắc chắn phải có một cõi đời sau, khi đó mọi bất công sẽ không còn, những thiệt thòi sẽ được bù đắp xứng đáng, và công bình sẽ được thực hiện trọn vẹn.
Ðó là ý nghĩa của những lời cầu nguyện đầy tin tưởng mà những kẻ xấu số đã kêu lên trong thánh vịnh 125: “Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận cho con, như những dòng suối ở miền Nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan”. Mà cũng là ý nghĩa lời hứa hẹn ngầm của Chúa Giêsu khi ra tay cứu chữa anh Bartimê khỏi bị mù trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là điều mà tiên tri Giêrêmia tiên báo trong bài thánh thư hôm nay “Ta sẽ lấy lòng từ bi mà dân dẫn dắt những kẻ đui mù què quặt…”
Tóm lại, những cảnh bất công ở đời vừa làm cho lòng ta thương cảm, mà cũng vừa giúp chúng ta tin chắc rằng phải có một cõi đời sau, công bằng hơn, hoàn hảo hơn và hạnh phúc hơn. Ở đời này có một số bất công mà con người không thể nào bù đắp cho công bằng được, như tàn tật chẳng hạn.
Nhưng chính các bất công không bù đắp được mấy khiến loài người mơ tối một cõi đời khác sẽ không còn bất công.
Và qua phép lạ cứu chữa một người mù, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền năng TC có thể tạo ra một cõi đời như thế.
Như vậy phép lạ này là một bằng chứng về cõi đời sau. Ðó là niềm tin của người Công giáo chúng ta.
Helen Keller bị mù và điếc từ lúc mới 19 tháng tuổi. Cô tâm sự như sau:
Một hôm, một người bạn của tôi vừa đi dạo trong rừng trở về. Tôi hỏi xem cô ấy đã thấy những gì. Cô bạn đáp: “Chẳng có gì đặc biệt cả”.
Tôi rất ngạc nhiên và tự nhủ “Không thể nào như thế được”. Bản thân tôi đây, vừa mù vừa điếc, thế mà chỉ với đôi tay sờ soạng, tôi vẫn cảm nhận được hàng trăm điều thích thú quanh tôi. Tôi cảm thấy được hình dáng dễ thương và sự mềm mại của chiếc lá. Chỉ cần đặt bàn tay lên cành cây nhỏ đang rung rinh là tôi cảm nhận được tiếng hót líu lo của con chim nhỏ đang đậu trên đó.
Bất hạnh lớn nhất không phải là bị mù, mà là có mắt nhưng không nhìn thấy.
Chủ tế: Anh chị em thân mến, người mù ăn xin đã cảm nghiệm tất cả mỗi khốn cùng của mình, nên khi gặp Ðức Giêsu, anh đã van nài Chúa thương xót. Chúng ta hãy van nài xin Chúa thương xót chúng ta:
Chủ tế: Lạy Chúa, đức tin của chúng con còn yếu kém và nhiều khi còn mù quáng, chúng con nài xin Chúa thương ban thêm đức tin, để chúng con trở nên đèn sáng dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Kitô…
– Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa giúp chúng ta không còn mù lòa nữa, nhưng thấy được thánh ý Chúa Cha trong cuộc đời chúng ta.
VII. Giải tán
Sau khi được Ðức Giêsu chữa khỏi mù, anh Bartimê đã nhìn thấy được và đi theo Ðức Giêsu trên con đường Ngài đi. Chúng ta cũng được Chúa cho thấy con đường mà chúng ta phải đi để theo Chúa. Chúng ta hãy hăng hái tiến bước trên con đường ấy.
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Có thể nói, chưa bao giờ “phong trào” xây dựng cơ sở vật chất lại nở rộ như hiện nay. Các giáo xứ, các dòng tu thi nhau xây dựng. Các trung tâm mục vụ, trung tâm hành hương cũng mọc ra như nấm với những quy mô hoành tránh và hiện đại.
Theo lý thì việc xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh là đúng. Nhưng theo tình thì chúng ta thấy chưa ổn cho lắm? Liệu có cần không khi xây dựng cả hàng ngàn tỉ ở giữa những mảnh đời nghèo đói đang bữa no bữa đói? Liệu có quá vô tâm khi vẫn gửi những bì thư xin tiền đến những gia đình túng thiếu chồng ốm vợ đau hay không? Liệu đó có phải là vấn đề đẹp lòng dân hay chỉ là ý thích của cha hay của lãnh đạo. Có giáo dân nói rằng: xứ con nghèo lắm mà cha lại thích xây dựng, chúng con góp ý cha từ từ rồi xây nhưng cha bảo tiền của tôi chứ tôi có lấy tiền quý vị đâu? Không biết cha lấy tiền ở đâu mà phung phí?
Chúa Giêsu khi rao giảng Tin Mừng thì Ngài cũng luôn nhắm tới phục vụ nhu cầu cuộc sống con người. Ai đói Ngài cho ăn. Ai bệnh hoạn Ngài chữa trị. Ai cô đơn bất hạnh Ngài an vủi vỗ về. Suốt cuộc đời rao giảng Tin mừng Ngài chưa xây một Hội đường nào! Ngài cũng không ủy thác cho các môn đệ sứ vụ xây dựng những cơ sở vật chất. Ngài chỉ ủy thác chăm sóc người nghèo là tìm cách nâng cao đời sống cho họ, vì “anh em luôn có người nghèo bên cạnh”.
Mới đây khi mà HĐND thành phố HCM vừa thông qua quyết định lấy đất của dân để xây dựng nhà hát giao hưởng Thủ Thiêm, có người đã hét lên rằng chỉ có HÁT TRÊN NHỮNG XÁC NGƯỜI!
Và facebook đó viết tiếp: Khi cái nhà hát đó mọc lên trên nền đất của nhân dân hôm qua. Có người chết tức, có người sống không bằng chết. Có những giọt nước mắt đoạn trường, những thân phận rách nát chưa thấy ánh sáng.
Trong một bầu oán khí ngút trời như vậy, thành phố kiên quyết làm nhà hát giao hưởng là nhảy múa trên nước mắt của nhân dân. Là hoan ca trên những xác người!”
Bài Phúc âm hôm nay nói về anh mù ngồi bên vệ đường tên là Bartime. Vì đôi mắy mù lòa, nên anh ta đành ở bên lề cuộc sống, anh ngồi bên lề đường, không thể hòa cùng mọi người để có những bước chân thong dong trên đường. Anh ta còn phải trông chờ vào những của bố thí dư thừa để nuôi sống bản thân. Anh cũng muốn hòa vàodòng đời trong những nhộn nhịp củacuộc sống, nhưng con mắt mù lòa khiến anh tách ra khỏi đám đông nhân loại.
Nếu những lãnh đạo cả đời lẫn đạo chỉ nhìn thấy công trình vĩ đại của mình mà không nhìn thấy số đông người nghèo là những vị ấy cũng tự mình tách ra khỏi đám đông nhân loại. Ở xã hội nào cũng thế, người nghèo vẫn là số đông, thế nên, các nhà lãnh đạo cần phải nhìn đến số đông nhân loại đang cần gì và mình có thể làm gì cho họ? Đừng chỉ nhìn vào nhu cầu của số ít người giầu có, quyền thế mà tách ra khỏi số đông nhân loại!
Nhưng tiếc thay, vì nhiều người trong chúng ta muốn ngồi bên lề cuộc sống để hưởng thụ, bất chấp những tiếng xôn xao của cuộc đời, bất chấp những bước chân của sự thật, bất chấp lời mời gọi đứng lên của Thiên Chúa. Chúng ta cố bám lấy chiếc áo choàng của sự ích kỷ để tìm tư lợi bản thân, để không thể bước chân trên con đường yêu thương cùng đồng hành với người nghèo khó. Nhiều lãnh đạo đã ngồi bên lề cuộc đời người nghèo nên không thấy nỗi khổ hằn lên trên khuôn mặt luôn già trước tuổi, và xanh xao vì thiếu ăn. Chúng ta vẫn mở mắt nhìn nhưng không thấy gì, vì chỉ thấy chiếc áo choàng của bản thân và những lợi lộc dư thừa đang chứa trong đó. Nếu như thế thì chính chúng ta là những con người mù lòa cần phải để Chúa chữa lành!
Vâng, lạy Chúa, chính con đang chờ một phép lạ thay đổi cái nhìn của con. Con đã mù lòa khi không nhìn thấy những mảnh đời khổ đau. Con muốn giũ bỏ cái áo choàng là tham vọng tìm vinh quang cho bản thân khi cố xây dựng cơ sở trên nỗi đau của đồng loại, cố làm những công trình hoành tráng trên sự nuối tiếc của người nghèo, vì giá mà số tiền ấy lạc quyên cho những ngôi nhà tình thương thì đã mang lại mái ấm cho biết bao gia đình! Như người mù thành Giêricô, xin cho con bước ra ánh sáng để nhìn thấy số đông nhân loại đang lầm than. Và con bắt đầu biết cảm nhận mọi sự thăng tiến của nhân loại đều phải bắt đầu từ con người chứ không phải cơ sở vật chất vô hồn. Amen.
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Ngày nay, người ta hay nói đến hai chữ “tầm nhìn”. “Tầm nhìn” hình như nó đã trở thành mốt của những người thích ăn to nói lớn, muốn chứng tỏ mình là người nhìn xa trông rộng.
Thực ra, người xưa cũng đã có khái niệm về hai chữ tầm nhìn, nhưng dùng đơn giản là từ “lo xa”. Một người nông dân biết dự trữ lương thực cho tháng ba ngày tám, biết dành tiền tới tháng 9 để cho con cái đến trường, biết tiết kiệm phòng lúc ốm đau, biết lo chuyện cưới vợ gả chồng cho con cái sau này… chính là người biết lo xa mà ngày nay gọi là có tầm nhìn.
Không lo xa thì nước tới chân chạy chẳng kịp. Người biết lo xa là người khôn ngoan. Người biết nhìn xa trông rộng là người không bao giờ thất bại. Nhưng lo xa hay tầm nhìn đôi khi cũng sai lầm, cũng thất bại. Biết lo xa, hay có tầm nhìn đúng phải là người có lý trí sáng suốt, có mưu lược khôn ngoan thì mới định liệu trước sự việc. Điều nào cần làm và điều nào không nên làm.
Cuộc đời con người thành công hay thất bại đều dựa trên “tầm nhìn” đúng hay sai. Điều quan yếu phải có tầm nhìn trong sáng để không bị tham sân si làm mờ con mắt. Đừng thấy cái lợi trước mắt mà không thấy cái hại liền sau. Nhiều người làm ăn gian dối thì có lợi trước mắt nhưng công việc lại chẳng bền lâu. Nhiều người chỉ biết nghĩ cho mình nên chẳng có bạn bè trợ giúp khi gặp hoạn nạn. Con người cần phải có cái nhìn đắc nhân tâm để sống có ích cho cuộc đời.
Chúa Giê-su luôn có tầm nhìn vì ích lợi của con người. Cuộc đời Ngài luôn nhìn thấy nhu cầu khốn khổ của tha nhân để chạnh lòng thương xót và làm xoa dịu nỗi đau cho con người. Phúc âm nhiều lần nhắc đến 2 từ “Ngài nhìn” thấy và chạnh lòng thương. Từ cái nhìn chạnh lòng đầy thương cảm ấy mà Ngài đã làm tất cả để xoa dịu nỗi đau cho những ai mà Ngài gặp gỡ trên đường.
Bài phúc âm hôm nay tường thuật về việc làm đầy tình thương của Chúa Giê-su. Ngài chạnh lòng thương và ban lại ánh sáng cho đôi mắt mù lòa của người thanh niên tên là Bartime. Chúa đã nhìn thấy thiện chí của anh, hay có thể nói Chúa đã nhìn thấy đức tin của anh, nên Chúa đã chữa khỏi bệnh mù lòa cho anh. Từ nay anh có thể thấy mọi sự, nhất là anh thấy cả quyền năng của một vì Thiên Chúa luôn động lòng trắc ẩn con người.
Con người mù lòa thể xác thì khổ cho bản thân, nhưng mù lòa tâm hồn thì gây thiệt thòi không chỉ cho bản thân mà còn cho tha nhân. Lãnh đạo mà mù quáng thì làm nghèo đất nước. Cha mẹ không lo xa thì con cái lầm than. Bản thân thiếu tầm nhìn thì không có tương lai.
Thế nên, chúng ta cần xin Chúa ban cho chúng ta ánh sáng của chân lý, của sự thiện để chúng ta sống với cái nhìn trong sáng, chân thật về cuộc đời. Ước gì cặp mắt của tâm hồn chúng ta luôn đủ sáng để nhận ra đâu là thiện, là ác, để luôn hành động đúng theo lương tri của một con người. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một anh mù đi thăm một người bạn. Trời tối khuya. Anh sợ người khác đụng vào mình nên anh đã có một sáng kiến. Anh đội đèn lên đầu để người khác trông thấy anh mà tránh. Anh hân hoan bước đi. Thình lình anh va vào một người làm cái đèn rớt xuống bể nát. Anh tức giận và chửi: “Mày mù hay sao mà không thấy đèn của tao”. Người kia trả lời rằng: “Đèn mày còn sáng đâu mà tao trông thấy”.
Cái đáng thương của anh mù là không biết đèn mình đã tắt. Anh chong đèn không phải để anh bước đi cho rõ mà quan yếu là nhờ ánh sáng để người khác đừng đụng phải anh. Nhưng anh đâu ngờ đèn anh đã tắt tự bao giờ! Vâng, mù đôi mắt là một bất hạnh. Bất hạnh vì đi lại khó khăn. Bất hạnh vì không còn nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của những người thân yêu, của cuộc sống quanh ta. Song song với cái đáng thương của sự mù loà thể xác còn có cái đáng thương của mù loà về luân lý, về chân thiện mỹ, đó là sự mù loà của tâm hồn. Cái đáng thương của mù loà tâm hồn là họ mù nhưng không chấp nhận mình mù. Họ vẫn bước đi trong vùng tối của tội lỗi, của đam mê nhưng không nhận ra sai trái của mình. Họ có cái nhìn lệch lạc về luân lý, về chân thiện mỹ nhưng đáng thương thay, họ vẫn cố chấp sống theo quan điểm của mình. Chính sự ngộ nhận đó đã giết chết cuộc đời họ và chắc chắn cũng gây nên đau khổ, có khi tổn thất cho những người chung quanh vì sự u tối và dốt nát của mình.
Bài tin mừng hôm nay được thánh Marcô ghi lại, có lẽ không nhằm nói về sự bất hạnh của người mù thể xác. Vì thời Chúa Giêsu cũng như thời nay người mù loà thí rất nhiều. Nhưng Chúa Giêsu chỉ chữa lành một vài trường hợp, trong đó có trường hợp chữa lành người mù thành Giêricô tên là Bactimê. Hơn nữa, những phép lạ của Chúa Giêsu thường liên hệ đến việc chữa lành tâm hồn. Anh mù Bactimê chỉ được chữa lành khi anh cố đến với Chúa. Anh quyết tâm chỗi dậy, dứt bỏ chốn xưa đã giam hãm cuộc đời anh. Anh cậy dựa vào Chúa để mong muốn thay đổi cuộc đời.
Thực vậy, anh mù Bactimê được Chúa chữa lành nhờ thiện chí của anh. Dù rằng người đời cản ngăn anh. Dù rằng thế gian muốn anh mãi mãi là người mù ăn xin bên vệ đường thành Giêricô. Anh đã mạnh dạn kêu cầu Chúa: “Lạy ông Giêsu, con Vua Đavít xin dủ lòng thương”. Với thiện chí của mình anh đã dũ bỏ áo choàng ăn xin, dũ bỏ góc đường Giêricô mà bấy lâu nay anh vẫn ngồi đó để chờ bố thí, và rồi với đức tin mạnh mẽ anh đã được Chúa chữa lành, để từ nay anh trở thành một con người được tôn trọng giữa cộng đoàn, và hơn thế nữa anh còn có thể trở thành môn đệ của Chúa Giêsu.
Ngày nay, loại mù về tâm hồn rất nhiều. Nguyên nhân có thể là do hoàn cảnh, do môi trường. Có thể do thiếu hiểu biết. Có thể là do đam mê, lười biếng. Có thể là vì thiếu trách nhiệm nên cố tình mù loà để hưởng bổng lộc của thế gian bố thí.
Có những bạn trẻ đã chạy theo xu hướng sai lầm của thời đại, quá tự do về giới tình, quan hệ nam nữ bừa bãi dẫn đến hủy hoại tâm hồn và thể xác. Có những cô gái trẻ đã phá đi cái thai là hậu quả của những giây phút bồng bột, lầm lỡ vì họ đã thấy trong gia đình, trong xóm làng đã có nhiều người làm thế nên mình làm theo.
Có những người trở thành những con nghiện của sì kẻ, ma túy do thiếu hiểu biết nên sa vào con đường tội lỗi và tự huỷ diệt thân xác mình mà không hay.
Có những người vì đam mê rượu chè, ham thích đỏ đen mà hủy hoại thanh danh không chỉ của mình, đôi khi còn ảnh hưởng xấu đến gia đình. Có những người vì rượu chè, cờ bạc đã đẩy gia đình đến khánh tận bần cùng mà họ vẫn trơ trẽn sống theo đam mê của mình.
Có những người vì một chút bổng lộc thế gian đã bán mình làm tôi cho ma quỷ, trở thành một Giuđa bán Chúa và làm hại anh em. Cuối cùng chỉ còn lại sự thất vọng, cô đơn và chán chường.
Hậu quả của những ngừơi mù mất ý thức này là huỷ diệt chính mình, hủy diệt thân xác và cả linh hồn. Còn đâu sự trong sáng của linh hồn là hình ảnh Thiên Chúa! Tất cả đã bị bôi nhọ bởi chính sự lầm lẫn đáng thương của chính mình.
Xem ra người mù thành Giêricô thật có phúc vì anh ý thức được sự mù loà của mình. Anh đã vượt qua mọi trở ngại để chạy đến nương nhờ lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ, với hành vi đấm ngực ăn năn, không phải là máy móc, vụ hình thức mà là sự nhức nhối của con tim đầy nuối tiếc về sự mù loà tâm linh của mình dẫn đến biết bao điều sai quấy, gây lo âu bất an cho tâm hồn, và gây đau khổ cho gia đình. Ước gì chúng ta luôn khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của mình để cần Chúa chỉ đường dẫn lối, và chữa lành khỏi những u mê của cõi lòng, để chúng ta luôn hân hoan bước đi trong ánh sáng của tin mừng, của chân thiện mỹ, của nẻo chính đường ngay. Ước gì cặp mắt của tâm hồn chúng ta luôn đủ sáng để nhận ra đâu là thiện, là ác, để luôn hành động đúng theo lương tri của một con người. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM)
Một thanh niên lập gia đình và có hai con. Vì là con một, nên ngay từ nhỏ, được cha mẹ nuông chiều muốn gì có đó. Trong một tai nạn, kính xe hơi của anh vỡ bể tan nát văng vào cả hai mắt anh, và dù gia đình tìm mọi cách chữa chạy, cuối cùng cũng phải chấp nhận cho bác sĩ khoét hai con mắt của anh. Lúc đó tất cả bầu trời như muốn sụp đổ xuống cuộc đời anh, anh tỏ ra tuyệt vọng và không còn muốn sống nữa. Thế nhưng, ngày kia có một nữ tu trước đây khi còn ở ngoài, học cùng lớp với anh đến thăm, động viên và tỏ lòng cảm thương với nỗi khốn khổ của anh; đồng thời trước khi ra về, chị nữ tu này đã tặng anh một đĩa audio cuốn sách Ý Nghĩa Sự Đau Khổ của Cha Tuyên dòng Chúa Cứu Thế, và cáo biệt ra về. Trong lúc buồn sầu chán sống, tự nhiên nhớ đến đĩa CD người bạn mới cho, liền nói bà xã cho vào máy mở nghe cho đỡ buồn thôi, nhưng không ngờ càng nghe càng thấy thấm thía thích nghe và tìm được niềm vui trở lại dần dần, nhất là anh đã tìm được ý nghĩa của cuộc sống nhân sinh của con cái Chúa. Có lần anh tâm sự với tôi một cách rất tích cực rằng: Thưa Cha, nhờ bị mù hai mắt thể lý mà mắt tâm hồn con được mở ra, sáng lên và nhận ra đời thật vui tươi như Cha đang thấy nơi con đây. Lạ không, thưa bạn!
Vâng đúng thế, tôi với bạn mỗi người chúng ta đều mang những tật nguyền và bệnh hoạn cả về tâm linh lẫn thể xác, và rất cần được chữa lành để sống khỏe, sống bình an hạnh phúc. Nhưng rất may mắn, loài người chúng ta có một Thiên Chúa là Cha, và Ngài không bao giờ mệt mỏi chữa lành những tật nguyền bệnh hoạn của con cái loài người hầu đem lại hạnh phúc đời này và đời sau trên nơi vĩnh phúc cho chúng ta.
Bài Tin mừng hôm nay soi dẫn cho biết mọi người chúng ta đều mắc những bệnh mù nguy hiểm, tuy mức độ khác nhau, nhưng không ai có thể tự hào là tôi không bị mù chút nào. Và tôi có thể tóm lại các bệnh mù thành ba loại như sau:
– Mù trong việc nhận biết Thiên Chúa là Cha Toàn Năng Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình…
– Mù trong việc nhận biết anh chị em của mình trên toàn thế giới.
– Mù trong việc nhận biết chính thân phận mình chỉ là hư vô bọt bèo, tất cả những gì mình có, mình là, mình làm được đều là do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho.
Vậy thì, Phải chăng mỗi lần chúng ta làm tôi phụng thờ Chúa,mỗi lần chúng ta tham dự cử hành phụng vụ,mỗi lần chúng ta cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích, là mỗi lần chúng ta bớt bị mù hơn về Thiên Chúa là Cha hay yêu thương chúng ta?
Phải chăng mỗi lần chúng ta yêu thương,tha thứ, cảm thông và đối xử tử tế với một trong những người bé mọn của Thiên Chúa, là mỗi lần mắt tâm hồn chúng ta trở nên sáng hơn trong việc nhận ra anh chị em con cùng Cha, cùng Mẹ trên trời với mình?
Và phải chăng, mỗi lần chúng ta hạ mình khiêm tốn, không dám cho mình hơn ai,không dám nhận sức riêng mình có gì, vì tất cả đều là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho…,là mỗi lần chúng ta bớt bị mù,bớt bị hoa mắt hơn bởi những ảo tưởng muốn cho mình là cái rốn của vũ trụ này?
Thưa Bạn,
Như vậy, có lẽ bạn và tôi cũng cần phải quỳ xuống mà cầu xin: Lậy Chúa xin cho chúng con được thấy, thấy Chúa, thấy anh chị em con,thấy chính mình con…để con dám can đảm sống như chúng con đã thấy.
Đôi khi lời cầu nguyện của chúng ta có thể bị thử thách, bị cám dỗ,làm cho lời cầu nguyện có nguy cơ bỏ ngỏ dở dang, đứt đoạn vì thấy mãi mà chưa được thẩm nhận, làm chúng ta chán ngán muốn bỏ không tin, không cầu nguyện nữa, thì lúc đó, chính Chúa lại ra tay đích thân an ủi động viên khích lệ ta tiếp tục đi đến cùng của lời cầu nguyện với lòng tin tưởng hơn, như Chúa đã động viên người mù cứ vững tin khi thấy người ta ngăn cản không cho anh ta kêu gào to hơn lên tới Chúa.
Nào bạn và tôi cứ tiếp tục gào lên, cứ tiếp tục gõ chiếc thùng hành khất của chúng ta cho đến khi nào Chúa đổ đầy ân sủng của Ngài vào, cho đến khi chúng ta nghe thấy Ngài nói với chúng ta lời đầy an ủi: “Lòng Tin của con đã cứu chữa con”, bạn nhé! Chúc bạn thành công!
“Con muốn Ta làm gì cho con? “ “Lạy Thầy xin cho con được thấy”.
Một linh mục bạn của tôi bị bệnh ung thư. Trong thời gian điều trị bệnh bằng hóa chất (chemotherapy), ngài bị mất khẩu vị. Vì muốn ăn để có sức đề kháng chống lại bệnh, ngài thường nghĩ tưởng về các món ăn hầu gia tăng khẩu vị đã bịt ê liệt do hóa chất gây ra. Sau khi xuất viện, ngài ngồi nghĩ về món gà luộc chấm muối chanh, và quyết định ra siêu thị mua gà về ăn. Ngài luộc tất cả 3 con gà đã mua với ý nghĩ lạc quan và vui vẻ rằng sẽ ăn được càng nhiều càng tốt. Sauk hi dọn gà lên bàn, ngài chỉ ăn được có một cái đùi gà mà thôi, rồi ngồn nhìn 3 con gà luộc phì cười mà nói: “Con gà trong đầu mình sao nó ngon thế, còn những con này sao nó giống vỏ cây trộn với nước sình!”
Đa số chúng ta đã từng kinh nghiệm, ở một lúc nào đó trong cuộc đời, chúng ta muốn có ngay một cái gì hay một điều gì và thưởng thức liền. Chúng ta sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự để có nó, Nhưng khi được rồi, chúng ta lại bị mắc cạn trong chính những ước muốn của mình, không thỏa mãn, ngong ngóng kiếm tìm cái khác và sau cùng bị rơi vào một tâm trạng trống rỗng! (Rm 13:14; Gl 5:16).
Để không trở thành nô lệ cho lòng ham muốn của mình, chúng ta nên tự hỏi cái mình muốn có phải là ý muốn của Thiên Chúa (1TX 4:3), là Đấng đã hứa rằng khi chúng ta cầu nguyện nhân danh Ngài, Ngài sẽ nhận lời chúng ta không? Và trong bài Phúc âm hôm nay, Mc. 10:46-52, Chúa Giêsu đã làm điều này. Ngài nghe lời thỉnh cầu của người mù: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương con” (10:48). Nhưng trước khi đáp lại ước nguyện của anh, Chúa Giêsu đặt cho anh một câu hỏi: “Con muốn Ta làm gì cho con?” (10:51). Tại sao Ngài lại hỏi câu hỏi này?
Câu hỏi này nghe giống như câu hỏi của linh mục hỏi cha mẹ mang con cái đến xin chịu phép rửa tội: “Ông bà hay Anh chị xin Hội thánh cho cháu điều gì?”
Theo linh mục Eugene Laverdiere, câu chuyện phúc âm hôm nay là đoạn kết luận của một phần khá dài và quan trọng trong phúc âm của Máccô, từ chương 8:22 đến chương 10:52. Chúa Giêsu nói ám chỉ về cuộc thương khó và phục sinh của Ngài, cũng như của những ai muốn bước theo ngài. Phần thứ nhất (8:31-9:29): sự hy sinh phải có cho những ai muốn làm môn đệ ngài. “Ai muốn theo ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (8:34). Phần thứ hai (9:30-10:31): liên hệ đến sự phục vụ trong cộng đoàn. “Ai muốn là người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (9:34). Phần thứ ba (10:32-46): những đức tính để lãnh đạo trong cộng đoàn Kitô giáo. “Các con có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (10:38).
Kết hợp ba phần lại với nhau sẽ trình bày những đòi hỏi cần thiết cho những ai muốn đáp lại lời Chúa kêu mời để tạo thành người Kitô Hữu và được thanh tẩy trong phép Rửa tội. Câu chuyện anh mù Bartimê được Chúa Giêsu chữa lành có hai phần: anh mù đã được Chúa gọi như thé nào và anh đã đáp lại ra sao. Đây là câu chuyện của ơn kêu gọi để trở nên một người Kitô hữu. Câu chuyện của Phép Rửa Tội.
Theo Chúa Giêsu là chấp nhận thử thách. Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem bước vào cuộc thương khó và sống lại. Anh mù ngồi ăn xin ở vệ đường. Nghe danh tiếng đồn thổi về Chúa Giêsu, anh la to: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương con” (10:48). Chúa Giêsu đã gọi anh lại. Anh vứt bỏ áo choàng, đứng dậy, đến với Chúa. Anh đã xin được nhìn thấy và đi theo Ngài cùng với các môn đệ trên đường lên Giêrusalem.
Anh mù được nhắc rõ tên là Bartimê, con ông Timê. Theo các nhà chú giải thánh kinh, đây là chỗ duy nhất rong Phúc âm nhất lãm – Maccô, Mathêu, và Luca – nhắc đến tên người được chữa lành. Sự nhấn mạnh bất thường đến tên người được chữa lành này ắt phải có một ý nghĩa.
Trong ngôn ngữ cổ của các sắc dân ở vùng ĐịaTrung Hải, một tên gọi không phải chỉ là một nhãn hiệu để nhận dạng một người, nhưng còn diễ tả cái nhân cách hay số mệnh cuả người đó. Theo tiếng Aramaic, Do Thái cổ, “Bartimaeus”, Bartimê có nghĩa là “người con trai, hay người ô uế.” Đây người ăn xin bị mù. Quan niện bình dân của người Do Thái cho rằng mù là một hình phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi hay sự ô uế (Ga 9:34).
Nhưng theo tiếng Hy Lạp, “Bartimaeus” cũng có thể hiểu là “người con trai, hay người vinh dự”. Nó chỉ cái bản chất và số phận nội tâm của một người. Với một tên mang hai ý nghĩa, Máccô có lẽ muốn nói với chúng ta rằng đây là một con người đáng được vinh danh nhưng đang sống trong một tình trạng bất hạnh. Và điều mà Chúa Giêsu đã làm cho anh, không phải chỉ là phục hồi cái nhìn thể lý, nhưng trên hết mọi sự, Ngài phục hồi cái phẩm giá và số phận đời đời của anh. Đây chính là ý nghĩa lời cầu xin của anh: “Lạy Thầy, xin cho con được thấy” (10:51).
Thật vậy, khi cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu gần tiến tới giai đoạn cuối cùng rồi mà các môn đệ vẫn chưa nhận ra sứ mạng của ngài là gì. Phêrô, các môn đệ và dân chúng giống như những người mù, có mắt để nhìn nhưng vẫn không thấy (8:18). Họ cần phải được chữa khỏi sự mù lòa tinh thần, để nhìn ra giá trị của ơn cứu rỗi qua cuộc thương khó và sống lại của Chúa Giêsu.
Bà Helen Keler, một người mùa, câm và điếc, rất nổi tiếng với đời sống đức tin gương mẫu và mạnh mẽ, nhân ngày ra trường tốt nghiệp đại học đã nói: “Thà bị mù và nhìn bằng con tim còn hơn là có hai con mắt và chẳng nhìn thấy sự gì cả.”
Nghe tiếng Chúa Giêsu kêu gọi, anh mù Bartimê đã vứt bỏ áo choàng, đếng dậy, đến với Chúa. Trong phúc âm của Maccô (1:6) cũng như trong nhiều văn hóa áo choàng được kết hợp mật thiết với tư cách của một con người. Nó giống như tấm thẻ căn cước giúp nhận rạng ra một người là ai. Để bước theo Chúa Giêsu, Bartimê đã phải cở bỏ chiếc áo cũ, biểu tượng của con người cũ, cách sống cũ.
Từ thời giáo hội sơ khai, mặc chiếc áo mới trong nghi thức Rửa tội đóng một vai trò biểu tượng rất quan trọng đối với người Kitô Hữu. Theo sách Giáo Lý Công giáo, số 1243: “Y phục trắng tượng trưng cho sự người lãnh nhận phép Rửa tội ‘đã mặc lấy Chúa Kitô’” (Gl 3:27).
Chiếc áo trắng diễn tả một sự thay đổi sâu xa trên ba bình diện: Xét về hữu thể học hay nhân chủng học, sự thay đổi được diễn tả qua sự chết và sống lại, sinh ra và tái sinh. Xét về tâm lý, sự thay đổi được diễn tả qua những hình ảnh của ngày và đêm, bóng tối và ánh sáng. Xét về luân lý, nó diễn tả một sự biến đổi trong cách sống đạo đức và thánh thiện, trong lời nói, tư tưởng và hành động. Ở cả ba bình diện, phép Rửa Tội đưa một người từ bên này sang bờ bên kia, từ sự mù lòa của đêm tối tội lỗi qua ánh sáng của sự sống con cái Thiên Chúa (GLCG #1213, 1265).
Trong ý nghĩa này, chúng ta sẽ hiểu tại sao Chúa Giêsu lại hỏi: “Con muốn Ta làm gì cho con?” (10:51). Như chúng ta biết, người mù là người đi xin ăn để sống. Sự mù lòa là lý do duy nhất để anh kiếm tiền. Hiển nhiên là người mù ngồi bên vệ đường để xin tiền. Có người mù nào lại ngồi xin khách qua đường cho được nhìn thấy không? Nếu có thì ắt hẳn người đó phải mang một ý muốn phi thường, một quyết tâm lớn lao, một ước muốn mà ít có người mù nào dám mơ ước, vì nó đã vượt ra ngoài khả năng của con người. Một ước muốn dựa trên niềm tin vào một Đấng Tối Cao. Do đó, khi Chúa Giêsu hỏi anh, câu hỏi của Ngài đã hàm ý: Anh có muốn tiền không? Hay là muốn được nhìn thấy? Anh có muốn mất tất cả mọi sự trong đời để chỉ lấy một điều tốt lành thôi không? Anh có muốn nhẩy vào một thế giới mà anh không biết, nhưng lại là thế giới tốt hơn không? (Pl 1:23).
Có lần tôi vào thăm một trại cùi. Trước khi đến trại phải qua một khu phố chợ đông đức và kẹt xe, vì những người buôn bán và ăn xin lấn chiếm lòng đường. Nhìn thấy những người cùi ngồi ăn xin trên đường, tay chân băng bó với những vết máu đỏ, ruồi nhặng bu quanh thật ghe tởm, tôi quay sang hỏi một nhân viên làm việc trong bệnh viện cùi: “Bệnh cùi bây giờ đã chữa được chưa?” Anh cho biết với ngành y họchiện nay, bệnh viện đã có đủ thuốc chặn đứng được bệnh cùi rồi, nghĩa là bệnh cùi có thể chữa được. Nhưng còn bệnh cùi tinh thần thì vãn chưa “khắc phục” được. Có nhiều người cùi tuy đã đượckhỏi bệnh rồi, nhưng vẫn nguỵ trang bệnh cùi bằng cách băng bó tay chân, lấy cá chết thối giã ra đắp lên cho ruồi nhặng bu lại, lấy thuốc đỏ bôi vào… để xin tiền! Xin tiền bằng bệnh cùi đã trở nên một nghề nghiệp để sống, mặc dù đã khỏi bệnh nhưng vẫn không muốn vượt thoát ra khỏi cái lợi lộc vật chất do bệnh cùi mang lại. Họ bị bênh cùi tinh thần!
Anh mù Bartimê này thất khác thường! Anh không muốn tiền! Lời cầu xin của anh lại chẳng vĩ đại hơn lời thỉnh cầu của Giacôbê và Gioan, hai môn đệ đã muốn xin Chúa cho một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả trong vinh quang của Ngài hay sao? (Mc 10:35-45). Anh lại không tốt hơn chàng thanh niên giàu có đến hỏi Chúa phải làm gì để được sống đời đời và sua cùng htì buồn bã bỏ đi vì ham mên của cải trần gian sao? (Mc 10:17-22).
Hôm nay nếu Chúa hỏi chúng ta: con muốn gì? Một cách thành thật chúng ta sẽ trả lời ra sao? Giống như Giacôbê và Gioan, con muốn ngời bên hữu, bên tả, chỗ quyền lực tối cao trên thế giới này? Giống như người thanh niên giàu có, con cũng muốn giữ lại của cải trần gian? Con muốn xin những sự mà trong đời con chưa bao giờ thực hiện được? Con muốn có những cái mà con chưa bao giờ có?… “Con muốn Ta làm gì cho con?” Đây chính là câu hỏi phải suy nghĩ. Khi cầu nguyện: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” chúng ta nghĩ rằng lời cầu nguyện đó chỉ là một điểm nhỏ trong lời cầu nguyện của chúng ta, hay đó chính là lời cầu nguyện của cõi lòng ta? Thiên Chúa không phải là ông Già Noel – Santa Claus thích cho quà. Thiên Chúa không muốn chúng ta chỉ vui vẻ mà thôi, nhưng ngài muốn chúng ta nên thánh (Dt 12:14). Tất cả những gì Ngài ban cho chúng ta hay từ chối đều nhắm vào mục đích tối thượng này. Chúng ta cứ tiếp tục cầu xin Chúa, nhưng không thể xem Chúa như “cái thẻ rút tiền ATM” – a divine ATM. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta, và muốn ban cho chúng ta nhiều hơn là lòng chúng ta mong ước.
“Con muốn Ta làm gì cho con”? Một Thiên Chúa đầy hồng ân đang chờ đợi câu trả lời của chúng ta mỗi ngày.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Khi nghĩ đến người mù, nhất là những người bị mù bẩm sinh, ta thường nghĩ đến hai chữ “tội nghiệp”, “đáng thương”, hay “bất hạnh”. Dĩ nhiên có khi chính bản thân người mù cảm thấy bất hạnh thật vì họ không được nhìn thấy ánh sáng, không được nhìn thấy vẻ đẹp thiên nhiên, nhất là không được nhìn thấy những người thân yêu của mình. Và ngay cả khái niệm về màu sắc, họ cũng không biết đến.
Tuy nhiên, giữa người mù và người sáng, chưa chắc ai bất hạnh hơn ai. Có khi vì mắt sáng tỏ, nên người ta bất hạnh hơn là bị mù loà. Bằng chứng là trong các vụ án trộm cắp, lường gạt, đâm chém, hiếp đáp, ngoại tình,…, ta có thấy thủ phạm nào là người mù không, ngoại trừ những người sáng mắt? Trong số những dân chơi cuồng quay nơi các vũ trường ngập ngụa ma tuý, thuốc lắc, hàng “đá”, ta có bắt gặp bóng dáng người khiếm thị nào bên cạnh những người mắt sáng ở đó không? Trước vành móng ngựa xét xử các quan tham vô lại, có lẽ ta cũng khó mà tìm được một bị cáo nào là kẻ mù loà ở đấy; có chăng chỉ toàn là những người cả hai mắt đều tỏ đều tường!!! Và nếu ta cất công thắp đuốc đi tìm các tù nhân là người mù trong các trại giam, chắc chắn ta sẽ thất vọng vì nơi đó chỉ thấy toàn những người có đủ cả hai mắt. Vậy thì ai “bất hạnh” hơn ai? Người mù hay người sáng? Bởi thế, khi nhìn thấy một người mù, khoan đã cho rằng người đó tội nghiệp, người đó bất hạnh. Hạnh phúc hay bất hạnh không hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt thể lý, nhưng là hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt tâm hồn, cặp mắt đức tin.
Trong câu chuyện Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, ta thấy Bartimê là một người mù loà, hành khất bên vệ đường ngoại thành Giêricô. Không biết anh có thuộc “Hội Người Mù” nào hay không! Song thiết tưởng anh là một người lương thiện. Anh sống bằng những gì kiếm được từ lòng hảo tâm của người khác. Mặc dù nghèo, nghèo nên phải đi ăn xin, nhưng cuộc đời anh thanh thoát. Anh sống vô tư giản dị, không bon chen giành giật, không tính toán hơn thua, không đua đòi ăn diện. Anh cũng không vợ nọ con kia, không rượu bia các thứ. Có lẽ anh cũng chưa bao giờ phạm vào những tội “đội sổ” của con người thời đại hôm nay: buôn gian bán lận, lậu thuế trốn thuế, tham ô, móc ngoặc, hối lộ, hay rút ruột các công trình xây dựng… Suốt cả cuộc đời, chắc hẳn anh cũng chưa hề lường gạt, bóc lột hay hãm hại ai. Tắt một lời, anh sống hoàn toàn ngay chính.
Hơn thế nữa, trong khi rất nhiều người sáng đôi mắt thể lý, lại mù loà trước ánh sáng vô hình, không thể nhận ra Chúa Giêsu là ai, thì anh mù Bartimê này lại “thấy tỏ tường” chính Đức Giêsu là ai. Anh không van xin Chúa bằng danh xưng “Giêsu Nazareth”, mà dùng danh xưng “Con Vua Đavít” – một danh xưng ám chỉ tước hiệu Đấng Mêsia. Tiếng kêu lớn tiếng của anh khi bị mọi người ngăn cản: “Lạy Con Vua Đavít”, đồng thời cũng là một lời tuyên xưng niềm tin vào chính Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng mà anh tin là sẽ phục hồi sự sáng cho anh. Bởi đó, khi được Chúa Giêsu hỏi anh muốn xin gì, anh không xin Chúa Giêsu mua cho anh mấy tờ vé số, cũng không xin Chúa Giêsu cho anh ít đồng bạc cắc bố thí, như anh đã từng nói với những người qua lại, mà anh chỉ xin Chúa Giêsu cho anh được thấy, tức là được sáng mắt. Nếu không tin Chúa Giêsu là Đấng có thể mở được mắt cho nguời mù bẩm sinh, anh đã không xin Ngài điều này.
Đồng ý “đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”, nhưng không phải một khi “cửa sổ” ấy bị đóng vĩnh viễn do mù loà là đương nhiên tâm hồn trở nên tối tăm băng giá như vùng bắc cực đâu. Ngược lại nữa là khác. Khi đôi mắt của họ không còn khả năng thấy được những thực tại hữu hình, thì tâm hồn họ lại rất bén nhạy với những thực tại vô hình. Bởi đó người ta bảo rằng người mù thường cảm nhận rất sâu xa về những thực tại siêu linh, và họ cũng rất nhạy bén trước những nỗi thống khổ của anh em đồng loại. Nói cách khác, người mù thường có cặp mắt đức tin sáng tỏ, như trường hợp anh mù Bartimê hôm nay.
Dẫu chưa một lần được gặp gỡ hay diện kiến Đức Kitô; chưa một lần được trực tiếp nghe những lời Ngài giảng dạy, cũng chưa một lần được phúc chứng kiến các phép lạ Ngài đã làm; anh chỉ mới được nghe người ta nói về con người của Đức Giêsu; thế mà anh đã tin. Anh tin một cách mãnh liệt. Và nhờ niềm tin đó, anh đã gặp được hiện thân lòng nhân hậu của Thiên Chúa, hiện thân của những mối phúc thật là Đức Giêsu Kitô. Anh được Chúa phục hồi sự sáng, sự sáng của cặp mắt thể lý, và quan trọng hơn là cặp mắt đức tin nơi anh vốn đã sáng nay sáng tỏ hơn. Từ đây đời anh hoàn toàn đổi mới. Còn hạnh phúc nào bằng? Anh đã tự nguyện dấn bước theo Chúa trong niềm vui trào tràn.
Lạy Chúa, sẽ thật hạnh phúc cho con, nếu con có đôi mắt thể lý lẫn đôi mắt tâm linh sáng ngời. Ngược lại sẽ thật bất hạnh cho con nếu con có đôi mắt thân xác sáng tỏ nhưng đôi mắt tâm hồn lại mù tối như đêm 30. Con xin tạ ơn Chúa vì ngài đã ban cho con có đôi mắt thể lý chưa một lần phải đến bác sĩ nhãn khoa. Xin Người gìn giữ con để đôi mắt đức tin của con cũng luôn được tinh tường sáng suốt. Đặc biệt xin Chúa cho những người mù luôn giữ được cái tâm trong sáng để cuộc đời của họ không bao giờ là “bất hạnh”, là “đáng thương” như người ta vẫn nghĩ. Amen.
Cách đây không lâu khi lớp chúng tôi đến học hỏi thực tập mục vụ tại một họ đao thuộc thành phố Cần Thơ; sau khi nghe cha sở chia sẻ về công việc mục vụ: cha lo lắng cho giáo dân từ tinh thần cho đến vật chất, cha không chỉ chú tâm xây dựng nhà thờ vật chất, mà cha còn lo xây dựng nhà thờ tinh thần trong lòng giáo dân. Nhưng điều làm tôi đánh động nhất chính là cách cha đối xử với người nghèo, người bệnh tật cô đơn… cha luôn quan tâm đến họ cách đặc biệt. Cha thật là người mục tử cho chúng tôi học hỏi và noi theo. Thì hôm nay bài Tin Mừng lại giới thiệu cho tôi một mẩu gương phục vụ tuyệt hảo hơn rất nhiều. Đó là Đức Giêsu người đã động lòng trước sự kêu xin tha thiết của người mù bất hạnh ngồi ăn xin bên vệ đường.
Anh mù hôm nay không hề thấy Đức Giêsu, nhưng anh đã nghe biết nhiều về người, Khi Đức Giêsu đi ngang thì đúng là cơ hội “ngàn năm một thuở”. Lập tức anh ta đã kêu to lên để được Đức Giêsu chú ý. Chắc những người đi theo Đức Giêsu lúc đó rất khó chịu, vì họ đang nghe những lời giáo huấn của Đức Giêsu, mà anh mù này lại hét to hết sức có thể, thì đúng là một sự xúc phạm không thể chịu được. Cho nên những người đi trước “mắng bảo anh ta nín đi”. Nhưng lúc này không có gì có thể ngăn cản anh ta, anh quyết phải gặp cho được Đức Giêsu con người mà bấy lâu anh hằng mong đợi. Tuy anh không thể thấy nhưng trong tâm trí anh nhìn thấy Đức Giêsu lúc này không phải là một sự mơ hồ, lờ mờ, hoặc do cảm xúc. Nhưng đây là một ước muốn thiết tha. Và cũng chính ước muốn này đã khiến cho mọi sự được thành.
Chính lòng tha thiết mà anh đã được Chúa Giêsu “dừng lại”. Vì Ngài không phải là mục tử của kẻ kiêu căng ngạo mạn, mà Ngài là vị mục tử của những người bất hạnh nghèo nàn, là vị cứu tinh nhân hậu, Đặc biệt ứu ái với đám dân kém may mắn. Ngài nhìn đến con người mù lòa. Ngài đã để ý bên vệ đường và thấy tình trạng thống khổ, không ai lưu tâm, không ai lắng nghe lời của một người ăn xin, tệ hơn nữa còn muốn cho anh ta im đi. Nếu Ngài không là người quan tâm đến họ, không tinh ý thì khó có thể nghe thấy được. Việc anh mù ao ước xin chữa lành, còn đáng giá hơn ngàn lần sự cuồng nhiệt của dân chúng. Hay giấc mơ vinh quang và hy vọng tiến thân, tranh giành quyền lực địa vị không chính đáng của các môn đệ….Hình ảnh anh mù lúc này la một tấm lòng tuyệt diệu trong ánh mắt của Đức Giêsu. Ngài đả phá việc cổ vũ cuồng nhiệt bên ngoài mà trong lòng không chút gì khao khát Thên Chúa, Ngài thông cảm giữa bậc cao sang và kẻ hèn hạ, giữa người thông sáng với kẻ mù lòa, giữa người thi ân và kẻ lãnh nhận.
Nếu xét về mù lòa tâm hồn thì không những chỉ có trong đám đông theo Chúa Giêsu hôm nay, nhưng có rất nhiều người kể cả các tông đồ. Khi chữa lành người mù Đức Giêsu nói: “lòng tin của anh đã chữa anh”. Ngài muốn gửi đến một thông điệp cho tất cả chúng ta, cũng như cho các tông đồ là phải có niềm tin thì mới được lành mạnh. Nhờ tin mà người hành khất được thấy ánh sáng, cơ hội này cũng là dịp cho các Tông Đồ được mở trí soi lòng và xứng đáng được tháp tùng với Ngài lên Giêrusalem. Người mù đã được sáng, lòng tin là ánh sáng mới, ánh sáng đó đã giúp phát hiện ra những thực tại bị che khuất, giúp khám phá những điều chưa ai biết. Ánh sáng này giúp khám phá những điều vượt khỏi giác quan và lý trí con người. Ai không nhìn thấy Ánh Sáng này mới chính người mù thật sự.
Điều làm cho Đức Giêsu đau lòng nhất chính là những người đang mù mà lại không biết mình mù, cứ ảo tưởng cho mình là sáng, là tốt đẹp…không cần đến ai chỉ đường cả. Thậm chí là Thiên Chúa họ cũng chẳng màng. Chính vì thế đòi buộc người tín hữu phải mau mắn thi hành chức vụ tiên tri mà mình đã lãnh nhận, có bổn phận dìu dắt chỉ đường cho họ biết tìm đến ánh sáng. Nhưng chúng ta phải làm thế nào giữa một xã hội luốn đòi hỏi những chứng cứ cụ thể. Vì thể, nếu chỉ rao giảng bằng lời nói thì đó chỉ là thứ lý thuyết suôn vô bổ. Lời rao giảng đó phải được cụ thể hóa bằng hành động, bằng cuộc sống vị tha, bác ái, mới may ra giúp họ nhận ra mình đang bị mù mà nói với Chúa: “Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy”
Cuối cùng tôi xin mươn lời kinh hòa bình của thánh Phanxicô làm lời nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con biết đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm, để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cây vào nơi thất vọng, để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem ủi an đến chốn u sầu…”. Amen.
(Suy niệm của Msgr. Edward Peter Browne – Lm. Gioan Trần Khả chuyển dịch)
Như tôi đã nhiều lần nói với anh chị em trước đây là có nhiều cách cầu nguyện – cầu nguyện lớn tiếng, cầu nguyện thầm lặng trong tâm trí, và một trong các khía cạnh của cầu nguyện trong tâm trí là suy ngắm. Một cách thức trong cầu nguyện suy ngắm là dùng một trường hợp thuộc về Chúa Giêsu trong Tin Mừng hay đời sống của một vị thánh, đọc, suy nghĩ về những gì đã xảy ra và áp dụng vào đời sống của anh chị em. Bài Tin Mừng hôm nay là một thí dụ hay để suy ngắm.
Cái Điếc Trần Tục
Để hiểu bài Tin Mừng hôm nay, anh chị em phải trở lại những bài Tin Mừng của mấy Chúa Nhật trước. Bài Tin Mừng theo Thánh Sử Ma-cô kể rằng khi Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi lên núi với Chúa Giê-su và Chúa Giê-su đã biến hình trước mặt họ. Phê-rô đã qúa vui và mến phục nói, “Thưa Thầy, xin hãy để chúng tôi dựng ba lều ở đây, một cái cho Thầy, một cái cho Mai-sen và một cái cho E-li-a.” Khi Chúa Giê-su đi xuống núi, Ngài đã nói với họ là Ngài sẽ đi Giê-ru-sa-lem và chịu đóng đinh, nhưng họ đã không hiểu điều Ngài nói, họ không muốn biết.
Một trường hợp khác, như anh chị em nhớ về bài Tin Mừng vài tuần lễ trước đây, người thanh niên giầu có đến với Chúa Giê-su và hỏi Ngài, “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được cứu rỗi?” Khi Chúa Kitô bảo điều anh phải làm, anh đã buồn rầu bỏ đi bởi vì anh đã thích những của cải trần thế đời này.
Sau đó, Chúa Giê-su đã nói một lần nữa là Ngài sẽ đi Giê-ru-sa-lem để chịu đóng đinh. Ở một trường hợp khác khi Ngài chữa cho một người bệnh, sau khi đã chữa xong, Ngài nói với các môn đệ, “Thầy đang trên đường đi Giê-ru-sa-lem để chịu đóng đinh.”
Chúa Giê-su đang trên đường đi Giê-ru-sa-lem nhưng người ta dường như không hiểu là Ngài đang đi chịu đóng đinh để hoàn tất việc cứu chuộc nhân loại. Người ta chỉ nghĩ đến bây giờ và lúc này, giống như Gia-cô-bê và Gio-an đã tranh luận xem ai sẽ là người cao trọng nhất trong Nước Thiên Chúa khi Chúa Giêsu đến trong vinh quang của Ngài. Người ta đã chờ đợi một Đấng Cứu Thế trần tục, một người sẽ đến Giê-ru-sa-lem và trở nên Vua của Người Do Thái, giải thoát họ khỏi xiềng xích nô lệ. Đó là điều mà họ mong đợi tìm kiếm, bây giờ và lúc này.
Tiếng Kêu Của Anh Mù
Khi Chúa Giêsu đi lên Giê-ru-sa-lem, ngài đã dừng lại và thấy một người mù ngồi bên vệ đường. Người mù đó kêu la, “Lạy Ngài xin thương xót tôi.” Đám đông dân chúng ngăn cản ông, “Im đi, tránh ra. Chúng tôi đang trên đường đi về Giê-ru-sa-lem nơi mà Ngài sẽ lên làm vua.” Họ đang mong đợi một cuộc diễn hành chiến thắng vào thành Giê-ru-sa-lem nơi dân chúng sẽ tôn Chúa Giê-su lên làm vua. Ngài đã nhắc bảo họ thêm một lần nữa, “Ta đang trên đường vào Giê-ru-sa-lem để chịu đóng đinh.” Nhưng người mù lại kêu lên và nói, “Lạy Ngài xin thương xót tôi.” Và không màng chi đến đám đông, không màng chi đến việc người ta đang xua đuổi người mù đó đi, Chúa Giê-su đã gọi anh đến và nói, “Hãy tiến lại đây và Ta sẽ chữa cho ngươi.” Anh mù đã tiến đến. Ngài đã nói cách rõ ràng, “Đức tin của anh đã cứu chữa anh.” Người mù đã xin tình thương, bởi vì anh biết anh có thể nhận được tình thương. Anh đã kêu đến Thiên Chúa để được sáng mắt, để anh có thể nhìn thấy được.
Chúng ta, một cách nào đó, cũng đang ở trong tình trạng giống như thế ngày nay. Luôn luôn có những người nói là, “Tránh ra, đi chỗ khác chơi, đừng làm ồn ào, đó không phải là cách làm việc trong những ngày này.” Ngay cả trong Giáo Hội cũng có những người nói, “Chúng tôi không đi tìm Nước Thiên Chúa, chúng tôi đi tìm sự thỏa mãn bây giờ và lúc này. Đây là những cái chúng tôi muốn, do đó đừng la lối, đừng đòi hỏi nữa. Chúng tôi mong xót thương và tha thứ, chúng tôi muốn thay đổi Giáo Hội, cải cách Giáo Hội để chúng tôi co thể có những điều chúng tôi muốn bây giờ và lúc này.” Bất cứ điều gì họ đòi hỏi, anh chị em đã nghe hết cả rồi.
Nhưng người mù đã không quan tâm đến đám đông, anh đã la lên. Anh đã nhận ra sự mù lòa và bệnh trạng của anh, và anh biết là Chúa Giê-su Kitô có thể cứu chữa cho anh đo đó anh đã kêu cầu Chúa Giê-su. Và dĩ nhiên khi Chúa Giêsu được kêu đến, thì Ngài luôn luôn đáp lại.
Tiếng Kêu của Chúng Ta
Tất cả mọi người chúng ta đều có đức tin ở mức độ nào đó. Anh chị em đã không đến nhà thờ nếu anh chị em không có chút niềm tin, có thể là tin ít hay cũng có thể là tin nhiều. Nhưng chúng ta tất cả đều có đức tin, nhiều hay ít, và biết rằng chúng ta có những yếu đuối, có những mù quáng, và những khuyết điểm trong đời sống thiêng liêng. Đám đông quần chúng tiếp tục bảo chúng ta rằng, “Đừng lo lắng chuyện đó, thời gian sẽ thay đổi, sẽ không còn luân lý đạo đức, qúi vị không cần quan tâm đến những điều đó.” Đám đông quần chúng tiếp tục đẩy anh chị em ra. Nhưng chúng ta phải kêu cầu đến Chúa Kitô. Ngài ở đó, đang chờ chúng ta, chúng ta phải kêu cầu đến Ngài và nói, “Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa xin bảo vệ chúng con, xin tha thứ cho chúng con.”
Lúc khởi đầu mỗi Thánh Lễ, chúng ta nhìn nhận tình trạng tội lỗi của chúng ta và kêu xin tình thương xót của Chúa, rồi chúng ta nói, “Xin Chúa thương xót chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.” Chúng ta xin Chúa thương xót nhưng nếu chúng ta không thực kêu xin tình thương xót, Ngài không thể nghe thấy. Trong đời sống, chúng ta có những mù tối, có những bất toàn, những thái độ hững hờ. Chúng ta đi theo dòng thời gian mỗi ngày làm theo thói quen như chúng ta đã làm tuần trước và chẳng bao giờ kêu cầu tới Chúa Kitô, “Lạy Chúa xin thương xót chúng con. Xin giúp chúng con thắng vượt sự yếu hèn này, sự mù tối này trong đời sống của chúng con.” Anh chị em biết là nếu anh chị em kêu cầu với Chúa Kitô Ngài sẽ đáp lại lời kêu xin, nhưng nếu anh chị em không kêu xin, Ngài sẽ không trả lời.
Chúng ta phải nhận ra rằng chúng ta có rất nhiều điểm mù quáng trong cuộc sống. Một số người cho rằng điều đó không sao cả, không phải lo đến những cái mù quáng đó, không phải lo đến những hững hờ đó. Nhưng, giống như người mù đã kêu lên với Chúa để xin được sáng mắt, chúng ta cũng phải xin Chúa Kitô lấy đi sự mù quáng của chúng ta để chúng ta có thể nhìn thấy phần thưởng Ngài dành cho chúng ta trên nước trời. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 10: 46-52: Khi Chúa Giêsu cùng với các môn đệ ra khỏi thành Giêricô, thì có một người hành khất mù, tên là Bactimê, con ông Timê, đang ngồi bên vệ đường.
Giêricô là một trong những thành phố nổi tiếng nhưng cũng là một thành phố “thấp nhất” thế giới, vì thấp hơn mặt biển 250 mét. Nó nằm gần Biển Chết, nên cảnh vật hoang vắng, lúc nào cũng thấy thấp thoáng bóng dáng thần chết. Bất cứ ai đi từ bên kia sông Giođan vào Israen đều phải đi ngang qua Giêricô.
Chúa Giêsu trên đường đi Giêrusalem, nơi sẽ diễn ra cuộc khổ nạn cũng đi qua thành này.
Thật là trùng hợp một cách vô cùng ý nghĩa, vì chữ Giêricô trong tiếng Do Thái có nghĩa là “thành phố mặt trăng”. Đây là một thành phố được dâng kính cho vị thần của ban đêm. Nó lại càng mang một ý nghĩa hơn nữa khi Chúa Giêsu làm một “dấu lạ” cuối cùng: Người đã tháo cởi tăm tối cho một người mù thành Giêricô và Người cũng mang lại ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mỗi người chúng ta.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy, thánh Marcô đã kể lại một cách chi tiết: “Khi Chúa Giêsu cùng với các môn đệ ra khỏi thành Giêricô, thì có một người hành khất mù, tên là Bactimê, con ông Timê, đang ngồi bên vệ đường”.
Trong những xứ nghèo ở Đông Phương, thường có nhiều người mù. Họ chẳng biết làm gì để kiếm sống ngoại trừ việc ngồi ăn xin trên các vệ đường. Nhưng thật ngược đời, ở giữa đám đông những người sáng mắt rầm rộ theo Chúa Giêsu, anh mù lại là người sáng mắt nhất.
Tại sao vậy?
Bartimê không thấy Chúa Giêsu bằng con mắt, nhưng anh đã thấy Chúa bằng con tim như anh lính mù trong Đệ Nhị Thế Chiến:
Vào một buổi chiều năm 1945, tại nhà ga Verona nước Italia, một đám đông dân chúng đang tập trung tại sân ga và náo nức chờ đón một số binh lính là người thân của họ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã, thì một người lính trẻ bị mù hai mắt cũng đang lần mò từng bước trên sân ga. Khi tiến gần đến chỗ một phụ nữ lớn tuổi đang đứng chung với mấy người thân trong gia đình, đột nhiên anh lính mù dừng lại rồi kêu lên: “Mẹ!”, và rồi hai mẹ con đã ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Một lúc sau, khi phát hiện ra cặp mắt của con trai đã bị mù, bà mẹ liền hỏi: “con ơi, mắt con bị mù làm sao con thấy mẹ giữa bao nhiêu người tấp nập như thế này?
Anh lính trẻ liền đáp: “thưa mẹ, tuy mắt con không thể nhìn thấy mẹ như trước đây, nhưng chính trái tim đã mách bảo cho con là mẹ cũng đang có mặt tại đây và đang chờ đón con. Khi từ trên xe lửa bước xuống sân ga, con cứ đi theo sự mách bảo của trái tim và đến lúc con linh cảm chắc chắn mẹ đang ở rất gần bên con, thì tự nhiên con buột miệng la lên “Mẹ!” và quả thật con đã gặp được mẹ như mẹ thấy đó”.
Quả thật như Helen Keler, một người mù, câm và điếc, đã phát biểu nhân ngày ra trường tốt nghiệp đại học: “thà bị mù và nhìn bằng con tim còn hơn là có hai con mắt và chẳng nhìn thấy gì cả.”
Giữa một đám đông sáng mắt mà chỉ có anh mù nhận ra Đấng đang đi qua là “con vua Đavit”, là Đấng Messia mọi người trông đợi. Anh đã kêu lên:”lạy con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi” (Mc 10,47). Người ta nạt nộ bảo anh im đi, nhưng anh càng kêu lớn hơn: “lạy con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”, cho đến khi Đức Giêsu dừng lại bảo người ta: “gọi anh ta lại đây”. Thật lạ lùng, tiếng gọi của Chúa có kết quả ngay tức khắc: “người mù liền vứt bỏ áo choàng, đứng phắt dậy mà đến với Đức Giêsu”.
Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, “áo ngoài” là biểu tượng cho quyền lực con người (1Sm 18,4; 24,6; 2V 2,14; R 3,9). Việc người mù vứt bỏ áo choàng của mình muốn nói một sự đoạn tuyệt với quá khứ. Anh được khỏi mù và đã đi theo Người trên đường Người đi, con đường lên Giêrusalem, con đường dẫn đến Thập Giá.
J.Hervieux đã chia sẻ như sau: “ở đây nghệ thuật kể của thánh Maccô đạt đến đỉnh toàn thiện. Hai hình ảnh thật trái ngược nhau: hoàn cảnh bắt đầu của Bactimê (ngồi ở vệ đường, mù lòa, ăn xin) và hoàn cảnh kết thúc (đứng dậy, đi trên đường, nhìn thấy và đem Tin Mừng).
Không còn nghi ngờ gì nữa, tác giả đặt trình thuật này vào lúc Chúa Giêsu lên Giêrusalem, dẫn theo bạn bè và đám đông dân chúng tiến về “ánh sáng” để thấy rõ hơn thân thế và sứ mạng của Người.
Câu chuyện này là một minh họa cho thấy nhờ đâu, người mù trở nên “người môn đệ đích thực”. Người môn đệ cần phải để Thầy mình dẫn đến sự giác ngộ đức tin. Phép lạ chữa người mù ở Bétsaiđa đã thúc đẩy các môn đệ Chúa Giêsu khám phá ra Người là Đấng Messia. Giờ đây, Chúa Giêsu lại mời gọi họ – những kẻ muốn đi theo Người – hãy mở rộng đôi mắt tâm hồn để đón nhận Đấng Messia đau khổ và khải hoàn trong đức tin.
Maccô không thể đặt trình thuật này vào lúc nào tốt hơn là lúc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem: người ta nhận ra thân thế của Người, và những gì Người đã làm không? Đấng đến cứu loài người theo đuổi hai mục đích: vừa trả lại cho họ quyền lợi trong xã hội họ đang sống, vừa giúp họ hội nhập vào cộng đoàn yêu thương mà Người sáng lập”.
Thánh Marcô đã có một câu kết thật tuyệt vời cho bài Tin Mừng hôm nay: “tức thì anh ta thấy được và đi theo Người”.
Chúng ta cũng hãy tha thiết nài xin Chúa cho chúng ta được sáng mắt, để chúng ta thấy được tình thương của Chúa, biết can đảm vứt bỏ chiếc “áo choàng”, tức là biết mạnh dạn đoạn tuyệt với quá khứ, một quá khứ mù lòa, một quá khứ tội lỗi, để đi theo Chúa trên con đường Người đi, con đường lên Giêrusalem, con đường dẫn đến Thập Giá. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM)
Một thanh niên lập gia đình và có hai con. Vì là con một, nên ngay từ nhỏ, được cha mẹ nuông chiều muốn gì có đó. Trong một tai nạn, kính xe hơi của anh vỡ bể tan nát văng vào cả hai mắt anh, và dù gia đình tìm mọi cách chữa chạy, cuối cùng cũng phải chấp nhận cho bác sĩ khoét hai con mắt của anh. Lúc đó tất cả bầu trời như muốn sụp đổ xuống cuộc đời anh, anh tỏ ra tuyệt vọng và không còn muốn sống nữa. Thế nhưng, ngày kia có một nữ tu trước đây khi còn ở ngoài, học cùng lớp với anh đến thăm, động viên và tỏ lòng cảm thương với nỗi khốn khổ của anh; đồng thời trước khi ra về, chị nữ tu này đã tặng anh một đĩa audio cuốn sách Ý Nghĩa Sự Đau Khổ của Cha Tuyên dòng Chúa Cứu Thế, và cáo biệt ra về. Trong lúc buồn sầu chán sống, tự nhiên nhớ đến đĩa CD người bạn mới cho, liền nói bà xã cho vào máy mở nghe cho đỡ buồn thôi, nhưng không ngờ càng nghe càng thấy thấm thía thích nghe và tìm được niềm vui trở lại dần dần, nhất là anh đã tìm được ý nghĩa của cuộc sống nhân sinh của con cái Chúa. Có lần anh tâm sự với tôi một cách rất tích cực rằng: Thưa Cha, nhờ bị mù hai mắt thể lý mà mắt tâm hồn con được mở ra, sáng lên và nhận ra đời thật vui tươi như Cha đang thấy nơi con đây. Lạ không, thưa bạn!
Vâng đúng thế, tôi với bạn mỗi người chúng ta đều mang những tật nguyền và bệnh hoạn cả về tâm linh lẫn thể xác, và rất cần được chữa lành để sống khỏe, sống bình an hạnh phúc. Nhưng rất may mắn, loài người chúng ta có một Thiên Chúa là Cha, và Ngài không bao giờ mệt mỏi chữa lành những tật nguyền bệnh hoạn của con cái loài người hầu đem lại hạnh phúc đời này và đời sau trên nơi vĩnh phúc cho chúng ta.
Bài Tin mừng hôm nay soi dẫn cho biết mọi người chúng ta đều mắc những bệnh mù nguy hiểm, tuy mức độ khác nhau, nhưng không ai có thể tự hào là tôi không bị mù chút nào. Và tôi có thể tóm lại các bệnh mù thành ba loại như sau:
– Mù trong việc nhận biết Thiên Chúa là Cha Toàn Năng Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình…
– Mù trong việc nhận biết anh chị em của mình trên toàn thế giới.
– Mù trong việc nhận biết chính thân phận mình chỉ là hư vô bọt bèo, tất cả những gì mình có, mình là, mình làm được đều là do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho.
Vậy thì, Phải chăng mỗi lần chúng ta làm tôi phụng thờ Chúa,mỗi lần chúng ta tham dự cử hành phụng vụ,mỗi lần chúng ta cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích, là mỗi lần chúng ta bớt bị mù hơn về Thiên Chúa là Cha hay yêu thương chúng ta?
Phải chăng mỗi lần chúng ta yêu thương,tha thứ, cảm thông và đối xử tử tế với một trong những người bé mọn của Thiên Chúa, là mỗi lần mắt tâm hồn chúng ta trở nên sáng hơn trong việc nhận ra anh chị em con cùng Cha, cùng Mẹ trên trời với mình?
Và phải chăng, mỗi lần chúng ta hạ mình khiêm tốn, không dám cho mình hơn ai,không dám nhận sức riêng mình có gì, vì tất cả đều là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho…,là mỗi lần chúng ta bớt bị mù,bớt bị hoa mắt hơn bởi những ảo tưởng muốn cho mình là cái rốn của vũ trụ này?
Thưa Bạn,
Như vậy, có lẽ bạn và tôi cũng cần phải quỳ xuống mà cầu xin: Lậy Chúa xin cho chúng con được thấy, thấy Chúa, thấy anh chị em con,thấy chính mình con…để con dám can đảm sống như chúng con đã thấy.
Đôi khi lời cầu nguyện của chúng ta có thể bị thử thách, bị cám dỗ,làm cho lời cầu nguyện có nguy cơ bỏ ngỏ dở dang, đứt đoạn vì thấy mãi mà chưa được thẩm nhận, làm chúng ta chán ngán muốn bỏ không tin, không cầu nguyện nữa, thì lúc đó, chính Chúa lại ra tay đích thân an ủi động viên khích lệ ta tiếp tục đi đến cùng của lời cầu nguyện với lòng tin tưởng hơn, như Chúa đã động viên người mù cứ vững tin khi thấy người ta ngăn cản không cho anh ta kêu gào to hơn lên tới Chúa.
Nào bạn và tôi cứ tiếp tục gào lên, cứ tiếp tục gõ chiếc thùng hành khất của chúng ta cho đến khi nào Chúa đổ đầy ân sủng của Ngài vào, cho đến khi chúng ta nghe thấy Ngài nói với chúng ta lời đầy an ủi: “Lòng Tin của con đã cứu chữa con”, bạn nhé! Chúc bạn thành công!
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Nhạc sĩ Xuân Hồng viết ca khúc “Đôi mắt” với ca từ dễ thương.
Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời,
Để nhìn đời và để làm duyên.
Mẹ cho em đôi mắt màu đen,
Để thương để nhớ, để ghen để hờn.
Đôi mắt em là cửa ngõ tâm hồn,
Là bài thơ hay nhất,
Là lời ca không dứt,
Là tuyệt tác của thiên nhiên.
Đôi mắt là cửa ngõ tâm hồn, là tuyệt tác thiên nhiên.
Thi sĩ Lưu Trọng Lư đã viết hai câu thơ thật đẹp về tình yêu trong đôi mắt:
Mắt em là một dòng sông,
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.
Cô gái nhớ nhung chàng trai phố núi dù chỉ mới gặp gỡ qua “đôi mắt”.
Tôi đã gặp đôi mắt người phố núi,
Chiều cao nguyên trong khói toả sương mù,
Chẳng hề quen sao đôi mắt hẹn hò?
Trong giây phút làm hồn tôi rung cảm.
Tôi đã yêu đám mây chiều lơ đãng,
Những đường mòn,những đồi dốc không tên,
Đôi mắt anh làm tôi thấy yêu thêm,
Thành phố núi những buổi chiều hiu hắt.
Sao tôi chỉ yêu người qua đôi mắt?
Đôi mắt buồn như phố núi hoàng hôn,
Anh có là thi sĩ lúc chiều buông?
Đang mơ mộng tìm vần thơ viết dở.
Đôi mắt.Trời ơi, kiêu kỳ hoang dã!
Anh nhìn tôi rất lạ rất thân tình,
Anh đã làm chảy máu trái tim xinh,
Đêm phố núi về tương tư đôi mắt.
Tôi đến đây, miền cao nhiều gió lạnh,
Chỗ thân quen ở lại một đôi ngày,
Mai mốt về tôi biết nhớ gì đây?
Hay chỉ nhớ một chàng trai phố núi?
Tôi sẽ về, chắc lòng còn tiếc nuối,
Tình cảm này tôi biết gởi về đâu?
Khi tôi và anh chưa biết tên nhau,
Hy vọng gì sau một lần gặp gỡ!
Tôi sẽ về, chắc không còn gì nữa!
Anh cũng xa vời như gió như mây,
Tình yêu của tôi lãng mạn phút giây,
Nhưng tôi sẽ thương nhớ hoài đôi mắt. (Thanh Dương)
Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp.
Thế nhưng, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu của sách Sách Sáng thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon… mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn… Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng” (St 3, 4–7).
Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:
– Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.
– E-và nhìn trái táo và thấy sướng mắt.
– Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.
Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.
Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: “mắt cả hai người đã mở ra”. Không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. “Mắt hai người đã mở ra”. Câu Thánh kinh thật ngắn ngũi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. A-đam – E-và đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù loà chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế. (x.Nước mắt và hạnh phúc trg 69–71, Lm Nguyễn Tầm Thường).
Chúa Kitô đã đến chữa lành sự mù loà ấy, hàn gắn lại vết thương thưở sa ngã của Nguyên Tổ.
Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù loà của Nguyên tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian.
“Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thưở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian. Ngài ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức Tin.
Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin.
Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Si-lô-ác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pha-ri-siêu đang tra vấn, khủng bố anh: Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Si-lô-ác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì.
Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không?” thì anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin.” Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.
Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin.
Phép lạ chữa người mù thưở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù loà của nhân loại với điều kiện: Tin vào Ngài.
Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù loà tâm hồn. Ngài mở mắt cho Gia-kêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9, 1-10). Ngài mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7, 36-50). Ngài mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23, 32-43)…
Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xoá tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô. Ðôi mắt đức tin giúp chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa và yêu mọi người, mọi sự trong Chúa và yêu như Chúa đã yêu.Nhiều Thánh vịnh giúp chúng ta tập nhìn cuộc đời và con người bằng đôi mắt tin yêu, như Thánh vịnh 104, các Thánh vịnh Job 38-39.
Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngõ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt thì đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Bar-ti-mê tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Chúa Giêsu là Ðấng Mes-si-a “Con Vua Ðavít”. Anh kêu xin: “Rabbuni, xin cho tôi được thấy”, và Chúa Giêsu trả lời: “Hãy đi! Niềm tin của con đã cứu chữa con”. Bar-ti-mê được thấy và anh theo Chúa Giêsu trên con đường của Người; khi thấy được, anh cùng hành hương lên Giê-ru-sa-lem (x. Đức Giêsu thành Nazareth phần II, trg 13). Bar-ti-mê thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy Chúa là con vua Đa-vít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.
Lạy Chúa, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt.
Để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt.
Để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên.
Để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.
Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân con
với những yếu đuối và khuyết điểm,
nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa;
từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng,
để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen.
CHUYỆN MINH HỌA LỜI CHÚA
Một nhóm sinh viên tham quan mỏ than Scottish ở Anh quốc. Mỗi người được phát cho chiếc nón bảo hộ của thợ mỏ, phía trước nón có gắn bóng đèn nối liền với bình điện đeo ngang lưng. Người hướng dẫn đưa họ vào hầm than tối mịt, nên bảo họ bật đèn lên. Khi đến khu khai thác, người hướng dẫn lại bảo họ tắt đèn hết. Lúc đó họ không thấy gì cả. Và ông ta nói cho họ biết, “Đây là tình trạng bi thảm của những người mù.” Thế là các sinh viên đã hiểu ra bị mù thì khốn khổ vì không thấy được gì cả, như họ đang ở trong cảnh tối tăm này.
Ông Hosesaramago là văn sĩ người Bồ đào nha đã được giải thưởng văn chương năm 1998. Một trong các tác phẩm nổi tiếng của ông là cuốn “Mù lòa,” diễn tả một thành phố bất thần bị dịch mù lòa như sau:
Người đầu tiên bị mù là một người đàn ông lái xe và chờ đèn giao thông. Một người hào hiệp dẫn ông về nhà rồi chôm luôn chiếc xe của ông. Và anh này cũng mù luôn. Bác sĩ nhãn khoa khám mắt cho anh xong cũng bị mù. Và nạn dịch mù lan tràn khắp thành phố! Người ta phải tập trung những người mù vào bệnh viện. Và cuộc sống của những người mù này chẳng khác nào địa ngục trần gian. Họ căm thù mù lòa, họ căm thù lẫn nhau.
Trong đám người mù lòa có một người nữ giả mù để sống với chồng là bác sĩ nhãn khoa. Bà ta dẫn đám người mù ra khỏi bệnh viện, nhưng cuộc sống của họ ngày càng đau khổ. Họ lạc lõng khắp nơi, không ai biết đường về nhà, chẳng ai giúp đỡ được ai, đường sá đầy rác rến, người chết ngổn ngang! Trong trang cuối của tác phẩm “Mù lòa” khi nạn dịch dứt đi, các nhân vật lý giải như sau, “Tại sao chúng ta mù? Tôi không nghĩ là chúng ta hóa mù. Chúng ta mù mà có thể nhìn thấy, nhưng chúng ta không thèm nhìn thấy!”
Cách đây mấy năm, có hai người cha mẹ kể lại cái chết của đứa con trai họ, “Thứ năm vừa qua, chúng tôi chôn cất đứa con trai chúng tôi. Câu chuyện xảy ra là hôm thứ ba, nó vào phòng ngủ của nó và tự sát. Nó bắn vào thái dương của nó, viên đạn xuyên qua óc nó và nó đã chết. Nó tên là Mike.”
Tại sao Mike tự sát? Mike có rất nhiều bạn. Nó sống hết tình với bạn hữu nó. Ngược lại các bạn nó cư xử tệ với nó. Chẳng những không đáp lại thịnh tình của nó mà còn hất hủi nó, làm hại nó nên nó buồn phiền tuyệt vọng, mượn cái chết để khỏi còn thấy cảnh con người đối xử tệ bạc với con người như thế.
Có mấy người mù được yêu cầu mô tả con voi. Dĩ nhiên họ không thể dùng mắt, họ phải dùng tay sờ để mô tả con voi. Người sờ vào lỗ tai voi thì bảo nó mềm, dẹp và không ở yên một chỗ. Kẻ sờ mũi voi thì mô tả nó dài, thon thon và cũng đứng ngồi không yên…
Đúng là mô tả rất thiếu sót, vì không dùng thị giác được. Thị giác giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn. Chính vì thế mà người mù phải sống trong bất hạnh khổ sở. Do đó Chúa Giêsu thương họ, sẵn sàng cứu chữa họ. Nhưng trước khi chữa cho họ, Người muốn họ phải ý thức thân phận mù lòa của họ. Vì thế trong Tin mừng hôm nay, khi người mù Batimaeus đến gần, Chúa Giêsu hỏi, “Anh muốn tôi làm gì cho anh” (Mc 10:51).
Một người đàn bà mù tâm sự: Trước khi bị mù lòa, tôi là một phụ nữ rất tự mãn và độc lập. Tôi làm việc nuôi năm đứa con của tôi. Tôi cũng làm việc thiện nguyện. Nhưng gia đình tôi không được hạnh phúc, nên tôi định ly dị. Nhưng rồi tai nạn xảy đến cho tôi. Bác sĩ bảo phải giải phẫu mới chữa được. Trước khi giải phẫu tôi còn sáng mắt, sau khi giải phẫu tôi phải mù lòa. Giờ đây tôi không còn tính chuyện ly dị được nữa, phải chung sống với người mình không thương. Tôi cố làm việc nội trợ, nhưng chỉ làm rối trật tự trong nhà. Đứa con gái út của tôi xấu hổ vì có người mẹ mù lòa….
Thật là một cuộc sống lầm than cô độc.
Ngày nọ, tôi nói với chồng tôi là tôi muốn đi ra ngoài đổi không khí. Tôi đinh ninh chồng tôi cùng đi với tôi. Nhưng không, tôi một mình đứng ở góc đường. Bỗng có tiếng nói trong tôi, “Ngươi không còn ai. Đã đến lúc ngươi phải tự cứu lấy chính ngươi…”
Thế là tôi lần mò đến trung tâm hồi phục kể cho mọi người nghe câu chuyện của tôi. Ở đây, tôi gặp một người thanh niên mù từ lúc mới sinh. Anh chưa bao giờ biết một bữa tiệc mừng sinh nhật. Tôi về nhà cố làm cho anh một ổ bánh và tổ chức mừng sinh nhật anh ta. Anh thổi những cây nến mà anh không thấy, nhưng chắc chắn anh đã hưởng được niềm vui và tôi cảm thấy rất hạnh phúc. Thế là tôi mù lòa, nhưng thấy được nhu cầu của người khác. Và tôi cố gắng giúp họ thỏa mãn.
Từ thế kỷ 19, những người mù đã được học hành như người sáng mắt. Có những người mù đậu tiến sĩ, giáo sư như bà Keller, ông Braille (1809-1852).
Ông Braille đã bị mù từ lúc ba tuổi. Lúc đầu ông được học nhạc ở học viện và đánh đàn tại nhiều nhà thờ. Ông đã trở thành giáo sư và chính ông đã sáng chế ra hệ thống chữ nổi cho người mù học. Nhờ đó, ông đã cứu giúp được bao nhiêu thế hệ mù khỏi mù chữ. Ông đáng được tôn vinh là đại ân nhân của thế giới người mù. Tuy nhiên, ông đã không thể cứu họ khỏi mù mắt. Họ vẫn phải sống trong tối tăm.
Và đây cũng là tâm sự của bà Helen Keller. Keller bị mù và điếc từ lúc 19 tháng tuổi. Cô tâm sự như sau:
Một hôm, một người bạn của tôi vừa đi dạo trong rừng trở về. Tôi hỏi xem cô ấy đã thấy những gì? Cô bạn đáp: “Chẳng có gì đặc biệt cả”.
Tôi rất ngạc nhiên và tự nhủ “Không thể nào như thế được”. Bản thân tôi đây, vừa mù vừa điếc, thế mà chỉ với đôi tay sờ soạng, tôi vẫn cảm nhận được hàng trăm điều thích thú quanh tôi. Tôi cảm thấy được hình dáng dễ thương và mềm mại của chiếc lá. Chỉ cần đặt bàn tay lên cành cây nhỏ đang rung rinh là tôi cảm nhận được tiếng hót líu lo của con chim nhỏ đang đậu trên đó.
Bất hạnh lớn nhất không phải là bị mù, mà là có mắt nhưng không nhìn thấy.
Thánh Phanxicô Salêsiô có một đức tin mạnh mẽ, nhất là đối với Phép Thánh Thể. Ngài thường rao giảng cho dân vùng Chablais (Thụy sĩ) đang bị ảnh hưởng nặng của ly giáo Calvinô. Mỗi buổi tối, ngài hay đến trước nhà chầu sốt sắng cầu nguyện. Một hôm, đang mê say cầu nguyện thì có tiếng ai đi lại trong nhà thờ. Tưởng là kẻ trộm, ngài lên tiếng hỏi. Ai? Một bóng người lạ đi tới và nói: ”Thưa Đức Giám mục, con là người không có đạo. Con nghe Đức Cha giảng nhiều lần về Chúa Giêsu trong Thánh Thể, con không tin. Chiều hôm nay, con lẻn vào nhà thờ rình xem thái độ Đức Cha như thế nào. Con thú thực, đã nhìn thấy đức tin của Đức Giám mục. Giờ đây con xin Tin. “Lạy Chúa xin cho con được nhìn thấy”(Mc 46,51).
Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi? Số người “thấy mà xem chẳng thấy”(kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người của mình, là bản thân mình.
Nói chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng. Anh mù Bartimê đã nhìn ra Đức Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.
Riêng chúng ta, những môn đệ của Chúa, ai dám nói mình không bao giờ bị mù trước những thực tại thiêng liêng? Nhiều người cho là mình sáng mắt sáng lòng nhưng thực tế họ luôn mù tối không nhìn ra chân lý; và tệ hơn nữa họ vừa mù vừa hướng dẫn người khác thì hậu quả sẽ khôn lường.
Có một người mù, một đêm kia đến thăm người bạn thân. Hai người trò truyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một chiếc đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói:
– Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau.
Người bạn trả lời:
– Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối người ta có thể đụng phải anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi.
Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đụng phải anh. Với vẻ tức giận, anh mù nói:
– Người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi?
Người kia đáp:
– Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không trông thấy. Mong anh thông cảm
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu truyện kết luận: Con người tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy.
Nhiều khi cuộc đời chúng ta chỉ là chiếc lồng đèn bị tắt lửa không còn ánh sáng để soi chiếu cho người khác, chúng ta bắt chước anh mù Bartimê mà kêu lên: ”Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tiếng Hy lạp là Kyrie eleison. Một truyền thống lâu đời của Giáo hội Đông phương đã dạy các tu sĩ ở Hy lạp, Ai cập, Liban… phương thế tự thánh hóa mình nhờ “lời cầu xin với Đức Giêsu” bằng cách chỉ lặp đi lặp lại cách đơn sơ và không biết mệt mỏi những từ này: Iesou, Eùleison, Iesou, Eùleison…
Vào một buổi chiều năm 1945, tại nhà ga Verona nước Italia, có khá đông dân chúng đang tập trung tại sân ga và náo nức chờ đón một số binh lính là người thân của họ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Lúc đó, một người lính trẻ bị mù hai mắt cũng đang lần mò từng bước trên sân ga. Khi tiến gần đến chỗ một phụ nữ lớn tuổi đang đứng chung với mấy người thân trong gia đình, đột nhiên anh lính mù dừng lại rồi kêu to lên: “Mẹ!”, và rồi hai mẹ con đã ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Một lúc sau, khi phát hiện ra cặp mắt của con trai đã bị mù hòan tòan, bà mẹ liền hỏi: “Con ơi, mắt con đã bị mù như thế mà sao lúc nãy con lại nhìn thấy mẹ giữa bao nhiêu người khác và kêu lên vậy?”. Anh lính trẻ liền đáp: “Thưa mẹ, tuy mắt con không thể nhìn thấy mặt mẹ như trước đây, nhưng chính trái tim đã mách bảo con là mẹ cũng đang có mặt tại đây và đang chờ đón con. Khi từ trên xe lửa bước xuống sân ga, con cứ đi theo sự mách bảo của trái tim và đến lúc con linh cảm chắc chắn mẹ đang ở rất gần bên con, thì tự nhiên con buột miệng la to lên “Mẹ!” và quả thật con đã gặp lại được mẹ như mẹ đã thấy đó”.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Ở đây, theo tâm lý mà nói, quả thật Ðức Giêsu đã làm một nghĩa cử vô cùng cao đẹp, khi Người hỏi người hành khất mù: “Bác-ti-mê-ô, anh muốn tôi làm gì cho anh?” – Ðúng vậy, chúng ta ai cũng muốn một lần nào đó trong đời được người khác hỏi như vậy. Một lần nào đó được tự do bày tỏ điều mình mong ước! Ðôi mắt đứa trẻ sẽ mở rộng tròn xoe một cách vui sướng rạng rỡ, khi bà dì hay ông cậu đầy thương yêu nói với nó: “Cháu có quyền xin bất cứ cái gì cháu thích, bà dì (ông cậu) sẽ cho cháu ngay!” Ðứng trước niềm vui được tự do bày tỏ nguyện vọng và chắc chắn sẽ được thoả mãn, tâm lý những người lớn chúng ta cũng không khác tâm lý của những đứa trẻ là bao!
“Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Ðức Giêsu cũng hỏi mỗi người trong chúng ta như thế! Người mù đã không thể trả lời cách nào khác hơn, là: “Thưa Thầy, xin cho tôi có thể nhìn thấy được!” Anh ta biết mình bị mù. Và anh cũng biết là không còn gì đẹp đẽ và quan trọng hơn là anh ta lại có thể nhìn thấy được. Còn chúng ta, chúng ta trả lời thế nào câu hỏi của Chúa?
Có lẽ đối với chúng ta, trước hết chúng ta sẽ phải bắt đầu câu trả lời: “Thưa Thầy, xin cho con biết được là con đang bị mù!” Hay: “Thưa Thầy xin cho biết là con đang thiếu thốn những gì!” Phải chăng chúng ta không cần phải cầu xin như thế? Chúng ta không biết mình đang bị mù, đang thiếu thốn gì sao? Nhất thiết chúng ta phải cầu xin cho mình được thực sự sáng mắt? Vâng, theo thiển ý, tôi nghĩ rằng đó là điều chúng ta cần phải cầu xin cùng Chúa!
Thỉnh thoảng chúng ta cảm thấy bực mình về con cái chúng ta, vì chúng quá kén chọn, đến nỗi nhiều bậc cha mẹ đã phải than phiền: “Ngày nay người ta chẳng còn biết phải cho con cái điều gì nữa!” Cũng vậy, nhiều khi các ông bà nội / ngoại cũng đã than thở trước ngày sinh nhật của các cháu mình: “Ngày nay chúng nó đã có tất cả rồi, nên chẳng biết phải lấy gì làm quà cho chúng nó nữa!” Nhưng có phải thực sự các cháu của họ đã có tất cả rồi chăng?
“Thưa Thầy, xin cho con biết được điều con – chúng con – đang thiếu thốn!” Dĩ nhiên, chúng ta còn thiếu rất nhiều thứ: Tương lai, công ăn việc làm, sự bảo đảm an ninh khỏi trộm cắp, kiếm cho con cái một chỗ học hành gần nhà, không mắc phải những chứng bệnh nan y nguy tử, không bị tàn tật, không bị rơi vào hoàn cảnh luôn luôn phải nhờ vả kẻ khác, v.v… Vâng, đó là những nguyện vọng cần phải tỏ bày cùng Chúa. Nhưng phải chăng chúng ta chỉ thiếu thốn những điều đó thôi sao?
Chúa đã dạy chúng ta phải cầu xin cho mình có đầy đủ lương thực hằng ngày! Thiên Chúa sẽ không bao giờ xua đuổi bất cứ ai đang trong cơn túng cực và khó khăn mà biết chạy đến kêu xin Người. Trái lại Người còn muốn ban cho chúng ta nhiều hơn nữa, chứ không chỉ có lương thực hằng ngày mà thôi. Với lương thực hằng ngày, Người muốn ban cho chúng ta sự sống, sự sống của Người, sự sống thiên đàng tràn đầy hạnh phúc. Chúng ta có náo nức khao khát được tiếp cận Thiên Chúa và những gì Người hứa ban cho chúng ta không? Chúng ta có ý thức được rằng tội lỗi chúng ta đã chia lìa chúng ta khỏi Thiên Chúa và vì thế chúng ta phải xa tránh bằng sự ăn năn hối cải không? Cả trong cuộc sống của những người đạo đức cũng không thiếu những mù lòa mà chính đương sự không hề biết. Vì thế, “Thưa Thầy, xin cho con nhận biết điều con đang thực sự thiếu thốn” phải luôn luôn sống động trên môi miệng mỗi người chúng ta!
Nhiều khi chúng ta cũng hãy can đảm và thẳng thắn nhìn nhận rằng vì do sự thiếu khôn khéo và nhất là do các lầm lỗi của mình mà một số các vị có trách nhiệm trong Giáo Hội đã vô tình làm mai một đi nhiều vẻ đẹp và sức hấp dẫn của Giáo Hội cũng như của niềm tin Kitô giáo của chính mình trước con mắt người đời. Chúng ta không khỏi đau lòng khi nhận thấy những người lương dân khi nghe nói đến tiếng “Giáo Hội Công Giáo” là thường nghĩ ngay đến luật lệ cấm phá thai, cấm dùng các phương pháp ngừa thai nhân tạo, cấm đồng tình luyến ái, không cho phép những người ly dị được rước lễ, phụ nữ không được làm Linh mục,v.v…! Dĩ nhiên, đó là qui luật hiện hành của Giáo Hội, nhưng Giáo Hội không chỉ quanh quẩn có bấy nhiêu! Tất cả chúng ta đều mong muốn trở nên một Giáo Hội mà trong đó lòng thương xót của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta được rực sáng, trong đó không một ai bị cô lập, nếu như người đó nêu lên những ý kiến có tính cách phê bình và không bị loại trừ, nếu người đó không giữ vuông tròn được các luật lệ. Chúng ta hãy kính nể và biết ơn tất cả những ai đang dấn thân làm chứng nhân cho tình thương xót đó trong Giáo Hội, tức tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho con người, như bài Tin Mừng hôm nay đã loan báo, đặc biệt là những ai đang ngày đêm săn sóc và chăm nom:
những người già nua, những người bệnh tật,
những người tàn tật và những người bất hạnh, đói khổ,
những người ngoại kiều và những người sống ngoài lề xã hội,
những người bị bỏ rơi, bị tẩy chay, bị khai trừ, v.v…
Chúng ta thực sự là Giáo Hội của Ðức Kitô, nếu chúng ta biết sống trọn tình thương đó trong lòng Giáo Hội và giữa chợ đời. Vì không có dấu chỉ nào khác để cho thế gian nhận biết chúng ta thuộc Ðức Kitô hơn là sự thông cảm, tình thương và đức ái!
Dĩ nhiên, bất cứ ở đâu và trong bất thời đại nào, vẫn có những Kitô hữu sống một cách vô ý thức, thiếu hy vọng, và đầy sợ hãi khi phải đưa mắt nhìn về tương lai, hay chỉ nghĩ đến mình và chỉ sống cho mình mà thôi, v.v… Tất cả đều nói lên “mặt trái của một chiếc mề đay”, những “con chiên ghẻ” trong đoàn chiên của Chúa. Ðiều quan trọng trong một trường hợp đầy thách đố như thế, là người tông đồ của Ðức Kitô càng phải nỗ lực giữ vững đức tin và không để cho những thử thách, những khó khăn của môi trường sống chung quanh làm tê liệt lòng nhiệt thành với Ðức Kitô và tinh thần phục anh em đồng loại. Thật ra, tương lai còn bao la vĩ đại, chứ không phải chỉ đi tìm sự an ninh, sự bình an và dễ dãi cho mình. Tương lai chứa đựng nhiều thách đố nhiêu khê và người ta cần phải nêu danh chúng ra, dẫu rằng điều đó có thể gây ra những chua cay và bất bình. Nhưng chính điều đó lại có thể động viên được những nguồn sức mạnh để giải quyết tận gốc những khủng hoảng và đưa ra được liều thuốc sửa trị hiệu nghiệm.
Người Kitô hữu nên biết rằng, dù cho tương lai đen tối bao nhiêu đi nữa, Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trong mỗi tương lai! Người là Thiên Chúa của lịch sử và là Thiên Chúa của thế kỷ hiện tại cũng như của những thế kỷ sắp tới! Niềm hy vọng Kitô giáo giúp tôi có thêm nghị lực để bước đi những bước mới theo khả năng tôi cho phép, với sự ý thức chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ chiếu giọi ánh sáng của Người trên việc làm bé nhỏ của tôi, trên cuộc sống cụ thể hằng ngày của tôi.
Chúng ta không chỉ nài xin Chúa giúp chúng ta đạt được những mục đích quan trọng mà chúng ta cần phải hiện thực, nhưng cả đến khả năng để bước đi những bước cụ thể, nhỏ mọn và đơn sơ, mà tôi – chúng ta – có thể thực hiện được trong gia đình, trong Giáo xứ và làng mạc của chúng ta hay ở bất cứ nơi đâu. Và qua đó, thế giới sẽ trở nên tươi sáng hơn. Ðó chínnh là sứ mệnh của tất cả chúng ta!
“Lạy Chúa, xin ban cho con sự can đảm trong những bước mà con sắp sửa đi! Và xin cho con cảm nhận được rằng Chúa hằng đồng hành với con trên mọi nẻo đường con đi!”
Ðó là điều cần phải nài xin Chúa ban cho chúng ta. Bởi vì, có những giờ phút trong cuộc sống, Chúa để xảy đến cho chúng ta trở nên vô cảm và nguội lạnh, không còn cảm nghiệm được bất cứ điều gì nữa. Ðó là những giờ phút chúng ta hoàn toàn trở nên trống rỗng và khô cạn, như thể bị căng ra trên thập giá như Chúa xưa kia ở đồi Golgotha vậy! Tuy nhiên, chúng ta có thể và cần phải tha thiết câu xin:
“Lạy Chúa, xin che chở con, xin che chở cộng đoàn Dân Chúa. Xin cho chúng con cảm nhận được sự gần gũi của Chúa bên chúng con!”
Nói tóm lại, Chúa đã hỏi người mù Bác-ti-mê-ô – Người cũng hỏi bạn và tôi nữa -: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Chúng ta hãy trả lời Người với tất cả sự cảm xúc đầy mong mỏi đợi chờ mà mỗi người chúng ta hằng ấp ủ:
Lạy Chúa, xin cho con biết con đang bị mù!
Xin cho con nhìn thấy được điều con đang thiếu thốn, điều con thực sự đang thiếu thốn!
Xin ban cho sự can đảm trong những bước đường sắp tới, chứ đừng để con chỉ ngồi chờ đợi kẻ khác!
Và xin cho con cảm nhận được rằng Chúa luôn ở bên con!
Hy vọng rằng chúng ta cũng sẽ được lãnh nhận tình thương của Chúa, như người mù Bác-ti-mê-ô: Ðức Giêsu đã sờ đến anh. Anh lại có thể nhìn thấy và anh đã theo Ðức Giêsu trên đường Người đang đi.
“Can đảm lên!”
Đức Kitô đáp lại tiếng kêu chữa lành anh mù thành Bartimaeus, và đám đông dân chúng thúc dục anh can đảm lên, đừng sợ, Đức Kitô gọi anh đó. Can đảm thay cuộc đời, đổi lối sống, làm lại từ đầu. Can đảm dứt bỏ quá khứ hướng về tương lai tràn đầy hy vọng, tình yêu Chúa.
Đổi đời
Trước khi Đức Kitô đáp lại tiếng anh kêu cứu, người ta đã ngăn cản anh đến với Đức Kitô, người ta cấm không cho anh lên tiếng. Anh càng kêu to hơn và Đức Kitô đáp lại tiếng anh nài van. Lời nói của Đức Kitô có sức mạnh thay đổi tâm can con người. Lời Chúa thay đổi tâm can anh mù, thay đổi tâm can đám đông. Lời Chúa có sức mạnh chấm dứt đau khổ anh mù đang gánh chịu. Sức mạnh Lời Chúa mở mắt anh mù, chấm dứt chuỗi ngày tăm tối. Anh mù mắt sáng bước đi trong ánh sáng bình minh, anh không còn phải ngồi vệ đường xin ăn. Anh tự làm nuôi sống mình. Anh bước đi trong sự thật, trong ánh sáng Lời Chúa và trở thành môn đệ Đức Kitô, bước đi theo Ngài. Mọi nơi anh đều thuật lại việc lạ lùng Đức Kitô làm cho anh. Trước đây anh không có bạn bè, chỉ có những người thương hại cho anh cơm bánh. Trở thành môn đệ Đức Kitô anh có nhiều bạn bè, tông đồ Chúa, đám đông theo Ngài và những ai tin vào Ngài. Anh trở thành phần tử trong công đoàn đức tin Kitô.
Tương lai bừng sáng
Từ giã cuộc sống tối tăm, không còn ăn vận rách rưới như xưa, thay áo mới nhìn anh sáng sủa, mặt tươi vui, hớn hở. Đầu tóc chải tươm tất, anh đi đứng khoan thai, đầu cao, mắt sáng, hãnh diệnt rở thành môn đệ Đức Kitô. Đời anh thay đổi hoàn toàn, anh biết thưởng thức vẻ đẹp của nắng sớm, mắt tròn xoe nhìn nắng chiều và ca tụng vẻ đẹp thiên nhiên mà trước đây anh không hề được thưởng thức. Tương lai anh sáng vực với hy vọng tràn trề bởi từ nay anh có Đức Kitô chỉ đạo, dẫn đường và ban cho anh sự sống mới. Gặp gỡ Đức Kitô anh từ người vô danh trở thành lừng danh bởi bất cứ nơi nào Tin Mừng được rao giảng chuyện riêng đời anh trở thành chứng nhân tình yêu và lòng thương xót vô biên Chúa dành cho anh.
Nhìn bằng mắt đức tin
Anh mù là mẫu mực người lắng nghe sinh động. Anh chưa hề nhìn thấy Đức Kitô nhưng anh nghe nói về Ngài và nhớ những điều anh nghe được. Dù không nhìn thấy Đức Kitô nhưng anh biết Ngài sanh trưởng nơi Nazareth, con vua Đavít và Ngài có sức mạnh thần thiêng trên các bệnh tật. Anh nghe biết Ngài sắp đi qua nơi anh đang xin ăn và lên tiếng kêu cầu. Lời cầu của anh rất đơn sơ. Lậy Ngài, xin cho con mắt được sáng. Đơn giản trong lời cầu, mạch lạc, rõ ràng xin điều anh mong mỏi, ước ao.
Người mù mở mắt chúng ta học biết con mắt đức tin nhìn thấy Chúa trước con mắt xác thịt. Anh mù nhận ra Đức Kitô và tin vào Ngài trước khi Ngài mở mắt anh. Anh dùng mắt xác thịt chiêm ngắm vẻ đẹp kì công sáng tạo của Chúa. Kì quan trần thế củng cố đức tin nơi anh. Chúng không ban cho anh niềm tin nhưng làm cho niềm tin của anh vững mạnh hơn. Đức tin anh có trước khi nhìn thấy kì công của tạo hoá. Đức Kitô đã nói với anh. Đức tin anh đã mở mắt anh và điều anh xin cho mắt sáng được toại nguyện bởi anh có lòng tin vào Ngaì. Anh nhận biết Đức Kitô nhờ con mắt đức tin và con tin yêu mến nồng nàn trước khi nhìn thấy bằng con mắt xác thịt.
Con đường tin theo Đức Kitô không phải lúc nào cũng bằng phẳng, thẳng tắp, thênh thang. Thực ra con đường theo Chúa có lúc nọ, lúc kia, khi thẳng, khi cong. Đức Kitô xác nhận con đường Ngài chọn đi là con đường có cửa hẹp. Đường dẫn vào cửa hẹp dẫn đến sự sống. Mt. 7,13.
Dù đường đời hay đường theo Chúa. Con đường nào cũng có lúc quanh co, khi uốn khúc. Có đoạn chênh vênh sườn núi. Có đoạn gập gềnh khúc khuỷnh ẩn sau cánh rừng. Lại cũng có đoạn vắt ngang cánh đồng xanh, bao la, bát ngát, đây đó có chim kêu, kia nọ có bướm lượn. Dù thung lũng sâu hay trên đỉnh non cao, đường có lúc trong sáng, gió nhẹ bay. Khi khác lại mù sương, gió buốt, thốc từng cơn. Khi trong sáng trước mắt hứa hẹn một tương lai rực rỡ, khi mây đen bao phủ, tương lai mù mờ.
Song song với đường đời, người Kitô hữu còn có đường thiêng liêng dành riêng cho những ai nối gót Đức Kitô. Tự nguyện bước trên đường này sẽ nhận được ơn riêng Chúa ban. Ngài ban ơn hỗ trợ, nâng đỡ, khuyến khích, mời gọi Kitô hữu cùng nâng đỡ, dìu nhau tiến bước. Nếu có ai không may trượt chân, mệt mỏi, vấp ngã hãy đỡ nâng, giúp họ tiếp tục tiến bước.
Đường thiêng liêng
Chúa không tạo dựng đường riêng cho từng Kitô hữu. Ngài mời gọi Kitô hữu nhập thế, đi chung đường đời. Đã làm người ai cũng trải qua đường đời. Kitô hữu nhập thế để trở thành muối, thành men ướp đời. Nói cách khác, Kitô hữu vừa chung đường đời vừa có nhiệm vụ làm người chỉ đường, linh đạo cho nhân thế.
Cần biết rõ con đường mới có thể chỉ đường rõ ràng, mạch lạc. Không rõ con đường sẽ chỉ mông lung, lơ mơ. Cả hai đều lạc. Đường tâm linh soi sáng, hướng dẫn đường đời mà không thể ngược lại. Chúa soi sáng, dẫn đường tâm linh. Đây là đường vĩnh cửu, luôn đúng. Trào lưu xã hội chỉ đạo đường đời. Trào lưu thường có thời. Hết thời trào lưu chết, đường theo trào lưu cũng chết theo.
Vững tin, hèn tin
Chọn đường đời hay đường tâm linh đều không tránh khỏi lo âu, phiền muộn. Mạnh tin, coi lo âu, phiền muộn là cơ hội dẫn đến gần Chúa hơn. Gian truân, thử thách giúp cảm nghiệm rõ tình yêu Chúa. Cảm nghiệm Chúa luôn hiện diện, gần gũi, chia sẻ mọi biến cố trong đời.
Một khi Kitô hữu cảm nhận rõ ràng tình yêu Chúa dẫn dắt trên đường khi nguy khó người đó trở nên quyết tâm, bám chặt vào Chúa, vững tâm, không sờn lòng trước chông gai, bão tố. Đời lắm gian truân, đức tin và lòng thành càng lộ tỏ vững chắc. Tin theo mà không tính toán hơn thiệt.
Trái lại kém lòng tin thường coi lo âu, phiền muộn là chướng ngại. Thiếu phó thác vào Chúa. Cậy sức riêng giải quyết thử thách, nguy nan. Tin mà thiếu phó thác. Tâm tình lạnh nhạt, hay nản lòng. Tin giai đoạn, lúc tin, lúc không. Tìm cách trốn chạy đau thương, phiền muộn. Vừa chạy vừa than, trách. Cuống lên, chạy quanh. Chạy quanh chẳng tới đích. Hoạ may gặp đường cùng. Đường cùng không lối thoát nên bất mãn. Vì bất mãn nên coi thường, thờ ơ cầu nguyện. Tất cả đều do yếu kém đức tin gây ra.
Đức tin không trưởng thành so với tuổi đời. Đức tin không lớn so với thời gian tin theo. Đức tin trưởng thành nhờ sống bác ái, yêu thương, sống đời thánh thiện.
Chỉ đạo
Vì có đường nên cần có người chỉ đường, hướng dẫn cách đi, lối đi. Đức Kitô tự nhận Ngài là con đường.
Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Ga 14,6
Chọn con đường Chúa đi, chọn Ngài làm Đấng chỉ đạo bảo đảm chọn đúng đường. Chúa vừa là con đường cho con tiến đi vừa là Đấng chỉ đạo cho con tiến bước. Con đường Ngài chỉ đạo là sự thật. Trong sự thật luôn chứa mầm sống, sự sống. Đường Chúa hướng dẫn là chân lí, sự thật, mang lại sự sống vĩnh cửu.
Mù sương
Niềm tin tôn giáo không thể chết, nhưng có thể lu mờ, sống tình trạng mù sương. Tâm hồn mù sương đáng thương hơn đáng trách vì luôn sống trong tình trạng ngờ vực, lo âu, sợ sệt. Sợ niềm tin Kitô không bảo đảm được hạnh phúc nên nhờ vật chất bảo vệ. Mù sương thường nhập nhằng giữa linh đạo và đường đời. Để quyền lợi, danh vọng, đường đời hướng dẫn, chỉ đạo tâm linh.
Kẻ khai sinh câu ‘tốt đời, đẹp đạo’ tạo hoả mù cho tôn giáo. Hoả mù vì mỗi chính quyền định nghĩa đời một kiểu. Cần phải xác định loại đời nào. Không phải hễ tốt đời là đẹp đạo cả đâu. Kẻ phản đạo vẫn có thể làm tốt đời. Trái lại, tâm hồn thánh thiện không bao giờ làm hại đời. Nếu hại sao có thể gọi là thiện tâm, là lành thánh. Câu nói chính xác là tốt đạo sẽ đẹp đời. Ngược lại đẹp đời chưa chắc tốt đạo.
Tốt đời, đẹp đạo là sai. Câu này không đúng. Nét đẹp của đạo thể hiện một cách trọn vẹn, trong sáng khi tôn giáo có tự do thực sự. Tôn giáo phục vụ, làm tốt hơn đời sống con người. Tôn giáo sống gò bó trong khuôn khổ của đời. Tôn giáo đạt mục đích làm đẹp. Lạm dụng nét đẹp tôn giáo để khoe với đời, với người. Tôn giáo ích chi cho con người.
Một tâm hồn công chính, thánh thiện là nhờ sống niềm tin. Lạm dụng niềm tin chỉ có thể xảy ra cho kẻ thiếu đức tin và kẻ không niềm tin.
Vỉa hè là nơi mà người có con mắt thương mại buôn bán, kiếm sống; kẻ tàn tật, người mù loà, kiếm ăn hàng ngày. Người mù không nhìn thấy ông đi qua, bà đi lại nhưng nhận biết người đang tiến tới. Người mù không thể nhìn bằng mắt thường nhưng bằng cảm quan để nhận biết những gì xảy ra quanh mình. Người mù không nhìn thấy người cho đồng bạc nhưng biết hành động bác ái của người cho qua việc nghe đồng tiền rơi trong giỏ cói. Người mù qua cảm quan nhận biết sự hiện diện của người đang đứng gần kề. Người mù cảm nhận sự việc đang diễn ra quanh mình. Người mù biết sắp đến là một người hay một nhóm. Người mù cảm nhận khí trời hôm nay nắng đẹp hay mưa phùn hay bầu trời mù mây. Dù không trông thấy nhưng cảm nhận trong trí của anh ta.
Mong muốn có được cái này, cái nọ là ước mong chung của đa số. Khi có được điều ước mong lại không thích, không ưa, không hài lòng, lại muốn có cái khác vì thế mỗi chúng ta đều có những ước mong viển vông, hoặc ngay cả không biết chắc mình muốn gì, thích gì. Trong khi anh mù Batêmô dù không nhìn thấy nhưng lại nhìn rõ trong đầu điều anh ước ao, mong muốn. Anh mong tấm lòng bác ái, cử chỉ từ thiện từ người qua đường. Trong khi đó anh mong được Đức Kitô ban cho mắt sáng. Khi chưa gặp Ngài anh kêu nài
‘Lậy Đức Kitô, con vua Đavít, xin thương xót con’
Khi gặp Ngài điều xót thương thổ lộ rõ hơn. Anh xin cho được mắt sáng. Điều anh xin hoàn toàn trái ngược với hai người sáng mắt tuần trước nhắc đến của hai tông đồ. Họ sáng mắt thân xác nhưng lại mù mờ mắt tâm linh. Vì thế Đức Kitô nói với hai ông: Các con không biết điều các con xin (Mc 10,38).
Nhìn thấy mới tin là điều nhiều người mong ước nhưng không có chi bảo đảm điều bạn nhìn thấy là sự thật hay bảo đảm bạn nhìn chính xác, rõ ràng. Nếu nhìn luôn chính xác làm gì có chuyện chọn sai, mua lầm. Nếu nhìn thấy luôn chính xác thì làm gì có chuyện hối hận đã đi sai đường, lạc lối, đã phản tỉnh về nhận thức sai lầm.
Đám đông đi theo Đức Kitô lên tiếng can ngăn anh mù, không cho anh lên tiếng. Càng can ngăn, anh càng kêu to hơn. Đức Kitô dừng lại nói với đám đông để anh ta đến cùng Ngài. Tiếng của Ngài có lẽ nhỏ nhẹ, êm đềm, mời gọi. Dù là tiếng nhỏ nhẹ đó pha trộn với tiếng đám đông ồn ào, huyên náo thế mà anh mù vẫn nghe được tiếng Ngài. Không chần chừ nhưng nhanh chóng đáp lại tiếng Ngài gọi. Anh vui mừng nhảy nhón, chạy đến cùng Đức Kitô. Không phải vì anh nài nỉ dai dẳng mà Đức Kitô chữa anh mà chính là đức tin biểu lộ qua hành động. Điều này chính Đức Kitô xác nhận trước đám đông. Hành động thể hiện đức tin thầm kín trong lòng của anh biểu lộ qua hành động vui mừng nhảy múa, chạy nhanh đến và cuối cùng là đi theo Đức Kitô.
Đức Kitô sau khi cho anh mắt sáng bảo anh.
Anh hãy đi, đức tin của anh đã cứu anh.
Thay vì ra đi, anh chọn ở lại, chọn đi theo. Anh vất lại sau lưng tất cả để theo Chúa. Anh vất lại đồng tiền xin được trong ngày. Anh vất lại chỗ tốt mà anh ngồi xin bao năm qua mà nhiều người mù khác mong có được chỗ kiếm ăn tốt đó. Anh vứt lại cái khung cảnh quen thuộc và những người giầu bác ái luôn mở rộng tay phát cho anh miếng cơm. Anh vứt lại cái áo choàng duy nhất vật giữ ấm trong ngày giá lạnh. Anh vất lại lối sống cũ để mặc vào người lối sống mới, lối sống không nhà cửa, không chốn dựa đầu nhưng lại thảnh thơi, tâm tư thư thái, lòng an bình. Anh vứt lại í riêng để đón nhận ý Chúa soi đường, chỉ lối đời anh.
Người ta khoe mẽ đi nhiều biết rộng đúng câu ca dao, tục ngữ: Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Người mù này không đi đâu xa, nếu có cũng chẳng nhìn thấy gì thế mà anh học được sàng khôn. Anh học được sự sống đời đời. Anh học được đức tin để tin vào Đức Kitô và chính niềm tin đó giúp anh sáng mắt. Vì thế đức tin không đến từ bên ngoài mà đến từ bên trong, từ con tim chân thành yêu mến. Con tim biết lắng nghe Lời Chúa và biết đêm ngày giữ trong lòng Lời Ngài. Sàng khôn nằm trong con tim, không phải nơi phong cảnh của đất trời bao la.
Tiên tri Giêrêmia loan báo tin vui ngày trở về quê hương xứ sở. Ai đi đâu xa, cũng mong có ngày trở về. Nhất là những người bị đi lưu đầy, tù tội hay xa xứ đều mong có ngày được trở về quê hương. Sự trở về mang lại niềm vui lớn. Cuộc sống là một cuộc nối kết những chặng đường trở về. Chúng ta cùng đang lữ hành trên trần gian đầy chông gai thử thách. Mọi cuộc lữ hành cần có cùng đích để hướng tới. Mỗi người được sinh ra đời đều có cội có nguồn, có cha có mẹ, có quê hương xứ sở và có cùng đích để trở về. Cuộc sống vô thường và thay đổi, đổi thay mỗi ngày. Cũng như thời gian đắp đổi, có hợp có tan, có vui có buồn, có đi có về, có xuất có nhập, có sáng có tối và có sinh có tử. Không có ra đi thì cũng không có trở về. Sinh ký tử qui. Cuộc sống con người kết nối bởi những biến cố nhỏ to. Đời sống thiên nhiên cũng thế, vòng xoay bốn mùa xuân, hạ, thu, đông và hai mùa mưa nắng.
Dân Do-thái nhiều năm bị lưu đầy xa xứ sắp được trở về quê hương. Trong niềm vui mừng hân hoan, tiên tri Giêrêmia đã xướng lên: Vì Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân!(Gier 31, 7). Niềm vui ngày trở về là ngày vui của sự xum họp trong tự do và hạnh phúc. Người Do-thái được giải thoát khỏi làm nô lệ tôi đòi cho ngoại bang. Niềm mơ ước được giải phóng trở về quê hương là một niềm mong ước vượt qúa sức của họ. Thiên Chúa đã yêu thương an bài để mọi người cùng được trở về sống chung, không phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ tàn tật và người bất hạnh: Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo (Gier 31, 8).
Thánh Phaolô mời gọi mọi người hãy sống đúng với tư cách của mình là Kitô hữu, ngài nhắn nhủ rẳng: Chuyện gian dâm, mọi thứ ô uế hay tham lam, thì dù nói đến, anh em cũng phải tránh, như thế mới xứng đáng là những người trong dân thánh (Eph 5, 3). Sự xấu có mặt trong đời sống của con người mọi thời, xưa cũng như nay. Những bản năng thú tính kéo lôi con người trở về với cách sống hoang dã. Con người dễ rơi vào những dịp tội của sự ghen tương, thù ghét, oán hờn và gian tham. Sống buông thả theo bản năng thì rất dễ dàng như bèo trôi theo dòng nước. Đi vào con đường hẹp để tu tâm luyện tính đòi hỏi sự ý thức và luyện tập chuyên cần. Tu tâm là xa tránh dịp tội, cải thiện đời sống, giảm bớt tham sân si và tập tành các nhân đức. Muốn nên người tốt, chúng ta phải chuyên tâm tu luyện và thực hành điều thiện trong ý tưởng, lời nói và hành động.
Chúng ta đang sống trong thời đại ‘bấm nút’. Mọi phương tiện khoa học kỹ thuật xử dụng nút bấm và sờ chạm rất thuận lợi, dễ dàng và nhanh chóng. Chúng ta mất dần sự kiên nhẫn và sự kiên trì phấn đấu. Cái gì cũng muốn có kết qủa ngay lập tức như ơn chữa lành các bệnh tật. Vì thế, có sự xuất hiện giữa chúng ta những đáp ứng “mì ăn liền” trong cả niềm tin trong đời sống đạo. Khi xưa thánh Phaolô đã cảnh báo các tín hữu: Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em, chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống những kẻ không vâng phục (Eph 5, 6). Chúng ta đừng dễ cả tin những cách thế trà trộn lẫn lộn thực hư để đưa dẫn chúng ta vào những sự hão huyền. Chúng ta đừng mắc mưu chạy theo các thần tượng và nghĩ rằng họ có thể đáp ứng mọi nhu cầu tâm linh khao khát của chúng ta.
Bài Phúc Âm, kể câu truyện Chúa Giêsu chữa cho anh mù thành Giêricô. Anh bị mù cả hai mắt và phải đi ăn xin. Anh nghe nói về Đức Giêsu Nazarét, anh đã nhận ra Chúa qua con mắt đức tin: Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! “(Mc 10, 47). Có lẽ nhiều lần anh đã lảng vảng nơi đám đông tụ họp để ăn xin và nghe ngóng. Anh đã nghe và nhận diện ra Đấng có đầy lòng thương xót. Anh biết Đấng đó có uy quyền chữa trị bệnh cho anh. Anh bị mù chứ không phải quáng gà hay loạn thị. Các bác sĩ không thể chữa trị những chứng bệnh như mù, điếc, câm và què từ bẩm sinh. Anh đã chạy đến xin Chúa chữa. Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh? ” Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.” (Mc 10, 51). Chúa đã chữa lành cho anh ta.
Chúa chữa lành cho anh mù và tức khắc anh nhìn thấy. Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh! ” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi (Mc 10, 52). Ngày nay xuất hiện nhiều thầy lang chữa bệnh nhưng chỉ chữa những bệnh cảm cúm, đau nhức và phong thấp thường ngày. Thời tiết đổi thay, nay khỏe mai yếu. Hằng ngày người bệnh dùng cả thuốc bắc, thuốc nam, thuốc tây và thuốc bổ đủ loại, hiệu qủa sớm muộn tùy duyên. Thật khó bề mà lường được nguyên nhân và hậu qủa của các hiện tượng chữa lành xảy ra. Như lời thánh Phaolô phát biểu: Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em. Thời nay có rất nhiều người cả tin, dễ tin và mê tín dị đoan. Những cảm giác, ảo tưởng, tâm sinh lý, ước muốn và môi trường chung quanh cuốn hút chúng ta vào những mê hoặc và giả tưởng. Chúng ta cần thức tỉnh tâm linh và trải nghiệm những diễn tiến thật sự trong thân xác mình. Chúa Giêsu nói với anh mù: Lòng tin của anh đã cứu anh. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cần một niềm tin tuyệt đối vào danh Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
Là Kitô hữu, chúng ta tin vào quyền năng của Chúa Giêsu Kitô. Niềm tin cần được hun đúc, trau dồi học hỏi và thực hành trong đời sống. Tin là sự phó thác hoàn toàn vào việc Chúa quan phòng. Chúng ta bắt đầu Năm Đức Tin (the Year of Faith), Đức giáo hoàng Bênêđictô thứ 16 mời gọi các tín hữu hãy ý thức và sống niềm tin của mình cách chân thành. Chúng ta tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin Kính. Tin vào những mầu nhiệm được mạc khải trong đạo. Tin vào những điều Giáo Hội truyền dạy về sự sống đời này và đời sau. Củng cố niềm tin của mình bằng cách học hỏi lời Chúa, suy gẫm gương của các thánh nhân và thực hành sống đạo. Đức tin cần thấm nhập vào tâm trí, ý chí, ý thức và tuyên xưng qua lời nói và việc làm. Thánh Giacôbê nói về đức tin: Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết (Giac 2, 17).
Chúng ta đang trở về với cội nguồn của niềm tin. Cùng với Giáo Hội hoàn vũ, chúng ta tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin của Công Đồng Nicêa năm 325 (The Nicene Creed). Niềm tin mà chúng ta đã tuyên hứa trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Cậy dựa vào gương sáng của các vị tiền bối đã dám sống chết vì niềm tin vào Đức Kitô. Chúng ta cũng phải củng cố và hun đúc niềm tin sống đạo mỗi ngày. Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ: “Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “rời khỏi đây, qua bên kia! ” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được (Mt 17, 20). Đức tin là nhân đức đối thần. Trong cuộc sống đạo, chúng ta còn yếu đức tin và nhiều ngờ vực. Trau dồi qua tri thức chưa đủ mà cần kết hợp với Chúa Kitô trong nguyện cầu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” (Lc 17, 5).
Lạy Chúa, đức tin của chúng con rất hời hợt và nông cạn, xin thêm lòng tin cho chúng con. Đã nhiều lần chúng con mê hoặc chạy theo những lời mời gọi mơ hồ, giả trá, ảo tưởng và mê tín. Chúng con đã đặt niềm tin vào con người và phương tiện khoa học kỹ thuật trần gian hơn là đặt niềm tin nơi Chúa Kitô. Giờ đây, chúng con xin phó thác trọn vẹn cuộc đời trong tay Chúa, xin Chúa nâng đỡ phù trì.
“Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh” (Mc 10,52)
Câu chuyện người mù Bactimê được sáng mắt cho thấy sức mạnh của niềm tin nó sẽ cứu chữa chúng ta khỏi đau khổ và bất hạnh. Chúa Giêsu đến để kêu gọi mọi người hãy tin vào Ngài, chính Ngài sẽ giải thoát, cũng như chính Ngài khơi gợi niềm tin trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Ai tin vào Ngài thì được cứu khỏi tội lỗi và được hạnh phúc.
Trong Tin Mừng có rất nhiều câu chuyện diễn tả về sức mạnh của niềm tin như câu chuyện đầy tớ của một đại đội trưởng Rôma (Mt 8, 5-13) với việc Chúa Giêsu chỉ phán một lời là được cứu sống và người đàn bà bị băng huyết mười hai năm khi chỉ nghĩ rằng đụng vào tua áo của Chúa Giêsu là được khỏi (Mt 9, 20-22), thật sự bà được chữa khỏi mà không cần một hành động hay lời nào của Chúa Giêsu hay người con gái của bà góa ngoại giáo xứ Canana (Mt 15,21-28), khi Chúa Giêsu thử thách bà bằng cách làm ngơ trước sự van xin tha thiết nhưng cuối cùng con gái bà cũng được chữa khỏi…còn rất nhiều câu chuyện khác trong Tin Mừng nói lên sức mạnh của niềm tin.
Ở đây, anh mù Bactinô được sáng mắt do sự kêu cứu quyết liệt và kiên nhẫn của anh ta. Anh không thấy nhưng anh nghe được, anh nghe người khác bàn tán về một ông Giêsu nào đó có khả năng làm nhiều chuyện lạ, có thể nói anh kêu cứu Chúa Giêsu một cách cầu may. Cái mù đã làm anh đau khổ một thời gian dài và hiện tại dù có nhiều người quát mắng, cản trở mình nên anh gào lên thống thiết và mãnh liệt hơn khi nghe tin Chúa Giêsu đã gần đến mình vì bây giờ là cơ hội anh được giải thoát. Chúa Giêsu đã đoái đến và cứu chữa anh.
Nơi Chúa Giêsu, khi thực hiện một việc cứu chữa, Ngài có nhiều cách để thực hiện, bằng lời nói, hành động hay ngay cả một sự thách thức để thử thách. Đó là quyền của Ngài nhưng Ngài luôn biết nhu cầu, ước muốn và suy nghĩ của con người. Ngài đến là để cứu chữa khỏi mọi bệnh tật, tội lỗi của con người, điều còn lại là nơi mỗi người chúng ta có muốn, kiên nhẫn và tin vững vàng vào quyền năng và tình thương của Chúa hay không?
Chúa Giêsu không cho thấy Ngài đã làm gì để cứu chữa anh mù này, Ngài chỉ kêu gọi hãy để anh đến gần mình và người khác đừng cản trở anh chỉ với một câu xác nhận đơn giản “lòng tin của anh đã cứu anh”, anh mù Bactimê được sáng mắt, một cuộc sống mới đầy ánh sáng đã đến với anh.
Chúa luôn luôn hiện diện trong cuộc sống của con người, nơi vũ trụ vạn vật này và sâu xa hơn là Ngài ở trong chính thẳm sâu tâm hồn của mỗi chúng ta. Làm sao nhận ra, để tin, để xác tín và sống trọn vẹn với Chúa, Chúa vẫn ở ngay trước mặt chúng ta với những gì chúng ta đang có và đang sống hôm nay. Chúa cũng nói với chúng ta niềm tin của con đã cứu con, tin như nào thì được như thế ấy nhưng tất cả điều xuất phát từ nơi Chúa, ơn của Chúa và chính Chúa là Đấng ban ơn. Ơn Chúa luôn dư đầy cho những ai luôn biết mở rộng lòng mình để đón nhận, tin vào Chúa thì cuộc sống sẽ thay đổi tốt hơn trong từng ngày sống của chúng ta. Niềm tin có sức mạnh giải thoát nhưng chúng ta phải tin vào điều gì và tin vào ai? Đó là điều quan trọng.
Lạy Chúa xin cho con có được niềm mạnh mẽ và sâu xa vào Chúa để đời sống của con được biến đổi và được cứu chữa khỏi mọi tội lỗi.
Đêm nọ, có một người mù đến thăm bạn. Khi về, người bạn sáng mắt tặng cho anh ta một chiếc đèn lồng theo thói quan của người Nhật thời xưa. Thế nhưng anh mù bèn nói: Tôi không cần đèn, vì đối với tôi, tốt và sáng cũng như nhau. Nhưng người bạn trả lời: Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái, thì người khác có thể chạy đụng vào anh, anh nên cầm đi. Nghe hợp lý, anh mù ra về vời chiếc đèn lồng trên tay. Đi được một quãng, đột nhiên anh bị một người đụng phải. Với vẻ tức giận anh nói: Bộ anh không thấy chiếc đèn của tôi đó sao? Người kia liền đáp: Đèn của anh tắt rồi.
Với câu chuyện này, anh mù tưởng mình thấy, còn người kia thì không thấy chiếc đèn. Thế nhưng chính anh mới không thấy rằng đèn mình đã tắt. Con người tưởng mình thấy được nhiều chuyện nhưng lại quên hay cố tình quên nhiều cái mình không thấy.
Từ những ý tưởng trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Anh mù mang tên gọi Bartimê, có nghĩa là con của ông Timê: nghề nghiệp ăn xin, địa chỉ cư trú là lề đường thành Giêricô. Anh vừa nghèo nàn lại vừa tàn tật. Và dưới mắt người Do Thái thì đó là dấu chỉ bị Chúa trừng phạt, vì tội lỗi của bản thân hay vì tội lỗi của cha ông thuở trước. Anh bị bỏ rơi và sống bên lề xã hội. Người ta không cho anh nói ngay cả khi anh lên tiếng kêu cầu Chúa giúp đỡ.
Như thế người Do Thái tưởng rằng mình thấy rõ anh, nhưng thực ra họ lại không thấy mình bị sai lầm, không thấy nhu cầu sáng mắt của anh vượt trên những đồng tiền bố thí. Còn anh mù, tuy không trông rõ vạn vật nhưng lại thấy được chiều sâu của con người. Anh thấy Chúa Giêsu là con vua Đavít là Đấng Messia. Anh thấy quyền năng của Ngài có thể giúp đõ anh một cái gì khác hơn là tiền bạc. Và như thế có một sự trái ngược: người mù đã thấy được nhiều cái mà người sáng mắt không thấy.
Chúng ta có thể phân biệt hai loại mù. Mù thể xác và mù tâm hồn. Mù thể xác thì không thấy được vạn vật, còn mù tâm hồn thì đa dạng hơn, chẳng hạn như không hiểu được những gì cần phải hiểu, không khao khát sự công chính và ơn cứu độ. Không phân biệt đâu là chân thiện mỹ… Và trên tất cả, đó là không thấy mình đang sống như người mù. Có mắt mà không nhìn và có nhìn thì cũng chẳng thấy.
Với chúng ta những người Kitô hữu cũng thế: đừng thấy người nào siêng năng đi lễ đọc kinh, ăn ngay ở lành mà đã vội cho là đủ. Đừng thấy buổi lễ rình rang với trống kèn inh ỏi thì cho rằng lễ đó trang trọng, đạt yêu cầu. Đừng thấy Giáo Hội là một tổ chức chặt chẽ, nhà thờ và tháp chuông được xây cất, vội cho rằng đạo đang được phát triển. Nhưng phải như anh mù xin cho mình được thấy, thấy rõ hơn, thấy chính xác hơn: thấy Đức Kitô là Đấng cứu độ, để rồi như anh mù rời bỏ vệ đường, dứt khoát, tìm đến với Ngài. Mặc dù chúng ta là những người có cặp mắt sáng về thể xác, nhưng biết đâu lại mù loà về tâm hồn, cho nên cùng với người mù qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta hãy kêu cầu: Lạy Chúa, xin thương xót con và cho con được sáng.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Con mắt là một bộ phận hết sức mong manh, dễ bị tổn thương, dễ bị nhiễm trùng, nhất là trong điều kiện vệ sinh ngày xưa.
Chúng ta không rõ nguyên nhân khiến anh Báctimê bị mù, chỉ biết anh không mù từ lúc lọt lòng mẹ. Anh đã từng được thưởng thức ánh nắng ban mai hay nhìn ngắm những người thân yêu, bè bạn. Bây giờ chỉ có bóng tối triền miên. Anh Báctimê sống bằng nghề hành khất, ngồi ăn xin bên vệ đường, sống bên lề xã hội.
Danh tiếng của Đức Giêsu Nagiarét, anh đã được nghe nhiều. Ngài có thể làm người mù bẩm sinh sáng mắt. Anh tin vào Ngài, thầm mong có ngày được gặp.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc hạnh ngộ ấy.
Rất tình cờ, Đức Giêsu đi ngang qua đời anh. Anh mù lòa, ngồi đó như chỉ chờ giây phút này. Khi nghe biết là Đức Giêsu cùng với đám đông đi qua, anh thấy cơ may đã đến.
Tất cả sức mạnh của anh nằm ở tiếng kêu, tiếng kêu thống thiết bi ai của một người đau khổ, nhưng cũng là tiếng kêu đầy tin tưởng, hy vọng. “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!”
Tiếng kêu báo hiệu một sự hiện diện, một cầu cứu.
Nhiều người muốn bịt miệng anh, nhưng anh chẳng sợ gì đe dọa. Càng bị đe dọa, anh càng gào to hơn nhiều. Cuối cùng tiếng của anh đã đến tai Đức Giêsu. Ngài dừng lại và sai người đi gọi anh, vì Ngài cũng chưa rõ anh đang ở đâu. Khi biết mình được gọi, anh vội vã và vui sướng vất bỏ cái áo choàng vướng víu, nhẩy cẩng lên mà đến với Đức Giêsu.
Anh đi như một người đã sáng mắt, bởi thực ra mắt của lòng anh đã sáng rồi. Khi được khỏi, lòng tin của anh thêm mạnh mẽ hơn.
Anh thấy lại mặt trời, anh gặp Đấng cho anh ánh sáng. Không ngồi ở vệ đường nữa, anh đứng lên đi theo Đức Giêsu.
“Xin thương xót tôi. Xin cho tôi nhìn thấy lại.” Đây có phải là tiếng kêu của tôi không?
Khả năng thấy là một khả năng mỏng dòn. Ta có thể thấy điều này mà không thấy điều kia. Tôi có thể lúc thấy lúc không, hay cố ý không muốn thấy. Lắm khi tôi không đủ sức để ra khỏi sự mù lòa của mình. Tôi có kêu gào với Chúa để xin được ơn thấy lại không?
Một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có thể mù lại. Chính vì thế tôi cứ phải xin cho mình được thấy luôn.
Thấy mình bé nhỏ, thấy Chúa bao la, thấy anh em dễ mến.
Thấy là đi vào một con đường dài hun hút.
Chúng ta phải được Chúa xóa mù suốt đời.
Chỉ trong ánh sáng của Chúa, tôi mới nhìn thấy ánh sáng.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về nạn hành khất ở nơi bạn sống? Đâu là nguyên nhân? Đâu là cách giải quyết tốt nhất?
Nhiều người tự giam mình trong sự mù lòa. Họ chỉ thấy điều họ muốn thấy. Họ bị khép kín trong thế giới chủ quan của họ. Có khi nào bạn thấy mình mù lòa về bản thân không? Làm sao bạn được sáng mắt trở lại?
Cầu Nguyện
Như người mù ngồi bên vệ đường xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy, thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa chiếu dãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Nỗi khổ của con người
Anh mù ngồi bên vệ đường, ăn xin, sống nhờ lòng thương của con người. Nếu ai đã từng bị sống trong tăm tối hay quan sát người mù, sẽ thấy bị mù cực khổ như thế nào! Phải ăn xin cũng là một nỗi khổ, và hơn nữa phải tùy thuộc người khác trong nhiều lãnh vực: đi lại và những nhu cầu tối thiểu của con người. Hiểu được như vậy, sẽ dễ dàng cảm thông tiếng kêu của anh mù hơn: “Lạy Con Vua Đavit, xin thương xót tôi”. Không phải chỉ có bệnh mù về thể lý, nhưng còn có mù về thiêng liêng nữa. Mù thể lý ngăn cản người ta thấy những gì là vật chất, còn mù thiêng liêng ngăn cản người ta thấy sự thật. Mù làm khổ mình và khổ cả người khác nữa.
Được sáng, thật hạnh phúc dường bao!
Đức Giêsu thương cảm trước nỗi khổ của con người
Những người đang hiện diện ở đó đòi người mù im lặng, nhưng anh ta lại càng la to hơn. Tại sao những người ở đó đòi anh mù im lặng? Có thể họ nghĩ tiếng kêu của anh mù vô ích, vì chẳng ích lợi gì? Đức Giêsu làm gì có tiền mà bố thí cho anh mù! Và hơn nữa, làm sao Đức Giêsu có thể chữa cho anh mù thấy được? Có lẽ không phải họ không thương anh mù cho bằng họ nghĩ Đức Giêsu chẳng giúp gì được cho anh mù. Anh ta nên im đi thì tốt hơn.
Dù bị ngăn cản và phản đối, anh mù vẫn la, và càng la to hơn. Anh ta hy vọng tiếng kêu của anh ta tới tai Đức Giêsu và được Ngài thương xót: “Lạy Con Vua Đavit, xin thương xót tôi”. Anh ta là người tin vào Đức Giêsu, chờ đợi và hy vọng nơi Đức Giêsu hơn bất cứ ai trong trường hợp này. Và tiếng kêu của anh ta đã lọt vào tai Đức Giêsu, và Ngài đã bị “đáng động” bởi tiếng kêu này. Đức Giêsu rung động trước nỗi khổ của con người.
Thiên Chúa vẫn thương cảm trước nỗi khổ của con người. Ngày xưa dân Do Thái khi bị nô lệ cực khổ bên Ai-cập, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã thương giải phóng họ khỏi Ai-cập. “Những ai vất vả và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho” (Mt.11, 28): Đức Giêsu cũng luôn thương cảm trước nỗi khổ của con người.
Tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, và kêu cầu Ngài, Ngài sẽ đáp cứu.
Hãy thương cảm trước nỗi khổ của con người như Đức Giêsu
Thương cảm trước nỗi khổ của con người, là nét đặc trưng của Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng muốn con người thương cảm trước nỗi khổ của anh em mình như Ngài. Người đầy tớ “không biết thương xót” anh em mình, sẽ không được thương xót (Mt.18, 23-35).
Rung động trước nỗi khổ của anh em mình, là trở nên người hơn, trở nên con Thiên Chúa hơn. Ước gì con người biết thương cảm và yêu thương người khác trong hoàn cảnh khốn khổ của họ. Ngay cả khi không có gì để cho, hoặc có rất nhiều điều để cho người khác, thì tình yêu thương vẫn là món qùa qúy nhất.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Cảnh tượng này cho ta thấy đời anh bị bao phủ bởi nhiều thứ bóng tối.
Trước hết là bóng tối thể lý. Không có đôi mắt, đời anh chìm trong tăm tối. Không biết thế nào là ánh sáng. Không biết thế nào là cảnh thiên nhiên. Không nhìn được khuôn mặt của những người thân. Không tự mình làm gì được. Không tự mình sinh sống được. Chẳng biết có ánh sáng ban ngày. Đời anh chìm ngập một bóng đêm. Bóng đêm dày đặc không một chút ánh sáng. Bóng đêm triền miên không bao giờ chấm dứt. Tất cả là một màu đen. Thế giới màu đen. Quần áo anh mặc màu đen. Khuôn mặt mọi người đều màu đen. Cơm anh ăn hằng ngày cũng màu đen. Một màu đen muôn thủơ.
Kế đến là bóng tối xã hội. Vì tàn tật anh trở thành người dư thừa trong xã hội. Anh bị loại trừ khỏi xã hội. Chỉ còn ngồi bên vệ đường mà ăn xin. Như cây cỏ mọc bên đường thôi. Thậm chí khi Chúa đến, mọi người nô nức đón Chúa. Còn anh chỉ kêu lên thôi cũng đã bị người ta cấm đoán, đe nẹt rồi. Anh không có quyền gì hết. Vì anh chỉ là thân phận sống nhờ ở đậu.
Sau cùng là bóng tối tâm lý. Cuộc đời anh không có lối thoát. Anh bị kết án suốt đời chịu giam cầm trong bóng tối. Làm sao thoát ra được khi anh không thể tự mình làm gì. Khi mọi người kể cả những người thân ruồng bỏ anh. Khi xã hội gạt anh ra bên lề cuộc sống.
Nhưng Đức Kitô đem đến cho anh ánh sáng ngập tràn.
Người chiếu vào đời anh ánh sáng hy vọng. Tuy chưa được gặp Chúa, nhưng chỉ nghe những lời Chúa giảng, những việc Chúa làm anh đã tràn trề hy vọng. Chúa có thể giải thoát anh khỏi định mệnh tăm tối vây bọc cuộc đời anh. Người có thể đưa anh tới miền ánh sáng. Tương lai anh sẽ thay đổi. Cuộc đời anh sẽ tươi sáng. Anh tràn ngập niềm hy vọng. Niềm hy vọng trở thành ánh sáng chiếu soi cuộc đời anh.
Người chiếu vào đời anh ánh sáng đức tin. Tuy chưa gặp Chúa nhưng anh đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Không tin sao được vì chỉ có Chúa là Đấng duy nhất có thể cứu anh khỏi bóng tối. Vì thế thoạt nghe tiếng Chúa anh đã kêu van lớn tiếng xưng tụng Người là Con Vua Đavít nghĩa là Đấng Cứu Thế. Có lẽ những người đi đón Chúa hôm ấy đều có đôi mắt sáng. Nhưng không ai có ánh sáng đức tin. Vì không ai tin Chúa là Đấng Cứu Thế. Trừ anh mù. Mắt anh mù nhưng đức tin của anh sáng. Nên anh là người duy nhất lớn tiếng tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu Thế. Niềm tin của anh thật mãnh liệt. Dù bị mọi người chung quanh ngăn cản, niềm tin ấy không những không bị suy yếu mà còn càng trở nên mạnh mẽ hơn. Bị mọi người đe dọa, cấm cản, niềm tin của anh càng vững vàng không gì có thể lay chuyển được, nên anh càng kêu to hơn.
Người đã chiếu vào đời anh ánh sáng tình yêu. Chúa là tình yêu. Chúa không nghe bằng tai nhưng nghe bằng trái tim. Vì thế giữa đám đông hỗn độn của thành Giêricô phồn hoa, Chúa vẫn nghe được tiếng kêu van của một người con bé nhỏ ngồi bên vệ đường. Không những Chúa nghe thấy tiếng lòng khốn khổ của anh mà Chúa còn ưu ái gọi anh đến. Thật là một cử chỉ ưu ái quá sức tưởng tượng. Giữa đám đông trong một thành phố phồn hoa, Chúa chẳng gọi ai trừ ra người mù ngồi bên vệ đường. Chúa chẳng chờ đợi ai trừ ra chờ đợi người con nhỏ bé tội nghiệp bị bỏ rơi nhất thành phố đến với Chúa. Đời anh chưa được ai yêu thương như thế. Đời anh chưa được ai quan tâm như thế. Đời anh chưa được ai mời gọi như thế. Đời anh chưa được ai chờ đợi như thế. Và Chúa còn hỏi anh muốn gì. Đời anh chưa được ai âu yếm như thế. Tình yêu Chúa làm cho đời anh bừng sáng. Anh tìm thấy tất cả ý nghĩa cuộc đời khi gặp được Chúa.
Chúa đem ánh sáng đến cho anh. Chúa là tất cả đời anh. Anh không cần gì khác nữa. Anh vất bỏ cả áo choàng là tài sản duy nhất. Vì anh đã khám phá ra kho tàng quý giá nhất đời. Anh đứng phắt dậy mà đến với Chúa vì tuy mắt chưa nhìn thấy mà lòng anh sáng như sao băng. Và nhất là anh đi theo Chúa cho đến cùng vì Chúa chính là ánh sáng cho đời anh. Chúa sẽ dẫn đường anh đi. Đi đến sự thật và đến sự sống.
Đời sống tôi có nhiều bóng tối vì tôi chưa tin vào Chúa. Đời sống tôi bế tắc vì tôi chưa đặt niềm hy vọng vào Chúa. Đời tôi mệt mỏi chán chường vì tôi chưa yêu mến Chúa. Hãy tin tưởng vào Chúa. Ánh sáng đức tin sẽ chiếu soi đường đời tôi đi. Hãy hy vọng vào Chúa. Niềm hy vọng là ánh sáng ấm áp cho cuộc đời. Hãy yêu mến Chúa. Tình yêu Chúa là ánh sáng hướng dẫn mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của tôi. Hãy noi gương anh mù thành Giêricô bỏ tất cả mà theo Chúa. Sống bên Chúa đời tôi sẽ ngập tràn ánh sáng.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Hãy kể ra những thứ bóng tối trong đời anh mù thành Giêricô.
2) Hãy kể ra những thứ ánh sáng Chúa đã chiếu vào đời anh
3) Tại sao anh mù sau khi hết mù đã đi theo Chúa?
4) Bạn có bị bóng tối nào bao phủ đời bạn không?
5) Bạn có tìm thấy Chúa là ánh sáng cho đời bạn không?
(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Khảm)
Trong bài hát Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi, chúng ta hát lên: “Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục…” Chúng ta lại hát tiếp: “Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu”.
Lời kinh này không chỉ là một lời cầu nguyện mà còn là một lời kinh diễn tả lối sống đích thực của mỗi người Kitô hữu. Như vậy bổn phận của mình không phải chỉ là đem yêu thương vào nơi oán thù mà còn phải dọi ánh sáng vào nơi tối tăm.
Có một câu chuyện kể như thế này:
Một anh mù đi thăm một người bạn. Đã lâu không gặp nên đôi bạn hàn huyên mãi quên cả thời gian. Khi trời tối mịt thì anh mù mới cáo từ ra về. Anh bạn bảo: “Thôi để tôi thắp cho anh cái đèn, trời tối quá rồi”. Anh mù nghĩ là bạn muốn đùa nên trả lời: “Anh muốn đùa hả? Tôi mù thì ngày và đêm có khác gì nhau đâu”. Anh bạn vội vàng xin lỗi nói: “Tôi đâu có dám đùa với anh, ý tôi là anh nên cầm cái đèn để người ta sẽ thấy sáng và không đụng phải anh”. Anh mù nghe nói có lý liền vui vẻ hiên ngang xách đèn ra về. Đi được một đoạn thì có một người đi ngược chiều đụng phải, làm anh mù ngã xuống vệ đường. Quá tức giận, anh lồm cồm ngồi dậy chửi đổng: “Đồ đui, người ta cầm cái đèn sáng như thế này mà không thấy hả?”. Người kia liền mắng lại: “Mày mới là đồ đui, đèn tắt mẹ từ lúc nào mà còn chửi người ta”.
Coi chừng chúng ta lại rơi vào tình trạng như thế. Nếu mình rơi vào tình trạng đấy thì rất nguy hiểm. Làm sao có thể dọi ánh sáng vào nơi tối tăm khi mà chúng ta không có ánh sáng, hoặc ánh sáng chúng ta đã bị tắt ngấm từ lâu.
Đặt câu hỏi như thế thì chúng ta thấy anh mù Bactimê sẽ trở thành gần gũi với mình hơn. Anh ta không còn là khuôn mặt xa lạ của 20 thế kỷ trước, mà giờ đọc lại mình có cảm tưởng như là đọc truyện cổ tích. Anh ta giờ trở thành một khuôn mặt mời gọi mình suy nghĩ về vấn đề của chính cuộc đời mình.
Ngày nay người ta nói đến mù chữ, vài năm nay lại thêm mù vi tính. Một thứ mù về mặt trí tuệ. Phúc Âm kể cũng có lần Chúa Giêsu mắng các môn đệ: “Các ngươi có mắt mà cũng như mù”. Và đây là một thứ mù về mặt tâm linh.
Khi kể câu chuyện này tôi không nhắm đến mù thân xác, vì thời đó có rất nhiều người mù, nhưng Chúa Giêsu không chữa cho tất cả. Ngài chỉ chữa cho một số người mang tính biểu tượng. Cũng không phải thánh Maccô nói đến mù chữ, vì chúng ta không nghe kể Chúa Giêsu mở lớp tình thương để dạy học. Như vậy chắc chắn là thánh Macco nhấn mạnh mù về mặt tâm linh, mù về mặt tinh thần. Ta có thể hiểu như thế nào về tình trạng mù này?
Có một câu chuyện kể về các người mù rủ nhau đi xem voi. Xem xong thì cùng nhau ngồi lại bàn tán, mô tả xem con voi nó giống như cái gì?
Anh sờ được cái chân thì dõng dạc tuyên bố: con voi nó giống như cái cột nhà.
Anh khác thì oang oang: con voi nó giống như cái quạt. Vì anh này rờ được ngay cái tai của nó.
Còn các anh sờ cái bụng, cái vòi. Ta không biết họ sẽ mô tả con voi giống như cái gì.
Suy nghĩ kỹ chuyện này thì thấy cũng thấm thía lắm. Tôi muốn chia sẻ với anh chị em là: chúng ta có thể rơi vào tình trạng mù về mặt tinh thần, có nghĩa là ta không nhìn thấy được chân lý toàn diện về cuộc sống. Ta chỉ nhìn thấy chân lý phiến diện như anh mù mô tả con voi “nó giống như cái cột nhà”, như thế là rất phiến diện.
Từ 30 năm về trước, một nhà xã hội học Mỹ… đã lên tiếng về con người thời đại. Ông gọi: “Con người một chiều kích”. Tôi thấy nhận xét ấy vẫn đúng cho đến ngày nay và chắc có lẽ càng ngày sẽ càng đúng hơn.
Cuộc sống con người chúng ta được đan kết bằng nhiều chiều kích. Có một chiều kích hướng thượng, mình gọi là chiều dọc trong mối quan hệ với Thiên Chúa. Có một chiều kích ngang nữa, trong quan hệ bình đẳng yêu thương đối với mọi người, và có một chiều quan hệ đối với thế giới vật chất.
Càng ngày con người ta càng quên mất cái chiều hướng thượng, quên mất mối quan hệ hàng ngang với anh em trong tình yêu thương, mà chỉ quan tâm đến quan hệ tình bạn với thế giới vật chất.
“Con người một chiều kích”. Chúng mình không khám phá, không sống được cái chân lý toàn diện về cuộc sống của con người. Nguyên nhân nào có thể dẫn đến tình trạng đó.
Trở lại với hoàn cảnh của những anh em khiếm thị. Hầu hết đều bị mù từ lúc mới sinh. Có một số do tai nạn sau này. Nếu hiểu mù là mình không thấy sự vật thì cũng có lúc mình cũng không nhìn thấy mặc dù mắt mình vẫn sáng. Chẳng hạn như có sự cố cúp điện hay lúc mình bị đau mắt phải lấy khăn che mắt cho đỡ chói, đỡ nhức. Những hình ảnh ấy khiến tôi nghĩ đến tình trạng mù về mặt tinh thần. Nếu bảo về tinh thần mù lòa từ lúc mới sinh thì không thể tin được.
Tất cả mọi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa đều ban tặng cho mọi người khả năng nhận biết chân lý.
Ta có thể rơi vào tình trạng mù tâm linh là do nguyên nhân thứ 2, thứ 3. Nghĩa là mình thiếu ánh sáng. Do những hoàn cảnh và những môi trường sống.
Hiểu như vậy, ta thấy rằng hầu hết chúng ta đều là những người mù đáng thương về mặt tâm linh. Vì vậy, chúng ta hãy khiêm tốn chạy đến với Chúa để người chữa trị. Người sẽ giúp chúng ta nhìn thấy chân lý toàn vẹn. Người sẽ giúp chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Cha của chúng ta và mọi người là anh em của ta. Người sẽ giúp ta nhận ra con đường tiến về nhà Cha trên Trời. Con đường đó là con đường Chúa Giêsu đã đi và đã tới đích. Và đó cũng là con đường hẹp, con đường ngược dốc, con đường thập giá nhưng là con đường dẫn đến sự sống vinh quang và vĩnh cửu. Amen.
Anh chị em thân mến.Có lần tôi nghe bài hát được ca sỹ Nguyễn Hưng diễn tả hết tâm tình, nên tôi rất thích. Bài hát mang tên Đôi mắt, trong đó có những câu;
Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời. Để nhìn đời, và để làm duyên. Mẹ cho em đôi mắt mầu đen, Để thương để nhớ, để ghen để hờn. Đôi mắt em là cửa ngõ tâm hồn, Là bài thơ hay nhất, Là lời ca không dứt, Là tuyệt tác của thiên nhiên.
Thật thế, đôi mắt là cửa ngõ tâm hồn, là tuyệt tác của thiên nhiên. Nếu đôi mắt đóng lại, thì mọi hướng đi dường như cũng đóng lại và cuộc đời dường như ở vào một tình thế bất động, ở bên lề của cuộc sống.
Nhìn vào anh mù đang ngồi ở vệ đường. Đôi mắt anh ta không thể mở được, nên anh ta đành ở bên lề cuộc sống, anh ngồi bên lề đường, không thể hòa cùng mọi người để có những bước chân thong dong trên đường. Anh ta còn phải trông chờ vào những của bố thí dư thừa để nuôi sống bản thân. Anh ta cũng trông chờ những tin tức dư thừa để theo dõi tình hình chung quanh một chút ít nào đó, đôi khi còn bị ngăng cản. Anh cũng muốn hòa với mọi người bước trên đường cuộc sống, nên khi được hỏi, không cần suy nghĩ lâu, anh trả lời ngay: “Lạy Ngài xin cho tôi được sáng mắt”. Anh không xin tiền bạc hay của nuôi thân. Anh đã vất tấm áo choàng là món đồ nghề của mình, nhảy chồm lên, vượt khỏi tình trạng bất động, bên lề đường, bên lề cuộc sống. Cú nhảy là bước chân đầu tiên để bước vào con đường của cuộc đời. Mặc dù đôi mắt thể chất chưa được sáng nhưng mắt tâm hồn anh đã mở ra, đã nhìn thấy Đấng mở mắt cho mình. Anh bước theo con đường mà ngài dẫn dắt.
Mỗi người chúng ta có được cái tuyệt tác của thiên nhiên, cửa ngõ tâm hồn đó là đôi mắt. Nhưng vì chúng ta xử dụng quá nhiều để nó trở nên là cái gì quá bình thường, cho đến đỗi nhiều khi chúng ta không còn biết quí trọng nó nữa, thậm chí nhiều khi chúng ta quên mất đi sự hiện diện của cái tuyệt tác này. Khi nào mà đôi mắt có vấn đề, khi đó chúng ta mới cảm thấy phải chú ý, nhưng có khi lại quá trể để không còn có thể làm gì được nữa.
Cái cửa ngỏ của tâm hồn đó nhiều khi cũng bị chúng ta đóng kín nó lại, không cho nó nhìn thấy những điều cần phải thấy, không cho nó nhìn thấy hướng đi đúng đắn để mà đi. Chúng ta muốn ngồi bên lề cuộc sống để hưởng thụ, bất chấp những tiếng xôn xao của cuộc đời, bất chấp những bước chân của sự thật, bất chấp lời mời gọi đứng lên của Thiên Chúa. Chúng ta cố bám lấy chiếc áo choàng của sự ích kỷ để tìm tư lợi bản thân, áo choàng của sự nóng nải, cố chấp để không thể nghe được tiếng mời gọi thống thiết, áo choàng của sự ghen tương đố kỵ, để không thể bước chân trên con đường yêu thương và chấp nhận người khác ở bên cạnh. Chúng cũng không thể vượt qua được sự tự ái quá lớn của bản thân, vì chiếc áo choàng đó quá nặng nề làm trì trệ bản thân. Chính vì thế chúng ta không thể nào có được cú nhảy vọt như anh mù trong bài phúc âm mà chúng ta vừa nghe. Nhiều lần Chúa đến bên cạnh, hỏi ý kiến, nhưng chúng ta không dám mở lời xin cho được sáng mắt, vì sợ phải bỏ đi chiếc áo choàng nghề nghiệp của mình. Chúng ta cũng sợ phải bước đi theo Chúa, vì con đường của Ngài là con đường Thập Giá, con đường vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, là con đường yêu thương. Chúng ta sợ phải vất đi chiếc áo choàng bản thân mình, nên nhiều lần không nhận ra được Ngài trong đám đông qua lại của cuộc đời. Chúng ta vẫn mở mắt nhìn nhưng không thấy gì, vì chỉ thấy chiếc áo choàng của bản thân và những lợi lộc dư thừa đang chứa trong đó. Nếu như thế thì cửa ngõ tâm hồn mình đã tự đóng lại, vậy thì cái tuyệt tác của thiên nhiên đã phí đi nơi con người của chúng ta. Chẳng lẽ con đường mà Chúa Giêsu bước đi cùng với bao nhiêu người đã từng bước theo, không phải là con đường của chúng ta sao? Chẳng lẽ chúng ta chịu ngồi lì bên lề cuộc sống mãi như thế sao? Vậy thì tương lai mai sau, kết thúc cuộc đời chúng ta cũng đành chịu ngồi bên lề cuộc sống, chứ không chịu vào con đường hạnh phúc mà Thiên chúa mời gọi mỗi người cùng chung hưởng hay sao? Như thế thì cuộc sống đời người vô ích quá.
Xin Chúa mở mắt tâm hồn để chúng ta nhìn thấy đường đi của Ngài và can đảm bước theo.
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Lạy Chúa là Ánh Sáng, xin chữa lành đôi mắt mù lòa của chúng con.
Bao nhiêu người trông nắng có nắng, cầu mưa có mưa, cho ruộng lúa được mùa, cho giàn bông xinh tươi muôn sắc, cho vườn cây sum suê quả ngọt, cho biển mặn cá đầy khoang, tôm đầy thúng, mực đầy nan. Họ đã nhìn thấy những mùa vàng bội thu trên đồng, trên vườn, trên biển. Nhưng người đời vẫn huyênh hoang tự hào: “Bàn tay tay làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm”! Không thấy bóng dáng Thiên Chúa và không tin mọi sự đều là kỳ công của Người.
Năm hạn hán đồng khô hồ cạn, mất mùa trắng mắt, biển dã vắng con tép con còng, vườn cây trái trăng sâu sia đèo điếc, thế là người đời xoay sang chống cằm trách trời ác đức, trách đất vô tâm, trách quỷ trách thần không thương tình phù hộ. Càng không nhắc đến bóng dáng Thiên Chúa và cũng chẳng tin là quyền phép của Người.
Sinh được một cháu trai đầu lòng, to nặng, hình dáng tuấn tú khôi ngô, cái mặt giống cha, con mắt giống ông nội, cả nhà hân hoan mừng rỡ, khen nức khen nở con dâu nhà mình biết chửa, biết đẻ. Không hề có một câu khen mừng Thiên Chúa đã làm điều kỳ diệu lắm thay!
Hết con so đến con rạ, bà mụ vườn chào thua, khoa Sản trên bệnh viện huyện chào thua phải chạy lên khoa Sản tỉnh, cũng chào thua, thôi thì phải đưa gấp vào thành phố. “Biết tướng này sẽ ra sao mà tốn kém quá thể!” Sinh được đứa cháu rạ ọp òi, nhẹ ký, nhỏ người, con gái. Cả tháng sau chưa thấy ông bà nội đến thăm! Trách móc hờn giận lung tung. Con dâu bị chê chửi là không biết ở biết ăn, quỷ tha ma bắt!
Công trình của Chúa khắp nơi nơi: từ thiên nhiên hùng vĩ, đến vũ trụ bao la, đến cả con kiến đen bé nhỏ, đến vi sinh vật li ti. Mắt người đời nhìn thấy được mọi thứ, mà không nhận ra có Đấng Tác Sinh, lại còn bô bô luôn miệng “cái gì cũng tự nhiên mà có”! Đến cả sự hiện diện của chính mình trên trần gian này mà người vô thần cũng cho là bởi vật chất mà ra, có ông thủy tổ là một… con khỉ!
Có thời tồi tệ hơn nữa, học sinh sinh viên được dạy rằng: “Con người ta hiện diện trên đời này là kết quả của sự vui chơi mà đàn ông với đàn bà, giống đực với giống cái đã tận hưởng”. Giá trị tình yêu và hôn nhân bị kéo xuống ngang hàng với chuyện tự nhiên của con vật. Mắt con người không mù rồi đó sao?
Hai ngàn năm Ánh Sáng đã đến trần gian mà con người vẫn còn chìm trong u tối. Càng tưởng mình vĩ đại, văn minh bởi sức riêng của mình, con người càng ngủ vùi mê mệt trong cái vực sâu u tối mà con người tự tạo nên.
Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng. Ngài đem ánh sáng của Thiên Chúa đến. Ánh sáng ấy là chính Ngài đã Mạc Khải cho con người biết có Thiên Chúa là Cha, là Con, là Thánh Thần, quyền năng, khôn ngoan, yêu thương con người. Toàn bộ Tin Mừng là mạc khải về Tình Yêu và Ơn Cứu Độ dành cho những ai Tin vào Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô. Đức Tin là một hồng ân Chúa ban cho hết thảy mọi người. Có người khiêm tốn nhận hồng ân ấy. Còn người kiêu căng thì không. Người nhận hồng ân Đức Tin thì con mắt được ánh sáng Chúa mở ra để nhìn thấy điều mà lâu nay con mắt loài người có nhìn cũng không thấy:
– Thấy công trình của Thiên Chúa mà tin kính, ngợi khen, chúc tụng, tri ân. Công trình của Ngài ngay trước mắt chúng ta trong mọi sự hiện hữu, ngay trong con người chúng ta, và trong cả những điều sẽ đến với chúng ta trên đường đời.
– Thấy mình là vật mọn phàm hèn trước Thiên Chúa Toàn Năng. Thấy mình là loài thọ tạo mỏng giòn yếu đuối, lại hay kiêu ngạo tày trời. Thấy mình là kẻ thọ ơn đã không biết đáp đền thế nào cho cân xứng lại còn bội nghĩa vong ân khi theo đường lối kẻ gian tà mà bất tín bất trung.
– Thấy mình được Chúa yêu thương. Người quan phòng gìn giữ mình trong mọi tình huống cuộc đời, dẫu là gian nan đau khổ, an nhàn thư thái, hay cả những xót xa bất ngờ đều có thể nhìn ra được tình thương của Chúa.
– Thấy nhu cầu của đồng loại mà biết sẻ chia. Từ cơm bánh của nuôi phần xác đến niềm vui của Đức Tin mang lại, đều có thể chia sẻ cho nhau, chia sẻ lời kinh nguyện, chia sẻ lòng Tin, lòng Mến, lòng Cậy…
– Thấy và phân biệt được đâu là lẽ phải, là chân lý, là sự thiện nên làm, đâu là điều sai trái, là bất công gian tà, là sự ác độc mà nên tránh. Bao lâu người ta còn chấp nhận để những sự ác song hành với sự thiện, mà không chịu trừ khử nó đi, thì bấy lâu vẫn còn là kẻ mù quáng đi giữa ban ngày.
– Thấy và nhìn ra sự hiện diện của Chúa trong anh em đồng loại, nhìn ra vẻ đẹp tốt lành tự nhiên của các tôn giáo bạn, nhìn ra được những giá trị nhân văn nơi những ý hướng ngay lành nhắm đến phát triển con người toàn diện, nhìn ra được thiện chí của những người giác ngộ sự mê lầm của mình….
Ôi, còn bao nhiêu điều mà một Kitô Hữu phải nhìn thấy bằng con mắt đã được Chúa Giêsu chữa cho lành nhờ ân sủng và Lời Chúa:
– Thấy sự chết là lối vào của sự sống ngàn thu mà tạ ơn Thiên Chúa.
– Thấy thất bại là cái búa đập tan tành cái tôi kiêu ngạo trong ta mà tạ ơn Chúa
– Thấy đau khổ là đường đưa đến vinh quang hạnh phúc mà tạ ơn Chúa.
– Thấy bức bách, nhục mạ, khinh khi là Thánh Giá, là ơn Cứu Chuộc mà tạ ơn Chúa.
– Thấy mỗi lần từ bỏ những sự phù vân vì Chúa Kitô, là mỗi lần nhận lại niềm vui bình an vĩnh cửu, chắc chắn…
Hôm nay, người mù mang tên Bartimê kia đã tìm được ánh sáng nhờ Tin vào Chúa Giêsu đầy lòng thương xót (x. Mc 10, 46–52).
Hôm nay, cùng là ngày mỗi chúng ta kiểm tra lại con mắt Đức Tin của mình, xin Chúa chữa lành sự mù lòa tăm tối trong lòng mình.
Lạy Cha giàu lòng thương xót, chúng con tin rằng xưa trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã giải thoát Dân Chúa khỏi kiếp nô lệ, lưu đày và dẫn đưa tất cả kẻ đui mù, què quặt về Đất Hứa, không loại trừ ai (x. Gr 31, 7–9), đến thời Chúa Giêsu, Người lại đã thương xót cho anh mù Bartimê được nhìn thấy. Xin Cha cho chúng con có lòng tin, lòng khát khao, và lòng khiêm tốn để quỳ xin Cha chữa lành đôi mắt tâm linh mù lòa của chúng con. Amen.
“HÃY AN TÂM, ĐỨNG DẬY, NGÀI GỌI ANH ĐẤY”.
Thánh Marcô kể về Bartime:
Anh mù bẩm sinh, ngồi ăn xin bên vệ đường. Anh nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu, người Nazareth và kêu lớn tiếng: “Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Anh càng la to hơn: “Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi” dẫu người ta mắng anh hãy im đi. Chúa Giêsu dừng lại và gọi anh ta đến với Chúa. Người ta bảo anh: “Hãy an tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy”. Anh ta vứt áo choàng, nhảy lên đến với Chúa. Chúa hỏi anh ta xin gì. Anh đáp xin cho được thấy. Chúa đã chữa anh ta sáng mắt. Và anh ta theo Chúa lên đường.
Người mù ăn xin
Người mù ăn xin, ta vẫn thường gặp trong đời thường.
Ở Việt Nam, một số người mù từ thuở mới sinh được may mắn sống tại một số trường, nhà dành cho người mù. Hầu hết là những tổ chức Công Giáo đảm nhận. Một niềm vui đáng kể cho cho sự dấn thân, phục vụ của những người tình nguyện, từ thiện và cũng là niềm vui cho Giáo Hội. Ở đó, người mù được cấp dưỡng và nuôi dạy tốt. Có người học đọc, học viết, học vi tính, học ngoại ngữ, và học các ngành nghề đặc biệt dành cho họ.
Nhưng cũng còn có rất nhiều người mù đang ăn xin ở các TP, hoặc còn đang ở trong tình trạng khó khăn ở các miền quê. Họ thật bất hạnh. Nhưng, vì mù, nên tạo hóa bù đắp cho họ một khả năng nghe thật tuyệt, thật chính xác. Dẫu là họ đang ăn xin cái qua ngày vì họ không thể lao động kiếm sống như người bình thường được, nhưng chắc chắn rằng, nỗi khát khao duy nhất trong đời của họ là được nhìn thấy.
Xin Chúa thương xót
Giống như những người mù mà ta thường gặp, nhưng chàng mù Bartimee có một điểm khác nổi bật hơn là: khi nhận ra Chúa Giêsu hiện diện, chàng không xin cái ăn qua ngày, mà chàng đã ăn xin “lòng thương xót Chúa”. “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót tôi”. Chàng biết xin cái quí nhất trên đời: lòng thương xót Chúa. Chàng đã xin, bất chấp mọi cấm đoán và với tin tưởng mãnh liệt rằng lòng thương xót Chúa có thể cho chàng được thấy. Và lòng thương xót Chúa đã cứu anh, dựa vào đức tin mãnh liệt của chàng.
Xin lòng Chúa thương xót, có thể nói là đã đủ cho một đời người.
Người mù không thể biết điều mình xin là cao quý như thế, nếu chàng không có một lòng khiêm tốn thẳm sâu. Có thể chàng chưa dám xin cho được thấy, vì tự cảm thấy mình bất xứng, hoặc vì chàng đã chấp nhận cảnh mù lòa như một sự trừng phạt của Thiên Chúa theo như quan niệm của thời bấy giờ. Chàng xin lòng thương xót vì chàng có niềm tin: lòng thương xót của Chúa sẽ mở cho chàng tất cả lối ngõ vào các ước muốn theo ý Chúa.
Ấy vậy, khi lòng thương xót của Chúa đã đáp lại nguyện vọng của chàng qua cung cách yêu thương trìu mến của Chúa Giêsu, chàng ta mới dám nói: Xin cho con được thấy.
Và chàng đã được thấy.
“Hãy an tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy”.
Tôi đặc biệt nghĩ đến chi tiết của những người đi theo Chúa Giêsu. Họ đã thay đổi thái độ la mắng và cấm đoán anh ta la hét, thành lời mời gọi rất dễ thương: “Hãy an tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy”.
Những người theo Chúa, trước đó họ cũng mù, nhưng họ được mở mắt ra, khi nhìn thấy Chúa Giêsu dừng lại trước người mù đau khổ. Thái độ của Ngài đã biến đổi thái độ của họ. Họ mời anh đến với Chúa. “Hãy an tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy”.
Giáo Hội của Chúa Kitô phải là GH của những người đau khổ, cùng khốn. Những người theo Chúa Kitô cũng là những người đứng về phía người đau khổ cùng khốn. Và thân thiện mời người đau khổ đến với Chúa để được an vui.
Nhưng, đứng về phía những người đau khổ vì nghèo đói, bệnh tật, thiên tai, đại dịch, áp bức, khủng bố, ngược đãi… thì dễ, còn đứng về phía những người đau khổ tâm hồn vì tội lỗi, vì mù lòa tâm linh, thì không dễ chút nào, vì họ không dễ nhận mình là tội lỗi, không dễ biết mình đang mù lòa, và có thể họ cũng không cần đến Giáo Hội. Vâng, khi nghèo đói, bịnh hoạn, lầm than, thì con người dễ nhận ra sự thấp kém của mình. Còn khi, đầy đủ sung túc, khỏe mạnh thì lầm tưởng giá trị của cuộc sống của mình lớn lao biết bao. Sự mù quáng không miễn trừ một ai, có học hay vô học, trí thức hay mù chữ… tất cả đều có thể mắc bệnh mù quáng do chủ quan đã làm hỏng đôi mắt tâm linh.
“Hãy an tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy”.
Thiết nghĩ, đây là lời mời gọi của Giáo Hội dành cho tất cả chúng ta, những người sống trong u tối vì bệnh mù lòa tâm linh, mù quáng do chủ quan, mù mờ về chân lý, mù tịt về đời sau….
Thấy người, có người mù bẩm sinh, nhưng cũng có người mù do thương tật, lại nghĩ đến ta, có người mù do tự mình làm hỏng đôi mắt tinh tuyền của mình bằng vô số cách tự hủy hoại đáng tiếc.
Và lời mời gọi của Giáo hội “Hãy an tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy”, vẫn văng vẳng bên tai ta hằng ngày. Điều quan trọng là:
– chúng ta biết mình đang mù.
– chúng ta dứt khoát với bóng tối tội lỗi.
– chúng ta khát khao được nhìn thấy chân lý.
– chúng ta tin tưởng mảnh liệt và quyết tâm sống với chân lý.
Chân lý của chúng ta là tinh thần của Chúa Giêsu Kitô.
Tôi nhớ một bài hát thiếu nhi:
“Trong tim Chúa Giêsu, đang có những người đau khổ.
Trong tim Chúa Giêsu đang có anh em bạn bè.
Trong tim Chúa Giêsu em thấy có cả em nữa.
Đang ca hát hân hoan vui trong tình yêu vô biên”
Ước gì trong tim Chúa Giêsu, thấy có cả tôi và bạn, những người mù ăn xin lòng thương xót Chúa.
Lạy Chúa, chúng con là người sáng mắt, nhưng mù tối tâm hồn, mù mờ đức tin, mù quáng trước những cuốn hút của cái tôi kiêu ngạo. Chúng con rất cần đến lòng thương xót Chúa. Chỉ có lòng thương xót vô điều kiện của Chúa mới có thể tha thứ được sự hư đốn trong tâm hồn, sự u tối trong lý trí chúng con, và biến đổi chúng con nên hoàn hảo nhờ được thấy và bước đi trong ánh sáng chân lý của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Các đề tài liên quan đến các khuyết tật như câm, điếc, mù lòa… xem ra dễ trình bày và hình như cấu trúc xưa nay ít đổi thay. Trước hết đề cập đến các nổi khổ đau của những người mang khuyết tật về thể lý. Nào là chuyện câm thì không thể, đúng hơn là rất khó giao tiếp với tha nhân, rồi chuyện mù thì không được diễm phúc nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không thấy được vẻ đẹp của hạt sương long lanh trên cành hoa, không thấy được khuôn mặt của người đối diện, vân vân và vân vân. Rồi sau đó lại triển khai nổi khốn khổ của những người mắc các khuyết tật tinh thần hay tâm linh như chuyện có mắt mà như mù, có tai mà chẳng biết nghe hay không thèm nghe…và dĩ nhiên sẽ kéo theo những mối nguy hại cho bản thân họ hay cho xã hội.
Trong văn thơ có thể loại được gọi là “huề vốn” nghĩa là có nói cũng không thêm gì. Một ví dụ: “Đứng bên này sông thấy bờ bên kia sông. Bơi qua bờ bên kia thì thấy bờ sông bên này. Bơi ra giữa sông, hụp đầu xuống thì không thấy bờ sông nào.” Đã là người thì không một ai đành cam chịu cảnh mù lòa khi còn khả năng làm sáng đôi mắt. Cũng chẳng một ai thấy dễ chịu khi đang sáng mắt mà bị chê trách là đui mù. Xin cũng được dùng kiểu nói “huề vốn” để vào thẳng vấn đề, đúng hơn là để luận bàn đôi điều về điều gọi là “thấy”. Ai là người đang bị mù? Thưa đó là những người không thấy.
Đó là những ai không thấy người anh chị em mình đang túng cực, nghèo khổ mong kiếm cho được ba chục ngàn mỗi ngày để sinh sống, chưa kể nếu có người thân phải cưu mang. Đó là những ai không thấy người anh chị em của mình đang bị bóc lột sức lao công do bởi những người lắm tiền, nhiều quyền trong xã hội. Đó là những ai không thấy anh chị em của mình đang bị đối xử bất công do bởi những người nắm quyền bất nhân hay do bởi các luật lệ bất minh. Đó là những ai không thấy nền giáo dục nước nhà đang loay hoay trong ngõ cụt vì những cơ chế phi lý, lạc hậu, lỗi thời…Đó là những ai không thấy con thuyền của một vài Giáo Hội địa phương xem ra đang vất vả lướt sóng không nguyên chỉ vì bão tố thế gian mà còn có thể vì quá nặng nề với các “lễ hội” bên ngoài, để rồi dù không phải là xao lãng, nhưng chưa xem trọng nghĩa vụ sống yêu thương, làm chứng cho sự thật, bảo vệ công lý, loan truyền Tin mừng… Đó là…
Thế nhưng căn cứ vào đâu để xác định rằng ai đó đã và đang không thấy? “Phản ứng hay hiệu ứng” là một trong những biểu hiện cho biết là ai đó đang còn thấy. Với người hấp hối hay người gặp một sự cố nặng về thể lý thì người ta thường lấy đèn soi vào mắt hay một kiểu cách vẩy ngón tay sát mắt nạn nhân để xem phản ứng đôi mắt của họ. Khi thấy được vẻ đẹp một cánh hoa, hay một quang cảnh kỳ lạ thì người ta không thể không có phản ứng cho dù có thể mỗi người một cách khác nhau. Một cái thấy được gọi là thấy, khi và chỉ khi đối tượng được thấy gây được một hiệu ứng nào đó nơi người thấy nó. Cũng thế, chúng ta chỉ có thể gọi là thấy, khi những điều đập vào mắt chúng ta làm phát sinh trong chúng ta những tâm tình như vui, buồn, hoan hỷ, giận dữ, đồng cảm, đồng thuận hay bất bình, phẫn nộ…
Nếu làm thống kê thì con số người không thấy có lẽ là rất ít. Dù không thể đòi hỏi cách tuyệt đối, nhưng thử hỏi trong số những người được gọi là có thấy thì được bao nhiêu phần trăm là thấy đúng sự vật hiện tượng, thấy đúng bản chất của đối tượng như nó là? Mỗi khi đã thấy rõ, thấy đúng thì người ta sẽ dễ có phản ứng chính xác, hợp lý và cả hợp tình. Một nguy hiểm và cũng là vấn đề cần đặt ra, đó là chúng ta chỉ thấy cách phiếm diện, một chiều mà cứ tưởng rằng mình thấy đúng, thấy rõ. Vì thế các phản ứng của chúng ta nhiều khi vừa thiếu chính xác, lại vừa thiếu lý, thiếu tình. Dĩ nhiên với phận phàm hèn, không một ai dám to gan cho rằng mình có thể thấy đúng, chính xác cách hoàn toàn. Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta có thể lơ là việc tìm cách để thấy các sự vật, hiện tượng ngày một đúng đắn và chính xác hơn, vì đây là một tiền đề không thể thiếu để có được những phản ứng hợp lý, hợp tình.
“Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Câu nói của Chúa Giêsu với anh mù Bactimê trong ngữ cảnh bài Tin mừng đề cập trực tiếp đến thái độ cậy trông của anh Bactimê vào tình yêu và quyền năng của Người. Và thái độ cậy trông ấy được thể hiện bằng việc anh ta cương quyết gặp Chúa Giêsu bất chấp mọi trở ngại. Tuy nhiên câu nói ấy cũng cho chúng ta chiếc chìa khóa giải quyết vấn nạn thấy. Để có thể thấy và thấy đúng thì cần có lòng tin. Chúng ta dễ đồng thuận với nhau về sự thật này nếu chấp nhận rằng tin là nhìn với cái nhìn của Thiên Chúa. Thế nhưng lại phải tự hỏi với nhau rằng khi nào thì chúng ta đang nhìn với cái nhìn của Thiên Chúa? Quả thật, để tìm được câu trả lời khả dĩ có tính thuyết phục thì không mấy dễ. Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta biết rằng những ai ở trong ân sủng, tức là có sự kết hiệp mật thiết với Chúa thì sẽ biết cách nhìn như Chúa nhìn. Trong vấn đề này, các nhà tu đức chỉ dạy chúng ta kế sách tuyệt với đó là hãy chuyên chăm cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa ở trong hoàn cảnh này của con, Chúa sẽ thấy sự kiện, vấn đề này ra sao?”. Qua đời sống câu nguyện, nỗ lực kết hiệp với Chúa thì ta sẽ biết nhìn như Chúa nhìn.
Một kinh nghiệm dân gian có thể nói là khá chính xác: “Con chim sắp chết hót tiếng bi ai. Con người sắp chết nói lời lẽ phải”. Để nói được lời lẽ phải, thì người cận kề với cõi đời sau hẳn đã thấy được chân tướng các sự vật hiện tượng cách nào đó. Tin Mừng cho ta hay trong cuộc đời công khai rao giảng, Chúa Giêsu luôn hướng về cái giờ của Người, đó là giờ mà Người sẽ bỏ thế gian này mà về cùng Cha bằng cái chết trên thập giá. Và đây chính là một trong những chìa khóa giúp Chúa Giêsu nhìn thấy các sự vật hiện tượng theo cái nhìn của Cha trên trời, để rồi có được những cách thế phản ứng thuận ý Cha, đẹp lòng Cha (x.Mt 3,17; Mc 1,11).
Vì sao còn có những phản ứng chưa thấu lý và đạt tình nơi Kitô hữu, giáo dân, tu sĩ, giáo sĩ? Một trong những nguyên nhân đó là vì ta chưa thấy đúng sự vật hiện tượng. Vì sao ta chưa thấy đúng sự vật hiện tượng? Vì ta chưa biết nhìn như Chúa nhìn. Chưa biết nhìn như Chúa nhìn, ngoài những lý do khách quan thì rất có thể vì ta chưa thực sự gắn bó thiết thân với Chúa và cũng ít nghĩ đến cái giờ ta rời bỏ thế gian.
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn)
Một cụ già mù lòa ăn xin ngồi bên đường, ông ta chờ người qua lại bố thí cho những đồng xu để kiếm sống qua ngày, và ông ghi trên một tờ giấy với dòng chữ như sau: “Tôi bị mù lòa, xin mọi người thương giúp đỡ tôi”. Thế nhưng, Những người qua đường chẳng ai thèm nhìn ngó và chạnh lòng thương bố thí cho ông ta. Một cô gái xinh đẹp đi ngang qua, cô ta nhìn thấy ông ta vẫn chưa có đồng xu nào, cô thấy thương cho ông lão. Thế là, cô ngồi xuống và viết lại thành một dòng chữ khác: “Bầu trời hôm nay rất đẹp, nhưng tôi không thể nhìn thấy nó”, cô gái bỏ đi. Sau đó, nhiều người qua đường nhìn thấy dòng chữ này cảm thương và bố thí cho lão ăn xin.
Việc làm của cô gái rất đơn giản, nhưng đã làm thay đổi nhiều người qua đường. Sức mạnh của ngôn ngữ thật là kỳ diệu, nó có thể làm thay đổi cả thế giới xung quanh. Những gì xẩy ra trong cuộc sống hàng ngày, đó chính là ngôn ngữ của lời nói. Lời nói diễn tả cảm nghĩ, tư tưởng và hành động. Câu chuyện của lão ăn xin đã xẩy ra, khi cô gái thay đổi dòng chữ, và thay đổi cách nhìn, cảm xúc và lối suy nghĩ của người qua đường. Cũng vậy phép lạ của người mù trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy anh chàng mù kêu xin lớn tiếng: “Lạy Con Vua Đavít xin thương xót tôi.” Nhiều người đã la mắng anh ta im đi, nhưng anh ta lại gào to hơn: “Lạy Con Vua Đavít xin thương xót tôi.” Hành động của anh mù này làm cho nhiều người chung quanh bực mình. Nhưng đối với Chúa Giê-su, đó là một hành động đức tin chân thành nhất, nó xuất phát từ lòng khao khát mong được Chúa chữa đôi mắt mù lòa của anh ta.
Rồi điều gì đã xẩy ra cho anh ta? Chúa Giê-su hỏi anh ta, “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúa Giêsu đáp: “Được, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.” Đức tin đã cứu chữa con, đức tin đó không chỉ thể hiện qua lời nói kêu xin của người mù. Cho dù bị nhiều người la mắng, anh ta vẫn tin vào Chúa Giê-su có thể chữa lành đôi mắt cho anh ta bởi lòng tin. Đó là một điều rất cần cho cuộc sống ngày hôm nay khi chúng ta đang gặp thử thách, đau khổ, bệnh tật ốm đau…, chúng ta có kêu xin như anh chàng mù này không? Lẽ thường, chúng ta dễ tin vào những gì bác sỹ nói và chỉ dẫn hơn những gì điều Lời Chúa dạy: “Đức tin sẽ cứu chữa con”, đây là lời Chúa Giêsu nói với chúng ta, Ngài là Bác sỹ tuyệt vời nhất cho chúng ta. Thế nhưng, chúng ta lại quên đi bởi vì chúng ta chưa có niềm tin vào Thiên Chúa. Sống trong thế giới thực dụng hôm nay, chúng ta chỉ chấp nhận những gì hiện hữu, nhìn thấy bằng con mắt xác thịt, bằng những thứ mà chúng ta có thể nhìn thấy, sờ mó, đụng chạm và chiếm hữu nó trong thế giới hữu hình này. Trong khi đó, phép lạ vẫn xẩy ra hàng ngày, nhưng chúng ta không thấy. Phép lạ là một mầu nhiệm khởi đi từ đức tin. Ngài cần lòng tin của chúng ta. Chúa Giê-su làm phép lạ không chỉ là cho con người khỏi các bệnh tật của thể xác mà còn là chữa lành đời sống tâm linh cho chúng ta.
Lạy Chúa, xin Ngài ban cho chúng con có con mắt đức tin, để chúng con biết nhìn và khám phá ra những điều kỳ diệu trong thế giới này. Và chính nhờ con mắt đức tin giúp co để nhận ra sự hiện hữu của Thiên Chúa trong cõi lòng chúng con, và biết nhìn đến những người chung quanh. Họ là cụ già ăn xin bên đường, là người đang mang căn bệnh ung thư cần được chăm sóc và an ủi, là những người già nua ốm đau bệnh tật, là những người đang gặp thử thách, đau khổ, thất nghiệp và nghèo khó. Nhất là ban cho ánh sáng đức trong đôi mắt mù của con. Lời Chúa đã chỉ dạy con qua anh chàng mù hôm nay và kêu xin lên lòng thương xót Chúa: “Lạy Ngài xin thương xót chúng con”. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Người mù là một kẻ bất hạnh và khổ sở triền miên. Tất cả thế giới sinh hoạt chung quanh như khép kín, đóng cổng trước mặt họ. Cả một đời họ phải chấp nhận sống lệ thuộc vào những người khác. Cho nên, tâm lý của người mù là họ dám làm bất cứ chuyện gì để được sáng mắt. Chẳng hạn như anh mù Ba-ti-mê trong bài Tin Mừng, dám coi nhẹ mọi người, bất chấp tất cả, anh kêu gào xin Chúa Giêsu cứu chữa khi Ngài đi ngang qua thành Giê-ri-khô về Giê-ru-sa-lem.
Có một người mù, một đêm kia đến thăm một người bạn thân. Hai người trò chuyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một cái đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói: “Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau”. Người bạn trả lời: “Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối xe cộ có thể chạy đụng vào anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi”. Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đi xe Hon-đa đụng phải. Với vẻ buồn lẫn tức giận, anh mù nói: “Coi kìa, người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi?”. Người kia đáp: “Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không thấy. Mong anh thông cảm”. Anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu truyện kết luận: “Con người thường tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy”.
Anh mù Ba-ti-mê trong bài Tin Mừng lại khác: anh thấy nhiều cái mà người sáng mắt không thấy: anh thấy Chúa Giêsu là con vua Đa-vít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin, và chính vì lòng tin này, Chúa Giêsu đã thương anh, cứu chữa anh, cho anh được sáng mắt.
Chúng ta hãy tìm hiểu thêm: đám đông ồn ào tấp nập đi theo Chúa Giêsu trên đường, còn anh ta ngồi ăn xin bên lề đường. Anh hỏi người ta có chuyện gì mà ồn ào vậy? Người ta nói cho anh biết có Đức Giêsu đi ngang qua. Có lẽ anh đã nghe nói về lòng từ bi và uy quyền toàn năng của Chúa Giêsu chăng, nên anh liền kêu to lên: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đa-vít, xin thương xót tôi”. Người ta chỉ nói cho anh biết, đó là Đức Giêsu, nhưng anh lại kêu xin “Con vua Đa-vít”. Như vậy anh đã nhận ra Ngài là Đấng Mê-si-a, Đấng Thiên Sai. Anh mù nhưng anh lại thấy rõ hơn những người sáng đi theo Chúa Giêsu.
Chắc anh phải kêu to lắm. Còn đám đông lại bắt anh im đi. Nhưng vô ích đối với anh, đây là dịp may hiếm có của hy vọng bừng lên. Thế là anh càng kêu gào to hơn cho Chúa nghe được: “Hỡi con vua Đa-vít, xin thương xót tôi”. Anh kêu đúng tên và tước hiệu của Chúa trong Kinh Thánh. Nghe thế Chúa Giêsu dừng chân và truyền gọi anh ta lại. Thế là đám đông thay đổi thái độ. Trước đó họ bắt anh im đi, bây giờ họ lại khuyến khích anh. Anh liền vứt bỏ áo choàng, vui mừng nhảy cẫng lên đến với Chúa. Chúa hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Chúa hỏi như vậy không phải để biết anh muốn gì, xin gì, nhưng là để tăng thêm lòng tin cho anh, và cũng là dịp để anh tỏ lộ lòng tin công khai. Anh trả lời: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Anh mù, mắt anh không thấy Chúa, nhưng lòng anh đã thấy Chúa, vì anh có lòng tin, như Chúa đã xác nhận: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Bằng một lời đó thôi, Chúa đã thay đồi cuộc đời của anh: từ nay anh không còn ngồi bên lề đường nữa. Lòng tin đã đưa anh lên đường. Anh được sáng mắt ngay lúc đó và đi theo Chúa trên đường. Anh sáng của Đấng Thiên Sai còn giấu ẩn trong Đức Giêsu Na-da-rét đã tỏa ra trên anh, trên đôi mắt anh. Anh là ngọn đèn Chúa đã thắp lên cho mọi người được nhìn thấy Ngài.
Nói rõ hơn, đám đông đang đi với Chúa Giêsu trên đường, nhưng thực ra là họ đang ở bên lề đường, vì họ đi trên cùng một con đường nhưng chưa đồng hành với Chúa, chưa đi theo Chúa. Họ sáng mắt, nhưng họ chỉ thấy Giêsu người Na-da-rét, chứ không thấy gì hơn. Cũng như họ chỉ thấy một người mù ngồi ăn xin, chứ không thấy lòng tin của anh. Còn anh mù, anh đã thấy Ngài là Đấng Thiên Sai, con vua Đa-vít. Anh đã thấy bằng lòng tin khi anh còn mù, và bây giờ anh đã thấy Ngài tận mắt. Anh đi theo Ngài.
Lòng tin của anh mù đã cứu chữa anh và là bằng chứng để người ta tin vào Chúa Giêsu. Tất cả chúng ta là những người đã có đức tin, chúng ta đang đi theo Chúa. Nhưng đức tin của chúng ta thế nào? Và chúng ta có làm cho người khác nhận ra đức tin của chúng ta qua đời sống chúng ta không?
Đối với chúng ta, ngoài việc tuyên xưng đức tin trong thánh lễ, thì trong mọi sinh hoạt hằng ngày chúng ta cũng phải tuyên xưng đức tin nữa bằng những việc từ thiện bác ái và sống cởi mở với những người chung quanh. Nếu chúng ta chỉ tuyên xưng đức tin một cách trọng thể, trong những lễ lạc, trong nhà thờ…mà chúng ta không có một cử chỉ bác ái đối với những người ngoài là chúng ta chưa thực sự sống niềm tin ấy. Xin Chúa cho chúng ta biết sống và thể hiện đức tin trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Một kinh nghiệm thắm thiết của tôi là chứng kiến đức tin tinh tuyền và trong sáng của một con người. Niềm tin tưởng đạt đến một mục tiêu, dù táo bạo tới đâu đi nữa cũng sinh ra những hậu quả có vẻ lạ lùng. Niềm tin của một số người khuyết tật, mong muốn được giải phóng khỏi những gì giam hãm họ, niềm tin của những nghệ sĩ muốn sáng tạo được một tác phẩm, niềm tin của bao nhiêu người nam người nữ muốn dấn thân vào những sự nghiệp có vẻ tuyệt vọng là những giá trị nhân bản nâng đỡ và khích lệ con người trước mọi khó khăn.
Lớn hơn nữa, đáng phục hơn nữa là đức tin của một người đau khổ khốn cùng tìm đến với Thiên Chúa và van xin Ngài xót thương. Thiên Chúa xúc động vì sự tin tưởng của người ấy nên đã dịu dàng nói với anh ta: “Hãy về đi, đức tin của anh đã cứu anh”.
Tin và gặp gỡ Thiên Chúa.
Đức tin chính là mối tương quan mà Chúa mời gọi chúng ta nối kết với Ngài. Đây không phải là một đòi hỏi xa lạ. Tất cả những mối tương quan của chúng ta đều dựa trên lòng tin và sự tin tưởng: Cuộc sống hôn nhân, việc giáo dục con cái, những tình bạn, sự cộng tác trong công việc. Khi người ta không tin tưởng nhau nữa, thì những mối tương quan sẽ sụp đổ. Trái lại, sự tin tưởng lẫn nhau, sự tôn trọng và lòng kiên nhẫn giúp ta tạo lập những mối liên hệ vốn thuộc hàng những yếu tố tốt đẹp nhất và sáng tạo nhất của cuộc sống.
Đối với Thiên Chúa cũng vậy, Ngài không thiếu tin tưởng nơi chúng ta. Chính chúng ta mới là kẻ nghi ngờ và lo âu trước mặt Ngài: vì một vết nhơ tội lỗi cũ và tính kiêu ngạo nhỏ nhen của chúng ta.
Thiên Chúa kêu gọi chúng ta. Lời đáp trả nảy sinh chậm rãi trong lòng chúng ta. Lúc ban đầu chúng ta không biết, chúng ta không thấy, chúng ta không hiểu rõ. Chúng ta không biết Thiên Chúa muốn gì, tin nơi Ngài là gì? Phó thác cho Ngài là gì? Thế nào là cam kết vâng phục Ngài, đặt lời Ngài ở trung tâm cuộc sống chúng ta, đặt trọn cuộc sống của chúng ta theo ý Ngài? Và lời hứa một mối tương quan hữu nghị cho ta được sống đời đời với Ngài là gì?
Người mù thành Giêricô biết tin tưởng
Bài đọc Tin Mừng Chúa nhật hôm nay cho chúng ta chứng kiến đức tin của một con người như chúng ta. Đức tin không dễ đến với người ấy. Lúc ban đầu dường như đức tin khó khăn đối với anh ta hơn là đối với những kẻ khác, tật mù loà đã loại anh ra khỏi cộng đồng nhân loại và đã đẩy anh vào một nỗi cơ cực lớn. Không có gì là thuận lợi cho đức tin của anh. Xem ra anh ta hy vọng cách hão huyền khi xác tín về một phép lạ có thể xảy đến… Anh sống thực tế nên không tin được rằng người ta có thể làm cho một người mù trở nên sáng mắt.
Chúng ta phải ý thức một thực tại: đức tin được Thiên Chúa ban cho chúng ta chứ không phải nhờ những phương tiện của chúng ta mà đạt được. Ở đây, trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người mù này, Chúa Giêsu đã thu hút anh một cách nhiệm mầu: nhờ uy tín của danh hiệu “Con Vua Đavít” mà dư luận đã thổi vào tai anh. Anh mù này không thể đến với Chúa Giêsu. Điều mà anh không dám mơ tưởng trong lòng đã xảy ra. Chúa Giêsu tiến lại phía anh, và Ngài gọi anh. Ơn đức tin được ban cho anh và anh đáp lại bằng việc hiến dâng mình một cách trọn vẹn, một bước nhảy vọt hướng về Thiên Chúa. Lúc đó anh dám xin Chúa Giêsu điều không thể được. Nhìn thấy, nhìn thấy Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu đã ban cho anh do bởi lòng tin của anh.
Điều quan trọng trong cuộc gặp gỡ này không phải là phép lạ, Chúa Giêsu không nói với anh mù: “Đức tin của anh đã cho anh sáng mắt”, Ngài nói với anh: “Đức tin của anh đã cứu anh”, nghĩa là: vì anh đã tin nên giữa anh và tôi, có một mối liên hệ vững bền, mối liên hệ cứu độ, mối liên hệ của Giao ước mới.
Có quá đáng không khi nghĩ rằng, đối với một số tín hữu, đức tin là một gánh nặng? Tuy nhiên về phía Thiên Chúa ban đức tin cho chúng ta, nó là một ánh sáng, một sự giải thoát, một tình bạn với Ngài, một niềm cậy trông không thể thất vọng được. Tin là đón nhận Thiên Chúa trong đời mình với một niềm tin tưởng của trẻ thơ.
Chuyện kể rằng, có một thanh niên mù lòa từ thuở mới sinh. Anh phải lòng một cô gái. Càng biết cô, tình cảm anh dành cho cô ngày càng sâu sắc. Với anh, cô thật duyên dáng, thông minh và trìu mến. Từ đó, một tình yêu chân thành và đằm thắm cũng đâm chồi giữa hai người.
Cho đến một ngày kia, có người bạn nói với anh, cô gái ấy không xinh đẹp, không xứng đáng với anh… Hỡi ôi, cũng từ dạo ấy, sự quan tâm anh dành cho cô bắt đầu vơi và tương quan giữa hai người cũng trở nên hờ hững. Kể cũng tệ thật! Vì có bao giờ anh nhìn thấy cô ấy đẹp đâu? Một người mù như anh đâu có phán đoán theo dáng vẻ bên ngoài? Và với anh, để nhìn thấy, đôi mắt đâu phải là tất cả. Anh mù lòa đã đành, nhưng xem ra bạn anh và lòng anh lại đui chột hơn.
Tình yêu đâu chỉ được nhìn từ bên ngoài cũng như tự nguyên ngữ, “trừu tượng” là thuộc tính của tình yêu. Saint Exupéry thật có lý khi nói, “Điều chính yếu thì không thể thấy bằng mắt. Để thấy nó, phải nại đến con tim, nại đến tâm hồn”.
Các bạn trẻ thân mến,
Trình thuật Tin Mừng hôm nay cũng nói đến một thanh niên mù lòa khác, tên anh là Bartimê, người đã đến với Đức Giêsu. Thánh Marcô kể, vừa nghe Ngài đang ngang qua, anh bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu con vua Đavid, xin dủ lòng thương tôi”, và lập tức quăng lại áo choàng, anh đến với Ngài.
Mỗi ngày, là một kẻ tật nguyền câm nín bên vệ đường, chẳng có gì lạ khi anh xin người khác dủ thương. Nhưng hôm nay, thật lạ, vì với tư cách một thanh niên, anh gọi đích danh một thanh niên khác để xin dủ lòng. Và để có thể lặp đi lặp lại một lời cầu xin khẩn thiết đến thế, hẳn anh phải tin chắc người bạn trẻ ấy có khả năng chữa lành không chỉ đôi mắt xác thể nhưng cả sự u mê dày đặc có thể có trong tâm hồn mình; người thanh niên ấy hẳn không chỉ bứng anh ra khỏi vệ đường nhưng còn đưa “anh đi theo Ngài trên con đường Ngài đi” như Tin Mừng kết thúc. Đây là cao trào của trình thuật. Thật tuyệt vời và huyền nhiệm, hẳn anh sẽ là môn đệ của Đức Giêsu.
Thật đáng cho chúng ta kinh ngạc, vì dẫu Bartimê đang mù loà thể chất, nào ngờ đâu, mắt tâm hồn của anh chẳng vẩn đục chút nào; trái lại, nó thật ngời sáng, đúng hơn, mắt đức tin của anh chói sáng.
Phần chúng ta, chúng ta đang sống trong một thế giới tranh tối tranh sáng, ở đó, bóng tối tưởng chừng như đang nuốt chửng ánh sáng, một thế giới mà khả năng nhìn thấy ánh sáng của đôi mắt đức tin thật cấp thiết và sống còn. Vì lẽ ngoài khuyết tật mù lòa thể chất, thế giới đang chứng kiến nhan nhãn bao hội chứng đui chột tinh thần. Cũng có thể mỗi người chúng ta đang mắc phải một trong những hội chứng đó.
Hội chứng ích kỷ, bức tường che chắn những nhu cầu của anh chị em.
Hội chứng vô cảm, giấy thông hành để vô cảm trước bao vết thương vô tình hay cố ý gây cho người khác.
Hội chứng tự phụ, thảm đỏ trải trên những sai sót của bản thân.
Hội chứng ghét ghen, tảng băng nổi cản lối đại cuộc.
Hội chứng duy vật, mù sương trước những giá trị tinh thần.
Hội chứng nông cạn, voan che các giá trị đích thực của một con người.
Hội chứng hợm hĩnh, man khai phủ lấp một thực tế: mọi người có nhân phẩm như nhau.
Hội chứng thành kiến định kiến, pháo đài án ngự sự thật.
Hội chứng sống hối hả, tính cách của người đánh mất muôn vẻ kỳ diệu chung quanh
Như vậy, một con tim nghèo, một đầu óc hẹp, một tâm hồn nhỏ… tất cả đều dẫn đến hội chứng đui chột, triệu báo một nhãn quan gập gãy, què quặt, phủ đầy bóng đêm lên ngày sống và… thế giới phải hẹp lại (x. F. McCarthy). Vậy thì, không chỉ đôi mắt mới làm cho thấy, chúng ta còn phải thấy bằng trí óc, qua tinh thần và nhờ con tim. Là Kitô hữu, còn hơn thế nữa, Kitô hữu thấy nhờ tin, tin vào Thiên Chúa, tin vào Đấng Ngài đã sai đến. Đấng ấy chính là Đức Giêsu Kitô, là Ánh Sáng phải đến đã đến trong thế gian mà anh mù Bartimê đã nhận ra.
Vậy là có nhiều thứ đêm tối cũng như có nhiều loại đui chột. Có thứ đêm tối phàm phu, có loại đui chột tục tử. Cũng thế, có thứ đêm tối đức tin, có thứ đui chột của lòng trông cậy. Cảnh vực thần linh còn đó, sự hiện diện của Thiên Chúa còn đây, nhưng sẽ không thấy gì, sẽ không cảm nhận gì nếu không có đức tin. Anh mù Bartimê đã có một đức tin mạnh mẽ, anh đã thấy nhờ tin. Đức Giêsu nói: “Lòng tin của anh đã cứu anh”.
Đức tin là ánh quang soi dọi thế giới vô hình, chiếu sáng những điều vĩnh cửu và mặc khải những điều trên cao. Đức tin là những ngọn đèn đường dọc theo đaị lộ dẫn đến cuộc sống đời đời mà những kẻ không tin chẳng bao giờ có thể bước đi trên đó.
Thế nhưng, bạn đừng quên, những ngọn đèn ấy, những ánh quang ấy thường chỉ đủ sáng cho những ai bước từng bước thật nhỏ đang khi trên đầu, mây u ám vẫn cứ giăng mắc và dưới chân, thử thách, chướng ngại vẫn luôn rập rình. Phải chăng, Thiên Chúa để vậy hầu chúng ta chỉ biết hoàn toàn cậy trông và phó thác vào một mình Ngài, Đấng như một con đường mà ai đi trên đó, phải vừa cất bước phải vừa khám phá.
Với thánh vịnh 50, chúng ta có thể cầu nguyện. Lạy Chúa, con sinh ra trong đống tội, mẹ con đã hoài thai con trong tội. Con đui chột, mù lòa chệnh choạng, mắc phải đủ thứ hội chứng; hôm nay, xin cũng chữa lành con, cho con đầy lòng tin để thấy tình yêu Chúa đang ngời sáng trong thế giới u minh này; cho con đầy lòng cậy để thấy Chúa trong anh chị em, nhất là những anh chị em tưởng chừng như họ là con cái của sự tối tăm; cho con đầy lòng mến để con can đảm chỗi dậy sau đêm dài u mê hầu bước đi trên con đường Chúa đi, Amen.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Nhìn thấy là một khả năng tuyệt diệu. Một đứa trẻ được giải thoát khỏi bóng tối, nơi thế giới nhỏ xíu của nó trong dạ mẹ, đã chăm chú nhìn vào mảnh đất huy hoàng. Cậu bé sẽ nhìn vào gương mặt mà một ngày kia sẽ nhận biết là người cha, người mẹ của cậu, hai người đã cho cậu sự sống, nuôi dưỡng và yêu thương cậu.
Qua ánh nhìn chúng ta ý thức hơn với thế giới ở chung quanh chúng ta. Chúng ta có thể thấy những thực tại ngoài chúng ta. Chúng ta dùng động từ “thấy” không chỉ để chỉ sức mạnh của việc nhìn xem, mà còn diễn tả một sự nhận thức là một công việc của tâm trí. Khi một người nào yêu cầu chúng ta một điều gì, chúng ta hiểu cái quan điểm mà người đó muốn thực hiện và chúng ta trả lời bằng cách “chúng tôi hiểu điều gì mà anh muốn nói”. Người ăn xin mù trong bài Phúc Âm ngày hôm nay đã giới thiệu với chúng ta và giống như ông ta, chúng ta cũng không thể thấy được những sự thiêng liêng và điều đó phát xuất từ đặc ân đức tin. Qua phép rửa chúng ta được nhận lãnh sự thông dự vào sự giàu có phong phú và qua đức tin chúng ta được vui hưởng những đặc ân của việc nhìn thấy.
Bây giờ, chúng ta nhìn ra thế giới chung quanh chúng ta và nhìn xem nó với những ý nghĩa thật sự của nó. Chúng ta có thể nghe những người bi quan nhìn một cái ly và nhìn xem nó như là một nửa của sự trống rỗng và những người lạc quan thì nhìn cùng cái ly đó và thấy đó như là một nửa đã đầy. Một con người đức tin nhìn cái ly nước đó và nói: “Cám ơn Chúa”. Con người hiểu biết nước là một đặc ân lớn lao của Thiên Chúa, đặc ân này không chỉ là cần thiết để duy trì sự sống của con người, nhưng còn có nghĩa là Thiên Chúa cho chúng ta thông dự vào đời sống của Người qua phép rửa.
Chúng ta có thể thấy cha mẹ của chúng ta với tình yêu sâu xa dành cho đứa con, khi đứa trẻ nhìn vào gương mặt của cha mẹ nó. Xuyên qua đức tin chúng ta có thể nhìn thấy tình phụ tử đã giới thiệu chân lý là tất cả mọi sự trong đời sống đến với chúng ta đều phát xuất từ Thiên Chúa Cha. Chúng ta có thể thấy những đứa trẻ thật đáng yêu bởi vẻ đẹp và sự đơn sơ của chúng. Đức tin dẫn chúng ta xuyên thấu những đứa trẻ để thấy chân lý này. Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta là những đứa con quý giá của Người trong Đức Kitô.
Sau khi đã chữa lành người đàn ông mù, Người nói với ông: “Hãy về nhà”, người đàn ông đã nhìn chăm chú vào Chúa một lúc và tự nghĩ: “Tôi sẽ đi đâu chứ, nếu không phải là nơi mà Chúa dẫn tôi đi”. Thánh Marcô tiếp đó đã nói với chúng ta: “Ông ta đã nhìn và lên đường đi theo Chúa Giêsu”. Nhưng chúng ta không biết những gì ông ta đã hiểu. Có phải ông ta theo Chúa Giêsu trên con đường dẫn tới Giêrusalem nơi mà Chúa Giêsu chịu đóng đinh? Có phải ông ta đã trung thành đứng dưới chân thập giá với Mẹ Maria, với những người đàn bà khác hoặc với môn đệ Chúa yêu không? Thánh Marcô đã không nói với chúng ta những điều đó. Có lẽ thánh nhân muốn cho chúng ta thấy rằng chính chúng ta trong con người của người đàn ông đó đã bị mù, và để trả lời những câu hỏi bằng cách chúng ta sống.
Trong mỗi Thánh Lễ, chúng ta theo Đức Kitô tiến lên đồi Calvariô vì trong Thánh Lễ chúng ta ý thức mình đứng dưới chân thánh giá, thông dự vào hy tế của Đức Kitô. Thánh Lễ là một lời mời gọi chúng ta dâng hiến chính mình với Đức Kitô, tư tế tối cao của chúng ta, cho Cha trên trời để nài xin cho chúng ta được sống xứng đáng với đức tin Kitô giáo và chúng ta được trung thành và trung tín với Đức Kitô của Người cho đến chết.
Ngày hôm nay chúng ta có thể hỏi: “Chúng con sẽ đi đâu và chúng con sẽ nhìn vào ai?” Chúng ta có thể từ bỏ Đức Kitô, Đấng đã ban cho chúng ta đặc ân đức tin, Đấng đã làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và là Đấng đã hứa cho chúng ta sự sống đời đời thế nào được? Khi chúng ta đạt được Nước Trời, chúng ta sẽ vui hưởng cái nhìn ân phúc của Thiên Chúa. Đức tin chuyển đổi ánh nhìn và chúng ta sẽ nói: “Bây giờ tôi đã thấy ý nghĩa của tất cả những gì mà Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta”.
“Con muốn Ta làm gì cho con?” “Lạy Thầy xin cho con được thấy”.
Một linh mục bạn của tôi bị bệnh ung thư. Trong thời gian điều trị bệnh bằng hóa chất (chemotherapy), ngài bị mất khẩu vị. Vì muốn ăn để có sức đề kháng chống lại bệnh, ngài thường nghĩ tưởng về các món ăn hầu gia tăng khẩu vị đã bị tê liệt do hóa chất gây ra. Sau khi xuất viện, ngài ngồi nghĩ về món gà luộc chấm muối chanh, và quyết định ra siêu thị mua gà về ăn. Ngài luộc tất cả 3 con gà đã mua với ý nghĩ lạc quan và vui vẻ rằng sẽ ăn được càng nhiều càng tốt. Sau khi dọn gà lên bàn, ngài chỉ ăn được có một cái đùi gà mà thôi, rồi ngồn nhìn 3 con gà luộc phì cười mà nói: “Con gà trong đầu mình sao nó ngon thế, còn những con này sao nó giống vỏ cây trộn với nước sình!”
Đa số chúng ta đã từng kinh nghiệm, ở một lúc nào đó trong cuộc đời, chúng ta muốn có ngay một cái gì hay một điều gì và thưởng thức liền. Chúng ta sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự để có nó, Nhưng khi được rồi, chúng ta lại bị mắc cạn trong chính những ước muốn của mình, không thỏa mãn, ngong ngóng kiếm tìm cái khác và sau cùng bị rơi vào một tâm trạng trống rỗng! (Rm 13:14; Gl 5:16).
Để không trở thành nô lệ cho lòng ham muốn của mình, chúng ta nên tự hỏi cái mình muốn có phải là ý muốn của Thiên Chúa (1TX 4:3), là Đấng đã hứa rằng khi chúng ta cầu nguyện nhân danh Ngài, Ngài sẽ nhận lời chúng ta không? Và trong bài Phúc âm hôm nay, Mc. 10:46-52, Chúa Giêsu đã làm điều này. Ngài nghe lời thỉnh cầu của người mù: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương con” (10:48). Nhưng trước khi đáp lại ước nguyện của anh, Chúa Giêsu đặt cho anh một câu hỏi: “Con muốn Ta làm gì cho con?” (10:51). Tại sao Ngài lại hỏi câu hỏi này?
Câu hỏi này nghe giống như câu hỏi của linh mục hỏi cha mẹ mang con cái đến xin chịu phép rửa tội: “Ông bà hay Anh chị xin Hội thánh cho cháu điều gì?”
Theo linh mục Eugene Laverdiere, câu chuyện phúc âm hôm nay là đoạn kết luận của một phần khá dài và quan trọng trong phúc âm của Máccô, từ chương 8:22 đến chương 10:52. Chúa Giêsu nói ám chỉ về cuộc thương khó và phục sinh của Ngài, cũng như của những ai muốn bước theo ngài. Phần thứ nhất (8:31-9:29): sự hy sinh phải có cho những ai muốn làm môn đệ ngài. “Ai muốn theo ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (8:34). Phần thứ hai (9:30-10:31): liên hệ đến sự phục vụ trong cộng đoàn. “Ai muốn là người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (9:34). Phần thứ ba (10:32-46): những đức tính để lãnh đạo trong cộng đoàn Kitô giáo. “Các con có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (10:38).
Kết hợp ba phần lại với nhau sẽ trình bày những đòi hỏi cần thiết cho những ai muốn đáp lại lời Chúa kêu mời để tạo thành người Kitô Hữu và được thanh tẩy trong phép Rửa tội. Câu chuyện anh mù Bartimê được Chúa Giêsu chữa lành có hai phần: anh mù đã được Chúa gọi như thé nào và anh đã đáp lại ra sao. Đây là câu chuyện của ơn kêu gọi để trở nên một người Kitô hữu. Câu chuyện của Phép Rửa Tội.
Theo Chúa Giêsu là chấp nhận thử thách. Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem bước vào cuộc thương khó và sống lại. Anh mù ngồi ăn xin ở vệ đường. Nghe danh tiếng đồn thổi về Chúa Giêsu, anh la to: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương con” (10:48). Chúa Giêsu đã gọi anh lại.Anh vứt bỏ áo choàng, đứng dậy, đến với Chúa. Anh đã xin được nhìn thấy và đi theo Ngài cùng với các môn đệ trên đường lên Giêrusalem.
Anh mù được nhắc rõ tên là Bartimê, con ông Timê. Theo các nhà chú giải thánh kinh, đây là chỗ duy nhất rong Phúc âm nhất lãm – Maccô, Mathêu, và Luca – nhắc đến tên người được chữa lành. Sự nhấn mạnh bất thường đến tên người được chữa lành này ắt phải có một ý nghĩa.
Trong ngôn ngữ cổ của các sắc dân ở vùng ĐịaTrung Hải, một tên gọi không phải chỉ là một nhãn hiệu để nhận dạng một người, nhưng còn diễ tả cái nhân cách hay số mệnh cuả người đó. Theo tiếng Aramaic, Do Thái cổ, “Bartimaeus”, Bartimê có nghĩa là “người con trai, hay người ô uế.” Đây người ăn xin bị mù. Quan niện bình dân của người Do Thái cho rằng mù là một hình phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi hay sự ô uế (Ga 9:34).
Nhưng theo tiếng Hy Lạp, “Bartimaeus” cũng có thể hiểu là “người con trai, hay người vinh dự”. Nó chỉ cái bản chất và số phận nội tâm của một người. Với một tên mang hai ý nghĩa, Máccô có lẽ muốn nói với chúng ta rằng đây là một con người đáng được vinh danh nhưng đang sống trong một tình trạng bất hạnh. Và điều mà Chúa Giêsu đã làm cho anh, không phải chỉ là phục hồi cái nhìn thể lý, nhưng trên hết mọi sự, Ngài phục hồi cái phẩm giá và số phận đời đời của anh. Đây chính là ý nghĩa lời cầu xin của anh: “Lạy Thầy, xin cho con được thấy” (10:51).
Thật vậy, khi cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu gần tiến tới giai đoạn cuối cùng rồi mà các môn đệ vẫn chưa nhận ra sứ mạng của ngài là gì. Phêrô, các môn đệ và dân chúng giống như những người mù, có mắt để nhìn nhưng vẫn không thấy (8:18). Họ cần phải được chữa khỏi sự mù lòa tinh thần, để nhìn ra giá trị của ơn cứu rỗi qua cuộc thương khó và sống lại của Chúa Giêsu.
Bà Helen Keler, một người mùa, câm và điếc, rất nổi tiếng với đời sống đức tin gương mẫu và mạnh mẽ, nhân ngày ra trường tốt nghiệp đại học đã nói: “Thà bị mù và nhìn bằng con tim còn hơn là có hai con mắt và chẳng nhìn thấy sự gì cả.”
Nghe tiếng Chúa Giêsu kêu gọi, anh mù Bartimê đã vứt bỏ áo choàng, đếng dậy, đến với Chúa. Trong phúc âm của Maccô (1:6) cũng như trong nhiều văn hóa áo choàng được kết hợp mật thiết với tư cách của một con người. Nó giống như tấm thẻ căn cước giúp nhận rạng ra một người là ai. Để bước theo Chúa Giêsu, Bartimê đã phải cở bỏ chiếc áo cũ, biểu tượng của con người cũ, cách sống cũ.
Từ thời giáo hội sơ khai, mặc chiếc áo mới trong nghi thức Rửa tội đóng một vai trò biểu tượng rất quan trọng đối với người Kitô Hữu. Theo sách Giáo Lý Công giáo, số 1243: “Y phục trắng tượng trưng cho sự người lãnh nhận phép Rửa tội ‘đã mặc lấy Chúa Kitô’” (Gl 3:27).
Chiếc áo trắng diễn tả một sự thay đổi sâu xa trên ba bình diện: Xét về hữu thể học hay nhân chủng học, sự thay đổi được diễn tả qua sự chết và sống lại, sinh ra và tái sinh. Xét về tâm lý, sự thay đổi được diễn tả qua những hình ảnh của ngày và đêm, bóng tối và ánh sáng. Xét về luân lý, nó diễn tả một sự biến đổi trong cách sống đạo đức và thánh thiện, trong lời nói, tư tưởng và hành động. Ở cả ba bình diện, phép Rửa Tội đưa một người từ bên này sang bờ bên kia, từ sự mù lòa của đêm tối tội lỗi qua ánh sáng của sự sống con cái Thiên Chúa (GLCG #1213, 1265).
Trong ý nghĩa này, chúng ta sẽ hiểu tại sao Chúa Giêsu lại hỏi: “Con muốn Ta làm gì cho con?” (10:51). Như chúng ta biết, người mù là người đi xin ăn để sống. Sự mù lòa là lý do duy nhất để anh kiếm tiền. Hiển nhiên là người mù ngồi bên vệ đường để xin tiền. Có người mù nào lại ngồi xin khách qua đường cho được nhìn thấy không? Nếu có thì ắt hẳn người đó phải mang một ý muốn phi thường, một quyết tâm lớn lao, một ước muốn mà ít có người mù nào dám mơ ước, vì nó đã vượt ra ngoài khả năng của con người. Một ước muốn dựa trên niềm tin vào một Đấng Tối Cao. Do đó, khi Chúa Giêsu hỏi anh, câu hỏi của Ngài đã hàm ý: Anh có muốn tiền không? Hay là muốn được nhìn thấy? Anh có muốn mất tất cả mọi sự trong đời để chỉ lấy một điều tốt lành thôi không? Anh có muốn nhẩy vào một thế giới mà anh không biết, nhưng lại là thế giới tốt hơn không? (Pl 1:23).
Có lần tôi vào thăm một trại cùi. Trước khi đến trại phải qua một khu phố chợ đông đức và kẹt xe, vì những người buôn bán và ăn xin lấn chiếm lòng đường. Nhìn thấy những người cùi ngồi ăn xin trên đường, tay chân băng bó với những vết máu đỏ, ruồi nhặng bu quanh thật ghe tởm, tôi quay sang hỏi một nhân viên làm việc trong bệnh viện cùi: “Bệnh cùi bây giờ đã chữa được chưa?” Anh cho biết với ngành y họchiện nay, bệnh viện đã có đủ thuốc chặn đứng được bệnh cùi rồi, nghĩa là bệnh cùi có thể chữa được. Nhưng còn bệnh cùi tinh thần thì vãn chưa “khắc phục” được. Có nhiều người cùi tuy đã đượckhỏi bệnh rồi, nhưng vẫn nguỵ trang bệnh cùi bằng cách băng bó tay chân, lấy cá chết thối giã ra đắp lên cho ruồi nhặng bu lại, lấy thuốc đỏ bôi vào… để xin tiền! Xin tiền bằng bệnh cùi đã trở nên một nghề nghiệp để sống, mặc dù đã khỏi bệnh nhưng vẫn không muốn vượt thoát ra khỏi cái lợi lộc vật chất do bệnh cùi mang lại. Họ bị bênh cùi tinh thần!
Anh mù Bartimê này thất khác thường! Anh không muốn tiền! Lời cầu xin của anh lại chẳng vĩ đại hơn lời thỉnh cầu của Giacôbê và Gioan, hai môn đệ đã muốn xin Chúa cho một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả trong vinh quang của Ngài hay sao? (Mc 10:35-45). Anh lại không tốt hơn chàng thanh niên giàu có đến hỏi Chúa phải làm gì để được sống đời đời và sua cùng htì buồn bã bỏ đi vì ham mên của cải trần gian sao? (Mc 10:17-22).
Hôm nay nếu Chúa hỏi chúng ta: con muốn gì? Một cách thành thật chúng ta sẽ trả lời ra sao? Giống như Giacôbê và Gioan, con muốn ngời bên hữu, bên tả, chỗ quyền lực tối cao trên thế giới này? Giống như người thanh niên giàu có, con cũng muốn giữ lại của cải trần gian? Con muốn xin những sự mà trong đời con chưa bao giờ thực hiện được? Con muốn có những cái mà con chưa bao giờ có?…
“Con muốn Ta làm gì cho con?” Đây chính là câu hỏi phải suy nghĩ. Khi cầu nguyện: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” chúng ta nghĩ rằng lời cầu nguyện đó chỉ là một điểm nhỏ trong lời cầu nguyện của chúng ta, hay đó chính là lời cầu nguyện của cõi lòng ta? Thiên Chúa không phải là ông Già Noel – Santa Claus thích cho quà. Thiên Chúa không muốn chúng ta chỉ vui vẻ mà thôi, nhưng ngài muốn chúng ta nên thánh (Dt 12:14). Tất cả những gì Ngài ban cho chúng ta hay từ chối đều nhắm vào mục đích tối thượng này.
Chúng ta cứ tiếp tục cầu xin Chúa, nhưng không thể xem Chúa như “cái thẻ rút tiền ATM” – a divine ATM. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta, và muốn ban cho chúng ta nhiều hơn là lòng chúng ta mong ước.
“Con muốn Ta làm gì cho con”? Một Thiên Chúa đầy hồng ân đang chờ đợi câu trả lời của chúng ta mỗi ngày.
ĐỨC KITÔ KHÔNG CHỮA KHỎI MỌI TẬT BỆNH, NGƯỜI CHỮA KHỎI MỘT KẺ TẬT NGUYỀN.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’).
Giêricô ở phía đông Giêrusalem, không xa sông Hòa Giang bao nhiêu và hưởng một khí hậu nóng. Mặt khác, nhờ có những công trình thủy lợi tốt, nên mùa xuân ở đây thật đẹp, hoa lá tốt tươi. Chúa rời thành phố đi về Giêrusalem. Đám đông có lẽ gồm những kẻ rỗi rãi từ các nơi về đây tránh rét, xúm lại theo vị Thày được mọi người nói đến. Lúc đó một người ăn xin mù kêu lớn về phía Chúa. Thánh chép sử Marco cho ta biết người ấy tên là Bartimê, con ông Timê, có lẽ sau này trở thành Kitô hữu và được cộng đồng giáo hữu quen biết.
Người mù kêu lớn, gọi Chúa là Con Đavít. Có lẽ người ấy bộc lộ qua tiếng gọi đó, một dư luận mà đám đông chỉ ngấm ngầm cảm thấy mà không nói ra, dư luận rằng: Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Người ta không muốn cho người mù làm rộng, họ muốn bịt miệng người ấy, trước hết vì lẽ những tiếng kiêu của anh làm họ khó chịu, lẽ thứ hai là có thể danh xưng anh dùng để kêu gọi Chúa dễ gây nhiều rắc rối. Phần anh chỉ biết ao ước được chữa khỏi, anh chẳng ngại gì nói lên lòng tin (hay bước đầu tin) của mình. Chúa chữa anh khỏi, chúng ta ghi lại hai điều:
1) Dừng lại, Chúa Giêsu nói: gọi người ấy đến.
Người ta có thể nghĩ rằng Chúa sai các môn đệ gọi. Ta để ý ba giai đoạn trong quá trình đầu của sự việc người mù gặp Chúa. Biết Chúa ở đó, anh kêu lên để gọi Chúa. Đó là tiếng con người kêu lên với Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu sai môn đệ chuyền đạt lời gọi của Người. Đức Kitô nói với nhân loại qua trung gian Giáo Hội của Người. Như vậy, giáo hội ngày nay là ai? Là chúng ta. Hai câu hỏi: chúng ta có quan tâm đừng bao giờ làm cái đập ngăn chận những tiếng kêu của người nghèo, họ la lớn về một phía Đấng họ cảm thấy không xa họ, tuy không nhìn thấy Người? Chúng ta có lo lắng kêu gọi người nghèo, người bệnh, người tội lỗi và dẫn họ đến với Đấng cứu chuộc duy nhất là Đức Giêsu Kitô không? Lời Đức Kitô kêu gọi thế giới vang dội xuyên qua Giáo Hội. Mối bận tâm của chúng ta phải hướng về đâu. Phải chăng chúng ta chỉ lo tranh luận dai dẳng về bản chất Giáo Hội và sự điều hành “định chế”? Giả sử số đông Kitô hữu, gồm cả cấp hữu trách trong Giáo Hội, có mối quan tâm hàng đầu là làm môn đệ Đức Kitô sống động và kêu gọi người ta đến gặp Chúa. Nếu vậy, những Kitô hữu ấy có bị tràn ngập dưới những vấn đề không? Về điểm này, hiến chế Ánh sáng muôn dân của Công đồng Vaticanô II, soi sáng chúng ta.
2) ‘Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?
Câu hỏi của Chúa có thể bị xem là một câu hỏi dị thường. Chúa biết rất rõ người mù chờ đợi sự gì ở Chúa, anh chờ Chúa chữa anh được sáng mắt. Kẻ tật nguyền đó đã kêu lên xin Người thương xót. Phía sau tiếng kêu của anh, là niềm cậy trông vào một quyền lực siêu phàm có thể chữa được anh. Chúa muốn anh đối thoại với Người. Chúa muốn thử nghiệm một lòng tin phôi phai và hướng dẫn lòng tin ấy đi quá hy vọng một sự chữa lành tức thì, để tiến đến mọi sự liên hệ trực tiếp với Chúa. Kẻ mù, với tư thế một con người, trả lời Đức Giêsu như thể trả lời Đấng Cứu Thế. Chúa không chữa khỏi một tật bệnh, Chúa chữa khỏi một kẻ tật nguyền trong tâm hồn kẻ ấy, ơn thiên phú của đức tin đã vào sâu và được nghênh đón. Hãy đi lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi. Người ấy có thể trở nên một trong những môn đệ trung kiên đã gắn bó theo Chúa không? Có lẽ là thế. Một điều đáng nhớ: Chúa Giêsu không chữa lành tội của tôi, Chúa chữa lành tôi, một kẻ tội lỗi, bởi vì tôi đã hiến dâng Chúa niềm tin của tôi.
“Lạy Thầy xin cho con được thấy”
Các môn dệ và dân chúng gặp Chúa Giêsu, thấy Chúa Giêsu thường xuyên nhưng họ lại không nhận ra Chúa Giêsu là con vua Đavid, là Messia. Họ chỉ nhìn Chúa Giêsu bằng con mắt người thế, chỉ thấy hình dáng con người của Chúa Giêsu mà không tìm hiểu sâu hơn nữa, nên không nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế.
Có lẽ đang lúc đất nước bị đô hộ, người do thái chỉ nghĩ đến một ông vua Messia trần thế để thỏa mãn niềm tự hào dân tộc của họ chứ không nghĩ xa xôi về ơn trọng đại của Thiên Chúa sắp ban cho loài người: ơn cứu chuộc linh hồn, đem lại sự sống đời đời cho mọi người. Lý do chính khiến họ không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế là vì họ nghĩ đến quyền lợi trần thế nhiều hơn lợi ích phần hồn, ưu tiên cho vật chất nhiều hơn tinh thần, bận tâm cho đời này hơn là đời sau.
Những người sáng mắt thể lý mãi lo nghĩ đến vấn đề vật chất, chức quyền nên khó nhận ra chương trình siêu việt của Thiên Chúa. Còn anh mù Bartimê nghe biết Chúa Giêsu bằng con mắt tâm hồn, anh đã tuyên xưng Chúa Giêsu bằng tước hiệu của Đấng Messia: Con vua Đavid. Cho dù nhiều người không muốn cho anh gặp gỡ Chúa Giêsu và nói lên lời tuyên xưng của mình nhưng anh vẫn la to: Lạy Con vua Đavid, xin thương xót tôi.
Chúa Giêsu ở giữa đám đông vây kín, nhưng Ngài vẫn nghe rõ tiếng của anh từ xa. Ngài truyền gọi anh đến. Anh tin tưởng hết lòng vào Chúa Giêsu nên vứt bỏ áo choàng là tài sản rất quan trọng của anh, bỏ vị trí quen thuộc của mình để đến với Chúa Giêsu. Anh đã được toại nguyện và đi theo làm môn đệ Chúa.
Anh mù Bartimê có lòng tin qua những lời người ta thuật lại cho anh về Chúa Giêsu. Anh được Chúa mở mắt và cho làm môn đệ. Còn chúng ta, chúng ta là những người sáng mắt, chúng ta có giống đám đông dân chúng: có mắt mà tâm hồn thiếu ánh sáng đức tin, không nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện bên mình, không biết rằng mình đang được diễm phúc nhìn ngắm, nghe những lời phán dạy trực tiếp từ Người và còn được sờ chạm vào Người nữa. Nếu như đôi mắt tâm hồn của họ mở thì họ đã không giết Chúa Giêsu. Nếu như đôi mắt đức tin của chúng ta mở thì chúng ta sẽ không bỏ lễ Chúa Nhật và rất ham đi lễ hằng ngày để được gặp Chúa, để lắng nghe Lời Người, để được ăn Thịt uống Máu Người trong Bí tích Thánh Thể, được rước Người vào lòng mình. Nếu đôi mắt tâm hồn chúng ta mở rộng thì chúng ta sẽ nhận ra mọi người là anh em, sẽ yêu thương tha nhân và sẵn sàng cứu giúp những người nghèo khổ xung quanh.
Ước gì chúng ta biết đến với Chúa để Chúa làm cho đôi mắt đức tin của chúng ta được sáng thêm, đời chúng ta gắn bó với Chúa hơn như anh mù Bartimê trong Tin mừng hôm nay. Như thế, mọi công việc chúng ta làm hàng ngày đều là làm với Chúa và vì Chúa. Đó là sự an ủi cho những khó nhọc hàng ngày của chúng ta, đó cũng là phần phúc của chúng ta đời này và đời sau.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn nhận ra tình thương và hồng ân Chúa trên chúng con để chúng con biết cảm tạ Chúa và hết lòng cậy trông vào ơn cứu độ của Ngài.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một người đi trong đêm tối, tay cầm chiếc lồng đèn. Một khách qua đường chặn ông lại và hỏi:
– Anh cầm chiếc lồng đèn để làm gì, bởi vì nghĩ cho cùng, anh mù mà!
– Để cho kẻ khác thấy tôi và không đụng vào tôi.
Người mù trả lời và tiếp tục đi. Một ngọn gió nhẹ thổi qua, rồi anh bị một người đi đường khác đụng mạnh té lăn trên đường. Người mù bực mạnh la lớn:
– Anh không nhìn thầy đèn của tôi sao?
– Nhưng thưa ông, chiếc đèn của ông bạn đã bị tắt rồi mà!
Anh bèn thắp lại đèn và tiếp tục đi. Lần này, anh giữ đèn cẩn thận để khỏi bị gió thổi tắt. Đi được một quãng anh lại bị đụng ngã. Anh liền phản ứng quyết liệt:
– Anh không thấy ngọn đèn của tôi cháy sáng hay sao?
– Xin lỗi ông, tội nghiệp cho tôi, vì tôi bị mù…
Thưa anh chị em,
Người mù đã làm hết cách, nhưng vẫn không thể làm sáng mình, anh vẫn lẩn quẩn trong thế giới mù loà. Chúng ta chỉ dựa vào mình, thì chúng ta cũng chỉ lẩn quẩn trong giới hạn của mình, ngay khi cả chúng ta tự hào về những văn minh tiến bộ, thì coi chừng đó cũng chỉ là anh mù cầm đèn sáng mà nghĩ rằng mình thấy đường. Chỉ có Chúa mới là Đấng mở mắt cho chúng ta được thấy.
Con người thường tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng thật ra mình không thấy nhiều cái lắm “có mắt mà như mù”. Và mù trên tất cả là không thấy mình đang sống như người mù: sống mà không biết tại sao mình sống? Mình sống để làm gì? Cuộc sống này sẽ đi về đâu?…
Còn anh mù trong Tin Mừng hôm nay lại khác. Anh thấy nhiều cái mà người khác không thấy. Anh thấy Đức Giêsu là Con Vua Đavít, là Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô Cứu Thế. Anh thấy quyền năng của Đức Giêsu có thể giúp đỡ anh một cái gì khác hơn là vật chất, tiền bạc. Anh thấy tình trạng khốn khổ của mình. Vì thế, có một sự trái ngược, anh mù thấy được nhiều cái mà người sáng mắt không thấy. Và tiếng kêu của anh “Lạy Thầy, xin cho con được thấy” là một tiếng kêu của lòng tin. Lời cầu của anh được Đức Giêsu đáp ứng. “Lòng tin của anh cứu chữa anh”. Chúa Giêsu mời gọi anh không những đến với Ngài mà còn đi theo Ngài.
Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại câu chuyện: Một người đàn ông phong cùi sống trơ trọi trong một túp lều tăm tối, xa tránh và hận thù mọi người, hận thù xã hội. Mẹ nói: “Ngày tôi đến thăm, người đàn ông ấy đã không bao giờ muốn ra khỏi túp lều tăm tối của mình. Tôi tiến lại gần con người ấy và đưa cánh tay mời mọc, nâng cánh tay của anh để anh đứng dậy, rồi cùng dìu anh bước ra khỏi túp lều tăm tối. Vừa đến bên cánh cửa nơi ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua, người đàn ông đã có một thái độ mà mãi mãi tôi không bao giờ có thể quên được: Ra khỏi căn lều, đứng giữa ánh sáng, anh hô lên một tiếng kêu lớn: “Tôi thấy!” Kể từ khi bóng tối của bệnh phong cùi ập phủ xuống trên cuộc đời, thì hôm nay thực sự là lần đầu tiên anh cảm nhận được có ánh sáng trong cuộc đời. Với tất cả sức lực còn lại, anh muốn thét lên với cây cỏ, với núi non, với thiên nhiên, với trời cao, với tất cả mọi người như sau: “Tôi thấy! Tôi thấy! Tôi thấy rồi!”.
Thưa anh chị em,
Có những người tự giam mình trong bóng tối, và có những người bị giam hãm vào bóng tối. Vô tình hay hữu ý, có lẽ chúng ta cũng đã xô đẩy không biết bao nhiêu người vào trong bóng tối. Nếu chúng ta không sống làm chứng tá cho Tin Mừng, chúng ta khước từ giúp đỡ người xấu số, đó có thể là hành động xô đẩy người khác vào bóng tối cô đơn của thất vọng, chúng ta cũng tự giam hãm mình vào bóng tối hay ít ra cũng giảm bớt ánh sáng nơi chúng ta.
Chúa Giêsu đã nói: “Anh em là ánh sáng thế gian”. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta. Người Kitô hữu chỉ là Kitô hữu khi họ là ánh sáng thế gian. Trong Kinh Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha đã cầu “xin cho các môn đệ Đức Kitô được toả sáng, nhờ biết yêu thương những kẻ nghèo hèn và những người bị áp bức”. Ánh sáng không còn khả năng chiếu sáng, ánh sáng ấy trở thành tăm tối. Hãy chiếu sáng bằng những việc làm của ánh sáng. Một cuộc sống đầy gương sáng, một lời nói nâng đỡ ủi an, một nụ cười thông cảm, một đường hướng đưa ra để đồng hành. Đó chính là những việc làm của ánh sáng mà những người chung quanh đang chờ đợi ở chúng ta và chúng ta cũng tin rằng một ánh lửa càng được chia sẻ thì càng được đốt sáng lên và tỏa lan.
“Lạy Chúa, xin cho con được thấy”.
Xin mở mắt con, để con biết nhìn ngắm những cảnh đẹp thiên nhiên, những kỳ công do tay Chúa tạo dựng trong vũ trụ, trời đất, vạn vật…
Xin mở mắt con, để con thấy những anh em nghèo đói, ốm đau, bệnh tật quanh con, để con biết yêu thương, nâng đỡ và chia sẻ.
Xin mở mắt con, để con thấy cái tốt nơi người khác, những việc tốt anh em đã làm cho con trong cuộc sống hàng ngày.
Xin cho con phản chiếu ánh sáng của Chúa trong cuộc đời con, vì Chúa là Sự Sáng, là Tình Yêu, là Chân Lý và là Sự Sống. Amen.
Nàng là một phụ nữ không bao giờ có thể thấy được một điều gì tốt đẹp nơi người khác. Bất kể ai làm điều gì tốt, nàng cũng tìm ra được một điều sai. Một người nào đó làm một việc tốt, nàng vẫn có thể tìm ra một nguyên nhân xấu xa. Nàng ưa câu nói: “Nó phải có ẩn ý… Nó rút ra được gì trong đó”. Nàng bắt lỗi mọi người. Nhiều người chúng ta ít nhiều có tật xấu như nàng. Nàng bất thường, để lấy lại niềm tin, nàng ý thức rằng cái tật “bới bèo ra bọ” làm nàng sợ hãi. Nàng đến bác sĩ tâm thần, nhưng ông chẳng giúp nàng được bao nhiêu. Ngày kia, được nghe câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù bẩm sinh. Câu chuyện chúng ta vừa nghe thực sự thức tỉnh nàng: Nàng bị mù trước những cái tốt đẹp của người khác. Nàng can đảm nhìn sự thật và thay đổi nhãn quan với người khác.
Chúa Giêsu chữa người đui mù thể xác, để chứng tỏ rằng Người cũng có thể chữa bệnh đui mù thiêng liêng. Quả thật. Bệnh đui mù tinh thần và thiêng liêng còn tai hại hơn đui mù thể xác. Loại đui mù thiêng liêng này lây nhiễm người trong chúng ta. Mỗi người chúng ta phải tự hỏi: “Tôi có mù trước cái tốt của kẻ khác không?”. Nếu có, chúng ta kêu cầu Chúa Kitô chữa chúng ta như người đui mù trong bài Tin Mừng.
Nơi tốt nhất để bắt đầu sửa chữa là ngay trong gia đình. Vợ bạn quên đính nút áo sơ mi, thay vì nghĩ đến sự thiếu sót này, trước hết bạn hãy nghĩ đến những việc tốt nàng đã làm trong ngày đó cho bạn và cho gia đình: Nấu ăn, giặt giũ, lau chùi, săn sóc con cái… Chồng bạn quên đổ thùng rác, không sao đâu, bạn hãy nghĩ để chàng làm việc cả ngày cho bạn và các con.
Thanh niên nam, nữ: bạn cần nghĩ đến những việc tốt cha mẹ đã làm cho bạn, hơn là những lần các ngài không cho phép bạn hoặc muốn bạn ở nhà.
Tập nghĩ đến cái tốt người khác làm, thay vì nghĩ đến lầm lỗi của họ, như trong trường giữa thầy và trò, như cha sở và giáo dân, như các thành phần của hiệp hội, công nhân trong công đoàn. Ông chủ của bạn không thể hoàn toàn xấu, người công nhân không thể hoàn toàn vô dụng. Mở mắt ra để thấy cái tốt của người khác, nghĩ tới nó và nói về nó.
Nhìn cái tốt nơi người khác là một cách để yêu người. Tình yêu không tiêu cực. Tôi không thể yêu một ai bằng cách nói: “Tôi sẽ không bao giờ nghĩ tàn nhẫn về bạn, hoặc nói tàn nhẫn cho bạn”. Đó không phải là tình yêu. Tình yêu phải tích cực: “Tôi sẽ bỏ cách thức của tôi, tôi sẽ cố gắng đặc biệt để nghĩ, nói và hành động tử tế với bạn”. Hoa trái lớn của việc tìm cái hay cái tốt trong người khác là cảm giác hài lòng và hân hoan. Và chúng ta còn giữ được giới răn của Chúa Kitô bảo ta đừng xét đoán.
Để nhìn thấy cái tốt cái hay của người khác, chúng ta cần sức mạnh thiêng liêng, một thứ phép lạ. Chúa Kitô sẽ làm phép lạ cho bạn nếu bạn xin Người.
Xin Chúa chúc lành bạn.
XIN MỞ CHO CON ĐÔI MẮT THẤY TÌNH YÊU KỲ DIỆU CỦA CHÚA KHẮP NƠI
Ngày còn bé, thi thoảng Mẹ và Dì dẫn lên Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Cũng thi thoảng được nghe những sáng tác của Cha Thành Tâm. Một bài hát đã đi vào lòng của mình tự bao giờ chẳng hiểu. Chắc có lẽ nhịp điệu bài hát ấy nó hơi sôi động và dễ hát nên dễ nhập tâm:
“Lạy Chúa xin mở mắt tôi biết nhìn kỳ công của Ngài
Trời xanh tinh tú long lanh, mây ngàn cùng muôn muôn thú
Đồi kia! Ai đắp nên cao, sóng trào đại dương mênh mông.
Biết rằng: Ngài đã thương tôi thế mà tôi đâu có hay.
Ephata hãy mở! Mở ra! Ephata! Hãy mở ra! Ephata”.
Giờ lớn lên một chút, thi thoảng nghe lại bài hát này thấy vẫn còn hay vì lẽ lời cầu nguyện của bài hát này hết sức mộc mạc và cũng hết sức dễ thương: Lạy Chúa xin mở mắt con!
Vâng! Nhiều lúc mình có mắt nhưng mắt có chịu thấy đâu để rồi cũng phải xin Chúa mở ra để nhìn thấy kỳ công của Chúa đang thực hiện trên cuộc đời này. Cứ chịu khó xin đi, Chúa sẽ nhận lời nguyện xin của mỗi người chúng ta như Chúa chữa anh chàng mù thành Giêricô hôm nay trong tin mừng Máccô vậy.
Trang tin mừng về việc Chúa Giêsu chữa anh chàng mù thành Giêricô được phác hoạ như là một tiền dẫn để chuẩn bị cuộc tiến vào Giêrusalem chịu khổ hình thập giá của Chúa Giêsu.
Thánh Maccô đã khéo lép sắp xếp cách hành văn để tạo nên một sự song chiếu với trình thuật chữa người mù Betsaiđa (Mc 8, 22-26). Vì chưng câu chuyện chữa người mù thành Betsaiđa cũng đã là một thứ tiền khúc cho cuộc tuyên xưng đức tin của Phêrô (Mc 8, 27-33)
Nói cách khác, phép lạ chữa người mù Betsaiđa cũng như phép lạ chữa người mù Giêricô được Thánh Maccô trình bày như những trình thuật chuyển mạch đưa dẫn tới sự tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu Đấng Thiên sai cứu độ.
Và họ đến Giêricô. Lúc Người ra khỏi Giêricô cùng với môn đệ và dân chúng đông lắm, thì có con của Timê là Bartimê, một người ngồi ăn xin dọc đường. Nghe nói là Chúa Giêsu Nadarét đó, thì hắn lên tiếng kêu rằng: Giêsu con Đavit, xin thương xót tôi. Nhiều người quát bảo hắn im, nhưng hắn càng kêu hơn nữa: Lạy con Đavit xin thương xót tôi (c. 46-48).
Giêricô vốn là một thành cổ xưa nhất của Palestina, nằm cách Biển Chết khoảng 10 km về phía Bắc, cách Giêrusalem chừng 30 km về phía Đông Bắc. Trong Tin Mừng Maccô, đây là nơi dừng chân sau cùng của Chúa Giêsu trước khi tiến vào Giêrusalem. Cũng chính ở đây, Chúa Giêsu chữa lành cho Bartimê, một kẻ ăn xin mù lòa.
Một người mù ăn xin: Trong bối cảnh thời đại ở Đông Phương lúc ấy, bệnh mù mắt được coi như thứ bệnh vô phương cứu chữa và số phận của nạn nhân thường rất bi đát. Đa phần trong họ không có cách kiếm sống nào khác ngoài việc đi ăn xin (x. Ga 9,8). Bởi thế, một cách nào đó, bệnh tật này gợi nhớ nỗi khốn cùng tuyệt vọng của kiếp người.
Trở lại câu chuyện Tin Mừng, người mù này là con của Timê. Tên gọi Bartimê là một ngữ vựng Aram ngữ có ý nghĩa y hệt (Bar = con; Bartimê = con của Timê). Thánh Maccô vẫn có thói quen lấy lại nguyên ngữ Aram. Chi tiết này cũng là bằng chứng cho thấy thánh ký có lấy nguồn tài liệu từ một truyền thống Aram ngữ.
Người mù đó ngồi ăn xin ở vệ đường và khi nghe biết Chúa Giêsu Nadarét đi qua, anh đã lớn tiếng khẩn cầu sự trợ giúp của Người: “Giêsu con Đavit, xin thương xót tôi”. Và khi mọi người quát bảo anh ta im, anh ta lại càng kêu xin lớn nữa: Lạy Con Đavit, xin thương xót tôi (x. c. 47.48).
Trong truyền thống Do Thái, tên gọi Con Đavit là một tước hiệu bình dân gán cho Đấng Thiên sai.
Người mù ăn xin đó đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai, vốn được dân Do Thái chờ mong. Anh ta đã khẳng khái tỏ bày sự tin tưởng vào Người, bất chấp sự cản trở của dân chúng.
Cách miêu tả của thánh ký gợi lên sự kiện này: dân chúng háo hức tháp tùng Chúa Giêsu, song họ không có một đức tin chân thực, họ mù quáng về sứ mệnh Thiên sai của Người. Đang khi đó, một kẻ mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường lại đặt tin thác vào Người con Đavit, tức là Đấng Thiên sai được đợi trông. Chắc hẳn lòng tin tưởng đó của anh còn cần phải được soi sáng hơn, y như trường hợp người phụ nữ băng huyết đã được chữa lành và tin tưởng vào Người. Tuy nhiên, có điều chác chắn là người mù đã tin vào sự vĩ đại cũng như quyền lực của nhân vật mà anh ta van xin. Anh ta biết rằng, ít ra chính Thiên Chúa đã ban cho anh cơ hội gặp gỡ Chúa Giêsu. Bởi thế, anh đã không nản lòng van xin sự trợ giúp. Dù biết rằng Chúa Giêsu là người quê ở Nadaret (x. c 47a Giêsu Nadaret), anh ta đã không dừng lại ở gốc gác lý lịch, nhưng đã tỏ bày sự tín nhiệm không do dự: Giêsu con Đavit xin thương xót tôi.
Trong nhãn quan thần học Maccô, người mù ăn xin này nói lên mẫu gương tuyệt vời của một môn đệ dứt khoát chọn theo Chúa Giêsu trên con đường tiến về Giêrusalem, tức con đường khổ nạn.
Đứng dậy, Chúa Giêsu nói: gọi người ấy… Hắn vứt áo choàng một bên, nhảy chồm dậy và đến cùng Chúa Giêsu. Người lên tiếng nói vói hắn: Ngươi muốn ta làm gì cho ngươi? Người mù đáp lại: Rabbuni, xin cho tôi được thấy. Chúa Giêsu bảo hắn: Hãy đi, lòng tin của ngươi đã cứu ngươi. Và lập tức hắn đã thấy được mà theo Người lên đường (c. 49-52).
Khác với nhiều lần trước, lần này Chúa Giêsu không khước từ danh xưng Thiên sai gán cho Người. Người để cho kẻ mù ăn xin lớn tiếng tuyên xưng Người là Con Đavit. Thêm một lần nữa chúng ta phải bắt nhận ra được ý nhắm thần học ở đây trong liên hệ với thần học về Bí mật Thiên sai của thánh ký Maccô. Tại sao Chúa Giêsu không còn căn dặn im lặng hay bó buộc im tiếng? Độc giả Maccô sẽ không quên rằng Chúa Giêsu đang đi trên đường tiến về Giêrusalem mà Giêricô là trạm chót sắp vượt qua. Người đang trên đường gần kề cuộc khổ nạn thập giá: ý định của Thiên Chúa về công cuộc cứu độ sắp hoàn thành. Bởi vậy không còn lý do gì để giữ mãi những màn che Bí mật Thiên sai: tất cả sắp được tỏ lộ một cách thanh thiên bạch nhật. Đành rằng khó lòng mà tránh được mọi hiểu lầm về một Đấng Thiên Sai chính trị và và trần tục như sau này Người sẽ bị kết án như thế. Song le, không có cản trở nào làm đổ vỡ được hoạch định của Thiên Chúa. Theo ý định của Thiên Chúa cái chết của Người sẽ là con đường dẫn tới ơn cứu độ cho nhân loại. Người thực sự là Đấng Thiên Sai cứu độ, dù rằng khác với cách mơ ước trần tục ích kỷ của người Do Thái.
Người đến đem ơn cứu độ cho tất cả ai đón nhận, mà việc chữa lành người mù ăn xin là một dấu chỉ: dấu chỉ của đức tin cứu độ.
Chính vì thế, Người đã nói với nạn nhân: Đức tin của ngươi đã cứu người. Gợi nhắc sự việc y hệt Người đã chữa cho phụ nữ băng huyết khi bà bị bệnh (Mc 5,34) Và kẻ được chữa lành đã lên đường theo Người (c. 52b). Đó cũng là sứ điệp ngõ cho những ai chọn theo Người. Như đức tin vào Chúa Giêsu đã chữa lành người mù, cũng thế đức tin đưa dẫn kẻ tin Người biết chọn theo Người trên con đường khổ nạn để có được ơn cứu rỗi đích thực nơi mầu nhiệm phục sinh này.
Vấn đề ở chỗ mù là mù đức tin. Cuộc đời của khá nhiều người, mắt vẫn sáng ấy nhưng không nhìn thấy được đức tin và đức tin cũng chẳng thể nhìn bằng con mắt thường nhưng nhìn bởi con mắt của lòng tin, của sự tín thác vào Thiên Chúa. Anh chàng mù hôm nay dù đã bị ngăn cản nhưng anh đã vượt qua cái ngăn cản của con người để đến với Chúa và anh ta đã được toại nguyện.
Chúng ta, có thể được sáng mắt, không cần Chúa chữa cho mình được sáng về thể xác như anh mù nhưng có thể chúng ta bị khuyết tật, bị khiếm khuyết chút gì đó trong con mắt tâm hồn, con mắt đức tin. Và vì vậy, chúng ta nên chăng cũng bắt chước anh chàng mù để xin Chúa chữa con mắt tật bệnh của chúng ta. Lời nguyện trong Thánh Thi kinh sách thứ Năm tuần II thật hay:
Ôi lạy Chúa, xin mở cho con đôi mắt
Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi.
Con mù loà bên vệ đường hành khất,
Xin chữa con để con nhìn thấy mặt Ngài.
Lạy Chúa Giêsu – con vua Đavít, xin chữa cho con để con nhận thấy tình yêu của Chúa thật kỳ diệu xiết bao và đặc biệt là kỳ diệu với riêng mảng đời của con. Chúa đã thương ban cho con qúa nhiều ơn lành nhưng hình như con cứ như mù loà để không nhận ra những ơn ấy. Lạy Chúa, xin mở mắt con.
Năm 1945, tại nhà ga Verona bên Ý, dân chúng đang náo nức chờ các binh sĩ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc xã. Một người lính trẻ hai mắt đã bị hư, anh lần mò từng bước trên sân ga tiến về chỗ một bà già. Anh la lên: Mẹ! Và hai mẹ con ôm chầm lấy nhau, khóc nức nở. Bà mẹ xót xa nói: “Làm sao một người mù lòa như con mà vẫn về được với mẹ”. Người lính đáp: “Con không nhìn thấy mẹ bằng mắt, nhưng trái tim đã hướng dẫn con”.
Người mù thành Giêricô cũng đã đến với Chúa Giêsu bằng trái tim. Anh không được nhìn Chúa, nhưng niềm tin của anh đã dẫn anh đến với Người. Anh được nghe nhiều về Chúa, và lòng trí anh đã ghi nhớ đuợc một số điều căn bản. Vì thế, nghe xôn xao có Chúa đến gần, anh đã phát biểu niềm tin của mình bằng tiếng kêu lớn: “Lạy Đức Giêsu, con Vua Đavid, xin thương con”. Do thiện chí và do ơn trên soi sáng, anh mù đã nhận ra Đấng Cứu Thế. Khi nghe người ta bảo: “Hãy vững tâm đứng dậy. Thầy gọi anh đó”. Anh vội vã liệng áo choàng, nhảy lên và chạy tới Chúa. Chúa chữa lành anh bằng một lời khen ngợi: “Đức tin của con đã cứu con”. Anh được khỏi bệnh và gia nhập vào đoàn ngũ những người theo Chúa.
Theo Thánh Marcô thì đây là phép lạ sau cùng Chúa thực hiện trước khi chịu thương khó. Dưới ngòi bút của Thánh Marcô, các môn đệ Chúa cho tới giờ chót vẫn như những người mù, sự kiện này làm Chúa rất bận tâm. Chúa đã ba lần tiên báo về cuộc khổ nạn (Mc 8,31;9,31;10,34). Và nhiều lần nói về số phận các tín hữu muốn trung kiên với Chúa phải sẵn sàng hy sinh mạng sống (8,35), phải chọn địa vị rốt hèn (9,35), phải sẵn sàng móc mắt, chặt bỏ tay chân để khỏi phạm tội (9,47), phải uống chén đắng và trở nên đầy tớ mọi người (10,38-44)… Những điều này cho tới giờ các Tông đồ vẫn chưa hiểu. Theo Chúa mà như vậy. Thầy đi một đường, trò đi một lối như vậy đâu có được! Đúng là không thể được. Không thể thành môn đệ bằng lối suy tư con người. Cần thiết phải có ơn Chúa, phải được Chúa mở mắt, đem ánh sáng cho. Có vậy mới nhìn ra giá trị ơn cứu độ của Chúa và mới biết lựa chọn thái độ nguơì tín hữu, theo sự hướng dẫn của Chúa. Có vậy mới thoát khỏi cảnh tăm tối u mê như một căn bệnh mù lòa trầm trọng.
Người hành khất mù được sáng mắt nhờ đức tin. “Đức tin của con đã cứu con” nghĩa là gì? Là chính đức tin mà Chúa trao tặng cho anh để anh tuyên xưng trước mặt mọi người. Anh đã can đảm tuyên xưng đức tin ấy bằng cách lớn tiếng kêu cầu, bằng cử chỉ vứt bỏ áo choàng (nhu cầu tối cần của anh), bằng cách nhảy chồm lên, vội vã chạy tới Chúa, bất chấp mọi cấm cản của những người chung quanh. Cặp mắt đức tin của anh đã được bật sáng và anh đã nhìn thẳng vào đối tượng duy nhất là Đức Giêsu Nagiarét. Nhờ đức tin sống động ấy, anh mù đã thấy điều mà những người sáng không được thấy (“Con Vua Đavid”, nghĩa là Đức Kitô, Đấng được Chúa Cha xức dầu bằng Thánh Thần): “Anh liền xem thấy, rồi đi theo Người”.
Lạy Chúa, xin bật sáng niềm tin chúng con để chúng con nhìn ra Ngài đang hiện diện với chúng con. Xin giúp chúng con biết can đảm tuyên xưng Ngài trong mọi tình huống của cuộc đời, để chúng con tiếp tục bước theo Chúa trên đường phục vụ hôm nay.
Con mắt là một ơn huệ Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Thật là bất hạnh nếu chúng ta bị mù từ khi mới sinh hay do một tai nạn, một cơn bệnh nào đó. Chính vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy anh mù tại Giêricô, ngồi ăn xin bên vệ đường, đã cố gắng làm cho Chúa Giêsu chú ý tới mình, vì anh ta đã được nghe nói rất nhiều về Ngài, Đấng đầy lòng thương xót, đã thực hiện biết bao nhiêu phép lạ để xoa dịu những nỗi khổ đau. Bởi đó, anh ta đã lớn tiếng kêu cầu:
– Lạy Đức Kitô, con vua Đavít, xin thương xót con cùng.
Nếu Thiên Chúa ban cho cặp mắt sáng, chúng ta hãy cảm tạ Ngài. Nhưng điều quan trọng, đó là chúng ta đã sử dụng cặp mắt ấy như thế nào? Chúng ta có biết mở mắt ra để nhìn ngắm những cái khả dĩ nâng cao tâm hồn và làm đẹp cho cuộc đời chúng ta hay không? Đồng thời chúng ta có biết nhắm mắt lại trước những cái khả dĩ làm cho tâm hồn chúng ta bị hoen ố hay không?
Có một vị hoàng tử được vua cha ban tăng cho hai chú ngựa quí giá. Thế nhưng cả hai vẫn còn thuộc loại ngựa chứng, chưa biết vâng phục.
Khi vị hoàng tử tới gặp, thì chúng ta không chịu đứng yên một chỗ hay tiến đến với chủ của mình. Trái lại, chúng ta chạy chỗ này chỗ kia và thích phi nước đại trên những cánh đồng hoang. Nhưng rồi vị hoàng tử đã ra công tập luyện và dần dần chúng đã biết vâng phục. Chúng chỉ phi nước đại khi vị hoàng tử kéo dây cương và thủng thẳng đi từng bước một khi dây cương được buông lỏng.
Từ những chú ngựa cứng đầu, chúng đã trở nên những con ngựa ngoan hiền. Kể từ nay, chúng không còn chạy xiên bên nọ, chạy xọ bên kia. Nhưng chúng bước đi một cách đều đặn với tiếng hí reo vang.
Đây chỉ là một câu chuyện, thế nhưng từ đó chúng ta rút ra một điều thực hành. Vị hoàng tử chính là mỗi người chúng ta. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta đã trở nên con cái Chúa. Ngài cũng đã ban cho chúng ta một quà tặng quí giá hơn hai chú ngựa kia rất nhiều, đó là cặp mắt sáng.
Cũng như hai chú ngựa chứng, cặp mắt chúng ta luôn nhìn chỗ này và liếc chỗ nọ. Bởi đó, cần phải biết làm chủ và quản lý chặt chẽ cặp mắt của chúng ta. Chỉ nhìn những cái làm cho tâm hồn trở nên cao thương và xa tránh những gì làm cho tâm hồn bị vẩn đục.
Cặp mắt chính là của sổ của linh hồn. Cánh cửa được mở ra để đón nhận những làn gió mát và những tia nắng ấm, nhưng phải lập tức đóng lại khi trời mưa gió. Cũng thế, cặp mắt được mở ra để ghi nhận những cái hay, những cái đẹp để làm giàu cho tâm hồn và cuộc sống, nhưng chúng ta phải lập tức đóng lại trước những cái làm cho tâm hồn bị hoen ố. Vì thế, Thánh Kinh đã bảo:
– Tội lỗi đột nhập vào tâm hồn qua con mắt như qua một khung cửa.
Chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Adong Eva. Trước hết hai ông bà đã nhìn ngắm trái cấm, rồi thầm mong được nếm thử. Và rồi những gì xảy ra, hẳn chúng ta đã biết: Hai ông bà đả ngắt trái cấm mà ăn và phản bội cùng Thiên Chúa.
Hãy canh phòng con mắt như canh phòng biên giới, đừng đễ cho kẻ thù đột nhập.
Để kết luận, chúng ta hãy nhớ lại lời ông Gióp đã nói như sau:
– Tôi đã giao kết với cặp mắt của tôi là sẽ xa tránh những cái nhìn làm cho tâm hồn tôi xao xuyến.
Nếu bây giờ có gìn giữ cái nhìn, thì tâm hồn chúng ta mới được sạch trong và mai ngày bản thân chúng ta mới được chiêm ngưỡng Chúa trong vinh quang muôn đời, bởi vì phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Cuộc sống con người là một chuỗi những khát vọng. Có những khát vọng chính đáng, nhưng cũng có những khát vọng không chính đáng. Khát vọng làm lớn của Giacôbê và Gioan (ngồi bên tả, bên hữu Chúa Giêsu) là không chính đáng. Khát vọng được nhìn thấy của người mù Bartimê trong Tin mừng là rất chính đáng.
Những khát vọng chính đáng mà không khả thi thì cũng chỉ là mơ mộng hão huyền. Khát vọng của anh chàng mù Bartimê đã trở thành hiện thực vì anh đã gõ đúng cửa, tìm đúng nơi để tỏ bày khát vọng của mình. Và Chúa Giêsu đã đong đầy khát vọng chính đáng của anh nhờ lòng tin vào Chúa vững mạnh của anh. Con mắt tâm hồn sáng tỏ sẽ mở ngỏ cho niềm tin đi về và làm lớn mạnh niềm tin ấy.
Có thể nói, trước khi gặp Chúa, con mắt thể xác của anh chàng Bartimê bị mù, nhưng con mắt tâm hồn, con mắt đức tin của anh là rất tốt và rất sáng. Anh đã nhìn thấy được Chúa Giêsu là Con Vua Đavit và là Con Thiên Chúa, Đấng có thể đông đầy khát vọng chính đáng nơi anh: “Lạy Con Vua Đavit, xin cho tôi được thấy”. Với con mắt đức tin sáng tỏ như thế khiến cho anh có sức mạnh để đến được với Chúa Giêsu dù bị ngăn cản bởi những người khác. Như vậy, chúng ta có thể nói được rằng: con mắt đức tin quan trọng hơn con mắt thể xác vì khi con mắt đức tin đã sáng rồi thì mọi chuyện cũng trở nên sáng. Con mắt đức tin sẽ giúp cho con người tin nhận Thiên Chúa, Đấng là nguồn Aùnh sáng và nguồn Hạnh phúc của con người trong cuộc đời này. Cho nên, điều quan trọng trong cuộc đời chúng ta là làm sao giữ cho con mắt đức tin của mình đừng bao giờ bị mù hay bị che khuất bởi những dục vọng đen tối của mình.
Nhưng trong thực tế, có rất nhiều người dù con mắt thể xác vẫn sáng, vẫn đẹp nhưng con mắt đức tin của họ đã bị mù. Vì thế, họ không nhận ra được Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành, không nhìn thấy người khác là anh em của mình. Mù mắt đức tin sẽ dẫn đến những hậu quả đáng sợ như:
– Thấy mình là tất cả nhưng không thấy Thiên Chúa. Họ không cần ai làm người chỉ đường cho họ trong cuộc đời này. Vì thế, họ bước đi trong cuộc đời này mà không biết mình đi đâu. Nói cách khác là họ không thấy và không biết con đường mình đang đi. Chỉ biết mình đang đi nhanh, đi hết tốc độ. Và vì không biết đường cũng không thấy đường nên họ không đi tới được nơi mình muốn tới, hoặc sẽ bị sa xuống vực thẳm. Có thể nói, tâm hồn của nh?ng ng??i có tâm hồn mù tối như ly nước đã đầy, không thể rót gì thêm vào đó được nữa. Chúa có ban ơn cho họ thì cũng bằng thừa. Thiên Chúa cũng hãy còn xa lạ với họ lắm!
– Không nhìn thấy tha nhân là anh em của mình nên họ sống ích kỷ, tham lam, độc ác với đồng loại của mình. Họ sẽ nhìn người khác theo kiểu: người với người là chó sói của nhau. Ai mạnh thì thắng, ai yếu thì thua. Không có vấn đề tình yêu trong cuộc đời này. Anh mù Bartimê cũng đang bị người ta ngăn cản trong việc anh đến với Chúa Giêsu. Họ cho rằng anh mù này không đáng được xót thương. Nhưng với Chúa Giêsu thì mọi sự đã thay đổi.
– Bất mãn và hay buông xuôi với những gì xảy ra không đúng với ý muốn của họ. Vì họ không thấy được ý nghĩa của những gì mà họ gọi là “đau khổ”. Đối với họ, thập giá là điều ô nhục, là dấu chỉ của sự suy tàn trong vô vọng. Họ không thể thấy và không thể hiểu hiểu: ” Con đường từ Thập giá sẽ dẫn đến vinh quang phục sinh huy hoàng”.
Chúng ta hãy xét lại xem con mắt đức tin của mình có được sáng hay chưa? Xin Chúa ban cho chúng ta luôn có được con mắt đức tin luôn cháy sáng, để chúng ta biết nhận ra những điều quan trọng trong cuộc đời này là Kính Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Nếu đôi mắt tâm hồn của chúng ta có bị lu mờ hay mù tối thì chúng ta hãy mau chạy đến với Chúa để được Người chữa lành cho chúng ta để chúng ta biết khao khát những chuyện đẹp lòng Chúa trong cuộc đời này, vì Chúa đã phán: “Phúc cho biết khao khát nhân đức trọn lành, vì họ sẽ được Thiên Chúa ban cho no đầy”. Amen.
Thông thường, trong mọi tổ chức của con người, đều có một vị lãnh đạo. Có khi vị lãnh đạo đó là do cả nhóm chọn ra, có khi là do cấp trên bổ nhiệm, hoặc có khi là do một áp lực nào đó. Chúng ta có lẽ mong ước mọi người đều được quyền dìu dắt lẫn nhau, tuy nhiên điều này hiếm khi xảy ra. Tôi nghĩ tội lỗi đã phá hủy các mối liên hệ tốt đẹp giữa con người với nhau, bằng sự ngờ vực, tính cạnh tranh và nhiều thứ khác nữa.
Tin Mừng đối với người Kitô hữu chúng ta là một giải pháp cho nhu cầu của chúng ta được dẫn dắt trên đường thánh thiện. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một vị hướng dẫn vô phương trách cứ, đó là Chúa Thánh Thần. Khi chúng ta đã quyết tâm bước theo Chúa Giêsu thì việc đem ra thực hành quyết tâm đó, theo thánh Phaolô chính là để mình “được dẫn dắt bởi Chúa Thánh Thần”. Cụm từ này nghĩa là gì?
Trước hết, thánh Phaolô khuyến khích chúng ta tìm kiếm sự hướng dẫn phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải do thế tục hay xác thịt. Chính Chúa Thánh Thần có chức năng dẫn dắt chúng ta đến chân lý cứu độ. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta nhận biết Cha là Thiên Chúa thật. Một khi chúng ta đã chấp nhận sự thật, chúng ta sẽ dễ dàng vâng theo thánh ý Người.
Thần khí làm cho chúng ta trở nên con cái và là người thừa kế của Thiên Chúa là một đề tài suy gẫm phong phú khôn lường. Bạn hãy nghĩ đến đặc quyền làm con cái của Thiên Chúa! Quyền làm con Thiên Chúa này đối nghịch với việc làm nô lệ cho tội lỗi.
Như vậy, mọi sự đều dẫn đến việc chúng ta có thật lòng tận hiến bản thân cho Thiên Chúa hay không, để đón nhận ơn làm con cái của Người. Nếu chúng ta hiểu rõ ân huệ làm con Thiên Chúa, chúng ta sẽ sẵn sàng để sống như những người con của Cha trên trời. Điều này có nghĩa là chúng ta phải dứt khoát từ bỏ con đường tội lỗi, và mở lòng ra để đón nhận sự hướng dẫn và tác động của Chúa Thánh Thần.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin đốt lửa yêu mến trong con. Xin dẫn đưa con vào sâu trong sự sống của Thiên Chúa.
Một người mù hết lòng tin tưởng kêu xin Chúa cứu chữa và Chúa đã cho anh được toại nguyện. Đó là một bài học, một gương sáng cho chúng ta trong việc cầu xin Chúa.
Tên anh mù là Batimê, ngày nào cũng vậy, anh ngồi bên lề đường ở cổng thành Giêricô để ăn xin mọi người qua lại. Nhưng hôm nay, không hiểu có chuyện gì mà ồn ào nhộn nhịp thế? Anh hỏi và người cho anh ta biết có Đức Giêsu đi qua đây. Nghe nói đến Đức Giêsu mà từ lâu anh đã nghe đồn về lòng từ bi và những phép lạ Ngài làm. Đây là dịp may cho anh nên anh kêu xin với bất cứ giá nào: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”.
Lời kêu xin này, chúng ta thấy có một điều đặc biệt, khác thường. Anh không chỉ thưa: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”. Anh kêu đúng tên và tước hiệu của Chúa, anh tuyên xưng danh Chúa trước mặt mọi người, kể cả trước những người Pharisêu và kinh sư có mặt trong đám đông đó.
Trong Cựu ước, tước hiệu “con vua Đavít” là tước hiệu nói lên niềm hy vọng của dân Do Thái vào một vị cứu tinh sẽ giải thoát họ khỏi ách nô lệ và đem lại vinh thắng cho đất nước. Trong Tân ước, tước hiệu này đã được sứ thần Gabrien nhắc tới khi truyền tin cho Đức Maria, đó cũng là lời dân chúng tung hô Chúa Giêsu khi Ngài khải hoàn vào Giêrusalem ngày lễ lá.
Ở đây, anh mù kêu xin Chúa bằng tước hiệu “con vua Đavít” nghĩa là anh nhận ra Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế. Vì vậy lời cầu xin mang một tính chất khác, anh không xin Đức Giêsu như xin những người khác, những người chỉ có thể giúp cho anh một chút tiền, một chút của ăn để sống qua ngày. Lời cầu xin ấy chắc chắn là hoa trái của một niềm tin sâu xa trong lòng anh. Anh tin vì đã nghe người ta đồn thổi về một ông Giêsu đã làm những điều kỳ diệu, và niềm tin ấy còn đi xa hơn nữa: ông Giêsu lạ lùng ấy chính là Đấng Mêsia, là Đấng có khả năng cứu anh khỏi cảnh mù lòa, khỏi tình trạng bi đát, khốn khổ.
Chúa Giêsu đã nghe thấy tiếng kêu xin của anh và Chúa biết được lòng tin của anh, nên Chúa không cấm anh nói ra tước hiệu của Ngài như những lần khác, vì lúc này cũng gần đến ngày Chúa chịu nạn, nên Chúa muốn chân nhận công khai tước hiệu đó, và Chúa đã thương anh thực sự bằng câu nói: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Thế là anh được sáng mắt, xem thấy rõ mọi người và thấy rõ chính Chúa.
Bài học hữu ích cho chúng ta là lòng tin và lời cầu xin của người mù này. Chúng ta thấy anh tin Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai và anh đặt hết lòng tin vào quyền năng của Chúa, chỉ có Chúa mới có thể cứu giúp anh, nên anh kêu xin Chúa, anh gào to xin Chúa, khi mọi người bảo anh im đi, anh càng gào to hơn để Chúa nghe thấy. Chúa đã thương cứu chữa, cho anh được sáng mắt do lòng tin tưởng sâu xa của anh. Đây là một bài học quý giá cho chúng ta.
Thực vậy, Chúa đã ban cho chúng ta một bí quyết để được cứu giúp là tin tưởng cầu nguyện. Trước hết, chúng ta phải hết lòng tin tưởng vào Chúa. Chúng ta phải tin rằng: trên vạn nẻo đường của chúng ta, không phải chúng ta đi tìm kiếm Chúa cho bằng chính Chúa theo đuổi và tìm kiếm chúng ta. Và trong mọi biến cố cuộc sống, chúng ta phải tin rằng: lúc nào Chúa cũng có mặt: trong an vui hạnh phúc hay trong thất bại khổ đau, Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta để mời gọi chúng ta tin tưởng vào tình yêu thương của Ngài. Ngay cả khi chúng ta muốn khước từ và gạt bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống. Ngài vẫn tiếp tục theo đuổi chúng ta. Kinh Thánh đã ví Thiên Chúa như một người tình chung thủy, lúc nào cũng chờ đợi, lúc nào cũng nài nỉ, lúc nào cũng vỗ về, lúc nào cũng tha thứ, lúc nào cũng yêu thương. Như thế, lúc nào chúng ta cũng phải tin tưởng vào Chúa: trong an vui thịnh đạt, chúng ta dâng lời cảm tạ Chúa, trong thất bại khổ đau, chúng ta tin tưởng phó thác, và ngay cả những lúc vấp ngã vì yếu đuối, chúng ta cũng hãy tin tưởng vào lòng tha thứ vô bờ của Ngài. Tóm lại, đức tin của chúng ta phải đơn sơ nhưng phải phó thác hoàn toàn như đứa trẻ đặt vào cha mẹ chúng. Bất cứ đứa trẻ nào cũng tin tưởng cha mẹ chúng có thể làm tất cả những gì mà chúng yêu thích, ước mong, chúng ta cũng phải có đức tin như thế.
Rồi chúng ta thể hiện đức tin đó bằng cầu nguyện. Cầu nguyện có một sức mạnh có thể lay chuyển cánh tay vạn năng của Chúa, cầu nguyện là cơ hội để Chúa can thiệp vào hoàn cảnh của chúng ta, cầu nguyện thật và cầu nguyện đúng như Chúa dạy sẽ giúp chúng ta chạm vào bản tính toàn năng của Chúa. Nói tóm lại, tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống của chúng ta sẽ được Chúa giải quyết qua lời cầu nguyện đầy tin tưởng và thực tâm của chúng ta.
Vậy tại sao có biết bao lần chúng ta cầu xin mà không được hay chưa được? Chúng ta cần phân biệt: “Chúa nghe lời chúng ta” và “Chúa ban điều chúng ta xin”. Thiên Chúa có thể không cho điều chúng ta xin mà vẫn nghe lời chúng ta, bởi vì khi chúng ta cầu xin, Thiên Chúa có thể đáp ứng nhiều cách: hoặc ban chính điều chúng ta xin, hoặc chúng ta xin một ơn, Ngài ban một ơn khác, cũng có khi chúng ta không xin, nhưng Thiên Chúa nhìn xa, Ngài ban cho chúng ta điều chúng ta cần thiết mà chính chúng ta không nghĩ tới, cũng có thể chúng ta cầu xin hoài mà Chúa không cho hay chưa cho, là vì Chúa muốn tăng thêm đức tin của chúng ta khi cầu xin. Vì vậy, trước hết và trên hết chúng ta hãy xác tín: Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn yêu thương chúng ta. Ngài có làm cho chúng ta được toại nguyện hay không, hoặc Ngài nhận lời cầu xin của chúng ta theo cách nào thì cũng đều là vì ích lợi cho linh hồn chúng ta mà thôi.
Tóm lại, Thiên Chúa là một người Cha đầy tình yêu thương. Ngài muốn chúng ta đến với Ngài, Ngài luôn sẵn sàng cứu giúp chúng ta, với điều kiện chúng ta tin Ngài và xin Ngài. Vậy trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống chúng ta hãy hết lòng tin tưởng và tha thiết cầu xin như người mù hôm nay, chúng ta sẽ thấy được quyền năng Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời chúng ta.
Một trong những nỗi khổ tâm của con người là không được nhìn thấy cảnh vật và những người đang sống xung quanh mình. Thà rằng không có đôi mắt chứ nếu có mà không nhìn thấy được thì còn bất hạnh nào hơn. Vì đôi mắt chính là cửa sổ của tâm hồn. Nếu rơi vào hoàn cảnh ấy chắc chắn ao ước duy nhất của chúng ta là được nhìn thấy.
Cũng vậy người mù Bartimê trong đoạn Tin mừng hôm nay rất ước ao được nhìn thấy. Hoàn cảnh của anh lại càng đáng thương hơn vì không những anh bị mù mà anh lại còn nghèo nữa. Vì nghèo nên anh phải ngồi ăn xin bên vệ đường ngày này sang ngày khác.
Nghe biết có Chúa Giêsu đi ngang qua, bất chấp tất cả anh đã kêu xin Người: “Lạy ông Giê-su, Con vua Ða-vít, xin dủ lòng thương tôi! ” (Mc 10, 47b)
Chúa Giêsu biết nỗi khổ tâm của anh nhưng Người vẫn muốn anh xác định lại một lần nữa: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10, 51). Với tất cả lòng tin và phó thác trọn vẹn vào Chúa Giêsu anh tiếp tục kêu xin Người. “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (Mc 10, 51b). Không chần chừ Chúa Giêsu đã cho anh toại nguyện: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” (Mc 10, 52a)
Không những Chúa Giêsu cho anh được sáng đôi mắt thể lý mà Người còn ban cho anh được sáng đôi mắt đức tin. Chính đôi mắt đức tin ấy giúp cho anh quyết định đi theo Chúa Giêsu. Ðể quyết định theo Chúa Giêsu chắc chắn anh đã thấy được mình yếu đuối. Từ sự yếu đuối ấy, anh tin rằng Chúa Giêsu là nguồn sống của đời mình.
Thánh Augustinô đã một lần cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa xin cho con biết con”. Biết Chúa là Ðấng yêu thương, là nguồn sống của đời con. Biết con là một thụ tạo mỏng dòn yếu đuối cần được hưởng tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Thánh nhân được sáng mắt đức tin nên ngài đã dâng lời cầu nguyện một cách khiêm tốn và chân thành như thế.
Trong thế giới hôm nay, con người ta rất dễ bị ru ngủ trong tiền bạc vật chất hay uy quyền danh giá. Do đó, người kitô hữu chúng ta không nhiều thì ít cũng bị ảnh hưởng. Bị ảnh hưởng để rồi người tín hữu không còn tin vào Chúa, họ ỷ lại vào sức của riêng mình. Ðây là điều rất nguy hiểm cho đời sống đức tin của người tín hữu chúng ta.
Tiền bạc vật chất hay uy quyền danh giá sẽ làm cho đôi mắt đức tin của chúng ta không còn biết Chúa là ai cũng như không còn biết là ai nữa. Những lúc đó chúng ta hãy mượn lời cầu nguyện của Thánh Augustinô mà chân thành khiêm tốn dâng lên Chúa. Chúng ta có thật lòng ước ao được nhìn thấy thì Chúa Giêsu mới chữa lành cho.
Fred Collier là một sinh viên y khoa. Ông xuất thân từ một gia đình nghèo khổ tại tiểu bang Kansas nên không không đủ tiền để lấy bằng bác sĩ. Ông không biết làm sao để có thể học cho xong để lấy cái bằng.
Rồi một ngày kia, ông bất chợt cầm lên một tờ báo tại một hiệu hớt tóc nọ. Trong đó có một bài báo viết về sự hiền lành và tình yêu của bà Eleanor Roosevelt, đệ nhất phu nhân của Tổng Thống Franklin Roosevelt.
Fred đã về nhà và viết thư cho cựu đệ nhất phu nhân. Ông đã gởi lá thư đi nhưng không biết có được ích gì không.
Sau đó một thời gian, đệ nhất phu nhân Roosevelt đã đồng ý để gặp Fred. Sau cuộc nói chuyện, bà Roosevelt đã đồng ý để giúp đỡ Fred.
Sau đó một thời gian, cựu đệ nhất phu nhân đã thân hành đến nhà của Fred để thăm. Nhà của Fred là một phòng đi thuê chật hẹp (apartment). Chủ nhà đã hết hồn khi biết rằng căn hộ của mình được một vị khách quí như thế đến thăm.
Sau khi Fred học xong và đậu bằng cấp y học, ông nói với bà Roosevelt là ông không biết phải làm cách nào để mà báo ơn bà. Bà nói với ông rằng ông không cần phải lo lắng việc trả ơn. Sau đó bà tiếp: “Tôi sẽ được trả ơn bằng cách là khi nào anh đi làm và có tiền thì hãy giúp đỡ cho những người xứng đáng được giúp đỡ như chính anh.”
Câu truyện của Fred có nhiều phần giống như câu truyện của anh mù trong bài Phúc Âm hôm nay.
Giống như người mù, Fred đã gặp những khó khăn trong cuộc sống mà tự anh không thể làm gì được. Giống như người mù, anh đã tìm đến những người khác để xin họ giúp đỡ. Giống như người mù, Fred đã được giúp đỡ để hoàn thành giấc mơ của anh.
Cả hai câu truyện của Fred và bà Roosevelt và người mù mà Chúa Giêsu diễn tả cho chúng ta một điều quan trọng. Đó là trong cuộc sống của chúng ta có những lúc chúng ta phải biết chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài giúp đỡ.
Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu và cách Fred đã chạy đến xin người khác giúp đỡ. Chúng ta biết chạy đến tới Chúa để xin Ngài giúp đỡ. Có đôi lúc, loài người phải bó tay không thể giúp đỡ chúng ta giải quyết các vấn đề. Chúng ta chỉ còn biết một điều là chạy đến với Chúa Giêsu xin Ngài giúp đỡ như người mù trong bài Phúc Âm hôm nay.
Gương mẫu để giúp chúng ta biết chạy đến xin Chúa ra tay giúp đỡ là chính Chúa Giêsu trong cảnh vườn Ghếtsimani. Chúa Giêsu đã cầu nguyện xin Chúa Cha nâng đỡ Ngài: “Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự. Vậy xin cất chén này khỏi Con, nhưng đừng theo ý Con một theo ý Cha” (Mc 14:36). Chúa Giêsu đã trình bày sự cần thiết của Ngài với Chúa Cha: “Cha có thể làm được mọi sự”, nhưng Ngài còn thêm “Đừng theo ý Con, một theo ý Cha.”
Và đó chính là cách Thiên Chúa thường giúp chúng ta. Ngài chấp nhận lời cầu nguyện của chúng ta. Có lúc lời chấp nhận ấy giống như chúng ta mong đợi hoặc có lúc Ngài chấp nhận theo ý của Ngài sắp đặt.
Bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta phải biết chạy đến xin người khác và Thiên Chúa giúp chúng ta trong những cơn cùng khổ như Fred và người mù đã làm.
Nếu chúng ta biết làm những việc này với tinh thần cầu nguyện thì chúng ta sẽ được họ giúp đỡ chúng ta hơn là chúng ta tưởng.
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện mà nó diễn tả cách thức Thiên Chúa trả lời những lời cầu nguyện của chúng ta trong cách thức mà chúng không thể nào dám nghĩ đến.
“Con xin cho được khỏe mạnh, để làm những việc lớn lao; Con đã lãnh nhận được sự đau yếu, để có thể làm những việc tốt hơn… Con xin cho được giàu sang, để con được hạnh phúc; Con đã lãnh nhận được sự nghèo khổ, để con biết khôn ngoan… Con xin cho được quyền hành, để con được ca tụng; Con được sự yếu đuối, để con biết trông cậy vào Chúa… Con cầu xin cho được tất cả những gì cần thiết, để cuộc sống con được vui vẻ; Con lãnh nhận được sự sống, để có thể an hưởng tất cả…
(Suy niệm của Đs. Montfort Nguyễn Xuân Pháp O. Cist)
Bài Đọc Một: Gr 31, 7- 9
Reo vui mừng lên hỡi Giacop, vì Đức Chúa đã cứu Dân Người, số còn sót lại của Israel. Trong đó có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người có cữ: tất cả cùng nhau trở về. Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng tới dòng nước và qua con đường thẳng băng; vì đối với Israel, ta là một người Cha.
Bài Đọc Hai: Dt 5, 1- 6
Vị Thượng Tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong mối tương quan với Thiên Chúa. Vị ấy có khả năng cảm thông với kẻ ngu muội, lầm lạc. Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng là được Thiên Chúa gọi. Cũng vậy, Đức Kitô không tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con. Nơi khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Menkixêđê.
Bài Đọc Tin Mừng: Mc 10, 46- 52
Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêricô. Có một người hành khất mù, đang ngồi ở vệ đường. nghe nói là Đức Giêsu, anh ta bắt đầu kêu lên: “Lạy Đức Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”. Đức Giê su đứng lại và nói: gọi anh ta lại đây. Người ta nói với anh mù: cứ yên tâm, Thầy gọi anh đấy. Anh mù liền vất áo choàng, đứng dậy mà tiến lại gần Đức Giêsu. Người hỏi: Anh muốn tôi làm gì cho anh? Anh mù đáp: Thưa Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được. Tức khắc anh ta nhìn thấy được và đi theo Ngài trên con đường Ngài đã đi.
Một buổi tối đi dạo trên bờ canh Nhiêu Lộc, có một người trung niên chống gậy đến bên tôi xin tiền. Nhìn thấy nỗi khổ cực hằn trên con người anh, tôi đã chia sẻ cho anh một chút. Sau những câu thăm hỏi, tôi được biết anh ta là một người mù từ bẩm sinh. Sau khi bố mẹ quan đời, anh ta sống đời phiêu bạt nơi đất khách quê người và mưu sinh nhờ lòng bác ái của người khác, vì người thân không muốn đón nhận anh. Sự kiện này khiến tôi suy nghĩ về cuộc đời thiếu may mắn của anh, được không nhìn thấy được, nỗi đau ấy lại chồng chất khi không có ai để tựa nương: một tương lai mịt mờ, vô định.
Có lẽ, anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay cũng đang đối diện với những khó khăn của cuộc đời. Điều anh cảm thấy đau khổ không chỉ bị mù mà còn từ định kiến xã hội. Với quan niệm thời đó, bệnh tật là do tội lỗi gây nên. Như vậy, căn bệnh anh mắc phải nói lên hình phạt của Chúa dành cho hạng người tội lỗi. Và căn bệnh này cũng đã đẩy anh ra bên lề xã hội. Câu nói “anh đang ở bên vệ đường” phần nào nói lên điều này: anh đang ở bên vệ đường của sự dửng dưng, vệ đường của sự ích kỷ, vệ đường của quan niệm sai lầm, vệ đường của loại trừ.
Tuy nhiên, dù đôi mắt anh mù nhưng tầm hồn anh luôn bừng sáng. Những cái nhìn của định kiến xã hội không thể vùi lấp cuộc đời anh. Trái lại, anh càng nuôi dưỡng lòng khát khao được nhìn thấy và được biến đổi cuộc đời. Cho nên, nghe biết Đức Giêsu đi ngang quan, anh ta đã kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dũ lòng thương tôi”. Đức Giêsu đứng lại và hỏi anh muốn gì, thì anh trả lời: “Xin cho tôi được nhìn thấy”. Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và theo Ngài trên con đường Ngài đã đi.
Với con mắt đức tin, anh mù tin nhận chỉ có Chúa Giêsu mới đem lại cho anh ánh sáng của đôi mắt, ánh sáng của tâm hồn và ánh sáng của hy vọng. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ chữa lành đôi mắt, mà còn gieo vào lòng anh sự khát khao bước theo Ngài để cùng chung chia sứ mạng của Ngài. Quả thực, con đường thập giá của Đức Giêsu là con đường chẳng mấy ai muốn đi, vậy mà anh mù lại muốn bước theo vết chân Thầy hầu làm chứng cho sứ điệp yêu thương của Thiên Chúa. Từ đây, cuộc đời anh đã được sang trang, bước đường đời đã được định hướng, cánh cửa tương lai đã mở ra và sứ điệp Tin Mừng đang gọi mời anh.
Qua đoạn Tin Mừng Đức Giêsu chữa lành anh mù và hành trình của anh bước theo Ngài khiến chúng ta cũng phải thành tâm nhìn lại chính mình. Chúng ta vẫn tự hào mình không bị mù, công việc ổn định, có nhiều bạn bè, được người khác kính nể. Những thứ đó chưa nói lên được và chưa chứng minh được mình là người vô tội, không bị mù về đàng thiêng liêng. Trong cuộc sống biết bao lần chúng ta phạm tội mà không nhận ra, biết bao lần dửng dưng trước nhu cầu của người khác và vô cảm trước nỗi đau của anh chị em; đó là những độc chất làm mù mắt tâm hồn và làm băng hoại đời sống nội tâm. Vậy đâu là phương cách chữa lành căn bệnh nguy hại này?
Để chữa lành đôi mắt tâm hồn, chúng ta cần phải đến với Chúa Giêsu qua Bí tích Hòa giải. Nơi đó, chúng ta sẽ cảm nhận được vòng tay ấm áp, vỗ về của Chúa Giêsu, đồng thời, đón nhận sự bình an và hạnh phúc vì được Ngài thứ tha. Đàng khác, Bí tích Hòa giải là bí tích chữa lành: chữa lành các vết thương tâm hồn do tội lỗi gây nên, chữa lành các rạn nứt do tính kiêu căng tạo ra. Trong buổi tiếp kiến thứ tư hằng tuần tại quảng trường thánh Phêrô ngày 19/2/2014, đức giáo hoàng Phanxicô đã khuyến khích mọi người tín hữu hãy lãnh nhận bí tích Hòa giải. Ngài nói: “Chúa Giêsu đón tiếp anh chị em bằng tình thương bao la! Hãy can đảm đi xưng tội. Tha thứ không phải là kết quả nỗ lực của chúng ta, nhưng là một ân huệ… Bí tích Hòa giải là bí tích chữa lành. Tôi đi xưng tội để được chữa lành: chữa lành linh hồn, chữa lành tâm hồn”.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta biết năng chạy đến với Bí tích Hòa giải để nhận lãnh ân sủng và sự tha thứ của Chúa hầu kiến tạo cuộc sống an vui, hạnh phúc vì cảm nhận được sự đỡ nâng của Chúa và nhận ra anh chị em luôn đồng hành cùng chúng ta trong bước đường chứng nhân.
Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù tại Giêricô, từ đó chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tình trạng mù lòa thiêng liêng, mà rất có thể chính chúng ta cũng đang mắc phải. Vậy thế nào là một người mù lòa về phương diện thiêng liêng?
Trước hết, đó là người không nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa qua những kỳ công trong vũ trụ.
Thực vậy, người là một con vật có trí khôn, và với trí khôn, khi nhìn ngắm trật tự lạ lùng của vũ trụ, chúng ta phải nhận ra sự hiện diện đầy quyền năng của Thiên Chúa.
Cùng như khi nhìn vào một ngôi nhà, chúng ta sẽ thấy ngôi nhà ấy không phải tự mình hay do ngẫu nhiên mà có. Sở dĩ nó có là do những người thợ đã làm nên. Cũng vậy, vũ trụ vật chất này có được là do một Đấng Quyền Năng đã tạo dựng, sắp xếp và bảo vệ nó.
Chính vì thế, chúng ta có thể nói: người là một con vật có tôn giáo, một con vật biết hướng tới Thiên Chúa. Đồng thời, thiên nhiên chính là một cuốn sách khổng lồ, trong đó mỗi trang, mỗi dòng, mỗi chữ đều nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa.
Nhìn vào thiên nhiên mà không nhận ra hay cố tình chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, thì quả thực, đó là một người mù lòa.
Tiếp đến, người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là người không nhận ra tình thương của Thiên Chúa qua những ơn huệ Ngài đã ban cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày.
Thực vậy, từng phút và từng giây chúng ta đã lãnh nhận biết bao nhiêu ơn lành của Thiên Chúa. Từ những ơn huệ tự nhiên cho đến những ơn huệ siêu nhiên, từ những ơn lành phần hồn cho đến những ơn lành phần xác. Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể để nói lên sự ân cần chăm sóc Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
Chẳng hạn về phần xác, nếu không có cơm để ăn, nếu không có nước để uống, nếu không có khí trời để thở, thì chỉ trong vòng đôi ba phút đến dăm bữa nửa tháng là chúng ta sẽ chết. Vậy thì gạo, nước và khí trời ấy bởi đâu, nếu không phải là bởi chính Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta.
Vì thế, khi kiểm điểm lại cuộc sống, khám phá ra những ân huệ đó mà không nhìn thấy tình thương của Thiên Chúa, thì quả thực chúng ta là những người mù lòa.
Ngoài ra, người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là những người không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi những anh em nghèo khổ và bất hạnh.
Thực vậy, trong Phúc âm rất nhiều lần Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với những kẻ túng thiếu, bệnh tật và hèn mọn. Qua hoạt cảnh về ngày phán xét, Ngài đã xác quyết:
– Hỡi những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thưở đời đời, vì khi Ta đói các ngươi đã cho ăn, khi Ta khát các ngươi đã cho uống, khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, khi Ta đau yếu và bị cầm tù các ngươi đã viếng thăm.
Và Ngài đã kết luận:
– Mỗi khi các ngươi làm những việc ấy cho một người anh em hèn mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Vì thế, nếu chúng ta không nhận ra Chúa đang thực sự hiện diện nơi những người chung quanh, để rồi cố gắng giúp đỡ họ về tinh thần cũng như về vật chất, thì quả thực chúng ta cũng là những kẻ mù lòa.
Sau cùng, những người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là những người không cảm nhận được những nguy hiểm ẩn náu đằng sau những dịp tội. Họ giống như người mù về phương diện thể xác: đi bên cạnh con rắn độc mà không ý thức được sự nguy hiểm đang rình rập mình. Vậy dịp tội là gì?
Đó là những hoàn cảnh thúc đảy chúng ta dễ dàng vấp ngã. Thực vậy, tục ngữ đã bảo:
– Chơi dao có ngày đứt tay.
– Lửa gần rơm, lâu ngày cũng cháy.
Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ chẳng bao giờ thực hiện cho chúng ta.
Vì thế, nếu không nhận ra những nguy hiểm tiềm ẩn đằng sau những hào nhoáng, những quyến rũ, những mời mọc của dịp tội, thì chúng ta cũng chỉ là những kẻ mù lòa về phương diện thiêng liêng mà thôi.
Chính vì vậy, chúng ta hãy bắt chước chàng thanh niên mù lòa mà kêu lên cùng Chúa: Lạy Chúa, xin cho con được thấy.
Mắt là một trong những giác quan của con người. Chính nhờ mắt mà chúng ta nhân ra những vật xung quanh. Không cần phải nói chúng ta cũng biết mắt cần thiết thế nào cho con người. Vì thế mà người ta thường nói ghép kết quả của các giác quan khác với thị giác, ví dụ: nghe thấy, ngửi thấy, cảm thấy…cho nên không thể thấy được, đó là một khiếm khuyết, một thiệt thòi, một nỗi bất hạnh của con người.
Thức đêm mới biết đêm dài. Chỉ có người trong cuộc mới có thể cảm nhận được sự việc nó là thế nào. Chỉ có người mù mới cảm nhận được mù khổ như thế nào. Còn chúng ta chỉ có thể dựa vào biểu hiện của họ để có thể biết được phần nào mà thôi.
Phản ứng của anh mù này càng lúc càng quyết liệt: ban đầu anh gào to, khi bị người ta quát nạt, ngăn cản anh càng gào to hơn, khi được Chúa Giêsu gọi đến, anh liền vất áo choàng, đứng phắt dậy đến với Chúa Giêsu. Những biểu hiện đó giúp chúng ta hiểu được cuộc sống trong mù tối nó đã đày đọa anh như thế nào, Còn nữa, lời khẩn cầu thật tha thiết và quyết liệt như thể anh có thể đánh đổi cả sinh mạng để có thể được cứu chữa. Khi được nhận lời, anh vất ngay áo choàng, như thân phận đáng thương của anh để được đổi thay số phận. Chưa biết Chúa Giêsu sẽ làm gì cho anh, nhưng được thấy là tất cả những gì anh chờ đợi, mong mõi. Khi Chúa Giêsu hỏi: “anh muốn tôi làm gì cho anh”, anh đã không xin gì hơn là xin được thấy. Và Chúa Giêsu đã không làm anh thất vọng. Mù thì khổ, thấy được là hạnh phúc. Đó là bài học mà thánh Maccô muốn nói với chúng ta.
Chúng ta đâu có mù, vậy bài học này có ích gì cho chúng ta?
Phải, mắt chúng ta vẫn sáng, chúng ta vẫn còn thấy tiền, vàng, của cải vật chất. Chúng ta nhận ra lỗi lầm của người khác dễ dàng. Thế nhưng nhiều lúc chúng ta không nhận ra đâu là đúng, đâu là sai, đâu là thiện, đâu là ác, đâu là công bằng, đâu là bất công; đâu là việc phải làm, đâu là điều cấm kỵ, chúng ta không nhận ra thân phận của mình cũng tội lỗi, xấu xa, cũng rất đáng được người khác dũ lòng thương và cứu chữa.
Khổ là ở chổ đó, nguy cũng là ở chổ đó. Người biết mình bệnh thì lo chữa chạy thuốc thang, còn người không biết mình bệnh thì cứ thản nhiên mà sống, có khi lại lây nhiễm cho người khác mà không hay, để rồi đến một ngày, chết mà không hiểu lý do. Hậu quả sự mù lòa của đôi mắt tâm hồn cũng thế.
Nguyên nhân có thể vì chúng ta sống trong thế giới của những người mù nên không thể biết được thế nào là sáng. Cũng có thể do mưu ma chước quỷ làm mờ mắt chúng ta mà chúng ta không hay, nhưng cũng có thể đôi lúc chúng ta tự bịt mắt mình để không phải thấy, không phải biết, nhằm trốn tránh trách nhiệm hay để làm càng điều chúng ta muốn. Những lúc đó, chúng ta có mắt mà cũng như mù thôi.
Dù nguyên nhân nào đi nữa thì mù vẫn là mù. Mù thì phải sống kiếp khổ đau. Người mù đôi mắt thân xác thì sống khổ kiếp sống trần gian, rồi cũng sẽ qua đi, nhưng mù đôi mắt tâm hồn thì sẽ khổ muôn đời.
Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Người đã từng mở mắt trần tục cho anh mù thành Giêricô này thì người cũng sẽ mở mắt tâm hôn cho những ai kêu cầu người, bởi người đã từng tuyên bố: Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống.
Lạy Chúa, xin mở mắt tâm hồn chúng con, để chúng con nhận ra thân phận đáng thương của mình, để con có thể nhìn thấy Ánh Sáng ban sự sống đời đời.
Người mù là một kẻ bất hạnh và khổ sở triền miên. Tất cả thế giới sinh hoạt chung quanh như khép kín, đóng cổng trước mặt họ. Cả một đời họ phải chấp nhận sống lệ thuộc vào những người khác. Cho nên, tâm lý của người mù là họ dám làm bất cứ chuyện gì để được sáng mắt. Chẳng hạn như anh mù Batimê trong bài Tin Mừng, dám coi nhẹ mọi người, bất chấp tất cả, anh kêu gào xin Chúa Giêsu cứu chữa khi Ngài đi ngang qua thành Giêricô về Giêrusalem.
Có một người mù, một đêm kia đến thăm một người bạn thân. Hai người trò chuyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một cái đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói: “Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau”. Người bạn trả lời: “Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối xe cộ có thể chạy đụng vào anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi”. Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đi xe Honda đụng phải. Với vẻ buồn phiền lẫn tức giận, anh mù nói: “Coi kìa, người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi?”. Người kia đáp: “Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không thấy. Mong anh thông cảm”. Anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu chuyện kết luận: “Con người thường tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy”.
Anh mù Batimê trong bài Tin Mừng lại khác: anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy: anh thấy Chúa Giêsu là con vua Đavít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin, và chính vì lòng tin này, Chúa Giêsu đã thương anh, cứu chữa anh, cho anh được sáng mắt.
Chúng ta hãy tìm hiểu thêm: đám đông ồn ào tấp nập đi theo Chúa Giêsu trên đường, còn anh ta ngồi ăn xin bên lề đường. Anh hỏi người ta có chuyện gì mà ồn ào vậy? Người ta nói cho anh biết có Đức Giêsu đi qua. Có lẽ anh đã nghe nói về lòng từ bi và uy quyền toàn năng của Chúa Giêsu chăng, nên anh liền kêu to lên: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Người ta chỉ nói cho anh biết, đó là Đức Giêsu, nhưng anh lại kêu xin “Con vua Đavít”. Như vậy anh đã nhận ra Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai. Anh mù nhưng anh lại thấy rõ hơn những người sáng đi theo Chúa Giêsu.
Chắc anh phải kêu la to lắm. Còn đám đông lại bắt anh im đi. Nhưng vô ích đối với anh, đây là dịp may hiếm có của hy vọng bừng lên. Thế là anh càng kêu gào to hơn cho Chúa nghe được: “Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Anh kêu đúng tên và tước hiệu của Chúa trong Kinh Thánh. Nghe thế, Chúa Giêsu dừng chân và truyền gọi anh ta lại. Thế là đám đông thay đổi thái độ. Trước đó họ bắt anh im đi, bây giờ họ lại khuyến khích anh. Anh liền vứt bỏ áo choàng, vui mừng nhảy cẫng lên đến với Chúa. Chúa hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Chúa hỏi như vậy không phải để biết anh muốn gì, xin gì, nhưng là để tăng thêm lòng tin cho anh, và cũng là dịp để anh tỏ lộ lòng tin công khai. Anh trả lời: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Anh mù, mắt anh không thấy Chúa, nhưng lòng anh đã thấy Chúa, vì anh có lòng tin, như Chúa đã xác nhận: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Bằng một lời đó thôi, Chúa đã thay đổi cuộc đời của anh: từ nay anh không còn ngồi bên lề đường nữa. Lòng tin đã đưa anh lên đường. Anh được sáng mắt ngay lúc đó và đi theo Chúa trên đường. Anh sáng của Đấng Thiên Sai còn giấu ẩn trong Đức Giêsu Nagiarét đã tỏa ra trên anh, trên đôi mắt anh. Anh là ngọn đèn Chúa đã thắp lên cho mọi người được nhìn thấy Ngài.
Nói rõ hơn, đám đông đang đi với Chúa Giêsu trên đường, nhưng thực ra là họ đang ở bên lề đường, vì họ đi trên cùng một con đường nhưng chưa đồng hành với Chúa, chưa đi theo Chúa. Họ sáng mắt, nhưng họ chỉ thấy Giêsu người làng Nagiaret, chứ không thấy gì hơn. Cũng như họ chỉ thấy một người mù ngồi ăn xin, chứ không thấy lòng tin của anh. Còn anh mù, anh đã thấy Ngài là Đấng Thiên sai, con vua Đavít. Anh đã thấy bằng lòng tin khi anh còn mù, và bây giờ anh đã thấy Ngài tận mắt. Anh đi theo Ngài.
Lòng tin của anh mù đã cứu chữa anh và là bằng chứng để người ta tin vào Chúa Giêsu. Tất cả chúng ta là những người đã có đức tin, chúng ta đang đi theo Chúa. Nhưng đức tin của chúng ta thế nào? Và chúng ta có làm cho người khác nhận ra đức tin của chúng ta qua đời sống chúng ta không?
Đối với chúng ta, ngoài việc tuyên xưng đức tin trong thánh lễ, thì trong mọi sinh hoạt hằng ngày chúng ta cũng phải tuyên xưng đức tin nữa bằng những việc từ thiện bác ái và sống cởi mở với những người chung quanh. Nếu chúng ta chỉ tuyên xưng đức tin một cách trọng thể, trong những lễ lạc, trong nhà thờ… mà chúng ta không có một cữ chỉ bác ái đối với những người ngoài là chúng ta chưa thực sự sống niềm tin ấy. Xin Chúa cho chúng ta biết sống và thể hiện đức tin trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Một thanh niên mù từ lúc mới sinh đem lòng yêu thương một cô gái. Anh càng hiểu biết cô thì tình yêu của anh đối với cô càng thêm sâu đậm. Anh thấy cô đầy sự duyên dáng và khôn ngoan. Một tình bạn tốt đẹp phát triển giữa hai người. Nhưng rồi một ngày kia, một người bạn nói với anh thanh niên rằng cô gái ấy không xinh đẹp. Từ lúc đó, anh thanh niên bắt đầu bớt dần sự quan tâm đến cô gái. Kể cũng tệ thật. Có bao giờ anh “nhìn thấy” cô gái rất đẹp đâu. Chính người bạn của anh mới là người mù. Một người mù như anh đâu phán đoán theo cái vẻ bề ngoài. Chúng ta phải nhớ rằng có sự tỏa sáng bên trong.
Trong thời đại của Kinh Thánh, sự mù lòa là việc rất thường gặp. Ngày nay chúng ta đã loại trừ nhiều căn bệnh gây ra mù lòa. Và chúng ta cũng đã phát minh mọi loại dụng cụ để cải thiện thị giác của chúng ta. Chúng ta có các loại kính thường, kính hai tròng, kính làm cho lộng lẫy, kính trắc địa, kính viễn vọng, kính hiển thị… Trong lịch sử, chưa bao giờ chúng ta thấy nhiều hơn và xa hơn bây giờ. Đã hẳn, phép lạ mà Đức Giêsu làm cho Báctimê thường xảy ra trong các bệnh viện của chúng ta.
Vì chúng ta không mù lòa nên chúng ta nghĩ rằng câu chuyện trong Tin Mừng không liên quan đến chúng ta. Rõ ràng vì chúng ta thấy được nên bài Tin Mừng không ảnh hưởng gì đến chúng ta. Nhưng thử hỏi: chúng ta nhìn thấy tốt đến mức nào?
Báctimê phải chịu sự mù lòa về thể lý. Nhưng có những hình thức mù lòa khác. Chúng ta biết điều đó khi chúng ta sử dụng những thành ngữ như: “Tôi hoàn toàn ở trong bóng tối” hoặc “Thình lình bóng tối bao trùm lấy tôi” hoặc “Nó ở ngay trước mắt tôi thế mà tôi không thấy”. v.v…
Có thể nào một người mù thấy rõ hơn một người sáng mắt? Phải chăng một người mù cũng có thể nhìn thấy hơn cả một người sáng mắt theo nghĩa người ấy có nhiều sự hiểu biết và sự soi sáng bên trong?
Thánh Maccô dường như đã hiểu như thế. Thật vậy, xem ra điều này là điểm chính yếu trong câu chuyện. Báctimê dù bị mù lòa về thể lý, nhưng đã tin vào Đức Giêsu nhiều hơn các môn đệ khác của Người, dù họ có thị giác hoàn hảo. Trong khi anh ta không có chút nghi ngờ thì những người kia đầy sự nghi ngờ và lưỡng lự.
Đó là một điểm xấu nhất mà Đức Giêsu nói về những người đồng thời với Người. Người nói: “Họ có mắt mà không thấy”. Họ đã chứng kiến những việc cao trọng Người làm nhưng vốn không tin vào Người. Thiếu đức tin là thứ mù lòa còn trầm trọng hơn cả sự mù lòa thể chất.
Có một bóng tối xấu hơn bóng tối của Báctimê, bóng tối của sự vô tín. Nó cắt đứt chúng ta khỏi điều tốt đẹp hơn. Ánh sáng thể chất là một điều cao cả, một quà tặng mà chúng ta không bao giờ nên coi là điều đương nhiên. Nhưng ánh sáng tinh thần còn cao cả hơn nữa.
Câu chuyện trong Tin Mừng còn là câu chuyện về ơn gọi làm người môn đệ, còn hơn cả câu chuyện về việc chữa lành. Khi Báctimê được chữa khỏi anh có thể ra về để sống cuộc đời của mình và quên đi câu chuyện về Đức Giêsu. Nhưng không, anh đã trở thành một môn đệ trực tiếp và nhiệt tình của Đức Giêsu. Anh đi theo Người trên con đường Người đi. Đó là đỉnh cao của câu chuyện.
Từ chỗ chỉ là người tin, Báctimê đã trở thành một môn đệ. Có một sự khác nhau rất lớn. Người môn đệ sống như Đức Kitô đã sống. Sự sẵn sàng đi theo Đức Giêsu của Báctimê tương phản với thái độ của các môn đệ còn biết cách lờ mờ và còn lưỡng lự trong suốt cuộc hành trình lên Giêrusalem.
Báctimê ở trong bóng tối cho đến lúc anh gặp được Đức Giêsu. Chúng ta sống trong bóng tối khi chúng ta nghi ngờ, thù hận, sống trong sai lầm và thành kiến, khi chúng ta chọn điều xấu. Vì thế, chúng ta có thể thành tâm cầu nguyện như Báctimê: “Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy được” để chúng ta thấy được điều gì là thật sự quan trọng trong đời sống và trên mọi sự. Chúng ta thấy được với con mắt của đức tin.
Trên trần gian này, dù chúng ta có thể cảm nhận Thiên Chúa, chúng ta không thấy được chính Thiên Chúa. Chúng ta phải bằng lòng lữ hành trong ánh sáng của đức tin về miền đất ở đó chúng ta có thể nhìn thấy như đã được thấy.
Báctimê đã sống trong một tình trạng tồi tệ. Bệnh mù lòa là một nỗi đau buồn kinh khủng. Anh ta đã ngồi ở vệ đường, bên lề cuộc sống. Anh bắt buộc phải ăn xin và sống nhờ vào lòng bác ái của những người khác. Tình trạng của anh thật vô vọng.
Và tuy vậy, dường như anh có một thứ giàu sang. Anh có đức tin trong Đức Giêsu. Có thể đó chỉ là đức tin của người tuyệt vọng, nhưng vấn đề quan trọng vẫn là đức tin. Khi anh nghe nói Đức Giêsu đi ngang qua, không còn nghĩ đến lòng tự trọng và sự e thẹn, anh bắt đầu kêu to: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin đủ lòng thương tôi?” Anh không cần biết liệu Đức Giêsu có khước từ lời cầu của anh hoặc người ta đang quát nạt bắt anh phải im đi. Anh tiếp tục kêu to.
Khi anh nghe Đức Giêsu cho gọi anh, anh đứng phắt dậy, vứt bỏ chiếc áo choàng và đến gần Đức Giêsu. Cái áo choàng này là vật duy nhất có giá trị mà anh có. Đối với anh, nó có ý nghĩa bằng cả thế giới. Nó không chỉ đem lại cho anh sự ấm áp, mà còn che đậy sự cùng khổ thảm hại của anh và do đó nó cho anh một mức độ phẩm giá và khả kính. Tuy nhiên, anh đã vất bỏ nó đi và đi đến với Đức Giêsu như anh đã làm – trong tất cả sự tối tăm, nghèo khổ và thảm hại của anh và Đức Giêsu đã đón tiếp anh, trả lại cho anh thị giác.
Khi chúng ta đến bác sĩ để khám bệnh, chúng ta được yêu cầu cởi bớt áo quần. Lột bỏ là trở nên dễ bị tổn thương. Nhưng làm thế nào để bác sĩ định bệnh và chữa trị nếu chúng ta không để bác sĩ trước tiên trông thấy bệnh ấy?
Chúng ta cũng mù lòa theo những cách nào đó. Chúng ta cũng nghèo nàn trước mặt Thiên Chúa, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta đến gần Người. Người muốn làm điều tốt cho chúng ta. Tuy nhiên chúng ta thấy việc vất bỏ áo choàng để đến cùng Người sao khó quá. Lòng tự trọng làm chúng ta cố mặc lấy một cái dáng vẻ bên ngoài nào đó cho người ta thấy.
Chúng ta hãy tin rằng, chúng ta phải trở nên hoàn hảo. Nếu không, Người không yêu thương chúng ta nữa. Thừa nhận tội lỗi và sự yếu đuối của chúng ta sẽ khiến Người loại bỏ chúng ta, nhưng nếu chúng ta hoàn hảo, nếu chúng ta tốt, thì chúng ta chẳng cần đến Người.
Chúng ta phải thực hiện một hành động đức tin triệt để và tín thác vào Đức Giêsu. Chúng ta phải từ bỏ sự giả vờ, che đậy, ẩn mình sau những bức màn và mặt nạ, và phải bằng lòng xuất hiện trước mắt Người như chúng ta thật sự là thế. Chúng ta không có gì phải sợ ngoài lòng nhân hậu và sự chữa lành của Người. Một bệnh nhân không cảm thấy được chấp nhận nếu điều xấu nhất nơi người ấy không được chấp nhận. Cũng thế, chúng ta sẽ không bao giờ cảm thấy được Thiên Chúa yêu thương và chấp nhận nếu chúng ta không để Người nhìn thấy khía cạnh xấu nhất của chúng ta.
Nhiều người ngồi bên lề cuộc sống để ăn xin, không phải tiền bạc, nhưng lòng yêu thương, sự quan tâm, cảm giác họ quan trọng và đời sống này có một ý nghĩa. Nhiều người trong họ rất ngại ngùng xin được giúp đỡ. Họ sợ sự lãnh đạm thờ ơ của những người khác bắt họ phải im đi.
Bactimê là một kiểu mẫu cho những người khác. Nhiều người mù lòa và không có phương hướng nhưng họ đã tìm ra mục tiêu. Nghị lực và phương hướng cho đời mình và đó là kết quả của việc họ đi theo Đức Giêsu sẽ dẫn đến một đời sống hạnh phúc và viên mãn, một đời sống được chia sẻ với những người khác.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhìn thấy anh chị em túng thiếu của chúng con; xin cho chúng con nghe thấy tiếng khóc thầm của họ để chúng con không thể đi ngang qua. Vì chúng con cũng là những người hành khất nhưng Chúa làm cho giàu có. Chúng con cũng là những kẻ mù lòa nhưng Chúa mở mắt chúng con.
Tên tôi là Báctimê. Hãy để tôi cố gắng thuật lại bị mù như tôi ra sao. Bị mù tức là bị phân ly với những người khác. Đó là sống trong thế giới của riêng mình. Thỉnh thoảng sự cô độc quấn chặt lấy tôi như sương mù lạnh lẽo. Tôi bị phân ly với mọi vật làm cho đời sống đáng giá, người ta cho rằng những sự vật tỏa sáng là việc đương nhiên.
Tôi bắt buộc phải đi ăn xin, điều này có nghĩa là tôi hoàn toàn lệ thuộc vào lòng bác ái của những người khác. Tôi ngồi bên vệ đường, bên lề cuộc sống. Tương lai tôi là một con đường dài, nhưng là một con đường không có đích đến. Cuộc đời không bao giờ có thể khác được. Tôi sẽ luôn luôn ở trong bóng tối. Luôn luôn ở bên lề, luôn luôn cô độc và phân ly.
Tôi khao khát một điều là thấy được. Và khát vọng này cứ đeo đẳng tôi chỉ cần nó buông tôi ra thì có lẽ tôi sẽ có được đôi chút bình an trong lòng mình.
Một số người cho tôi một đồng bạc khi họ đi ngang qua. Nhưng không một ai dừng lại để nói chuyện với tôi. Không một ai bước vào thế giới cô độc của tôi dù chỉ trong một phút. Sự thờ ơ của người khác là điều làm tôi tổn thương nhiều nhất. Thật khủng khiếp khi có người đối xử với bạn như thể bạn là một khúc gỗ không có chút cảm xúc nào.
Người ta nhanh chân bước vội khi đến gần tôi và đi chậm lại khi họ đã đi qua rồi. Tôi có thể nói như thế vì tôi nghe thấy tiếng bước chân của họ. Tôi không bao giờ hiểu được điều đó. Nó làm cho tôi có cảm tưởng rằng một cách nào đó, tôi mắc bệnh truyền nhiễm.
Thầy tư tế nói với tôi rằng sự mù lòa của tôi, do tội lỗi gây ra. Điều này có nghĩa là ngay cả Thiên Chúa cũng không có thời gian dành cho tôi và Người cũng đã đẩy ra ngoài.
Sự thể là như thế cho đến một ngày kia tôi nghe thấy âm thanh của một đám đông. Tôi dò hỏi và người ta nói với tôi rằng Đức Giêsu đi ngang qua đây. Thình lình niềm hy vọng lóe sáng trong tôi, và tôi bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi!”.
Người ta bắt tôi phải im lặng và nói rằng tôi chỉ gây ra trở ngại. Nhưng tôi từ chối giữ im lặng. Tôi kêu lên to hơn nữa.
Rồi người ta nói với tôi rằng Người đã nghe thấy tôi và đã cho gọi tôi. Vất bỏ cái áo choàng, tôi dò dẫm đường đến gặp Người. Người hỏi tôi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Tôi đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” Người không hỏi thêm gì nữa, Người chỉ nói: “Anh hãy đi lòng tin của anh đã cứu anh”.
Làm sao tôi có thể đi và quên hết mọi sự về Người? Tôi đi theo Người trên con đường Người đi. Tôi đã trở thành một môn đệ của Người. Niềm vui thấy được thì to lớn biết bao. Tôi muốn đến và sờ vào mọi người. Tôi xem họ tất cả đều là bạn bè của tôi. Khi tôi gặp Đức Giêsu, tôi cảm thấy tình yêu của Người. Người không chỉ đưa tôi từ bên lề vào bên trong cuộc sống mà còn cho tôi một chỗ danh dự ở bàn tiệc sự sống.
Đức Giêsu nói rằng sứ vụ của Người là “mở mắt cho người mù”. Trong sứ vụ ấy, vấn đề không phải là đem lại cái nhìn thể chất cho người ta nhưng là đem lại cho họ một tầm nhìn, một cách nhìn khác về đời sống. Vấn đề không phải là mở con mắt thể chất của người ta nhưng là mở ra trí óc, sự tưởng tượng và đặc biệt là tâm hồn của họ. Cuộc du hành thật sự để khám phá chủ yếu không phải là tìm kiếm những vùng đất mới nhưng là để có những tầm nhìn mới.
Đức Giêsu đã mở mắt cho ông Dakêu trước nguy cơ của cải, và khiến ông này chia tài sản cho người nghèo. Người đã mở mắt cho tên gian phi bị đóng đinh với Người để anh thấy lòng thương xót của Thiên Chúa và đón anh vào thiên đàng.
Chúng ta không nhất thiết phải mù về thể chất để cảm thấy mình ở trong bóng tối. Có những lúc bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể cảm thấy mình cô độc và lẻ loi. Chúng ta thấy mình ở bên lề mọi việc. Chúng ta không còn có ích và được chú ý đến. Người ta quên chúng ta. Không có tình yêu thì thế giới rất tối tăm. Và người ta muốn chúng ta phải im đi. Và chính chúng ta cũng hổ thẹn không dám kêu to.
Và những lúc đó, chúng ta phải có can đảm và sự khiêm nhường để kêu to cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin cho con được thấy”. Đức Giêsu là Đấng đưa chúng ta từ bên lề vào bên trong. Người nói với chúng ta rằng chúng ta quý giá đối với Chúa Cha. Người cho chúng ta một chỗ ngồi ở bàn tiệc nước trời.
Người muốn chúng ta làm cho người khác điều mà Người đã làm cho Bác timê. Chúng ta không được thờ ơ với một người cô độc và để họ ở bên lề. Nhưng với lòng yêu thương, sự chăm sóc, thời gian, chúng ta phải đem một ánh sáng nhỏ vào trong một thế giới của bóng đêm.
(Suy niệm của Lm. Joseph Vũ Mộng Thơ)
Cả ba bài đọc của Chúa Nhật hôm nay đều có thể áp dụng không ít thì nhiều trong cuộc sống hằng ngày của người Việt tha hương chúng ta.
Bài đọc 1: Lời Chúa qua miệng tiên tri Giêrêmia: “Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về… có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con… họ vừa đi vừa khóc…” nhưng là khóc trong vui mừng và tưởng như trong giấc mơ. Như chúng ta đã biết là không một ai muốn sống xa quê hương xứ sở của mình lâu ngày vì mỗi người đều có nơi “chôn nhau cắt rốn”, có làng mạc, có quê hương, có quê cha đất tổ. Dù cho là lên tỉnh học, tu nghiệp hay du học nước ngoài thì cũng mong có ngày trở về làng cũ thăm lại quê cha cũng như họ hàng láng diềng. Nếu không là vinh qui bái tổ thì ít lắm cũng gây dựng được sự nghiệp gì đó để làm nở mày nở mặt gia đình và cả dòng họ cha mẹ mình nữa. Còn dân Israel xưa bị đầy biệt xứ và làm nô lệ cho nước Babylon trong tủi nhục và lao động cực khổ cả ngày đến độ không còn có thì giờ để tế lễ cho Chúa cũng giống như người Việt tha hương chúng ta hôm nay bị đầy biệt xứ vì tự do: tự do nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do báo chí và bình luận… Chúng ta ước mong có một ngày trở về trong thanh bình, trong no ấm và hoàn toàn tự do. Là con cháu Lạc Việt, chúng ta sẽ cất cao giọng hát hòa bình để ca tụng Thượng đế xưa đã không bỏ rơi Dân Người thì nay chẳng chóng thì chầy Ngài cũng giải thoát con dân Việt Nam chúng ta khỏi cảnh lưu đầy biệt xứ này. Hãy tin tưởng, hãy nguyện cầu… cho quê hương và cho Giáo Hội Việt Nam.
Bài đọc 2: Thánh Phaolô nhắc nhớ chúng ta là “các vị thượng tế được chọn giữa loài người… người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế cũng như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy.” Nhiều giáo dân không thể nào (tưởng tượng) hay chấp nhận các linh mục hay các vị chủ chăn của mình có khuyết điểm nọ kia. Thực ra nếu đã là người thì ai ai cũng đều có ưu hay khuyết điểm mặc dù các ngài được nhiều ơn Chúa để dẫn dắt con chiên tránh những dịp tội. Nếu có khi vấp phạm thì cũng có nhiều ơn trên để chóng trở lại với Chúa hơn. Cả hai xét đoán tiêu cực này đều không tốt: một là thần tượng hóa các ngài (coi như không thể nào vấp ngã) hoặc khi các ngài vấp phạm thì kết án gắt gao và có khi lấy làm vấp phạm (bỏ đạo) nữa. Có người hỏi tôi: “các cha có phải đi xưng tội hay không?” Đáp: “Có chứ, vùng chúng tôi ở đây thường thì các cha xưng tội ba tháng một lần, cũng có khi một tháng một lần… với những các cha khác.” Bởi vì tất cả chúng ta không ít thì nhiều đều là những con người dòn mỏng, yếu đuối dễ sa ngã… nhưng điều này không quan trọng bằng việc nhận biết mình để xin Chúa thứ tha và khi chúng ta trong sạch với lương tâm mình và với Chúa thì chúng ta có khả năng lãnh nhận ơn Chúa và nghị lực dồi dào hơn để thăng tiến và giúp đỡ người khác tích cực hơn.
Bài đọc 3: Chúa chữa người mù thành Giêricô
Anh chàng mù này không như thời đại chúng ta là có xã hội chăm sóc mà anh ta phải đi ăn xin thì mới có ăn, lại thế hồi đó người ta còn tin rằng “bệnh hoạn” là hình phạt của Thượng đế… cho nên anh bị dân chúng và xã hội hất hủi khinh miệt. Nhưng Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi những người kêu cầu đến Chúa và nhất là tin tưởng nơi tình yêu thương của Ngài. Cho dù đám đông nói anh ta “im miệng” lại vì nơi chốn đông người này làm gì mà Chúa nghe thấy, và lại bao nhiêu người đang cần đến Ngài thì đừng nên làm rộn người khác. Nhưng anh ta vẫn không nản lòng vì anh tin rằng thế nào Chúa cũng thương đoái đến anh… mà thật thế, Chúa Giêsu dừng lại, truyện vãn với anh và Ngài còn khen anh có một đức tin mạnh mẽ không sờn lòng trước nghịch cảnh.
Xin Chúa cho chúng ta có được đức tin như anh này dù chúng ta cứ tưởng như Chúa ít khi nghe lời chúng ta khấn xin nhưng Chúa nói: “Cứ xin sẽ được, cứ gõ sẽ mở cho…”.
Đoạn Tin Mừng của thánh Marcô kể chuyện Chúa Giêsu cứu chữa một người mù có thể gợi lên vài suy nghĩ
Ở đời chúng ta thấy có nhiều người tàn tật: Có người thì mù, có người thì què, có người thì câm, có người thì rối loạn thần kinh… Trong số họ, có những kẻ bị tàn tật vì do một tai nạn, nhưng cũng có rất nhiều người bị tàn tật như thế ngay từ lúc mới sinh.
Đứng trước những người tàn tật ấy, người ta có thể có nhiều thái độ khác nhau: trẻ con thì vô tâm đến tàn nhẫn và chọc ghẹo những người đó “1,2,3 thằng cha bán kẹo què giò, còn một giò đi kéo xe lôi”; những kẻ có lòng hơn thì không lỡ chọc ghẹo nhưng ngậm ngùi tội nghiệp thông cảm; người thân của kẻ tàn tật thì đau khổ xót thương: năm 1962, tại thành phố Liège nước Bỉ có một bà mẹ sinh ra một đứa con hình dáng không ra con người mà là giống như một con vật. Bà đau đớn quá và giết chết đứa con ấy. Người ta đem bà ra tòa vì tội giết con. Nhưng tòa án tha bổng vì thông cảm với nỗi đau khổ của bà và nỗi đau khổ của đứa con ấy nếu nó sống và phải gánh chịu. Nhưng ngoài những thái độ chọc ghẹo, tội nghiệp và thương xót đó, người tín hữu chúng ta còn có thể có suy nghĩ nào hơn nữa không? Thưa có, đó là suy nghĩ về cuộc đời và những bất công của cuộc đời. Cuộc đời này quả thực có nhiều bất công: có người sinh ra thì mạnh khỏe xinh đẹp, có người sinh ra thì tàn tật xấu xí. Có kẻ sinh ra đã nằm sẵn trong một gia đình giàu có, địa vị; còn có kẻ sinh ra nhằm một gia đình cơ cực túng thiếu. Một người vừa mới sinh ra đã mạnh khỏe, thông minh và thuộc một gia đình giàu có thì hầu như sẽ rất dễ thành công trong đời; còn một người sinh ra mà tàn tật, ngu đần lại nghèo khổ nữa thì rất khó mà ngóc đầu lên được. Thử hỏi những kẻ xấu số đó bản thân của họ có làm gì nên tội mà phải gánh chịu những thiệt thòi như vậy? Họ không có tội nhưng họ phải chịu thiệt thòi, đó là một sự bất công.
Mà bất công thì đòi hỏi phải sửa lại cho công bằng. Nhưng có những trường hợp không thể sửa lại cho công bằng được. Chẳng hạn trường hợp cái quái thai do bà mẹ người Bỉ kia sinh ra, người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Bà mẹ ấy đã giết nó chết đi, như thế có phải là công bằng không? Chắc chắn là không. Còn nếu không giết chết nó thì phải nuôi sống nó, nuôi thật chu đáo, đầy đủ, cưng chiều nó đủ thứ, nhưng như thế có phải là công bằng chưa? Cũng chưa vì chăm sóc chiều chuộng bao nhiêu đi nữa cũng chỉ là xoa dịu phần nào những đau khổ của nó mà thôi, chứ không thể nào bù đắp được những thiệt thòi cho nó bằng một người bình thường không tàn tật. Bất công cũng vẫn còn là bất công thôi.
Nhưng chính những cái bất công ở đời này và sự bất lực không tạo được sự công bằng ở đời này đã giúp cho chúng ta tin rằng phải có một thế giới công bằng ở đời sau. Bởi vì nếu tất cả đều kết thúc ở đời này thì thật là chua xót quá đối với những kẻ xấu số tàn tật, thà họ không được sinh ra còn hơn. Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên họ không thể nào tàn nhẫn quá đến nỗi tạo ra họ chỉ là để cho họ chịu khổ đau. Vì thế mà chắc chắn phải có một cõi đời sau, khi đó mọi bất công sẽ không còn, những thiệt thòi sẽ được bù đắp xứng đáng, và công bình sẽ được thực hiện trọn vẹn.
Đó là ý nghĩa của những lời cầu nguyện đầy tin tưởng mà những kẻ xấu số đã kêu lên trong thánh vịnh 125: “Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận cho con, như những dòng suối ở miền Nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan”. Mà cũng là ý nghĩa lời hứa hẹn ngầm của Chúa Giêsu khi ra tay cứu chữa anh Bartimê khỏi bị mù trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là điều mà tiên tri Giêrêmia tiên báo trong bài thánh thư hôm nay “Ta sẽ lấy lòng từ bi mà dẫn dắt những kẻ đui mù què quặt…”
Tóm lại, những cảnh bất công ở đời vừa làm cho lòng ta thương cảm, mà cũng vừa giúp chúng ta tin chắc rằng phải có một cõi đời sau, công bằng hơn, hoàn hảo hơn và hạnh phúc hơn. Ở đời này có một số bất công mà con người không thể nào bù đắp cho công bằng được, như tàn tật chẳng hạn.
Nhưng chính các bất công không bù đắp được mới khiến loài người mơ tới một cõi đời khác sẽ không còn bất công.
Và qua phép lạ cứu chữa một người mù, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền năng Thiên Chúa có thể tạo ra một cõi đời như thế.
Như vậy phép lạ này là một bằng chứng về cõi đời sau. Đó là niềm tin của người Công giáo chúng ta.
Thái độ của người theo Chúa trước cảnh bất công, cùng khốn của đồng loại
Câu hỏi gợi ý:
Suy tư gợi ý:
Trên trần gian này, có biết bao người cùng khổ như anh chàng Batimê trong bài Tin Mừng trên. Anh bị mù, không làm được việc gì để sinh sống, nên đành phải đi ăn xin. Đời anh thật khốn khổ, nên khi nghe tin Đức Giêsu – người nổi tiếng chữa lành bằng phép lạ – sắp đi qua, anh kêu to lên xin Ngài cứu chữa. Đó quả là nhu cầu vô cùng chính đáng của anh. Nhưng những người Pharisêu – những kẻ không muốn Đức Giêsu có ảnh hưởng trong xã hội vì lời giảng dạy và những phép lạ của Ngài – đã dọa nạt anh, bịt miệng anh để anh im đi. Họ sợ Ngài có thêm cơ hội làm phép lạ khiến Ngài nổi tiếng và có ảnh hưởng trên dân chúng nhiều hơn. Họ muốn độc quyền ảnh hưởng trên dân chúng. Đáng lẽ anh mù phải sợ những người Pharisêu này, vì họ có quyền thế về tôn giáo. Họ có thể «dứt phép thông công» anh (nói theo kiểu hiện đại cho dễ hiểu), khiến anh bị cô lập giữa những người đồng đạo, và đời anh đã khốn khổ sẽ vì thế lại càng khốn khổ hơn.
Nhưng sự cùng khốn của anh khiến anh không còn sợ gì nữa, anh quyết tranh đấu cho nhu cầu chính đáng của mình. Vì thế, anh càng la to hơn để Đức Giêsu nghe thấy. Nhờ kiên quyết tranh đấu, anh đã toàn thắng kẻ cố tình bịt miệng anh: Đức Giêsu nghe thấy tiếng anh kêu, đã đến với anh và chữa anh lành bệnh. Anh đã «nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi».
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một cách thu gọn cảnh áp bức bất công vẫn thường xảy ra trong xã hội. Những người nghèo khổ, thấp cổ bé họng, không có tiếng nói như anh Batimê luôn luôn phải chịu cảnh áp bức: bị bịt miệng không cho phát biểu, bị bịt mắt không cho thấy, bị bịt tai không cho nghe những diễn biến đang xảy ra trong xã hội. Vì càng để họ ở trong cảnh dốt nát mù mịt thì kẻ nắm quyền càng dễ bề áp bức, hà hiếp, bóc lột họ. Để họ biết nhiều quá, nắm thông tin nhiều quá, nhất là để họ biết được quyền lợi của họ, hay biết được những thối nát, ngu xuẩn, bất công của những kẻ đang cầm quyền, thì khó mà duy trì ách thống trị trên họ mãi. Vì thế, tất cả những kẻ cầm quyền áp bức trên thế gian này đều muốn bưng bít thông tin, trấn áp dư luận, tìm cách bịt miệng tất cả những ai muốn nói, bịt tai tất cả những ai muốn nghe. Họ chỉ cho phép những gia nô của họ bốc thơm, nâng bi họ, bất chấp những tồi tệ ngu xuẩn của họ. Và chỉ cho phép đám dân ngu cu đen nghe những lời tán tụng giả dối ấy, để đám dân này ảo tưởng rằng mình đang được sống trên thiên đàng, và để họ coi bọn cầm quyền là ân nhân của họ.
Trong bài Tin Mừng, nếu anh mù Batimê mà sợ oai sợ vía bọn Pharisêu, mà im lặng trước sự quát nạt của họ, thì rất có thể anh sẽ không gặp được Đức Giêsu, anh sẽ không được chữa lành, và anh sẽ phải sống trong tăm tối suốt cả cuộc đời. Nhưng anh đã can đảm không sợ hãi, và sự can đảm ấy đã giải phóng anh! Sự can đảm ấy đã được Đức Giêsu chúc lành. Anh đáng làm gương cho chúng ta về lòng can đảm, về tinh thần tranh đấu cho nhu cầu và quyền lợi chính đáng của mình. Những kẻ nhát sợ trước bạo lực, không dám lên tiếng tranh đấu cho quyền lợi chính đáng của mình, đành chấp nhận làm thân giun dế, thật đáng xấu hổ trước tấm gương can đảm này.
Cái cảnh quát nạt không cho người mù lên tiếng như trong bài Tin Mừng hôm nay vẫn đang hằng ngày xảy ra trong xã hội con người. Nhưng có biết bao người khốn khổ, bị hà hiếp, đàn áp như thế không có khả năng hay dũng khí để gào to lên như anh mù trong bài Tin Mừng. Họ sợ bị ám hại, họ không có miệng để kêu, hoặc không biết kêu với ai… Tội nghiệp những con người ấy biết bao! Ai sẽ lên tiếng thay cho họ?
Thật may mắn cho họ, Đức Giêsu đã đến với sứ mạng «loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn (…) trả lại tự do cho người bị áp bức» (Lc 4,18). Ngài có cả một đạo quân tiếp nối sứ mạng của Ngài, đạo quân của những người tận hiến đời mình để theo Ngài. Sứ mạng của họ được sách Châm Ngôn mô tả: «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng xét xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9). Isaia cũng mô tả sứ mạng của họ: «Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ» (Is 1,17).
Giữa xã hội, hiện đang có cả một đạo quân hùng hậu gồm những người mang danh theo Đức Giêsu, thường tự hào mình tiếp nối sứ mạng của Ngài, tự hào mình là ngôn sứ, khiến những kẻ cùng khốn trong xã hội đặt biết bao hy vọng nơi họ. Nhưng tiếc thay, nhiều khi đạo quân đông đảo này lại sẵn sàng cùng nhau câm lặng trước những cảnh áp bức, đau thương, những cảnh ngang trái đầy bất công của xã hội… Ơi, phải chi những người ấy đừng vỗ ngực xưng tên mình là môn đệ Đức Giêsu, là người theo Ngài, là ngôn sứ của Ngài thì chẳng ai phiền trách họ về sự câm lặng ấy! Và chẳng ai thèm hy vọng nơi họ để khỏi phải thất vọng! Xưng mình là ngôn sứ mà chẳng làm công việc của ngôn sứ thì còn chính danh gì nữa? còn chân thật gì nữa! Thiên Chúa sẽ xét xử ra sao những người đang vui hưởng vinh quang của các ngôn sứ, nhưng lại muốn trốn tránh nhiệm vụ ngôn sứ?
Bọn Pharisêu trong bài Tin Mừng không muốn anh Batimê la to lên để Đức Giêsu nghe thấy mà chữa lành cho anh. Đối với họ, cảnh mù lòa xin ăn, sự khốn cùng của anh chẳng có gì đáng để họ bận tâm. Lòng họ đã ra chai đá rồi! Họ không muốn anh được chữa lành, khi mà việc ấy không thuận lợi cho sự độc quyền ảnh hưởng của họ trên dân chúng. Họ sợ bị mất ảnh hưởng hơn sợ dân chúng phải đau khổ. Vì thế, họ muốn bịt miệng anh, không muốn anh nói lên sự cùng quẫn của anh. Là những người lãnh đạo tinh thần trong dân chúng, đúng ra họ phải lên tiếng nói thay cho dân, nhất là cho những kẻ đang bị cùng quẫn vì áp bức. Đằng này họ lại muốn bịt miệng người dân lại khi người dân lên tiếng. Là lãnh đạo tinh thần, đúng ra họ phải đặt quyền lợi người dân lên trên quyền lợi của họ. Đằng này, họ lại đặt quyền lợi của họ trên quyền lợi của dân.
Thấy thái độ của họ đối với dân chúng như vậy, Đức Giêsu đã dùng hình ảnh «kẻ chăn thuê» để nói về họ: «Kẻ chăn thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên» (Ga 10,12-13).
Ước gì những người lãnh đạo tinh thần thời nay không giống như các Pharisêu xưa, mà giống như Đức Giêsu, để vị nào cũng có thể nói được như Ngài: «Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên» (Ga 10,11). Amen.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, cảnh người mù kêu cứu bị quát nạt vẫn hằng xảy ra trong thế giới hôm nay. Là những người theo Đức Giêsu, nhưng chúng con chẳng muốn làm theo Ngài. Chúng con chẳng muốn quan tâm tới những người nghèo khổ, những kẻ bị áp bức bất công như Ngài vẫn luôn quan tâm. Chúng con chỉ thích bắt chước những người Pharisêu, đặc biệt quan tâm tới những nghi thức tôn giáo, những hình thức đạo đức bên ngoài, những luật lệ… Có phải chúng con thiếu đức tin và nghèo tình thương không? Xin Cha đừng để chúng con ảo tưởng mình đầy đủ đức tin chỉ vì chúng con đang làm thầy dạy về đức tin, hay tưởng mình giàu tình thương chỉ vì chúng con đang rao giảng về đức ái. Sự sợ hãi hằng trấn áp chúng con chứng tỏ đức tin của chúng con còn rất yếu kém. Sự lãnh đạm với những người nghèo khổ chứng tỏ tình thương của chúng con còn rất nghèo nàn. Lạy Cha, xin thêm đức tin và tình thương cho chúng con.
Tại Việt Nam, trong một giáo xứ nọ, có một bà người ta quen gọi tên là “Con Mẹ Mướp”. Bà ta dữ như “sư tử hà đông” hay còn được ví như một “bà chằng”. Tại sao vậy? Là vì bất cứ ai làm gì bà cũng chê, cũng tìm đủ lý lẽ để bắt bẻ, để hạch xách; ngay cả chồng bà, bà cũng không kính nể; con cái, cháu chắt trong nhà, bà cũng luôn miệng la mắng, khiến trong gia đình lúc nào cũng luôn cảm thấy một bầu không khí căng thẳng, nghẹt thở. Gia đình mất hẳn tình thương yêu đầm ấm thuận hòa. Vợ chồng thiếu tình yêu đương âu yếm tôn trọng nể vì nhau; cha mẹ luôn càu nhàu cãi cọ nhau, la rầy mắng nhiếc nhau; làm nên gương xấu, khiến con cái mất lòng hiếu thảo, tôn kính phải có đối với bậc sinh thành ra mình.
Cuối cùng, bà ta cũng bất mãn cả với chính mình và trở thành con người bất bình thường; luôn nổi cơn cáu kỉnh, làm cho mọi người phải chán ghét xa tránh bà, khiến bà trở nên cô độc, gia đình bà trở thành như một hoang đảo, không ai thèm lai vãng thăm hỏi.
Vì cảm thấy mình bị lẻ loi và bị mọi người chán ghét, cũng giật mình; bà đi tìm một bác sĩ phân tâm để chữa cái bệnh “cáu kỉnh” cho bà. Nhưng ông bác sĩ cũng phải bó tay hàng phục, chẳng sao chữa trị cho bà được.
Một buổi sáng Chúa Nhật, bà có tên là “Con Mẹ Mướp” đi dự lễ và nghe bài Tin Mừng tường thuật câu truyện Chúa chữa người mù từ mới sinh mà chúng ta vừa nghe. Câu truyện đó làm cho bà bừng tỉnh và xúc động khác thường, khiến bà rưng rưng giọt lệ, tự cảm thấy mình cũng bị mù lòa, không nhìn ra được cái hay cái tốt, cái ưu điểm nơi tha nhân. Thế rồi, được ơn Chúa đánh động, bà quyết tâm sửa đổi thái độ và nhờ ơn Chúa trợ giúp bà đã thành công. Bà đã trở nên một người đàn bà thùy mị, vui vẻ, lạc quan và dễ thương với hết mọi người. Gia đình bà đã trở nên một tổ ấm yêu đương, thuận hòa, hạnh phúc, đến nỗi khiến mọi người phải thán phục, khen ngợi, kính nể và coi đó như một mẫu gương phải noi theo bắt chước.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã làm phép lạ chữa anh chàng bị mù từ mới sinh, bởi anh đã đặt niềm tin vững mạnh nơi Chúa, như chính lời Chúa đã phán với anh: “Đức tin của con đã chữa con”. Chính vì Đức Tin đó, mà không những Chúa đã chữa anh khỏi bệnh mù lòa phần xác mà còn chữa anh khỏi cả bệnh mù lòa phần linh hồn, là cho anh được ơn nhận biết Chúa, hiến thân theo Chúa để suốt đời phụng sự và yêu mến Người.
Giữa một thế giới văn minh khoa học tiến bộ ngày nay mà vẫn còn nhiều người mắc chứng bệnh mù lòa, không sao nhận ra ánh sáng, họ phải mò mẫm trong bóng tối; không thưởng thức được những vẻ đẹp của thiên nhiên, những cảnh uy hùng của vũ trụ, những kỳ công kiệt tác của Đấng Tạo Hóa… Đó chính là cái bệnh mù lòa tinh thần. Bệnh mù lòa phần xác dù có cực khổ thế nào đi nữa, cũng chưa thấm vào đâu với nỗi khổ của cái bệnh mù lòa tinh thần. Biết bao nhà thông thái, biết bao triết gia, khoa học gia, chính trị gia là những kẻ tự hào cho mình là thông thái khi đề ra những triết thuyết làm lẽ sống cho con người; đã sáng nghĩ ra được máy móc tối tân để chinh phục không gian, để canh tân đời sống; đã chế tạo ra được những khí giới tối tân để tác oai tác quái nhằm tiêu diệt đối phương, đe dọa sự sống còn của các dân tộc.
Khi chữa cái bệnh mù phần xác cho anh chàng mù từ mới sinh trong Tin Mừng, Chúa cũng muốn cứu chữa cái bệnh mù lòa tâm hồn cho con người, để họ được diễm phúc nhận biết, tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa hầu được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, là thứ hạnh phúc con người phải khát khao và nỗ lực tìm kiếm.
III. XIN CHO CON ĐƯỢC XEM THẤY
Với niềm tin tưởng, chúng ta hãy khiêm tốn chân nhận sự mù lòa, sự nghèo nàn, hữu hạn thiếu thốn của mình và tha thiết nài xin Chúa cho chúng ta được ơn xem thấy, để chúng ta biết:
Nhận ra Chúa nơi tha nhân, nhận ra Chúa nơi anh chị em chúng ta, nhận ra những điểm hay điểm tốt nơi tha nhân, để biết tôn trọng kính nể họ. Xin cho chúng ta biết nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác của Người, để chúng ta biết dâng lời chúc tụng ca ngợi Đấng Tạo Hóa muôn loài. Xin cho chúng ta biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa, để chúng ta biết tôn kính, vâng phục, hiếu thảo với các vị theo thánh ý Chúa.
Nhất là xin cho chúng ta biết chân nhận thân phận thụ tạo của mình là phải hoàn toàn lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; biết nhìn nhận ra những ơn phúc do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để luôn biết dâng lời cảm tạ Chúa, biết tôn thờ, phụng sự và hết lòng kính mến Chúa, xứng với nghĩa vụ là một tôi trung, con thảo của Người.
Kết Luận
Chớ gì chúng ta được ơn nhận ra Chúa luôn luôn, nhận ra Chúa nơi mọi người, nhận ra Chúa nơi mọi thụ tạo, nhận ra Chúa nơi mọi hoàn cảnh của cuộc sống, trong mọi biến cố Chúa để xảy đến dù may hay rủi, dù xuôi thuận hay bất trắc; nhận ra Chúa nơi mọi kỳ công Người sáng tạo bằng một Đức Tin sống động và kiên vững, để luôn hết lòng thuần phục Chúa trong mọi sự, bằng một tình con thảo hằng biết yêu mến làm hài lòng Cha.
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Mc 8,22-26 kể truyện một người mù được dẫn đến gặp Đức Giêsu, được Người chữa lành tiệm tiến, và được yêu cầu giữ kín việc này; trong 10,45-52, Báctimê tự mình tích cực tìm Đức Giêsu, được chữa lành ngay và trở thành môn đệ trên đường. Truyện thứ hai này, cùng với câu truyện thứ nhất, đóng khung một đơn vị văn chương, nhưng cũng cho thấy một sự tiến bộ trong đức tin. Truyện này có thể được coi như một truyện về chữa lành hoặc một truyện về ơn gọi. Truyện này còn là một lời khuyến khích các môn đệ đang đi theo Đức Giêsu mà không hiểu gì hết, lòng trĩu nặng kinh hoàng.
Hai đoạn 8,22-26 và 10,45-52 là những bài tường thuật có vai trò chuyển mạch. Hai đoạn này đưa độc giả đến một lời tuyên xưng công khai vào tư cách Mêsia của Đức Giêsu: đức tin vào tư cách Mêsia giả thiết có biến cố Khổ Nạn. Trong viễn tượng đối thần này, việc Đức Giêsu mở mắt có giá trị một dấu chỉ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh: nơi chốn và các nhân vật (10,46);
2) Phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (10,47-50);
3) Đỉnh cao của bài: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (10,51-52).
3.- Vài điểm chú giải
– con đường (hê hodos) (46): Chúng ta đang ở trong phân đoạn trọng tâm Trên đường (x. Bố cục). Mc 10,32 ghi: “Đức Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem. Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi”. Đề tài này với tất cả những gì liên hệ đến (tiến bước, dừng chân…) càng nổi bật trong 10,46-52: họ (các môn đệ, đám đông và Đức Giêsu) đến Giêrikhô. Nhưng rồi Giêrikhô cũng chỉ là một chặng trên “con đường” (“Khi Đức Giêsu … ra khỏi Giêrikhô”).
– môn đệ: Xem ghi chú ở 2,18. Các môn đệ (mathêtai) đi theo Đức Giêsu được phân biệt với đám đông tổng quát hơn (8,34; 9,14). Khi ghi nhận những lần tác giả sử dụng từ “đám đông” (ochlos), chúng ta có thể khẳng định rằng, cũng như các tác giả Tin Mừng khác, Mc ghi nhận sự hiện diện thường xuyên của đám đông. Trong một vài đoạn, ngài còn ghi là đám đông đi theo Người (3,20; 5,24; 8,2; x. plêthos ở 3,7 và polloi ở 2,15). Tuy nhiên, trong phân đoạn 8,27–10,52, hiếm khi Đức Giêsu ngỏ lời với đám đông. Trước 10,46, đám đông xuất hiện ở 9,14 và 10,1 (lần duy nhất ochloi ở số nhiều). Trong chuyến đi về Giêrusalem, Đức Giêsu săn sóc đặc biệt các môn đệ. Thông thường, khi cứu xét ngữ cảnh, ta có thể giả thiết là các đám đông là những người phát xuất từ vùng Đức Giêsu đi ngang qua (10,1). Trong trường hợp 10,46, vì đã gần lễ Vượt Qua, ta có thể nghĩ đến những người hành hương đang cùng đi với nhau tiến về thành thánh. Dù sao, Mc đã không quan tâm ghi chú lý do vì sao đám đông ra khỏi Giêrikhô với Đức Giêsu và các môn đệ Người.
– Báctimê: Báctimê là phiên âm cụm từ A-ram bar timay, có nghĩa là “con ông Timê”.
– một người hành khất mù, đang ngồi ở vệ đường: So với hành động của anh mù được kể ở c. 52 (“đi theo”), câu này cho thấy vị trí đầu tiên của Báctimê hoàn toàn ngược lại: “đang ngồi ở vệ đường” (para tên hodon). Đây là một tư thế cố định được coi như vĩnh viễn (thì vị hoàn của động từ ekathêto). Đã thế, anh lại là người hành khất (prosaitês) và bị mù. Tư cách hành khất diễn tả sự cố định, còn sự mù loà diễn tả sự xa cách. “Bên vệ đường” có nghĩa là “ở bên ngoài đường”. Như vậy, Báctimê ở trong thế bị loại trừ, cố định, xa cách người khác.
– Vừa nghe nói là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên (47): Đám đông can thiệp nhiều lần. Lần đầu tiên, họ cho biết đó là “Đức Giêsu Nadarét” (c. 47). Báctimê nhận thông tin này bằng thính giác (“đã nghe”): vì mù loà nên xa cách. Nhưng có sự gần gũi: Giêsu người Nadarét là một con người; và hình như anh cũng đã được thông tin về Người rồi. Tuy nhiên, sự gần gũi này cũng chưa giúp gì cho anh. Anh kêu lên (vì xa cách): “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Đáng ngạc nhiên là đám đông chỉ giới thiệu Đức Giêsu như một con người (“người Nadarét”), mà anh này lại kêu cầu Người bằng một danh hiệu của Đấng Mêsia (“con vua Đavít”). Dù sao, truyền thống Do-thái chờ đợi Đấng Mêsia nhà Đavít đến giải phóng dân Ít-ra-en và can thiệp để cứu độ, chứ không chờ Người chữa bệnh. Do đó, nhiều nhà chú giải cho rằng Mc đã đặt vào miệng anh mù một lời cầu khẩn của Kitô giáo. Đức Giêsu còn ở xa anh, vừa về không gian vừa do tư cách, nên anh phải kêu để mong gặp Người. Lời kêu này đã giúp anh vượt qua khoảng cách đó để gặp được Đức Giêsu.
– nhiều người quát nạt… anh càng kêu lớn (48): Bây giờ, đám đông đã trở thành một trở ngại thật đáng kể; nhiều người muốn bắt anh im đi. Trong các Tin Mừng, sáng kiến đi đến với Đức Giêsu không bao giờ phát xuất từ dân chúng hay các môn đệ. Ở đây, chính sự ngăn cản của họ trở thành một thử thách cho đức tin của anh, nhưng anh càng kêu to hơn. Danh Giêsu đã biến khỏi công thức khẩn cầu, chỉ còn lại danh hiệu “con vua Đavít”.
– Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” (49): Người cắt ngang cuộc tiến bước. Khi làm như thế, Người tách khỏi những kẻ đang ở với Người trên cùng một con đường, Người phá vỡ một sức năng động mà Người đã phát động và lôi kéo. Lời Người nói chứng tỏ giữa Người và anh mù, có một khoảng cách, và đám đông đang ở tại vị trí này. Hành vi cắt ngang chuyến đi của Đức Giêsu tạo ra một hậu quả bất ngờ: người mù vất áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu, y như thể anh không bị mù.
– anh mù: Đáng lưu ý là Báctimê được gọi là “anh mù” (ho typhlos:cc. 49 và 51) sau khi Đức Giêsu can thiệp. Nếu tác giả Mc chỉ gọi anh là “anh mù”, phải chăng ngài muốn nói rằng anh không “hành khất” nữa?
– vất áo choàng: Tấm áo choàng (himation: “áo”; “áo choàng”) có thể là y phục nói chung (2,21; 5,28-30; 9,3; 15,20.24), nhưng ở đây có thể là tấm vải dùng như áo choàng (5,27; 6,56; 11,7.8; 3,16) mà một người nghèo có thể dùng làm mền đắp (Xh 22,25-26; Đnl 24,13), còn anh mù có thể trải ra trước mặt mà nhận các món bố thí (những người hành khất Đông phương thường làm như thế). Hành vi “vất (apobalôn) áo” có thể là cách diễn tả một sự hứng khởi tột độ; nhưng dựa theo ý nghĩa của động từ ấy, có thể nói hầu chắc là anh mù làm một hành vi từ bỏ dứt khoát. Ý nghĩa chính của động từ này là “vất đi, quẳng ra sau (với sức mạnh)” và “bỏ lại bằng cách quăng ra” (Đnl 26,5 LXX) hoặc “đánh mất” (Is 1,30 LXX; Dt 10,35)[1]. Anh mù đã làm một động tác dứt khoát, nhằm bỏ cái áo đi. Hành vi này chứng tỏ một sự liều lĩnh của anh mù, nhưng cũng cho thấy anh hết sức tin tưởng vào sự trợ giúp của Đức Giêsu và không muốn để cho ngay cả một vật cần thiết cho cuộc sống gây cản trở cho mình. Cũng có thể coi động tác ấy có ý nghĩa biểu tượng là từ bỏ chính mình (8,34-35), cắt đứt với quá khứ (1,18.20; 10,28).
– đứng phắt dậy (50): Động từ anapêdaô là một hapax legomenon (từ dùng một lần) trong Tân Ước, và ngày cả trong LXX cũng không được dùng thường xuyên (7 lần). Từ này mô tả động tác “nhảy lên” theo cách cương quyết và bất ngờ (Tb 6,2) thường từ thế ngồi (1 Sm 20,34; Tb 2,4; 7,6; Et 5,1e) và vì sự phấn khích (Et 5,1e: “lo âu lao mình xuống”, agôniasas anepêdêsen). Trong những đoạn khác, Mc diễn tả hành vi “trỗi dậy” bằng động từ egeirô quen thuộc hơn (2,12; 4,27; 13,8.22; 14,27). Theo lời mời egeire (“Hãy đứng dậy!”) của Đức Giêsu ở 2,11 và 5,41, phản ứng đáp lại được mô tả cũng bằng động từ egeirô hoặc anistêmi (5,42; 9,27). Nếu chúng ta nhớ sự tương ứng của egeirô-anistêmi ở 5,41-42 và nhớ rằng ở 2,14, anastas mô tả sự đoạn tuyệt với cuộc sống đã qua nhằm đi theo Đức Giêsu, ta có thể giả thiết là, trong một ngữ cảnh nói về việc kêu gọi, động từ anapêdaô diễn tả mạnh mẽ hơn một sự sẵn sàng đáp lại lời mời gọi.
– đến: Đọng từ này mở đầu bài tường thuật dành cho đám đông (c. 46: “Đức Giêsu và các môn đệ đến”), nay được dành riêng cho anh: êlthen, ở thì quá khứ aorist, diễn tả một hành vi duy nhất, quyết liệt.
– Anh muốn tôi làm gì cho anh? (51): Đức Giêsu lưu tâm đến cá nhân anh mù. Người đã cho gọi anh đến như cho vào một cuộc tiếp kiến; bây giờ Người hỏi về điều anh muốn khiến ta nhớ lại 10,36: Đức Giêsu xử sự như Đấng có vương quyền.
– Thưa Thầy: Trong bản văn Hy-lạp, ta đọc là Rabbouni; đây là từ A-ram đã không được dịch ra hy-ngữ, tăng cường từ Rabbi (“đức ông”, “ngài”).
– Anh hãy đi: Đức Giêsu đã ban cho anh được thấy, như là một dấu chỉ của đức tin (“Lòng tin của anh đã cứu anh”).
– anh đi theo Người trên con đường (52): Động từ êkolouthei ở thì vị hoàn hàm ý một sự tiếp diễn: tiếp diễn trong chuyển động. Bởi vì đây là việc bước đi “trên đường”, nhưng cũng là trong sự gần gũi, bởi vì người ta bước theo sau một ai đó. Ý tưởng cốt lõi ở đây là sự hiện diện vĩnh viễn “trên đường”. Anh trở thành môn đệ (“bước theo”).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh: nơi chốn và các nhân vật (46)
Trong chuyến đi lên Giêrusalem, Đức Giêsu và nhóm các môn đệ đến Giêrikhô, thành phố cây chà là, cách Giêrusalem 23 cs về phía đông bắc, nằm ở 250m dưới măt biển, tại một ốc đảo trong vùng trũng bên sông Giođan. Giêrikhô Tân Ước ở về phía tây nam của “Giêrikhô của vua Hêrôđê”, nơi vị vua này đã xây một hoàng cung rộng lớn. Khác với TM Lc (18,35–19,10), ở đây Đức Giêsu và đoàn người đã không dừng lại Giêrikhô; cả đoàn đang đi ra khỏi thành thì gặp anh hành khất mù Báctimê. Vị trí của hai bên là hai vị trí không thể gặp nhau: Đức Giêsu và các môn đệ cùng đám đông thì đang di chuyển trên đường; anh mù thì đang ngồi ở vệ đường.
* Phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (47-50)
Đáng ngạc nhiên là đức tin của anh mù “ngồi ở vệ đường”, tức lâu nay không “đi theo” Đức Giêsu, lại có phần sâu sắc (“Con vua Đavít”) hơn đức tin của đám đông dân chúng (“Giêsu người Nadarét”). Anh cứ kêu to hướng về Đức Giêsu, bởi vì anh muốn gặp Đức Giêsu mà anh lại không biết hướng. Đã thế đám đông lại trở thành trở ngại cho đức tin của anh: họ quát nạt bắt anh im đi. Nhưng anh càng kêu to hơn. Và Đức Giêsu đã dừng lại, truyền gọi anh lại. Đám đông thấy Đức Giêsu chiếu cố đến anh, liền “đổi giọng”. Đến đây xảy ra sự cắt đứt cuộc hành trình, Đức Giêsu đứng lại (c. 49): chính thái độ này đã làm thay đổi thái độ của đám đông và đưa lại cho anh mù sự di động và sự gần gũi. Lối xử sự của Đức Giêsu (đứng lại, truyền) đã làm cho hai bên có sự gặp nhau: anh ta có hướng đi tới. Sự việc anh vất áo choàng có nghĩa là đã chấm dứt sự cố định, để đạt sự di động. Hành vi “đến” (c. 50) đưa anh mù di chuyển mà gặp Đức Giêsu, và đưa anh vào “con đường” Người đang đi. “Đức Giêsu” và “con đường” là một; nói cách khác, sự gần gũi và di động phối hợp với nhau: con đường đã mở ra cho anh mù.
* Đỉnh cao của bài tường thuật: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (51-52).
Cái nhìn cho phép gần gũi dù ở xa, và bảo đảm cho có sự an toàn trong khi di động. Từ đó, ta mới hiểu tình trạng mù loà thật sự là tình trạng của đám đông và các môn đệ, một đám đông đang đi đường với Đức Giêsu: họ ở gần mà thật ra họ ở xa, vì họ chỉ có thể thấy đây là “Giêsu Nadarét”. Nay đã được “thấy” bằng lòng tin, Báctimê phải di động, phải theo Đức Giêsu trên đường. Công thức này thường được Mc (và Mt) sử dụng trong khung cảnh một sứ vụ do Đức Giêsu giao phó cho người môn đệ (Mc 1,44; 5,19; 10,21; 14,13).
+ Kết luận
“Sự mù lòa” tượng trưng sự xa cách dù gần gũi; “sự thấy được” tượng trưng sự gần gũi dù xa cách. Toàn bài xoay quanh những khái niệm này.
Trong bài nổi lên một số nghịch lý: người mù lại là người thấy rõ hơn mầu nhiệm của Đức Giêsu, người ngồi bên vệ đường lại có thể đến gần Đức Giêsu hơn những kẻ đi theo Người lâu nay. Tất cả là do đức tin của người ấy và sự chiếu cố của Đức Giêsu.
Sự gần gũi (bằng lòng tin) phải kéo dài; muốn thế phải di động (“anh đi theo Người trên con đường Người đi”, ở thì vị hoàn). Đức Giêsu đã cắt đứt hành trình để kéo anh đi theo; anh cũng phải cắt đứt tình trạng bế tắc để đi theo Người. Đấy chính là kinh nghiệm về đời tín hữu.
5.- Gợi ý suy niệm
NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRICÔ (10,46-52)
Trình thuật vắn gọn gồm bảy câu này giàu hương vị và súc tích đặc biệt. Maccô đã phác họa nơi đây những nét sinh động to tát bộc lộ chiều sâu tư tưởng của ông.
Quang cảnh xảy ra đã được xác định rõ nơi chốn, khi vừa qua khỏi (nơi Chúa Giêsu đang đi 10,1) thì Giêricô sẽ là địa danh dẫn người ta vào Israel (c.46a). Đối với Chúa Giêsu đây là bước quy định nhất trong tiến trình hướng về Giêrusalem (11,1). Hãy ghi nhận rõ: đây là lần đầu tiên tác giả Phúc Âm cho thấy Chúa Giêsu đồng hành về Giêrusalem với “một đám đông” chứ không phải chỉ riêng các môn đệ Ngài. Và này đây trên bước hành trình của mình, đám đông sẽ có được một cuộc gặp gỡ “đổi đời”. Ở đây chúng ta gặp một nhân vật “đặc biệt” đang ngồi ở lề đường: anh ta là một trong vô số người mù Palestin thời đó phải xin ăn mà sống (c. 46c). Sự cố liên quan tới anh ta đã gây xúc động mạnh cho Maccô đến nỗi ông là người duy nhất trong các giả Phúc Âm đã ghi lại tên anh mù bằng tiếng Aram được Maccô lẹ làng dịch ra cho độc giả Hy Lạp hiểu, tên ấy là có nghĩa là con của Timê. Anh ta hoàn toàn bị gạt ra rìa cuộc sống tức là đang khi thiên hạ đi thì anh ta ngồi mà lại ngồi ‘bên vệ đường”!
Tuy nhiên, dù mù lòa cô đơn ngồi một chỗ, anh ta vẫn là một người hiếu động, với sự bộc phát đầy kinh ngạc, anh ta kêu lên Chúa Giêsu khi Ngài đi qua đó (c. 47). Tiếng kêu của anh mù biểu lộ nỗi khổ to lớn nhưng đặc biệt cũng biểu lộ niềmtin cậy khôn lường. Quả là nghịch lý khi anh mù này lại “thấy” được chính xác Đức Giêsu Nadaret là ai. Anh ta gọi Ngài là “Con vua Đavit”. Theo truyền thống Kinh Thánh đây chính là tên gọi Đấng Mêsia. Đấng được dân riêng Chúa từ lâu mong đợi (x. Lời hứa Chúa ngỏ với Đavit: 2Sm 7,1-17). Như thế Bartimê đã thực hiện một hành vi đức tin phi thường. Trái lại, đám đông đang nối nhau theo Chúa Giêsu thì muốn khước từ anh chàng nghèo khổ, bị khai trừ này. Đây là đặc tính của con người đương thời: họ chỉ muốn anh chàng quấy rầy này câm miệng đi. Đối với họ, một kẻ ăn xin cản bước Chúa Giêsu thì thật là không thích đáng tí nào. Không thấy nói đến thái độ của các môn đệ; chẳng hiểu các ông có tham gia tẩy chay anh mù không? Có thể lắm chứ. Các ông chẳng từng quở mắng đám trẻ con (một loài người bị khai trừ) muốn đến gần Chúa Giêsu đó sao? (10,13-16). Mặc kệ đám người chung quanh Chúa Giêsu tỏ ra hết sức thù nghịch, Bartimê vẫn không chịu thua cuộc. Người ta càng tìm cách chận không cho anh là thì “anh càng la to hơn”: “Lạy con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!” (c. 48b). Lời van xin dai dẳng này đã đạt được mục đích: Chúa Giêsu dừng lại và nói: “Hãy gọi anh ta tới” (c. 49a). Một lần nữa Đấng Mêsia biểu lộ cho thấy Ngài muốn “dan díu” với những kẻ mà các bạn hữu Ngài khăng khăng muốn khai trừ (x.10,14). Và Ngài đã yêu cầu người ta gọi kẻ bị khai trừ đến gặp Ngài. Lúc này đây, đám đông (và không chừng cả các môn đệ (?)) liền “đổi giọng” và mời anh mù đến gần Chúa Giêsu (c. 49b). Những từ này còn hàm chứa lời mời gọi anh mù nọ rời bỏ tình trạng “chết chóc” của mình bởi vì “Hãy đứng lên” cũng hàm nghĩa “Hãy sống dậy”, theo ngôn ngữ Hy Lạp được dùng trong Phúc Âm, tiếng kêu gọi này mang lại hiệu quả ngay. Lập tức “anh mù liền vất áo choàng lại, nhảy chồm lên mà đến gần Chúa Giêsu” (c. 50). Các chi tiết này thật kỳ diệu. Giống như thể Bartimê đã hết mù rồi vậy! Vất áo choàng tức là vất bỏ đi “tình trạng” bị khai trừ của mình. Thực thế, trong Thánh Kinh, y phục tượng trưng cho nhân cách người mang nó. Áo khoác là của cải duy nhất của “người nghèo” (x. Xh 22,25-26). Khi vất áo đi, Bartimê đã thực hiện điều mà Chúa Giêsu không thể nhận được từ người đàn ông giàu có nọ, tức là bỏ hết mọi sự để theo Ngài. Và bằng cách nào đây? “Anh ta nhảy chồm lên”. Nhảy lên trong lúc mắt vẫn còn mù thì đúng là cái nhảy của đức tin. Anh ta chạy về phía Chúa Giêsu: điều này nói lên được rất nhiều về đức tin của anh. Với sự lao tới không gì cầm lại được, kẻ từng bị sống ngoài rìa xã hội vượt qua cái hố phân cách anh ta với tất cả mọi người.
Gặp được anh mù rồi, Chúa Giêsu liền nói: “Anh muốn tôi làm gì cho anh” (c. 51a). Câu hỏi xem ra thừa bởi vì nhu cầu của anh ta đã quá rõ ràng. Tuy nhiên Chúa Giêsu luôn luôn kính trọng tự do của mọi kẻ đến gặp Ngài. Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (c. 51b). những tiếng anh ta dùng là trang trọng. Khi ngỏ lời với Thầy mình, các môn đệ người Do Thái thường chỉ gọi đơn sơ “Thưa Thầy” (Rabbi). Còn ở đây tiếng Rabbouni có nghĩa là “Thầy của tôi” được anh mù ngỏ với Chúa Giêsu với đầy sự kính trọng và thân ái hơn. Mặc dù chỉ yêu cầu “xin cho tôi được thấy” nhưng xem ra có lẽ anh ta muốn diễn tả một nhu cầu sâu xa hơn. Trình thuật lại gợi cho ta thấy điều này. Lời nói của Chúa Giêsu chứa đựng một chiều kích sâu xa bất ngờ đối với anh mù cũng như đối với cử tọa chung quanh (c. 52a). Câu nói “anh hãy đi” hàm ý một sự sai phái. Chúa Giêsu giải thoát anh ta khỏi những gì làm tê liệt anh ta. Hơn nửa, tất cả những gì lay động Baritmê từ những tiếng van nài lải nhải cho đến việc anh phóng chạy tới Ngài đang khi vẫn còn mù, đều được Chúa Giêsu đánh giá là thuộc về “đức tin”, và thành ngữ “đã cứu chữa anh” có nghĩa là ân sủng Chúa Giêsu ban cho người tín hữu vượt quá sự chữa lành về mặt thể lý, vì đó là ơn cứu độ toàn bộ con người. Những lời tương tự như khi Chúa Giêsu nói với người phụ nữ mắc bệnh băng huyết (5,34) đã mặc khải rõ ý nghĩa sâu xa của các phép lạ Ngài thực hiện. Đoạn cuối của trình thuật này rất lạ thường. Theo tính cách bất ngờ thường thấy Maccô sử dụng. (trạng từ “tức khắc” được lặp đi lặp lại thường xuyên: 1,12.20; 2,12; 5,30v.v…). Ở đây anh mù sau khi được khỏi liền bước đi theo Chúa Giêsu. Câu nói anh “theo Ngài lên đường” là công thức rất thường dùng để diễn tả thái độ “người môn đệ” (1,18; 2,14).
Chúng ta thấy ở đây nghệ thuật kể chuyện của Maccô đã đạt đến độ hoàn hảo (c. 52b). Quả là tương phản biết bao giữa tình trạng lúc đầu của Baritmê (ngồi bên lề đường, mù lòa, xin ăn) và tình trạng sau đó của anh ta (đứng, đi trên đường, sáng mắt, loan báo Tin Mừng…) không nghi ngờ gì nữa, khi đặt trình thuật trên vào thời điểm Chúa Giêsu đang trên đường tiến về Giêrusalem, lôi kéo đám môn đệ và quần chúng đạt đến “nguồn ánh sáng” lớn lao hơn về thân thế và sứ mệnh của Ngài, Maccô đã muốn minh họa cho những gì làm nên “người môn đệ đích thực tức là phải để cho Chúa Giêsu dẫn đến sự “Thiên Khải của đức tin”. Trước đó việc chữa lành người mù ở Betsaiđa (8,22-26) đã giúp các môn đệ Chúa Giêsu khám phá ra Ngài là Đấng Mêsia (8,27-30). Giờ đây, Chúa Giêsu lại mời gọi các môn đệ và tất cả những kẻ muốn theo Ngài hãy mở con mắt của lòng mình ra để đón nhận, trong đức tin, cái nhìn về một Đấng Mêsia chịu đau khổ và vinh thắng.
Hẳn Maccô chỉ có thể định vị trình thuật này cách hay nhất vào thời điểm Chúa Giêsu sắp đi vào thành Giêrusalem. Liệu người ta có thể nhận biết Chúa thân thế và hành động của Ngài không? Quả thật khi đến trần gian cứu độ loài người, Chúa Giêsu nhắm đến hai mục đích: vừa phục hồi họ vào trong xã hội đương thời của họ, vừa tháp nhập họ vào trong cộng đồng tình yêu do Ngài thiết lập nên.
CÁC PHÉP LẠ TRONG PHÚC ÂM MACCÔ
Trong Phúc Âm Maccô, các phép lạ của Chúa Giêsu lên tới con số mười bảy; điều này cho thấy chúng đóng góp một vai trò quan trọng bởi vì tác phẩm này tương đối ngắn (chỉ mười sáu chương) đồng thời các giáo huấn của Chúa Giêsu ở đây lại hiếm khi được giải thích (nhất là ở giai đoạn đầu, xem 1,14-8.30).
Người ta có thể xếp “các hành vi quyền phép này” (theo kiểu nói của Maccô) thành những “loại” khác nhau phù hợp với não trạng hiện đại của chúng ta hơn là tư tưởng phương Đông và tư tưởng thời xưa.
– Có những hành vi được xem là các cuộc chữa bệnh thuần túy: nhạc mẫu Phêrô (1,29-31); một người phong hủi (1,40-45); người phụ nữ mắc bệnh băng huyết (5,25-34); một người câm điếc (7,31-37); hai người mù (ở Betsaiđa; 8,22-26; ở Giêricô: 10,46-52); hai người bại liệt (ở Caphanaum: 2,1-12; trong một hội đồng: 3,1-6).
– Một “cuộc hồi sinh”: con gái ông Giairô (5,21-24 và 35-43).
– Những “hành vi quyền phép” trên thiên nhiên: dẹp yên bão tố (4,35-41); đi trên sóng nước (6,45-51); hai lần hóa bánh (6,30-44; 8,1-10).
Việc tường thuật dồi dào các sự kiện “lạ lùng” thường khiến các độc giả thời nay lạc lối. Đối với đa số người thời nay, các phép lạ trở thành một trở ngại cho đức tin hơn là lời mời gọi người ta đến với đức tin. Tuy nhiên chắc chắn hồi đó Chúa Giêsu là một nhà trị bệnh đồng thời cũng là một nhà trừ quỷ. Điều này chẳng có gì khác thường trong thế giới Do Thái và dân ngoại thời ấy. Văn chương vùng Đông phương cổ xưa và trong thế giới Hy Lạp thời Chúa Giêsu còn lưu lại trình thuật phép lạ do những người có đặc sủng hoặc các nhà ma thuật thực hiện.
Tuy nhiên các phép lạ của Chúa Giêsu khác hẳn với các phép lạ của các nhà trị bệnh đương thời. Các phép lạ của Chúa Giêsu liên kết chặt chẽ với Tin Mừng Ngài rao giảng. Chúng thực sự là “những dấu chỉ” cho thấy Đấng Mêsia đang hiện diện (x. Mt 11,2-6), Nước Thiên Chúa đang đến. Sứ điệp của Chúa Giêsu đã mang lại tất cả ý nghĩa cho việc Ngài trị bệnh và trừ quỷ. Ngoài việc làm tiêu tan đi cơn đau thể lý và tâm lý, các phép lạ còn là dấu chỉ sự “giải thoát” về mặt tôn giáo và xã hội nữa. Trước hết Chúa Giêsu đến phục hồi cho bệnh nhân sự thông hiệp với Thiên Chúa. Như thế Ngài tái tháp nhập bệnh nhân vào cộng đồng đức tin cùng với những người khỏe mạnh khác. Đồng thời Ngài phục hồi cho “những kẻ bị khai trừ” này bằng cách giúp họ tái nhập vào xã hội mà họ đang sống. Hai ví dụ sống động của việc “giải phóng kép” này được tìm thấy nơi các phép lạ “chữa người phong hủi” (1,40-45) và “người bị bất toại được tha thứ và chữa lành” (2,1-12).
Ngoài ra, phải đọc các phép lạ của Chúa Giêsu nơi Maccô, trong khuôn khổ liên tục của Phúc Âm này. Ở mỗi giai đoạn mặc khải về Đấng Mêsia, các phép lạ đều củng cố thêm cho sự khám phá thân thế và sứ mệnh đích thực của Ngài.
– Trong giai đoạn đầu (1,14-3,12) Chúa Giêsu muốn cho mọi người hiểu rằng Ngài đến khánh thành kỷ nguyên cứu độ, các phép lạ chữa lành nhạc mẫu Phêrô (1,29-31), chữa lành một người phong hủi (1,40-45), chữa lành một kẻ bại liệt (2,1-12), chữa lành người có cánh tay bị liệt (3,1-6) chứng nhận Ngài thực sự là một vị lương y của thể xác và tâm hồn.
– Trong giai đoạn thứ hai (3,13-6,6) Chúa Giêsu lôi cuốn các môn đệ vào công việc mang Phúc Âm “đi xa” đến vùng các dân ngoại. Maccô đã gom lại ở đây bốn hành vi quyền phép của Chúa Giêsu để trấn an Giáo Hội non trẻ rằng Đấng Chúa Tể Phục Sinh của họ vẫn còn đang hiện diện ở khắp mọi nơi và Ngài luôn nắm quyền trên các sức mạnh của sự Dữ và sự Chết. Các phép lạ sau đây đều mang ý nghĩa này: truyền bão tố yên lặng (4,35-41), chữa lành kẻ bị quỷ ám ở Giêrasa (5,1-20), hồi sinh con gái ông Giairô và chữa lành người phụ nữ mắc bệnh băng huyết (5,21-43). Khi đọc những bằng chứng này, các Kitô hữu, mạnh dạn đem Tin Mừng đến giữa lòng dân ngoại.
– Trong giai đoạn thứ ba (6,7-8,26) Chúa Giêsu mặc khải Ngài là một Môsê mới. Ngài có khả năng quy tụ và nuôi dưỡng được mới của Thiên Chúa bằng lời nói và bằng sự hiến dâng chính mình. Đây là ý nghĩa lần hóa bánh đầu tiên (6,30-44). Tuy nhiên Ngài không dừng lại ở đó: Ngài còn đến để mở rộng bàn tiệc Nước Chúa cho những kẻ xa lạ, những kẻ không thuộc dân Do Thái vẫn thường bị dân Do Thái khai trừ. Đây là ý nghĩa việc trừ quỷ cho đứa con gái người phụ nữ Syrô-Phênisi (7,24-30) và lần hóa bánh thứ hai (8,1-9). Sự kiện các môn đệ cảm thấy khó mà nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia mang tính cách hoàn vũ đã được minh họa qua hai phép lạ có tầm mức tượng trưng cao độ: phép lạ chữa người câm điếc (7,31-37) và chữa người mù ở Betsaiđa (8,22-26). Những kẻ muốn theo Chúa Giêsu phải thoát ra khỏi sự điếc lác mù lòa cản trở không cho họ nhận ra thân thế sâu nhiệm và sứ mệnh của Ngài.
– Giai đoạn thứ tư của sứ mệnh Chúa Giêsu (8,27-10,52) là giai đoạn đào tạo gấp rút các môn đệ tham dự vào lời loan báo về cuộc khổ nạn sắp tới. Các môn đệ không được sợ hãi viễn cảnh mới về cái chết của Thầy mình. Một cách cố ý, Maccô đã trình bày việc chữa lành đứa bé bị động kinh (9,14-29). Ở đây Chúa Giêsu mặc khải Ngài là Chúa Tể nắm quyền trên các sức mạnh của sự Dữ và sự Chết. Ngài chứng tỏ Ngài có khả năng “Phục Sinh” Người đã bị phó cho thần chết. Bạn hữu Chúa Giêsu phải mở mắt ra theo gương anh mù thành Giêricô (10,46-52). Họ có thể bước theo Chúa Giêsu trong đức tin sáng chói, cùng đồng hành với Đấng vướt qua cuộc khổ nạn, chiến thắng sự chết bằng cuộc phục sinh của Ngài.
– Giai đoạn thứ năm của Chúa Giêsu (11,1-13,37) hoàn toàn tập trung vào cuộc nhập thành Giêrusalem và việc Ngài chính thức giảng dạy trong đền thờ. Giai đoạn này không thấy Chúa Giêsu làm phép lạ. Phải đọc trình thuật “cây vả bị khô héo” (11,12-14 và 20-25) như là một cử chỉ tượng trưng. Dụ ngôn này (được lịch sử hóa) muốn chứng tỏ rằng luật lệ hay đền thờ Do Thái cũng không thể làm thỏa mãn cơn đói Thiên Chúa (11,12). Chỉ mỗi mình Chúa Giêsu mang theo nơi Ngài lương thực cứu độ.
– Giai đoạn thứ sáu và cũng là giai đoạn chót (14,1-16,8) là trình thuật liên tục về cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu. Suốt thời gian các biến cố này, Chúa Giêsu không hề thực hiện hiện một dấu chỉ quyền phép thần linh nào cả. Mãi đến lúc cuối cùng, Ngài vẫn từ khước cơn cám dỗ xui khiến Ngài thực hiện “phép lạ” cứu Ngài thoát chết tức là xuống khỏi thập giá (15,29-32). Làm phép lạ này tức là phủ nhận chính nhân tính của Ngài.
Người ta thấy rõ: các phép lạ trong Phúc Âm Maccô không bao giờ là những “chứng cứ” về thiên tính của Chúa Giêsu mà chỉ những dấu chỉ giúp chúng ta tin. Chúng được tác giả Phúc Âm và cộng đồng của ông đọc lại dưới ánh sáng phục sinh và Kim Thánh. Chúng chỉ là những lời kêu gọi hãy tin vào Chúa Giêsu, Đấng cứu độ ta khỏi những sự dữ to lớn, đặc biệt là sự chết. Các dấu chỉ này luôn luôn hiện thực để khích lệ hoạt động thừa sai và bí tích của Giáo Hội (x. 16, 15-20). Người ta hiểu rằng các dấu chỉ ấy vẫn mãi mãi là một “câu hỏi” đối với những kẻ không tin…
Giêrikhô
Về mặt lịch sử, đó là một trong những thành phố danh tiếng nhất thế giới. Nhưng đó cũng là thành phố “thấp nhất” thế giới: Nằm trong một miền trũng sâu gọi là Ghor, dưới mặt nước biển 250 mét gần Biển Chết, nên cảnh vật hoang vắng, lúc nào cũng thấp thoáng bóng dáng thần chết. Ở đây, loại cây cọ phát triển mạnh, tạo nên một vệt xanh tươi, một ốc đảo. Đó còn là một thành phố cổ xưa nhất thế giới. Theo ý kiến các nhà khảo cổ học, đã có người cư ngụ ở đó từ năm 7.800 trước Chúa Giáng sinh, với những di tích đồn lũy có từ 7.000 năm trước Chúa Giáng sinh. Tổ phụ Abraham sống gần chúng ta hơn là thành phố đầu tiên này, một thành được coi là rất cổ ngay ở thời của tổ phụ.
Về mặt Kinh thánh, Giêrikhô là biểu tượng cho “công việc tiến vào miền đất hứa” ngay sau khi vượt qua sông Giođan. Đối với khách hành hương lên Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, cũng như đối với những đoàn người từ Galilê đi dọc theo sông Giođan thì đây là chặng đường cuối cùng, vì chỉ cách thủ đô 35 cây số.
Chúng ta đừng quên rằng, đối với Đức Giêsu cũng vậy, đó là con đường dẫn đến Giêrusalem. Ngày mai (Mc 11,1) Người tiến vào thành phố để hưởng chút vinh quang ngắn ngủi của buổi rước lá, dự buổi tiệc ly, trải qua cuộc thương khó, rồi Phục sinh.
Chữ Giêrikhô trong tiếng Do Thái có nghĩa là “thành phố mặt trăng”, chắc chắn để kỷ niệm việc thờ kính xa xưa. Vị thần của ban đêm. Chính vì thế mà Đức Giêsu sẽ làm “dấu lạ” cuối cùng: Người sẽ chiến thắng đêm tối đang giam cầm một người mù đáng thương. Đức Giêsu, ánh sáng của chúng ta! Anh sáng soi chiếu đêm tối đời ta.
Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô
Trong những ngày trước, theo trình thuật của Maccô (chương 8 đến 10) chính những môn đệ này đã tỏ ra họ hoàn toàn “mù tối” trước định mệnh thực sự của Đức Giêsu: Họ vẫn còn mơ tưởng danh dự và thành công theo kiểu loài người (Mc 10,37) trong khi Đức Giêsu đã ba lần báo trước cho họ thập giá của Người (Mc 8,31; 9,31; 10,34). Những bài đọc của 6 Chúa nhật vừa qua đã cho chúng ta thấy rằng, các môn đệ là những người không hiểu biết và với cái nhìn nhân loại, hoàn toàn không đủ tư cách để bước theo Đức Giêsu: phải “mất mạng sống mình” (8,35), phải trở nên “người cuối chót” (9,35), phải tự “móc mắt, chặt tay, chặt chân” để khỏi phạm tội (9,47), phải “trung thành trong hôn phối” đến độ anh hùng (10,9), phải “uống chén đắng và nhận phép rửa”, phải trở nên “đầy tớ của mọi người” (10,38-44). Không, lạy Chúa, không thể được đối với con người, dù người đó đã làm môn đệ của Chúa, nếu chỉ dùng sức riêng của con người để “theo Chúa”.
Một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê
Trong những xứ nghèo ở phương Đông, người bị mù rất đông. Trước khi phát minh phương pháp Braille cho người mù đọc được chữ nhờ ngón tay, người mù chỉ sống bằng cách ăn xin, ngồi tại chỗ. Trong biểu tượng Kinh thánh người mù là “hình trạng” của sự “khó nghèo”, của con người bị bỏ rơi: Hãy nhìn hình ảnh đó! Đó là chân dung của bạn đấy! Con mắt tôi mù như đêm, bàn tay chìa ra, ngồi xệp dưới đất. Mù, không thể bước đi được, phải lệ thuộc kẻ khác một cách bi thảm. Nhưng nghịch lý thay, chính người “hành khất mù ngồi dưới đất” này, lại sắp trở thành gương mẫu cho tất cả chúng ta, cho các môn đệ là những người cứ “tưởng mình thấy rõ” (Ga 10,39-40).
Người hành khất mù ấy tên là Batimê. Chỉ mình Maccô đã ghi lại tên của người này. Rất có thể ông Batimê thuộc cộng đoàn những người Kitô hữu đầu tiên, lúc Maccô viết trình thuật này. Đó là một người mà người ta biết rõ: Một người đã được Đức Giêsu ban phép lạ. Bạn có biết Thiên Chúa cũng biết tên bạn, và Người thương yêu bạn với một tình thương cá biệt, không phải là nặc danh sao?
Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nagiarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng
Theo thói quen của mình, Maccô luôn tỏ ra rất cụ thể. Chúng ta sắp xem một đoạn phim ngắn vô cùng linh động, trong đó mọi chi tiết được quan sát thật tinh tế, và có giá trị biểu tượng khá cao.
Như ta biết người mù có một thính giác rất đặc biệt.
Bằng lỗ tai, ông ta đã nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu, người Nagiarét.
Ngồi trên mô đất ngoài của thành Giêrikhô, ông ta nghe tiếng ồn ào của một nhóm người đi qua trước mặt mình. Người ta nói cho ông biết rằng, đó là Đức Giêsu.
“Tôi chưa bao giờ thấy Thánh nhan Người nhưng những kẻ biết Người, đã nói với tôi về Người. Từ ngày đó, tôi mong Người đi qua và tôi nghe nói. Hôm nay Người đến.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng ở trong tình trạng của người mù trên: ta chưa bao giờ thấy khuôn măt của Đức Giêsu. Nhờ đức tin, chúng ta đã tin vào chứng tá của những kẻ biết Người và chúng ta cũng ngóng đợi bước chân Người đi ngang qua”, Người “đang đến”. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ thấy Người.
Anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!”
Từ trong bóng đêm của người này một niềm hy vọng cuồng say đã bùng dậy. Bấy giờ anh ta la hét lên. Anh cất tiếng cầu xin. “Xin thương xót tôi”. Đó là tiếng kêu cứu của anh. Tiếng Hy Lạp là “Kyrie Eleison”. Một truyền thống lâu đời của Giáo hội Đông phương đã dạy các tu sĩ ở Hy Lạp, Libăng, Xyria, Ai Cập, Cappadoce vùng Sa mạc… phương thế tự thánh hóa mình nhờ “lời cầu xin với Đức Giêsu bằng cách chỉ lặp đi lặp lại cách đơn sơ và không biết mỏi mệt những từ này: Lạy Đức Giêsu, xin thương xót. Lạy Đức Giêsu, xin thương xót”. Trong trình thuật của Maccô, tiếng Hy Lạp là “Ièsou, eleison, Ièsou, eleison”
Chữ đầu đọc bằng cách hít hơi vào chữ sau bằng cách thở hơi ra, để nhịp nhàng theo cơ thể một lời cầu nguyện mà người ta muốn tinh thần của lời kinh thấm sâu vào toàn thể cuộc sống. Trong nhiều giờ liên tục, người ta có thể “thở” với Chúa trong ngực của mình. Kiểu cầu nguyện cao cả nhưng rất đơn giản này từ Phương Đông truyền cho chúng ta. Không cần phải đi Katmandou mới sống bằng thần khí được, vì thần khí muốn thổi đâu thì thổi. Kỹ thuật đáng thán phục của môn Yoga cũng có thể được những người đơn sơ nhất, sử dụng: vậy chúng ta hãy học cầu nguyện với hơi thở của mình.
“Hỡi con vua Đavít” ngày mai, ở Giêrusalem, đám đông dân chúng sẽ cầm cành lá vạn tuế trên tay để tung hô Đức Giêsu (Mc 11,10).
“Bí mật Thiên sai” không cần phải giữ nữa. Giờ đây cái chết của ông “Vua” thuộc dòng dõi Đavít đã gần kề. Mọi sự hiểu lầm về chính trị đã được gạt bỏ. Đấng Cứu Thế đã được chờ đón như là người “sẽ lập lại vương quyền tại Israel”. Vì Đức Giêsu lên Giêrusalem, mọi người đều nghĩ rằng, Chúa sẽ lên “nắm quyền”. Người là “Vua”, nhưng không phải theo kiểu những quốc gia trần thế (Mc 10,42; Mt 27,11; Ga 18,33-36) Vương miện của Người bằng gai nhọn. Con vua Đavít sinh ở Bê lem như tổ tiên, sẽ trị vì ở Giêrusalem như tiên tổ của Người. Nhưng không phải như đám đông mong đợi. Người sẽ đứng đầu bằng cách làm người sau chót, là nô lệ.
Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”
Thời nào cũng có những người bắt buộc kẻ đáng thương phải im miệng. Luôn luôn có những hạng người khó mà làm cho kẻ khác hiểu mình: đó là những di dân, những người sống ngoài lề xã hội, những kẻ khuyết tật và những nạn nhân đủ loại. Tiếng kêu của người mù Batimê vẫn còn vang lên.
Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!”
Rõ ràng, đó là một chi tiết. Nhưng chúng ta đừng vội lướt qua mà không tìm hiểu ý nghĩa của nó. Đức Giêsu sai các “môn đệ” bắt đầu phục vụ những kẻ nhỏ bé. Người nhờ các ông chuyển lời mời gọi của Người. Thiên Chúa cần con người. Vậy Chúa nói với nhân loại nhờ Giáo Hội của Người. Và Giáo Hội, chính là chúng ta, chúng ta có lắng nghe tiếng kêu luôn vọng lên chung quanh chúng ta không? Chúng ta có dội lại cho người anh em chúng ta tiếng kêu gọi của Chúa hay không? Để dẫn họ đến với Đấng cứu chuộc duy nhất? Người ta bàn cãi rất nhiều lần về “vai trò của Giáo hội”: thì chính là vai trò đó! Bạn hãy lắng nghe tiếng kêu của thế giới. Bạn hãy kêu gọi thế giới, nhân danh Chúa!
Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”
Ở đây có một từ kỹ thuật Hy Lạp đáng lưu ý. “Đứng dậy” (égeiré) mà đáng lẽ người ta phải dịch là “thức dậy” hay “sống lại” (Mc 2,9-11; 3,3; 5,41; 9,27; 10,49). Đó là sứ điệp của Giáo hội, nhân danh Chúa.
Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu
Trong ngôn ngữ Kinh thánh, chiếc “áo ngoài” là biểu tượng cho quyền lực của con người (2V 2,14, R 3,9). Đụng chạm tới áo ngoài của Đức Giêsu cũng đủ để lành bệnh. Việc người mù vứt bỏ áo ngoài của mình, tượng trưng cho một thứ ‘đoạn tuyệt với quá khứ’ của anh. Vào thời Maccô, người vừa được rửa tội, sẽ cởi áo ngoài của mình để mặc áo rửa tội.
Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”
Câu hỏi thật kỳ cục, nếu ta chỉ hiểu câu chuyện cách nông cạn. Chắc hẳn, Đức Giêsu biết rõ người mù đang mong đợi điều gì nơi Người. Nhưng cảnh này được coi như một lễ rửa tội từ đầu đến cuối: Người dự tòng cần phải được “soi sáng” để tự mình “tuyên xưng Đức tin”.
Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”
Vào thời Maccô, người ta gọi phép rửa là “việc khai sáng”. Đó là bí tích mở mắt.
Lạy Chúa, xin cho con được thấy: Lạy Chúa, xin mở mắt con ra.
Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi
Phép rửa đó là bước vượt qua từ bóng tối tiến tới ánh sáng. Đó là công cuộc cứu độ: điều không thể đối với con người, nếu chỉ dựa vào sức riêng của mình, nay đã trở nên có thể và đó là bắt đầu theo Đức Giêsu. Luca sẽ nói về các môn đệ làng Emmau: “Lúc bấy giờ mắt họ mở ra”. Vâng, họ đã mù, dù là với đôi mắt mở rộng.
Về phần anh Batimê, anh sẽ mãi mãi nhớ “khuôn mặt đầu tiên” mà anh đã thấy, khi mắt anh đã được mở ra. Lạy Chúa, khi nào mắt chúng con sẽ được mở ra. Lạy Đức Giêsu, xin hãy đến!
BATIMÊ, NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRICÔ ĐƯỢC CHỮA LÀNH
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1) Từ tình trạng bất động của người bị loại trừ
Đức Giêsu đang trên đường đi lên Giêrusalem, nơi sẽ diễn cuộc khổ nạn của Người, như Người đã báo trước tới ba lần. Lúc này Người đang đi ngang qua Giêricô. Bất cứ ai đi từ miền kia sông Gioan vào Israel đều phải đi qua thành này. Có các môn đệ và ‘đám đông dân chúng’ đi theo Đức Giêsu. Tinh thần môn đệ vẫn còn mù tối.
Đúng lúc ra khỏi thành, Người gặp anh mù. A. Paul nhận xét “Diễn tiến của phép lạ chữa lành người mù Giêricô giống với phép lạ chữa lành người mù ở Bétsaiđa (8,22-25). Phép lạ ở Bétsaiđa diễn ra liền trước lúc Phêrô tuyên xưng đức tin tại Xêsarê tiếp liền sau lời tuyên xưng này, là lời loan báo về cuộc khổ nạn (8,27-30). Cũng vậy, tiếp sau phép lạ ở Giêricô là lời ca ngợi Đấng Cứu Thế khi Đức Giêsu vào thành Giêrusalem, và sau đó là trình thuật về cuộc khổ nạn. Trong viễn tượng thần học này, phép lạ làm cho đôi mắt người mù mở ra có giá trị như một dấu chỉ.
Để làm nổi bật ý nghĩa phong phú của phép lạ, thánh sử tường thuật rất rõ ràng sự việc đã xảy ra:
Ông nêu tên người mù là “Batimê”, nhưng sợ rằng độc giả nói tiếng Hy lạp không hiểu tiếng Aramê, nên ông ghi chú thêm “con của Timê”. Ông diễn tả người này như một người tàn tật, mà tật khiếm thị đã buộc anh phải ăn xin, và vĩnh viễn không đi lại được, bị liệt vào loại người bị loại trừ, anh ngồi ở vệ đường, vệ đường có ý chỉ tình trạng bị loại trừ.
2) Đến cú đứng phắt dậy khi Đức Giêsu gọi.
Thật ngược đời: ở giữa đám đông những người sáng mắt rầm rộ đi theo Đức Giêsu, anh mù là người duy nhất tỏ ra nhìn rõ, anh có thể nhận ra Đấng đang đi qua là “Con vua Đavít”, Đấng Mêsia mọi người hằng trông đợi, và anh đã lớn tiếng hô lên.
Người ta nạt nộ bảo anh im đi – vì họ nghĩ rằng để cho anh mù quấy rầy Đức Giêsu trên đường là điều không nên – nhưng anh càng kêu lớn hơn: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” cho đến khi Đức Giêsu dừng lại và bảo người ta: “Gọi anh ta lại đây”, thì người ta mới để ý đến người tàn tật khốn khổ đang la lối này. Sứ điệp được chuyền đi ngay lập tức: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy” Đức Giêsu giúp anh lột bỏ được tình trạng bất động của người chết.
Tiếng gọi của Chúa có kết quả liền: người mù liền vất bỏ áo choàng lại (áo choàng mà anh dùng để đựng đồ xin được) đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. J.Hervieux giải thích. “Những chi tiết này thật là lạ lùng. Mọi sự xảy đến dường như Batimê không còn mù nữa. Khi vật bỏ áo choàng, anh cũng vất bỏ luôn tình trạng bị loại trừ. Cái áo choàng là vật duy nhất mà người nghèo sở hữu. Vất bỏ nó, Batimê đã thực hiện điều mà Đức Giêsu đã không làm được với chàng thanh niên giàu có; anh đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Đi theo cách nào? Anh nhảy lên, đứng phắt dậy. Cú nhảy trong đêm tối là cú nhảy đức tin vì một anh vẫn còn mù. (“L’evangile de Marc”, Centurion, trang 156).
“Rabbôni, thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được!”. Anh mù đáp lại câu hỏi của Chúa, cũng là câu mà Chúa đã hỏi hai người con ông Giêbêđê: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Đàng sau khát vọng được nhìn thấy, Đức Giêsu đã nhận ra nơi anh đức tin khát vọng được biết nhiều hơn về Đấng Mêsia, được nhìn thấy thực tại tối hậu ẩn sau dáng vẻ bên ngoài. Người ăn xin tàn tật không những được chữa lành, mà còn được cứu nhờ đức tin. “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh”. Từ nay, anh nhìn thấy, không chỉ bằng con mắt xác thịt, mà còn bằng ánh mắt đức tin. Đó là tấm gương cho các môn đệ, đó là tấm gương cho người đã được thánh tẩy, được soi sáng nhờ gặp gỡ Đức Giêsu Kitô. Anh đi theo Người trên con đường Người đi. Con đường lên Giêrusalem. Con đường dẫn đến thập giá.
BÀI ĐỌC THÊM.
1) Chúng ta thuộc loại “trung gian” nào đây?
Đây là người mù Batimê đang kêu cầu Đức Giêsu. Anh nói lên khát vọng được chữa lành, nhưng cũng biểu lộ đức tin của anh “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”. Khi người ta nạt nộ bảo anh phải im đi, thì anh lại càng la to hơn. Bấy giờ Chúa dừng lại và gọi anh. Những người “trung gian” vừa lúc trước mới nạt nộ anh, giờ đây đổi giọng: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”. Chỉ cần chúng ta có can đảm la lên, mặc dầu mọi người bảo ta phải im đi, Đức Giêsu sẽ không giả điếc làm ngơ đâu. Còn chúng ta, chúng ta thuộc loại “trung gian” nào đây? Chúng ta thường không nghe ai, lại còn bắt người ta im đi nữa. Còn Đức Giêsu, Người nghe, Người luôn để tai nghe. Người nghe tiếng kêu của những người van xin Người dủ lòng thương xót, van xin Người cho họ được nhìn thấy, được đứng dậy. Nếu ta nhận biết Chúa quan tâm đến tiếng kêu xin của con người, chắc ta sẽ trở thành những “trung gian” tốt, để nói với họ: “Hãy an tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy”.
2) Sáng mắt hay mù?
“Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Cùng một câu hỏi mà Đức Giêsu đã hỏi Giacôbê và Gioan. Câu hỏi là một, nhưng câu trả lời thì người mù chỉ xin ánh sáng. Các môn đệ muốn áp đặt tham vọng của mình, còn người ăn xin thì chỉ xin được nhìn thấy. Vậy ở đây có hai người mù và một kẻ sáng mắt.
Với Batimê, Đức Giêsu không nói gì về tật nguyền của anh, không nói đến con mắt mù loà, cũng không nói rằng sẽ chữa lành. Người chỉ nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh”. Nhờ sự tín nhiệm và đức tin, người bị gạt ra bên lề xã hội đã được nâng lên hàng môn đệ. Một đức tin cứu độ đến nỗi người này bắt đầu nhìn thấy và đi theo Đúc Giêsu, không chỉ theo trong tinh thần, mà còn bước đi trên đường. Một cuộc tuyển mộ tuyệt hảo.
Đức Giêsu thường được vây quanh bởi những môn đệ mù. Còn lề đường thì lại đầy những người mù sáng mắt. Nhóm trước bị khép kín trong những bảo đảm vĩnh viễn, bị ràng buộc bởi những tham vọng và vướng mắc nhỏ nhen. Nhóm sau thì có lòng khiêm nhường và tin tưởng, có đức khôn ngoan để biết nghe và còn học hỏi, sẵn sàng đón nhận những bất ngờ của Thánh Linh, những từ bỏ có sức giải thoát.
Để được chữa lành tật mù loà, cần phải tuyên xưng đức tin, “vất bỏ áo choàng”và đi theo Chúa Kitô mọi nơi Người dẫn đi, và không buộc Chúa phải theo lộ trình do những tham vọng trần tục của ta vẽ ra. Đường lối của Chúa không giống đường lối của ta.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
PHÉP LẠ BÊN VỆ ĐƯỜNG (Mc 10,46-52)
Với Chúa Giêsu, điểm cuối cùng là chặng đường không còn bao xa nữa. Giêricô chỉ cách Giêrusalem 15 dặm, chúng ta phải cố gắng hình dung lại quang cảnh này. Con đường chính chạy xuyên qua Giêricô. Chúa Giêsu đang trên đường đi dự lễ Vượt Qua. Khi có một Rabbi được trọng vọng thực hiện một hành trình như vậy, thường thường vị ấy vừa đi, vừa thuyết giảng cho một đám đông người vây quanh, gồm dân chúng, các môn đệ và những người muốn học hỏi đi theo để nghe. Đây là một trong nhiều cách dạy dỗ thông thường nhất. Theo luật, tất cả những người Do Thái thuộc phái nam trên 12 tuổi, ở cách Giêrusalem trong vòng 15 dặm, đều phải lên Giêrusalem để dự lễ Vượt Qua. Dĩ nhiên điều luật này khó có thể tuân hành trọn vẹn và tất cả mọi người đều đổ về Giêrusalem. Số người không thể đi được thường có thói quen đứng dọc dài theo hai bên đường của các thị trấn hay làng mạc để chúc bình an cho khách hành hương đi qua đó. Vậy, bấy giờ chắc phải có nhiều người đứng dọc theo các đường phố Giêricô, có lẽ đông hơn thường lệ nữa, họ rất nôn nóng, hiếu kỳ, muốn xem mặt chàng thanh niên vùng Galilê đã có can đảm đứng lên chống lại sức mạnh tổng hợp của chính thống giáo. Giêricô có một đặc thù. Có trên 20.000 thầy tư tế và một con số đông tương đương người Lêvi trực thuộc Đền Thờ. Họ không thể cùng phục vụ một lúc trong Đền Thờ. Do đó, họ được chia làm 26 phiên ban thay nhau phục vụ. Nhiều thầy tư tế và người Lêvi trong số này thường trú tại Giêricô khi chưa đến phiên phục vụ trong Đền Thờ. Hôm ấy, trong đám đông tại Giêricô hẳn cũng có nhiều người trong số họ. Vào dịp lễ Vượt Qua tất cả những người này đều có mặt phục vụ tại Đền Thờ. Đây là một cơ hội hiếm hoi mà mọi người đều có công tác. Nhưng nhiều người vẫn chưa vội khởi hành. Họ còn nóng lòng gấp đôi dân chúng, mong được trông thấy tận mắt kẻ phản loạn sắp xâm chiếm Giêrusalem. Cho nên hôm ấy, có lẽ trong đám đông đang có nhiề con mắt lãnh đạm, thù địch chăm chú nhìn vào Chúa Giêsu, vì rõ ràng nếu Chúa Giêsu đúng, toàn thể việc thờ phượng trong Đền Thờ trở thành lỗi thời.
Ở cửa phía Bắc thành phố có một người ăn mày mù tên là Batimê. Anh ta nghe nhiều tiếng chân người đi, nên dò hỏi xem có chuyện gì xảy ra, và ai sắp đi ngang qua. Người ta bảo đó là Chúa Giêsu. Lập tức anh ta đứng dậy kêu to lên để khiến Chúa Giêsu phải chú ý đến mình. Với số đông người đang đi theo Chúa Giêsu để lắng nghe những giáo huấn của Ngài, thì tiếng hét to đó là một xúc phạm. Họ cố làm cho Batimê phải im tiếng, nhưng đã không ai lấy được của anh ta cái cơ may duy nhất có thể thoát khỏi thế giới tối tăm, nên anh ta cứ hét thật to đến nỗi đoàn người đông đảo đó phải dừng lại và người ta dẫn anh ta đến với Chúa Giêsu. Đây là câu chuyện có rất nhiều điểm soi sáng, qua đó, chúng ta sẽ thấy được nhiều điều có thể gọi là những điều kiện để một phép lạ có thể xảy ra.
1/ Có sự kiên trì triệt để của Batimê.
Không có gì ngăn cản được tiếng kêu gào của anh ta mong được đối diện với Chúa Giêsu. Anh quyết tâm phải gặp cho bằng được con người mà từ lâu anh trông mong được gặp mặt với tình trạng tật nguyền của mình. Trong trí Batimê ước muốn nhìn thấy Chúa Giêsu không phải là một sự mơ hồ, hoặc do cảm xúc. Đây là một ước muốn thiết tha và chính ước vọng tha thiết đó đã khiến cho mọi sự được thành.
2/ Anh ta đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu ngay tức khắc, hết sức sốt sắng, sốt sắng đến nỗi anh ta đã vứt đi chiếc áo ngoài để chạy đến với Chúa Giêsu cho nhanh hơn.
Nhiều người khi được nghe tiếng gọi đã thực sự tự nhủ “Hãy chờ một chút để tôi làm việc này cho xong đã”. Nhưng khi Batimê nghe tiếng gọi, anh lập tức chạy đến với Chúa ngay. Có nhiều cơ may chỉ xảy đến một lần mà thôi. Do bản năng, Batimê biết rõ điều đó. Lắm khi chúng ta cũng muốn vứt bỏ một thói quen, muốn thanh tẩy đời sống khỏi một vài điều sai quấy, muốn hiến thân cho Chúa Giêsu trọn vẹn hơn, nhưng thường thường chúng ta cũng không chịu hành động ngay, rồi dịp may qua đi và chẳng bao giờ trở lại.
3/ Anh biết đúng nhu cầu của mình đang cần được sáng mắt.
Lắm khi chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu chỉ là sự thu hút mơ hồ. Khi đi bác sĩ, chúng ta muốn bác sĩ giúp điều trị một tình trạng nhất định nào đó. Khi đến nha sĩ chúng ta muốn ông ta nhổ cái răng đang đau chứ không chữa bất kỳ cái răng nào. Giữa chúng ta với Chúa Giêsu cũng vậy. Điều này liên hệ đến một điều mà rất ít người muốn đối diện: tự xét mình. Khi đến với Chúa Giêsu, nếu chúng ta tha thiết mong ước được một điều rõ ràng, dứt khoát như Batimê, sẽ có chuyện lại xảy ra.
4/ Batimê có một quan niệm hết sức thiếu sót về Chúa Giêsu.
Anh ta cứ nằng nặc gọi Ngài là con vua Đavít. Thật vậy, đó là danh hiệu của Đấng Mêsia, nhưng cả tư tưởng đó nói lên một Đấng Mêsia chinh phục thế gian, một vua thuộc dòng dõi Đavít sẽ đưa dân Israel đến chỗ vĩ đại của dân tộc. Đó quả là một ý niệm hết sức khiếm khuyết về Chúa Giêsu. Dầu vậy, Batimê vốn có đức tin ấy đã hàn gắn cho khuyết điểm về thần học của anh. Điều đòi hỏi không phải là chúng ta phải hiểu biết đầy đủ về Chúa Giêsu. Dầu thế nào chúng ta sẽ chẳng bao giờ hội đủ điều kiện đó. Điều đòi hỏi chúng ta là đức tin. Một tác giả khôn ngoan đã viết “Chúng ta phải đòi hỏi người ta suy nghĩ, nhưng không nên trông đợi họ trở thành những nhà thần học trước khi trở thành Kitô hữu”. Kitô giáo bắt đầu qua một phản ứng đối với Chúa Giêsu, phản ứng do tình yêu cảm biết đây là người thỏa mãn nhu cầu của mình. Ngay cả khi chúng ta không thể suy nghĩ nổi mọi sự theo thần học thì chính sự đáp ứng từ tấm lòng được xem là đủ.
5/ Cuối cùng có một mối quan hệ quý báu.
Batimê chỉ là một người ăn mày mù ngồi bên vệ đường, nhưng anh là người biết tri ân. Sau khi được chữa lành, anh ta đã đi theo Chúa Giêsu. Anh không ích kỷ đi theo đường riêng sau khi nhu cầu của mình được đáp ứng. Anh ta bắt đầu với nhu cầu, tiếp tục bằng lòng biết ơn và kết thúc bằng sự trung thành, và đây là phần tóm tắt rất đầy đủ về các giai đoạn trong việc làm môn đệ của Chúa.
Con mắt là cửa sổ tâm hồn. Nhìn vào mắt người đối diện, người ta có thể “thấy” được những thứ trong tâm hồn người đó. Ánh mắt cũng có một “dòng điện” đặc trưng, người nào “yếu” sẽ chuyển ánh mắt nhìn sang hướng khác, nghĩa là “yếu vía” hơn người kia. Vì thế mà cũng là ánh mắt nhưng có nhiều cách nhìn khác nhau: Nhìn thẳng, nhìn xiên, nhìn ngang, nhìn dọc, nhìn lấm lét, nhìn trộm, nhìn kín đáo, nhìn lộ liễu, nhìn thán phục, nhìn khinh bỉ, nhìn chân thật, nhìn đểu cáng,…
Cũng với một vấn đề, một sự vật hoặc một con người, nhưng mỗi người đều có cách nhìn khác nhau. Cố NS Trịnh Công Sơn có cách nhìn thế này: “Còn hai con mắt, khóc người một con. Còn hai con mắt, một con khóc người” (Con Mắt Còn Lại), và ông còn diễn tả con mắt bằng nhiều kiểu: “Những con mắt tình nhân, Nuôi ta biết nồng nàn, Những con mắt thù hận, Cho ta đời lạnh căm. Những mắt biếc cỏ non, Xanh cây trái địa đàng, Những con mắt bạc tình, Cháy tan ngày thần tiên. Những con mắt trần gian, Xin nguôi vết nhục nhằn, Những con mắt muộn phiền, Xin cấy lại niềm tin, Những con mắt quầng thâm, Xin tươi sáng một lần…” (Những Con Mắt Trần Gian).
Với người Đông phương cổ đại còn có “con mắt thứ ba”, gọi là “thiên nhãn” (*). Với người có niềm tin tôn giáo nói chung, và với người Công giáo nói riêng, còn có “con mắt đức tin” – một loại “thiên nhãn”. Quả thật, chỉ với con mắt mà cũng có thiên hình vạn trạng!
Con mắt nhìn khiến lòng tham trỗi dậy. Lòng tham có thể ẩn núp tinh vi: Cho không lấy, thấy không xin, kín thì rình, hở thì rinh. Chưa có “cơ hội” chưa biết ai thật thà hay tham lam. Có những tài xế taxi phát hiện khách bỏ quên trên xe vài chục triệu mà vẫn trả lại khổ chủ, đó mới là người trong sạch – sạch từ ánh mắt. Sách Huấn Ca xác định: “Bạc tiền khiến cho bao người sa ngã, thế nào cũng đưa họ đến hư vong. Nó là cái bẫy cho ai say mê nó, hết mọi kẻ ngu si sẽ sa vào” (Hc 31:6-7). Ai cũng cần tiền, nhưng tiền không là tất cả, cần mức nào và có “nặng lòng” với nó hay không lại là chuyện khác. Tiền chỉ là phương tiện, không là mục đích. Tiền là đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu (Tục ngữ Pháp – L’argent est un servant bon mais un maitre mal).
Sách Huấn Ca nói: “Phúc thay ai giàu có mà vô tội, không chạy theo của cải, tiền tài” (Hc 31:6). Đó mới là vấn đề. Đừng tưởng nghèo thì được chúc phúc. Nghèo mà không sạch thì cũng vô ích: Lòng bẩn! Nghèo mà vẫn tham thì không thể vô tội, và tất nhiên không thể biện hộ. Quả thật, không dễ chút nào! Đừng nói hay, có dịp tham mà không tham đó mới là trong sạch. Người đó (giàu hay nghèo) được khen là có phúc, vì trong dân, người đó khiến cho bao người phải tâm phục khẩu phục qua cách sống.
Người có tâm hồn trong sạch như vậy hẳn là người sống trong ơn nghĩa của Thiên Chúa, dù trong nghèo khổ hoặc cơ cực thì họ vẫn một lòng tín trung với Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh, họ vẫn vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” [Tv 125 (126):2]. Quả thật, việc Chúa làm thật vĩ đại và vô song. Chính người đó thấy mình chan chứa một niềm vui, vui vì sống thanh thản trong Ơn Thánh Chúa.
Đời là bể khổ. Không ai lại không khổ. Khổ nhiều cách. Khổ nhiều mức. Sinh ra là bắt đầu khổ. Đôi khi có người còn khổ chồng chất, khổ tới chết vẫn không được một ngày sung sướng. Nhưng vấn đề là ở lòng kiên trung trong niềm tin vào Thiên Chúa ngay trong những nỗi cơ cực nhất, chắc chắn Chúa sẽ thương: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” [Tv 125 (126):5]. Muốn tín trung thì phải dùng đến con mắt đức tin. Vững đức tin trong khốn khổ cùng cực có lẽ chưa ai bằng Thánh Gióp.
Thầy dạy đức tin là Đại sư phụ Giêsu. Chúng ta có đức tin là nhờ Ngài. Vì thế, chúng ta sống đức tin là minh chứng cho Thiên Chúa, không được giữ đức tin đó cho riêng mình mà phải truyền đức tin sang cho người khác. Đó là một nhiệm vụ chung, nhất là trong Năm Đức Tin này với chủ đề Tân Phúc Âm hóa. Truyền đức tin sang người khác cũng là một cách truyền giáo mới trong thế giới ngày nay, vì người ta càng ngày càng không muốn sống đức tin nữa!
Những người được tuyển trạch để lãnh nhận chức tư tế thừa tác càng có trách nhiệm nặng nề hơn trong việc loan truyền đức tin. Thánh Phaolô nói: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội” (Dt 5:1). Đúng vậy, trước khi làm tư tế thì vẫn phải làm con người, với mọi thứ của một con người bình thường. Người đó phải “có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy” (Dt 5:2-3). Và vì thế, “không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi” (Dt 5:4). Thế nhưng trong thực tế lại khác, đúng như người Việt thường nói: “Cờ đến tay ai người đó phất”. Câu nói giản dị và nhẹ nhàng nhưng vô cùng thâm thúy! Thế nên, có khi người ta sống ngược với lời Đức Kitô: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28).
Thánh Phaolô chỉ ra rõ ràng: “Không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5:5-6). Đức Kitô còn chưa tự xưng mình là “ông kia, ông nọ” thì huống gì chúng ta, nhưng phàm nhân đầy tội lỗi, bất trác và bất túc.
Một hôm, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Ngài cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê. Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10:47). Thấy vậy, nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10:48).
Chúng ta thấy có hai thái cực rạch ròi: Những người quát nạt Batimê là những người ngăn cản người khác đến với Chúa Giêsu, còn anh mù Batimê đại diện cho những người có niềm tin kiên vững. Có nhiều khi chúng ta cũng đã từng ngăn cản người khác đến với Chúa bằng nhiều cách, dù không nói trực tiếp. Chẳng hạn chúng ta mỉa mai hoặc chê bai khiến người ta ngại đến với Chúa. Chúng ta phải học tập anh Batimê trong việc tín thác vào Chúa, như ca dao Việt Nam nói: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, Lòng tôi vẫn vững như kiềng ba chân”. Và “chiếc kiềng” đó là: Thỉnh cầu, Tín thác, Thực hành. Có thể gọi tắt là 3T cho dễ nhớ.
Nghe Batimê gào to, Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” (Mc 10:49a). Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy!” (Mc 10:49b). Nghe nói vậy, anh quá phấn khởi nên liền vất áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Ngài hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10:51a). Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (Mc 10:51b). Ngài nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” (Mc 10:52).
Sự việc diễn ra nhanh chóng, ngắn gọn. Điều đáng lưu ý là Chúa Giêsu luôn nhấn mạnh đến LÒNG TIN, nghĩa là “đức tin quan trọng hơn phép lạ”, nhưng người ta lại thường “khoái” phép lạ hơn tầm nhìn của đức tin. Nếu vậy, đó là chứng “mù đức tin”. Chứng mù tâm linh nguy hiểm hơn chứng mù thể lý. Do không hiểu rõ, không biết nhiều hay không chịu hiểu? Đó là điều cần tự xét mình về cách tin và mức độ tin vào Chúa Giêsu: “Quý vị tin thế nào thì được như vậy” (Mt 9:29).
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin ban cho chúng con đức tin vững vàng trong mọi hoàn cảnh, xin mở con mắt đức tin để chúng con nhận biết Thánh Ý Ngài và biết chân thành chia sẻ nỗi đau của tha nhân. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
__________________________________
(*) Hình ảnh con mắt thứ ba được thể hiện trên trán của các vị thần trong các tác phẩm điêu khắc cổ đại ở các đền chùa Phật giáo. Người ta tin rằng, con mắt nhìn thấu mọi điều đã được Thượng đế ban tặng cho các vị thần để họ có những năng lực siêu phàm nhìn thấu những vật vô hình. Theo đạo Cao đài, người tu hành khi đạt được “đạo pháp” sẽ có thêm con mắt thứ ba – gọi là “huệ nhãn”, có thể nhìn thấu cõi vô hình. Trong Yoga, việc luyện tập Marantha để có được một vài năng lực tâm linh thần bí như khai sáng được “con mắt thứ ba” mà người khác không có.
Người Ấn Độ thường chấm một điểm trên trán giữa hai con mắt để diễn tả con mắt thứ ba, đó là “thần nhãn”, có thể thấy những gì mà người trần mắt thịt vẫn nhìn mà không thể thấy được. Nhiều giả thuyết khác cho rằng, ngày xưa Adam và Eva đã phạm “thiên luật” nên tuyến yên (pituitary) và tuyến hạch (pineal, hình trái thông) nằm ở khoảng giữa hai con mắt đã dần bị hạn chế khả năng nhìn nhận ánh sáng.
Theo một số nghiên cứu khoa học, thông thường mỗi sinh vật đều có một “con mắt thứ ba” nằm ở trung tâm não, gọi là “tuyến tùng”. Nó cảm nhận giống như một con mắt vì tuyến tùng phản ứng lại với những thay đổi của ánh sáng. Mới đây người ta khám phá thấy mắt thường cũng có thể sản xuất được chất melatonin, làm cho tuyến tùng càng ít quan trọng hơn.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Trong âm nhạc có những giai điệu đẹp khiến lòng người mê say. Điệu thức là hệ thống âm thanh kết hợp với nhau theo một quy luật nhất định, trong đó có âm thanh ổn định và không ổn định, âm thanh ổn định nhất gọi là chủ âm. Có hai loại điệu thức: điệu thức trưởng và điệu thức thứ, với “màu sắc” khác nhau. Chỉ bảy nốt, nhưng liên kết khéo léo sẽ có giai điệu đẹp, điều này tùy vào tài năng âm nhạc của nhạc sĩ.
Như đã nói, có những giai điệu đẹp, nghe hoài không chán; ngược lại, có những giai điệu không muốn nghe lại lần thứ hai. Giai điệu có thể đẹp hơn nếu được hòa âm khéo léo, tính tế.
Tuy nhiên, giai điệu đẹp nhất và tuyệt vời nhất chắc chắn chỉ có giai điệu yêu thương, giai điệu của lòng thương xót. Giai điệu đó sẽ đẹp hơn khi nó trở nên hòa điệu, và nó còn là Mối Phúc thứ năm trong Bát Phúc: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7).
Ngôn sứ Giêrêmia loan báo: “Đức Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân! Nào loan tin, ca ngợi và công bố: Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn sót lại của Israel! Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo” (Gr 31:7-8). Hành động của Thiên Chúa vô cùng kỳ diệu, hành động phát xuất từ lòng thương xót vô biên của Ngài. Điều này không là chế độ “xin – cho”, mà là hành động của sự động lòng trắc ẩn, cũng không phải là lòng thương hại mà là tình thương xót vô điều kiện mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Đầu óc “bã đậu” của chúng ta không thể nào suy thấu!
Ai có đi tù rồi mới biết thế nào là hạnh phúc khi được ra tù, được trả tự do. Niềm vui đó khó tả vì nó quá lớn lao. Dân Israel cũng không thoát khỏi cảm giác kỳ lạ đó, họ sung sướng đến nỗi phải bật khóc. Ngôn sứ Giêrêmia nói trước: “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Ít-ra-en, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ép-ra-im chính là con trưởng” (Gr 31:9). Và tất nhiên, điều tiên báo đó đã được ứng nghiệm chính xác.
Tác giả Thánh Vịnh cũng mô tả cảnh tượng kỳ diệu đó: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:1-2). Chắc chắn không ai có thể trì hoãn cái sự sung sướng đó được, thế nên chính họ đã hân hoan thốt lên: “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 126:3).
Tác giả Thánh Vịnh cầu xin: “Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam. Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:4-6). Giống như “luật nhân quả” vậy, ai cười rồi sẽ khóc, ai sướng trước sẽ khổ sau. Ngược lại, ai khóc trước sẽ cười sau, ai vất vả rồi sẽ được hưởng kết quả. Một trong Bát Phúc cũng đề cập vấn đề này: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5). Vâng, Thiên Chúa là Đấng chí thánh, chí minh và chí công!
Còn chúng ta là phàm nhân đầy tội lỗi vì quá yếu đuối, hứa rồi quên, hối rồi phạm, đứng rồi lại ngã. Cứ thế, cứ thế,… Chu kỳ của chúng ta là những chuỗi sám hối và đền tội. Tuy nhiên, vì bất xứng nên Thiên Chúa tuyển chọn một số người thay chúng ta dâng của lễ đền tội. Người đó được chọn không phải vì xứng đáng, mà vì Thiên Chúa muốn hành động theo kế hoạch thương xót của Ngài. Thánh Phaolô nói chi tiết: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy” (Dt 5:1-5).
Thánh Phaolô giải thích rõ ràng: “Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi. Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5:4-6). Được CHỌN thì cũng được TRAO trọng trách, vì không phải được chọn để ung dung tự tại, tìm sự an nhàn cá nhân mà “vô tư” bỏ quên những người khác, nhưng phải quên mình, dấn thân, hy sinh vì những người khác. Đó là hệ lụy tất yếu vậy!
Với tinh thần đó, trong buổi tiếp kiến chung ngày thứ Tư theo thông lệ vào ngày 15-5-2013, ĐGH Phanxicô đã nhắc nhở các giáo sĩ mục phải cẩn thận tránh xa cám dỗ để có thể trở nên mục tử hữu hiệu, và phải bảo vệ đàn chiên khỏi nguy hiểm. Sử dụng từ ngữ rất “mạnh”, ví von thực tế, thậm chí có thể gây “sốc” với một số người, ĐGH Phanxicô nói: “Nếu chúng ta đi với người giàu, là chúng ta đang đi về phía hư vô, chúng ta sẽ trở thành chó sói, chứ không phải người chăn chiên. Ngài cũng thúc giục tín hữu Công giáo cầu nguyện cho giám mục và linh mục”.
Phải vậy thôi, bởi vì ngày xưa chính Chúa Giêsu đã thẳng thắn cảnh báo mà không sợ “đụng chạm” bất cứ ai: “Hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai. Ở bụi gai làm gì có nho mà hái? Trên cây găng làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu” (Mt 7:15-17; Lc 6:43-45). Ngài cảnh báo để thức tỉnh những người “tai to, mặt lớn” (đại diện mà!), và đặc biệt là để thương xót những “con chiên”, không muốn chúng bị sập bẫy của lũ sói hoặc cáo!
Trình thuật Mc 10:46-52 (Mt 20:29-34; Lc 18:35-43) nói về anh mù Ba-ti-mê ở Giê-ri-khô, liên quan hệ lụy thương xót với Đức Kitô.
Hôm đó, Chúa Giêsu và các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Khi Thầy với trò và một đám người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-khô, có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê. Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”. Có thể vì anh ta quá khổ sở vì mù lào, cuộc đời chỉ là đêm đen dày đặc, nên anh ta muốn thoát khỏi cảnh khổ đó, nhưng không phải anh ta “cầu may” theo kiểu “có bệnh thì vái tứ phương”, mà chắc chắn anh ta thực sự có lòng tin thật lớn đối với Chúa Giêsu. Anh ta chỉ nghe người khác nói về Ngài chứ anh ta có biết gì đâu. Vậy mà anh đã tin, tin thật, không chút hồ nghi.
Thấy anh ta la lối om sòm, kêu gào nhức tai quá, nhiều người đã quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng với điệp khúc van xin: “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”. Những người quát nạt anh ta chỉ là những người chảnh, xấu bụng, không hề biết chạnh lòng thương trước cảnh khổ của người khác. Họ đã không thương anh ta thì thôi, lại còn đâm bị thóc, chọc bị gạo. Quá chảnh!
Nhưng mặc kệ, anh ta vẫn tin tưởng và van nài. Anh ta mù mắt mà sáng hồn, kiên trì cầu nguyện. Còn chúng ta, tuy mắt sáng (và còn đẹp nữa), thế mà lại mù hồn. Đã vậy thì chớ, đôi khi chúng ta cầu nguyện mà như “ra lệnh” cho Chúa vậy. Thật thế, cầu xin mãi không được thì nản lòng, bỏ cuộc, chứng tỏ đức tin chúng ta quá mong manh. Cầu nguyện kiểu như vậy chỉ là ích kỷ!
Nghe tiếng cầu xin chân thành, Chúa Giêsu đứng lại và bảo gọi anh ta lại. Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”. Chỉ chờ có thế thôi, anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Ngài hỏi anh muốn Ngài làm gì cho anh. Anh ta nói ngay: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Ngài nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”. Thế là ngay lập tức, anh ta nhìn thấy được và đi theo Ngài trên con đường Ngài đi. Anh ta XIN và ĐƯỢC, Chúa Giêsu LẮNG NGHE và ĐÁP LẠI. Chúa Giêsu và anh mù Ba-ti-mê đã cùng hòa điệu thương xót. Thật tuyệt vời biết bao!
Mỗi người trong chúng ta đều là một nốt trong bản tổng phổ thương xót. Một nốt nhỏ đó không là gì, nhưng thiếu nốt đó thì không thể hòa điệu trọn vẹn. Tương tự, mỗi nhạc công trong một dàn nhạc cũng chẳng là gì nếu tách riêng, nhưng họ vẫn thực sự quan trọng khi hoàn tất nhiệm vụ của mình trong dàn nhạc. Cuộc sống thật kỳ lạ, có những điều bé nhỏ, xem chừng quá đỗi bình thường, nhưng chính những điều bé nhỏ đó lại chứng tỏ một tình yêu thương lớn lao.
Lạy Thiên Chúa, xin mở mắt đức tin cho con để con nhìn thấy Ngài trong tha nhân, nhất là những con người hèn mọn và đau khổ. Xin giúp con biết thể hiện lòng thương xót để con làm trọn bổn phận của một nốt nhỏ trong bài Trường Ca Yêu Thương của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Anh mù này bạo gan thật! Anh quên rằng anh chỉ là một tên ăn xin, ngồi bên vệ đường, mong chờ lòng thương xót của khách qua đường. Khi nghe biết ông Giêsu Nadareth đi ngang qua, anh lớn tiếng kêu cầu: “Lạy ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”.
Nhiều người quát nạt anh bảo anh im đi. Trong xã hội Do Thái thời bấy giờ, những người ăn xin, đui mù tàn tật đều bị liệt vào số những người bên lề, và bị khinh miệt. Anh lớn tiếng như thế có thể bị người ta la mắng và có khi bị đánh đập. Trong số những người bảo anh im đi có lẽ cũng có một vài môn đệ của Chúa, không muốn cho Thầy bị quấy rầy.
Thế nhưng, người ta càng bảo anh im thì anh lại càng la to hơn.
Lạ lùng thay, Chúa Giêsu dừng lại và bảo: “Gọi anh mù lại đây”.
Mọi người lúc này chú ý đến anh và bảo: “Cứ yên tâm! Đứng dậy, Người gọi anh đấy”. Anh đứng dậy, vất áo choàng và đến với Chúa Giêsu. Đối với một số người, cử chỉ vất bỏ áo choàng mang một ý nghĩa khác, là từ bỏ dĩ vãng của anh, nhưng chúng tôi thấy ý nghĩa ấy có vẻ gượng ép. Đây chỉ là dấu hiệu của niềm vui đang rộn lên trong anh. Trong giây phút ấy, không có gì còn ý nghĩa đối với anh. Chỉ cần một tiếng gọi. Có lẽ có một vài người hướng dẫn anh đến với Chúa. Anh mù bị khinh miệt kia trở thành nhân vật chính được chú ý.
Chúa Giêsu hỏi anh: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Chúng ta nhớ lại, câu hỏi này cũng đã được nói với hai môn đệ con ông Dêbêđê “xin Thầy cho chúng con điều chúng con xin Thầy”.
Hai môn đệ kia xin điều họ ước mong, và đó chỉ là một mơ mộng hão huyền. Anh mù này thực tế hơn, anh chỉ xin một điều cần thiết mà thôi: “Xin cho tôi nhìn thấy được”.
Lời xin của anh xem ra vô lý. Tại sao anh dám xin một điều phi lý như thế? Anh xem Ngài là ai mà dám xin được sáng mắt. Làm cho một người mù sáng mắt đâu phải là việc mà một người phàm có thể làm được, dù người ấy có là một thầy thuốc giỏi đi nữa.
Anh này là một người mù, chỉ nghe nói đến ông Giêsu Nadareth và đã nghe biết những phép lạ Ngài làm đó đây, nhưng làm sao anh dám chắc rằng ông Giêsu này có thể cho anh sáng mắt? Hay đây chỉ là cầu may?
Không, đây chính là niềm tin mộc mạc nhưng rất thành thật và vững chắc. Hơn nữa, anh đã gọi Chúa Giêsu bằng tước hiệu Con Vua Đavít. Tại sao?
Đối với người Do Thái thời bấy giờ, đang sống trong sự chờ đợi Đấng Cứu Thế, và Kinh Thánh đã cho họ biết rằng, Đấng ấy sẽ là dòng tộc vua Đavít. Tước hiệu này chính là tước hiệu của Đấng Cứu Thế. (xem 2Sm 7; Tv 110…) Theo những gì anh nghe kể về ông Giêsu này, anh tin chắc rằng, Ngài là Đấng Cứu Thế mà toàn dân đang mong đợi.
Hơn nữa, anh đã từng đến Hội đường và đã nghe đọc Kinh Thánh. Anh vẫn nhớ rằng “khi thời Thiên Sai đến, người mù sẽ được sáng mắt, người điếc được nghe, người què sẽ nhảy như nai…” Vì thế anh tin chắc rằng ông Giêsu này sẽ cho anh sáng mắt vì Ông ấy chính là Đấng Kitô, và anh đã được phần thưởng của niềm tin: “Lòng tin của anh đã cứu lấy anh”.
Chúng ta đã được nghe Chúa nói như thế với người đàn bà Xyrô-Phênixi, có đứa con gái bị quỷ ám, với viên sĩ quan Rôma có người đầy tớ đau nặng, với người đàn bà bị bệnh loạn huyết, những người đã tin Chúa vô điều kiện. Tất cả tập trung vào một điểm duy nhất: Niềm tin. Tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ. Ngài đến cứu chữa chúng ta khỏi tật nguyền phần xác và những tật bệnh tâm hồn. Ai tin tuyệt đối vào Ngài sẽ không thất vọng.
Lời cầu xin của anh mù cũng đáng cho chúng ta chú ý. Anh đã cầu xin “hết mình”, bất chấp sự ngăn cản của những người chung quanh. Càng bị cản trở, anh càng la to hơn. Anh đã van xin với tất cả sức lực và tâm hồn. Một lời van xin như thế, làm sao Chúa có thể làm ngơ được! Một niềm tin mãnh liệt như thế làm sao không mang kết quả!
Trước mặt Chúa, chúng ta chỉ là những người ăn xin bên vệ đường của cuộc sống. Chúng ta đang chờ ánh sáng đến từ Đấng là Ánh Sáng thế gian.
Nhưng chúng ta có cảm thấy cần ánh sáng của Ngài không?
Chúng ta đã tin Chúa, chúng ta tưởng mình đã thấy rõ. Mấy người Pharisêu tự cho mình là sáng mắt, kỳ thực họ đui mù đến nỗi họ không nhìn ra Đấng họ đang trông đợi. Họ mù lòa vì kiêu căng, vì tự mãn. Họ tưởng rằng họ đã nắm được sự thật, nhưng họ chỉ nắm trong bàn tay một sự từ chối khiến họ giết Đấng Cứu Thế.
Không có Chúa Giêsu, tất cả chỉ là tăm tối và lầm lạc. Tất cả sự khôn ngoan của con người chỉ là bóng tối. Thế giới hôm nay ngập tràn bóng tối. Con người không biết mình đi về đâu, và vì thế họ tận diệt nhau, đưa nhau đến vực thẳm của khốn khổ và chết chóc.
Chúa Giêsu mới đưa chúng ta đến ánh sáng và sự sống. Ngài đang đi ngang qua con đường cuộc sống, chúng ta có nhận ra bước chân của Ngài không? Chúng ta có nhận ra Ngài là Con Vua Đavít, Đấng được sai đến để cứu chúng ta khỏi ngục tù tội lỗi, đưa chúng ta đến tình yêu và hạnh phúc không? Chúng ta có thực lòng kêu van Ngài như anh mù kia không. Chúng ta có tin vào Ngài vô điều kiện không?
Lời cầu xin của anh mù được chấp nhận ngay, vô điều kiện. Anh đã tin Ngài vô điều kiện, Ngài cũng chấp nhận anh vô điều kiện. Đó mới là đức tin đích thực. Và Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy mãnh lực của đức tin: “Lòng tin của anh đã cứu lấy anh”.
Nơi khác Ngài đã cho thấy: “Nếu đức tin của anh em bằng hạt cải mà thôi, anh em có thể chuyển núi dời non. Trong những lúc đau đớn chán nản nhất, Ngài bảo chúng ta: “Đừng sợ. Hãy tin thôi”, như Ngài đã nói với ông Giairô khi nghe tin con gái ông chết.
Trên đường lữ hành đầy lao nhọc và cạm bẫy, chúng ta còn một bảo đảm duy nhất: Chúa Giêsu, Chúa chúng ta. Tin vào Ngài, chúng ta sẽ “không đi trong tăm tối, nhưng có ánh sáng ban sự sống”. Thế giới này có tàn lụi đi hay chìm ngập trong biển lửa hận thù, niềm tin chúng ta vẫn trong sáng.
Chúa Giêsu vẫn có mặt nơi bàn thờ. Dù Ngài mặc lấy hình thức thật nhỏ bé, Ngài vẫn là Thiên Chúa toàn năng. Ngài cho chúng ta ăn lấy Ngài, và chúng ta ăn lấy ánh sáng để trở nên ánh sáng trong một thế giới đang yêu bóng tối của mình hơn ánh sáng.
Qua mọi thử thách của cuộc sống, chúng ta hãy nhìn về nguồn sống duy nhất là Ngài để có can đảm bước tới trong ánh sáng của tình yêu. Xin cho chúng ta nhìn thấy được, thấy tình thương đang rộng mở đón tiếp chúng ta và “bước theo Ngài…”.
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Thánh kinh là một câu chuyện trở về nhà Chúa, Đấng hằng nóng lòng và kiên nhẫn đợi chờ loài người. Thường người ta không đánh giá được, cũng không quí trọng được sự vật mà người ta có, cho tới khi người ta mất đi. Người ta không đánh giá được quê hương, nhà cửa, ruộng vườn cho tới khi người ta phải rời bỏ như trong hoàn cảnh di cư, tị nạn. Bài trích sách ngôn sứ Giêrêmia hôm nay kể lại vị ngôn sứ hướng về ngày mà dân Ítraen sẽ từ cuộc lưu đầy trở về quê hương. Trong ngày giải thoát đó, Giêrêmia loan báo là người mù, người què và người than khóc sẽ tìm thấy niềm an ủi trong tình thương của Thiên Chúa. Bài trích thư gửi tín hữu Do thái là câu chuyện những người tội lỗi được máu con Thiên Chúa đổ ra để được phục hồi trong ơn bình an. Còn bài Phúc âm ghi lại việc Chúa chữa người mù Batimê.
Người mù thành Giêricô biết đã mất nhãn quan. Vì thế anh ta kêu van xin Chúa Giêsu thương xót. Càng bảo anh ta im đi thì anh ta lại càng kêu lớn tiếng: Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi (Mc 10:17). Người mù này xin đặc ân được khỏi bệnh mù trong khi bày tỏ đức tin. Tiếng kêu cấp cứu của anh ta đã khiến Chúa động lòng thương xót và hành động. Và rồi không những anh ta được điều anh ta xin là được phục hồi khỏi bệnh mù, anh ta còn được ân huệ thiêng liêng là trở nên môn đệ Chúa: Tức khắc anh ta thấy được và đi theo Người (Mc 10:52). Đọc Phúc âm ta thấy bất cứ khi nào Chúa Giêsu làm phép lạ, Người đều nhắc đến lòng tin. Tất cả những ai được ơn phép lạ đều có một điểm giống nhau là lòng tin tưởng phó thác vào quyền năng Chúa. Đức tin của người mù Batimê đã cứu chữa anh ta.
Người ta không cần phải mất mát hoàn toàn sự vật gì thiết yếu, mới cảm thấy luyến tiếc. Có ông linh mục kia bị đứt một mạch máu nối vào một phần tư của mắt trái, làm mờ mắt phải. Lúc đầu linh mục đó không trông thấy người qua lại bên phải. Đọc sách rất khó khăn vì mặt chữ bị chói loà khi ẩn khi hiện. Đọc một trang sách phải mất cả nửa giờ đồng hồ. Không lái xe và không dâng thánh lễ được trong cả tháng. Rất xuống tinh thần. Rồi theo định luật bù trừ của Đấng tạo dựng, những phần khác của thần kinh thị giác phải bù đắp lại cho phần đã mất. Với thời gian, linh mục đương sự đã có thể nhìn thấy rõ hơn, lái xe và dâng lễ được trong tâm tình cảm tạ đội ơn.
Từ ngữ mù loà được dùng tới ba mươi ba lần trong các Phúc âm, trong đó có mười hai lần bàn đến mù loà của tâm hồn hay mù loà thiêng liêng. Nếu bị mù loà về phương diện thiêng liêng mà không biết, người ta còn đáng thương hại hơn người mù trong Phúc âm. Người mù trong Phúc âm biết mình mù. Còn ta lại không biết mình đã bị mù quáng về phương diện thiêng liêng. Do đó ta không nhìn thấy ánh sáng chân lý, không nhìn thấy những khuyết điểm và tội lỗi cuả mình và không biết mình đang đi lầm đường lạc lối. Ta tự nhắm mắt lại trước những lời kêu gọi ăn năn sám hối. Ta làm ngơ trước những đau khổ của tha nhân trong nhiều trường hợp trong đời sống. Ta bỏ qua những dấu chỉ của thời đại, những biến cố xẩy ra trong vũ trụ, trong đời sống cá nhân như đau ốm, bệnh tật, tai nạn. Những biến cố đó có thể là những dấu chỉ mà Chúa muốn nói với ta điều gì đó. Phải chăng Chúa muốn ta thu dọn nhà tâm hồn hay Chúa muốn ta sửa sang lại đời sống nội tâm?
Vậy đâu là những căn do của bệnh mù loà thiêng liêng? Ghen tuông, kiêu căng, tự phụ, tham lam, nóng giận, hay những đam mê khác nhau, có thể khiến người ta bị mù quáng về phương diện thiêng liêng, hoặc bị mù quáng toàn diện hay bị mù phần nào đó. Nếu hướng chiều về đàng trái về một vài phương diện nào, khiến ngưởi ta bị mù về một vài phương diện đó mặc dù về phương diện khác, họ không bị mù.
Hôm nay ta cầu xin Chúa cho những người mù, xin Chúa làm giầu trí tưởng tượng và những giác quan khác của họ để họ có thể cảm nghiệm được những vẻ đẹp của công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Ta cũng xin Chúa tiếp tục soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia để họ có thể sáng chế ra những máy móc giúp cho người mù tự sinh tồn trong đời sống hằng ngày như hệ thống in và viết chữ Braille nổi cho họ đọc, như gậy điện tử giúp họ đi lại, máy quang tuyến giúp họ thấy được phần nào ánh sáng. Ta cũng cầu xin Chúa mở mắt thiêng liêng để ta có thể nhìn thấy ánh sáng chân lí. Nếu ta bị mù về phương diện nào đó trong đời sống, ta cầu xin Chúa chữa trị để ta có thể nhìn thấy những điều sai quấy của chính mình.
Lời cầu nguyện cho người mù loà:
Lạy Chúa Kitô là ánh sáng thế gian.
Xin tha thứ những lần
con coi nhãn quan thấy được là ngẫu nhiên.
Xin soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia
tìm ra phương thế giúp người mù được thấy.
Nếu bị bệnh mù loà thiêng liêng,
xin cho con được biết mình:
tạ ơn về những ưu điểm Chúa ban
và sửa đổi những khuyết điểm của con. Amen.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn