Lời Chúa: St 3,8-15; 2Cr 4,13-5,1; Mc 3,20-35
MỤC LỤC
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Trong những năm tháng công khai rao giảng,
Đức Giêsu đã gặt hái được thành công từ phiá dân chúng.
Nhưng Ngài cũng phải nếm nhiều khổ đau và thất bại
do những hiểu lầm, ghen tương và cố chấp.
Đức Giêsu, người quân bình hơn cả, lại bị coi là mất trí,
khi Ngài xả thân để lo cho đám người đông đảo.
Ngài bị coi là bất bình thường,
khi Ngài và các môn đệ bận bịu, không có giờ ăn.
Chính thân quyến của Ngài đã coi Ngài như thế.
Họ chẳng hiểu gì, dù họ tưởng mình biết Ngài rất rõ.
Các kinh sư từ Giêrusalem xuống để điều tra về Đức Giêsu.
Họ không thể phủ nhận chuyện Ngài có khả năng trừ quỷ,
nhưng họ lại giải thích với cái nhìn đầy ác ý:
Đức Giêsu là người của quỷ, cậy dựa vào sức mạnh của Xatan.
Éo le thay, Đấng mà thấn ô uế phải sấp mình dưới chân
và tuyên xưng: “Ông là Con Thiên Chúa” (Mc 3,11);
Đấng khiến quỷ phải kêu la khi xuất ra:
“Ông đến tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai rồi.
Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24);
Đấng trừ quỷ ấy lại bị coi là người bị quỷ ám.
Một người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun chiếm đoạt
lại đi trừ những người bị ám bởi các quỷ con ư?
Như thế đúng là Xatan lại diệt trừ Xatan,
tướng quỷ cho người ngoài làm hại đàn em của mình!
Đức Giêsu nói đến thứ tội mãi mãi không được tha.
Không được tha chẳng phải vì Thiên Chúa hẹp hòi,
nhưng vì người ấy không cần đến ơn tha thứ.
Khép lại trước sự thật rành rành, hay bóp méo sự thực,
cố chấp ở lại trong sự gian dối với chính bản thân:
đó là những thái độ ta có thể mắc phải.
Quả thực không dễ hiểu được con người Đức Giêsu.
Hiểu một người ta thân quen cũng là điều khó.
Chỉ một chút ghen tương đủ làm ta hiểu sai.
Chỉ một chút tự ái đủ làm ta không thấy
điều ai cũng rõ như ban ngày.
Càng trí tuệ và học thức, như các kinh sư,
ta càng dễ bẻ cong chân lý về phía mình,
càng dễ biện minh cho thái độ mình đã chọn.
Khi vơi bớt đam mê của cái tôi,
ta sẽ dễ nhận ra chân lý quá đơn sơ, gần gũi.
Đám đông dân chúng ngồi chung quanh Đức Giêsu, nghe giảng.
Một vòng tròn thân thương như những người trong nhà.
Đức Giêsu thấy mình gắn bó sâu xa với họ.
Ngài không ngại nhận họ là mẹ, là anh chị em Ngài.
Có một thứ tình máu mủ ruột thịt thiêng liêng.
Có một mẫu số chung giữa Ngài và người nghe giảng,
đó là thi hành thánh ý Cha trong cuộc sống.
Đức Maria là Mẹ của Đức Giêsu hai lần,
vì Mẹ đã sinh dưỡng Ngài và suốt đời xin vâng ý Chúa.
Chúng ta tự hỏi mình có bà con gì với Đức Giêsu không.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đánh giá sai một người chỉ vì có ác cảm hay thành kiến với người ấy, bạn có khi nào mắc phải lỗi này không?
Theo ý bạn, người cố chấp có những đặc tính nào? Làm sao giúp họ ra khỏi sự cố chấp của họ?
Cầu Nguyện
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy không gọi chúng con là tôi tớ,
Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ.
Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy,
vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con
nhưng điều riêng tư thầm kín nhất
trong tương quan giữa Thầy với Cha.
Hơn nữa, sau phục sinh,
Thầy đã gọi các môn đệ là anh em.
Mặc nhiên Thầy tự nhận mình là Anh Trưởng
đứng đầu một đoàn em đông đúc.
Xin cho chúng con
luôn thi hành ý muốn của Cha
để trở nên những người em
cùng huyết nhục với Thầy.
Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên
làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy.
Còn Thầy lại hạ mình xuống
phục vụ chúng con như người tôi tớ,
rửa chân cho chúng con như một nô lệ
và chết thay cho chúng con trên thập giá.
Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy
và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.
(Suy niệm Mc 3, 22-30 – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy niệm
Thân nhân của Đức Giêsu đã tưởng Ngài bị mất trí (c. 21),
nhưng có thể họ không nghĩ Ngài bị quỷ ám,
dù trong thế giới ngày xưa, mất trí thường bị coi là do quỷ ám.
Các kinh sư đến từ thủ đô Giêrusalem có thái độ quyết liệt hơn nhiều.
Họ tố cáo Đức Giêsu là người bị quỷ ám,
không phải quỷ thường, mà là quỷ vương Bêendêbun.
Hơn nữa, họ cho rằng Ngài trừ quỷ nhờ dựa thế của quỷ vương (c. 22).
Lời tố cáo trên đây của những kinh sư thật là nghiêm trọng,
vì ai dựa thế như vậy là thông đồng với quỷ, có thể bị xử tử.
Đức Giêsu đã trả lời tố cáo này bằng hai hình ảnh về Nước và Nhà.
Đức Giêsu nhìn nhận sự hiện diện
và hoạt động của Nước Xatan trong thế gian này.
Nước này có tôn ti trật tự, được lãnh đạo bởi quỷ vương,
đó là Xatan hay Bêendêbun, kẻ cầm đầu các quỷ nhỏ (c. 22).
Xatan muốn bành trướng Nước của mình trong thế giới loài người.
Nó sai các quỷ nhỏ đi khắp nơi lôi kéo mọi người chẳng trừ ai.
Theo thánh Inhaxiô, Xatan thường cám dỗ ta theo ba bước:
từ sự ham muốn của cải, đến hư danh thế gian, và cuối cùng là kiêu ngạo,
rồi sau đó đi đến mọi nết xấu khác (Linh Thao 142).
Như thế Xatan khôn khéo đánh bẫy và trói buộc con người.
Đức Giêsu đã không bắt tay với Xatan để đuổi các quỷ cấp dưới.
Ngài tấn công trực diện vào Nước của Xatan,
phá đổ Nước này và khai mở Nước Thiên Chúa (Lc 11, 20).
Cuộc chiến không dễ dàng và còn kéo dài đến tận thế.
Thế giới hôm qua cũng như hôm nay được ví như một ngôi nhà.
Tiếc thay ngôi nhà đó ít nhiều đã bị Xatan cưỡng đoạt.
Xatan chính là kẻ mạnh đã biến ngôi nhà đó thành của mình (c. 27).
Nhưng Đức Giêsu lại là người mạnh hơn (Mc 1, 7).
Người mạnh hơn đã trói kẻ mạnh lại và tước đoạt những gì nó đã chiếm.
Tước đoạt chính là giải thoát những ai bị Xatan cầm giữ,
và trả lại cho họ quyền làm chủ đời mình, quyền sở hữu căn nhà của họ.
Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục tấn công Xatan.
Ngài không ngừng chinh phục thế giới này cho Thiên Chúa,
và mời chúng ta cộng tác để xây dựng Nước Chúa trên trần gian.
Nhờ Thánh Thần của Thiên Chúa mà Đức Giêsu trừ quỷ (Mt 12, 28),
nên ai bảo Ngài trừ quỷ nhờ quỷ vương Xatan hay Bêendêbun,
thì xúc phạm đến Thánh Thần, coi Thánh Thần như thần ô uế (c. 30).
Đức Giêsu không phải là người có thần ô uế.
Ngài có đầy ắp Thánh Thần trong mọi lời nói việc làm.
Chỉ ai cố chấp, bướng bỉnh mới không nhận ra điều đó.
Mọi tội lỗi đều có thể được thứ tha (c. 28),
trừ tội khép lòng từ chối ơn tha thứ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu.
Làm sao giúp con người hôm nay mềm mại mở ra
để nhận thấy Thánh Thần vẫn đang hiện diện trong Giáo Hội?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
(Suy niệm Mc 3,31-35 – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy niệm
Các thân nhân của Đức Giêsu nghĩ Ngài bị mất trí,
vì họ nghe tin Ngài và các môn đệ làm việc nhiều đến nỗi không có giờ ăn.
Các kinh sư từ Giêrusalem xuống
thì kết luận rằng Ngài đã thông đồng với tướng quỷ để trừ quỷ.
Còn đám đông dân chúng lại ngồi nghe Ngài giảng trong nhà.
Hơn ai hết, họ biết Đức Giêsu là ai.
Chính lúc ấy mẹ và anh em của Ngài đến và đứng ngoài.
Họ không vào được, có thể vì đám đông ngồi chật cứng.
Nhưng họ đã nhờ người nhắn với Đức Giêsu.
”Mẹ Thầy và anh em Thầy đang ở ngoài, tìm gặp Thầy đó.”
Rốt cuộc chắc ai cũng biết là Thầy có người thân đến thăm.
Người ta tưởng Ngài sẽ bỏ dở bài giảng để ra ngay gặp họ.
Nhưng Đức Giêsu lại muốn dùng cơ hội này
để nói với đám đông đang ngồi nghe một điều quan trọng.
Ngài đặt cho họ một câu hỏi tưởng như vô nghĩa:
”Ai là mẹ tôi và là anh em tôi?”
Dĩ nhiên là những người đang đứng ngoài kia rồi.
Nhưng không, Ngài đảo mắt nhìn những người đang ngồi,
và nói với họ: “Đây là mẹ tôi và anh em tôi.”
Với lời khẳng định này, Đức Giêsu loan báo về gia đình mới của Ngài.
Có những người thân yêu cùng máu mủ đứng ngoài kia.
Có một gia đình mới đang ngồi trong này.
Đức Giêsu không coi thường hay loại bỏ gia đình ruột thịt.
Nhưng Ngài cho thấy Ngài còn có một gia đình lớn hơn nhiều,
một gia đình gồm những người rất khác nhau về nhiều mặt,
nhưng lại có một mẫu số chung, một điểm giống nhau,
đó là cùng muốn thi hành ý Thiên Chúa trong cuộc sống.
Đức Giêsu đã rời bỏ gia đình để lên đường loan báo Tin Mừng.
Và Ngài cũng đã mời gọi các môn đệ của mình như thế.
Đức Giêsu để lại người mẹ, Phêrô để lại người vợ,
Gioan và Giacôbê để lại người cha.
Tương quan gia đình ruột thịt là điều cao quý thiêng liêng.
Nhưng nó lại không được trở nên một cản trở cho sứ vụ.
Đức Giêsu đã khai mở một đại gia đình mới cho mọi người:
”Bất cứ ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa
người ấy là mẹ tôi, là anh em và chị em tôi.”
Khi thực thi ý Thiên Chúa muốn, người ta trở nên có họ với Đức Giêsu.
Người kitô hữu chúng ta vui sướng được thuộc về gia đình này,
có người Mẹ là Đức Maria suốt đời tín trung sống ý Chúa,
có Đức Giêsu là Anh Trưởng, người Con luôn sống đẹp lòng Cha,
và có bao anh chị em khác đã dám đặt ý Chúa lên trên mạng sống.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
những hạt cải Chúa gieo vãi cách đây hai ngàn năm
nay đã trở thành cây cao
cho chim trời rủ nhau trú ngụ.
Nhúm men nhỏ bé được Chúa vùi vào khối bột,
đã làm bột dậy lên,
để trở nên tấm bánh thơm ngon cho thế giới.
Sau hai mươi thế kỷ,
các môn đệ Chúa không còn là nhóm Mười Hai bé nhỏ.
Hôm nay, các kitô hữu chiếm gần một phần ba,
người công giáo chiếm hơn một phần sáu dân số thế giới.
Chúng con được mời gọi xây dựng Nước Chúa trên trần gian,
cho đến khi tất cả mọi người nhận biết và tin yêu Chúa.
Xin cho chúng con đừng mặc cảm
vì người công giáo chỉ là thiểu số trên quê hương Việt Nam,
nhưng xin cho chúng con mạnh dạn làm chứng cho Chúa
trong việc xây dựng một xã hội công bằng và huynh đệ.
Hôm nay chúng con phải tiếp tục làm việc như Chúa,
gieo hạt giống để làm nên những cánh rừng,
trở nên chất xúc tác để biến đổi môi trường mình sống.
Và chúng con biết rằng sớm muộn cũng sẽ thành công
vì tin Chúa vẫn cần cù làm việc với chúng con. Amen.
(Suy niệm Mc 3,31-35 – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Cuộc đón rước Hòm Bia thật long trọng. Đa-vít ca hát nhảy múa hết mình. Và dâng lễ vật trọng hậu lên Thiên Chúa: “Khi những người khiêng Hòm Bia của Đức Chúa đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò và một con bê béo. Vua Đa-vít quấn ê-phốt vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan Đức Chúa”. Việc dâng lễ vật tuy trọng hậu, nhưng chỉ rời rạc. Không qui tụ được toàn dân. “Rồi toàn dân ai nấy về nhà mình” (năm chẵn).
Dâng lễ vật theo Lề Luật, dù trọng hậu đến đâu, dù dâng suốt năm này qua năm khác, vẫn không thể tha tội. Vì chung qui cũng chỉ là dâng súc vật. Còn Chúa Giê-su chỉ dâng một lần là đủ tha các tội. Vì Chúa dâng chính thân mình. Và dâng hiến để tỏ lòng vâng phục Chúa Cha. Là con, Chúa nhận thân thể từ Chúa Cha. Nên dâng lại cho Chúa Cha chính thân mình nói lên tình liên hệ cha con sâu xa thắm thiết biết bao. “Khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài…Theo đó, chúng ta được thánh hoá, nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ”. Vì thế Người dâng hiến thân mình để qui tụ tất cả chúng ta (năm lẻ).
Chúa Giê-su đã hiến dâng thân mình để trở thành người con hiếu thảo. Việc vâng phục thánh ý Chúa Cha gây dựng một gia đình Thiên Chúa. Nhờ đó Người qui tụ chúng ta về gia đình Thiên Chúa. Người trở thành Anh Cả của một đàn em đông đúc. Trở thành Trưởng Tử dẫn gia đình về với Thiên Chúa. Gia đình Thiên Chúa không còn là liên hệ huyết thống với con người, nhưng là liên hệ thiêng liêng với Thiên Chúa. Như Chúa Giê-su đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa để trở thành người con hiếu thảo, tất cả những ai tuân hành thánh ý Thiên Chúa, đều trở thành người trong gia đình Thiên Chúa. Trở thành ruột thịt với Chúa Giê-su: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chúng quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”.
Xin cho con biết tự hiến thân mình làm của lễ. Để con trở thành anh chị em của Chúa.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Trình thuật của sách Sáng Thế mà chúng ta nghe trong Bài đọc I như một trang sử buồn của nhân loại. Đó là câu chuyện về việc hai ông bà, Ađam và Evà, trái lệnh Chúa mà ăn trái cấm. Chúa cho ông bà được ăn mọi trái cây trong vườn, chỉ trừ một loại trái cây ở giữa vườn. Theo lẽ thường, thứ gì bị cấm thì lại hấp dẫn gợi thèm. Càng cấm thì người ta lại càng tò mò muốn xem muốn biết. Hai ông bà đã bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa mà ăn trái cấm. Ấy vậy mà sau khi đã vi phạm điều cấm, Chúa đặt câu hỏi, thì con người lại đổ lỗi cho nhau. Khi Chúa đặt câu hỏi: Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi không được ăn không? Ông Ađam đã trở lời rất vô trách nhiệm: “Người đàn bà Ngài đã cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn”. Đổ lỗi cho người đàn bà là đổ lỗi cho Chúa, vì chính Chúa đã cho ông Ađam người đàn bà làm vợ. Ađam làm như mình chẳng có lỗi gì. Lỗi này là do người đàn bà, và suy cho cùng là do Chúa, vì chính Chúa đã cho ông người đàn bà này, là nguyên nhân của sự bất tuân. Theo tâm lý thông thường, con người vốn không can đảm và khiêm tốn nhận những việc xấu họ đã làm. Họ thường đổ lỗi cho người khác, thậm chí đổ lỗi cho ông Trời, cho Chúa. Tác giả sách Sáng thế vừa ẩn ý khôi hài vừa mỉa mai: thế là cuối cùng con rắn là phải chịu tội nặng nhất. Con rắn bị Chúa kết án nặng nề. Án lệnh này mang tính truyền kiếp, vì đã cám dỗ loài người.
Tuy vậy, dù tội lỗi có ngập tràn và bản án có khắt khe, Thiên Chúa vẫn luôn thương xót con người, vì bản chất của Ngài là Tình Yêu. Chính trong lời tuyên án dành cho con rắn, Thiên Chúa đã nói tới một viễn tượng xa xôi, khi mà dòng giống người phụ nữ sẽ đạp dập đầu con rắn, và con rắn sẽ rình cắn gót chân người phụ nữ ấy. Nhãn quan Kitô giáo nhận ra đây là hình ảnh Đức Trinh nữ Maria, người phụ nữ mới, người sẽ sinh ra Đức Giêsu Kitô Đấng cứu nhân độ thế. Được nuôi dưỡng và khích lệ bởi truyền thống ngôn sứ, lời hứa Thiên Sai lớn dần nơi tâm thức mỗi người Do Thái. Ước mong Đấng Thiên Sai được diễn tả trong mỗi lời kinh, mỗi hơi thở của người Do Thái đạo đức, với niềm hy vọng chắc chắn: Chúa sẽ giải phóng Dân Ngài.
“Ađam, ngươi đang ở đâu?”. Hôm nay Chúa đang đặt ra cho mỗi người chúng ta câu hỏi này. Đây là câu hỏi gợi nhắc về tình trạng tâm hồn, về lối sống, về đối nhân xử thế và về trách nhiệm của mỗi người đối với những lời nói và việc làm của mình. Quả vậy, trong một xã hội mà mọi thành viên đều liên đới với nhau trong đau khổ cũng như trong hạnh phúc, trách nhiệm của con người ngày càng trở nên quan trọng và ảnh hưởng thiết thực đến đời sống hằng ngày. Con người không phải là ốc đảo riêng rẽ độc lập, nhưng liên kết với nhau, như nhiều giọt nước làm nên dòng sông, nhiều cây làm nên rừng, nhiều âm thanh tạo nên bản nhạc để làm vui cho đời. Mỗi chúng ta hãy lắng nghe câu hỏi của Chúa rồi tìm ra câu trả lời: Tôi ở đâu trong mối tương quan với Chúa, trong mối tương quan với anh chị em. Tôi ở đâu trong một gia đình, một lối xóm, một cộng đoàn đức tin và một xã hội? Đâu là hình ảnh mọi người có về tôi? Là người thân thiện dễ mến hay là người ích kỷ lạnh lùng?
“Ngươi đã làm gì thế?”. Đó là câu hỏi Chúa đặt ra với người phụ nữ. Chúa ưu ái hai ông bà, cho hưởng mọi điều tốt đẹp trong vườn địa đàng. Ấy vậy mà ông bà không hài lòng với những gì Chúa ban. Hai ông bà còn đòi nên giống như Chúa. Hai ông bà cũng nghi ngờ lòng thương xót và tình yêu thương của Ngài. Hôm nay Chúa cũng đã đặt ra với mỗi người chúng ta câu hỏi đó, mời gọi chúng ta hãy nghiêm túc nhìn lại cách sống và hành động của mình. Con người quá cao ngạo, khi đạt được điều mình mong muốn thì quên cả Chúa, thậm chí muốn thay thế Ngài. Đó là cơn cám dỗ nghiêm trọng trong thời đại văn minh hôm nay. Con người cậy vào những phát minh khoa học, sự phát triển của kỹ thuật, để tự cho mình có thể thay thế Thượng Đế. Họ quên rằng chính Thiên Chúa đã sắp đặt những nguyên lý trong vũ trụ và trong đời sống con người. Thiên Chúa cũng ban cho con người có khả năng trí tuệ để nghiên cứu và khám phá ra những nguyên lý đó.
Đổ lỗi, kết án và vu khống, đó là điều thường thấy nơi con người. Cũng như con người ở đầu lịch sử đã đổ lỗi cho Chúa và đổ lỗi cho nhau, thời Chúa Giêsu, khi chứng kiến phép lạ trừ quỷ, một số người Do Thái đã dựa vào đó mà nói rằng Chúa Giêsu là quỷ vương, nên có thể trừ các quỷ khác. Chúa Giêsu cho đây là sự xúc phạm nặng nề, là tội phạm đến Chúa Thánh Thần. Tội này không thể được tha thứ. Tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội đồng hoá Chúa Giêsu với ma quỷ. Đó cũng là tội mất lòng trông cậy vào lòng thương của Thiên Chúa.
Giáo huấn uy quyền của Chúa được nhiều người đón nhận, nhưng cũng có những người khước từ. Bởi lẽ, muốn đón nhận giáo huấn của Chúa, họ phải từ bỏ lối sống cũ và can đảm chấp nhận được tái sinh trong sự thật. Hai mươi thế kỷ qua, vẫn còn đó những chống đối, những thờ ơ trước sứ điệp Tin Mừng. Vương quốc của Satan vẫn còn thống trị nơi nhiều người và lôi kéo họ xa rời ánh sáng chân lý. Đối với những ai đón nhận Lời Chúa với tâm hồn rộng mở, họ sẽ trở nên những người thân tình thiết nghĩa với Ngài. Chúa Giêsu đã gọi những người thực thi thánh ý Thiên Chúa là mẹ, là anh chị em của Người.
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ là bạn. Mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và những ai tin vào Người đã trở nên thân thiết, cùng chung một nhịp đập của trái tim, cùng mang một niềm thao thức. Một khi trở nên bạn hữu, anh em, chị em với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ được chia sẻ sức sống thần linh của Người và sẽ được thánh hoá, nhờ kết hợp mật thiết với Người. Tin vào Chúa và thực thi Lời Người, đó là điều kiện làm cho chúng ta nên một với Người. Tác giả thư gửi giáo dân Rôma đã nhắc đến ông Abraham như mẫu mực của mọi tín hữu. Vào những lúc bi đát của cuộc đời, ông vẫn vững tin vào Chúa. Abraham được truyền thống Do Thái kể như người công chính, vì ông tin. Tác giả khẳng định với chúng ta: chúng ta cũng sẽ trở nên những người công chính nếu chúng ta vững tin vào Đức Giêsu. Người là Đấng Thiên sai, là con Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ chúng ta.
Trong tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta hãy tôn vinh tình thương cao cả của Thiên Chúa, được thể hiện qua Trái tim bị đâm thâu qua. Tình yêu đền đáp tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người và Ngài mong muốn họ đền đáp tình yêu thương đó bằng cuộc sống thánh thiện trước mặt Chúa và đối với anh chị em trong cuộc sống hằng ngày.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Những điều thánh Mác-cô ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay xem ra hơi tế nhị, bởi ông nhắc lại việc Đức Giêsu bị coi là “người mất trí” và bị tố cáo là bị quỷ ám. Vào thời đầu của Kitô giáo, việc nhắc lại điều này có làm giảm thanh danh của Chúa Giêsu và cộng đoàn tín hữu không? Nhiều tác giả khẳng định rằng, những gì “khó nghe” mà được ghi lại và được chuyển tải cho các thế hệ, thì là những điều có thật và trung thực. Tác giả Mác-cô vừa nói đến Mẹ và anh em của Chúa Giêsu theo huyết thống, vừa khẳng định mối tương quan mẹ và anh em của Chúa theo nghĩa thiêng liêng. Thật vinh dự biết bao cho chúng ta, vì chúng ta là những người đón nhận và thực thi Lời Chúa, nhờ đó, chúng ta được kể như những người thân của Chúa Giêsu, trong mối liên hệ rất thiêng liêng và gần gũi.
Hai bài đọc Lời Chúa (Bài trích sách Sáng thế và bài Tin Mừng) đều nhắc tới hình ảnh người phụ nữ. Người phụ nữ thứ nhất là bà Evà, người phụ nữ thứ hai là Trinh nữ Maria. Bài đọc I như một trang sử buồn; Bài Tin Mừng lại đậm nét huy hoàng vinh quang. Nếu bà Evà là nguyên nhân của sự trầm luân án phạt; thì Trinh nữ Maria lại cộng tác với Chúa để mang ơn Cứu rỗi. Nếu bà Evà đã sa ngã và gây nên tội lỗi cho mọi thế hệ; thì Trinh nữ Maria đã vâng theo Lời Chúa để đem muôn ơn phúc cho trần gian. Đọc trình thuật của thánh Mác-cô, có vẻ như Đức Giêsu dửng dưng với mẹ của mình, khi đón nhận những ai tuân giữ Lời Chúa là mẹ, là anh em. Tuy vậy, nếu Đức Maria có phúc vì Mẹ đã sinh Đấng Cứu thế, thì Mẹ là có phúc hơn khi tuân giữ Lời của Người. Hơn nữa, khi Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu, là Đức Mẹ cưu mang chính Ngôi Lời của Thiên Chúa. Bà Elisabét đã thốt lên khi gặp Đức Trinh nữ: “Em thật có phúc, vì em tin rằng, những gì Chúa phán cùng em sẽ thành sự thật”. Như thế, Đức Giêsu – thay vì dửng dưng với mẹ sinh ra mình – lại tôn vinh Đức Mẹ ở cả hai khía cạnh, khía cạnh sinh thành và khía cạnh tuân giữ Lời Chúa. Đức Trinh nữ Maria, người nữ mới, trổi vượt hơn bà Evà ngàn lần. Mẹ là người đã chiến thắng mưu chước của con rắn ở đầu lịch sử. Không những thế, Mẹ còn đạp nát đầu con rắn và chiến thắng vinh quang.
“Còn mi thì sẽ rình cắn gót chân Người”. Đó là lời Chúa nói với con rắn. Vâng, trải qua mọi thời đại, những môn đệ của Chúa Giêsu vẫn luôn gặp những thử thách gian truân. Con rắn từ thuở vườn Địa Đàng vẫn đang hoành hành, nhằm lôi kéo con người vào đường lầm lạc. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị các luật sĩ kết luận: “Ông này bị quỷ ám – Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ”. Mưu chước của ma quỷ nhằm đánh lận con đen, thật giả lẫn lộn để phô bày quyền lực và làm cho con người sa ngã. Không ít người đã sa bẫy của Satan và sống đức tin cách nửa vời hoặc một lối sống lầm lạc mà cứ ngỡ mình đang trung thành với giáo huấn của Chúa. Lời Chúa giúp chúng ta xét mình và thanh tẩy lối sống đức tin, đón nhận Chúa đến trong cuộc đời.
Nếu Chúa Giêsu đã bị vu khống và kết án là “quỷ ám”, thì những môn đệ của Chúa, tức là các Kitô hữu, cũng đang tiếp tục bị tấn công và gây phiền nhiễu. Ngày hôm nay, những môn đệ của Đức Giêsu vẫn bị coi như những người lội ngược dòng, thậm chí như những người “điên”, vì họ sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, và vì họ sẵn sàng chấp nhận những thống khổ vì đức tin và vì hạnh phúc Nước Trời. Giữa một thế gian đầy chông gai, thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy vững vàng và phó thác nơi Chúa. Cũng như Thiên Chúa là Đấng quyền năng đã làm cho Con của Ngài được phục sinh giữa kẻ chết, thì Ngài cũng phù trợ và cứu thoát chúng ta khỏi mọi cạm bẫy của thế gian, “vì nỗi gian truân nhất thời và nhẹ nhàng của chúng ta hiện nay chuẩn bị cho chúng ta một khối lượng vô kể vinh quang đời đời”. Vì thế, trong cuộc sống hằng ngày, hãy tìm kiếm những gì vững bền, tồn tại mãi mãi, vì cuộc sống này chỉ tạm thời, giống như một chiếc lều tạm, chiếc lều ấy sẽ bị phá hủy và nơi định cư vĩnh viễn của chúng ta sẽ là nơi ở trên trời (Bài đọc II).
“Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”. Thật vinh dự biết bao cho chúng ta là Kitô hữu. Nhờ việc lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa, chúng ta trở nên người thân của Chúa. Mối tương quan này được so sánh như mẹ và anh em của Người. Việc chuyên tâm thực hiện Lời Chúa còn làm cho chúng ta nên giống Chúa Giêsu, trở nên đồng hình đồng dạng với Người, để rồi chúng ta có thể phản chiếu hình ảnh của Người trong cuộc sống hằng ngày. Một khi hình ảnh của Chúa Giêsu được phác họa và tỏa sáng nơi cuộc đời của mỗi người tín hữu, quyền lực của ma quỷ sẽ bị đẩy lùi, sự ác sẽ biến mất và Satan sẽ bị diệt vong.
(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần đình Nhi)
TINH THẦN THẾ GIAN VÀ TINH THẦN CỦA THIÊN CHÚA
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa
Chúng ta đang ở mùa Thường niên khoảng dài nhất của năm phụng vụ. Giáo Hội lợi dụng thời gian này để trình bày giáo lý của Chúa Giê-su. Trước khi đi vào những đề tài chính trong giáo lý của Người, Giáo Hội muốn nêu lên sự khác biệt, nếu không muốn nói là sự đối nghịch, giữa tinh thần của thế gian và tinh thần của Chúa Ki-tô, giữa lối sống của thế gian với lối sống theo Thần Khí của Chúa Ki-tô. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến sự đối nghịch ấy, đồng thời kêu gọi chúng ta hãy cố gắng từ bỏ tinh thần của thế gian để cố gắng bước theo Chúa làm môn đệ Người.
Trước hết chúng ta hãy xem tinh thần thế gian là tinh thần nào. Câu chuyện sách Sáng Thế kể lại việc nguyên tổ A-đam và E-và phạm tội không vâng lời Chúa dạy, cho chúng ta thấy tinh thần thế gian là những gì ma quỷ đã gieo vào tâm hồn con người, để làm cho con người cũng trở nên thù nghịch với Thiên Chúa. Đọc lại câu chuyện này từ đầu, chúng ta nhận ra một nét rõ ràng của tinh thần ma quỷ đã được nó tận dụng để cám dỗ hai ông bà nguyên tổ sa ngã, đó là lừa dối. Đây là điều chính bà E-và đã nói lên: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”. Thuật lừa dối của ma quỷ rất tinh vi. Đầu tiên nói gợi lên óc tò mò của bà E-và: tại sao Thiên Chúa cấm ăn “trái cây ở giữa vườn”. Chắc phải là cây quý giá, mang điều bí ẩn gì đó nên Thiên Chúa mới trồng nó ở giữa vườn, lại cấm không cho con người ăn trái cây ấy. Từ tính hiếu kỳ, ma quỷ dẫn tới thắc mắc và nó giải thích thắc mắc theo “tinh thần” của nó, tức là đưa bà E-và đến thái độ kiêu căng: “Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3:5). Chính Lu-xi-phe và bè lũ của nó đã muốn “bằng” Thiên Chúa, nên chúng không muốn “phụng sự” Người nữa. Chúng đã trở thành cao ngạo, không phục tùng Thiên Chúa và trở thành kẻ thù của Thiên Chúa. Giờ đây ma quỷ lại muốn gieo tinh thần kiêu ngạo ấy vào tâm hồn con người và nó đã thành công. Tội lỗi đã len lỏi vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa và để lại cho con người hậu quả của tinh thần thế gian, tức là tội nguyên tổ.
Tuy nhiên tinh thần thế gian của ma quỷ không thể trường tồn, vì nó sẽ bị đánh bại do Chúa Ki-tô là “dòng giống” của người đàn bà, tức con của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và miêu duệ của bà E-và. Thánh Phao-lô đã cho chúng ta một so sánh tuyệt vời giữa A-đam và Chúa Ki-tô, giữa việc sa ngã của loài người và công việc cứu chuộc của Chúa Ki-tô (Rô-ma 5:12-21). Có thể nói đây là một tóm tắt về kế hoạch và lịch sử cứu độ đầy đủ ý nghĩa và ngắn gọn đã được thần học gia tông đồ Phao-lô trình bày đặc biệt trong thư gửi tín hữu Rô-ma. Tinh thần bất tuân của A-đam trái ngược với tinh thần vâng phục của Chúa Ki-tô. Thái độ kiêu căng muốn “mở mắt ra” và “nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” của A-đam khác hẳn với thái độ “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự” của Chúa Ki-tô. Hành động “ăn trái cấm” của A-đam khi coi thường Thiên Chúa đi ngược lại hành động “trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” của Chúa Ki-tô (Pl 2:6-8). Hậu quả hành động bất tuân của A-đam và hiệu quả hành động vâng phục của Chúa Ki-tô đã được thánh Phao-lô mô tả như sau: “Tóm lại, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rô-ma 5:18-19). Sự đối nghịch giữa tinh thần thế gian và tinh thần Thiên Chúa là lý do để Chúa Ki-tô được sai đến trần gian. Trong bài Tin Mừng, Chúa Giê-su đã ám chỉ việc Người đến để tiêu diệt tội lỗi và tinh thần thế gian của ma quỷ, khi Người khẳng định rằng: “Không ai có thể vào nhà kẻ mạnh mà cướp của được, nếu không trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó”. Chúa muốn nói rằng “kẻ mạnh” ở đây chính là ma quỷ và thế gian này là “nhà” của nó. Sứ mệnh của Người là được sai đến “nhà” của ma quỷ, để “cướp sạch” nhà nó. Người đến mang tinh thần của Thiên Chúa để “trói” tinh thần của thế gian lại. Người đã “cướp sạch” nhân loại khỏi móng vuốt ma quỷ và tội lỗi bằng cái chết nhục nhã trên thập giá, để đem về cho Thiên Chúa và để nhân loại được làm con cái Thiên Chúa.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Trước hết là gương của Chúa Giê-su. Người bị “thân nhân” hiểu lầm, cho rằng “Người đã mất trí”! Nhưng Chúa Giê-su vẫn luôn kiên vững giữ tinh thần của Thiên Chúa, cứ tiếp tục thi hành sứ vụ. Theo sau Chúa Giê-su là gương thánh Phao-lô. Ngài được Thiên Chúa kêu gọi trở lại với Chúa Ki-tô, để đem tinh thần của Thiên Chúa và Tin Mừng Chúa Ki-tô đến cho dân ngoại. Ngài đã tin vào Chúa Ki-tô và đã sống tinh thần của Chúa Ki-tô. Hơn thế nữa, ngài còn đi rao giảng một Chúa Ki-tô chịu đóng đinh thập giá và gieo rắc tinh thần của Chúa Ki-tô cho muôn người. Nhờ tin Chúa Ki-tô và sống tinh thần của Chúa, thánh Phao-lô có thể tự hào tuyên bố: “Cho nên chúng tôi không chán nản!” Chúng ta cũng vậy.
(Học hỏi Tin Mừng của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
GỢI Ý SUY NIỆM:
Đọc Mc 3,33-35. Bạn thấy những câu này có liên hệ gì với bạn không? Bạn có dám tin mình sẽ trở nên anh chị em và mẹ của Chúa Giêsu nếu mình thi hành ý Thiên Chúa không? Bạn nghĩ Đức Maria có phải là người đã thi hành ý Thiên Chúa không?
PHẦN TRẢ LỜI
AI LÀ MẸ TÔI? AI LÀ ANH EM TÔI?
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 3: 20-35: Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có nhiều người Do Thái đã vấp ngã vì Đức Giêsu, trong đó có cả những người bà con thân thuộc và các Kinh Sư.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có nhiều người Do Thái đã vấp ngã vì Đức Giêsu, trong đó có cả những người bà con thân thuộc và các Kinh Sư. Những người bà con họ hàng là những người sống gần gũi với Chúa Giêsu, các Kinh Sư là những người am tường Thánh Kinh và lịch sử, đáng lẽ ra họ phải là những người am hiểu về Đức Giêsu hơn những người khác, trái lại, họ hàng thân thích thì cho rằng Đức Giêsu mất trí, còn các Kinh Sư thì cho rằng Đức Giêsu dùng quyền lực của quỷ vương Beldêbun mà trừ quỉ. Chúng ta tìm hiểu đôi chút về hai thái độ này:
Các Kinh Sư từ Giêrusalem xuống để điều tra về Ðức Giêsu. Họ không thể phủ nhận khả năng trừ quỷ của Ngài, nhưng họ lại giải thích với cái nhìn đầy ác ý: Ðức Giêsu là người của quỷ, cậy dựa vào sức mạnh của Satan. Ðấng mà thần ô uế phải sấp mình dưới chân và tuyên xưng: “Ông là Con Thiên Chúa” (Mc 3,11). Ðấng khiến quỷ phải kêu la khi xuất ra: “Ông đến tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai rồi. Ông là Ðấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24). Ðấng trừ quỷ ấy lại bị coi là một người bị quỷ ám !
Quả thực không dễ gì hiểu được con người Ðức Giêsu. Chỉ một chút ghen tương đủ làm ta hiểu sai. Chỉ một chút tự ái đủ làm ta không thấy điều ai cũng rõ như ban ngày. Càng trí tuệ và học thức như các Kinh Sư, ta càng dễ bẻ cong chân lý, càng dễ biện minh cho thái độ cố chấp của mình.
“Thân nhân của Người hay tin ấy liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí” (Mc 3,21). Chính người nhà Chúa Giêsu đã kết luận Ngài bị mất trí, và đã đến lúc họ phải bắt Ngài đưa về nhà. Chúng ta hãy thử xem điều gì khiến họ làm như vậy.
2.1. Chúa Giêsu đã bỏ nhà ra đi, bỏ luôn nghề thợ mộc mà Ngài đã từng làm ở Nadarét. Nếu nghề ấy không phát đạt thì ít nhất cũng giúp đủ nuôi sống mình. Thình lình, Ngài bỏ hết và đi lang thang truyền giáo. Chắc họ nghĩ rằng chẳng ai mà lại bỏ công ăn việc làm để thành một kẻ lang thang không chỗ gối đầu như vậy.
2.2. Chúa Giêsu đi vào chỗ phải đụng đầu với các lãnh tụ chính thống giáo thời đó. Ở đời, có nhiều kẻ có thể gây thiệt hại lớn lao cho người khác, có kẻ mà tay chân thuộc hạ của họ cũng đáng cho người ta phải coi chừng, có kẻ mà dám chống lại họ thật là một điều vô cùng nguy hiểm. Người nhà của Chúa Giêsu đã nghĩ, một người mà dám chống lại những kẻ quyền thế như Kinh Sư, Pharisiêu và các lãnh tụ tôn giáo thì khó mà có thể thoát khỏi tay họ.
2.3. Chúa Giêsu triệu tập một nhóm người bé nhỏ, một nhóm người khá kỳ lạ: một người thu thuế bỏ việc, một nhà ái quốc cuồng tín và một số là ngư dân. Họ là những hạng người mà không ai muốn quen biết. Họ là những hạng người chẳng ích lợi gì cho những ai muốn làm nên sự nghiệp. Họ nghĩ rằng chẳng ai tỉnh trí mà đi kết bạn với những con người như thế.
2.4. Bằng các việc làm của Chúa Giêsu, Ngài đã nêu lên những nguyên tắc chẳng giống chút nào với những con người bình thường:
2.4.1. Từ bỏ một nếp sống đảm bảo, điều mà phần đông người thế gian luôn mong ước: một địa vị an toàn, một việc làm ổn định, ít gây xáo trộn về vật chất và tài chánh.
2.4.2. Từ bỏ sự an thân, điều mà phần đông người có khuynh hướng muốn được an thân hơn lo cho phẩm cách đạo đức, cho việc làm phải hay quấy. Làm một việc có nguy cơ gây nguy hiểm cho bản thân là điều do bản năng con người luôn muốn tránh né.
2.4.3. Bỏ ngoài tai lời khen chê của xã hội: Ngài hoàn toàn thờ ơ đối với lời phê phán, khen chê của xã hội. Ngài đã chứng tỏ là chẳng bận tâm gì đến những gì người ta nói về mình. Thật vậy, H.G. Wells đã nói, “Với nhiều người, tiếng nói của người láng giềng nghe to hơn cả tiếng của Thiên Chúa. Người ta sẽ nói gì? Là một trong những câu hỏi đầu tiên mà chúng ta vẫn thường có thói quen đặt ra cho mình.
Điều khiến cho người nhà và bạn bè của Chúa Giêsu lo sợ là những nguy cơ Ngài đã liều lĩnh chuốc lấy cho mình, mà theo ý họ, chẳng có người tỉnh trí nào làm như vậy cả.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Mẹ và người thân của Đức Giêsu đến tìm Ngài và khuyên Ngài từ bỏ con đường sứ vụ để trở về nhà, vì có tin đồn rằng Đức Giêsu bị điên khùng !
Ôi một sự thật đau lòng! Vì yêu thương, Đức Giêsu làm tất cả mọi việc miễn làm sao để cho Thiên Chúa được vinh quang và con người được hạnh phúc, thế nhưng người Pharisêu lại phao tin Ngài bị điên! Họ muốn đánh vào uy tín của Đức Giêsu, vì nếu Đức Giêsu bị điên thì mẹ của Ngài sẽ như thế nào khi sinh ra một đứa con điên? Anh em của Ngài sẽ còn uy tín gì nữa khi trong dòng tộc của mình lại xuất hiện một kẻ khùng! Và, nhất là những lời giảng của Đức Giêsu từ nay không còn đáng tin nữa, bởi vì không ai dại gì mà đi nghe theo lời của một người điên! Đây là một đòn thâm hiểm mà những người Pharisêu đánh vào Đức Giêsu và thân nhân của Ngài.
Đức Giêsu đã mượn cơ hội rất đời thường này để nói cho mọi người và cho chúng ta hôm nay về một kế hoạch thật lớn lao, đó là xây dựng một « Gia Đình Mới », gia đình này không đặt nền trên tương quan huyết thống, nhưng trên việc « lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa » (Lc 8, 21). Thực vậy, khi đó Người rảo mắt nhìn những người đang vây quanh lắng nghe Lời Thiên Chúa, nói ra từ miệng của Người, và nói: Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.
Một câu nói nhằm mạc khải cho mọi người biết một thực tại khác vượt lên trên suy nghĩ thuần túy của con người. Sự gắn bó với Thiên Chúa và thi hành Lời của Người là điều quan trọng, và chính trong mối liên hệ này mà chúng ta được trở nên nghĩa thiết, thân tình với nhau. Mặt khác, Đức Giêsu cũng ngầm giới thiệu cho mọi người xung quanh biết rằng: chính Đức Maria là người đã thi hành thánh ý Thiên Chúa, nên Mẹ xứng đáng trở thành mẫu gương cho chúng ta về việc thực thi Lời Chúa.
Như thế, Đức Giêsu đâu có từ chối Mẹ, ngược lại còn tôn vinh Mẹ, bởi vì trong Gia Đình Mới mà Đức Giêsu đang gầy dựng, Đức Maria có một vị trí duy nhất: Đức Maria vừa là mẹ sinh ra Đức Giêsu, vừa là mẹ Đức Giêsu, vì đã lắng nghe và sống Lời Chúa, không chỉ một lần nhưng suốt đời. Người là kẻ luôn luôn lắng nghe và làm theo Lời Chúa: “Bấy giờ Maria nói “Vâng, tôi là nữ tì của Chúa. Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Lời Êlisabét nói với Maria: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em” (Lc 1,45). Sau khi các mục tử đến thăm Chúa Giêsu, “Maria hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Sau chuyện tìm gặp Chúa Giêsu trong Đền thờ “Mẹ Ngài hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”(Lc 2,51).
Quả thật, Đức Maria xứng đáng là mẹ thật của Chúa Giêsu bởi vì Người không chỉ làm Mẹ của Ngài về thể xác mà còn vì Người luôn lắng nghe, ghi nhớ và thi hành Lời Chúa. Ước gì, sự sống mỗi ngày của chúng ta được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa, khởi đi từ con tim biết lắng nghe Lời Chúa. Và như thế, cũng như Đức Maria, chúng ta sẽ trở thành «người thân» đích thực của Chúa Giêsu. Amen.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về tương quan giữa Chúa Giêsu và gia đình của Ngài để rồi rút ra những bài học thực hành về vai trò của gia đình.
Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên trong một gia đình. Suốt ba mươi ba năm của thân phận làm người, Ngài đã sống ba mưởi năm với gia đình. Cũng như bất cứ người Á đông nào, Ngài rất coi trọng những mối dây liên hệ thân thuộc: Trong ba năm rao giảng công khai, Ngài vẫn tìm dịp trở về thăm làng cũ và giữa lúc Ngài bận rộn với sứ vụ, bà con thân thuộc vẫn tìm đến thăm Ngài.
Quả thật, Chúa Giêsu coi trọng những liên hệ máu mủ và tình bà con lối xóm. Ngài quý trọng gia đình, Ngài đề cao sự thánh thiện và bất khả phân ly của hôn nhân. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã không lập gia đình: trong ba năm thi hành sứ vụ, Ngài sống xa gia đình, không nhà không cửa. Như vậy đối với Chúa Giêsu, trên cõi đời này, gia đình cũng như mọi thứ định chế khác của loài người không phải là những giá trị tuyệt đối.
Chỉ có một giá trị tuyệt đối, đó là con người. Bởi vì chỉ có con người mới có một định mệnh vĩnh cửu. Tất cả đều hiện hữu vì con người. Trong kinh Tín Kính, Giáo Hội tuyên xưng: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Như vậy, ngay cả mầu nhiệm nhập thể cũng là vì con người. Chính Ngài đã tuyên bố: Ngài đến để phục vụ chứ không phải đến để được phục vụ. Nếu Con Thiên Chúa xuống thế là để phục vụ con người, thì huống chi những định chế của xã hội loài người. Tất cả hiện hữu vì con người, gia đình cũng như xã hội hiện hữu vì con người, chứ không phải con người vì gia đình và xã hội.
Từ cái nhìn trên đây của Chúa Giêsu về gia đình chúng ta có thể thấy được vai trò của gia đình, và một cách cụ thể mục đích của việc giáo dục con người đầu đội trời, chân đạp đất. Chân đạp đất là thái độ phải thắng dẹp những lôi cuốn tội lỗi thế tục, là đạp lên trên những gì làm cho mình ra hèn hạ như cát bụi, là đạp lên trên những gì đưa chúng ta xuống đất.
Nếu chân đạp đất chỉ những sự phàm trần, thì đầu đội trời chỉ những sự siêu phàm. Đầu đội trời chỉ thái độ vươn lên những gì cao thượng, cố gắng phóng mình tới lý tưởng cao vời, hướng tâm hồn về mục đích ở bên kia thế giới, nỗ lực băng mình lên cao để tìm về quê hương Nước Trời. Nói một cách cụ thể, thì đầu đội trời chính là việc Cha trên trời, là hướng về trời cao, là sống cho những giá trị vĩnh cửu.
Sống đúng ý nghĩa ba chữ đầu đội trời, phải là mục đích của việc giáo dục gia đình, bất cứ hành động nào đi ngược lại với mục đích ấy đều là phản giáo dục.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
SỰ GIAO HÒA VÀ ĐẶC ÂN CỦA THIÊN CHÚA
Câu chuyện của Adam và Eva trong sách Khởi Nguyên không chỉ là cung cách mà nguyên tổ của chúng ta đã phạm tội; điều đó cũng thường xảy ra với chúng ta trong ngày hôm nay. Tội của Adam và Eva là một sự bất tuân bởi việc sa chước cám dỗ là họ muốn trở nên độc lập với Thiên Chúa. Sau khi sa ngã, các ngài giống như những đứa trẻ khi nhìn thấy một người nào đổ lỗi cho nhau khi chúng phạm một điều gì. Adam đã phàn nàn với Thiên Chúa: “Người phụ nữ mà Ngài đã ban cho con, chị ta đã đưa trái cây và tôi đã ăn”. Eva không biết nhìn vào người nào để đổ lỗi cho. Bà nhìn thấy con rắn được giới thiệu như quỷ dữ và nói với Thiên Chúa: “Con rắn đã dụ tôi ăn”. Con rắn vội vã trườn vào trong đám cỏ, nó không nói gì bởi vì nó biết nó không có chân để bỏ chạy.
Giả thiết điều đó xảy ra một cách khác. Hãy tưởng tượng là khi Adam đã lỡ phạm tội đối đầu với Thiên Chúa, ông ta nói: “Tôi xin thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và với em là vợ tôi đã phạm tội bởi lỗi của tôi”. Bạn có tin rằng Thiên Chúa sẽ nói “Ngươi đã có một cơ hội mà ngươi đã thất bại. Đừng tìm kiếm lòng nhân từ nơi Ta”. Giả thiết Eva cầm lấy tay chồng và nói: “Lạy Thiên Chúa toàn năng hay thương xót, hãy dủ lòng thương xót đến chúng tôi. Xin tha thứ cho chúng tôi và cho chúng tôi cuộc sống đời đời”. Các bạn có nghĩ rằng Thiên Chúa sẽ nói: “Hãy quên đi mọi chuyện, Ta đã quá giận về chuyện này ư?”
Từ những gì chúng ta biết về Thiên Chúa, tôi tin rằng Người đã hiểu biết và thương xót. Nhưng Adam và Eva đã đổ lỗi cho nhau và từ chối tỏ ra dấu hiệu thống hối, đó là hiệu quả của tội. Tội lỗi làm xa rời; nó làm phân chia. Tội đã cách biệt Adam và Eva ra khỏi Thiên Chúa. Tội đã tách biệt Adam và Eva ra khỏi nhau. Tội đã tách biệt lòng khao khát nội tâm của họ khỏi khuynh hướng tự nhiên của họ là hướng về Thiên Chúa. Tội lỗi thì giống như là những thí dụ mà Chúa Giêsu đã đưa ra trong Phúc Âm: “Nếu một nhà mà chia rẽ nhau thì nhà đó sẽ không tồn tại”.
Mặc dù chúng ta có thể có những giống như Adam và Eva, chúng ta đã phạm tội và tìm cách đổ lỗi, Thiên Chúa đã và tiếp tục hầu như thể hiện lòng thương xót đối với chúng ta. Ngài đã gởi Con của Người vào trong thế gian để cứu độ chúng ta, để chúng ta lướt thắng tội lỗi và mang những kẻ đối đầu trở về với Ngài. Những tội lỗi đã cách biệt và phân chia, hành động cứu thoát của Chúa Giêsu mang đến sự giao hòa và hòa hợp. Ngai đã hợp nhất ta một lần nữa với Cha Ngài, Ngài đã mang chúng ta vào trong một nhà là Giáo Hội. Ngài đã sửa chữa bên trong, những bất công trong tinh thần mà chúng ta đã đau khổ, do tội lỗi. Sự giao hòa là đặc ân của Thiên Chúa qua người Con yêu dấu của Người.
Trước tiên, nền tảng sự giao hòa của chúng ta là nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được hòa hợp với Thiên Chúa và với anh em, và bên trong chúng ta đã được củng cố bởi phép Thêm sức. Khi chúng ta phạm tội sau phép rửa, bí tích thống hối luôn luôn là một sự giao hòa mới để tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta.
Chúa Giêsu đã làm tất cả điều này vì chúng ta qua thừa tác viên của Giáo Hội, người nhà của Thiên Chúa. Ngài đã làm như thế vì Ngài không thể để cho chúng ta bị tách biệt bởi tội lỗi của chúng ta, Người đã cung cấp sức mạnh cho chúng ta để chúng ta có thể nỗ lực làm những việc công chính, và thực thi ý muốn của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nhìn nơi chúng ta với lòng thương xót lớn lao và nói: “Đây là mẹ Ta, và đây là anh chị em của Ta. Bất cứ ai làm theo ý muốn của Thiên Chúa là mẹ, là anh, là chị của Ta”. Mặc dù Adam và Eva là những nguyên tổ của chúng ta, Chúa Giêsu cũng bảo đảm với chúng ta rằng: Ngài là anh của chúng ta và Thiên Chúa ở trên thiên đàng thực sự người Cha yêu thương của chúng ta.
CHỐNG CÁC TAY SAI CỦA QUỶ VƯƠNG
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – ViKiNi)
Nếu tôi là Đức Giêsu, tôi sẽ buồn phiền chán nản vô cùng: vừa bị thân nhân gia đình bôi nhọ là: “Ông ấy mất trí”, lại bị nhóm kinh sư từ thành đô Giêrusalem đến xem xét rồi chụp mũ: “Ông ấy bị quỷ vương Bengiêbút ám nhập và dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ”.
Đó là những bẫy rất tâm lý và cực kỳ nguy hại của sa tan, để đánh bại chương trình cứu độ của Đấng Cứu Thế như nó đã đánh bại chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Trước kia nó đã mặc lốt con rắn cuốn lôi con người bỏ Thiên Chúa mà theo nó phạm tội ăn trái cấm (Bài đọc 1). Bây giờ, nó núp bóng dưới dạng thân nhân và kinh sư âm mưu tráo trở công việc cứu độ của Đức Giêsu biến thành công việc của nó. Đức Giêsu đã mạnh mẽ phản kháng những lừa bịp độc hại của sa tan. “Người liền gọi dân chúng, những con người hiền lành chất phác đến nghe Người giải tỏa cho họ khỏi nọc độc bịp bợm của rắn quỷ, bằng kiểu luận lý dễ hiểu, ai cũng có thể thấy rõ được: “Nước nào chia rẽ, nước ấy sẽ mất; nhà nào chia rẽ, nhà ấy sẽ tan”.
Một tiền đề sát với đời sống cụ thể của họ và rất sắc bén để dẫn tới áp dụng kết luận: “Vậy satan chống lại satan, satan tự chia rẽ satan, thì chúng không thể tồn tại, tất nhiên chúng dẫn đến diệt vong”.
Người đau đớn quay sang nói với bọn kinh sư, tay sai của quỷ rằng: “Nếu Ta nhờ Bengiêbút mà trừ quỷ thì bè phái các người nhờ ai mà trừ quỷ? Bởi thế, chính họ sẽ xét xử các ngươi”.
Đồng thời Người cũng cho họ thấy rõ sự thật hiển nhiên là: “Ta đã nhờ Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi” (Mt. 12, 27-28).
Nói đến đây, đáng lẽ ra các kinh sư là những người thông Kinh thánh, họ phải nhớ ra việc Elia xưa đã nhờ Thiên Chúa mà trừ diệt những kẻ dựa vào quỷ Bengiêbút thời vua Akhap và Ôkhôgia vua Israen. Ôkhôgia khi bị đau liệt, ông đã sai sứ giả đi cầu khẩn Bengiêbút. Thiên Chúa đã thúc giục tiên tri Elia đi đón sứ giả và nói: Ở Israel không có Thiên Chúa sao mà các ngươi lại đi cầu khẩn Bengiêbút? Cho nên Thiên Chúa phán thế này: Ngươi sẽ chết trên giường ngươi nằm. Ôkhôgia cố chấp không nghe lời cảnh cáo của Elia, còn sai quan quân tất cả hai lần trăm người đến bắt Elia. Elia đã nói: Nếu ta là người của Thiên Chúa, thì lửa hãy từ trời xuống thiêu đốt các ngươi đi. Và lửa từ trời đã thiêu đốt sạch bọn chúng, và cả nhà vua cũng chết, trừ đoàn sứ giả thứ ba biết khấn xin người của Thiên Chúa thì được sống (2V. 1, 2-17).
Những hạng người cầu khẩn tà thần ma quỷ, những người khăng khăng cố chấp những tà thuyết mù quáng, những hạng người ác ý thay trắng ra đen, xuyên tạc công việc của Thiên Chúa sang công việc của quỷ thần, những hạng người đó đã xúc phạm đến Chúa Thánh Thần, chúng chẳng bao giờ được tha thứ, chúng lì lợm đến diệt vong.
Chỉ có những người ngay lành thiện chí như dân chúng, biết nhận ra lẽ phải, biết lắng nghe lời Thiên Chúa, biết đón nhận những việc lành phúc đức, mới thực sự “là mẹ, và anh em của Đức Giêsu”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết siêng năng đến xum họp chung quanh bàn tiệc thánh Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa, như đám đông dân chúng xưa đã ngồi vây quanh Người để lắng nghe và thực thi ý Thiên Chúa và được vinh phúc trở nên làm mẹ và anh em với Người. Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Đinh Tất Quý)
MẸ VÀ ANH EM TÔI
“Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa,
người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc 3.35)
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe hơi dài, mang nhiều sự kiện rời rạc nhưng nếu chịu khó suy nghĩ, chúng sẽ giúp cho sự hiểu biết của chúng ta về Chúa Giêsu phong phú và toàn diện hơn.
Đây không phải là cảm nghĩ của những người xa lạ, nhưng là của những người thân nhân với Chúa. “Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.” (Mc 3,21)
Đọc trong toàn bộ Tin Mừng ai cũng phải nhận Đức Giêsu là người rất quân bình, vậy mà người ta còn cho Ngài là người bị mất trí, khi thấy Ngài xả thân để lo cho đám người đông đảo. Rồi Ngài còn bị coi là bất bình thường, khi Ngài và các môn đệ bận bịu, lo phục vụ đến nỗi không có cả thời giờ nghỉ ngơi và ăn uống.
Đúng là họ chẳng hiểu gì về Chúa Giêsu, dù họ tưởng mình đã biết rất rõ về Ngài.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta có một cái nhìn khách quan và trong sáng về mọi người cũng như những việc xảy ra chung quanh cuộc sống của chúng ta, để cuộc sống của chúng ta có nhiều niềm vui và hạnh phúc hơn..
Ngôi sao điện ảnh Lloyd lái xe đến trạm sửa chữa. Cô thợ máy ân cần đón tiếp anh. Ngay lập tức anh đã bị cuốn hút bởi đôi tay khéo léo và điêu luyện của cô.
Cả Paris đều biết đến anh, Thế nhưng cô gái này lại tỏ vẻ rất bình thản, xem ra không mấy vui sướng cũng như ngưỡng mộ con người nổi tiếng này.
– Cô có thích xem phim không? Anh ta hỏi.
– Đương nhiên là thích rồi, tôi là một “fan” điện ảnh mà.
Tay cô rất nhanh, chẳng bao lâu có đã sửa xong xe:
– Ông có thể lái xe đi rồi, thưa ông.
Anh ta vẫn tiếp tục:
– Thưa cô, tôi có thể đưa cô đi dạo được không?.
– Không! Tôi còn có công việc.
– Đây cũng giống như là công việc của cô. Cô sửa xe cho tôi, tốt nhất là tự mình lái thử kiểm tra xem sao.
– Được, vậy tôi lái hay ông lái đây?.
– Tôi lái, tôi mời cô mà!.
– Xe chay rất tốt, cô gái hỏi:
– Xem ra không có vấn đề gì, vậy xin ông vui lòng cho tôi xuống được không?.
– Sao cơ? Cô không muốn tôi đưa đi sao? Tôi chỉ muốn hỏi lại cô một việc, cô có thích xem phim không?.
– Tôi rất thích, tôi đã trả lời với ông rồi mà, hơn nữa tôi còn là một “fan” điện ảnh nữa.
– Vậy cô không nhận ra tôi sao?.
– Sao tôi không nhận ra chứ! Từ đầu tôi đã nhận ra ông là diễn viên điện ảnh Lloyd nổi tiếng hiện nay mà.
– Biết thế, sao cô vẫn lãnh đạm vậy?.
– Không! Ông lầm rồi, tôi không hề lãnh đạm. Nhưng tôi không cuồng nhiệt như các cô gái khác. Ông có thành tựu của ông. Tôi có công việc của tôi. Ông đến đây để sửa xe. Ông là khách hàng. Nếu ông không phải là ngôi sao nổi tiếng, khi ông đến sửa xe thì tôi cũng tiếp đãi như vậy. Giữa người với người không phải như thế sao?.
Anh ta im lặng. Đối diện với cô gái bình thường này anh cảm thấy mình tầm thường và thật ngông nghênh.
– Cảm ơn cô! Cô đã khiến cho tôi phải tự cảnh tỉnh về giá trị bản thân. Được, bây giờ tôi đưa cô về.
Khi các kinh sư từ Jêrusalem xuống để điều tra về Đức Giêsu. Họ không thể phủ nhận được chuyện Ngài có khả năng trừ quỷ, nhưng họ lại giải thích với cái nhìn đầy ác ý. Tin Mừng ghi: “Các kinh các kinh sư từ Giêrusalem xuống thì lại nói rằng Người bị quỵ vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỵ vương mà trừ quỵ. (Mc 3,21)
Thật là “tội nghiệp” cho Chúa! Đấng mà thần ô uế đã phải sấp mình xuống dưới chân mà tuyên xưng: “Ông là Con Thiên Chúa” (Mc 3,11); Đấng đã khiến quỉ phải kêu la khi xuất ra. Vậy mà các kinh sư lại nói về Chúa như thế. Đúng miệng lưỡi của “thế gian”.
Chúng ta hãy tập cho mình có một lương tâm ngay thằng và trung thực đừng để những tà ý làm hỏng cái tính bàn thiện Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Một buổi chiều thứ bảy đầy nắng ở thành phố Oklanama, tôi cùng một người bạn và hai đứa con của anh đến vui chơi tại một câu lạc bộ. Bạn tôi tiến đến quầy vé và hỏi:
– Vé vào cửa là bao nhiêu? Bán cho tôi bốn vé. Người bán vé trả lời:
– 3 đô la một vé. Chúng tôi đặc biệt miễn phí cho trẻ em dưới sáu tuổi. Các cậu bé này bao nhiêu tuổi?
– Đứa lớn bảy tuổi và đứa nhỏ thì lên bốn. – Bạn tôi trả lời.
– Như vậy tôi phải trả cho ông 9 đô la tất cả.
Người đàn ông ngước lên với cặp mắt ngạc nhiên:
– Sao ông không nói rằng đứa lớn chỉ mới sáu tuổi? Như thế có phải là tiết kiệm được 3 dollars không?
Bạn tôi nhìn người bán vé rồi chậm rãi nói:
– Dĩ nhiên, tôi có thể nói như vậy và ông ta cũng sẽ không nhận ra. Nhưng bọn trẻ thì biết đấy. Tôi không muốn bán đi sự kính trọng của những đứa con và lòng trung thực của mình chỉ với 3 dollars. (Hồng Diễm)
Tin Mừng ghi lại: “Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”
Nhưng Người đáp lại: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”
Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc 3,32-35)
Khi nói như thế Chúa Giêsu không có ý phủ nhận mối giây liên kết máu mủ gia đình với Chúa. Ngược lại nhiều nhà chú giải còn bảo là Chúa muốn đề cao Đức Mẹ.Ví Đức Mẹ làm Mẹ Chúa Giêsu đến hai lần!
Phải nhận rằng việc thì hành thánh ý Chúa không phải là chuyện dễ làm. Abraham ngày xưa là một thí dụ.
Phải can đảm lắm mới có thể thi hành thánh ý Thiên Chúa trong cuộc sống làm người của mình.
Ngày 30-01-1938 chuyến xe lửa khởi hành từ Quito Galio dến Colombia bất ngờ bị trật đường rầy. Tai nạn làm cho nhiều người chết và bị thương, trong số hành khách đang quằn quại vì những vết thương đau đớn, người ta thấy có một linh mục tên là Felix Louis dòng thánh Don Bosco. Cha bị gẫy chân, và một phần ruột lòi ra khỏi bụng. Nhận ra Ngài, các y tá đã chạy đến giúp đỡ Ngài. Nhưng cha ra hiệu cho các y tá phải lo săn sóc các hành khách khác. Nói xong cha lấy hết sức mình, nhét ruột vào bụng, lấy khăn băng lại, và xin người ta dìu tới những nạn nhân bị thương nặng, đang hấp hối, để giải tội cho những ai muốn xưng tội.
Làm xong công tác mục vụ, linh mục nói với các y tá: tôi cám ơn Chúa đã cho tôi thi hành chức vụ linh mục của tôi cho tới giây phút cuối cùng. Giờ đây các cô có thể đưa xác tôi đi.
Người ta vội đưa Ngài đến bệnh viện Hedini. Nhưng chỉ vài giờ sau, Ngài đã trút hơi thở cuối cùng khi chưa tròn 36 tuổi (Góp nhặt 217).
Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con biết can đảm làm cho thánh ý của Chúa được hoàn thành trọn vẹn từng giây từng phút trong cuộc đời của chúng con. Amen.
(Suy niệm Mc 3,31-35 – ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Khổng Tử có một người cháu tên là Khổng Liệt và một người học trò tên là Bật Thứ Thiên, cả hai ra làm quan cùng một thời. Một hôm Khổng Tử hỏi người cháu:
– Từ khi ra làm quan đến giờ, ngươi đã được điều gì và mất điều gì?
Khổng Liệt trả lời:
– Từ khi làm quan, tôi chưa được điều gì, mà đã mất ba điều: không có giờ học tập vì thế trình độ vẫn thấp, lương bổng không đủ giúp người thân, công việc bề bộn nên không có giờ thăm viếng bạn bè.
Nghe thế, Khổng Tử rất buồn lòng.
Một ngày nọ, Khổng Tử cũng hỏi Bật Thứ Thiên cùng một câu như đã hỏi Khổng Liệt, Bật Thứ Thiên đáp:
– Từ khi ra làm quan, tôi chưa mất điều gì, mà đã được ba điều: Những điều đã học nay đem ra thực hành, vì thế việc học được rõ ràng thêm; lương bổng tuy ít nhưng cũng có thể giúp người thân phần nào, do đó mà thân thiện hơn; công việc tuy nhiều, những cũng bớt chút thời giờ thăm bạn bè khiến tình bạn càng thân thiết.
Câu trả lời của Bật Thứ Thiên được Khổng Tử khen là chí lý và thực là câu trả lời của người quân tử.
Câu trả lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là từ khi bắt đầu đời công khai, Chúa Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy”. Chẳng những Chúa Giêsu không ra gặp mẹ, mà Ngài còn nói: “Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta”.
Thật ra, qua câu nói này, Chúa Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Chúa Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Chúa Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.
Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha; còn chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, và nhờ tình yêu Chúa, chúng ta được liên kết với nhau trong một quỹ đạo mới, một tình nghĩa mới, cao đẹp hơn tình nghĩa cha mẹ, anh chị em ruột thịt.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta luôn biết sống theo thánh ý Chúa, để chúng ta được nối kết trong tình nghĩa với Chúa, với Mẹ và với tất cả mọi người.
(Suy niệm Mc 3,31-35)
Mẹ và anh em Đức Giêsu đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra. Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!” Nhưng Người đáp lại: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc. 3, 31-35)
Mấy bữa trước đây, trong một trích đoạn Phúc âm, thánh Maccô đã cho ta biết thái độ của đám bà con thân thích của Chúa Giêsu: họ muốn cách ly Người, bởi cho rằng Người đã mất trí, ngộ đạo và họ bị phiền hà vì danh tiếng này. Vậy mà hình như họ đã thay đổi ý kiến, bởi lẽ hôm nay họ muốn xin được gặp Người, nhắc nhở cho Người quyền lợi gia dình, tình thân thương và lòng kính nể mà thông thường họ có quyền được hưởng. Giữ liên hệ tốt đẹp với bà con họ hàng chẳng phải là điều tự nhiên sao?
Chúa Giêsu có vẻ như không chia sẻ ý kiến này.
Một sự rạn nứt của tình bà con
Khi đọc bản văn này, ta rất mau mắn vin ngay vào những lời cuối cùng: “Người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Chúng ta lấy làm vui sướng vì được kết nạp vào gia đình này. Nhưng chúng ta cũng vội làm mất đi ý nghĩa khác mà những lời đó gợi nên, tức là sự rạn nứt trong mối quan hệ tự nhiên của gia đình.
Nếu ta đem liên hệ thái độ này của Chúa Giêsu với lời Người phán trước đây: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy”, ta càng ngạc nhiên. Chúa Giêsu chống lại gia đình và những mối liên hệ gia đình chăng? Phải chăng Người muốn ta hiểu biết điều căn bản gì?
Thực ra tin mừng của Chúa không có ý xếp những liên hệ gia đình vàò hàng cuối cùng, mà muốn dạy ta kính nể mọi người cũng như ta vẫn thường kính nể anh chị em cha mẹ ta vậy.
Xét cho cùng, con người từ rất lâu đã quen với những tập tục là phải dành những ưu đãi cho gia đình ruột thịt của mình, phải yêu mến và có trách nhiệm hơn đối với những người cùng chung máu mủ, thì Tin mừng của Chúa hôm nay là một điều mới mẻ: tin mừng đó đòi hỏi ta đối xử với mọi người như nhau và hỏi ta tại sao điều ta làm được cho cha mẹ ta, mà lại không làm cho “tha nhân” được.
((Suy niệm Mc 3,31-35 – Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là một chủng sinh, học hành rất chậm chạp, tưởng chừng như ngài không có đủ khả năng để tiến tới chức Lm. Ngày kia, thừa lệnh giám mục giáo phận, một vị giáo sư thần học, đã đến khảo sát Vianney, tội nghiệp Vianney đã không thưa được câu nào. Không giữ được bình tĩnh, vị giáo sư đã đập bàn quát lớn: “Vianney, anh dốt như lừa. Với một con lừa như anh, Giáo hội sẽ làm được gì?”
Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: “Thưa thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng có một cái hàm của một con lừa, để đánh bại được ba ngàn quân Philitinh, vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được gì sao?” (Theo Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, tr. 42).
Suy niệm
Tình huyết nhục là tình rất thân thiết của con người. Ðức Giêsu như bao nhiêu người con có hiếu, không bao giờ chối gia đình.
Khi khẳng định: “Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”, Ðức Giêsu không coi nhẹ tình gia đình, cũng như không phải lãnh đạm với mẹ và anh em Ngài. Đức Giêsu muốn đề cao hơn mối liên hệ thiêng liêng dựa trên Lời Chúa mà Ngài đang mang sứ mạng rao truyền, sẽ dệt nên niềm tin và lòng yêu mến cho người lãnh nhận. Ngài khẳng định trong tương quan với nước Ngài, quan hệ máu mủ ruột thịt không quan trọng bằng niềm tin khi biểu lộ thực thi ý Chúa. Đại gia đình thiêng liêng mà các thành viên đều mang tiêu chuẩn nghe và thi hành ý Thiên Chúa.
Qua sự khẳng định, mẹ và anh em Ngài chính là người nghe và thực hành Lời, Chúa Giêsu không phải là không muốn nhìn nhận mẹ của mình – Đức Maria. Hơn thế nữa, Chúa muốn cho mọi người thấy Mẹ Maria chính là người lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành hơn ai hết.
Thật thế, Mẹ Maria là người đầu tiên đã lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành khi Mẹ thưa vâng với sứ thần đến truyền thánh ý Chúa trong cuộc đời Mẹ: “Này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi điều Ngài truyền”, lời xin vâng đã khai mở ơn cứu rỗi và của sự sống mới cho thế giới. Mẹ đã trở nên gương mẫu cho mọi người Kitô hữu: lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy.
Chính Mẹ cũng đã đi trước nêu gương và muốn cho chúng ta sống như Mẹ đã sống. Nơi tiệc cưới Cana, Mẹ truyền: “Hãy làm theo lời Ngài truyền”, hành động đó đã dọn sẵn mọi sự để Chúa làm phép lạ mang đến niềm vui cho những người chung quanh… Trên phương diện gia đình đức tin: Nghe và thực hành Lời Chúa, Đức Maria xứng đáng là Mẹ hơn ai hết.
Xin Chúa giúp chúng ta ý thức thực sự là anh chị em với Chúa, khi nghe và thực thi ý thánh Chúa.
Ý lực sống:
“Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa” (Dt 10,7).
TỘI PHẠM ĐẾN CHÚA THÁNH THẦN
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin mừng Mc 3: 20-35: Chúa Thánh Thần soi sáng lương tâm cho người ta thấy rõ sự thật, thấy tội lỗi của mình để sám hối. Từ chối Chúa Thánh Thần là từ chối sự thật, và vì thế không thể nhận ra tội lỗi của mình để sám hối và được tha tội. Không được tha vì chính mình đã bịt tai, đóng cửa lòng, từ chối ơn tha tội.
Theo Tin Mừng Máccô, Chúa Giêsu đã bắt đầu hoạt động công khai của Người bằng việc “Đi khắp miền Galilê rao giảng trong các hội đường và trừ qủy” (Mc 1,39); hoạt động trừ qủy của Chúa Giêsu chiếm một vị trí quan trọng trong sứ vụ cứu thế (Mc 1,34-39; 3,11-12; 5,1-20; 9,14-29). Người cũng ban cho các môn đệ quyền trừ qủy (Mc 3,15; 6,7.13). Người công bố: “Nếu Tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ qủy, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12, 28). Sứ mạng của Chúa Giêsu là cứu loài người khỏi nô lệ ma quỉ, khỏi thần chết. Người tới đâu là qủy dữ bị xua trừ, như ánh sáng đến đâu thì bóng tối bị đẩy lui tới đó. Người rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh nhân, tha thứ kẻ tội lỗi… ma qủy khiếp sợ tháo lui.
Thấy Chúa Giêsu trừ qủy, dân chúng kinh ngạc, còn nhóm Pharisêu lại bảo Chúa Giêsu dựa thế quỷ vương Bendêbun để trừ qủy. Họ vu khống lăng mạ và nói Ngài là người của ma qủy. Chúa Giêsu gọi việc xuyên tạc như thế là tội phạm đến Chúa Thánh Thần và là thứ tội duy nhất không được tha. Tại sao tội này lại không thể tha thức được? (Mc 3,29)?
Cả ba thánh sử Máccô, Mátthêu và Luca đều tường thuật về câu nói: “ Ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha”.
Phúc Âm Máccô chương 3 tường thuật việc Chúa Giêsu trong khi chữa bệnh, bị người ta rình rập, tố oan và âm mưu giết chết. Trước sự ác độc chai lì nham hiểm của họ đối với các việc lành của mình, Chúa Giêsu phải “giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá” (câu 5). Tuy thế, Chúa vẫn yêu thương con người. Phúc Âm tiếp tục với việc Chúa thành lập nhóm 12 để tiếp nối công trình yêu thương này, và cũng tiếp tục với việc Chúa chữa bệnh, trừ quỷ. Khi thấy Chúa thực thi quyền trừ quỷ, các “kinh sư từ Giêrusalem xuống nói rằng, Người bị quỷ vương Bendêbun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ” (câu 22). Chính trong ngữ cảnh này mà Chúa nói về tội phạm đến Thánh Thần : “Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời. Ðó là vì họ đã nói ‘ông ấy bị thần ô uế ám’ ” (câu 28,29,30).
Bối cảnh trên cho thấy khá rõ tội phạm Chúa Thánh Thần đây chính là:
– Coi ma quỷ cao hơn Chúa Giêsu, như các kinh sư nói Chúa phải dùng tới phép của quỷ vương Bendêbun.
– Xúc phạm nặng nề tới Thánh Danh bằng việc từ chối quyền năng và ơn cứu độ của Chúa, cụ thể từ chối các bí tích, xem thường Ơn Thánh.
– Chai lì ngoan cố chống đối Thiên Chúa trước các tác động của Ngài trong cuộc đời.
Là con người, ai cũng yêu đuối tội lỗi, nhưng nếu họ khiêm tốn chạy đến với Chúa, nài xin Ơn Thánh qua các bí tích và quyết tâm chừa cải, chắc chắn họ được Chúa yêu thương tha thứ. Ngược lại, nếu cố tình chai lì trong sự thâm hiểm của mình, cho rằng không ai hơn được mình, không nhìn nhận Chúa là Chủ tể cuộc đời, xem các quyền lực khác của thần dữ hơn cả Chúa, họ rơi vào tội phạm tới Chúa Thánh Thần.(Lm Phêrô Nguyễn Đức Thắng).
Không có tội gì mà Thiên Chúa không tha thứ khi con người biết ăn năn và hối lỗi. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương (1Ga 4,8), Ngài chậm giận và luôn giàu tình thương (Tv 86,15).Thế nhưng, có một điều mà Chúa không thể cứu vãn được, đó là sự cứng lòng nơi con người. Đây là thái độ kiêu ngạo, biết mà vẫn cứng lòng. Đây cũng là điều mà Chúa Giêsu luôn khiển trách các Kinh sư và Pharisiêu.
Khi một người cứng lòng thì họ không ăn năn nên không thể được tha thứ, vì ăn năn là điều kiện duy nhất để lãnh ơn tha tội. Không được tha chẳng phải vì Thiên Chúa hẹp hòi, nhưng vì người ấy không cần đến ơn tha thứ, đó là tội cứng lòng, tội phạm đến Chúa Thánh Thần. Đây là trường hợp mà Stêphanô nói với cấp lãnh đạo Do thái: “Hỡi những người cứng đầu cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần…Các ông phản bội và sát hại Đấng Công chính. Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ” (Cv 7,51-53).
Chúa Thánh Thần soi sáng lương tâm cho người ta thấy rõ sự thật, thấy tội lỗi của mình để sám hối. Từ chối Chúa Thánh Thần là từ chối sự thật, và vì thế không thể nhận ra tội lỗi của mình để sám hối và được tha tội. Không được tha vì chính mình đã bịt tai, đóng cửa lòng, từ chối ơn tha tội.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho biết, tội phạm đến Chúa Thánh Thần “không phải chỉ đơn thuần xúc phạm đến Người bằng lời nói mà hệ tại sự từ chối nhận lãnh ơn cứu chuộc mà Thiên Chúa ban cho con người qua Chúa Thánh Thần hoạt động qua quyền lực cây thập giá… Vì sự cứng lòng của nó sẽ dẫn nó đến sự hư mất đời đời” (Thông điệp Dominum et Vivificantem, 18/5/1986).
Đức Thánh cha Phanxicô cắt nghĩa về tội phạm đến Chúa Thánh Thần trong thánh lễ tại nhà nguyện thánh Matta: “Ngay cả Chúa Giêsu là vị Thượng Tế mà cũng đã được xức dầu. Vậy lần xức dầu đầu tiên ấy là khi nào? Đó là khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Trinh Nữ Maria. Còn về việc nói phạm đến Chúa Thánh Thần thì là việc gì? Đó là nói phạm đến tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu cứu độ và sáng tạo. Nếu thế, chẳng lẽ Thiên Chúa không tha thứ cho kẻ xấu hay sao? Không phải thế! Thiên Chúa tha thứ tất cả! Nhưng những người nói phạm đến Thánh Thần là người không muốn được thứ tha, họ đóng cửa lòng trước ơn tha thứ. Những người ấy thật là tệ hại, vì họ phủ nhận Đức Kitô vị Thượng Tế được Chúa Thánh Thần xức dầu để ban ơn tha thứ cho mọi người” (x.vi.radiovaticana.va; 23.1.2017).
Thánh Gioan XXIII nói rằng: tội lớn nhất thời đại là đánh mất ý thức tội lỗi. Khi con người đã mất sự nhạy cảm về sự thật đến nỗi cho điều thật là sai và cho điều sai là điều thật, hay như một số người Do thái, cho Chúa Giêsu là ma quỉ, làm sao họ có thể tin vào Đức Kitô để được hưởng ơn Cứu Độ. Tương tự, một khi con người đã mất hết ý thức về tội lỗi: chẳng còn cho cái gì là tội nữa, thì họ đâu cần để được tha thứ! Vì thế, khi con người từ chối không nghe sự hướng dẫn của Thánh Thần để nhận ra sự thật, con người sẽ không có hy vọng để lãnh nhận ơn Cứu Độ.
Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng, hướng dẫn con người nhận biết sự thật về Chúa Kitô, và về bản thân mình, nhờ đó con người có thể nhận lãnh ơn cứu độ, sự tha thứ của Ngài. Khi không nhạy bén với sự soi sáng, hướng dẫn ấy là con người khép lòng, từ chối sự tha thứ của Ngài, là liều mình sống trong tình trạng tội lỗi. Một lương tâm phóng túng thì luôn phán đoán lệch lạc: coi một tội là hợp pháp, hay tội nặng thành tội nhẹ. Một lương tâm chai lỳ khi quá quen phạm tội nên không nhận thức được tội của mình nữa, hoặc coi thường tội, dù là tội nặng. Giả hình, lừa dối, gian dối đang phát triển khắp nơi, do vậy số con cái ma quỷ đang tăng lên mỗi ngày một nhiều.
Chúa Thánh Thần có sứ vụ quan trọng trong Kế Họach Cứu Độ là làm cho con người thấu hiểu những lời giảng dạy và mạc khải của Chúa Kitô. Vì thế, chúng ta cần cầu xin với Ngài mỗi khi nghe Lời Chúa để được soi lòng mở trí cho mình. Cần lắng nghe sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để luôn biết tìm hiểu và nhạy cảm với sự thật. Có lần Chúa Giêsu đã nói thẳng với những người Do thái: “Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, quỷ đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó. Bởi vì nó là kẻ nói dối và là cha sự gian dối” (Ga 8,44). Chúa khẳng định tất cả những ai quen lừa dối, đều trở thành con cái ma quỷ, vì quỷ là cha sự gian dối. Một khi đã khinh thường và mất đi nhạy cảm với sự thật, con người không còn hy vọng được cứu rỗi.
Nhận ra sự soi sáng, thúc đẩy của Thánh Thần để nhận biết sự thật về Chúa và về mình. Thiên Chúa là Cha nhân lành yêu thương mọi người; còn mỗi người là con cái, là thụ tạo do Ngài dựng nên, được bao phủ bằng tình yêu thương của Ngài, nhưng người ta thường xúc phạm đến Ngài qua tội lỗi. Nhận thức được sự thật ấy sẽ giúp chúng ta sống bình tâm trong thân phận thụ tạo và con cái của mình.
Hàng ngày chúng ta cần nhớ về sự hiện diện thánh thiêng của Thánh Thần nơi mình, để nghe theo sự soi sáng và thúc đẩy của Ngài.
Hằng ngày và trước mỗi việc làm, hãy luôn cầu xin: Lạy Chúa Thánh Thần, xin đừng để con làm phiền lòng Chúa bao giờ, nhưng cho con luôn biết lắng nghe tiếng Chúa để được ơn hoán cải. Lạy Chúa Thánh Thần, con xin lỗi Chúa vì con thường quên sự hiện diện gần gũi của Ngài trong cuộc sống đời thường. Xin cho con mau mắn vâng theo lời dạy bảo của Ngài; xin cho con đừng khép lòng trước những gợi ý dấn thân tích cực hơn trong việc sống niềm tin trong đời sống. Amen.
(Suy niệm của Lm. Đinh Tất Quý – Bài giảng lễ thiếu nhi)
“Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa,
người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc 3.35)
Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Chúng con vừa nghe cha đọc cho chúng con nghe một bài Tin Mừng của thánh Marcô. Bài Tin Mừng này dài, gồm tới ba câu chuyện.
Cha đố chúng con đó là những câu chuyện gì nào?
– Thưa cha đó là câu chuyện Chúa Giêsu người thân của Chúa cho là người mất trí.
Thưa cha đó là câu chuyện Chúa Giêsu bị nhóm kinh sĩ của người Do Thái vu khống bảo Chúa dựa vào thế quỉ vương mà trừ quỉ nhỏ.
Thưa cha, câu chuyện Chúa nói chỉ những ai thi hành thánh ý Thiên Chúa mới là mẹ và anh em của Chúa.
– Chúng con trả lời rất hay! Bữa nay cha sẽ nói cho chúng con về câu chuyện thứ hai và thứ ba.
Các kinh sư từ Jêrusalem xuống cho rằng: Người bị quỵ vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỵ vương mà trừ quỵ. (Mc 3,21)
Chúng con có biết tại sao họ lại vu khống cho Chúa Giêsu như thế không?
– Thưa vì họ ghét Chúa Giêsu. Họ ghét vì họ ghen với Chúa. Họ ghen vì thấy Chúa được người ta ca tụng, tung hô. Còn họ dân chúng thì càng ngày càng xa lánh họ. Hơn nữa họ còn ghét là vì Chúa hay phệ bình về lối sống của họ.
– Thế lối sống của họ làm sao mà bị Chúa phê bình như vậy? Thưa vì họ kiêu ngạo. Họ hay phô trương. Họ sống giả hình, bất công.
Đáng lý ra khi được Chúa nói cho biết những thói xấu cần phải sửa thì họ phải cám ơn Chúa. Đàng này không những họ không sửa mà ngược lại còn tìm cách vu cáo để làm Chúa mất thế giá trước mặt mọi người. Đây là thói xấu mà nếu không cần thận con người sẽ rất dễ vấp phải. Một xã hội có nhiều người mắc thói xấu này sẽ là một thảm hoạ cho con người.
Ông Khoan Flovière, một học giả và là văn sỹ chuyên kể chuyện đồng quê của Phi Luật Tân, đã cho đăng trong nhật báo Ngôi sao, xuất bản tại Manila hôm 23/05/1990, một câu chuyện ngụ ngôn về một người mù và một người điếc như sau:
Tại một vùng làng quê Phi, có một anh vừa mù vừa điếc. Bù lại, anh ta có khả năng phi thường, biết sử dụng những đồ vật xung quanh và hướng dẫn cuộc sống hằng ngày của mình bằng các giác quan khác. Anh biết rõ từng vị trí từng đồ vật trong nhà. Anh cảm thấy an phận và sống hạnh phúc như bao người bình thường khác.
Nhưng rồi một hôm, bỗng xuất hiện trong tâm trí anh một ý nghĩ muốn biết được thế giới chung quanh như thế nào. Anh cầu nguyện xin Chúa cho anh được sử dụng đôi mắt và đôi tai trong vòng một tuần lễ. Thiên Chúa nhận lời. Ngay tức khắc, anh được nhìn thấy ánh sáng và màu sắc, nghe được âm thanh và tiếng nói bình thường như bao người. Trong hai ngày đầu, anh tỏ ra hết sức phấn khởi vì được thấy, được nghe. Nhưng sang đến ngày thứ ba anh lại cảm thấy buồn, vì nghe biết bao những lời nói xấu xa, thô tục, cộc cằn, và càng buồn hơn nữa khi nhìn thấy những cảnh nghèo khổ, những âm mưu đen tối để hại nhau, những hành động độc ác mà người này có thể làm cho người khác.
Quá buồn bực, anh ta lại cầu nguyện với Chúa như sau: “Lạy Chúa, con cảm thấy Chúa đã thương nhận lời con, cho con được thấy, được nghe. Nhưng giờ đây, con xin Chúa thương cho con trở lại đời sống mù, điếc như xưa; để con được bình an trong tâm hồn. Thà con mù, điếc mà được an tâm; còn hơn là nghe và thấy những cảnh quá đau lòng”.
Đó chúng con thấy cái tật nói hành nói xấu người khác nó xấu như thế nào. Hãy tập cho mình có một tâm hồn ngay thẳng thật thà luôn biết tôn trọng sự thật để cuộc sống của mình luôn đẹp lòng Chúa.
Hôm ấy, Tin Mừng ghi lại: “Lúc đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”
Nhưng Người đáp lại:”Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”
Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”(Mc 3,32-35)
Nói như thế có phải là Chúa xem thường Đức Mẹ phải không chúng con?
Không phải như thế! Có nhiều nhà chú giải Kinh Thánh còn cho rằng: Khi nói như thế là Chúa còn kín đáo đề cao Đức Mẹ. Theo các ngài thì Đức Mẹ làm mẹ Chúa Giêsu đến hai lần. Một lần sinh ra Chúa Giêsu, một lần là người luôn biết lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa. Đúng như thế chúng con. Sau khi nói Lời Xin Vâng, Đức Mẹ đã gắn chặt cuộc đời của mình vào thánh ý của Thiên Chúa. Điều đó không cón ai hoài nghi.
Thế nhưng cha hỏi chúng con: Thi hành Thánh ý Thiên Chúa dễ hay khó? Hãy cho cha ít thí dụ:
– Thưa cha không dễ chút nào
Thí dụ như chuyện Đức Mẹ chấp nhận làm mẹ Chúa Cứu thế. Thí dụ như chuyện Ông Abraham phải hiến tế Isaac, Thí dụ như Chúa đòi hòi muốn theo Chúa thì phải từ bỏ mình vv và vv.
Đúng thế chúng con. Việc tuân hành thánh ý Thiên Chúa không dễ chút nào. Nhưng ai làm được người đó mới xứng đáng hưởng vinh quang là được trở thành mẹ và anh em của Chúa Giêsu.
Có một người con gái tên là Elvire đang theo học trường Cao đẳng Sư phạm. Cô sống trong một gia đình nghèo, vì thế cô cần đạt được điểm trung bình cao để có thể nhận được học bổng học tiếp, nếu không cô phải nghỉ học.
Thầy dạy Triết của cô là người vô thần, do đó, khi ông ta nói về Đức Kitô và Giáo hội, ông che đậy sự thật hoặc làm méo mó. Cô gái tự thấy căm tức trong lòng, không phải là cho cô, nhưng vì là lòng yêu mến Chúa của cô, đối với sự thật và với các bạn cô. Cô biết rõ ràng, nếu nói ngược lại với giáo sư, cô có nguy cơ bị lãnh đủ, sẽ có những điểm thấp. Nhưng những gì cô cảm thấy trong lòng còn mạnh hơn cả cô nữa. Mỗi lần có cơ hội, cô đều giơ tay xin phát biểu và nói: “Thưa thầy, điều đó không đúng”. Đôi lần cô thấy đuối trong lý luận khi đương đầu với sự thông thái lão luyện của thầy cô. Nhưng trong các chữ: “Điều đó không đúng” có niềm tin của cô, niềm tin hàm chứa sự thật và điều này làm người ta suy nghĩ.
Các bạn cô, vì thương đã tìm cách khuyên ngăn cô đừng can thiệp, để tránh những hậu quả không tốt. Nhưng họ không thành công. Vài tháng sau, đến kỳ thi tam cá nguyệt, giây phút báo kết quả, cô Elvire cầm tờ giấy mà tay run run. Cô không kiềm được niềm vui, la lớn: 10 điểm tối đa. Cô đã cố gắng, trên hết mọi sự, đặt Thiên Chúa và sự thật của Người ở chỗ đầu, và cái còn lại đến cách phụ trội.
Đúng là vinh quang cho kẻ thi hành thánh ý Chúa. Amen.
(Lectio Divina)
SỨ MỆNH TRUYỀN GIÁO
Suy Niệm
Chúa Giêsu không còn sống cùng với thân nhân của Người ở Nagiarét nữa. Nhà của Người bây giờ ở Cápharnaum (Mc 2:1). Gia đình Người phải đi một quãng đường khoảng 40 cây số để tìm Người ở đó và tìm cách giữ Người lại vì họ cho rằng Người bị “mất trí”. Có lẽ họ đã nghe kể lại rằng Chúa Giêsu đã hành xử không bình thường. Có thể họ đã nghĩ rằng Người đang gây nguy hại cho danh dự của gia tộc. Rõ ràng là mối quan hệ của Chúa Giêsu với người thân của Người là sự chịu đựng. Tại Israel thời xưa, gia tộc (đại gia đình của một người) là phương thức bảo đảm việc che chở lẫn nhau, phát huy truyền thống và đề cao bản sắc người Do Thái.
Tại miền Galilêa vào thời Chúa Giêsu, vì hệ thống đế chế La Mã được du nhập và bị áp đặt dưới sự cai trị của vua Hêrôđê Cả (năm 37 TCN đến năm 4 TCN) và con ông ta là vua Herôđê Antipát (năm 4 TCN đến năm 39 sau Công nguyên), tất cả những điều này đã không còn hiện hữu hoặc dần mờ nhạt đi. Gia tộc (cộng đoàn) đang suy tàn. Các khoản thuế phải nộp cho chính phủ và cho Đền Thờ, việc nợ nần cá nhân ngày càng tăng, tâm lý chủ nghĩa cá nhân của văn hóa Hy Lạp, các đe dọa áp bức thô bạo thường xuyên từ phía người La Mã, bổn phận phải đón nhận binh lính La Mã và cung cấp chỗ ở cho họ, điều thách thức hơn bao giờ hết là phải sinh tồn – tất cả những yếu tố này đã khiến cho các gia đình sống xa cách với người khác và tập trung vào các nhu cầu riêng của họ. Lòng hiếu khách không còn được thực hành nữa, không còn việc chia sẻ, cũng không còn việc quây quần quanh bàn ăn, cũng như việc đón nhận những kẻ bị hắt hủi. Sự tập trung vào gia đình trực hệ này được củng cố bởi các tập tục tôn giáo của thời ấy. Việc tuân giữ các chuẩn mực về luật thanh khiết là một yếu tố cho việc gạt bỏ nhiều người: phụ nữ, trẻ nhỏ, người Samaritanô, khách ngoại kiều, người phong cùi, người bệnh, kẻ tật nguyền, người thu thuế, người bại liệt. Những chuẩn mực này, thay vì thiên về đón nhận và chia sẻ, đã tạo cớ cho sự tách biệt và loại trừ.
Các kinh sư trong bài Tin Mừng hôm nay tố cáo Chúa Giêsu bị quỷ ám; “dựa thế quỷ vương mà Ông ấy trừ quỷ.” Họ đã có thành kiến và sẽ không để cho bất cứ điều gì – bất kể việc làm bác ái, bất kể sứ điệp mang lại sự sống, bất kể niềm vui mừng – thấm nhập vào lương tâm và thay đổi chủ kiến của họ. Chúa Giêsu gọi thái độ đó là sự xúc phạm đến Chúa Thánh Thần. Đó là một hình thức tôn thờ ngẫu tượng mà qua đó chúng ta thần thánh hóa giáo điều hay quan điểm riêng của mình, không để cho Chúa hoặc bất cứ ai có thể bước vào để mở rộng tầm mắt của chúng ta. Tội này không thể tha được (“tội muôn đời”) bởi vì người ta sẵn lòng nhốt mình trong bức tường ý thức hệ, ngăn cách với ân sủng và tạo ra nấm mồ cho riêng họ. Lời lên án của Chúa Giêsu đối với thái độ ấy là lời phê bình gay gắt nhất mà Người lên tiếng trong các sách Tin Mừng. Người nói về những kẻ đã tự quá giam hãm mình đến nỗi mà họ chỉ có thể đi từ chỗ tệ đến tệ hơn, cuối cùng là dẫn đến âm mưu đóng đinh Người.
Nhóm còn lại là những người có lẽ bị đánh giá sai lạc mà chúng ta nghe tới là thân nhân của Chúa. Chúa Giêsu bỗng nhiên trở thành người của công chúng và đã làm cho giới chức thẩm quyền tức giận. Có lẽ họ đã có một cuộc họp nào đó trong vòng gia tộc, rồi quyết định cử một nhóm đại diện đi tìm Chúa Giêsu và giúp Người tỉnh trí trở về nhà. Có lẽ họ đã có ý tưởng rằng Chúa phải là một thành viên như thế nào trong vòng gia tộc, và Người đã không tuân theo. Hoặc có thể họ đã đến để xem chuyện ồn ào đó là gì, để điều tra về các lời cáo buộc. Chúa Giêsu tuyên bố rằng mối quan hệ thân thiết nhất của Người không được hình thành bởi huyết thống hoặc gia tộc. Đối với Chúa Giêsu, thân nhân thực sự của Người là những ai liên kết với Thiên Chúa trong tình yêu thương như Người (“Ai làm theo ý của Thiên Chúa…”). Đây là những người mà Chúa sẽ bảo vệ như Người bảo vệ thân mẫu Người và các anh em Người, những người mà Chúa sẽ đối xử như những người đồng thừa tự với Người mọi điều mà Chúa Cha đã hứa. Thay vì sống thu hẹp trong vòng gia đình nhỏ bé của mình, Chúa Giêsu mở rộng ranh giới gia đình và tạo ra cộng đoàn. Người hiểu được ý nghĩa sâu xa của gia đình, dòng tộc, cộng đoàn như một biểu hiện của sự nhập thể của tình yêu Thiên Chúa trong tình yêu đối với người lân cận.
Một vài câu hỏi riêng:
– Đời sống gia đình đã giúp ích hay ngăn trở việc tham gia vào đời sống cộng đoàn Kitô hữu bằng những cách nào?
– Bạn có chấp nhận Chúa Giêsu theo những điều kiện của Người, hay bạn sẽ chỉ chấp nhận một Đấng Thiên Sai đáp ứng theo sự mong chờ của bạn thôi?
– Bạn hoặc các thành viên trong cộng đoàn của bạn đã bao giờ theo đuổi một ai đó mà bạn nghĩ là “mất trí” chưa? Bạn đã phán đoán việc này dựa theo những tiêu chuẩn nào? Nếu đó là Chúa Giêsu, các tiêu chuẩn của bạn có thay đổi không?
– Lời vu khống (chẳng hạn như lời cáo buộc của các kinh sư nhắm vào Chúa Giêsu rằng: “Ông ấy bị quỷ Bê-endêbun ám”) là vũ khí của kẻ yếu thế. Bạn đã có bao giờ đặt lời vu khống cho ai đó hoặc bị vu khống chưa?
– Để trở thành một phần tử trong vòng thân cận của Chúa Giêsu sẽ đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ mọi đòi hỏi quan trọng dựa trên chủng tộc, giới tính, sắc tộc, của cải, địa vị tôn giáo, v.v. Bạn có sẵn sàng làm những điều đó chưa?
Lời nguyện kết
Lạy CHÚA, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ,
Biết cả khi con đứng con ngồi,
Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa,
Đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét.
Xin Ngài xem con có lạc vào đường gian ác
Thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời. Amen.
(Dựa theo Thánh Vịnh 139)
(Suy niệm của GKGĐ. Giáo Phận Phú Cường)
Tin mừng Mc 3: 20-35: “Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời”.
SUY NIỆM
Chúng ta tự hỏi, tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội gì? Vì sao lại ghê gớm và nặng nề đến thế?
Lạy Chúa, Chúa muốn chúng con luôn luôn tín thác cuộc đời mình trong tay Chúa, để Chúa quan phòng và an bài theo thánh ý Chúa. Xin cho chúng con tin tưởng vững vàng tình yêu và ơn tha thứ của Chúa, để chúng con đáng lãnh nhận ơn cứu độ đời đời. Lạy Chúa Thánh Thần, lòng chúng con đang mở rộng. Xin hãy đến mà uốn nắn chúng con, để chúng con sống xứng đáng là con Thiên Chúa trong từng ngày sống của chúng con. Amen.
LÀ ANH CHỊ EM CỦA ĐỨC KITÔ (Mc 3,20-35)
Suy niệm: Xét trên bình diện tự nhiên, đây có thể là một trong những giây phút phũ phàng nhất trong đời của Chúa Giê-su. Người dưng nước lã nói Ngài bị quỷ ám thì cũng đành; còn ở đây ngay cả thân nhân bà con cũng đến để lôi Chúa về nhà, vì họ cho rằng Chúa bị điên loạn, mất trí. Sống trong thân phận con người, nhưng Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa nhập thể, vẫn không để bản tính nhân loại lấn át, kéo Ngài xa lạc khỏi sứ mạng thiêng liêng: cứu độ con người để nâng con người lên địa vị làm con cái Thiên Chúa. Ngài nhìn mọi sự trong nhãn quan siêu nhiên đó và cho chúng ta biết mối tương quan thân thuộc đích thực của chúng ta với Ngài không hệ tại ở huyết thống nhân loại mà là ở việc “thi hành ý muốn của Thiên Chúa”.
Mời Bạn: Thay vì nghĩ suy, cư xử theo sự thúc đẩy của xu hướng tự nhiên, chúng ta nhận ra Chúa nơi mọi sự, mọi người; thay vì chạy theo chủ nghĩa thế tục để tìm kiếm tiền tài, danh vọng cốt sao có thể hưởng thụ tối đa ở đời này mà thôi, đối lại, với cặp mắt đức tin siêu nhiên, chúng ta luôn tìm kiếm và hưởng dùng mọi sự, nhắm tới cùng đích là hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời. Nói tóm lại, để trở thành anh em chị em với Chúa Ki-tô, nghĩa là sống trong tình thân với Ngài, chỉ cần một điều kiện, đó là “thi hành ý muốn của Thiên Chúa”.
Sống Lời Chúa: Trước khi hành động bất cứ điều gì, mời bạn dừng lại một giây để thưa với Chúa: “Chúa muốn con làm gì để đẹp ý Chúa?”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy con biết nhận ra Chúa trong mọi sự và biết nhìn mọi sự trong Chúa để con xứng đáng là anh em chị em với Chúa.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
– Bài đọc I (St 3,9-15): Satan cám dỗ nguyên tổ phạm tội
– Đáp ca (Tv 129): Lời cầu nguyện của kẻ lỡ phạm tội.
– Tin Mừng (Mc 3,20-35): Đức Giêsu và quỷ vương Bêendêbun
Anh chị em thân mến
Có một thực tại vô hình nhưng rất năng động trong cuộc sống, đó là sự phá hoại của Satan. Thánh Phêrô đã khuyến cáo các tín hữu của ngài rằng “Ma quỷ như sư tử luôn rảo quanh tìm mồi”.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy cho biết Satan luôn phá hoại chúng ta thế nào, và bằng cách nào chúng ta có thể thoát khỏi sự phá hoại ấy.
– Vì coi thường sự phá hoại của ma quỷ nên nhiều lần chúng ta sa ngã vì cám dỗ của chúng.
– Nhiều khi chúng ta nghe theo lời xúi dục của ma quỷ mà không nghe lời Chúa.
– Xin Chúa thương xót thân phận yếu đuối tội lỗi của chúng con.
III. LỜI CHÚA
Bài tường thuật này xử dụng một câu chuyện (có thể chỉ là hư cấu) để diễn tả những điểm giáo lý quan trọng:
– Đầu mối của tội lỗi là Satan: Khi bị Thiên Chúa hạch hỏi về tội đã phạm, ban đầu Adam đổ cho Evà, nhưng sau cùng Evà đã thú nhận là do Satan xúi dục.
– Sự phá hoại của Satan vẫn còn tiếp tục: Thiên Chúa phán với con rắn “Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ của mi và miêu duệ người nữ”.
Lời cầu nguyện của kẻ lỡ phạm tội: “Từ vực sâu con kêu lên Chúa… Nếu Chúa nhớ hoài sự lỗi thì nào ai đứng vững được… bởi vì Chúa rộng lượng từ bi và Chúa rất giàu ơn cứu độ”
Sự phá hoại của Satan mà Thiên Chúa đã nói trong sách Sáng thế được tiếp tục nơi Đức Giêsu. Satan phá hoại Ngài bằng nhiều cách:
– Xúi giục các luật sĩ xuyên tạc phép lạ Đức Giêsu làm, rằng Ngài đã dùng sức quỷ vương mà trị quỷ nhỏ.
– Xúi giục những người phạm tội “phạm đến Chúa Thánh Thần”, nghĩa là không chịu sám hối để được tha thứ.
– Xúi giục chính những người thân của Đức Giêsu khiến họ nói rằng Ngài đã “mất trí” và “đi bắt” Ngài về không cho tiếp tục việc rao giảng Tin Mừng.
Nhưng cũng như Thiên Chúa đã tiên báo trong sách Sáng thế “Miêu duệ người nữ sẽ đạp nát đầu mi”, Đức Giêsu cũng khẳng định rằng nước của Satan sẽ sụp đổ.
Trong trích đoạn tuần trước, Thánh Phaolô đã khiêm tốn nhìn nhận thân phận yếu đuối của người tông đồ (như chiếc bình sành dễ vỡ), đồng thời khẳng định sự hỗ trợ mạnh mẽ của Chúa.
Trong trích đoạn hôm nay, Thánh Phaolô tuyên xưng niềm tin của mình vào sức sống mới do Đức Giêsu ban:
– Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô sống lại thì cũng làm cho chúng ta sống lại
– Mặc dù con người bên ngoài của chúng ta bị tiêu huỷ đi nhưng con người bên trong của chúng ta ngày càng được canh tân
– Gian truân hiện nay chỉ là nhất thời và nhẹ nhàng so với vinh quang đời đời sẽ được ban cho chúng ta.
– Nếu căn nhà chúng ta cư ngụ ở trần gian này bị phá huỷ đi thì chúng ta có một nơi định cư vĩnh viễn ở trên trời
* 1. Đổ lỗi cho người khác
Có lỗi thì nhận lỗi. Đó là điều hợp lý và phải làm. Có như thế thì mới sửa lỗi được và mới đáng được tha.
Một trong những cách phá hoại của Satan là xúi người ta chối lỗi và đổ cho người khác. Cách phá hoại này được Satan xử dụng rất thường từ xưa đến nay:
– Ngày xưa nó xúi Adam đổ lỗi cho Evà, xúi Eva đổ lỗi cho con rắn
– Ngày nay nó xúi từ trẻ con đến người lớn dù phạm tội nhưng luôn đổ lỗi cho người khác: trẻ con làm gì sai quấy bị cha mẹ rầy luôn đổ cho người khác; người lớn cũng thế: tại người này, do nguyên nhân nọ… ít khi nào dám nhận là tại mình và do mình.
Khi chúng ta làm theo sự xúi dục của Satan mà đổ lỗi cho người khác, chúng ta không sửa lỗi được và không được tha thứ. Đây cũng là một hình thức “phạm đến Chúa Thánh Thần” mà Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng.
* 2. Ganh ghét và xuyên tạc
Một cách phá hoại khác của Satan là khơi lên lòng ganh ghét để người ganh ghét xuyên tạc việc làm của kẻ khác. Thâm độc của cách phá hoại này là khiến cho người ganh ghét bị mù quáng không nhận ra sự thật, và làm cho điều tốt bị hiểu lầm là điều xấu.
Trong bài Tin Mừng, các luật sĩ đâu phải là những người ít học và không có tinh thần đạo đức. Nhưng Satan đã làm mù những kiến thức và lòng đạo đức của họ bằng tính ganh ghét. Và kết quả là khi họ đã bị mù quáng rồi, họ xuyên tạc việc Đức Giêsu chữa bệnh là “dùng sức quỷ cả để trị quỷ con”.
Việc các luật sĩ mà cũng bị rơi vào bẫy của Satan khuyến cáo chúng ta đừng nghĩ mình là kitô hữu, là cán bộ tông đồ, là tu sĩ hay giáo sĩ mà có thể tránh khỏi lòng ganh ghét dẫn đến việc xuyên tạc người khác.
* 3. Khôn ngoan và “mất trí”
Một cách phá hoại nữa của Satan là xúi người ta đánh giá việc của Chúa bằng sự khôn ngoan của loài người.
Những người thân của Đức Giêsu đã rơi vào cái bẫy này: Ngài đang làm công việc của một Đấng Cứu Thế, xả thân không ngơi nghỉ để giảng dạy và chữa bệnh cho dân chúng. Nhưng họ đã suy nghĩ theo sự khôn ngoan của loài người nên nói Ngài “mất trí” và muốn bắt Ngài về nhà.
* 4. Tội phạm đến Thánh Thần
Trên một chiếc tàu vượt đại dương, có một kỹ sư tàu biển tên là Egbert. Công việc của ông là ngồi trong phòng máy và tuân theo lệnh của Đô đốc ở trên cầu tàu truyền xuống.
Một hôm, Egbert suy nghĩ rồi tự nhủ: Ta là nhân vật quan trọng nhưng đâu có ai quý trọng ta. Còn vị Đô đốc chỉ ngồi trên cầu tàu ra lệnh, chẳng để ý đến ta ở dưới buồng máy không được ngắm trời mây non nước.
Càng nghĩ ông thấy mình càng quan trọng. Lúc đó, chuông rung và có lệnh: “Hãy quay trở lại”. Egbert lầm bầm: “Tôi là kỹ sư đã 30 năm, từng vượt biển cả 100 lần. Đây là lần đầu tiên có người bảo tôi phải quay trở lại giữa đại dương. Ông Đô đốc này chỉ biết ra lệnh thôi !”
Nói xong, thay vì trở lui, Egbert cứ cho tàu lao tới phía trước, mà còn tăng tốc nhanh gấp đôi. Con tàu đâm xầm vào một chiếc tàu khác, vỡ nát tan tành.
*
Tâm trạng anh kỹ sư tàu biển trên đây không khác gì các luật sĩ Do thái thời Đức Giêsu. Họ kiêu căng mà không nhận mình kiêu căng. Họ cho mình là tài giỏi, xứng đáng hơn người. Họ xuyên tạc chê bai việc lành của người khác. Họ giữ đạo mà không có tinh thần đạo đức. Họ làm việc thiện cốt để khoe khoang.
Với tâm trạng ấy, hôm nay họ tỏ rõ thái độ kiêu căng bất mãn. Thấy dân Do thái đổ xô đến chung quanh Đức Giêsu, họ ganh tị và khó chịu. Thấy phép lạ Người làm nhãn tiền, họ lại bảo Người bị quỉ ám. Thấy Người trừ quỉ, họ lại cho là do quyền lực quỉ vương. Thấy Người chữa bệnh cho kẻ phong cùi, họ lại kết án Người phạm luật ngày hưu lễ. Thấy Người viếng thăm kẻ tội lỗi, họ lại cho Người là bạn bè với bọn thu thuế và gái điếm. Nếu người ta đầy lòng kiêu ngạo, sẽ chẳng còn chỗ cho sự khôn ngoan. Hãy sống nhỏ bé trước mặt Chúa cả khi người ta là vua Đavít.
Thánh Giacôbê viết: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gc.4,6).
Đứng trước thái độ kiêu căng cố chấp ấy, Đức Giêsu chất vấn họ: “Satan lại trừ Satan được sao?” (Mc.3,26-27). Người cảnh cáo họ: “Mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào phạm thượng đến Chúa Thánh Thần, muôn đời sẽ không được tha” (Mc.3,28-30). Tội phạm đến Thánh Thần là chối bỏ sự hiện diện của Thần Khí trong Đức Giêsu là gán cho ma quỉ những gì thuộc về Thánh Thần.
Quả thực, Đức Giêsu xua trừ ma quỉ là “Bởi Thánh Thần Thiên Chúa” (Mt.12,28). Thánh Basiliô Xêdarê viết: “Khi gặp Đức Giêsu, ma quỉ đã bị mất hết quyền lực của mình trước sự hiện diện của Thánh Thần”. Vậy ai dám nói quyền lực của Đức Giêsu do Satan mà có là họ đã nói lộng ngôn phạm đến Thánh Thần.
Tội phạm đến Chúa Thánh Thần chính là “tội cố tình, từ chối quyền năng của Chúa Thánh Thần, nguồn ơn tha thứ”, Chúa luôn sẵn sàng tha thứ, nhưng Người không cưỡng ép chúng ta điều gì kể cả sự thứ tha. Một khi đã từ chối ơn tha thứ thì cũng có nghĩa là từ chối hạnh phúc Nước Trời. Nếu một người nghẹt mũi không ngửi thấy hương của hoa hồng, thì đó không phải là lỗi ở bông hoa, mà do bản thân người ấy.
Thomas Caryle có viết: “Không nhận ra lỗi lầm là lỗi lớn nhất trong một lầm lỗi”.
*
Lạy Chúa, xin dạy chúng con đừng bao giờ kiêu căng tự đắc, đừng bao giờ cho mình là tài giỏi đạo đức hơn người, đừng bao giờ cố chấp ở lì trong tội.
Xin cho chúng con biết theo Thánh Thần, để nhờ Người, chúng con được lãnh ơn Cứu độ của Chúa. Amen (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Mỗi người đều mang hai túi: một ở trước ngực và một ở sau lưng, và cả hai nhét đầy lầm lỗi.
Tuy nhiên, túi trước đựng lỗi của người hàng xóm và túi sau đựng lỗi của mình. Vì thế, người ta thường mù quáng với khuyết điểm của mình và luôn sáng mắt với khuyết điểm của anh em.
Khi Chúa ban cho Ađam và Eva được tự do là Ngài ban cho họ được chọn làm điều gì là tốt. Nhưng họ đã chọn làm điều xấu. Mà chọn điều xấu là lạm dụng quyền tự do. Và giống như trẻ con đã làm sai, họ đã đi trốn chứ không dám đối diện với hậu quả tội họ gây ra. Nhưng Chúa đã tìm họ và gọi: “Ađam, ngươi ở đâu?”
Ở đây có một thắc mắc nẩy sinh: Nếu Chúa biết mọi sự, thế thì tại sao Ngài còn hỏi “Ađam, ngươi ở đâu?” Thực ra Chúa hỏi thế không phải vì Ngài không biết Ađam đang ở đâu, mà chính vì Ađam không biết mình đang ở đâu. Ngài hỏi thế là để nhắc Ađam.
Câu hỏi “Ngươi đang ở đâu?” thật là một câu hỏi gây bối rối. Và câu này Chúa không chỉ hỏi Ađam, mà còn hỏi mọi người đang có tội: Ngươi đang ở đâu trong tương quan với Ta, với người khác và với chính bản thân ngươi?
Ađam đi trốn để khỏi trả lời câu hỏi ấy, để tránh trách nhiệm về việc mình đã gây ra. Chúng ta cũng tránh né vì cùng một lý do đó. Khi chúng ta sai lỗi, chúng ta sợ và trốn tránh trách nhiệm. Nhưng khi chúng ta trốn Chúa – là điều không thể – thì cũng là trốn tránh chính mình.
Thế nhưng có một Cái Gì đó vẫn đi tìm chúng ta, đó là tiếng Chúa hỏi trong lương tâm chúng ta “Ngươi đang ở đâu?” Thiên Chúa không thờ ơ, Ngài đi tìm chúng ta dù chúng ta muốn trốn tránh Ngài. Ngài đi tìm không phải để phạt, mà để giúp chúng ta đối diện với việc mình làm. Ngài thừa yêu thương để tha thứ cho chúng ta, nhưng Ngài muốn chúng ta gánh lấy trách nhiệm về tội đã phạm và cố gắng đền bù. Đối diện là dấu hiệu của yêu thương.
Ađam và Eva run sợ khi nghe tiếng Chúa. Họ xấu hổ về điều họ đã làm, và cũng xấu hổ về chính bản thân. Chúng ta cũng run sợ khi nghe hỏi “Ngươi đang ở đâu?” Nhưng câu hỏi này không phải là một sự tra khảo, mà là một sự giúp đỡ. Đó là tiếng của Đấng quan tâm đến chúng ta.
Ađam và Eva cảm thấy mình có tội. Ngày nay, từ “tội” hầu như chỉ mang nghĩa xấu. Thực ra tội cũng có giá trị xây dựng. Cảm thấy có tội là dấu chỉ một lương tâm còn lành mạnh: ai có lương tâm còn lành mạnh thì sau khi sai lỗi đều cảm thấy có tội. Tội cũng là dấu chỉ mình là con người thật sự: chỉ có người rối loạn tâm thần mới cảm thấy mình không có tội, bởi vì người đó đã bị chai lì về mặt luân lý. Đó không phải là người bình thường, không phải là một con người trọn vẹn.
Cũng như cơn đau là tiếng chuông báo động có cái gì trục trặc về thể lý, thì ý thức có tội là dấu chỉ cho biết có trục trặc về luân lý. Sự cắn rứt lương tâm kêu gọi ta phải thay đổi, phải tìm sự thật, phải sửa chữa lỗi lầm và phải xin ơn tha thứ. Tất cả đều có tác động tích cực.
Tội sinh ra hậu quả. Trước khi Ađam và Eva phạm tội, họ sống vui vẻ trong tình thân với Chúa. Sách Thánh mô tả chiều chiều họ cùng dạo chơi với Chúa trong làn gió hiu hiu. Sau khi phạm tội, họ trốn tránh Chúa và đổ lỗi cho nhau. Trước đó là hoà thuận và hợp nhất, sau đó là sợ hãi và chia rẽ.
Nhưng cảnh buồn bã của câu chuyện đã kết thúc bằng lời hứa cứu độ. Thiên Chúa thương xót Ađam Eva nên hứa ban Đấng cứu độ. Tin Mừng cho thấy lời hứa này đã được thực hiện nơi Đức Giêsu. Đức Giêsu đã chiến thắng Satan và thiết lập Nước Thiên Chúa. Đối với những ai tin vào Ngài và làm theo ý Thiên Chúa thì một tình thân mới được thành lập. Họ không chỉ là thụ tạo của Thiên Chúa mà còn là con cái trong gia đình Ngài và là anh em với những người khác. (Viết theo Flor McCarthy)
CT: Anh chị em thân mến
Sau khi đã nghe lời giáo huấn của Chúa, giờ đây chúng ta hãy dâng lên Ngài những lời cầu nguyện sốt sắng của chúng ta:
CT: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã bỏ ăn bỏ ngủ để giảng dạy chúng con biết con đường hạnh phúc và chữa trị những bệnh tật của loài người chúng con. Chúng con vô cùng cảm kích vì tấm lòng của Chúa. Xin Chúa giúp chúng con đáp lại tấm lòng Chúa bằng một cuộc sống luôn cố gắng thi hành ý Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
– Trước kinh Lạy Cha: Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã nói “Ai làm theo ý Thiên Chúa thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”. Trong kinh Lạy Cha sắp đọc, chúng ta hãy đặc biệt xin cho “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”
– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con thoát khỏi mọi hình thức phá hoại của Satan, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”
VII. GIẢI TÁN
Chúng ta đã biết những hình thức phá hoại tinh vi của ma quỷ. Trở về với cuộc sống thường ngày, chúng ta hãy tỉnh táo đừng nghe theo sự xúi dục của ma quỷ, nhưng cố gắng thi hành thánh ý Thiên Chúa.
TỘI PHẠM ĐẾN CHÚA THÁNH THẦN
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thánh Giacôbê viết: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường“ (Gc 4, 6). Nhân loại vốn bị ma quỷ cám dỗ, đặc biệt khi ông bà nguyên tổ Ađam và Evà đã nghe lời satan xúi giục sa ngã, phản nghịch lại Chúa, đã mang trong mình nọc độc của sự chết và kiêu ngạo. Chúa Giêsu đã chống cách quyết liệt những kẻ kiêu ngạo, tự tôn, tự đắc vv… Đại diện cho cho hạng người này là các luật sĩ Do Thái thời Chúa Giêsu. Do đó, đứng trước thái độ kiêu căng, tự mãn, cố chấp của họ, Đức Giêsu Kitô chất vấn họ: “Satan lại trừ satan được sao?” (Mc 3, 26-27) Chúa Giêsu nói lện uy quyền tuyệt đối của Thiên Chúa.Ngài cảnh cáo họ: “Mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào phạm thượng đến Chúa Thánh Thần, muôn đời sẽ không được tha“ (Mc 3, 28-30).
Ở đây Chúa Giêsu muốn nhắc nhở mọi người, nhắc nhớ chúng ta tội phạm đến Chúa Thánh Thần là chối bỏ sự có mặt của thần khí trong Đức Giêsu, thừa nhận và gán cho satan, ma quỉ những gì thuộc về thần khí, thuộc về Thánh Thần.Tin Mừng hôm nay cho hay, Chúa trừ quỷ là do quyền năng của Thiên Chúa. Ngài tạo dựng nên vũ trụ, dựng nên con người là do quyền năng tuyệt đối của Ngài… Sự sống và sự chết tùy thuộc quyền của Ngài. Chính vì thế, ai nói Chúa Giêsu xua trừ ma quỷ là nhờ đến tướng quỷ Belgiêbút là phạm thương, lộng ngôn, phạm đến Chúa Thánh Thần. Thánh Matthêu viết: “Đức Giêsu trừ ma quỷ là bởi Thánh Thần Thiên Chúa“ (Mt 12, 28). Tội phạm đến Chúa Thánh thần là tội ngoan cố, từ chối quyền năng của Chúa Thánh Thần, nguồn ơn tha thứ“. Chúa Giêsu đã cho thấy “Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa là mẹ và là anh em của Người“. Nói lên điều đó, Chúa Giêsu muốn nói lên thực tế là tất cả những ai sống trong Chúa, có Chúa Thánh Thần, họ sẽ biết lắng nghe và thực hành lời Chúa, và như thế họ nhận ra sự hiện diện đầy Thánh Thần của Chúa. Họ trở nên con Chúa và là anh em của mọi người.
Vâng, lời Chúa trong ba bài đọc hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ về ba điểm quan trọng: – tội lỗi lan tràn trong nhân loại, trên thế giới.- tội chống lại Chúa Thánh Thần. – thực hành ý muốn của Thiên Chúa. Thực tế, tội tràn lan trong vũ trụ, nơi con người. Làm sao con người và chúng ta kết thúc vương quốc tội lỗi của Satan và để vương quốc của Thiên Chúa sớm hoàn tất, sớm thành sự như lời Kinh Lạy Cha chúng ta thường đọc “Xin cho Nước Cha trị đến”. Tuy nhiên, muốn cho Nước cha trị đến, chúng ta phải nỗ lực, phải bắt tay góp công góp sức để xua đuổi những sự dữ, satan, ma quỷ ra khỏi trần gian để Nước Tình Yêu của Thiên Chúa được ngự trị. Rồi chúng ta phải vâng theo lời Chúa, sống như Chúa yêu để tất cả chúng ta đều là anh em trong Đức Kitô và ý muốn của Thiên Chúa được thể hiện. Cuối cùng, chúng ta tin vào lòng thứ tha của Chúa “Xin tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con“. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tha thứ và tha thứ mãi mãi cho anh em như Chúa đã thứ tha cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một trái tim rộng mở, trái tim nhảy cảm, biết yêu thương, cảm thông và tha thứ. Xin cho chúng con hiểu, cảm nghiệm sâu xa Kinh Lạy Cha không chỉ đọc suông, đọc thuộc lòng mà phải sống Kinh Lạy Cha. Xin cho chúng con tấm lòng đơn, hiền lành để chúng con không tự kiêu, ngạo mạn mà luôn biết khiêm nhường vì chúng con có làm được gì là do Chúa, là do tác động của Chúa Thánh Thần. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Truyện kể rằng: “Một nhà đạo sĩ người Ấn Độ lên đường với người đồ đệ đi theo hầu và người đồ đệ này có bổn phận phải chăm sóc con lạc đà. Tối hôm đó, thầy trò vào nghỉ chân ở một quán trọ bên đường. Người đồ đệ đi đường xa mệt mỏi quá nên quên cả việc buộc lạc đà vào cột, vừa lim dim đôi mắt ngủ vừa thầm thì cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, xin Chúa coi dùm con con lạc đà, con xin phó thác nó trong tay Chúa”. Sáng ra, vừa thức giấc người đồ đệ vội đi tìm lạc đà, nhưng không thấy nó đâu nữa. Nhà đạo sĩ mới hỏi: Lạc đà đâu rồi? Người đồ đệ thưa: Thưa thầy con không biết, xin thầy hỏi Chúa xem, tối qua Con đã phó thác lạc đà nhờ Chúa giữ dùm, nên lạc đà chạy trốn hoặc bị mất cắp đâu phải là lỗi của con, đó là trách nhiệm của Chúa, hẳn không phải là Thầy đã dạy bảo con là phải có lòng phó thác tin tưởng nơi Chúa đó sao. Nhà đạo sĩ ôn tồn nói: Con ơi, dĩ nhiên là phải có lòng tin tưởng phó thác nơi Chúa, nhưng trước hết con cũng phải làm tròn bổn phận của con, nên trước khi đi ngủ lẽ ra con phải cẩn thận buộc lạc đà vào cột, bởi vì Chúa không có tay nào khác ngoài hai tay của con.
Cầu nguyện không phải đòi buộc Thiên Chúa làm theo ý muốn của ta, Ngài phải phục vụ hay thi hành những dự tính, những chương trình thay đổi bất thường tùy hứng của ta. Nhưng ngược lại, cầu nguyện là xin Chúa cho chúng ta làm theo thánh ý Ngài, cầu nguyện là đặt chúng ta vào trong ý muốn của Chúa và Lời hằng sống của Ngài, để hiểu và thực thi ý Chúa muốn trong đời sống chúng ta, để ta trở nên khí cụ của Chúa. Cho nên, các Bài Lời Chúa hôm nay xoay quanh chủ đề về tầm quan trọng của việc làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc I, Trích thơ gửi tín hữu Do-thái, tác-giả Thư Do-Thái đã so sánh giữa 2 lễ vật hy sinh: Máu chiên bò theo Lề Luật của Cựu Ước không thể xóa sạch tội cho con người, nên phải tái diễn mỗi năm, còn Máu Đức Kitô chỉ cần đổ ra một lần là đủ xóa sạch tội cho con người, vì là máu đổ ra tự nguyện để làm theo thánh ý Thiên Chúa. Rồi, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu tuyên bố: mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa không đặt căn bản trên liên hệ ruột thịt, nhưng trên căn bản làm theo thánh ý của Ngài. Cụ thể, trong Tin mừng Thánh Marcô có kể rằng khi hay tin Chúa Giêsu say mê giảng dạy và chữa bệnh cho dân chúng đến nỗi không có thời giờ ăn uống, “thân nhân của Người liền đi bắt Người vì họ nói rằng Người đã mất trí” (Mc 3,21). Nhưng, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục Sứ mạng của Ngài là rao giảng Tin mừng, bất chấp các lời can ngăn của người thân vì Ngài đến trần trần gian là thi hành Thánh ý Cha. Tin Mừng viết hôm đó Chúa Giêsu giảng dạy dân chúng kéo đến rất đông nên “Mẹ Chúa Giêsu và anh em người đến và đứng ở ngoài”, có nghĩa Mẹ và anh em Chúa Giêsu thì “đứng ở ngoài” vòng vây đám đông chứ không phải đứng ngoài cửa, ngoài nhà thờ, còn đám đông nghe Ngài giảng thì “ngồi chung quanh” Ngài. Như thế có ý nói rằng những kẻ nghe Lời Chúa còn gần gũi và thân thiết với Ngài hơn cả người bà con ruột thịt. Vì thế, đối với mình, Chúa Giêsu coi trọng việc rao giảng Lời Chúa hơn việc gặp bà con; đối với người khác, Ngài coi trọng những người nghe Lời Chúa hơn cả bà con của Ngài.
Thế rồi, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn dân chúng đang hiện diện lắng nghe Ngài và Ngài nói, họ mới là anh em đích thực. Chúa Giêsu cũng đang nhìn chúng ta, khi ta chăm chú nghe Lời Chúa trong thánh lễ và nói rằng: “Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là Mẹ Ta”. Với lời khẳng định này, Đức Giêsu loan báo về gia đình của Ngài: + Có một gia đình thuộc huyết thống, đó là những người thân yêu cùng máu mủ đứng đàng kia. + Và còn có một gia đình mới đang ngồi đây này, đó là những người lắng nghe lời Chúa. Đức Giêsu không coi thường hay loại bỏ gia đình ruột thịt. Nhưng Ngài cho thấy Ngài còn có một gia đình lớn hơn nhiều, một gia đình gồm những người rất khác nhau về nhiều mặt, nhưng lại có một mẫu số chung, một điểm giống nhau, đó là cùng muốn thi hành ý Thiên Chúa trong cuộc sống.
Chúa Giêsu cho biết tất cả mọi người đều có thể trở nên anh chị em của Ngài, với điều kiện duy nhất là “làm theo ý Cha Ta”. Mà Thiên Chúa ý muốn chúng ta làm gì trên trần gian này: xin vâng và thi hành Lời Chúa ở bất cứ lúc nào và hoàn cảnh nào dù hạnh phúc hay đau khổ. Vì chưng, khi chúng ta bước đi trong đời bằng Lời Chúa và vâng phục ý Chúa, chúng ta chẳng những không sợ hãi nhưng lại tin tưởng rằng bất cứ điều gì chúng ta làm đều được bao bọc trong ân sủng của Chúa. Ông Phêrô đã vất vả thả lưới suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào mà chỉ khi Chúa Giêsu truyền lệnh và ông vâng Lời Chúa thì được mẻ cá đầy thuyền (Lc 5,1-11). Rõ ràng rằng vì tin và vâng Lời Chúa nên Phêrô bắt được cá, ngược lại chính sự tự cao, quên Chúa, quên Lời Ngài nên cả đêm chẳng bắt được con cá nào. Không phải nhờ vào khả năng của chính mình mà Phêrô bắt được cá, nhưng nhờ tin và thi hành Lời Chúa truyền. Thế rồi, cũng chính vì tin rằng Lời Chúa Giêsu uy lực nên chị phụ nữ tội lỗi cấp thành phố đã sẵn sàng làm tất cả để được thứ tha và đem lại nguồn bình an và hạnh phúc đích thực cho đời chị (Lc 7,37-47).
Rồi trong những lúc chúng ta gặp khó khăn, gian nan chúng ta hãy sống Lời Chúa và tuân theo Thánh ý Ngài vì Lời Chúa đem lại cho bạn sức mạnh để chịu đựng đau khổ một trật giúp bạn kiên trì giữ vững đức tin hầu đến một lúc nào đó bạn sẽ thấy Chúa thực hiện những điều kỳ diệu và những điều lớn lao mà chúng ta không tưởng tượng được! Như Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô xác tín rằng vì có được cùng một lòng tin, chúng tôi biết rằng Đấng đã làm cho Chúa Giê-su trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giê-su, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em. Cho nên chúng tôi không chán nản. Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới. Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết tin Chúa, thì cũng biết sống Lời Ngài và thi hành thánh ý Chúa vì Lời Chúa sẽ giúp chúng ta sống can trường và bình an trong đau khổ, vui tươi khi hoạn nạn, và lạc quan khi gian khổ. Với lòng tin như thế, mời anh chị em tuyên xứng đức tin…
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Một dịp Chúa Giêsu về quê Na-da-rét, nơi Ngài sinh trưởng, và đến hội đường theo luật giữ ngày sa-bát. Sau khi nghe Ngài giảng thuyết, mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài (Lc 4:22), nhưng cũng có những người đặt vấn đề: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria; anh em của ông không phải là các ông Giacôbê, Giôxếp, Simôn và Giuđa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?” (Mt 13:54-56).
Và Chúa Giêsu kết luận: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi”. (Mt 13:57; Mc 6:4; Lc 4:24). Thân và Thù là hai lĩnh vực khác nhau, làn ranh giữa hai lĩnh vực đó rất mong manh. Tuy kẻ thù nguy hiểm mà lại không đáng sợ, người thân không nguy hiểm mà lại đáng sợ. Bởi vì đối với kẻ thù, chúng ta biết họ không ưa mình nên có thể dễ tránh; còn đối với người thân, chúng ta cứ tưởng an toàn nhưng khi họ phản lại thì chúng ta không tránh kịp – nhất là đối với những người nói năng “ngọt như đường cát, mát như đường phèn”. Sự thật phũ phàng thế đấy!
Ngày xưa, An Dương Vương cai trị nước Âu Lạc, Triệu Đà nhiều phen phải vỡ mộng xâm lăng, đành cầu hòa bằng cách muốn An Dương Vương gả con gái Mỵ Châu cho Trọng Thủy, con của giặc phương Bắc. Tuy đã là con rể, nhưng Trọng Thủy luôn tìm kế để đánh cắp nỏ thần. Vì mật ngọt mà ruồi dính bẫy, nghe lời đường mật của giặc mà An Dương Vương sập bẫy, và rồi hóa thành người “nuôi ong tay áo”, thật nguy hiểm! Cuối cùng, Thần Kim Quy phải nói thẳng với An Dương Vương: “Giặc ngồi ngay sau lưng đó”. Những chiếc lông ngỗng của Mỵ Châu bay mất hết trơn!
Trình thuật St 3:9-15 cho biết về chuyện con người bất tuân lệnh Chúa vì nghe lời đường mật của loài quỷ quyệt. Một hôm, Thiên Chúa gọi con người và hỏi: “Ngươi ở đâu?”. Con người thưa: “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con SỢ HÃI vì con trần truồng, nên con lẩn trốn”. Thiên Chúa hỏi: “Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?”. Con người thưa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn”. Thiên Chúa hỏi người đàn bà: “Ngươi đã làm gì thế?”. Người đàn bà thưa: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”. Vòng luẩn quẩn của sự ác, đổ lỗi vòng quanh cho nhau chứ không phục thiện, không thú tội. Tà tâm ưa bóng tối, bóng tối sợ ánh sáng.
Con người đang thân thiện với Thiên Chúa, nay hóa thành thù địch với Ngài, chỉ vì con người đã kiêu ngạo mà hóa thành tội nhân. Rồi Thiên Chúa phán với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó”. Tội lỗi cũng có tính liên đới, chứ không phải ai tội mặc ai.
Người Việt có câu: “Chưa đánh được người thì mặt đỏ như vang, đánh được người rồi thì mặt vàng như nghệ”. Thế đấy, hùng hổ lắm thì co rúm nhiều. Đang yên đang lành thì cảm thấy nhàm chán, con người rửng mỡ nên muốn vùng lên, vùng lên rồi sợ hãi, mặt mũi xanh lè. Đó là “nợ truyền kiếp” khiến chúng ta cũng liên lụy – một dạng liên đới tội lỗi. Nếu nhận biết mình là tội nhân khốn nạn thì thật có phúc, nhận diện mình để khiêm nhường cầu xin: “Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu” (Tv 130:1-2). Chắc chắn Chúa thương liền!
Thật vậy, Ngài luôn đại lượng, chỉ mong tha thứ, đúng như Thánh Vịnh gia đã cảm nhận: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài. Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người” (Tv 130:3-5). Vô phúc vì đang là tội nhân, thế mà lại hóa diễm phúc vì được tận hưởng Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa. Thật là ngoài sự mong ước của chúng ta, bởi vì chúng ta là những đứa con hoàng đàng, khi trở về chỉ mong cha coi như người làm công là tốt lắm rồi, nào ngờ cha lại yêu thương hơn xưa, cho hưởng mọi thứ và còn đãi tiệc ăn mừng một kẻ-đã-chết-nay-sống-lại (x. Lc 15:11-32).
Thiên Chúa là thế, chúng ta không thể nào hiểu nổi. Mặc dù chúng ta tội lỗi tày trời, khốn nạn vô cùng, nhưng Ngài vẫn “luôn từ ái một niềm” bởi vì “ơn cứu chuộc nơi Ngài chan chứa” (Tv 130:7), và “chính Ngài sẽ cứu thoát khỏi tội khiên muôn vàn” (Tv 130:8). Không thể có ngôn ngữ nào mô tả được đúng mức về niềm hạnh phúc quá lớn lao như vậy.
Đức tin là một trong ba nhân đức đối thần kỳ diệu: “Dùng tất cả NHIỆT TÌNH để có LÒNG TIN thì có thêm ĐỨC ĐỘ, có đức độ lại thêm HIỂU BIẾT, có hiểu biết lại thêm TIẾT ĐỘ, có tiết độ lại thêm KIÊN NHẪN, có kiên nhẫn lại thêm ĐẠO ĐỨC, có đạo đức lại thêm TÌNH HUYNH ĐỆ, có tình huynh đệ lại thêm BÁC ÁI” (2 Pr 1:5-7). Đó là tính liên đới nhân đức trong đời sống Kitô hữu. Đức ái là đỉnh cao, đặc biệt là tồn tại cả đời này và đời sau (1 Cr 13:13).
Liên quan đức tin, Thánh Phaolô nói: “Vì có được cùng một lòng tin, như đã chép: Tôi đã tin, nên tôi mới nói, thì chúng tôi cũng tin, nên chúng tôi mới nói. Quả thật, chúng tôi biết rằng Đấng đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giêsu, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em. Thật vậy, tất cả những điều ấy xảy ra là vì anh em. Như thế, ân sủng càng dồi dào thì càng có đông người dâng lên Thiên Chúa muôn ngàn lời cảm tạ, để tôn vinh Người” (2 Cr 4:13-15). Cũng đề cập đức tin, Thánh nữ Bernadette phân tích rất hay: “Người tin thì không cần giải thích, người không tin thì giải thích cũng vô ích”. Cụ thể nhất là đối với người vô thần, nói về đức tin với họ không bằng nói với đầu gối – về nhiều vấn đề khác cũng tương tự, bởi vì họ cố chấp.
Với niềm xác tín mạnh mẽ, Thánh Phaolô cho biết: “Cho nên chúng tôi KHÔNG CHÁN NẢN. Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới. Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. Vì thế, chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật HỮU HÌNH chỉ TẠM THỜI, còn những thực tại VÔ HÌNH mới TỒN TẠI VĨNH VIỄN” (2 Cr 4:16-18). Thân xác sống nhờ thần khí chứ chính nó chẳng có giá trị gì (x. Ga 6:63), nó “thân” lắm đấy nhưng nó cũng dễ biến thành “thù” ngay, và rồi nó sẽ phải tan biến thành cát bụi, còn linh hồn mới thực sự bất tử. Đừng nuông chiều hoặc quá chăm chút thân xác mà làm hại linh hồn mình!
Thánh Phaolô kết luận: “Quả thật, chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá huỷ đi thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5:1). Chết là biến đổi chứ không là “chấm hết”.
Cuộc sống luôn nhiêu khê và đáng quan ngại, sợ nhất là chính mình – nội gián đáng gờm nhất, rồi đến người thân, sau đó mới là người khác và kẻ thù. Trình thuật Mc 3:20-35 cho biết rằng các thân nhân và các kinh sư đều coi Đức Giêsu là người mất trí, thậm chí còn nói Ngài “bị thần ô uế ám”. Người Việt có ý tưởng chí lý: “Giòi trong xương giòi ra”.
Một lần nọ, Chúa Giêsu trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Ngài và các môn đệ không sao ăn uống được. THÂN NHÂN của Ngài hay tin ấy, liền đi BẮT Ngài, vì họ nói rằng Ngài đã MẤT TRÍ. Theo ngôn từ ngày nay, người ta nói là BóTay.com hoặc “cạn lời”. Hết ý kiến và lắc đầu ngán ngẩm quá!
Rồi cũng chưa yên và còn tệ hơn nữa, vì các kinh sư từ Giêrusalem xuống lại nói rằng Ngài BỊ QUỶ VƯƠNG BÊ-EN-DÊ-BUN ÁM và DỰA THẾ QUỶ VƯƠNG mà trừ quỷ. Những cái “đầu tôm” ở tột cùng của sự ngu dốt tồi tệ. Xã hội ngày nay ở Việt Nam cũng không thiếu loại người như vậy!
Nhưng đừng tưởng bở, chuyện đâu còn có đó. Biết vậy, Ngài liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Satan làm sao trừ Satan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững”. Lý luận chặt chẽ, phân tích rạch ròi. Và Ngài minh định: “Vậy Satan mà chống Satan, Satan mà tự chia rẽ thì KHÔNG THỂ TỒN TẠI, nhưng đã TẬN SỐ. Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó”. Chắc chắn họ đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt mà thôi. Dốt mà chảnh, ngu mà ta đây. Đúng là lũ “đầu đất” hợm mình tới mức hết thuốc chữa!
Đó cũng là bài học cho những ai thực sự muốn sống nghiêm túc, muốn nên người và nên thánh. Thật thế, tự triệt tiêu tôi thì thành thánh. Thế thôi!
Tội lỗi không chỉ có tính liên đới mà còn có mức độ, Giáo Hội gọi là Trọng Tội và Khinh Tội (tội nhẹ). Tội nào cũng được tha nếu thật lòng ăn năn sám hối, quyết tâm chấn chỉnh và hoán cải, nhưng có một loại tội lớn hơn các loại tội to, nặng hơn các loại tội trọng mà Chúa Giêsu đề cập: “Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói PHẠM ĐẾN THÁNH THẦN thì chẳng đời nào được tha, mà còn MẮC TỘI MUÔN ĐỜI”. Đó là tội mà họ đã dám nói Chúa Giêsu “bị thần ô uế ám”. Xúc phạm Thiên Chúa thì hết cách cứu!
Liên quan Thân và Thù, Chúa Giêsu xác định ai mới thật là thân nhân của Ngài (Mc 3:31-35; tương đương Mt 12:46-50; Lc 8:19-21).
Lúc đó, Mẹ và anh em của Chúa Giêsu đến, đứng đợi ở ngoài và cho gọi Ngài ra. Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Ngài. Có kẻ nói với Ngài: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”. Nhưng Ngài đáp lại bằng một câu hỏi: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”. Nói rồi Ngài rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”.
Nói vậy không có nghĩa là Chúa Giêsu không coi trọng tình cảm gia đình hoặc coi thường thân nhân, nhưng Ngài muốn nói đến tầm quan trọng của việc lắng nghe và sống đúng Lời Chúa, tất nhiên cũng không loại trừ việc học hỏi Lời Chúa. Vô tri bất mộ, không hiểu đúng Lời Chúa thì khó có thể yêu mến, không yêu mến Lời Chúa thì làm sao muốn sống Lời Chúa? Rất lô-gích, rất hợp lý!
Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp con biết nhận diện chính mình để có thể đè nén “cái tôi” tồi tệ trong con người của con, bởi vì không có Ngài thì con chẳng làm được chi cả (x. Ga 15:5). Con biết con ngu dốt hơn mọi người, không thông minh bằng người khác (Cn 30:1), xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ (Tv 119:34), xin ban trí thông minh để con được am tường thánh ý (Tv 119:125). Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
(Suy niệm của Minh An)
“SỰ KỲ DIỆU CỦA VIỆC THI HÀNH LỜI CHÚA”
Bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ X hôm nay, thánh sử Marcô đã kể rất chi tiết về những lời giáo huấn của Chúa Giêsu khi Người trở về nhà mình.
Đầu tiên, là giáo huấn về sự hiệp nhất: các kinh sư từ Giêrusalem xuống, cho rằng Đức Giêsu đã lấy quyền của quỷ để trừ quỷ, đó là một sự nhục mạ Thiên Chúa, nên Người dạy cho họ biết rằng: “Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. Vậy, Xatan mà chống Xatan, Xatan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số” (Mc 3, 24-26).
Thứ đến, là giáo huấn về tội phạm thánh: “Ai nói phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời” (Mc 3,29). Tội phạm đến Thánh Thần là gán cho thần ô uế một hành động mà Thiên Chúa thực hiện. Cố ý gán ý đồ xấu cho các hành động tốt của người khác, của Giáo Hội hay các nhóm khác là nói phạm thượng đến Thánh Thần (chú giải của CGKPV).
Cuối cùng, là giáo huấn về việc lắng nghe và thi hành ý muốn của Thiên Chúa để trở nên mẹ và anh, chị, em của Người: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3, 34.35).
Giáo huấn của Chúa Giêsu về việc lắng nghe và thi hành lời Chúa là giáo huấn tuyệt diệu, bởi vậy chúng ta chỉ dừng lại để suy gẫm điều tuyệt diệu này:
* Thành quả của việc thi hành lời Chúa
Có lẽ Vịnh gia đã đọc Lời Chúa, sống Lời Chúa cách rất thiết thực và ông đã cảm nhận được rằng, Lời Chúa như là “Kim Chỉ Nam” luôn dẫn đường đưa lối cho ông trong cuộc sống, nên ông đã phải xướng lên: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118,105). Còn ngôn sứ Giêrêmia, tuyệt diệu hơn nữa khi ông cảm nhận được Lời Chúa như là một thứ lương thực đem lại sức sống thần thiêng cho ông, bởi vậy, ông đã sung sướng nuốt ngay Lời Chúa vào lòng mà thốt lên: “Lạy Chúa, là Chúa tể càn khôn, gặp được Lời Chúa con đã nuốt vào. Lời Chúa trở thành hoan lạc cho con, thành niềm vui của lòng con, vì con được mang danh Ngài” (Gr 15,16). Và thánh Giacôbê, trong thư của mình đã khuyên nhủ các tín hữu hãy thực hành Lời Chúa, vì khi thi hành Lời Chúa là người ta sẽ tìm thấy được hạnh phúc trong mọi công việc mình làm: “Anh em hãy đem Lời Chúa ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình… Ai thi hành Lời Chúa, chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi việc mình làm” (Gc 1, 22. 25). Nhưng với Chúa Giêsu thì điều cao quý hơn nữa là Người đã trực tiếp ghi nhận những ai nghe và thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì sẽ được gọi là mẹ, là anh chị em, là bạn hữu của Người. Hay nói khác đi, những người thi hành ý muốn của Thiên Chúa là được Chúa Giêsu cho gia nhập vào gia đình thánh thiêng rộng lớn của Người: “Những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3,35).
Thánh sử Marcô đã diễn tả việc Chúa Giêsu đang giảng dạy Lời Chúa trong bối cảnh mà rất nhiều người đang chú ý lắng nghe. Người nhà của Chúa Giêsu thấy vậy và cho rằng Người bị mất trí, nên đến tìm cách bắt Người về, nhưng có lẽ đám đông đã làm cản đường, họ không thể bắt Người về được. Người nhà của Chúa Giêsu đã tiếp tục đưa cả mẹ của Người đến để mong sao có mẹ, Chúa Giêsu sẽ nghe lời và theo về nhà? Một lần nữa, đám đông dân chúng được xem như là “vật cản” làm cho người nhà không thể tiếp xúc được với Chúa Giêsu, vì họ ngồi chật hết cả đường đi, nên có một số người đã mách cho Chúa Giêsu biết có mẹ và anh em của Người đến tìm Người, nhân cơ hội này Chúa Giêsu đã dạy cho họ biết giá trị về việc nghe và tuân hành ý Chúa chính là gia nhập vào gia đình của Chúa: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em, chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy. Nhưng Người đáp lại, ai là mẹ tôi, ai là anh em tôi? Rồi Ngài rảo mắt nhìn những người ngồi chung quanh và nói: đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3, 33-35).
Quả thật, Điều tuyệt diệu là ta có một gia đình huyết tộc bao gồm: ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì… Nhưng còn cao quý biết bao hơn nữa khi chúng ta có thêm một gia đình linh thiêng rộng lớn đến vô chừng, không có “điểm dừng”, cũng chẳng có “đích đến”… được nối kết bởi sợi dây liên kết là Chúa Giêsu, vì ta đã nghe và thi hành ý Chúa. Như thế, đi đâu ta cũng có “Nhà” và tới đâu ta cũng có “Bà Con”; Nhà, chính là nhà của Thiên Chúa; Bà Con chính là những người thuộc con cái của Cha chung Trên Trời.
Để có “Nhà” và có “Bà Con” thì ta cần lắm một trái tim biết yêu thương, biết mở rộng tấm lòng, để đón nhận tha nhân, và luôn hướng về Chúa, thi hành ý Người, vì: “ phàm ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, là Đấng ngự trên trời, thì người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3, 35).
Bởi vậy, hãy sẵn sàng nghe và thi hành ý Chúa để bước vào gia đình rộng lớn của Chúa, để đón nhận mọi người làm cha, làm mẹ, làm anh chị em, bạn hữu… trong tình liên đới với Chúa Giêsu.
* Đức Maria, mẫu gương về việc lắng nghe và thi hành Lời Chúa
Chúa Giêsu đã xác nhận những người đã lắng nghe và thực hành Lời Chúa không chỉ là những người đã được kết hiệp thân tình trong gia đình của Chúa, nhưng cũng còn là cách gián tiếp Chúa đề cao giá trị của Đức Maria, vì chính Mẹ là người đã lắng nghe và tuân hành ý Chúa cách trọn vẹn nhất. Mẹ luôn “ghi nhớ và suy đi, nghĩ lại tất cả những điều đó trong lòng” (Lc 2, 51). Và nhất là Mẹ đã để Chúa thực hiện những kỳ công của Ngài trên cuộc đời của Mẹ qua tiếng đáp xin vâng: “ Này, tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Ngài cứ thực hiện cho tôi những điều sứ thần truyền” ( Lc 1, 38). Chính Đức Maria là người đã thi hành thánh ý Thiên Chúa cách tuyệt hảo nhất, nên Mẹ xứng đáng trở thành mẫu gương cho chúng ta về việc thực thi Lời Chúa.
Noi gương Mẹ Maria, chúng ta cũng được mời gọi luôn lắng nghe Lời Chúa, đáp tiếng xin vâng theo thánh ý Chúa và nhất là thực hành Lời Chúa cho nên trọn, để ta được xứng đáng đón nhận vào gia đình thánh thiêng của Người, như chính Người đã khẳng định: “Những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy chính là anh em tôi, là mẹ tôi” ( Mc 3, 35).
(Suy niệm của Hiền Lâm)
Bài hát “Mùa Đông Của Anh” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có một câu lột tả sự thật của tình yêu đôi lứa là: “Em chỉ là người điên trong vòng tay tình ái”. Thật vậy, khi yêu nhau, người ta như một “kẻ điên” theo sự rung cảm của con tim hơn là lý trí; người ta biết đau khổ và rắc rối do chính sự lựa chọn đem lại, nhưng vẫn lao vào, thậm chí biết rằng có thể mất tất cả từ danh dự đến sự nghiệp, thậm chí mất cả mạng sống… chỉ vì yêu.
Khi yêu, một vị vua cao sang quyền thế không ngần ngại quỳ xuống cầu hôn một cô thôn nữ quê mùa, một ông chủ sẵn sàng đánh đổi tất cả để được yêu một người nô lệ… và một Đức Giê-su là Chúa đã bỏ ngai vàng trời cao xuống kết thân với con người, đến nỗi phải hy sinh cả mạng sống cho người mình yêu. Tắt một lời, khi yêu làm người ta lắm khi như người mất trí, như người điên.
Cùng với sự soi dẫn của ánh sáng Lời Chúa, chúng ta được mời gọi sống sự “điên rồ của thập giá”, đoàn kết xây dựng Hội thánh Chúa và trở nên như “mẹ và anh em của Chúa”.
Bài Tin Mừng hôm nay trước hết kể chuyện thân nhân của Chúa Giê-su phải đi bắt Người về, vì nghĩ là Người bị “mất trí”. Chúa Giê-su như “điên” vì yêu nhân loại, hi sinh cho dân đặc biệt là cho các bệnh nhân, đến nỗi không còn thời giờ để ăn uống ngủ nghỉ.
Thánh sử Mác-cô kể rằng, khi nghe biết Chúa Giê-su và các môn đệ về nhà, dân chúng đã kéo đến đông đảo, làm cho Chúa Giê-su không dùng bữa được. Phải, Chúa luôn sẵn sàng đón nhận mọi người đến bất kỳ lúc nào để chữa lành cho họ.
Cái “điên” của Chúa là tất cả cho con người đến nỗi hy sinh cả mạng sống vì con người. Thánh Phaolô cũng đã nói về sự “điên rồ của thập giá”. Lòng Thương Xót của Chúa Giê-su dành cho con người, đó là yêu đến mức điên cuồng, yêu đến mức như mất trí, lo lắng giảng dạy và chữa lành cho con người đến mức không còn thời gian ăn uống và ngủ nghỉ. Tắt một lời, Chúa yêu con người hơn cả chính mình.
Để rồi từ đó, rất nhiều những tâm hồn bước theo Chúa Giê-su và “điên vì Chúa”…
Xưa cũng như nay, vẫn hàng hàng lớp lớp những chàng trai cô gái trẻ trung bước theo tiếng gọi dâng mình cho Chúa, tuyên giữ sống độc thân và bỏ lại tất cả những gì mà thế gian tìm kiếm. Phải, họ đã điên vì Nước Trời.
Và cũng vì “điên bởi tình yêu dành cho Chúa” mà các thánh tử đạo sẵn sàng đón nhận cái chết để minh chứng cho niềm tin và lòng yêu mến các linh hồn.
Trong thời đại hôm nay nhiều giá trị, nhiều nguyên tắc đạo đức và luân lý đang bị đảo lộn trong khắp các tầng lớp xã hội. Nếu đưa mắt nhìn quanh, người ta sẽ thấy trong các tầng lớp xã hội, gia đình và tôn giáo đều có sự chia rẽ. Bao nhiêu giáo phái Ki-tô giáo khác nhau trên thế giới được tìm thấy xuất hiện, phái nào cũng mạo nhân là theo gót chân Chúa một cách trung thực. Chính điều này đã làm cho nhiệm thể Chúa Ki-tô bị phân rẽ và tổn thương. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đã cảnh báo điều đó khi trả lời cho người Do-thái kết án người là lấy quyền quỷ tướng để dẹp quỷ lính.
Nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là Ai Cập hay nơi các tộc ít người, người ta biết cách bùa chú để yểm hại người khác, để trừ được bùa yểm cần phải có một thầy pháp cao tay hơn kẻ yểm bùa. Có lẽ cũng vì ảnh hưởng quan niệm này và vì sự ghen ghét mà một số người Do-thái đã độc miệng nói Chúa Giê-su dùng quyền của quỷ tướng để bắt nạt quỷ con.
Thế nhưng Chúa Giê-su lại nhân cơ hội này để dạy chúng ta bài học về sự đoàn kết, hay nói chính xác hơn là hiệp nhất.
Hình mẫu cho sự đoàn kết là tính hiệp nhất bởi Ba Ngôi Chí Thánh. Hội thánh Chúa từ khắp nơi trên thế giới đều hiệp thông và vâng phục một Đức Thánh Cha, cùng một cử hành phụng vụ, cùng một niềm tin, một Phép Rửa… Và có lẽ không tôn giáo nào có thể sánh được sự hiệp nhất đến mức duy nhất này. Và chính nhờ sự duy nhất này của Hội thánh mà sức mạnh hoả ngục đã không thắng được, dù Sa-tan đã dùng sự thù địch chia rẽ để chống lại.
Ngày nay, nơi này nơi kia trong Hội thánh đang bị những thế lực thù địch bách hại, hơn lúc nào hết, mọi người Công giáo trong tình liên đới, hãy đoàn kết với nhau, để cùng chung lời cầu nguyện…
Thế giới Ki-tô giáo ngày nay đã bị phân tán nhiều. Ngoài Giáo hội Công giáo, còn có Giáo hội Chính thống, các Giáo hội Đông phương và hàng trăm các giáo phái Tin lành khác nhau. Việc phân tán giữa thế giới Ki-tô giáo là một cớ vấp phạm cho những người không tin Chúa, hoặc chưa tin theo Chúa.Vì thế, sứ vụ của người Ki-tô giáo là cầu nguyện cho việc hiệp nhất giữa những người tin theo Chúa.
Tội phạm đến Chúa Thánh Thần.
Chúa Giê-su nói: “Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha” (Mc 3,28). Đây là một vấn nạn rất khó giải thích.
Có hai cách hiểu:
– Thứ nhất, theo đoạn Tin Mừng vừa nghe, thì đang khi Chúa Giê-su dùng quyền năng Chúa Thánh Thần để trừ quỷ, thì các Biệt phái lại nói ngài dùng quyền “Tướng Quỷ – Thần Ô Uế” để trừ quỷ. Nghĩa là đã cố tình coi việc của Chúa là việc ma quỷ. Có thể nói, việc này đang xảy ra nơi một số người hiện nay, khi theo những nhóm này nhóm nọ, trong đó có nhóm “sứ điệp từ trời” coi Đức Thánh Cha do công nghị Hồng Y bầu lên là giả, coi công đồng Vatican II là do ma quỷ bày ra…. Mong là mọi người ý thức điều này để đừng bị Sa-tan lừa gạt đi theo nó mà chống lại Giáo hội do Chúa Ki-tô lập.
– Thứ hai: Chúa Thánh Thần là nguồn của bảy ân sủng, là Đấng được ban để tha tội qua công ơn cứu chuộc của Chúa Giê-su Ki-tô. Vì vậy, phạm đến Chúa Thánh Thần, nghĩa là khước từ ơn thánh và khước từ được cứu độ. Chúng ta chỉ được cứu độ nhờ đón nhận, còn khước từ thì Chúa cũng không thể cứu vì sự tự do Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta từ chối thì chúng ta mất linh hồn, không phải là Chúa không tha, mà là chúng ta khước từ sự tha thứ đó. Thánh Augustino từng dạy: “Chúa dựng nên ta không cần ta, nhưng Chúa muốn cứu chuộc ta thì cần có ta cộng tác”. Chúa Thánh Thần hoạt động trong ta, mà ta xúc phạm đẩy Người ra để chỗ cho tà thần, thì làm sao được cứu độ?
Tội nguyên tổ đã cắt đứt con đường giữa ta đến với Chúa, Chúa Giê-su đã nối lại con đường bằng cây cầu thập giá, nhưng nếu ta không chịu bước trên cây cầu thập giá ấy thì vẫn xa lìa Chúa; giống như một người bị giam giữ bởi kẻ thù, có vị tướng đến mở cửa ngục dẫn ra, nhưng tù nhân cứ an than trong đó không chịu ra khỏi ngục thì vị tướng đến giải thoát kia cũng đành chịu thôi.
Có người khi đọc đoạn Tin Mừng này sẽ nghĩ rằng, Chúa Giê-su xem nhẹ sự hiện diện của Mẹ Người chăng? Không phải thế, Người còn đề cao mẹ Maria nữa là khác, vì trong việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa thì có ai bằng Mẹ được, bởi : “Đức Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”.
Chúa Giê-su coi việc những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành trở nên như ngang hàng với Mẹ và anh em Người, như thế thật phúc cho ai sống và thực hành Lời Chúa.
Thật vậy, chúng ta trờ thành mẹ Chúa – bởi vì đã gián tiếp sinh ra Đức Ki-tô nơi anh em. Như thánh Phaolô đã chia sẻ cảm nghiệm của mình: “Trong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1Cr 4:15)
Tuy nhiên, muốn làm mẹ Đức Ki-tô thì điều kiện đầu tiên là phải cưu mang Chúa trong tâm mình: Muốn cưu mang Chúa trong tâm mình thì phải cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa sống động thực sự bằng tâm của mình, chứ không phải bằng lý thuyết suông. Năng suy niệm Lời Chúa cho đến khi cảm nhận như Chúa động đậy trong tâm mình, thì khi đó thực sự Chúa đã ở trong chúng ta và đang lớn lên. Khi có Chúa trong mình, thì chúng ta sẽ sống và hành động như Chúa Giê-su và luôn làm đẹp ý Cha trên trời.
Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu, là biết hy sinh nhiều, không đắn đo tính toán, không chọn lựa phẩm chất của bạn đời, nhưng yêu cả con người, yêu cả đức hay tính dở của họ. Amen.
(Suy niệm và chú giải của Lm. Ignatiô Hồ Thông)
HẠNH PHÚC THẬT
Sức phá hoại của Xa-tan nơi hai ông bà nguyên tổ vì bất phục huấn lệnh của Thiên Chúa được tiếp tục nơi giai cấp lãnh đạo Do thái vì họ vu khống Đức Giêsu dùng tướng quỷ mà trừ quỷ. Nhưng lời hứa cứu độ của Thiên Chúa: “miêu duệ người nữ sẽ đạp nát đầu mi”, sẽ được Đức Giêsu thực hiện khi Ngài khẳng định rằng nước của Sa-tan sẽ sụp đỗ và thiết lập gia đình Thiên Chúa qua việc lắng nghe và thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
St 3, 9-15
Sách Sáng Thế mô tả những tác hại của việc hai ông bà nguyên tổ không vâng lời Thiên Chúa và đồng thời lời hứa cứu độ của Thiên Chúa.
2Cr 4,13 – 5,1
Được cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu nâng đỡ, thánh Phao-lô xác tín rằng thánh nhân cũng với các tín hữu thân yêu của ngài sẽ được sống với Chúa.
Mc 3, 20-35
Đức Giêsu thực hiện lời hứa của Thiên Chúa bằng cách khẳng định nước của Xa-tan sẽ sụp đổ và thiết lập gia đình Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (St 3, 9-19)
Sách Sáng Thế mô tả những tác hại của tội và lời hứa cứu độ của Thiên Chúa.
Tác giả mô tả cách tinh tế tội gây tác hại cho nhân loại qua hai ông bà nguyên tổ như thế nào.
Thuở ban đầu, vào lúc gió chiều hiu hiu thổi, Thiên Chúa thường đến dạo chơi trong vườn với hai ông bà và trò chuyện thân mật với hai ông bà. Nhưng kể từ nay khi nghe tiếng bước chân của Thiên Chúa, hai ông bà, thay vì mừng rỡ chạy ra nghênh đón Người, lại ẩn mình vào giữa lùm cây trong vườn, vì sợ giáp mặt với Thiên Chúa. Hình ảnh hai ông bà trốn vào lùm cây diễn tả phản ứng quen thuộc của những kẻ phạm tội; tội lỗi khiến con người tránh xa Thiên Chúa. Chính tội lỗi đã khiến cho kẻ phạm tội sợ phải diện đối diện với Thiên Chúa, tìm mọi cách xa lánh vị Thiên Chúa tốt lành của mình. Tội lỗi phá vỡ mối thân tình ban đầu giữa loài thụ tạo với Đấng Tạo Hóa của mình.
Thuở ban đầu, khi mới gặp người nữ Thiên Chúa giới thiệu cho mình, con người đã thốt lên: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2: 23); ấy vậy giờ đây người chồng đổ hết trách nhiệm cho vợ mình: “Người đàn bà Ngài đã cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn” (3: 12). Còn người nữ cũng thoái thác trách nhiệm của mình bằng cách đổ lỗi cho con rắn: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn” (3: 13). Lời của người nữ là thực, nhưng bà quên rằng mình đã để cho Con Rắn xảo trá lừa dối đến mức hiểu sai ý định tốt lành của Thiên Chúa. Tội đã làm rạn nứt mối tình nghĩa keo sơn bền chặt “nên một xương một thịt” giữa chồng và vợ, mỗi người tìm cách chối quanh co những lỗi lầm của mình, không ai dám nhận phần trách nhiệm của mình.
Thiên Chúa phán xử con rắn qua hai câu: câu thứ nhất là án phạt dành cho con rắn, câu thứ hai báo trước sự chiến thắng của loài người trên con rắn, tên cám dỗ.
A- Thiên Chúa luận tội con rắn (3: 14):
Trước hết, Thiên Chúa luận tội con rắn, kẻ cám dỗ:
“Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú.
Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi” (3: 14).
Lời luận tội này mang tính tầm nguyên về loài rắn, nhằm để trả lời cho những câu hỏi như: tại sao con rắn lại bò sát đất, lại ăn đất? Tại sao nó khác biệt với các loài khác? Tại sao lại có mối thù giữa loài người và loài rắn? Thực ra, bản án không gì khác chỉ như một lời chứng nhận: con rắn không có chân nên phải “bò bằng bụng”, nhưng tác giả đã nối kết nét đặc trưng này với hình tượng kinh điển về sự thất bại, bị hạ nhục và khinh dể: “Phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi” (x. Is 49: 23; Mk 7: 17; Tv 72: 9; v.v.). Ở đây, tác giả một lần nữa phản bác việc phụng thờ thần rắn để cầu xin cho được phong nhiêu và phồn sinh thường thấy tại Lưỡng Hà Địa, Ai-cập, Pa-lét-tin… Trong các đền thờ, thần rắn được tạc tượng giống như con rồng có chân đứng thẳng để nhận những hành vi thờ bái của các tín hữu; thần rắn cũng được cho rằng có thể ăn lễ vật do các tín đồ sốt sáng dâng lên, nhưng từ nay “phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi”.
B- Thiên Chúa loan báo ơn cứu độ (3: 15):
Tiếp đó, Thiên Chúa loan báo ơn cứu độ qua việc dòng giống người nữ sẽ chiến thắng trên dòng giống con rắn:
“Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,
giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;
dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (3: 15).
Lời tiên báo này có thể được giải thích cách rộng lớn hơn khi hiểu toàn thể nhân loại qua kiểu nói: “dòng giống của người đàn bà”, và tất cả những quyền lực của sự ác qua kiểu nói: “dòng giống của con rắn”. Qua lời tiên báo này, Thiên Chúa hứa rằng Người sẽ can thiệp để phục hồi nguyên trạng cho con người. Lời hứa này mở ra cho nhân loại một niềm hy vọng là một ngày kia nhân loại sẽ chiến thắng trên những quyền lực của Ác Thần.
Tuy nhiên, bản dịch Hy-ngữ (bản Bảy Mươi) đặt chủ từ ở số ít giống đực: “Chính người con trai đó sẽ đạp dẹp đầu người”. Theo cách hiểu của bản dịch này, lịch sử sẽ là một cuộc chiến đấu dài lâu giữa nhân loại và các quyền lực của sự dữ; nhưng nếu cuộc chiến thắng sau cùng được đảm bảo cho nhân loại, thì cuộc chiến thắng này hàm chứa một vị lãnh tụ có khả năng chiến thắng sự Dữ, tức là Đấng Cứu Thế. Còn các Giáo Phụ thì đọc thấy lời hứa này là lời tiên báo theo đó ở giữa lòng nhân loại sẽ sinh hạ một người nữ, bà này sẽ đạp dập đầu Quỷ Dữ, người đàn bà đó là Mẹ của Đấng Cứu Thế; vì thế bản dịch La-ngữ (bản Phổ Thông) của thánh Giê-rô-ni-mô đặt chủ từ ở số ít giống cái: “Chính người đàn bà đó sẽ đạp dập đầu ngươi”, để áp dụng vào Đức Trinh Nữ Maria.
Dù thế nào, cách hiểu của hai bản dịch này không loại trừ nhau nhưng bổ túc cho nhau. Người Đàn Bà chiến thắng sự Dữ chỉ bởi và nhờ Người Con của Bà. Thật đáng lưu ý rằng khi tạc tượng vẽ hình về Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đạp dẹp đầu con rắn, các nghệ sĩ luôn luôn trình bày Hài Nhi Giêsu trong vòng tay của Mẹ Mình. Chúng ta biết rằng sách Khải Huyền của thánh Gioan âm vang bản văn Sáng Thế này trong một thị kiến về Người Phụ Nữ đối lập với Con Rồng, “con rắn xưa”, nhưng trong đó Đức Ma-ri-a đã không được trực tiếp chỉ ra (Kh 12). Vì thế, lời tiên báo này được truyền thống Ki-tô giáo giải thích là “tiền tin mừng”, nghĩa là tin mừng “đầu tiên” loan báo hừng đông ơn cứu độ.
BÀI ĐỌC II (2Cr 4: 13-5: 1)
Thánh nhân vạch rõ rằng đau khổ của Đức Giêsu mặc khải tình yêu Thiên Chúa và ban sự sống như thế nào, thì những đau khổ của thánh Phao-lô nẩy sinh trong tình yêu mà thánh nhân dành cho các tín hữu Cô-rin-tô cũng như vậy. Được cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu nâng đỡ, thánh Phao-lô xác tín rằng thánh nhân sẽ được sống lại “với Chúa” (4: 14; x. 1Tx 4: 14, 17). Tuy nhiên, điểm nhấn ở đây được đặt trên “cùng với anh em” (4: 14). Điều nhấn này giúp chúng ta thấu hiểu tình yêu thánh nhân dành cho những người mà thánh nhân chia sẻ Tin Mừng và cũng giúp cho chúng ta thấu hiểu lòng nhiệt thành thánh nhân dâng hiến cho sứ mạng của mình ngỏ hầu Tin Mừng có thể đạt đến nhiều người chừng nào có thể.
TIN MỪNG (Mc 3: 20-35)
Bối cảnh không gian của phân đoạn này chính là Đức Giêsu đang ở trong một ngôi nhà có đám đông vây quanh. Còn bối cảnh thời gian thì rộng lớn hơn bối cảnh không gian: thân nhân của Người từ làng Na-da-rét đến Ca-phác-na-um để bắt Ngài về vì nghĩ rằng “Người đã mất trí” (3: 21), trong khi các kinh sư Do thái xuyên tạc hành động của Ngài và vu khống Ngài dùng tướng quỷ mà trừ quỷ.
Bản văn này được cấu trúc theo lối hành văn “đối xứng đồng tâm nghịch đảo” như sau:
A-Thân nhân cáo giác Đức Giêsu (3: 20-21).
B-Các kinh sư vu cáo Đức Giêsu (3: 22).
C-Đức Giêsu tự biện hộ (3: 23-27).
B’-Đức Giêsu phê phán các kinh sư (3: 28-30).
A’-Đức Giêsu phê phán thân nhân của Ngài (3: 31-35).
A-Thân nhân cáo giác Đức Giêsu (3: 19b-21):
B-Các kinh sư vu cáo Đức Giêsu (3: 22):
Các kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến kết án Chúa Giêsu hai tội: “Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám” và “Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ”. Trong lời biện hộ, Đức Giêsu sẽ trả lời cho họ lời kết tội thứ hai trước (3: 23-26), rồi đến lời kết tội thứ nhất sau (3: 27).
C-Đức Giêsu tự biện hộ (3: 23-27):
24-26. Điểm cơ bản được minh họa theo ba cách, mỗi cách theo cùng một cấu trúc. Nếu một nước, một nhà hay Xa-tan chia rẽ, thì nó không thể đứng vững được. Nếu câu 24 và câu 25: một nước, một nhà là dụ ngôn, thì câu 26 lại là lời trả lời trực tiếp: nếu Đức Giêsu dùng tướng quỷ mà trừ quỷ hóa ra Xa-tan sẽ đặt các thuộc hạ của mình chống lại nhau, vì thế, tự tiêu diệt chính mình và vương quốc của mình. Câu kết luận không cần phải nói ra Đức Giêsu không thể nào thuộc về vương quốc của Xa-tan được, nhưng là đối thủ đáng gờm của Xa-tan.
B’-Đức Giêsu phê phán các kinh sư (3: 28-30):
– “Mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều mấy đi nữa, thì cũng còn được tha”: “Tội nói phạm thượng” theo nghĩa hẹp là nói những lời xúc phạm đến Thiên Chúa, đến Danh Thiên Chúa (Mc 2: 7; 14: 64; Ga 10: 33-36); theo nghĩa rộng là lời nói xúc phạm đến một đặc quyền thần linh nào đó (Cv 6: 11), một tổ chức thánh (Ed 35: 12; 1Mcb 7: 38); theo văn mạch ở đây là tội nói xúc phạm đến Chúa Giêsu, vì Người là Đấng được Thiên Chúa sai đến và có quyền năng của Thiên Chúa (15: 29tt; Lc 22: 64-65; 23: 30). Tất cả mọi tội xúc phạm đến Đức Giêsu đều được tha.
A’-Đức Giêsu phê phán thân nhân của Ngài (3: 31-35):
– “Có kẻ nói với Người rằng: ‘Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”: Theo cách mô tả của thánh Mác-cô, những thân nhân của Đức Giêsu đang đứng ở bên ngoài, còn đám đông thì đang ngồi chăm chú lắng nghe Người ở bên trong. Như vậy, với hai cặp không gian đối nghịch nhau: “ở bên ngoài” và “ở bên trong”, thánh Mác-cô muốn diễn tả chủ đề chính của phân đoạn này, theo đó những kẻ đang ngồi lắng nghe lời Người ở bên trong thì thân thiết và gần gũi với Người còn hơn những thân nhân của Người đang đứng ở bên ngoài.
– “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi”: Đức Giêsu đang chỉ những người ở bên trong, họ mới thật sự là mẹ và anh chị em của Người.
Trong Cựu Uớc, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển vũ trụ (Hc 43: 16; Tv 29: 5), vì thế làm theo ý muốn của Thiên Chúa là điều con người phải ước muốn ưu tiên hàng đầu: “Con thích làm theo thánh ý và ấp ủ Luật Chúa trong lòng” (Tv 40: 9). Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần nhấn mạnh đến việc lắng nghe Lời Người và đem ra thực hành, chẳng hạn như “Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành…người ấy ví được như một người khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lũ có dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi” (Lc 6: 47-48).
– “Người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Trong một xã hội mà gia đình đóng một vai trò quan trọng đặc biệt, thì ý tưởng về một gia đình đức tin có tác dụng làm tương đối hóa những mối liên hệ huyết thống, đây mới thực sự là gia đình của Đức Giêsu không căn cứ trên huyết thống hay chủng tộc nhưng trên việc thực thi thánh ý Thiên Chúa. Tác giả không nhằm phê phán Đức Ma-ri-a cũng như anh chị em của Người, nhưng có chủ ý cho thấy các tín hữu, tức là những người môn đệ ở cùng nhà và chia sẻ đời sống với Đức Giêsu, không chỉ như những người “ở với Người và để Người sai đi” (x. 3: 14), nhưng còn như những thành viên của cùng một gia đình, gia đình của Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu Ki-tô. Chúa Giêsu cho hiểu rằng những người đang quây quần chung quanh Người được nối kết với Người một cách sống động và thực sự: Người thuộc về họ và họ thuộc về Người. Tuy nhiên, sợi dây liên kết này không căn cứ trên căn bản huyết thống, những trên mối quan hệ của họ với Thiên Chúa. Họ là những người liên kết với Đức Giêsu cách mật thiết nhất, bởi vì họ thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
Qua những lời này, Chúa Giêsu cho hiểu rằng trong kế hoạch của Thiên Chúa, “sống theo ý muốn của Thiên Chúa” mới thật sự trở nên gia đình của Người chứ không là mối liên hệ huyết thống. Như vậy, gián tiếp Người cho hiểu rằng Đức Ma-ri-a có một vị trí cao quý tột bậc không phải vì là “thân mẫu của Người” cho bằng đã “sống theo ý muốn của Thiên Chúa”. Những thân nhân huyết thống của Đức Giêsu cũng không bị loại khỏi mối hiệp thông với Người, nếu họ sẵn sàng thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
Đây quả là một cách thức vừa rõ ràng vừa đơn giản mà thánh Mác-cô muốn trình bày cho các Ki-tô hữu đương thời về Giáo Hội. Cuộc bách hại của người Rô-ma đã đẩy nhiều gia đình đến những cuộc phân ly đau đớn. Những ai trở lại đạo thường bị buộc phải chọn lựa hoặc là thân quyến hoặc là cộng đồng Ki-tô hữu. Thánh Mác-cô chứng tỏ cho họ thấy ngay chính Chúa Giêsu cũng từng bị buộc phải đoạn tuyệt với thân nhân của Người: vì thế các Ki-tô hữu không thể đòi cho mình được đặc quyền hơn Người. Như thế, trên con đường rao giảng của Chúa Giêsu, thánh Mác-cô đưa ra hai loại tương giao giữa Chúa Giêsu và những kẻ đương thời của Người: một số khước từ và một số khác đón nhận Người. “Bản thân là một người Ki-tô hữu, tôi đã thuộc về Đức Ki-tô. Biết và thi hành ý muốn của Chúa, tôi sẽ là mẹ, là anh chị em của Người. Vâng, Chúa đã nói với những kẻ ngồi xung quanh Người như thế. Hôm nay Chúa cũng tha thiết nói với tôi, với những người xung quanh tôi như vậy, từ những người trí thức đến những người thấp kém trong xã hội. Tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ đón nhận và làm cho lời Chúa thấm nhuần cả đời sống của ta, gia đình và xã hội, để Chúa Giêsu không ngừng lớn lên trong ta và trong mọi người. Như thế đó, ta vừa là mẹ vừa là anh chị em của Người.” (“Epphata”).
(Suy niệm của JM. Lam Thy ĐVD)
XÚC PHẠM ĐẾN CHÚA THÁNH THẦN
Bài Tin Mừng (CN X/TN-B – Mc 3,20-35) trình thuật Đức Ki-tô bị đám kinh sư Do Thái cho rằng Người bị qủy vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ. Sở dĩ vậy, vì Đức Ki-tô đã chữa lành cho rất nhiều bệnh nhân mắc đủ thứ bệnh; đồng thời Người còn trục xuất những thần ô uế ra khỏi bệnh nhân, khiến chúng nhìn thấy Người là hô lên: “Ông là Con Thiên Chúa”, nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Người là ai (Mc 3, 10-12).
Chứng kiến biết bao nhiêu phép lạ chữa bệnh, trừ quỷ… do Đức Ki-tô thực hiện, nhất là thấy dân chúng đi theo Người rất đông; đám kinh sư, luật sĩ Do Thái liền “rình xem Đức Giê-su có chữa người bệnh trong ngày sa-bát không, để tố cáo Người…, nhóm Pha-ri-sêu lập tức bàn tính với phe Hê-rô-đê, để tìm cách giết Đức Giê-su.” (Mc 3, 2-6). Vì nhóm kinh sư luật sĩ bất cứ chuyện gì, bất cứ lúc nào, chúng cũng gài bẫy hoặc tìm cớ giết Đức Ki-tô, chuyện đó còn khả dĩ hiểu được; nhưng đến như những thân nhân của Người cũng đi bắt Người vì cho rằng Người đã mất trí (“Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.” – Mc 3, 20-21), thì quả thật “hết biết”!!!
Riêng về chuyện đám kinh sư cho rằng Đức Giê-su bị quỷ ám (“Còn các kinh sư từ Giê-ru-sa-lem xuống thì lại nói rằng Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ… Ông ấy bị thần ô uế ám.” – Mc 3, 22.30), Đức Ki-tô “liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. Vậy Xa-tan mà chống Xa-tan, Xa-tan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó.” (Mc 3, 23-27). Cuối cùng, Đức Ki-tô nói thẳng cho họ biết: họ nói Người bị thần ô uế ám thì mặc nhiên họ đã xúc phạm đến Chúa Thánh Thần và như thế thì không tha thứ được (“Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời.”
Thánh sử Mat-thêu và Lu-ca cũng nói rõ: “Vì thế, tôi nói cho các ông hay: mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau.” (Mt 12, 31-32); “Bất cứ ai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha.” (Lc 12, 10). Khi đi chia sẻ tại các huynh đoàn Đa Minh mà gặp phải bài Tin Mừng như hôm nay, chúng tôi thường bị chiếu bí: “Xin cho biết tại sao tội “nói phạm thượng (phạm đến Chúa Cha), tội nói phạm đến Con Người (Đức Giê-su), thì được tha hết; duy chỉ có nói phạm đến Thánh Thần là không được tha? Xúc phạm đến Ngôi Cha và Ngôi Con thì được tha mà Ngôi Ba lại không được tha – Lạ lùng quá!!!”
Quả thật là hết sức lạ lùng! Bị chiếu bí, về cố gắng lục tìm tài liệu thì chỉ tìm được trong sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 1864): “Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha.” (Mt 12, 31) (x. Mc 3, 29; Lc 12, 10). Lòng Thiên Chúa thương xót không có giới hạn, nhưng ai cố tình không hối cải và khước từ lòng Thiên Chúa thương xót thì cũng khước từ sự tha tội và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban cho (x. DV 46). Lòng chai dạ đá như thế có thể đưa tới chỗ không hối cải trong giờ sau hết và phải hư mất đời đời.” Vẫn chưa thấy rõ ràng, đành lại mò mẫm trên mạng để cố tìm cho ra đáp số. Cuối cùng thì cũng tạm thỏa mãn. Xin được trình bày:
Kinh Thánh nói đến Chúa Thánh Thần bằng nhiều danh xưng như: Thần Khí, Thần Chân Lý, Đấng Bào Chữa, Đấng An Ủi, Đấng Bảo Trợ… (Giáo lý HTCG số 691-693). Vì là Ngôi Ba Thiên Chúa kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Con, nên Thánh Thần đã hiện diện cả trong Cựu Ước và Tân Ước, suốt dọc quá trình lịch sử cứu độ từ khởi nguyên đến tận cùng. Ngay từ tạo thiên lập địa, Thánh Thần đã hiện diện trong sáng tạo vũ trụ và loài người của Thiên Chúa (“Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.” – St 1, 1-2; “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khívào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” – St 2, 7-8).
Thời kỳ Cựu Ước cũng vậy, Thánh Thần luôn hiện diện để soi sáng và hướng dẫn các tiên tri, ngôn sứ – nói chung là dân Chúa – trong mọi trường hợp, điển hình như “Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí ĐỨC CHÚA nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi.” (1Sm 16, 1-13); “Thần khí của ông Ê-li-a đã ngự xuống trên ông Ê-li-sa.” (2V 2, 15) v.v… Không chỉ có sách Sa-mu-en và sách Các Vua như vừa dẫn, mà hầu hết các sách Cựu Ước đều trình thuật những sự kiện chứng minh có sự tác động rất mạnh của Thần Khi vào những việc Thiên Chúa thực hiện thông qua các ngôn sứ, tư tế hay các vua (xc. St 1, 2; G 33, 4; Ed 37, l4; G 34, 14-15; Dcr 7, 12; Mk 3, 8; Ds 11, 16-17.25-26; Ds 27, 28-33; Đnl 34, 9 v.v…),
Đến thời Tân Ước thì phải nói một điều Chúa Thánh Thần luôn hiện diện trong tất cả mọi sự kiện diễn ra trên trái đất, cụ thể là nơi vùng đất được tuyển chọn (It-ra-en). Chính Đức Giê-su cũng luôn luôn nhắc đến vai trò đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cũng chính là Thiên Chúa vì “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4, 24). Không những Đức Ki-tô giảng dạy cho các môn đệ hiểu về sức mạnh và sự cần thiết của Chúa Thánh Thần trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng; mà chính Người cũng luôn chịu sự tác động của Thánh Linh khi Người chịu phép rửa tại sông Gio-đan (Mt 3, 13-17), khi Người được Thần Khi dẫn vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ (Mt 4, 1-11), khi Người giảng dạy (Mt 10, 19-20 ; Ga 7, 38-39 ; Ga 14, 16-18 ; Ga 15, 26 ; Ga 16, 7-8…) và thậm chí cả khi Người chịu chết trên thập tự rồi sống lại hiển vinh (“Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết.” – Rm 8, 11; – xc thêm Mt 22, 43-44; Tv 110; Cv 1, 16; Cv 28, 15; 1Pr 1, 10-11; 2Pr 1, 20-21; 2Tm 3, 16; Dt 3, 7 v.v…).
Nếu không có sự phù giúp vô cùng hữu hiệu của Chúa Thánh Thần, Giáo hội không thể lớn lên trong sự thánh thiện và khôn ngoan, cũng như không thể chu toàn được sứ mệnh mà Chúa Ki-tô đã trao phó trước khi Người về trời. Vì thế, Giáo hội luôn cầu xin ơn Thánh Linh trước khi làm bất cứ việc lớn nhỏ nào. Và phong trào, đoàn thể nào có mục đích xin ơn Chúa Thánh Thần để canh tân đời sống thiêng liêng, thêm yêu mến Chúa Ki-tô và ơn cứu độ của Người, thì đều được Giáo hội khuyến khích, nâng đỡ. Nói chung, toàn thể Ki-tô hữu (bao gồm tất cả Giáo sĩ và Giáo dân) đều rất cần ơn Chúa Thánh Linh để sống và tuyên xưng đức tin và mời gọi thêm nhiều người khác nhận biết và tin Chúa Ki-tô, là Đấng duy nhất cứu chuộc loài người qua Hy tế Thập giá.
Điều đó cho thấy, nếu con người còn tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, thì mọi tội lỗi đều có thể được tha thứ. Vậy, nếu nhờ Thánh Thần mà nhận biết Đức Chúa là Cha nhân lành để chạy đến xin tha thứ mọi lỗi phạm vì yếu đuối, vì lầm lạc; thì điều kiện để được tha thứ là phải nhìn nhận tội lỗi của mình và đặt hết tin tưởng nơi lòng thương xót, thứ tha của Thiên Chúa. Ngược lại, nếu chối từ Thiên Chúa, thất vọng hoàn toàn về tình thương tha thứ của Người, cũng như không còn tin và yêu mến Ngôi Cha và Ngôi Con nữa, là xúc phạm nặng nề đến chính Chúa Thánh Thần là Đấng đã giúp người tín hữu nhận biết Thiên Chúa là Cha nhân hậu, nhận biết công trình cứu chuộc vô giá của Chúa Ki-tô, cũng như giúp mọi người nhìn nhận tội lỗi đã phạm.
Chúa Thánh Thần cũng là Đấng đã nung lửa yêu mến Thiên Chúa trong lòng mọi tín hữu. Do dó, xúc phạm đến Chúa Thánh Thần là không tin mọi công việc Người đã làm trong linh hồn mỗi người tín hữu và trong Giáo hội của Chúa Ki-tô. Tắt một lời: xúc phạm đến Chúa Thánh Thần là xúc phạm đến cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Căn cứ vào những phân tích ở trên, có thể nói tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội mang nội dung: * Hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa là Cha nhân lành giầu lòng thương xót và tha thứ. * Từ khước ơn cứu chuộc của Chúa Ki-tô. * Phủ nhận Chân Lý mà Thần Khí Chúa đã mạc khải cho con người. * Không còn nhìn nhận tội lỗi đã phạm để xin được tha thứ. * Thất vọng về ơn cứu rỗi của mình. * Ngoan cố trong tình trạng tội lỗi. * Thà chết mà không chịu hối cải.
Tóm lại, khi con người đã có những định kiến sai lầm cộng với thái độ ngoan cố như nêu trên, nhất là khi được ơn hiểu biết thông suốt mọi tội lỗi đã mắc phạm, nhưng vẫn không sám hối khi còn tại thế, thì điều tất yếu sẽ là: “không được tha thứ cả đời này lẫn đời sau” (“ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời” – Mc 3, 29; “ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau” – Mt 12, 32). Điều này chứng tỏ khi xúc phạm đến Chúa Thánh Thần tức là cùng lúc xúc phạm đến cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Nói cách cụ thể là khi đã biết là có tội nặng, người ta vẫn không chịu thống hối ăn năn trong giờ lâm chung, nghĩa là người ta đồng ý chết trong tội trọng. Tội này không những đã không được tha ở đời này vì người ta từ chối việc đền tội, mà ở đời sau cũng chẳng được tha, vì ở đó (nơi hỏa ngục) không còn cơ hội đẻ hưởng ơn cứu chuộc.
Trong Thông điệp về Chúa Thánh Thần “Dominum et Vivificantem” (số 46), Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II cũng nói về tội phạm đến Chúa Thánh Thần: “Tội phạm đến Chúa Thánh Thần không phải chỉ đơn thuần xúc phạm đến Người bằng lời nói mà hệ tại sự chối từ nhận lãnh ơn cứu chuộc mà Thiên Chúa ban cho con người qua Chúa Thánh Thần hoạt động qua quyền lực của Cây Thập Giá.” Hiểu được như vậy, người Ki-tô hữu hãy luôn luôn nhìn lại mình để nhận biết những sai phạm, tội lỗi đã vướng mắc, cầu xin Đức Ki-tô ban Thánh Linh soi sáng tâm trí và thêm lòng can đảm, ngõ hầu thực hiện nghiêm chỉnh việc “sám hối và canh tân” trong suốt hành trình tiến về quê hương đích thực. Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Chúa, Chúa là nguồn phát sinh mọi điều thiện hảo, xin đáp lời con cái nài van mà soi sáng cho biết những gì là chính đáng, và giúp chúng con đủ sức thi hành. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN X/TN-B).
(Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
“HAI NHÀ” (Mc 3,20-35)
CÂU HỎI GỢI Y
Kết cấu bản văn.
Toàn bộ bao gồm trong cc. 20 dến 35 của Mc 3 được cấu thành bởi hai giai thoại lồng vào nhau: câu chuyện bà con thân thích Chúa Giêsu bị cắt ngang bởi câu chuyện các ký lục Giêrusalem tố cáo người (cc.22-30). Qua phương thức văn chương quen thuộc này của ông (x. 5,21-43 ; 11,11-21; 11, 15-19.27-33; 14,1-11; 14,54-72), thánh sử kêu mời chúng ta hãy tìm ra các mối giây liên kết hai giai thoại.
Các câu 22-30.
Mátcô trình bày giáo huấn của Chúa Giêsu về vương triều Satan thư là các câu trả lời cho đoán ngôn của các ký lục: “ông ta bị quỷ Bendêbun ám … Chính nhờ đầu mục của quỷ mà ông ta trừ quỷ” (c.22). Tuy nhiên câu trả lời không tương ứng đích xác với luận điệu tố cáo, vì khi Chúa Giêsu bảo chẳng nhắm đến nguồn gốc quyền bính của Người. Khác với bài biên soạn của Mt (12,27-28) và Lc (11, 19-20); hai ông này trực tiếp ám chỉ luận điệu tố cáo của các ký lục. Có lẽ ở đây ta mới tìm được câu trả lời đích thực của chúa Giêsu ít nhất trong câu 28 của Mt và câu 20 của Lc, câu 27 của Mt và câu 19 của Lc có thể đã được về sau thêm vào (xem G. Minette de Tillesse, Le secret messianique danh l’evangile de Marc, Paris. 1968, tr. 101, chú thích 3). Sự kiện trong Mc 3,22. Mt 12,27-28 và Lc 11,19-20, quỷ được gọi là Bendêbun trong khi nói Mc 3,23-26, nó mang tên là Satan, chứng tỏ có một bất liên tục giữa 3,22 và 3,23-26 và có lẽ một liên tục giữa Mc 3,22; Mt 12,24 và Mt 12,27-28}. phải chăng Mátcô đã không biết thánh ngôn (logion) ấy, hay đã cố tình loại nó đi vì khó thích hợp với chủ đề bí mật thiên sai của ông? Hai lối giải thích đều có vẻ tin được.
Câu 27 của Mc làm thành một thánh ngôn riêng, liên kết với văn mạch, trước nhờ giáo huấn nó chứa đựng và nhờ chữ “nhà” là chữ có thể đã đóng vai trò tiếng móc (x. c.25), vì
lẽ cũng tiếng ấy đã được gặp trong c.20 và một lần nữa được hiểu ngầm trong cc. 31-35.
Các câu 28-30 ám thành một thánh ngôn độc lập thứ 3. Như vậy Mátcô đã quy tụ ở đây ba giáo huấn của Chúa Giêsu về bá quyền của Satan, và đã cho chúng một nhập đề là lời tố cáo của các ký lục.
Mt và Lc không muốn bẻ gãy sự liên tục của Mc 3,22-26; họ đã lợi dụng chỗ đứt đoạn giữa 3,26 và 3,27 để tái lập thánh ngôn nói về nguồn gốc quyền bính Chúa Giêsu. Lc lại còn biên soạn thêm một câu để làm tăng sự mạch lạc nữa (c. 18b) (Câu 18b này có lẽ chỉ là câu Mc 3,20 bị đổi chỗ, vì không còn lý do gì để nằm sau Lc 12,10 là một câu song song với Mc 3,28-29).
Lời trả đũa của Chúa Giêsu, được Mc 3,23b-26 giữ lại, có một nghĩa tương đương với Mt 12,27-28 và Lc 11.19-20. Xem ra nó đã được thốt lên trong một hoàn cảnh tương tự. Nhập đề (c.23a) cũng như kết luận (c.30) là do Mc soạn thảo, vì cả hai chẳng có trong các bản văn song song. Hơn nữa, Chúa Giêsu không có thói quen quy tụ các ký lục quanh Người, và chữ dụ ngôn ở đây gây nhiều kinh ngạc. Vẫn biết nó có thể được hiểu theo nghĩa rộng là mashal, nhưng việc đối chiếu với 4, 11 bảo ta nên coi c.23a là một lời loan báo diễn từ bằng dụ ngôn và loan báo chủ đề của các giáo huấn khác nhau tùy theo dự kiện của các thính giả (ở chương sau) (so sánh với 7,14; 8,34; 9,28tt; 10,41 -42 v.v…)
Bối cảnh lịch sử.
Ngay từ đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã đặc biệt kêu gọi một vài môn đồ không những đã tin người mà còn muốn theo Người nữa: Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan … Người đã rời làng Nadarét để đến định cự tại Capharnaum và rao giảng khắp vùng Galilê.
Tại Capharnaum, hình như Người ở trong nhà Phêrô (x. 1,29 ; 2,1). Mc luôn nhắc đến nhà này, gọi đó là “nhà”, với một chủ ý rõ rệt: đấy là nơi Chúa Giêsu rộng tay ban ơn vật chất (1, 30-34) và phân phát lời giảng dạy (2,1-2; 3,20.33-35; 9,28.33; 10,10). Nhà của Phêrô ấy, giờ thành nhà của Chúa Giêsu và các môn đồ, chẳng phải là một hình ảnh của Giáo Hội sau (x. bài của chúng tôi: Le paralytique pardonné ét guéri (Mc 2, 1-12) trong Assemblées du Seigneur loạt 2. 38, tr.8 1 . CN 7 Quanh năm B).
Sau này, vì đám đông đổ xô đến, sự giúp đỡ của những kẻ được gọi đầu tiên không đủ để đương đầu với làn sóng tăng dần của các bệnh nhân và thính giả. Chúa Giêsu bèn quyết định mở rộng nhóm bạn hữu của Người; Người chọn “nhóm Mười Hai” để giúp việc, và còn ban cho họ một ít quyền, đặc biệt là quyền trừ quỷ (Mc 3,13-19). Dù vậy, ngay khi Người trở về “nhà “, thì suốt ngày cũng chẳng đủ để tiếp nhận số đông khách như thế: “Họ không có giờ mà ăn nữa” (Mc 3,20).
Sức lôi cuốn của Chúa Giêsu với phong trào quần chúng mà súc lôi cuốn này khơi dậy là một sự kiện quá giật gân đến nỗi tin tức vội đồn ra khắp xứ, lan nhanh tới Giêrusalem và dĩ nhiên cả Nadarét nữa. Không ai có thể dửng dưng trước sự kiện, giới giáo quyền Israel lẫn bà con Chúa Giêsu.
Các phép lạ Chúa Giêsu đã làm thật quá nhiều, đến nỗi chẳng ai có thể nghi ngờ được. Người ta thắc mắc không phải về tính cách xác thực, nhưng về ý nghĩa của chúng. Dân cư Nadarét sẽ đặt câu hỏi cách rõ ràng: “Bởi đâu ông ta được như thế? Và sự khôn ngoan ban cho ông cùng các phép lạ lớn lao tay ông làm kia là gì vậy (Mc 6,2; x. 11,28). Đối với chúng ta hôm nay, câu trả lời thật dễ dàng: một quyền năng siêu nhiên đích thực chỉ đến được từ Thiên Chúa. Nhưng đối với người Do thái thì không đương nhiên như vậy; có thể có hai cách trả lời: một quyền năng như thế có thể do Thiên Chúa mà cũng có thể do ma quỷ. Nói chung thì những kẻ chất phác nghiêng về giải đáp thứ nhất và đã chạy đến từng đoàn lũ (1,32-33; 2,1-3; 3,7-8.20 …). Những người mê tín, ít học xem Người là một ngôn sứ xưa sống lại: Elia, Giêrêmia hoặc một ngôn sứ nào đó (Mc 6,14-15; x. 8,28). Hêrôđê tưởng đấy chính là Gioan Tẩy giả mà ông đã ra lệnh chém đầu : 6,16}. Còn các ký lục, thượng tế, kỳ lão, trưởng hội đườug, biệt phái v..v..nghiêng về giải đáp thứ hai: theo họ, quyền năng Chúa Giêsu không gì khác hơn là quyền năng ma quỷ đang ở trong Người (x Ga 7,20; 8,48; Mt 10,25).
Chẳng phải dân chúng không tin vào quyền lực ma quỷ đâu; họ vẫn cho nó là tác giả của nhiều thứ bệnh (x. Lc 13,16; Cv 10,8 …). Dưới mắt người Do thái, các trường hợp quỷ ám không những đã chứng thực có ma quỷ, mà còn biểu lộ quyền năng và hành động của chúng trên loài người (Mt 4,8-9; x. Lc 14,5-6). Họ đã tìm thấy trong các chương đầu sách Sáng thế lời giải thích quyền năng đó xem Kn 2,24; Ga 8,44; 2Cr 11,3. 14-15). Quyền lực của quỷ hùng hậu đến nỗi người ta gọi nó là một vương triều. Chính Chúa Giêsu, thay vì cải chính, cũng đã nhiều lần theo quan niệm đó trong khi giảng dạy, như để xác nhận không những trong Tin mừng Nhất lãm, mà cả Tin mừng thứ tư (Ga 12,31;14,30 và 16, 11 nơi Chúa Giêsu gọi ma quỷ là, “đầu mục thế gian này”).
Theo người Do thái, quyền lực của ma chỉ có thể bị quyền lực của Đấng Messia lật đổ và thay thế. Nguồn gốc quan niệm này đã có trong trình thuật tội nguyên tổ, vì tác giả đã không muốn phân tách lời loan báo hình phạt với lời loan báo ơn cứu độ; ông còn cho thấy là hậu duệ của người nữ sẽ đóng một vai trò tích cực trong việc chiến thắng con rắn, nghĩa là ma quỷ (St 3, l5). Tuy nhiên chỉ vào hai thế kỷ sau cùng trước công nguyên, ý tưởng về một cuộc đối đầu giữa Đấng Messia và ma quỷ mới được khai triển nhiều trong các sách Khải huyền (xem Đn 2,31-45: ám dụ về bức tượng bị hòn đá nhỏ, tượng trưng Đấng Messia, quật ngã. G. Gaide, Le livre de Daniel, Tours, 1969, tr.64-72),. Tuy nhiên, trong phần lần các bản văn khải huyền, các vương quốc chống lại vương triều Thiên Chúa chung chung còn được đồng hóa với các đế quốc chính trị. Bản văn ý nghĩa nhất trong chiều hướng ta đang lưu tâm ở đây chắc hẳn là “Di chúc 12 Tổ phụ” (xem P. Voltz, Die Eschato.logie do judischen Gemeinde im neutestamentliche Zeitalter, Tubingen 1934, tr.309tt; H.L. Strack-p.Billerbeck, Kemmentar Zum Neuen Testament aus Talmud und Midrash, IV 2, tr.802).
Mc khai triển song song chủ đề giao chiến giữa Chúa Giêsu với Satan, và chủ đề quyền lực của Người. Ngay từ đầu Tin mừng Mc, Gioan Tẩy giả gọi kẻ đến sau ông như là người quyền thế hơn ông (Mc 1,7). Và khi xuất hiện, Chúa Giêsu được giới thiệu như là Con Thiên Chúa, đầy quyền lực Thánh Thần, và lập tức được thánh Thần đẩy vào hoang địa đương đầu với Satan. Nhưng Mc không lần nữa mô tả các cơn cám dỗ của Chúa Giêsu ; ông chỉ ghi lại sự thất trận của ma quỷ, truyền thống Mt và Lc mới di vào chi tiết. Theo bản trình thuật của Mt, cám dỗ thứ 3 – có lẽ là cám dỗ nhiều ý nghĩa nhất – liên hệ đến phương cách chuyển nhượng vương quyền trên hết thảy thế gian từ tay Satan qua tay Chúa Giêsu Kitô: Satan cám dỗ Chúa Giêsu bằng cách hứa hẹn giao vương quyền cho Người, với điều kiện là Người thừa nhận bá quyền của nó (Mt 4,9). Dĩ nhiên Chúa Giêsu sẽ nắm vương quyền trên khắp thế gian, nhưng bằng một phương cách khác biệt. Các hành vi quyền năng đầu tiên Chúa Giêsu làm sẽ là trừ quỷ (Mc 1,22-27.33 v.v…). Như vậy Người tỏ ra mình là Đấng “quyền thế hơn” bằng cách đương đầu với những chước cám dỗ của ma quỷ và chiếm đoạt các thần dân của nó. Lũ quỷ hình như nhận ra, với sự sáng suốt hơn loài người. Ý nghĩa của thất bại chúng và tuyên bố: “Hỡi Giêsu Nadarét chúng tôi (số nhiều) với Ngài nào có việc gì? Ngài đã đến để tiêu diệt chúng tôi sao?” (1,24); “Hỡi Con Thiên Chúa, giữa chúng tôi và Ngài nào có việc gì? Ngài đến đây trước thời buổi để làm khổ chúng tôi sao?” (Mt 8,29; x. Mc 1,33 ; 3, 11-12).
Dù Mc trình bày phản ứng của ma quỷ theo cách riêng của ông, thì những lời của lũ quỷ cũng không kém nói lên bài học của các Tin mừng; cuộc chiến thắng của Chúa Kitô đã được bảo đảm; cuộc đấu tranh đã khai mào nhưng chưa chấm dứt. Việc chữa lành đứa bé kinh phong – xảy ra sau lần loan báo Khổ nạn thứ nhất và sau cố gắng của Phêrô nhằm lái Chúa Giêsu di trệch đường Chúa Cha đã vạch (Câu Chúa Giêsu trả đũa Phêrô: “Xéo đi sau Ta, hỡi Satan!” gợi lên cám dỗ thứ ba (so sánh Mc 8,33 và Mt 16,23 với Mt 4,10) và ngụ ý rằng Phêrô làm công việc của Satan) – là một cuộc trừ quỷ đầy gian khó; cả ba Tin mừng Nhất lãm đều nhấn mạnh trong đó rằng: cuộc chiến đấu trở nên kịch liệt. Nó chỉ chấm dứt bằng việc thể hiện điều Chúa Giêsu vừa loan báo: đứa bé kinh phong phải chết một cách nào đã rồi mới được chỗi dậy (phục sinh) mà lành bệnh (9,26-27).
Quyền lực của Chúa Giêsu cũng tỏ hiện qua giáo huấn Người ban “với uy quyền” (= với quyền lực), qua các hành vi và lời Người xác quyết: Người tha tội (2,5-12), người tự xưng là chủ ngày hưu lễ (2,28) và củng cố lời mình bằng nhiều phép lạ.
Nhưng Mc không chỉ xác quyết quyền lực Chúa Giêsu và cho thấy quyền lực đó đang thi thố ra; ông còn giúp chúng ta nhận thức ý nghĩa mỗi biến cố đó. Ma quỷ cố tìm cách tuyên bố ý nghĩa này để gây cản trở, nhưng Chúa Giêsu đã bắt chúng im lặng. Chính người sẽ tiết lộ mầu nhiệm song một cách tiệm tiến, trước hết “bằng dụ ngôn” (3,23). Một lần hay một loạt trừ quỷ có thể bị cho rằng là chỉ tiêu biểu một chiến thắng cục bộ mặc dầu thật ra có một tầm mức vũ hoàn. Tầm mức vũ hoàn này sắp được mặc khải cho chúng ta qua cuộc đối thoại của Người với các ký lục.
Trước những tố cáo của họ (3,22), Chúa Giêsu không trả lời bằng một biện minh cá nhân, nhưng đúng hơn bằng một sự cảnh giác mà, theo Mt 12,27-28 và Lc 11,19-20, có hình thức một song luận: dù nhờ Bendêbun hay nhờ sức mạnh của Thiên Chúa mà Ta trừ quỷ, thì các người cũng hãy coi chừng, vì “Vương quốc Thiên Chúa đã đến với các ngươi”. Nếu là bởi Thần khí Thiên Chúa (Đấng Người đã lãnh nhận ở sông Giođanô), thì các cuộc trừ quỷ là dấu chỉ trực tiếp cho biết Vương quốc đã đến. Nếu là do thủ lãnh ma quỷ, thì vương quốc nó đã tự chia rẽ rồi.
Với hai hình ảnh song song, Chúa Giêsu kêu mời các thính giả nhận thức giá trị dấu chỉ của các cuộc trừ quỷ Người làm và rút ra kết luận từ đó (so sánh Lc 21,40-45 và ss): nếu một nước phân chia thành nhiều phe đối chọi nhau thì sẽ xảy ra chuyện gì? … Và nếu một nhà, nghĩa là một gia đình, hay đúng hơn một hoàng gia, chia năm bè bảy mối tìm cách chiếm quyền lực thì sự gì xảy ra? …
Câu trả lời cho hai câu hỏi đầu tiên quá rõ. Việc áp dụng vào trường hợp thứ ba đương nhiên đi theo, như áp dụng một châm ngôn vào một trường hợp riêng biệt: nếu “nhà” của Satan hay Bendêbun, thủ lãnh ma quỷ, bị chia rẽ, nó sẽ sụp đổ như một nhà nứt vách. Ngày tận mạt của vương triều Satan đã gần kề. “Làm sao Satan lại trừ Satan được? … Nếu Satan dấy lên chống lại mình và tự chia rẽ, nó không thể đứng vững”(cc. 23b.26). Đó là trường hợp nếu, như các ký lục quả quyết, Chúa Giêsu tiêu diệt ma quỷ nhờ Bendêbun: Nó đã tận số (c 26b).
Ở đây ta gặp lại, nhưng dưới một hình thức gián tiếp, giáo huấn mà Mt 12,28 và Lc 1 1,20 đã đưa ra cách rõ ràng. người ta có thể tìm lại nguồn gốc của hình ảnh Chúa Giêsu đã sử dụng không phải chăng là trong một châm ngôn bình dân nào đó? Có thể nhưng hình như Chúa Gtêsu đã đặc biệt cảm hứng từ ám dụ bức tượng khổng lồ và hỗn hợp nhiều chất của Đanien 2. Bức tượng nhân cách hóa tất cả các đại đế quốc thù nghịch với dân Thiên Chúa. Nó thật dễ sợ như Goliát, nhưng cũng mỏng dòn như hắn ta vì các chân của nó, nghĩa là nền tảng của nó, “phần là sắt, phần là sành; đó là một nước mà có phần thì mạnh, phần thì yếu sức đế quốc A-lịch-sơn bị phân tán bởi các tướng quân của ông). Chúng sẽ pha loại lai giống người với nhau nhưng chúng không ăn khít với nhau được. Vào thời các vua ấy, Thần trên trời sẽ cho chỗi dậy một nước đời đời không bị hủy diệt … Nó sẽ nghiền tán cùng tiêu diệt mọi nước kia (Đn 2,41-44; x. 4,22-29; 5,26- -7 và 9,4). Mc sẽ lấy lại chủ đề sự chia rẽ giữa các đối thủ vương tiều Thiên Chúa như thế trong diễn từ cánh chung (13,8 x. 6,23). Chủ đề có một nguồn gốc xa xưa hơn sách Đanien nhiều; người ta sẽ gặp nó trong chuyện tháp Baben, biểu tượng đầu tiên của các đế quốc không chinh tùng phục Thiên Chúa : Tất cả đều nói một ngôn ngữ, Giavê phán … Ta hãy xáo trộn (= chia rẽ) ngôn ngữ của chúng … và Giavê phân tán họ ra”. (St 11,6-8)
Đối nghịch với sự chia rẽ giữa các vương quốc thù nghịch là sự hợp nhất của Vương quốc Thiên Chúa, một đặc tính do Đấng Thiên sai mang lại: Chúa Kitô dần giao hòa con người với Thiên Chúa và con người với nhau: Người quy tụ họ lại (Ga 10,16; Ep 2,14).
Chữ “nhà” hẳn đã đóng vai trò tiếng móc giữa hai dụ ngôn. Ở đây nhà không còn chỉ một hoàng gia nữa, nhưng là một ngôi nhà thông thường. Cũng chủ đề này còn được lấy lại với hình ngôi nhà trong một dụ ngôn khác được Mt kể xa hơn (12,43-45) nhưng được Lc đặt gần với dụ ngôn đang nói (Lc 11,24-26).
Chúa Giêsu mô tả một vụ trộm trớ trêu thay, tên trộm chính là Người. Qua hình ảnh này, khi thì Người dạy về việc xuất hiện thình lình của Vương quốc (Mt 24,43), khi thì đưa ra một bài học về sự bất an toàn của các của cải trần thế (Mt 6, 19-21; x. 12,30). Ở đây trọng tâm của dụ ngôn là ý tưởng sức mạnh. Chúa Giêsu mô tả một cuộc tấn công. Tên trộm không hành động cách bất ngờ cho bằng là với sức mạnh: gặp gia chủ được vũ trang đàng hoàng, thì thay vì bỏ trốn, y đã nhảy bổ vào ông ta và trói ông ta lại. Phải can đảm lắm mới dám tấn công một người mạnh” như thế Lc thêu dệt: “một người mạnh võ trang đầy đủ” (11,21 ) và thêm một điểm dạy đời: ông ta ỷ vào vũ khí của ông” (câu 25) (Xin nhớ Phaolô thích dùng những lối so sánh với vũ khí. Mà Lc là môn đồ Phaolô). Người mạnh ở đây là ma quỷ. Nó tin tưởng vào cái gì nếu chẳng phải là vào chính mình nó? Người Kitô hữu không làm như vậy.
Tên trộm chỉ được ám chỉ kín đáo nơi Mt; phải suy đoán mới thấy. Chắc đây là hình thức sơ thủy của dụ ngôn: “Không ai có thể vào nhà của người mạnh … !. Nhân vật chính xem ra là người mạnh. Mt đã sửa đổi và đặt tên trộm lên hàng đầu: Làm sao ai có thể vào nhà …” Lc kém khó hiểu hơn: “Khi một người mạnh … nhưng có người mạnh hơn…” Người mạnh hơn hiển nhiên là Chúa Kitô, động chiến thắng ma quỷ (Lc 11 ,22; x. Mc 1,7). So sánh với loài người thì quỷ rất. mạnh, vương triều nó được thiết lập vững chắc; thế gian là nhà, là sở hữu của nó. Song các dấu chỉ thời đại đã cho thấy có một cuộc phán xử; quyền năng nó dần lui; thần dân nó bị đuổi ra khỏi những người nó ám. Nó đã bị kết án rồi.
Chân lý Chúa Giêsu dạy trong các dụ ngôn vừa nói có một tầm mức vũ trụ. Viễn tượng được lấy lại trong một trình thuật thuộc riêng Luca, và nhất là bởi Tin mừng thứ bốn. Khi nhóm 72 đi truyền đạt về, và hân hoan tường trình lên Chúa Giêsu? Thưa Ngài, nhân danh Ngài thì ngay cả ma quỷ cũng tùng phục chúng tôi?”, Chúa Giêsu liền đáp : “Ta đã thấy Satan rơi xuống như chớp từ trời” (Lc 10, 17-18). Và theo Ga, sở dĩ Chúa Giêsu “đến”, không phải chỉ để gánh nhiều tội lỗi hay các tội lỗi của nhân loại, nhưng để gánh tội thế gian, là gạt khỏi thế gian này vốn từng là nhà, là vương quốc của nó) tên thủ lãnh thế gian (Ga1,29; 12,31 ; 14.40; 16, 11). Người đem chính ơn cứu rỗi đến cho nhân loại (4-12). Vương quốc Thiên chúa sắp thay thế vương quốc quỷ ma. Tuy nhiên, sự đảo lộn này sẽ không thể thực hiện nếu không có những trận chiến ghê gớm: dụ ngôn cái nhà bị trộm của chúng ta ngụ ý điều này.
Vấn dề nguồn gốc quyền bính Chúa Giêsu đã từng là một vấn đề nghiêm trọng, năng được đặt ra suốt sứ vụ của Người và đã từng bị tranh luận sôi nổi, gay gắt. Cũng vấn đề này đã được đặt ra về Gioan Tẩy giả (Ga 1,19-28; x. Mc 11 ,30) nhưng ít quan trọng hơn. Các đòi hỏi của vị Tẩy giả không vượt xa các đòi hỏi của Môisen mấy; các lời xỉ mắng của ông cũng chẳng nghiêm khắc hơn các ngôn sứ xưa. Nhưng các đòi hỏi của Chúa Giêsu thì đi xa hơn nhiều Giáo huấn của người tách hẳn giáo huấn của các ký lục vừa về nội dung và về cách thức ban bố (Mc 1,22.27) và ngoài ra còn được thêm uy tín nhờ nhiều phép lạ, nhất là các cuộc trừ quỷ. Quyền bính của các ký lục bị đe dọa; dân chúng quay về Chúa Giêsu (x. Mt 5,20tt).
Từ Giêrusalem, người ta khẩn phái một ủy ban điều tra đến (so sánh với Ga 1,18-28), không phải để hỏi thăm nhưng để phán xử. Ủy ban cố hạ uy tín Chúa Giêsu trước mặt đám đông (so sánh với Ga 9,16.24-38): đây là một kẻ bị Bendêbun ám; sở dĩ lão ta trừ được quỷ, bởi vì lão là một dụng cụ của chúa quỷ, chứ không nhờ thần lực như các ngôn sứ chân chính đâu (Mc 3,22).
Theo Mc, đoàn sứ giả là các ký lục (cũng vậy trong Mc 7,1; Mt 15,1). Có nên hiểu chữ này sát nghĩa không? (Như E. Trocmé, La formation de l’evangile se lon Marc, Paris, 1963, tr.76~80). Vì Mt thì nói là các Biệt phái (12,24; xem 9,34), còn Lc chỉ sử dụng một thành ngữ mơ hồ : ” ít kẻ trong họ (11 ,15). Thực ra Mc thường hay nói ký lục, Mt nói Biệt phái, Lc nói luật sĩ và Gioan nói “người lão thái”. Tựu trung, mỗi thánh sử có một cách kêu tên ưa chuộng để chỉ kẻ thù Chúa Giêsu, nghĩa là toàn thể các thủ lãnh tôn giáo: thượng tế, ký lục, Biệt phái, kỳ lão v.v… Đối với độc giả Mt, các danh từ này còn tương ứng với một cái gì rõ rệt; nhưng đối với độc giả Mc, thuộc những môi trường ngoại giáo, thì tiếng ký lục, tương đương với người học thức, mới thích hợp hơn (x. Mt 11,25).
Ngôn sứ thực hay giả?
Các “ký lục” không thừa nhận các dấu chỉ nói lên sứ mạng Chúa Giêsu, và đồng hóa chúng với các phép lạ của ma quỷ họ chỉ coi Chúa Giêsu là một tên bịp đời (xem Ga 7,12.47; Mt 27,63), một ngôn sứ giả hiệu như các tư tế Baal mà Elia đã lật tẩy và truyền giết đi như lề luật dạy (Tv 18; Đnl 18,20). Khi hứa ban bình an và của cải ảo tưởng (x.Tv 22), các ngôn sứ giả đã làm dân xa rời giao ước và làm cho vua chúa bất trung với Giavê. Các ngôn sứ thật của Gioan đã chiến đấu chống họ (xem 2V 1,2; Is 28,7-13 ; 30, 10; Mca 2, 11 ; 3,5-11 ; Cr 5,31; 14,13-16; 23,9-40; 28; v.v…). Lề luật đã cho nhiều tiêu chuẩn biệt phân, nhưng các ký lục đã giải thích những tiêu chuẩn đó theo cách của mình.
Mọi tội khác, kể cả tội lộng ngôn – dù tội lộng ngôn bị Lề luật lên án tử (Xh 22,27; Lv 24,11-16) – đều có thể được tha nếu người ta nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến và xin người tha thứ tội lỗi. Giả sử đã từ chối Chúa Giêsu, người ta vẫn còn có thể được cứu, nếu thống hối ăn năn (Mc 14,72; Lc 22,61) [Dt 6,4-8 và 10,26-31 hình như xét đến trường hợp của những kẻ đã chối đạo và không muốn trở về với Chúa Kitô. Nơi 10,29, hãy ghi nhận mối tương quan giữa tội này và Thần khí, như nơi Mc 3,29. Có lẽ đó cũng là thứ tội được nói đến troug 1Ga 5,16-17]. Nhưng nếu từ chối tin và Chúa Giêsu, cho các công việc Người làm nhờ Thánh Thần là do sự trợ lực của “thần ô uế” bên trong (Mc 3.30), thì lúc đó người ta đã lộng ngôn đến Thánh Thần người ; ta tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ, bởi vì Chúa Giêsu là Đấng trung gian duy nhất (1Tm 2,5) và không có ơn cứu độ khác ngoài người (Cv 4, 12).
Không chỉ có giáo truyền Giêrusalem, cả gia đình Chúa Giêsu cũng quan tâm đến các tin tức tại Capharnaum (x.Lc 4,23). Phản ứng của họ không mấy thuận lợi. theo họ, Chúa Giêsu quá say sưa với công việc chữa trị của Người “Người mất trí rồi”, họ bảo thế (c.21). Và họ quyết định đi bắt Người để đem về lại cuộc sống thường nhật. [Để tránh sự khó khăn do câu 21 này gây ra; một vài người đã muốn hiểu theo nghĩa chỉ trống: “Vì người ta bảo: Người đã mất trí rồi nhưng lối dịch này không chắc là trung thành đủ. Đã có một lần, lúc lên 12 tuổi, Chúa Giêsu đã tự ý lẩn trốn tại Giêrusalem, nhân
cuộc hành hương lễ vượt qua ở đó. Khi ấy, Người đã trả lời cách bí nhiệm trước các nhận xét của mẹ Người, tuy vậy Người vẫn trở về Nadarét tiếp tục lại đời sống đơn sơ của một đứa con phục tùng cha mẹ (Lc 2,41-51). Lần này, chắc Người cũng sẽ phục tùng nữa, Maria đã có thể tưởng thế !
Không nên ép nghĩa thành ngữ “đã mất trí rồi, (c.21). Vẫn biết Mc muốn đặt song song lời phán đoán của thân nhân Chúa Giêsu với phán đoán của các ký lục: “ông ta bị quỷ ám” (c 22) nhưng điều này chẳng chứng tỏ là hai thành ngữ tương đương với nhau. Mất trí không nhất thiết là do quỷ ám, mà có thể là hậu quả của một lòng hăng say phi thường hoặc quá ngạc nhiên trước các sự kiện kỳ lạ. Vẫn hay ý nghĩa mạnh là “điên” thường gặp trong các bản văn cổ điển, nhưng không hề có trong Tân ước. Trên tổng số 17 lần sử dụng trong Tân ước, từ ngữ luôn luôn có nghĩa là “ngạc nhiên”, trừ ra nơi 2Cr 5,13 mới có nghĩa là “hăng say thái quá”, hăng say đến độ thực hiện được nhiều chuyện lạ lùng (Nguyễn thế Thuấn dịch là “mất trí”). Thành ý nghĩa sau cùng này thích l.lợp nhất ở đây. Mẹ và anh em Chúa Giêsu đến Capharnaum. Như ta biết, trong tiếng Hy bá cũng như trong nhiều ngôn ngữ, chữ “anh em” vùa chỉ anh em ruột thịt vừa chỉ anh em họ hàng, không phân biệt (x. St 13,8; 14,14; 24,48; 29,12; Lv 10,4; 1Sk 9,6), Chẳng hạn như Giacôbê và Giuse, vốn được Mt 13,35 liệt vào số “anh em Chúa Giêsu”, thì trong Mt 27,56 được gọi là con của một bà Maria nào đó không phải là mẹ Chúa Giêsu. [Xem Lc 8,25. Không kể Giacôbê và Giuse (hay Giôsê), trong nhóm Mười hai còn có “anh em” khác của Chúa Giêsu nữa là Simon và Giuđa (Mt 13,55). Mt 13,56 cũng đề cập đến các “chị em” Người mà chẳng nêu danh tính].
Theo trình thuật Mc thì khi đến Capharnaum, Maria và “anh em” thấy có lắm kẻ vây quanh Chúa Giêsu? nên không thể vào nhà Người đang ở được Một cảnh tương tự cũng được mô tả trong Mc 2,2. Người ta báo tin cho Chúa Giêsu hay là thân nhân Người đến và đang muốn gặp Người (3,31).
Thánh sử chẳng cho biết Chúa Giêsu đã ra gặp họ hay là đã từ chối. Tuy nhiên không có gì cấm ta nghĩ rằng sau khi nói những lời được ghi lại ở Mc 3,33-35, Chúa Giêsu đã ra gặp mẹ và anh em Người; và chính vì lời họ xin là Người đã về Nadarét để chu tất sứ vụ mà Tin mừng Nhất lãm có đề cập (Mt 13,54-58 và song song; xem lời ám chỉ các phép lạ Capharnaum trong Lc 4,23).
Ngỏ vớt các thân nhân, câu trả lời của Chúa Giêsu có lẽ có một nghĩa tiêu cực (“không phải quý bà con là mẹ, là anh em tôi”). Ngỏ với “các kẻ quanh người”, câu đó là một giáo huấn tích cực (cc.32 và 34). Ngồi (bệt xuống đất) chung quanh ai, nơi người Do thái, đó là vị thế của môn sinh quanh thầy (x. Cv 22,3; Lc 10,39; 4,20; Mt 23,2; 26.25).
Chúa Giêsu lợi dụng hoàn cảnh để ban một giáo huấn mà Người nhấn mạnh tầm quan trọng bằng cách đặt một câu hỏi dưới hình thức bí ngữ (mashal): “Ai là mẹ Ta? là anh em Ta?” (c.33; so sánh với Mc 10, 18).
“Rồi đưa mắt nhìn những kẻ ngồi vòng quanh mình…”. Mc đã nhiều lần ghi nhận các kiểu nhìn của Chúa Giêsu: cái nhìn buồn sầu và giận dữ (3,5; 11,11), cái nhìn thương yêu (10, 21 x. 1Sm 1,11 ; Lc 1,48), cái nhìn chỉ để quan sát (5,32; 12,41) hay để thêm sức nặng cho lời mình thốt ra (10,23.27) [Phần lớn các ghi nhận này là của Mc. Mt 19,26 lấy lại Mc 10 27. Lc 6,10 (=Mc 3,5) không nói rõ là cái nhìn của Chúa Giêsu biểu lộ sự giận dữ. Trái lại, ông là người duy nhất nhắc đến cái nhìn của Chúa Giêsu trên Phêrô: 22,61}. Ở đây rõ ràng là một cái nhìn yêu thương: những kẻ Chúa Giêsu nhìn đều thực là mẹ, là anh em chị em Người. Vì sao? chúa Giêsu giải thích: “Ai làm theo ý Thiên Chúa, người đó là anh chị ern và là mẹ Ta” (c.35). Khi vâng phục Cha Người, Chúa Giêsu đã tỏ mình ra là Con Thiên Chúa (Mt 4,3-10); cũng với cách thức như vậy, người ta sẽ tỏ ra mình là con Thiên Chúa, là anh chị em của Chúa Giêsu, Con đầu lòng. Và thực thi thánh ý Thiên Chúa, là trước tiên tin vào Chúa Giêsu, Đấng Ngài đã sai, Con của Ngài, vị Cứu Thế (Ga 6,29).
Chúa Giêsu mặc khải mối liên lạc sâu đậm nối kết Người với những ai thực thi thánh ý Thiên Chúa; đó là một hiệp thông sự sống, sự sống của chính Thiên Chúa Cha (Mt viết ,”Cha” nơi nào Mc đã viết “Thiên chúa Những lời Người phán về việc phải tái sinh bổ túc, tăng sức và cụ thể hóa giáo huấn này (Ga 3,3-5; xem 1,13; Tt 3,5). Như thế, Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta một phương thế để kết hiệp với Người một cách còn sâu xa hơn là mối dây do sự sinh ra bởi huyết nhục.
Mc không bảo mẹ và anh em Chúa Giêsu chẳng thực thi ý Thiên Chúa ; tuy nhiên không thể phủ nhận việc ông đã muốn đối chọi? Một cách nào đó, chính họ và những kẻ bao quanh Chúa Giêsu. Hai lần ông cố ý sử dụng thành ngữ chuyên môn “Những kẻ ở ngoài” là thành ngữ trong Giáo Hội thời các sứ đồ chỉ những người không phải là Kitô hữu (xem 1Tx 4, 12; 1 Cl 5, 12-13,14,5 ; 1Tm 3,7). Mẹ và anh em Chúa Giêsu đứng ở ngoài” (c.31 ), “đang ở ngoài” (c.32), trong lúc môn đồ Người thì ở trong và đang nghe Người nói. Những kẻ này, đặc biệt là nhóm Mười hai, tin vào người là giúp Người thi hành sứ vụ; còn những kẻ kia không tin Người, chỉ muốn cản trở sứ mệnh Người thôi.
Chút nữa, Mc sẽ trở lại lối phân chia loài người như thế trước mặt Chúa Giêsu : với những kẻ đang ở quanh Người cùng nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu bảo: “Đã ban cho các ngươi mầu nhiệm Vương quốc Thiên Chúa; nhưng cho những kẻ ở ngoài thì mọi sự đều đến bằng dụ ngôn” (4,11).
Mt đã chẳng xóa bỏ lối phân biệt của Mc giữa những kẻ ở trong và những kẻ ở ngoài, mà còn xen và giữa câu Chúa Giêsu trả lời các ký lục và việc thân nhân Người đến một thánh ngôn (logion) nhấn mạnh sự phân chia: “Ai không đi với Ta tức là chống lại Ta” (Mt 12,30) (Nơi Mc logion này nằm trong một văn mạch khác và dưới hình thức tích cực). Nhưng ông đã bỏ phần dẫn nhập gây nhiều rắc rối của Mc 3,20-21. Còn Lc vì linh cảm sẽ có những kết luận rút ra từ trình thuật của hai ông kia về vai trò Maria, nên đã sửa đổi bài biên soạn của họ. Ông bỏ chữ “này là” của Mc 3,34 là chữ xem ra gạt Maria và anh em Chúa Giêsu ra khỏi gia đình đích thực của Người, và thay thế thành ngữ “Ai làm theo ý Thiên Chúa” bằng một thành ngữ khác tương đương bao hàm cả Maria: “Những kẻ nghe lời Thiên Chúa”; những kẻ này là ai nếu trước tiên không phải là người nữ đã thưa vâng trước lời mời gọi của Chúa (Lc 8,21 ; x.1,38 và 45). Hơn nữa, Lc còn đặt thánh ngôn trong một văn mạch khác hẳn : ông ghép nó vào dụ ngôn Người gieo giống (x.8, 15).
Nhưng trình thuật Mc vẫn còn đó. Nó đặt ra một vấn đề tế nhị. [Quả là một lối thoát giả tạo nếu chủ trương phân tách Maria khỏi anh em Chúa Giêsu trong trình thuật Mátcô, bởi vì mỗi lần bà đều được đề cập trước hết). Để giải quyết thỏa đáng vấn đề, cần phải phân biệt trong việc biên soạn đều là chủ ý của thánh sử. Mátcô không quan tâm, như Lc sau nầy, về con người của Maria. Ông chỉ tìm cách cho ta hiểu, qua nhiều hình ảnh hoặc so sánh, là môn đồ Chúa Giêsu kết hiệp với Chúa Gtêsu mật thiết đến độ nào. Mátcô không chủ ý phê phán Maria và “anh em Chúa”, nhưng là cho thấy cái mà Chúa Kitô ban tặng cho những kẻ tin Người. Môn đồ Chúa Giêsu ở chung một nhà và san sẻ cuộc sống Người, không những như một người bạn (x. 3,14) mà còn như một phần tử trong cùng gia đình, gia đình Thiên Chúa, Cha Chúa Giêsu (x. Mt 12,50).
Mc không loại bỏ việc Maria và anh em Chúa Giêsu đã trở nên môn đồ Chúa Giêsu; chắc chắn ông đã biết nhóm quan trọng gồm những anh em Chúa Giêsu trong Giáo Hội thời Hiện xuống (Cv 1,14; 1Cr 9,5 ; Gl1,19), Bộ ông đã chẳng hay sự hiện diện của Maria dưới chân thập giá và trong nhà Tiệc ly sao? (Ga 19,25; Cv 1,14). Dù vậy, ông buộc chúng ta phải quan niệm đức tin Maria như một đức tin cần phát triển dần dần. Không phải ngay từ lúc Nhập thể mà Maria đã hiểu Con mình là Thiên Chúa. Lc không nói ngược điều này, vì theo ông, Maria đã chẳng hiểu câu Chúa Giêsu trả lời cho bà tại Đền thờ lúc 12 tuổi (Lc 2,50). Bây giờ cũng vậy Maria tưởng mình phải dùng mẫu quyền của bà để đưa Chúa Giêsu về lại cuộc sống đơn sơ ở Nadarét, vì lẽ giáo quyền Do thái xem ra chống lại con bà. Chính là dần dần, qua việc “nghe lời Thiên Chúa” và thực thi thánh ý Ngài, mà Maria đã lớn lên trong đức tin, một đức tin ngày càng chiếu sáng. Như thế, mẫu tính của bà đã tìm được một chiều kích mới mẻ, cho đến độ trở thành Mẹ Giáo Hội.
KẾT LUẬN: TRONG ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI
“Ngài đến để tiêu diệt chúng tôi”, ma quỷ đã nói với Chúa Giêsu như thế (Mc 1,24). Chúa Giêsu đã thực thi sứ mệnh này bằng cách chiến đấu chống ma quỷ trong suốt sứ vụ (Cv 10,38). Cuộc Phục sinh đã công nhận chiến thắng của Người (Ga 16,33), nhưng đối phương chỉ sẽ thất trận cách dứt khoát vào ngày cánh chung. Sau Chúa Giêsu, môn đồ Người cũng sẽ chiến đấu như vậy (x. Lc 22,36) với niềm xác tín là Chúa của họ đã chiến thắng, và với nhiều quyền năng mà Người đã ban cho Chúa Giêsu đã chọn nhóm Mười hai “để sai đi rao giảng, với quyền năng trừ quỷ” (Mc 3,14-15). Quyền này là dấu chỉ đầu tiên trong các dấu chỉ sẽ tháp tùng các kẻ tin, sau ngày Chúa Giêsu ra đi (Mc 16,17; so sánh với Ga 13,35).
Nhưng đối phương không ở thụ động: nó tìm cách chận đứng các sứ giả Tin mừng. Nó ngăn cản Phaolô đến Thêxalonica (ltx 2,l8), gieo cỏ lùng vào ruộng của Cha gia đình (Mt 13,39) và “lấy mất lời đã gieo” trong lòng những người không bền chí (Mc 4, 15). Chính nó là Tên cám dỗ (1Tx 3,5), đứa gây ra gương xấu. Nó tìm mọi cách để phân rẽ Chúa Kitô với những kẻ đã tin nhận Người.
Khi Mc viết Tin mừng của ông, thì Rôma đang bách hại Giáo Hội. Phêrô đã bị tống giam. Các kẻ bắt bớ tìm cách làm cho Kitô hữu bỏ đạo của mình. Rôma, kinh thành mạnh mẽ và thống trị “toàn thể thiên hạ” (x. Lc 2, 1) xem ra được đồng hóa với vương quốc thù nghịch cùng Vương quốc Thiên Chúa.
Nhưng Kitô hữu không nên sợ hoặc xiêu lòng, vì Chúa Giêsu là người “mạnh hơn”; họ cũng sẽ mạnh hơn (Mc 3,27). Tuy nhiên có một vài kẻ sa vào tội bội giáo. Tình trạng họ không phải là tuyệt vọng: nếu họ ăn năn thống hối, tội phạm thượng này sẽ được thứ tha (Mc 3,28-29)
Trong cơn biến loạn, loài người đã phân làm hai. Chính giữa lòng các gia đình, niềm tin vào Chúa Kitô đã chia rẽ: kẻ theo Người, kẻ chống Người và chống các tín hữu (Mt 10,34- 36). Bị xâu xé trong xác thịt, “trong tâm hồn” (x. Lc 2,35), các môn đồ không được mất can đảm, nhưng hãy nhớ rằng Chúa Giêsu cũng đã gặp sự chống đối trong chính quê hương Người, đến cả giữa những bà con gần gũi nhất (3,20-21) [Mục tiêu huấn đức này có thể đã khiến Mt tô đậm đường nét của bức tranh 3,20tt. luận đề cho rằng Mátcô muốn bút chiến chống lại anh em Chúa Giêsu, đặc biệt Giacôbê, là một giả thuyết mong lanh và quá hệ thống]. Bị gia đình của mình loại bỏ. Kitô hữu được một gia đình khác (3,33-35) mà mối dây liên kết mật thiết hơn các mối dây đầu đến nỗi ngay ở đởi này họ đã được gấp trăm (10,29-30). Sau cùng, cuộc bách hại không phải là phần thưởng (10,30), phần thường hứa và ban cho Phêrô (x. Ga 21,18-19), phần thưởng cao quý vì liên kết ta với Chúa Kitô cách sâu xa nhất đó sao?
Ai mất một gia đình sẽ gặp một gia đình hoàn hảo hơn nữa; ai mất mạng sống vì Chúa Kitô, sẽ chiếm được nó (8,35); ai mất một nhà (10,30) sẽ được một nhà vững chắc hơn. Nhà của Phêrô ở Capharnaum, giờ trở thành “nhà”, nhà của Chúa Giêsu, nhà phân tách nhân loại thành kẻ ở trong” với kẻ ở ngoài, chẳng phải là hình ảnh của ngôi nhà mà Chúa Giêsu đã hứa cho Phêrô làm nền móng đó sao (Mt 16,18)? Nhà đó chả phải là nhà Phêrô xây dựng ở Rôma, là cộng đoàn Kitô hữu đang giao chiến với “các cửa hỏa ngục”, nhà được hứa ban ơn cứu rỗi đó sao?
Hôm nay trận chiến vẫn còn tiếp tục, dưới nhiều hình thức khác nhau: ở đây bách hại công khai, kia là cám dỗ từ từ. Kitô hữu hãy biết nhận ra đối phương (x.1Pr 5,8) và chống cự lại nó. Chiến thắng của họ sẽ chẳng có vẻ như một cuộc trừ quỷ, nhưng cũng không kém thực sự đâu. Họ hãy múc lấy trong niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh một niềm lạc quan không thể lay chuyển; họ hãy xem Giáo Hội là ngôi nhà và gia đình của mình.
(Gilles Gaide, Assemblées du Seigneur 41 , tr.39-53)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
(Suy niệm của Fiches Dominicales)
Trên núi, Đức Giêsu thiết lập nhóm “mười hai để họ ở với Người và để sai họ đi rao giảng với quyền xua đuổi ma quỷ”. Giờ đây Người “vào một ngôi nhà nơi đám đông tụ tập. Họ khao khát nghe lời Người đến nỗi Người không có thời giờ ăn uống? Chính trong khung cảnh ấy Máccô tường thuật lại hai cuộc chống đối Đức Giêsu. Sự chống đối của gia đình người”. Thân nhân của Người nói: “Người đã mất trí” và họ đến “bắt Người về” (kiểu nói “bắt” được nhắc lại 4 lần trong bài Thương khó để chỉ việc bắt giam Đức Giêsu). Sự chống đối của các “Luật sĩ đến từ Giêrusalem” uy quyền tôn giáo ở Israel: Họ tố cáo Người bị quỷ “Bê-en-dê-bun ám” và Người xua đuổi ma quỉ vì Người là “tướng quỷ” Đức Giêsu đã trả lời họ tức khắc bằng hai dụ ngôn ngắn:
– Dụ ngôn thứ nhất về “vương quốc” hoặc về “gia đình” chia rẽ. Đức Giêsu viện dẫn lương tri: làm sao Satan có thể xua đuổi Satan (hoặc quân quốc của Satan?). Đó là dấu hiệu “hắn tự chống lại mình”, “tự chia rẽ”, như thế đâu thể đứng vững; quả hắn đã đến ngày tàn”.
– Dụ ngôn thứ hai về “người mạnh” khi xua tuổi ma quỉ, Đức Giêsu chứng tỏ Người mạnh hơn Satan, có thể “trói gô” hắn lại. Đối với các Luật sĩ những kẻ hiểm ác đến độ qui về Satan cả những hoạt động của Thánh Linh, Đức Gtêsu tràn đầy Thánh Thần Thiên Chúa đã cho họ biết rằng Người đến truất phế Satan khỏi vương quốc của hắn và Người sẽ trị vì thay hắn.
2… đến căn nhà qui tụ các anh em Đức Giêsu
Thân nhân của Đức Giêsu tới để “bắt Người”. Họ, những kẻ “đòi hỏi Người” hiện nay đang “ở ngoài” theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng; ở bên ngoài căn nhà, họ đụng phải dòng người vây quanh Thầy để lắng nghe.
Đức Giêsu đảo mắt nhìn những người tự tập quanh Người (theo Máccô, cái nhìn chăm chú ấy luôn mang một ý nghĩa quan trọng) và đưa ra một lời tuyên bố long trọng: gia đình thực sự của Người không phải là gia đình theo xác thịt, nhưng là những người lắng nghe lời Người và thực hành thánh ý Thiên Chúa: “Ai thi hành thánh ý Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta”.
(G. Bessière: trong “Thiên Chúa rất gần. Năm B”, DDB, trang 107-108).
Dư luận xì xầm. Làng xóm bàn tán. Gia đình mở cuộc họp. Đó là mối nhục của gia tộc. Và ta không thể gả chồng cho các cô gái nữa. Chỉ cần thốt ra tên một người, tức khắc mọi người sẽ tránh xa. Hội đồng gia tộc đã quyết định: “Người ta bảo ông ta khùng rồi”trong khi đám đông vây xúm xít quanh Đức Giêsu, “gia đình Người tới để bắt người, vì họ cho rằng: Người đã “mất trí”. Những ông cậu, những ông anh bà con lực lưỡng cũng biết rằng một uỷ ban luật pháp – các luật sĩ – đã được phái tới từ Giêrusalem để điều tra. Kết luận của họ nguy hiểm cho Người và cho danh giá của cả gia tộc: “Người bị tướng quỷ Bê-en-dê-bun ám; Chính nhờ uy quyền của tướng quỷ người mới trừ được lũ quỷ con”. Tốt hơn nên nói rằng: Người đã “mất trí” .
Người đã làm gì để đến nỗi bị coi là điên khùng hay một người ủng hộ Satan? Người loan báo rằng Thiên Chúa đã đến gần, giải thoát những người bị quỷ ám, chữa lành các bệnh nhân, gần gũi những người cùi, thậm chí còn dám đựng chạm để chữa lành họ, Người còn đi đến mức tha thứ cho người tội lỗi, ăn uống tại nhà những người tội lỗi công khai. Người tự do trong việc giữ luật ngày Sabát. Người có lập trường riêng chẳng hề dựa trên truyền thống. Người nói phải chứa rượu mới trong bầu da mới! Tóm lại là đảo lộn tất cả, và còn tự xưng là… Thiên Chúa!.
Chẳng có cách nào băng qua những vòng người ngồi chung quanh để tóm lấy người. Gia đình người đành ở lại bên ngoài và cho đòi Người. người ta nhắn vào: “Mẹ Thầy và anh em Thầy ở ngoài kia tìm Thầy”. Nhưng người trả lời: “Ai là mẹ Ta? ai là anh em Ta? Rồi đưa mắt nhìn mọi người đang ngồi thành vòng tròn chung quanh, Người bảo: “Đây là mẹ Ta và anh em Ta. Ai thực hành thánh ý Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em, và mẹ Ta”.
Ở một thời buổi và giữa một dân tộc coi gia đình là thánh thiêng, Đức Giêsu đã có một thái độ thoát ly tán bạo. Một gia đình khác chào đời, mạnh hơn gia đình theo huyết tộc, mở rộng đón nhận cả nhân loại, gia đình của Cha Đấng ngự trên trời. Ai đo lường được mức độ mới mẻ gây tranh cãi mà đứa con lạc loài của Nadarét mang lại?
(G.Garde trong “Các cộng đoàn của Chúa” số 41 , trang 51).
Máccô buộc ta phải hiểu đức tin của Đức Maria là một đức tin lớn mạnh tiệm tiến. Chẳng phải ngay lúc nhập thể, Đức Maria đã hiểu biết con trai mình là Thiên Chúa. Luca không nói khác, vì theo ông, Mẹ không hiểu câu trả lời của Đức Giêsu ở Đền Thờ năm Người lên 12 tuổi (Lc 2,50). Cũng vậy, hôm nay Mẹ tin rằng phải dùng quyền làm mẹ, để đưa Đức Giêsu trở lại cuộc sống đơn sơ ở Nazareth, nhất là khi giáo quyền của đạo Do Thái xem ra chống lại con Mẹ. Dần dà, nhờ “lắng nghe Lời Chúa” và nhờ thực hành thánh ý mà Đức Maria đã lớn lên trong đức tin, một đức tin càng ngày càng sáng tỏ. Quyền làm mẹ đã tìm thấy một chiều kích mới, để trở nên Mẹ Giáo Hội.
(Trích trong ‘Chú Giải Tin Mừng Máccô’)
Thỉnh thoảng có người đưa ra một nhận định mà chúng ta không thể giải thích gì khác hơn là bảo đó là sản phẩm của một kinh nghiệm cay đắng. Khi kể ra những gì một người phải gặp nếu muốn theo Ngài, Chúa Giêsu đã nói “Người ta sẽ có kẻ thù nghịch là người nhà của mình” (mt 10,36). Chính người nhà Chúa Giêsu đã kết luận Ngài bị mất trí, và đã đến lúc họ phải bắt Ngài đưa về nhà. Chúng ta hãy thử xem điều gì khiến họ cảm thấy như vậy.
1/ Chúa Giêsu đã bỏ nhà ra đi, bỏ luôn nghề thợ mộc Ngài đã từng làm ở Nazaret. Chắc nghề ấy vốn phát đạt, ít nhất cũng giúp Ngài sinh nhai được. Thình lình, Ngài bỏ hết và ra đi làm một nhà truyền giáo, lang thang đó đây. Chắc họ nghĩ rằng chẳng ai tỉnh trí mà lại chịu bỏ việc làm ăn lợi lộc để trở thành một kẻ lang thang không chỗ gối đầu như vậy.
2/ Chúa Giêsu đang tiến tới chỗ phải đụng đầu với các lãnh tụ chính thống giáo thời đó. Ở đời, có nhiều kẻ có thể gây thiệt hại lớn lao cho người khác, có kẻ mà tay chân bộ hạ của họ cũng đáng cho người ta phải coi chừng, có kẻ mà chống lại họ là vô cùng nguy hiểm. Người nhà của Chúa Giêsu đã nghĩ, một người tỉnh trí sẽ chẳng bao giờ dám chống lại những kẻ quyền thế, vì phải biết rằng đụng chạm với chúng chỉ rước họa vào thân. Chưa hề có ai gây chuyện với các Kinh sư và Pharisêu, với các thủ lãnh tôn giáo mà hy vọng có thể thoát khỏi tay họ.
3/ Chúa Giêsu triệu tập một nhóm người bé nhỏ cho riêng Ngài, một nhóm người khá kỳ dị. Có mấy người là ngư dân, một người thâu thuế bỏ việc, một nhà ái quốc cuồng tín. Họ là hạng người mà không ai có chút tham vọng muốn đặc biệt quen biết. Họ là hạng người chẳng ích lợi gì cho ai muốn làm nên sự nghiệp. Chắc họ nghĩ chẳng ai tỉnh trí mà đi kết bạn với những kẻ như thế. Dứt khoát họ không phải là hạng người mà một người thận trọng chịu hòa mình chung sống.
Bằng các việc làm của Ngài, Chúa Giêsu đã vạch rõ ràng cả ba nguyên tắc mà loài người có khuynh hướng áp dụng để tổ chức đời sống mình, đều chẳng có ý nghĩa đối với Ngài.
1/ Ngài đã vứt đi nếp sống đảm bảo. Điều mà phần đông người thế gian cần có là một đời sống bình yên, ổn định. Họ ao ước được một việc làm, một địa vị an toàn, ổn định, ít gây xáo trộn về vật chất và tài chánh.
2/ Ngài đã vứt bỏ sự an toàn. Phần đông người ta có khuynh hướng muốn được sống an toàn, họ lo được an thân hơn lo cho phẩm cách đạo đức, cho việc làm phải hay quấy. Làm một việc có nguy cơ gây nguy hiểm cho bản thân là điều do bản năng người ta luôn luôn né tránh.
3/ Ngài hoàn toàn thờ ơ đối với lời phê phán, khen chê của xã hội. Ngài đã chứng tỏ là chẳng bận tâm gì đến những gì người ta nói về Ngài. Thật vậy, H.G. Wells đã nói: “Với nhiều người, tiếng nói của người láng giềng nghe to hơn cả tiếng Thiên Chúa. Người ta sẽ nói gì? Là một trong những câu hỏi đầu tiên mà chúng ta vẫn thường có thói quen đặt ra”.
Điều khiến cho người nhà và bạn bè của Chúa Giêsu lo sợ là những nguy cơ Ngài đã liều lĩnh chuốc lấy cho mình, mà theo ý họ, chẳng có người tỉnh trí nào làm vậy cả.
Lúc John Bunyan bị bỏ tù, ông đã rất lo sợ. Ông nghĩ “Kết thúc của việc tôi bị bỏ tù có thể là giá treo cổ, đó là điều tôi có thể nói”. Ông không thích ý nghĩ mình sẽ phải bị treo cổ, rồi một ngày kia, ông cảm thấy xấu hổ vì đã nghĩ như vậy “Hình như tôi xấu hổ vì phải chết với gương mặt tái xanh và hai đầu gối run rẩy chỉ vì một lý do như vậy”. Nhưng cuối cùng, ông đã đến được câu kết luận “khi tưởng tượng mình đang leo thang để lên giá treo cổ, lúc đó tôi nghĩ: tôi phải tiến bước và đánh liều phần số đời đời của tôi với Chúa Cứu Thế, cho dù ở đây tôi có được thoải mái hay không. Tôi nghĩ, nếu không có Chúa can thiệp, tôi cũng cứ nhắm mắt nhảy từ chiếc thang ấy vào cõi đời đời, dù có thể bơi lội hay chìm lỉm, dù thiên đàng hay hỏa ngục; Lạy Chúa Giêsu nếu Ngài có thể hứng bắt lấy con, xin hãy làm công việc của Ngài, bằng không, con cũng vì danh Ngài mà liều mạng sống vậy”. Đó cũng chính là điều mà Chúa Giêsu đã sẵn sàng làm, tôi sẽ vì danh Ngài mà liều mạng, chứ không phải muốn được sống yên thân, an toàn, phải là khẩu hiệu của mỗi Kitô hữu và là nguồn mạch cho sinh hoạt Kitô hữu.
Các chức sắc chính thống giáo chẳng còn chút gì để nghi ngờ quyền phép đuổi quỷ của Chúa Giêsu. Họ không cần nghi ngờ vì bên Phương Đông từ thời ấy mãi cho đến ngày nay, đuổi quỷ vốn là một hiện tượng thông thường. Điều họ nói là, sở dĩ Chúa Giêsu có quyền đuổi quỷ vì Ngài liên minh với chúa quỷ, nghĩa là “Ngài cậy con quỷ lớn để đuổi lũ quỷ nhỏ”. Người ta vẫn luôn luôn tin vào phù phép và đó chính là điều họ nói về Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu chẳng phải khó khăn gì để đả phá luận cứ đó. Việc đuổi quỷ luôn luôn là kêu gọi một thế lực mạnh hơn, giúp đuổi một con quỷ yếu hơn. Vì thế Chúa Giêsu bảo “Cứ nghĩ mà xem, nếu một nước mà nội bộ chia rẽ thì nước ấy không thể tồn tại, trong một nhà mà có cãi lẫy, tranh chấp, thì nhà ấy cũng sẽ không còn”. Nếu thật quỷ Satan đang đánh nhau với các quỷ sứ nó thì nó sẽ không còn là một thế lực có ảnh hưởng nữa, vì nội chiến đã bùng nổ trong nước của nó rồi! Chúa Giêsu phán “Hay nói cách khác, giả sử các bạn muốn đánh cướp nhà một người rất khỏe, các bạn chẳng có hy vọng gì làm được việc đó nếu chưa tóm được người rất khỏe đó. Sau khi trói được người ấy, mới có thể cướp của trong nhà người ấy được”. Việc các quỷ bị thua không chứng tỏ Chúa Giêsu đã liên minh với Satan nhưng là đồn lũy của Satan đã sụp đổ. Một con người mạnh hơn đã đến và cuộc đàn áp Satan đã bắt đầu. Ở đây có hai điều nổi bật.
1/ Chúa Giêsu thừa nhận đời sống là một cuộc chiến đấu, giữa hai thế lực thiện và ác. Chúa Giêsu không phí thì giờ để suy luận về những vấn đề không có lời giải đáp. Ngài không dừng lại để biên luận điều ác ở đâu ra, nhưng Ngài đã đối phó hữu hiệu nhất với nó. Có một điều hết sức kỳ dị là chúng ta thường phí rất nhiều thì giờ tụ tập nhau lại để tranh cãi về nguồn gốc của điều ác, nhưng chúng ta lại dành quá ít thì giờ để tìm những phương pháp thực tiễn nhằm ngăn chặn hoặc đối phó với điều ác. Có người nói “Giả sử có người vừa thức giấc bỗng thấy ngôi nhà mình đang bốc cháy, chắc chắn người ấy sẽ không ngồi vào ghế bành chăm chú đọc một bài thảo luận nhan đề “Nguyên nhân những vụ phát hỏa tại tư gia”. Nhưng người ấy phải lập tức làm tất cả những gì có thể làm được để dập tắt ngọn lửa. Chúa Giêsu đã nhìn thấy cuộc tranh chấp chính yếu giữa điều thiện và điều ác nằm ngay tại trung tâm đời sống và đang làm hại thế gian. Ngài không lý luận về nó Ngài phải đối phó với nó và ban cho những người khác quyền năng để thắng điều ác và làm điều thiện.
2/ Chúa Giêsu cho việc đánh bại bệnh tật là một phần trong cuộc chiến thằng Satan. Đây là một phần quan trọng trong tư tưởng của Chúa Giêsu. Ngài muốn và cứu được thân thể cũng như linh hồn con người.
III. Tội không thể được tha: 3,28-30
Nếu muốn hiểu câu nói khủng khiếp này có nghĩa gì, chúng ta phải thấu triệt hoàn cảnh nó đã được nói ra. Câu ấy do Chúa Giêsu nói khi các Kinh sư và Pharisêu bảo Ngài đã chữa bệnh không phải do quyền năng Thiên Chúa nhưng do quyền phép của ma quỷ. Bọn người này vừa thấy tình yêu của Thiên Chúa, nhưng lại cho đó là quyền năng nhập thể của Satan.
Chúng ta phải bắt đầu bằng cách nhớ rằng Chúa Giêsu đã không nói về Thánh Thần theo ý nghĩa đầy đủ như Kitô hữu ngày nay hiểu. Vì bấy giờ Thánh Thần chưa đến trọn vẹn trên loài người, cho đến khi Chúa Giêsu trở về với sự vinh hiển của Ngài. Chỉ đến ngày Lễ Ngũ Tuần, loài người mới được kinh nghiệm trọn vẹn về Thánh Thần. Có thể lúc ấy, vì đang nói chuyện với người Do Thái nên Chúa Giêsu đã dùng từ Thánh Thần theo ý nghĩa trong Do Thái giáo. Trong tư tưởng Do Thái giáo, Thánh Thần có hai chức vụ quan trọng. Một là Ngài mặc khải chân lý của Thiên Chúa cho loài người, hai là Ngài giúp loài người nhận ra chân lý ấy. Như thế, chúng ta đã có được chiếc chìa khóa cho đoạn sách này.
1/ Thánh Thần giúp loài người nhận ra chân lý của Thiên Chúa, khi chân lý ấy đến với đời sống họ. Nhưng nếu người nào không sử dụng năng khiếu Chúa ban thì cuối cùng, người ấy sẽ bị mất nó. Nếu người ta sống quá lâu trong bóng tối thì sẽ mất đi khả năng nhìn thấy. Nếu một người phải nằm liệt giường quá lâu, người ấy sẽ không thể bước đi được nữa. Nếu một người không chịu học hỏi gì cả, thì lần lần sẽ mất đi khả năng học hỏi. Nếu một người khước từ sự hướng dẫn của Thánh Thần nhiều lần, thì cuối cùng người ấy sẽ không còn nhận ra chân lý khi nhìn thấy nó. Bấy giờ, đối với người ấy, điều ác sẽ trở thành thiện, điều thiện sẽ trở thành ác. Người ấy có thể nhìn vào điều thiện của Thiên Chúa mà bảo đó là điều ác của Satan.
2/ Tại sao tội như thế lại không được tha? H.B. Swete nói “Đồng nhất hóa nguồn mạch của điều thiện với hiện thân của điều ác là có lệch lạc về đạo đức mà ngay sự Nhập thể cũng không có thuốc chữa”. A.J. Rawlinson gọi đó là “sự gian ác chính yếu”, dường như ngay trong điều đó chúng ta thấy yếu tính của điều ác. Bengel thì bảo, tất cả các tội khác đều do loài người, nhưng tội đó vốn bắt đầu từ Satan. Tại sao thế?
Hãy xét đến ảnh hưởng mà Chúa Giêsu thực hiện trên một người. Hiệu quả đầu tiên mà Chúa Giêsu tạo ra trên một người là khiến người ấy được tính cách chẳng ra gì của mình so với vẻ đẹp đáng yêu của đời sống Chúa Giêsu. Phêrô đã nói “Lạy Chúa xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). lúc Tokichi Ishiii đọc truyện tích trong sách Phúc Âm đầu tiên, anh ta nói “Tôi dừng lại, dường như có một cây đinh hai tấc đâm thấu vào lòng tôi. Tôi phải nói đó là tình yêu của Chúa Cứu Thế chăng? Tôi phải nói đó là lòng thương xót của Ngài chăng? Tôi không biết gọi đó là gì cả, tôi chỉ biết là tôi đã tin, tấm lòng cứng cỏi của tôi đã được thay đổi”. Phản ứng đầu tiên là người ấy rung động sâu xa như bị đâm thấu tâm can. Và kết quả của việc đó là người ấy ý thức được là mình vốn chẳng ra gì, và kết quả nữa là ăn năn thống hối, thống hối hoán cải là điều kiện duy nhất để được tha tội. Nhưng nếu một người không chịu nghe theo Thánh Thần thúc dục thì người ấy sẽ chẳng thấy nơi Chúa Giêsu điều gì đẹp đẽ đáng yêu cả, sau đó, việc nhìn thấy Chúa Giêsu chẳng khiến người ấy có ý thức về tội, vì không ý thức về tội nên người ấy không thể được tha thứ.
Một trong những câu chuyện kể về Satan là: Ngày nọ, vị linh mục thấy trong cộng đoàn có một chàng thanh niên đẹp trai. Sau giờ thờ phượng, chàng thanh niên ở lại để xưng tội. Anh ta xưng ra nhiều tội mà tội nào cũng hết sức khủng khiếp, khiến vị linh mục phải dởn tóc gáy. Ông hỏi “Chắc con phải sống lâu lắm mới phạm nhiều tội đến thế?”. Chàng thanh niên đáp “Tôi tên là Luxiphe, tôi đã trốn khỏi thiên đàng ngay từ lúc thời gian mới bắt đầu”. Vị linh mục tiếp “Cho dù như vậy chăng nữa, hãy nói là con rất hối hận, nói rằng con ăn năn, con sẽ được tha thứ”. Chàng thanh niên nọ trố mắt nhìn vị linh mục một hồi rồi quay lưng đi ra. Anh không chịu nói và cũng không thể nói như thế, do đó anh phải tiếp tục ra đi vào nơi hoang vu, để lại càng bị lên án, bị nguyền rủa nhiều hơn.
Chỉ có một điều duy nhất để được tha tội đó là biết ăn năn thống hối. Khi con người nhìn thấy vẻ đáng yêu trong Chúa Cứu Thế, người ấy còn ghết tội mình dù rằng chưa thể bỏ được, ngay cả nếu người ấy đang ở trong bùn lầy, anh ta vẫn có thể được tha thứ. Nhưng nếu một người sau khi đã được Chúa hướng dẫn nhiều lần đã đánh mất khả năng nhận ra điều thiện khi nhìn thấy nó, nếu người ấy đã chai lý đến độ chẳng còn nhận ra được các giá trị đạo đức, đến nỗi đối với người ấy thì thiện là ác mà ác là thiện, thì dù có đối diện với chính Chúa Giêsu, người ấy cũng chẳng hề ý thức được về tội, người ấy vẫn không thể ăn năn thống hối, do đó sẽ chẳng bao giờ được tha thứ. Đó là tội phạm đến Thánh Thần.
Chúa Giêsu quy định các điều kiện để trở thành bà con thân thuộc thật sự. Bà con thân thuộc không phải chỉ là vấn đề cốt nhục. Chúng ta biết có người chẳng có liên hệ huyết thống, lại thân cận với mình hơn cả người bà con có liên hệ huyết thống gần nhất. Vậy mối liên hệ bà con thân thuộc đích thực được căn cứ vào đâu?
1/ Mối liên hệ bà con thân thuộc đích thực là do một kinh nghiệm chung, nhất là một kinh nghiệm cả hai cùng vượt qua được một cảnh ngộ nào đó. Có người ấy bảo hai người ấy thật sự trở nên bạn bè khi họ có thể nói với nhau rằng “Bạn còn nhớ không?” để rồi tiếp tục nhắc lại cho nhau những gì họ đã cùng trải qua. Một người nọ gặp một bà cụ da đen. Một người quen biết của bà cụ này đã qua đời. Ông ta hỏi “Bà X mất rồi chắc bà cụ buồn lắm?”. Bà cụ đáp “Vâng”, nhưng chẳng lộ chút buồn rầu. Ông ta nói “Tôi mới gặp hai bà tuần rồi, cả hai đang cười với nhau, chắc hai bà thân nhau lắm?”. Bà cụ đáp “Vâng, chúng tôi là bạn, chúng tôi vẫn cười đùa với nhau, nhưng muốn thật sự thân nhau, người ta phải cùng khóc với nhau nữa”. Đây quả là một chân lý sâu xa. Nền tảng của mối liên hệ thật sự thân thuộc là có một kinh nghiệm chung. Các Kitô hữu có kinh nghiệm chung: họ đều là tội nhân đã được tha thứ.
2/ Mối liên hệ thân thuộc đích thực là cùng có mối quan tâm chung. A.M. Chigwin kể cho chúng ta một việc hết sức thú vị trong tác phẩm “Kinh Thánh Trong Việc Phúc Âm Hóa Thế Giới”. Một trong những việc khó khăn nhất trong việc phân phối Kinh Thánh, không phải là việc bán Kinh Thánh, nhưng làm sao cho người ta đọc Kinh Thánh. Ông tiếp “Tại Trung Hoa vào những ngày trước khi cộng sản đến, một người phân phối Kinh Thánh đi từ hàng quán này đến hàng quán khác, từ nhà này đến nhà khác. Nhưng ông bị thất vọng vì nhiều độc giả Kinh Thánh của ông mất dần lòng sốt sắng, đến khi ông nghĩ ra một kế hoạch, ông tạo cơ hội cho họ gặp gỡ nhau và tổ chức họ thành một nhóm đạo đức, dần dần được tổ chức đàng hoàng”. Chỉ sau khi các đơn vị riêng lẻ trở thành của một nhóm được ràng buộc vào nhau bởi một mối quan tâm chung, thì mối thông hiệp và liên hệ bà con thân thuộc thật sự hình thành. Mối bận tâm chung đã buộc chặt họ thành bà con thân thuộc. Kitô hữu có mối quan tâm chung, vì tất cả Kitô hữu đều ao ước được hiểu biết nhiều hơn về Chúa Giêsu Kitô.
3/ Mối liên hệ bà con thân thuộc thật sự là việc cùng vâng lời. Các môn đệ của Chúa vốn là một nhóm người hết sức hỗn tạp. Đủ thứ niềm tin và ý kiến trộn lẫn giữa họ. Người thâu thuế như Matthêu và nhà ái quốc Simôn Nhiệt thành chắc phải ghét nhau lắm, và hẳn có lúc hai người đã thù ghét nhau. Nhưng cả hai đã được buộc chặt vào nhau, vì đều nhận Chúa Giêsu làm thầy và Chúa. Bất kỳ một đạo quân nào cũng gồm nhiều con người thuộc nhiều giai tầng xã hội khác nhau, có nếp sống khác nhau, ý kiến khác nhau, nếu được sống chung với nhau trong một thời gian, họ sẽ kết hợp lại thành một đoàn người sống chết có nhau, vì họ cùng tuân lệnh trong quân đội. Người ta dễ trở thành bạn thân với nhau khi cùng có chung một thầy, một chủ. Người ta rất dễ yêu thương nhau khi cùng yêu mến Chúa Giêsu Kitô.
4/ Mối liên hệ bà con thân thuộc thật sự là do môt mục đích chung. Chẳng có gì kết chặt người ta vào nhau tốt hơn là mục tiêu chung. Đây là một bài học quan trọng cho Hội Thánh. Khi nói về mối quan tâm mới mẻ đối với Kinh Thánh, A.m. Chirgwin đã hỏi “Phải chăng vấn đề thống nhất Hội Thánh cần được đặt ra là phải căn cứ trên Kinh Thánh, chứ không phải vào việc xét lại vấn đề Giáo Hội”. Hội Thánh sẽ chẳng bao giờ kéo lại gần nhau khi mọi người còn cãi nhau về việc tấn phong hàng giáo phẩm, về tổ chức quản trị Hội Thánh, về tổ chức các Thánh Lễ và nhiều điều khác đại loại như thế. Điểm duy nhất để mọi người có thể kết hợp với nhau là ai nấy đều tìm cách đưa nhiều người khác đến với Chúa Cứu Thế. Mối liên hệ bà con thân thuộc mà họ cùng nhau đi đến, xuất phát từ một mục tiêu mà hơn ai hết, các Kitô hữu đều nắm giữ, đó là tìm cách để hiểu biết Chúa Cứu Thế hơn và đưa nhiều người vào nước của Ngài. Các vấn đề khác, chúng ta có thể bất đồng, nhưng điều này phải nhất trí.
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)
Trong cuộc sống, không ai là người lại không muốn cho mình được hạnh phúc! Người thì cho rằng: vợ đẹp con khôn là hạnh phúc; người khác lại nghĩ có được nhà lầu xe hơi mới là hạnh phúc; lại có người nghĩ mình phải phấn đấu để được giữ chức nọ việc kia thì sẽ hạnh phúc, nhưng có người lại chỉ hy vọng rất đơn giản là làm sao có cơm ba bữa, quần áo mặc cả ngày cũng là hạnh phúc lắm rồi!
Như vậy, mỗi người đều mong cho mình được hạnh phúc, tuy nhiên quan niệm về hạnh phúc thì lại khác nhau.
Hôm nay, Đức Giêsu cho chúng ta thấy: hạnh phúc của người Tín hữu Kitô chính là việc được đón nhận hồng ân đức tin. Có được đức tin là chúng ta được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Đây là những người hạnh phúc đích thực.
Vì thế, Đức Giêsu rất quan tâm đến mối liên hệ trong đức tin hơn là sự liên hệ tình cảm thuần túy.
Vì thế, khi thấy được những điều kỳ diệu Đức Giêsu làm và những lời giảng dạy tuyệt vời của Ngài, một người đã thốt lên lời khen ngợi, hay nói đúng hơn là lời chúc mừng Đức Maria là người đã sinh ra và nuôi dưỡng Ngài: “Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!”. Tuy nhiên, Đức Giêsu lại nói: “Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn”.
Khi nói như thế, Ngài không có ý hạ thấp vai trò của Đức Maria, nhưng một cách gián tiếp, Ngài đang đề cao Mẹ Maria hơn bao giờ hết, bởi vì trong số những người lắng nghe lời Thiên Chúa, hẳn Mẹ là người trung thành và trọn vẹn nhất. Vì thế, Đức Giêsu muốn đưa Đức Maria ra làm mẫu gương về việc lắng nghe Lời Chúa.
Lời Chúa hôm nay gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh mỗi người chúng ta, vì: ngày nay, trong cuộc sống có quá nhiều sự bon chen, con người phải chạy đua với chúng như trò chơi đuổi nhau của bọn trẻ. Họ phỏng chiếu hạnh phúc qua lăng kính của tiền, tài, tình, quyền…. Còn đứng trước lời mời gọi của Chúa qua chính Lời Ngài thì hẳn chúng ta không muốn nghe, nói gì đến việc tuân giữ!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người: hãy xin Chúa ban đức tin cho ta, từ đức tin đó, chúng ta cộng tác với ơn Chúa để làm cho đức tin ngày càng lớn mạnh. Dấu hiệu của người có một đức tin trưởng thành là yêu mến và tuân giữ Lời Chúa, suy đi nghĩ lại và đem ra thực hành. Được như thế, chúng ta sẽ là những người hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con được yêu mến và tuân giữ Lời Chúa cách trung thành như Mẹ Maria khi xưa. Amen.
THI HÀNH LỜI CHÚA, LÀ THÂN NHÂN CỦA NGÀI
(Suy niệm Mc 3,31-35 – Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)
Không có bà mẹ nào mà lại không thương con, nhất là những đứa con bị khiếm khuyết cách này hay cách khác!
Hôm nay Tin Mừng thuật lại việc Đức Mẹ và người thân của Đức Giêsu đến tìm Ngài và khuyên Ngài từ bỏ con đường sứ vụ để trở về, vì có tin đồn đoán rằng Đức Giêsu bị điên!
Ôi một sự thật đau lòng! Vì yêu thương, Đức Giêsu làm tất cả mọi việc miễn làm sao để cho Thiên Chúa được vinh quang và con người được hạnh phúc, thế nhưng người Pharisêu lại phao tin Ngài bị điên! Họ muốn đánh vào uy tín của Đức Giêsu, và, đứt dây đương nhiên đụng đến rừng, tức là nếu Đức Giêsu bị điên thì mẹ của Ngài sẽ như thế nào khi sinh ra một đứa con điên? Anh em của Ngài sẽ còn uy tín gì nữa không khi trong dòng tộc của mình lại xuất hiện một kẻ khùng! Và, nhất là những lời giảng của Đức Giêsu từ nay không còn khả tin nữa, bởi vì không ai dại gì mà đi nghe theo lời của một người điên!
Đây là một đòn thâm hiểm mà những người Pharisêu đánh vào Đức Giêsu và thân nhân của Ngài.
Tuy nhiên, khi thấy Mẹ và anh em đến tìm mình, Đức Giêsu đã thốt lên và chỉ vào những người đang ngồi quanh Ngài mà nói rằng: ai là mẹ tôi, ai là anh chị em tôi? Thưa chính là những người thực hành ý muốn của Cha tôi, người đó là mẹ tôi và anh chị em tôi.
Một câu nói nhằm mặc khải cho mọi người biết một thực tại khác vượt lên trên suy nghĩ thuần túy của con người. Sự gắn bó với Thiên Chúa và thi hành Lời của Người là điều quan trọng, và chính trong mối liên hệ này mà chúng ta được trở nên nghĩa thiết, thân tình với nhau. Mặt khác, Đức Giêsu cũng ngầm giới thiệu cho mọi người xung quanh biết rằng: chính Đức Maria là người đã thi hành thánh ý Thiên Chúa, nên Mẹ xứng đáng trở thành mẫu gương cho chúng ta về việc thực thi Lời Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chú tâm đến việc thực thi Lời Chúa hơn là những chuyện bề ngoài. Khi đã thực thi thánh ý Chúa, chúng ta không quan trọng chuyện người ta nói này hay nói kia để bêu dếu, làm mất thanh danh tiếng tốt của ta. Ngược lại, chỉ có một điều đáng làm cho chúng ta sợ, đó là khước từ Lời Chúa và chạy đua những thứ mau qua, chóng hết ở đời, làm cho chúng ta xa dời hạnh phúc đích thực là sự sống vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết lắng nghe Lời Chúa; đồng thời biết đem Lời Chúa ra thực hành, dù có phải chịu khốn khổ vì Lời Chúa thì vẫn một mực trung thành. Amen.
Giữa hai lần can thiệp đầy thù địch của những người bà con với Ngài (3, 20-21 và 31-35) Maccô nói đến cuộc đấu khẩu giữa Chúa Giêsu và đám luật sĩ kẻ thù “ra mặt” của Ngài (c. 22a). Cuộc tấn công này quả là nghiêm trọng. Các thủ lĩnh nhóm biệt phái đến từ Giêrusalem, thành trì giáo quyền của Israel. Lời cáo buộc của họ cũng thật nặng nề. Chúa Giêsu không chỉ là một người bị bà con mình cho là đồ điên (3,21); Ngài còn là tác nhân của ma quỷ! Bêeldêbun là một trong những tên gọi của Satan, tên gọi này được gán cho một thần linh của dân ngoại là “Ông Hoàng Baal”. Chắc chắn các “nhà thông thái” này không phủ nhận sự kiện Chúa Giêsu thực hiện các cuộc trừ quỷ. Trong thế giới Do Thái thời Chúa Giêsu, việc trừ quỷ khá phổ biến và được mọi người chấp nhận (Cv 19,13). Tuy nhiên, các nhà thông thái này lại tố cáo Chúa Giêsu đã hành động như thế dựa trên một năng lực siêu nhiên của chính Satan, chứ không phải phát xuất từ Thiên Chúa (c. 22c).
Nghe lời vu khống này, Chúa Giêsu không thể nào để yên. Đây là lần đầu tiên Ngài sử dụng dụ ngôn như một hình thái văn chương: Ngài dùng cách “so sánh” từ những hình ảnh thường nhật để buộc họ suy nghĩ. Ngài nêu ra hình ảnh thường nhật để buộc họ suy nghĩ. Ngài nêu ra hình ảnh một gia đình chia rẻ lẫn nhau: gia đình này chỉ có nước tàn lụi (c. 24-25). Luận lý của Chúa Giêsu rất vững vàng: Nếu Satan tự chống lại chính nó thì chắc chắn nó sẽ tự tiêu diệt (c. 26). Từ đó Chúa Giêsu khéo léo đưa ra thêm một dụ ngôn thứ hai rất ngắn gọn (c. 27). Ngài chẳng cần phải dài dòng giải thích câu đố được nêu ra. Chỉ cần Ngài mô tả bằng hình ảnh là người nghe đã xác nhận được, Đấng Mêsia đang cướp bóc ngôi nhà của Satan, gã “lực sĩ”. Muốn chiến thắng “nhân vật” tượng trưng cho Thần Dữ này thì trước tiên Ngài phải cột được hắn lại. Ngược với những đánh giá của đám luật sĩ, nơi Chúa Giêsu, Đấng Mêsia hiện đang tận diệt “vương quốc của Satan”. Hãy nhớ lại tiếng kêu la của lũ quỷ dữ vừa bị Chúa Giêsu, Đấng Mêsia hiện đang tận diệt “vương quốc của Satan”. Hãy nhớ lại tiếng kêu la của lũ quỷ dữ vừa bị Chúa Giêsu trục xuất ra khỏi các nạn nhân của chúng: “Hỡi ông Giêsu Nadaret, ông muốn gì ở chúng tôi? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao?” (1,24). Rõ ràng Chúa Giêsu không phải là người hỗ trợ mà chính là Đấng nắm chủ quyền trên Satan.
Cuộc khẩu chiến kết thúc bằng lời Chúa Giêsu cảnh cáo nghiêm khắc các đối thủ Ngài: mọi tội lỗi của loài người đều có thể được Thiên Chúa thứ tha ngoại trừ một thứ tội. Điều này rất đáng cho chúng ta suy nghĩ (c. 28-29). Lời tuyên bố long trọng và khá mạnh bạo này của Chúa Giêsu khiến cho mọi độc giả thuộc mọi thời đại đều phải suy nghĩ. Người ta đã bình phẩm nhiều về tội “phỉ báng Thánh Thần”, thứ tội không thể nào được tha thứ này. Đúng ra là thứ tội gì? Người ta liệt kê ra những tội mà họ cho là “đáng chết”. Tuy nhiên người ta vẫn không tìm ra những tội nào thực sự được gọi là không thể tha thứ. Muốn hiểu được ý Chúa Giêsu thì không nên tách lời Ngài nói ra khỏi mạch văn, vì chính mạch văn mang lại ý nghĩa cho lới ấy: “Chúa Giêsu nói thế bởi vì bọn họ bảo rằng: “Ông ta đã bị quỷ ô uế ám” (c. 30). Đám luật sĩ đã dám gán cho Satan công việc do cần thiết thực hiện. Maccô rất cẩnt hận chứng tỏ rằng ngay từ lúc khở đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã được Thánh Thần Thiên Chúa tấn phong. Chính Giêsu chịu phép rửa và giúp Ngài hành động để giải phóng loài người khỏi sự dữ (1,9-12). Cho rằng lúc trừ quỷ Chúa Giêsu dựa vào năng của ma quỷ tức là cố ý khép kín tâm hồn không thèm đón nhận ơn tha thứ mà Chúa ban cho tất cả mọi Người. Chỉ riêng tội nghịch cần thiết này là không thể nào tha thứ được.
Vào lúc Maccô ghi chép lại Tin Mừng này, các Kitô hữu đang phải là bia hứng chịu bao lời cáo sai lạc của đám dân Do Thái thù nghịch, đám người này không chịu nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Mêsia chiến thắng lũ thần Dữ. Dầu sao, mọi người đều phải chọn lựa hoặc theo Chúa Giêsu hoặc theo Satan.
Cảnh này là đoạn cuối của tiến trình khởi đầu từ 3,20-21. Bà con Chúa Giêsu toan tiến tới giữ lấy Ngài. Lý do là vì Ngài bị đám đông tràn ngập: “Ông ấy mất trí rồi!” (c. 21b). Quả là cuộc xung đột không kết quả. Giờ đây lại một cuộc xung đột nữa (c. 31). Cũng vẫn như lần trước, Chúa Giêsu đang giảng dạy (c. 32a). Người ta loan báo cho Chúa Giệsu mẹ và anh em Ngài đột xuất ghé thăm (c. 32b). Maccô nhấn mạnh tới hai lần: thân quyến Chúa Giêsu chờ “Ở ngoài”. Điều này đối ngược với vòng người đang vây quanh nghe Chúa giảng. Nếu ra khỏi nhà để gặphọ là đồng nghĩa với sự tách lìa sứ vụ. Chắc chắn đó là lý do tại sao Chúa Giêsu thốt ra câu nói cứng cỏi như thế với mẹ ruột Ngài (c. 33). Điều này hẳn làm chúng ta ngạc nhiê. Tuy vậy Maccô thường hẳn chú tâm đến cái rắc rối về mặt tâm lý. Người ta cũng thắc mắc các “anh em” của Chúa Giêsu là ai, bởi vì theo truyền thống thì Ngài là người con trai độc nhất. Thực ra trong bối cảnh vùng Sêmit, từ ngữ “anh em” còn dùng để chỉ bà con gần. Điều mà Maccô nhấn mạnh ở đây chính là Chúa Giêsu không hề đặt nặng quan hệ về huyết thống. Trọng điểm của trình thuật sẽ xác nhận rõ điều này. Ngài đảo mắt nhìn tất cả những kẻ đang vây quanh (c. 34a). Đối với Maccô, cái nhìn chăm chú này luôn báo hiệu một thời khắc quan trọng sắp diễn ra (x. 3.5; 10,23; 11,11). Quả thế, Chúa Giêsu sắp đưa ra một tuyên bố hệ trọng (c. 34b). Ngài không định vị gia đình đích thực của Ngài trong tương giao huyết nhục mà theo tiêu chuẩn kẻ nào biết nghe theo lời Ngài. Ngài thẳng thắn xác định điều đó: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người đó là anh chị em tôi là mẹ tôi” (c. 35).
Đây là một cách thức vừa rõ ràng vừa đơn giản mà Maccô muốn trình bày cho các Kitô hữu đương thời về Giáo Hội. Cuộc bách hại của người La Mã đã đẩy nhiều gia đình đến những cuộc phân ly đâu đớn. Những kẻ trở lại đạo thường bị bó buộc phải chọn lựa hoặc là thân quyến hoặc là cộng đoàn Kitô hữu. Maccô chứng tỏ cho họ thấy ngay chính Chúa Giêsu cũng từng bị bó buộc phải đoạn tuyệt trọn vẹn với thân quyến Ngài: Vì thế các Kitô hữu cũng không thể đòi cho mình được đặc quyền hơn Ngài. Như thế trên con đường rao giảng của Chúa Giêsu, Maccô đưa ra hai loại tương giao giữa Chúa Giêsu và những kẻ đương thời của Ngài: một số từ khước và một số đón nhận Ngài.
Trước hết là những kẻ đối nghịch với Chúa Giêsu, trong số này đám biệt phái và luật sĩ là những người cay cú nhất. Họ căm ghét Ngài đến mức dám phỉ báng cả Chúa Thánh Linh khi rêu rao rằng Chúa Giêsu bị quỷ ám (c. 30). Tuy nhiên đám bà con Chúa Giêsu cũng phạm phải tội lỗi giống họ khi tuyên bố rằng Chúa Giêsu bị mất trí rồi (c. 21). Người ta tự hỏi Maccô có ý gì khi lồng sự can thiệp dữ dằn của bà con thân thuộc Chúa Giêsu (c. 20-21 và 31-35) vào trước và sau cuộc tranh luận của Chúa về Bêeldêbun (c. 22-30)? Hai cuộc can thiệp của bà con Ngài tuy khác nhau nhưng dầu sao cũng có nhiều điểm trùng hợp, đó là họ tỏ ra thù nghịch với sứ vụ của Chúa Giêu. Đối với Maccô, thân tộc Chúa Giêsu đã hành động như một “gia đình tự phân rẽ” mà Ngài từng nói đến trong cuộc xung đột với đám luật sĩ (3,25). Như thế sự ráp nối hai đoạn văn này lại sẽ cho chúng ta nhiều ý nghĩa.
Đối ngược với loại người trên là các môn đệ của Chúa Giêsu. Trước hết là nhóm Mười Hai (3, 13-19), và rộng hơn là đám quần chúng sẵn sàng đón nhận Tin Mừng từ miệng Ngài rao giảng. Vào lúc đầu đám đông chỉ “tụ lại” quanh Chúa Giêsu và theo Ngài về nhà (c. 21). Còn vào lúc cuối thì xem ra họ “nghiêm chỉnh” hơn bởi vì đã biết “ngồi quanh” nghe Ngài giảng (c. 32a và 34a). Đối đầu với những kẻ “bên ngoài’, cộng đoàn các môn đệ ngày càng gia tăng. Và Chúa Giêsu cho biết kẻ thuộc về Ngài chính là kẻ thực hành ý muốn của Thiên Chúa. Về sau, khi cùng tham dự vào Lễ Hiện Xuống, các Kitô hữu sẽ thực sự được gọi là “anh chị em” của Chúa Giêsu, bởi vì họ đã thiết lập nên một dòng dõi thiêng liêng, tức gia đình đích thực của Chúa Giêsu trong cộng đoàn có tên là “Giáo Hội” (x. Plm 1-2).
SATAN PHẢI DIỆT VONG
Đức Giêsu trở về nhà. Dân chúng lại kéo đến đông đảo, thành thử Người và các môn đệ không sao mà ăn uống được.
Lúc khởi đầu rao giảng Đức Giêsu đã thành công. “Đám đông” thường tuôn đến quanh Người để nghe giảng. Thánh Mác-cô viết lại lời giảng của Thánh Phêrô, ghi nhận rằng một hôm dân chúng đông đến nỗi không còn chỗ nào cho người trong nhà dùng bữa. Nhà đó chắc hơn là nhà của ông Simôn Phêrô, tại Ca-phác-na-um, mà Chúa Giêsu coi như nhà của mình (Mc 1,29 – 2,1 – 3,20 – 9,28 – 9,33 – 10,10).
Trong số phế tích còn lại hiện nay của thành Ca-phác-na-um, những nhà khảo cổ đã tìm được nền của một căn nhà giản dị của những người đánh cá từ thế kỷ thứ nhất trước Đức Giêsu, trên nền đó có thiết dựng một cung cách Kitô giáo rất cổ xưa. Những hình vẽ đạo đức trên tường được khắc nổi trên thạch cao giúp ta nhận ra căn nhà đó là nơi Đức Giêsu thường cư ngụ. Từ ngày Chúa nhập thể, nhà cửa của chúng ta có một phẩm giá mới. Chúng ta tưởng tượng Đức Giêsu đang ở trong một căn nhà như vậy, nhà một thủy thủ nghèo ở bến cảng, giữa những căn nhà khác trong làng, nằm trong những ngõ hẻm chằng chịt.
Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ bảo: “ông ấy mất trí rồi”.
Đó là những gì người ta đã nói về Người, trong thân nhân của Người: ‘ Đó là một kẻ cuồng nhiệt. Người đã điên rồi… Người đã mất trí rồi…” rõ ràng trong ít thời gian gần đây cuộc sống của Người khác hẳn với nếp sống bình dị của Người suốt 30 năm tại Na-za-rét! Thân nhân của Đức Giêsu chắc hẳn đã biết rằng, Người bị giáo quyền lúc bấy giờ “coi thường”. Người sẽ làm chúng ta bị lôi thôi. Vì thế họ đến để đem Người trở về cuộc sống bình thường. Chúng ta có sẵn sàng chấp nhận những ơn gọi hơi “điên rồ” mạo hiểm thiếu hợp lý, theo sự thận trọng của con người không? Chúng ta có bao giờ theo Đức Giêsu mà có vẻ như một người hơi “điên khùng?” Vì chúng ta không theo những tiêu chuẩn thông thường của thế gian trong công việc, trong vấn đề lương tâm, trong cung cách đối xử với cá nhân hay tập thể?
Còn các kinh sư từ Giêrusalem xuống thì lại nói: “ông ấy bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám” và rằng: “Ông ấy dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ”.
Một dư luận thu hai nặng hơn, đang xì xầm quanh Đức Giêsu. Chẳng những Người đã “điên” mà lại còn “bị quỷ ám”. Đó là những lời nói bóng gió đầy nham hiểm, không ai phủ nhận được tính xác thực tủa các phép lạ Người làm. Nhưng Người có quyền lực đó là nhờ Satan, mà người Do Thái thời bấy giờ gọi bằng một tên khinh miệt là “Đồ Baal-phân-nhơ” (bée!-zéboul). Chính những “kinh sư và những “học giả” đã tung ra sự nghị ngờ này.
Người liền gọi dân chúng đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Satan làm sao trừ Satan được? Nước nào chia rẽ nước ấy sẽ mất, nhà nào chia rẽ, nhà ấy sẽ tan. Vậy Satan mà chống Satan, Satan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng hẳn đã đến ngày tận số. Không ai vào nhà một người mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã rồi mới cướp sau”.
Đây là dụ ngôn đầu tiên và ngắn gọn mà Thánh Mác-cô đã thuật lại: Hình ảnh của một cuộc chiến xáp lá cà nhanh chóng và quyết liệt. Đức Giêsu đã minh chứng Người “mạnh hơn” Satan. Ngày nay điều đó vẫn luôn đúng thực. Cuộc chiến vẫn tiếp diễn và Đức Giêsu đang ở cùng chúng ta trong cuộc chiến chống lại sự dữ. Chúng ta lạc quan hay bi quan, khi phải đương đầu với những thế lực xấu ác đang ào ạt diễn ra trên thế giới.
Tôi bảo thật anh em: Mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha, “nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng bao giờ được tha, mà còn mắc tội muôn đời”. Người nói thế, vì họ đã bảo: “ông ấy bị quỷ ám”.
Vấn đề đặt ra không phải là bản chất của tội lỗi, cũng không phải là giới hạn của lòng thương xót Thiên Chúa, khiến cho tội đó không thể tha thứ, nhưng chỉ là thái độ cố chấp trong tội ác. Phải lặp lại điều này với Đức Giêsu. Người không lên án ai cả. Người thứ tha mọi tội lỗi cho tất cả mọi người. Nhưng có những người nhất định. Khép kín lòng mình không đón nhận sự tha thứ này: Đó là “nói phạm đến Thánh Thần” Người tha thứ cũng uổng công: Vì một số người khước từ thứ tha tội. Có lẽ đó là hỏa ngục rồi.. Không ai trong số những người tự lên án hỏa ngục cho mình lại muốn ra khỏi đó cả. Nếu không người đó sẽ được cứu rỗi ngay, vì Chúa “tha mọi tội lỗi kể cả tội nói phạm thượng”.
Sự khước từ ngoan cố triệt để này có thường xảy ra không? Không ai có thể xét đoán người anh em mình theo bề ngoài, nhưng mỗi người hãy tự xét trường hợp của chính mình: Vào lúc này; ngày này tôi đang hiện hữu, câu hỏi tôi phải đặt ra không phải là “tôi có tội hay không?” bởi vì mọi người đều là tội nhân (Rm 3,23) nhưng câu hỏi duy nhất là tôi có đón nhận sự tha tội của Chúa không? Tôi có nói phạm thượng đến Thánh Thần không? Tôi có coi thường tình yêu của Chúa luôn giải án tuyên công cách vô điều kiện cho mọi người tội lỗi không? (Rm 3,24).
Lạy Đức Giêsu, xin thương xót con là kẻ có tội “Christe eleison”.
Đó là lời cầu xin Chúa Giêsu nổi tiếng mà tín hữu phương Đông thường lặp đi lặp lại không biết mỏi mệt.
Lúc bấy giờ, mẹ và anh em Đức Giêsu đến.
Máccô đã lồng hai đoạn: “Thái độ khước từ của kinh sư” và “cuộc đi tìm kiếm của thân nhân Đức Giêsu”. Đó là cách hành văn Máccô quen làm để mời gọi chúng ta tìm ra mối liên kết giữa hai tình huống. Đức Giêsu bị ngược đãi bị chối từ ngay trong những thân nhân của Người. Từ “anh em” trong tiếng Hêbơrơ vừa có nghĩa là anh em ruột hay anh em bà con. Những anh em này đã lôi kéo bà cô, bà dì của mình là Mẹ Đức Giêsu để đem Người về. Chúng ta hãy ghi nhận thái độ mạnh dạn về Đức Maria? Và để thực hiện chuyện đó, quả thật Tin Mừng không hề tìm cách tô đẹp câu chuyện. Đó là những chuyện người ta không thể bịa đặt ra được.
Mẹ và anh em Đức Giêsu đến, đứng ở ngoài, cho mời Người ra. Đám đông dân chúng đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy”.
Ta hãy tưởng tượng ra quang cảnh trên: Dân chúng đang ngồi dưới đất thành một vòng chung quanh một người đang nói. Trong Tân Ước đó là thế ngồi quen thuộc của những “môn đệ” khi lắng nghe “Thầy” (Lc 10,39; Cv 22,3).
Đối lại với những người đang ở “trong nhà”, hai lần Thánh Máccô ghi rằng, thân nhân của Đức Giêsu “ở ngoài”. Kiểu nói “những kẻ ở ngoài” vẫn thông dụng trong Giáo Hội những thế kỷ đầu, để ám chỉ “những người không phải là Kitô hữu (Tx 4,12; 1 Cr 5,12-13; Cl 4,5; Tm 3,7). Thánh Máccô sẽ dùng lại cách nói này để phân loại người thành hai loại, tùy theo họ tin tưởng lắng nghe Đức Giêsu hay họ còn “ở bên ngoài”. “Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa được tỏ ra cho anh em, còn với người ngoài tất cả đều là bí hiểm, không thể hiểu nổi (Mc 4, 11).
Cảnh này, trong đó Đức Maria và những anh em họ của Đức Giêsu đến để cố ngăn cản sứ vụ của Đức Giêsu phải làm cho chúng ta suy niệm lâu về bản chất của đức tin. Đức tin của Mẹ Maria, không hơn gì đức tin của chúng ta, không phải là cái gì “được làm sắn” một lần là thay cho tất cả Đức tin chỉ được định nghĩa như một thực tại tiến triển dần dần. Không phải ngay từ lúc đầu được truyền tin mà Đức Maria đã hiểu ngay con trai của mình là ai, dù Ngài đã được soi sáng đặc biệt.
Thánh Luca cũng ghi nhận trong một vài dịp Đức Maria đã không hiểu được Đức Giêsu (Lc 2,50).
Nhưng Người đáp lại: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh chị em tôi là mẹ tôi”.
Máccô thường ghi lại những cách nhìn như thế của Đức Giêsu (Mc 3,5 – 5,32 – 10,21 – 11,1 1 – 12,41). Một trong những cách cầu nguyện đơn giản nhất mà chúng ta có thể thực hiện là nghĩ rằng: Ngay trong lúc này Đức Giêsu đang nhìn là “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Thánh ý của Chúa Cha lúc nào cũng ám ảnh Đức Giêsu.
Đức Giêsu luôn say mê và là Người yêu của Thiên Chúa. Người nói, những ai yêu Thiên Chúa đều là thân nhân của Người, thực sự thuộc về gia đình duy nhất của Người. Với tư cách đó, Đức Maria làm mẹ Đức Giêsu tới hai lần. Sự cao cả đích thực của Người là “làm theo ý Chúa”. “Ngồi theo vòng tròn chung quanh Đưc Giêsu… dưới cái nhìn của Đức Giêsu, chúng ta có thể nói, đó là cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên.
Mỗi Thánh lễ cho phép chúng ta sống lại cảnh này. Giáo lý cốt yếu đối với mọi người thuộc mọi lứa tuổi là Phụng vụ Lời Chúa”. Lạy Chúa xin cho chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa, để được vào trong gia đình của Chúa.
(Trích Logos B)
Cách nay ít năm, tại bệnh viện Milwankee, có một bé sơ sinh mù và còn bị chuẩn đoán là đần độn bẩm sinh do bại liệt não. Sau khi sanh ít ngày, người mẹ đã nhẫn tâm bỏ đứa con sơ sinh tật nguyền. May mắn cho em, một chị y tá tên là May Lempke, thấu hiểu tình trạng bé sơ sinh bị bỏ rơi đồng nghĩa với cái chết, đã nhận em về nuôi.
Chị May cùng chồng đặt tên cho đứa con nuôi đặc biệt của mình là Leslie. Họ thay nhau xoa bóp cho Leslie hằng đêm, cầu nguyện cho Leslie hằng ngày. Chị May khóc suốt vì Leslie đau đớn. Leslie càng lớn, sự chăm sóc Leslie càng nhiêu khê : chị May phải khéo léo cột Leslie vào chiếc ghế để em khỏi té nếu chị muốn rời em.
Một ngày nọ, May thấy dường như Leslie có những biểu hiện khác thường khi nghe những bản nhạc. Thế là, vợ chồng chị mua một cây đàn piano cũ và tranh thủ đánh đàn cho Leslie nghe; mua nhiều băng đĩa hoà tấu hy vọng Leslie được vui.
Bỗng vào một đêm đông năm 1971, vợ chồng May nghe thấy ai đó đang chơi bản hoà tấu dương cầm số 1 của Tchaikovsky. Họ thức dậy để xem tiếng đàn lạ từ đâu. Họ sửng sốt thấy Leslie đang vẹo mình trước đàn và chơi nhuần nhuyễn bản nhạc. Từ đó, các bản nhạc Leslie đã nghe như đã tồn trữ trong óc và nay đang tuôn ra trên đôi tay của cậu. Leslie giờ đây đã 28 tuổi, đi lại vẫn khó khăn, nói năng vẫn ngọng ngịu, nhưng là một tài năng âm nhạc. Các bác sĩ giải thích : Leslie bị chậm phát triển về trí tuệ do não bị tổn thất nhưng lại cực kỳ tài năng. Tài năng đó được duy trì và bộc phát nhờ tình yêu đặc biệt của cha mẹ nuôi là vợ chồng chị May Lempke (theo Reader’s Digest).
Đứng trước nghịch cảnh Leslie, liên hê do máu huyết đã chào thua liên hệ do đức ái. Hôm nay trong Tin Mừng, Đức Giêsu đang giới thiệu mối liên hệ đức ái đó. Một cách nào đó, Đức Giêsu đã gọi mối liên hệ này là họ hàng của Ngài.
Thiết lập họ hàng thiêng liêng
Trong xã hội có nhiều mối liên hệ. Rộng nhất là mối liên hệ đồng loại, rồi đến chủng tộc màu da. Hẹp hơn là mối liên hệ đồng bào. Nhỏ hơn là mối liên hệ đồng hương liên kết những người chung nơi chôn nhau cắt rốn. Cuối cùng là mối liên hệ họ hàng huyết tộc nảy sinh do sự đồng một dòng máu di truyền. Ngoài ra còn có mối liên hệ đồng môn, đồng nghiệp, đồng chí, đồng cảnh ngộ và bạn kết nghĩa…
Trong các mối liên hệ ấy, mối liên hệ họ hàng huyết tộc là phổ biến nhất, cụ thể nhất và xét trong lãnh vực tự nhiên thường là bền chặt nhất. Thế mà, khi đề cập đến mối liên hệ này, Đức Giêsu đã đặt vấn đề: “Ai là mẹ, là anh em ta ?”. Mẹ và anh em theo nghĩa thường thì một em bé còn bế ngửa cũng biết và cảm nhận được ! Sao Chúa lại hỏi vậy ? Ở đây, Đức Giêsu đang mạc khải một mối liên hệ, đối với Ngài, mật thiết nhất và bền vững vĩnh cửu mà mối liên hệ máu huyết đứng bên sẽ trở nên quá nhỏ bé. Đó là mối liên hệ họ hàng thiêng liêng phát sinh do đức Tin, phát triển nhờ đức Ái và kiên trì nhờ đức Cậy trông. Chất lượng của mối dây liên kết họ hàng thiêng liêng này hệ tại mức độ của sự thực hành lời Chúa. Một người con càng thương cha mẹ thì càng dễ vâng lời và càng vâng lời thì tình nghĩa con cái với cha mẹ càng thêm chất lượng. Cũng vậy, một người chỉ thực sự là con cái Chúa khi biết đón nhận thánh ý Chúa và càng thực thi thánh ý Chúa thì tình nghĩa với Chúa càng thêm chất lượng. Đức Giêsu gọi người đó là mẹ và là anh em của Ngài.
Khi Đức Giêsu đưa tiêu chuẩn xác định họ hàng dựa trên việc biết nghe và thực hành lời Chúa thì đồng thời Ngài cũng mặc nhiên cảnh báo có những trường hợp ngỡ là gần Chúa mà thật ra lại xa Ngài vời vợi. Quả thế, những người có họ hàng máu huyết với Chúa, biết rõ về Chúa, gặp gỡ Chúa thường xuyên nhưng không bước theo Chúa bằng việc thực thi đường lối Chúa chỉ dạy vẫn mãi mãi là kẻ xa lạ với Chúa.
Cuộc đời Đức Giêsu diễn tả cho ta thấy một Thiên Chúa mê say con người: Ngài quên ăn quên nghỉ vì phần rỗi anh em (x. Ga 4, 5-34); Ngài nỗ lực đẩy lui Satan, không để cho ma quỷ tác oai tác quái nơi thế giới con người như kẻ “múa gậy vườn hoang”. Ai không đồng cảm với Chúa, không cùng Ngài trên một chiến tuyến chống lại Satan bằng việc nói không với Satan và nói có với Ngài trong đời sống… người đó luôn là kẻ xa lạ, thậm chí chống lại Ngài dù bề ngoài xem ra họ rất gần Ngài. Kết cục, có lắm người phải ngã ngửa khi nghe Ngài kết luận: “Ta không hề biết các ngươi, xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác !”. Trong số đó có người là đồng hương, quá gần gũi với Chúa và có cả những kinh sư, luật sĩ, những người vẫn mang danh là chuyên viên trong đạo.
Phá vỡ họ hàng thiêng liêng
Nếu vâng nghe lời Chúa giúp ta nên họ hàng nghĩa thiết với Chúa thì ngược lại, bất tuân lệnh là biến mình thành kẻ xa lạ với Ngài. Sự bất tuân khởi đi bằng sự thiếu tín nhiệm. Adam – Evà trước khi giơ tay hái quả cấm thì trong lòng đã dấy lên sự không tin Chúa tốt lành (x St 3, 1-6). Anh em họ hàng của Chúa trước khi đi bắt Chúa thì lòng họ đã không tin việc Chúa làm là bình thường, là khôn ngoan. Chỉ có lòng tín nhiệm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa mới giữ con người sống trong đạo lý Chúa. Mất tín nhiệm đồng nghĩa với khởi sự phản bội. Không trung thành với đường lối Chúa biến người ta đang là kẻ nghĩa thiết họ hàng với Chúa thành kẻ xa lạ và hơn nữa thành kẻ thù của Tình Yêu. Adam – Evà sau khi trái lệnh Chúa, đã đánh mất tình thân với Chúa, chẳng còn cảnh ngày ngày gặp Chúa đàm đạo thân tình nữa (x. St 3, 8-10).
Thiếu lòng tin vững chắc vào sự sống đời sau dễ làm cho ta trái ý Chúa ở đời này. Đúng vậy, mọi lỗi phạm thường do ta thiển cận, chỉ thấy cái được trước mắt mà không thấy cái mất lớn lao đằng sau. Người ta sẵn sàng chịu thương chịu khó để hy vọng được mùa lúa bội thu; người ta chấp nhận khổ luyện để hy vọng chiến thắng. Cũng vậy, khi đã xác tín vào phần thưởng phục sinh vinh quang vô tận Chúa dành cho kẻ nghĩa thiết với Chúa thì bằng mọi giá ta sẽ duy trì mối liên hệ họ hàng với Chúa. Mọi sự từ bỏ ở đời này để vâng ý Chúa sẽ là chuyện nhỏ khi ta đã thấy được vinh quang lớn lao mai sau.
Howard kelly là một nhà sinh vật học nổi tiếng kiêm bác sĩ. Lần kia, sau một ngày nghiên cứu, ông đến một nhà nghèo xin nước uống. Một bé gái xuất hiện và ân cần biếu ông một ly sữa tươi mát. Ông cám ơn và mong có dịp đền ơn bé. Ít lâu sau, mẹ bé đau nặng, người ta chuyển mẹ bé tới một bệnh viện trên thành phố. Cuối cùng bà khỏi bệnh nhưng không biết lấy tiền đâu để trả viện phí. Như một phép lạ, bác sĩ chữa bệnh xuất hiện trên tay cầm phong bì bên trong viết : Viện phí đã được thanh toán để trả ơn một ly sữa. Ký tên – Bác sĩ Kelly.
Hy sinh cả đời thì có đáng gì so với vinh hạnh được là họ hàng của Chúa.
(Thi Ca Suy Niệm của Lm. Joseph Trần Việt Hùng)
ĐOÀN KẾT
Chúa ra rao giảng Tin Mừng,
Đoàn dân phấn khởi, nổi bừng khắp nơi.
Người người tuốn đến nghe Lời,
Chữa hồn khỏe xác, gọi mời canh tân.
Xua trừ ma quỉ trong dân,
Chữa lành bệnh tật, thế nhân tội tình.
Vài người xấu miệng phê bình,
Chúa nhờ tướng quỉ, xua rình quỉ con.
Nói lời xúc phạm Chúa Con,
Gây thù báo oán, họ còn phân chia.
Nơi nào chia rẽ xa lìa,
Sa-tan phân rẽ, ra rìa đấu tranh.
Sống còn đoàn kết lòng thanh,
Cộng đoàn mạnh sức, nêu danh ở đời.
Truyền ban chân lý Ngôi Lời,
Ai mà vâng giữ, sống đời yêu thương.
Chúa Giêsu phán rằng: Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại là sao được? Chúa Giêsu dùng nhiều dụ ngôn để diễn tả về Nước Trời. Nuớc Trời nhưng thể hiện dưới đất. Nước nào cũng cần có sự tổ chức và có con dân kết hợp làm nên một tập thể. Tập thể cần sự đoàn kết và liên đới với nhau thì mới bền vững. Chúa khởi sự ra rao giảng Nước Trời. Chúa dùng quyền năng mình để chữa các bệnh tật và trừ các loại thần ô uế đang quấy rối con người.
Nhiều người đã nhận ra quyền năng Chúa. Họ tin tưởng và phó thác vào tình yêu của Chúa giải thoát họ. Họ vui mừng phấn khởi vì nhận biết Chúa đã viếng thăm dân của Ngài. Tuy nhiên, cũng có nhiều người lòng hẹp hòi và thiên kiến, họ đã dèm pha, ganh tị và tẩy chay việc Chúa làm. Có cả những người thân sống gần cận bên Chúa cũng không biết rõ về Ngài. Họ đã dùng những từ xúc phạm và nói rằng: Ngài mất trí. Còn những người Luật sĩ và Biệt phái thì luôn tìm cách bắt bẻ và hạ nhục danh Chúa. Họ hiểu và thấy rất rõ quyền năng Chúa thực hiện qua việc chữa lành. Họ không muốn chấp nhận sự thật. Họ luôn tìm cách hạch hỏi và chống lại giáo lý của Chúa.
Chúa dùng quyền năng để trừ qủy. Các Luật sĩ lại gán ghép cho Chúa là dùng quyền tướng qủy để trừ. Thật là ngạo mạn! Chúa giải thích cách tường tận rằng: Nếu một nhà phân tán, thì nhà đó không đứng vững được. Tại sao qủy lại trừ qủy. Chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới loại trừ các qủy dữ ra khỏi con người. Nuớc trời đã được thiết lập dưới thế gian đi ngược lại với Nước của Satan. Con dân Nước Chúa không thể chia rẽ để ma qủi có cơ hội lợi dụng xâm nhập. Mọi người phải hợp nhất với nhau như Chúa đã cầu nguyện với Chúa Cha rằng: Xin cho chúng nên một như Chúng Ta là một.
Gia nhập vào Nước Trời, chúng ta là công dân của nước Chúa. Chúng ta có bổn phận thi hành những điều Chúa dạy bảo. Thực hành ý Chúa, chúng ta sẽ là người nhà của Chúa, là anh chị em và là mẹ của Chúa. Hãy tin tưởng uy quyền của Chúa, qua sự chết và sự sống lại Chúa đã toàn thắng thế gian và ma qủi. Chúng ta hãy kết hợp với nhau trong tình yêu của Chúa. Tình yêu chính là chất keo gắn liền chúng ta lại với nhau và với Chúa. Chúa Giêsu đang mở đường dẫn dắt chúng ta vào cõi phúc trường sinh.
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
VIỆC QUAN TRỌNG NHẤT ĐỜI
Đối với các tín hữu của Chúa, điều quan trọng nhất mà mỗi người phải quyết tâm thực hiện từng ngày trong suốt đời mình, là việc gì?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy theo dõi sự việc được thánh sử Mác-cô thuật lại trong bài Tin mừng trích đọc hôm nay:
Hôm ấy, Mẹ Maria và các anh em bà con họ hàng đến gặp Chúa Giê-su đang lúc Ngài đang rao giảng giữa đám đông dân chúng. Bấy giờ “có kẻ trình với Chúa Giê-su rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!”
Chúa Giê-su muốn nhân cơ hội này, dạy cho những người chung quanh bài học quan trọng liên quan đến việc thi hành Lời Chúa, thế nên, Ngài lên tiếng hỏi những người chung quanh: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3, 31-35).
Như thế, việc thi hành ý muốn của Thiên Chúa quan trọng đến nỗi ai làm điều đó thì được Chúa Giê-su hết sức trân trọng và yêu quý, được Chúa nâng lên hàng anh em, chị em và là mẹ của Ngài. Chúa Giê-su hướng thẳng về những người đó và long trọng tuyên bố với mọi người: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi!”
Thật là một vinh dự rất lớn lao.
Chúa Giê-su luôn thi hành ý muốn của Chúa Cha
Việc thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha quan trọng đến nỗi chính Chúa Giê-su, dù Ngài là Ngôi hai Thiên Chúa, đồng hàng với Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn luôn làm theo ý muốn của Chúa Cha trong mọi sự. Ngài nói:
“Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý Ta nhưng là theo ý Đấng sai Ta” (Ga 6,38).
“Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta” (Ga 4, 34).
Đặc biệt là trong đêm tối tại vườn Cây Dầu, khi đối diện với cuộc khổ hình khủng khiếp sắp xảy đến với mình, Chúa Giê-su lo buồn sợ hãi đến nỗi cất tiếng kêu cầu với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa Con.” Dù vậy, Ngài cũng không muốn làm theo ý mình mà chỉ muốn vâng theo ý Chúa Cha cách trọn vẹn, nên Ngài thưa với Cha: “Nhưng xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi” (Lc 22,42).
Như thế, Chúa Giê-su luôn vâng lời Chúa Cha trong mọi việc, trong mọi lúc và suốt cả đời mình. Thánh Phao-lô nhận định về sự vâng phục triệt để đó như sau: “Ngài đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập tự” (Pl 2,8).
Thế là, nhờ luôn thực hành ý Chúa Cha nên Chúa Giê-su mới lên trời vinh hiển, được siêu tôn trên các tầng trời như lời thánh Phao-lô: “Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã siêu tôn Ngài, ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu… ” (Pl 2, 9).
Thi hành ý Chúa là con đường duy nhất dẫn vào thiên đàng
Chúa Giê-su biết rằng làm theo điều Thiên Chúa truyền dạy là con đường duy nhất dẫn đưa loài người vào thiên đàng, không có đường thứ hai, và ngay chính bản thân Ngài là Thiên Chúa, Ngài cũng phải đi theo con đường duy nhất đó để vào thiên quốc, nên Ngài truyền dạy cho chúng ta hãy luôn luôn thi hành ý Chúa Cha truyền dạy.
Ngài nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời, nhưng chỉ có những ai làm theo ý Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, kẻ ấy mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21). Và ý Chúa Cha truyền dạy cho chúng ta được tóm lại trong giới răn mến Chúa yêu người.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin Chúa cho chúng con luôn ghi tâm khắc cốt điều quan trọng nhất trong đời là thực hành lời Chúa truyền dạy, được tóm gọn trong quy luật mến Chúa yêu người, vì đây là phương thế duy nhất để chúng con được vào Nước Trời, đồng thời khi thực hành ý Chúa như vậy, chúng con được Chúa yêu thương và quý trọng như là mẹ và như anh chị em của Chúa.
(Suy niệm của Nha Trang)
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu bị những thân nhân hiểu lầm và những Ký lục vu cáo để nói lên việc Chúa Giêsu luôn luôn gặp những trở ngại trên đường truyền giáo.
1/ “Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà”:
+ ” Nhà” ở đây có lẽ là nhà của Phêrô vì khi giảng đạo ở Capharnaum Chúa Giêsu thường lui tới nhà của Phêrô (Mc 1, 29; 2,1) Nhà ở đây cũng có thể hiểu là hình ảnh của Giáo Hội: nơi phát xuất việc rao giảng Tin Mừng.
+ “Dân chúng đông đảo lại đổ xô tới”:
Với nhóm môn đệ tiên khởi (Phêrô, Anrê, Giacôbê…) không đủ để đáp ứng với làn sóng tăng dần của các bệnh nhân và thính giả đổ xô tới, Chúa Giêsu bèn quyết định mở rộng nhóm này bằng cách chọn nhóm 12 môn đệ, để giúp việc và còn ban cho họ ít quyền, đặc biệt là quyền trừ quỷ (Mc 3, 13-16). Dầu vậy, ngay khi trở về nhà, thì suốt ngày cũng chẳng đủ để tiếp nhận số đông khách đổ xô tới, khiến họ không có giờ ăn nữa (Mc 3, 20).
2/ “Những thân nhân của Người hay tin đó”:
Những bà con thân thuộc được tin Chúa Giêsu làm việc quá sức mình: quên ăn, quên nghỉ, đàng khác gây nên bao nhiêu thù địch, nên muốn bắt Người đưa về nơi quê hương yên ổn hơn để giữ sức khoẻ cho Người, nhất là để tránh những sự bất chắc do những thù địch gây ra làm liên lụy đến bà con họ hàng, vì họ nói ” Ngài mất trí rồi “: ở đây có nghĩa là hăng say thái quá, hăng say đến độ thực hiện được nhiều chuyện lạ lùng. Thái độ trên đây của thân nhân cho ta thấy họ chưa có nhận thức đúng đắn về sứ mệnh Cứu thế của Chúa Giêsu, vì thế họ hiểu lầm về công việc của Người làm.
3/ “Và những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng Ông ấy bị quỷ Belzebut ám”:
Vì thấy Chúa Giêsu đã trừ quỷ cho nhiều người khiến dân chúng khâm phục và đổ sô đến với Người, mấy luật sĩ từ Giêrusalem tới tỏ lòng ganh tỵ đến thù oán, nên đã phao tin là Chúa Giêsu bị quỷ Belzabut ám và dựa vào quỷ cả mà trừ quỷ nhỏ.
4/ “Khi đã gọi họ lại Chúa Giêsu phán bằng dụ ngôn rằng”:
Chúa Giêsu đã phải tụ tập dân chúng lại để sửa sai luận điệu vu khống trắng trợn của các Biệt phái bằng hai dụ ngôn đơn sơ sau đây:
a/ Satan lại trừ Satan sao được?…
Nước nào, nhà nào chia rẽ sẽ bị tiêu tan: nên Satan không dại gì đánh lộn nhau như vậy để rồi bị diệt vong.
b/ Chẳng ai có thể vào nhà một người khỏe mạnh:
Chúa Giêsu mô tả một vụ cướp. Kẻ cướp được tượng trưng sức mạnh của Chúa Giêsu và người mạnh ở đây là ma qủy. Trọng tâm của dụ ngôn là ý tưởng về sức mạnh. Chính Chúa Giêsu mô tả một cuộc tấn công: kẻ cướp không hành động cách bất ngờ nhưng bằng sức mạnh. Gặp gia chủ khỏe mạnh như thế mà kẻ cướp đã nhẩy bổ vào ông ta và trói ông ta lại, rồi mới cướp của cải trong nhà.
Dụ ngôn này có ý diễn tả Chúa Giêsu đến để tiêu diệt quyền lực của ma qủy, để giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Và như vậy, vương quốc của Thiên Chúa sắp thay thế vương quốc quỷ. Tuy nhiên sự thay thế này không thể thực hiện được nếu không có trận chiến ghê gớm giữa quyền lực của Chúa Giêsu và quyền lực của ma quỷ. Trận chiến này là cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh gía, chiến thắng tội lỗi.
5/ “Ta bảo các ông hay: mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng”:
Đây là những tội do sự yếu đuối hay do sự vô ý thức, dù lớn đến đâu cũng được tha khi có lòng thống hối.
“Những kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần”:
Đây là những tội có ý thức, từ chối chính Thiên Chúa. Ở đây có ý nói đến các luật sĩ là những người cố chấp, quyết chí từ chối, quyết chí chống đối, và quyết chí đóng kín cửa lòng trước những giáo huấn của Chúa Giêsu, vì họ gắn cho ma quỷ việc mà họ biết rõ là của Chúa Thánh Linh. Ở đây có ý nói những kẻ cố chấp ở trong tình trạng từ chối Thiên Chúa thì không thể nào lãnh ơn tha thứ được vì họ phủ nhận chính Đấng có quyền tha thứ.
6/ “Kìa Mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy”:
Anh em ở đây không có nghĩa là anh em ruột thịt vì theo tiếng Hy Bá cũng như nhiều ngôn ngữ, chữ “Anh em” vừa chỉ anh em ruột, vừa chỉ anh em họ hàng (18, 13; 14, 14; 24, 48; 29, 12; Lv 10, 4; 9, 6 và trong Tân ước Mt 13, 35; 27, 56; Lc 8, 23).
Gia đình Chúa Giêsu nhận thấy các đối thủ ganh ghét Người. Họ lo sợ cho Người. Họ đến can thiệp để bênh đỡ Người và toan gỡ cho Người khỏi lâm nguy, vì thế chúng ta dễ hiểu ở đây sự có mặt của Mẹ Người.
7/ “Người trả lời: Ai là Mẹ Ta? Ai là anh em Ta?”:
Thừa dịp này Chúa Giêsu giới thiệu về gia đình thiêng liêng mà Người muốn thiết lập qua cách đặt câu hỏi: Ai là Mẹ Ta?…
8/ “Rồi đưa mắt nhìn những người vòng quanh…”:
Máccô đã nhiều lần ghi nhận các kiểu nhìn của Chúa Giêsu: cái nhìn buồn sầu và giận giữ (Mc 3, 5; 11, 11), cái nhìn thương yêu (Mc 10, 21; Lc 1, 48), cái nhìn chỉ để quan sát (Mc 5, 32; 12, 41) hay để thêm sức nặng cho lời mình thốt ra (Lc 10, 23 – 27). Ở đây rõ ràng là một cái nhìn thương yêu: những kẻ Chúa Giêsu nhìn đều thực là mẹ là anh em, chị em Người. Vì sao? Chúa Giêsu giải thích:
+ Ai làm theo ý Thiên Chúa, người đó là anh chị em và là mẹ Ta (Mc 3, 35). Khi vâng phục Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã tỏ ra mình là Con Thiên Chúa (Mt 4, 3 – 10) cũng với cách thức như vậy, người ta sẽ tỏ ra mình là con Thiên Chúa là anh chị em của Chúa Giêsu, con đầu lòng. Và thực thi thánh ý Thiên Chúa là trước tiên tin vào Chúa Giêsu. Đấng Người đã sai đến, là Đấng Cứu Thế.
Những lời Người phán về việc phải tái sinh bổ túc và cụ thể hoá ý nghĩa này (Ga 3, 3 – 5; 1, 13; Tt 3, 5). Như thế, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta một phương thế để kết hiệp với Người một cách còn sâu xa hơn là mối dây do sự sinh ra bởi huyết nhục.
III. ÁP DỤNG:
A/ Áp dụng theo Tin Mừng:
Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng hôm nay để nhắc nhở chúng ta rằng khi thi hành sứ mệnh Cứu thế Chúa Giêsu đã từng gặp phải sự hiểu lầm của những người thân và sự vu khống, chống đối của những kẻ từ chối Chúa, thì chúng ta người Kitô hữu càng thuộc về Chúa Kitô càng dễ bị bị thế gian hiểu lầm và chống đối, nhưng nếu Chúa Kitô đã chiến thắng quyền lực của ma quỷ do cuộc tử nạn và phục sinh của Người, thì chúng ta càng liên kết với Chúa Giêsu, càng biến những thử thách trong đời sống đạo thành những công phúc cho phần rỗi của mình.
B/ Áp dụng thực hành:
1/ Nhìn vào Chúa Giêsu:
a/ Xem việc Người làm:
Chúa Giêsu được dân chúng đơn sơ đón nhận nhưng lại bị những người thân khép kín hiểu lầm và những Biệt phái cố chấp từ chối. Chúng ta cũng vậy khi sống tinh thần Tin Mừng, thì cũng gặp kẻ ưa người gét, thậm chí cũng có những người thân hiểu lầm và cản trở.
b/ nghe lời Người nói:
Satan loại trừ Satan sao được? Chúa muốn nói với chúng ta: đoàn kết là sống và chia rẽ là chết. Vì thế Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho Giáo Hội được hợp nhất (Ga 17, 6-26).
Kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, nó mắc tội muôn đời: Chúa cảnh cáo chúng ta vì cố chấp sống trong sự phản bội Chúa mà không có lòng thống hối ăn năn.
Đây là mẹ Ta và anh em Ta: chúng ta được diễm phúc sống trong gia đình thiêng liêng của Chúa khi chúng ta tin nhận Chúa Giêsu Ki tô và sống theo việc Người làm và lời Người nói.
2/ Nhìn vào người thân:
Họ thương Chúa Giêsu nhưng thương cách mù quáng vì họ đã khép kín cửa lòng không tin nhận vào sứ mệnh Cứu thế của Chúa, nên họ đã hiểu lầm Chúa. Chúng ta hăng say làm tông đồ Chúa, phục vụ Giáo Hội, nhưng nhiều khi hăng say mù quáng vì phục vụ theo ý mình hơn ý Chúa, hay ý Giáo Hội.
3/ Nhìn vào những luật sĩ:
– Họ ganh tỵ đến thù oán mà vu khống cho Chúa là bị quỷ ám “Không ưa thì dưa có dòi”. Ưa ai thì nên tốt. Ghét ai thì nên xấu.
4/ Nhìn vào Mẹ Maria cùng anh em Người:
Chúa giới thiệu gia đình thiêng liêng thì quý hơn gia đình tự nhiên. Cùng nghe và sống Lời Chúa, cùng là anh em với nhau.
TÌM HIỂU TIN MỪNG Mc 3,20-35
1) Sự can thiệp của bà con Đức Giêsu (3,20-21)
+ c 20: Tình huống đã diễn ra ở Capharnaum (2,1-2) nay lại tái diễn: người ta đến với Đức Giêsu quá đông, đông đến nỗi ngôi nhà Ngài đang ở chật cứng, đến nỗi Ngài và các môn đệ không thể ăn được. Như thế là có ảnh hưởng tới sức khoẻ.
+ c 21: Khi đó, những người bà con của Ngài can thiệp. Tại sao? Có phải vì lo cho sức khỏe của Ngài không? Cũng có thể có nguyên nhân đó. Nhưng nguyên nhân chính là họ cho rằng Ngài “mất trí” làm việc tới độ có hại cho sức khỏe. Ngoài ra Mc còn nhìn thấy thái độ này có một ý nghĩa khác nữa: chú ý tới động từ mà ông dùng: “bắt”. Đây cũng là động từ ông sẽ dùng tới 4 lần trong tường thuật thụ nạn (14,16…). Phải chăng ông coi sự can thiệp này đã khiến những người bà con của Đức Giêsu cũng bị liệt vào số những kẻ thù của Ngài?
2) Đức Giêsu và Satan (3,22-30)
Giữa hai cuộc can thiệp của những người bà con của Đức Giêsu (3,20-21 & 31-35), Mc chen vào một cuộc tấn công của nhóm thông giáo. Nếu những người bà con đã coi Ngài là “mất trí”, thì nhóm thông giáo lại lên án Ngài là công cụ của Satan. Lời kết án này nghiêm trọng hơn nhiều.
+ c 22 – Beelzeboul: một trong những tên gọi Satan, xuất phát từ tên của một thần ngoại, “Baal đại vương” (Baal le prince).
Nhóm thông giáo không thể phủ nhận việc Đức Giêsu trừ quỷ. Nhưng họ xuyên tạc rằng Ngài làm việc đó không phải bằng sức Thiên Chúa, mà bằng quyền lực của Quỷ vương Beelzeboul.
+ c 23 – “Dụ ngôn”: đây là lần đầu tiên trong Marcô Đức Giêsu nói dụ ngôn. Dụ ngôn là một câu chuyện dễ hiểu bằng những hình ảnh thông thường trong cuộc sống để so sánh với một điều khó hiểu hơn về mầu nhiệm Thiên Chúa. Ở đây Đức Giêsu dùng hình ảnh một nước, một gia đình.
+ c 27 – “Người mạnh khỏe”: ám chỉ đến suy nghĩ của một số người rằng Satan là kẻ mạnh khỏe; nhưng cũng ám chỉ đến Is 49,24-25 53,12: Đức Giêsu là “người mạnh thế hơn”.
Lý luận của Đức Giêsu trong 2 dụ ngôn trên (cc 24-27): Satan không thể tự chống lại nó được. Những việc trừ quỷ mà Đức Giêsu thực hiện là dấu chỉ Đức Giêsu mạnh thế hơn Satan, vương quyền của Satan sắp bị tiêu diệt để nhường chỗ cho vương quyền của Thiên Chúa.
+ c 28 – Sau đó Đức Giêsu đưa ra một lời cảnh cáo nghiêm khắc.
– “Lộng ngôn”: theo nghĩa hẹp, “lộng ngôn” là nói lời xúc phạm tới TC, tới Thánh Danh Ngài (Xh 22,27 Lv 24,11-16), tới uy quyền Ngài (x.Mc 2,7ss 14,64ss Ga 10,30-36), tới Sứ giả Ngài (Cv 6,11). Ở đây chữ này có nghĩa là xúc phạm tới Đức Giêsu, có thể tha thứ được.
– Nhưng không thể tha thứ cho tội “lộng ngôn với Thánh Linh”. Cho dù chúng ta có thể liệt kê hết các “tội trọng”, ta cũng sẽ không gặp được tội nào không thể tha thứ. Vậy tội lộng ngôn tới Thánh Linh là tội gì mà không tha thứ được? Ta phải giải thích theo văn mạch: c.30 viết “Đức Giêsu nói như trên vì người ta nói rằng ‘ông ta bị uế thần nó ám’”. Mc đã nhấn mạnh rằng ngay từ đầu sứ mạng Đức Giêsu đã được Thánh Linh tấn phong, và với quyền lực của Thánh Linh Ngài thi hành sứ mạng cứu độ và tha thứ (1,9-12). Nay nhóm thông giáo đã xuyên tạc những việc làm nhờ quyền lực cứu độ của Thánh Linh, tức là họ không chịu đón nhận ơn cứu độ, bởi đó họ không thể được tha thứ.
III. KẾT LUẬN
Vào lúc M arcô soạn Tin Mừng, các Kitô hữu thường bị những người Do thái công kích vì những người này không thừa nhận uy quyền của Đức Giêsu Kitô, Đấng Messia đến để giải thoát con người khỏi quyền lực của Satan. Marcô viết chuyện này để trả lời cho những công kích đó.
3) Gia đình thật của Đức Giêsu (3,31-35)
* Marcô viết tiếp câu chuyện về liên hệ giữa Đức Giêsu và gia đình tự nhiên của Ngài (x.3,20-21).
+ c 31 – “anh em”: Truyền thống vẫn tin rằng Đức Giêsu là con duy nhất của gia đình. Vì thế chữ “anh em” ở đây không phải là anh em ruột, mà là anh em bà con.
+ “ở ngoài”: chú ý Marcô 2 lần nhấn mạnh tới chi tiết những bà con của Ngài “ở ngoài” (cc.31-32), nghĩa là họ không phải là gia đình thật của Ngài vốn là những người ở trong.
+ c 34 – “nhìn vòng quanh”: Trong Marcô cách nhìn này báo trước Đức Giêsu sắp nói một điều quan trọng (x. 3,5 10,23 11,11).
+ c 35 – Điều quan trọng mà Đức Giêsu nói là xác định ai là gia đình thật của Ngài: những người nào thi hành thánh ý Thiên Chúa mới là gia đình thật của Ngài!
KẾT LUẬN
HẠNH PHÚC LÀ THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH CHÚA
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Thiên Chúa là Cha nhân từ
Thiên Chúa khôn ngoan và nhân từ, nên mọi việc Ngài làm đều tốt đẹp. Ngài đã sáng tạo con người theo hình ảnh Ngài, cho họ sống tình thân với Chúa. Vậy Sự Dữ do đâu mà có? Đâu là nguyên nhân khiến cho tình thân nghĩa thiết giữa con người với Thiên Chúa và con người với nhau bị phá vỡ?
Sách Sáng Thế (x. St 1-3) cho ta câu trả lời. Thiên Chúa không tạo nên sự chết, nhưng sự chết đã đi vào thế giới vì sự ghen tương của ma quỉ (x. Kn 1,13-14; 2,23-24). Khi nổi loạn chống lại Thiên Chúa, ma quỉ đã lường gạt và lôi kéo con người theo chúng. Thiên Chúa hỏi Ađam: “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi không được ăn ư?” Thiên Chúa hỏi Evà: “Tại sao ngươi đã làm điều đó? ” Evà trả lời: “Con rắn đã cám dỗ tôi” (x. St 3, 11-13).
Là thụ tạo tinh thần, con người chỉ có thể sống tình thân ấy khi tự do tùng phục Thiên Chúa. Điều đó được diễn tả trong lệnh cấm con người ăn trái cây biết lành, biết dữ “vì ngày ngươi ăn nó, ngươi sẽ chết” (St 2, l7). Bị ma quỉ cám dỗ, con người đánh mất lòng tín thác vào Đấng Sáng Tạo, lạm dụng tự do, bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Đó là tội đầu tiên của con người (x. Rm 5, l9). Hậu quả là Adong và Evà đánh mất sự thánh thiện nguyên thủy (x. Rm 3, 23). Sự hài hòa với vạn vật bị phá vỡ: thế giới hữu hình trở nên xa lạ và thù nghịch với con người (x. St 3, l7-l9). Sự kết hợp nam nữ trở nên căng thẳng (x. St 3, ll-l3); tình huynh đệ tương tàn (x. St 4, 3-15); tiếp đến là sự sa đọa của cả loài người. Cuối cùng, vì bất tuân: “Con người là tro bụi sẽ trở về bụi tro” (St 3, l9).
Sau khi sa ngã, Thiên Chúa không lỡ bỏ rơi con người. Trái lại, vì tình thương, Thiên Chúa nâng con người lên. Chúa bảo con rắn: “Bởi mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi”. (St 3, 9-15. 20). Đó là thảm kịch tự do mà Thiên Chúa chấp nhận đến cùng vì yêu thương, nhưng Ngài hứa: “ Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người” (St 3,15).
Đoạn sách Sáng Thế trên được gọi là “Tiền Tin Mừng” vì đó là lời loan báo đầu tiên về Đấng Cứu Thế, về cuộc chiến đấu giữa con rắn với người nữ và chiến thắng cuối cùng của một hậu duệ người nữ này. Tình mẫu tử của Đức Maria đối với nhân loại được biểu lộ “Ađam đặt tên cho vợ mình là Evà, vì bà là mẹ của chúng sinh” (St 3, 20).
Mẹ và anh em Chúa
Lòng nhân từ của Thiên Chúa là lòng nhân từ cứu độ, chẳn nhữn nâng con người lên mà còn cho con người trở thành dưỡng tử của Thiên Chúa, đồng thừa tự với Chúa Giêsu. Lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là từ khi bắt đầu đời công khai, Chúa Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy”. Chẳng những Chúa Giêsu không ra gặp mẹ, mà Ngài còn nói: “Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta” (x. Mc 3, 32-35).
Thật ra, qua câu nói này, Chúa Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Chúa Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Chúa Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.
Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha; còn chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, và nhờ tình yêu Chúa, chúng ta được liên kết với nhau trong một quỹ đạo mới, một tình nghĩa mới, cao đẹp hơn tình nghĩa cha mẹ, anh chị em ruột thịt.
Với lời khẳng định: “Đây là mẹ tôi và anh em tôi” (Mc 3, 33). Chúa Giêsu loan báo về gia đình mới của Ngài. Có những người thân yêu cùng máu mủ đứng ngoài kia. Có một gia đình mới đang ngồi trong này. Đức Giêsu không coi thường hay loại bỏ gia đình ruột thịt. Nhưng Ngài cho thấy Ngài còn có một gia đình lớn hơn nhiều, một gia đình gồm những người rất khác nhau về nhiều mặt, nhưng lại có một mẫu số chung, một điểm giống nhau, đó là cùng muốn thi hành ý Thiên Chúa trong cuộc sống.
Sống tình gia đình với Chúa
Thật hạnh phúc cho chúng ta, vì Chúa Giêsu đã khai mở một đại gia đình mới cho mọi người: “Bất cứ ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa người ấy là mẹ tôi, là anh em và chị em tôi” (Mc 3, 35). Khi thực thi ý Thiên Chúa muốn, người kitô hữu chúng ta vui sướng được thuộc về gia đình Chúa, có Đức Maria làm Mẹ suốt đời tín trung sống ý Chúa, có Đức Giêsu là Anh Trưởng, người Con luôn sống đẹp lòng Chúa Cha, và có bao anh chị em khác đã dám đặt ý Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa đã mở rộng gia đình Chúa để cho chúng con được dự phần, xin cho mỗi người chúng con biết lắng nghe Lời Chúa; đồng thời biết đem Lời Chúa ra thực hành, hầu xứng đáng là thành viên trong gia đình Chúa. Amen.
(Suy niệm của Jean-Yves Garneau)
Không dễ rút ra một ý chính từ bản văn Tin Mừng hôm nay. Vậy ta hãy để cho toàn bộ bản văn hướng dẫn chúng ta, từng giai đoạn một, giúp chúng ta có được một cái nhìn nghiêm túc về một số thái độ và lập trường của chúng ta.
“Người đã mất trí”.
Chúa Giêsu bị họ hàng chống đối. Không lạ gì, Ngài nói rằng không ai là tiên tri nơi quê hương mình (Mt 13,57; Mc 6,4; Ga 4,44). Các thành viên trong gia đình Ngài xấu hổ vì Ngài. Thay vì hiểu Ngài họ tìm cách loại trừ Ngài.
Khép kín đối với sứ điệp của các ngôn sứ, thường có tính thách thức và gây ngạc nhiên, là cách làm tiện lợi nhưng không cao thượng mấy. Những kẻ nói một ngôn ngữ mới đều là kẻ thiếu quân bình, thái quá, vượt xa mọi tình huống! Nhưng có đúng là chỉ những kẻ nói và làm những gì thích hợp với kẻ khác mới có lý không? Có phải là những gì được chấp nhận công khai, những gì không gây phiền hà cho ai cả, những gì đáp lại sự chờ mong của mọi người mới đáng được chấp nhận chăng? Đây không phải là con đường của Chúa Giêsu, Ngài đã làm cho người ta ngạc nhiên, đã đi ngược dòng, đã dám làm những điều khiến Ngài bị tố cáo là điên? Còn chúng ta?
“Ngài bị quỉ Bêendêbun ám”.
Phán đoán của các ký lục cũng theo một hướng đó. Chúa Kitô bị quỉ (Bêendêbun) ám; Chính nhờ quỉ lớn mà Ngài trừ được tất cả các quỉ nhỏ, thủ hạ của nó.
Chúa Kitô cho thấy rằng lời tố cáo này không có cơ sở, làm sao quỉ có thể đuổi quỉ ra khỏi nhà nó được? Giữa bạn bè với nhau người ta bảo vệ nhau; người ta không đánh đuổi nhau. Như vậy Chúa Giêsu cho ta hiểu rằng phải cẩn thận xem xét hậu quả của một hành động hoặc một lập trường. Nếu hậu quả tốt, thì chúng không thể phát xuất từ một nguyên tắc hoặc một trái tim xấu được.
Bao giờ cũng thế. Trước sự ngạc nhiên, bực bội mà môt số người không hành động như chúng ta gây cho chúng ta, ta hãy nhìn xem hậu quả hành động của họ. “Cây tốt sinh quả tốt” (Lc 6,43).
Tội phạm đến Chúa Thánh Thần.
Câu nói về tội phạm đến Chúa Thánh Thần là một câu nói khó hiểu. Tội phạm đến Chúa Thánh Thần đây là tội gì mà không thể nào tha thứ được? Tội ấy chắc phải là nặng nề lắm.
Tôi nghĩ tội đó chính là từ chối nhìn nhận Thiên Chúa và Con của Ngài đang hoạt động trong sức mạnh của Thánh Thần. Thứ tội này làm cho con người khép kín nơi mình và những ý nghĩ nhỏ bé của mình, khép kín đối với Thiên Chúa Đấng luôn đổi mới để cứu độ. Thánh Thần là sự sống, sự đổi mới, là niềm phấn khởi và sáng tạo. Người ta phạm đến Thánh Thần khi cái “tôi” đứng lên chống lại quyền năng sự sống. đó là từ chối ân sủng, là cố ý mù quáng trước ơn cứu độ. Đó là khi người ta gán cho Bêendêbun những gì phát xuất từ chính Thiên Chúa.
“Mẹ tôi và anh em tôi”.
Chúa Giêsu hỏi “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”. Khi nói về những kẻ muốn bắt Ngài phải làm theo ý họ. Khi nói về những kẻ muốn bắt Ngài làm theo ý họ. Khi nêu câu hỏi này, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu được ai là những kẻ thân cận thật của Ngài, những môn đệ chân chính, những anh chị em thật sự của Ngài.
Tiêu chuẩn để là mẹ và anh em của Chúa không phải là huyết thống, nhưng là việc gắn bó với cùng một chính nghĩa, sự dấn thân cho cùng một lý tưởng, ý muốn chỉ sống để phục vụ Chúa Cha vô điều kiện mà thôi. Không gì thay đổi cả để đảm nhận, không thỏa hiệp những đòi hỏi của Tin Mừng, ta phải cắt đứt những mối liên hệ cũ và thiết lập những mối liên hệ mới thuộc một trật tự khác.
Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu không những vì Mẹ đã cho Ngài thịt máu của mình nhưng nhất là vì Mẹ hiệp nhất với Ngài trong việc tự do và vui vẻ chu toàn ý Chúa Cha. Khi hành động như Mẹ; chúng ta có thể trở thành anh chị em của Chúa Kitô cách đích thực hơn là nếu chỉ có liên hệ huyết thống với Ngài mà thôi.
Ngài chất vấn chúng ta và đặt vấn đề về chúng ta! Đó là một hồng ân mà ta cần phải đón nhận và tạ ơn.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Người ta kể: một hôm có một chàng thanh niên đến gặp cha Placido Vicardi, dòng Biển Đức, ở Italia, để xin xưng tội. Chàng thanh niên này quỳ xuống và thưa với cha Vicardi:
– Thưa cha, con là kẻ tội lỗi khốn nạn nhất, vì con đã phạm đủ mọi thứ tội.
Cha Vicarđi đáp:
– Đúng, con đã phạm đủ mọi thứ tội, nhưng con không phải là kẻ có tội khốn nạn nhất, vì có một tội nặng nhất mà con đã không phạm tội ấy.
Chàng thanh niên ngẩng đầu lên nhìn cha Vicardi ngạc nhiên hỏi:
– Thưa cha, làm sao cha biết? Tội đó là tội nào vậy?
Cha Vicardi trả lời:
– Tội nặng nhất mà con đã không phạm, đó là con đã không nghi ngờ và thất vọng về lòng từ bi của Chúa. Sở dĩ cha biết như thế, vì nếu không, thì con đã không đến đây để xin lãnh nhận Bí tích Giải tội. Vậy, nhân danh Đấng giàu lòng từ bi và yêu thương mà con vẫn hằng tin tưởng cậy trông, cha tha thứ hết mọi tội lỗi cho con. Con hãy về, và cố gắng đền đáp lòng yêu thương tha thứ của Chúa nhá.
(Suy niệm của Lm. Trọng Hương – Trích trong ‘Hạt Giống Nảy Mầm’)
Đoạn Tin Mừng này gồm 2 chuyện:
a/ Chúa Giêsu trừ quỷ và bị các luật sĩ xuyên tạc:
“Các kinh sư nói Đức Giêsu bị quỷ vương Bêendêbun ám và dựa vào thế quỷ vương để trừ quỷ. Theo Đức Giêsu, lời tố cáo đó là một điều vô lý. Quả thật, Xatan không thể chống Xatan (3,23b). Nước nào, nhà nào chia rẽ thì sẽ đi tới chỗ diệt vong (3,24-25); Xatan cũng vậy (3,26). Mc 3,27 cho thấy: chẳng những Đức Giêsu không bị quỷ chi phối, không theo phe quỷ, Ngài còn chống quỷ; quỷ là người mạnh, Đức Giêsu còn mạnh hơn quỷ nữa” (Chú thích của bản dịch nhóm CGKPV).
b/ Lúc Chúa Giêsu đang giảng thì thân nhân của Ngài đến xin gặp:
Ta hãy chú ý chung quanh Chúa Giêsu có 2 vòng người:
a/ Vòng phía trong gần gũi với Ngài là những người đang nghe Ngài giảng. Họ “đang ngồi chung quanh Ngài”.
b/ Vòng ngoài là những người bà con của Ngài. Những người này đứng đó không phải để nghe giảng, mà để “gọi Ngài ra”. Văn mạch phía trước (Mc 3,20-21) còn cho biết mới đây họ còn muốn bắt Ngài về quê không cho Ngài giảng nữa vì nói Ngài đã mất trí.
Rõ ràng Chúa Giêsu coi trọng những người ở vòng trong hơn vòng ngoài: chẳng những Ngài không bỏ việc giảng để ra ngoài gặp bà con, mà còn nói những kẻ đang nghe Ngài giảng mới là gia đình thật của Ngài.
B…. nẩy mầm.
– Nếu Satan đến cám dỗ, bạn làm sao chống trả?
– Mình biết Satan đến để cám dỗ, nhưng khi nó gõ cửa lòng mình, mình bảo: Có phải đức Giêsu gõ cửa đấy không ạ? Khi Satan nghe tên Giêsu là nó biến ngay !
Người mạnh nhất cũng không thể một mình chống lại Satan (Góp nhặt).
Có lẽ đời ta cũng vậy. Nếu không đâm rễ sâu vào lòng đất là Lời Chúa, đời ta cũng sẽ tàn úa (Góp nhặt)
Hôm qua tôi nhận được một bức thư của một người tôi rất quý mến. Tôi đã đọc rất chăm chú và đọc đi đọc lại tới 5 lần. Không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong thư vốn đã quá rõ, nhưng vì tôi biết đó là những lời của một người rất thương tôi và tôi cũng rất thương người đó (United Presbyterian).
(Suy niệm của Don Schwager
Bro. Paul Thanh Vu– chuyển ngữ
AI THI HÀNH Ý MUỐN THIÊN CHÚA LÀ ANH CHỊ EM, LÀ MẸ TA
Suy niệm:
(Mc 3,20-21)
Ðức Giêsu có được tôn kính trong gia đình bạn không? Tại sao những người thân của Ðức Giêsu quá bực tức khi Người khởi đầu sứ mạng công khai của mình? Vào một dịp, Ðức Giêsu đã lên tiếng rằng kẻ thù của chính mình sẽ là người nhà (Mt 10,36). Tin mừng Máccô ghi lại phản ứng của những người thân của Ðức Giêsu khi người trở về làng: họ đến bắt Người. Rõ ràng, họ nghĩ rằng Ðức Giêsu nhất định bị điên rồ hay trở nên quá cuồng tín. Làm thế nào một người chỉ ru rú ở nhà làng Nagiarét rời bỏ nghề thợ mộc để trở thành một nhà giảng thuyết lưu động?
Ðức Giêsu đã bỏ qua sự an phận của một đời sống tĩnh lặng và đáng kính đối với gia đình và những người thân của mình. Rất có thể Người gặp một số chống đối hay phản ứng từ những người cầm quyền tôn giáo ở Giêrusalem. Tuy nhiên, sự chống đối lớn nhất có thể đến từ một số người thân cận với chúng ta, thậm chí từ những người ruột thịt. Ðức Giêsu đương đầu với sự chống đối bằng ơn sủng và quyết định hoàn thành ý định của Chúa Cha. Bạn có sẵn sàng vâng phục và bước theo Chúa thậm chí nếu có người khác chống đối bạn làm điều đó không?
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con đặt để Chúa trên tất cả mọi suy nghĩ và quan tâm của con. Chớ gì con luôn luôn tìm kiếm niềm vui trong việc thực thi ý Chúa, thậm chí trong những lúc khó khăn hay chống đối.
(Mc 3,22-30)
Khi sự nguy hiểm ẩn núp, bạn tìm kiếm sự bảo vệ nào? Ðức Giêsu đến để giải thoát chúng ta khỏi sự nguy hiểm đáng sợ nhất – sức mạnh đồi bại của ma quỷ làm hủy hoại chúng ta từ bên trong và làm cho chúng ta trở thành những nô lệ cho tội lỗi và Satan (Ga 8,34). Sự xấu không là tác động trừu tượng tự nhiên xuất hiện. Nó có tên tuổi và có mặt mũi, và nó tìm kiếm để thống trị mọi tâm hồn trên trái đất (1Pr 5,8-9). Kinh thánh xác định Ma Quỷ bằng nhiều danh tánh: “Satan”, “Beelzebul – hoàng tử của những ma quỷ”, “Ma Quỷ”, “Kẻ Lừa Dối”, “Cha những kẻ dối trá”, và “Luxiphe”, là thiên thần sa ngã đã rời bỏ hàng ngũ với Thiên Chúa và thiết lập lực lượng và vương quốc riêng của mình để chống lại Thiên Chúa. Ðức Giêsu đã tuyên bố rằng Người đến để lật đỗ quyền lực của Satan và vương quốc của hắn (Ga 12,31).
Việc trừ quỷ vô số của Ðức Giêsu đem lại sự giải thoát cho nhiều người bị rối loạn và áp bức bởi tác động của những thần dữ. Chính Ðức Giêsu đã đương đầu với sự chống đối cá nhân và trận chiến với Satan khi Người bị thử thách trong hoang địa trước khi sứ mệnh công khai của Người (Mt 4,1; Lc 4,1). Người đã thống trị Ma Quỷ ngang qua sự vâng phục của Người trước ý Chúa Cha.
Vài người lãnh đạo Do thái phản ứng kịch liệt trước những việc chữa lành và trừ quỷ của Ðức Giêsu. Họ chống đối Người với sự phỉ báng độc ác. Làm thế nào Ðức Giêsu có thể có quyền năng để giải thoát người ta khỏi ảnh hưởng và kiểm soát của Satan? Họ cho rằng Người thông đồng với Satan. Họ nghĩ quyền lực của Satan hơn quyền lực của Thiên Chúa. Ðức Giêsu khẳng định rằng không có vương quốc nào chia rẽ tự bản chất lại có thể tồn tại lâu dài được.
Chúng ta đã chứng kiến rất rõ về những cuộc nội chiến trong thời kỳ của mình để chứng minh sức mạnh hủy hoại về con người và đất đai. Nếu Satan mượn quyền lực của mình để chống lại những lực lượng của chính mình thì đời hắn đã tàn. Cyril thành Alexandria, một giáo phụ của Giáo hội ở thế kỷ thứ 5 giải thích về sức mạnh của sự tranh luận của Ðức Giêsu:
Các vương quốc được thiết lập bởi lòng trung thành của các thần dân và sự tùng phục của những ai dưới quyền cai trị của nhà vua. Gia đình được thành lập khi những người thuộc về họ không có bất kỳ điều gì nào cản trở nhau, nhưng trái lại, hòa thuận trong ý chí và hành động. Tôi cho rằng nó vương quốc của Beelzebub cũng được thiết lập như vậy, nó đã xác định loại bỏ tất cả những gì mâu thuẫn với chính mình. Làm thế nào Satan trục xuất Satan? Hệ quả là ma quỷ không rời khỏi người ta một cách tự nguyện, nhưng rút lui một cách miễn cưỡng. Người nói “Satan không chiến đấu với chính mình.” Hắn không quở trách các tôi tớ của chính mình. Hắn không cho phép mình làm tổn thương các chiến sĩ của chính mình. Ngược lại, Hắn đã giúp vương quốc của mình. “Nó vẫn còn đó để bạn có thể hiểu rằng tôi đè bẹp Satan bằng sức mạnh của Thiên Chúa”. [Chú giải về Luca, Bài giảng 80]
Ðức Giêsu quả quyết quyền năng của Người xua đuổi ma quỷ là dấu chỉ rõ ràng về triều đại của Thiên Chúa. Uy quyền của Thiên Chúa rõ ràng bày tỏ trong những lần trừ quỷ mà Ðức Giêsu thực hiện và chúng đưa ra bằng chứng rằng vương quốc của Chúa đã đến.
Loại nguy hiểm hay tác hại thiêng liêng nào chúng ta phải xa tránh bằng mọi giá? Ðức Giêsu đã sử dụng minh họa của một người mạnh khỏe có nhà cửa và các tài sản được canh giữ an toàn. Làm thế nào một người như thế bị khống chế và cướp mất những tài sản của mình nếu không phải bởi người nào đó mạnh mẽ hơn họ đó sao? Satan, là kẻ thù của chúng ta và kẻ thù không đội trời chung với Thiên Chúa, mạnh mẽ hơn chúng ta. Nếu chúng ta không được sức mạnh của Thiên Chúa bao bọc, chúng ta không thể chống cự lại Satan bằng sức riêng của con người.
Điều mà Satan mong muốn lấy đi nơi chúng ta là đức tin và lòng trông cậy của chúng ta nơi Thiên Chúa và sự sẵn sàng của chúng ta bước theo các giới luật của Người. Satan là kẻ nổi loạn và là kẻ lừa dối. Satan chỉ có thể có sức mạnh hay chiếm hữu trên chúng ta nếu chúng ta nghe lời lừa dối của nó và khuất phục ý của nó, là ý luôn trái ngược với ý của Thiên Chúa. Ðức Giêsu tuyên bố dứt khoát rằng không có phe trung lập trong thế giới này. Chúng ta ủng hộ Ðức Giêsu hay chống đối Người, ủng hộ vương quốc của Thiên Chúa hay chống lại nó. Cuối cùng chỉ có hai vương quốc đối lập nhau – vương quốc của Thiên Chúa và vương quốc của bóng tối do Satan thống trị. Nếu chúng ta không vâng phục lời Chúa, chúng ta mở cửa cho quyền lực của tội lỗi và tác động của Satan đến cuộc đời của mình. Nếu chúng ta muốn sống trong sự giải thoát đích thật khỏi quyền lực của tội lỗi và Satan, thì “căn nhà” của chúng ta – tâm trí và bất cứ điều gì chúng ta cho phép kiểm soát những tham dục và ước muốn của mình – phải được Ðức Giêsu Kitô chiếm hữu và thống trị, nơi đó Người được tôn phong là Chúa và là Đấng cứu độ. Bạn có biết sự bình an và an toàn của cuộc đời vâng phục Thiên Chúa và lời của Người không?
Tội không thể tha thứ nào mà Ðức Giêsu dạy chúng ta phải xa tránh? Ðức Giêsu biết rằng các môn đệ sẽ bị thử thách và Người bảo đảm với họ rằng Chúa Thánh Thần sẽ ban cho họ bất kỳ ơn sủng và sự trợ giúp cần thiết trong thời gian nghịch cảnh của họ. Tuy nhiên, Người cảnh báo họ rằng người ta có thể chống lại ơn sủng Thiên Chúa và chối bỏ niềm tin của mình vì sự hèn nhát hay không tin. Tại sao tội lộng ngôn chống lại Chúa Thánh Thần lại đáng khiển trách? Tội nói lộng ngôn bao gồm việc nói chống lại Thiên Chúa, trong lòng hay ngoài miệng, những lời lẽ hận thù, chỉ trích, hay thách thức. Nó trái ngược với lòng tôn kính Thiên Chúa và thánh danh Người. Ðức Giêsu nói tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội không thể tha thứ. Ðức Giêsu nói về tội này ngay sau khi các kinh sư và những người Pharisêu quy chiếu các phép lạ của Người là công việc của ma quỷ thay vì của Thiên Chúa. Tội không thể được tha thứ chỉ khi nào người ta không chịu thống hối ăn năn. Nếu họ cứ tiếp tục nhắm mắt với Thiên Chúa, bịt tai trước tiếng nói của Người, và khước từ lời Người, họ sẽ đi đến chỗ không còn nhận ra Thiên Chúa nữa khi họ vẫn có thể nhìn thấy và lắng nghe. Họ sẽ trở nên mù quáng thiêng liêng và nói “xấu thành tốt và tốt thành xấu” (Is.5,20).
Tuy nhiên, sợ hãi tình trạng tội lỗi và sự mù quáng thiêng liêng như thế là dấu chỉ cho thấy người ta chưa chết đối với Chúa, và vẫn còn ý thức về sự cần thiết ơn sủng, lòng thương xót và sự trợ giúp của Chúa. Lòng thương xót Chúa không có giới hạn, ngoại trừ những ai từ chối nhận thức và xưng thú tội lỗi của mình và cầu xin Chúa ban ơn tha thứ, chối từ ơn ban quảng đại của Thiên Chúa về lòng thương xót, ơn tha thứ, ơn sủng, và sự chữa lành. Ngang qua sự kiêu ngạo bướng bỉnh của chính họ, họ khước từ Thiên Chúa, chối từ ơn sủng và sự trợ giúp của Người để xa tránh tội lỗi, và chống lại sức mạnh biến đổi của Chúa Thánh Thần để chữa lành và phục hồi mọi sự cho họ. Thiên Chúa luôn luôn ban đầy đủ ơn sủng và giúp đỡ tất cả những ai khiêm tốn khẩn cầu Người. Mất lòng trông cậy Chúa và từ chối từ bỏ tội lỗi cùng với sự cứng tin là kết quả của sự kiêu ngạo và mất hy vọng vào Thiên Chúa.
Đâu là nền tảng của niềm hy vọng và lòng tin vào Thiên Chúa? Qua cái chết của ứức Giêsu trên thập giá và cuộc chiến thắng của người trên sự chết, khi Người sống lại vào ngày thứ ba, Satan đã bị đánh bại và sự chết đã bị chế ngự. Giờ đây chúng ta chia sẻ sự chiến thắng của Đức Kitô trên tội lỗi và Satan và được nhận làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Ngang qua ơn sủng của Chúa Thánh Thần, Chúa giúp chúng ta sống một đời sống mới trong tình yêu và sự giải thoát khỏi sự nô lệ cho tội lỗi. Chúa Giêsu là nơi nương ẩn và sức mạnh của chúng ta bởi vì Người ở với chúng ta (Ga 15,4), và ban cho chúng ta sức mạnh và sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Bạn có ẩn thân nơi Chúa và cho phép Người làm Ðấng cai quản cuộc đời bạn không?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là niềm hy vọng và ơn cứu độ của con. Xin Chúa hãy làm vua cai trị hồn con và làm Chủ của gia đình con. Chớ chi không một điều gì trong cuộc đời con mà không ở dưới sự cai quản của Chúa.
(Mc 3,31-35)
Bạn thích và yêu thương ai nhất? Thiên Chúa không có ý định cho chúng ta sống một mình nhưng sống với những người khác. Người ban cho chúng ta nhiều cơ hội để phát triển những mối quan hệ với gia đình, bạn bè, hàng xóm, và đồng nghiệp. Tại sao Ðức Giêsu có vẻ như phớt lờ những người bà con của mình khi họ muốn gặp Người? Tình yêu và lòng kính trọng của Ngài dành cho Mẹ và bà con thân thuộc thì thật là chắc chắn. Ðức Giêsu không bao giờ để mất một cơ hội để dạy các môn đệ bài học và chân lý thiêng liêng về nước Thiên Chúa. Trong dịp này, khi nhiều người đến nghe Ðức Giêsu, Ngài đã nói đến thực tại khác cao hơn về những mối quan hệ, đó là mối quan hệ với Thiên Chúa và những ai thuộc về Người.
Đâu là yếu tố căn bản của người Kitô hữu? Chắc chắn nó còn hơn cả học thuyết, những khái niệm, và những mệnh lệnh. Đó chính là mối quan hệ đầu tiên và trên hết – mối quan hệ về sự tin cậy, tình cảm, lời cam kết, lòng trung thành, lòng khoan dung, sự quan tâm, lòng trắc ẩn, lòng thương xót, sự trợ giúp, sự khích lệ, sự ủng hộ, sức mạnh, sự bảo vệ, và nhiều phẩm chất khác trói buộc người ta với nhau trong tình yêu và sự hiệp nhất. Thiên Chúa ban cho chúng ta những mối quan hệ lớn lao nhất – sự kết hiệp của lòng, trí, và linh hồn với chính Người là Tác giả và Nguồn mạch của tình yêu (1Ga 4,8.16). Tình yêu Thiên Chúa không bao giờ tàn lụi, không bao giờ quên lãng, không bao giờ làm tổn thương, không bao giờ lừa dối, không bao giờ để chúng ta bị đè bẹp hay thất vọng. Tình yêu của Người luôn kiên định, không thay đổi, không điều kiện, và không bao giờ hết. Không gì có thể ngăn cản Người rời bỏ chúng ta, phớt lờ chúng ta, hay đối xử tệ bạc với chúng ta bao giờ. Người vẫn mãi yêu thương chúng ta cho dù thế nào đi nữa. Đó chính là bản tính yêu thương của Người. Đó là lý do tại sao Người tạo dựng nên chúng ta – để kết hiệp với Người và chia sẻ tình yêu của Người và sự hiệp nhất với người khác (1Ga 3,1). Thiên Chúa có 3 Ngôi vị: Cha, Con, và Thánh Thần, là một cộng đồng tình yêu. Đó là lý do tại sao Ðức Giêsu thách đố các môn đệ và thậm chí những người bà con thân thuộc của mình nhận ra rằng Thiên Chúa chính là nguồn gốc thật sự của tất cả mọi mối quan hệ. Thiên Chúa muốn tất cả mọi quan hệ của chúng ta phải được ăn rễ trong tình yêu của Người.
Ðức Giêsu là hiện thân tình yêu Thiên Chúa – tình yêu Thiên Chúa thể hiện cách minh nhiên trong xác phàm (1Ga 4,9-10). Đó là lý do Ðức Giêsu mô tả chính mình như người mục tử tốt lành, người dám hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên, và là người mục tử đi tìm con chiên lạc. Thiên Chúa giống như người cha chờ mong đứa con hoang đàng quay về nhà và thiết đãi bữa tiệc lớn cho người con, khi hắn đổi lòng và trở về (Lc 15,11-32). Ðức Giêsu dâng hiến mạng sống mình trên thập giá vì phần rỗi chúng ta, để chúng ta có thể được tha thứ và được phục hồi sự kết hiệp và tình bằng hữu với Thiên Chúa. Ngang qua Ðức Giêsu mà chúng ta trở nên dưỡng tử của Thiên Chúa. Đó là lý do Ðức Giêsu nói với các môn đệ rằng họ sẽ có nhiều bạn bè và những mối quan hệ gia đình trong nước Người. Ai thực hiện ý Thiên Chúa là bạn hữu của Chúa và là thành viên trong gia đình của Người – những người con đã được mua chuộc bằng giá máu châu báu của Đức Kitô.
Một tín hữu tử đạo thời xưa đã nói rằng “Bà con thân thuộc của người tín hữu chính là các thánh” – tức là những người đã được cứu chuộc bằng giá máu của Đức Kitô và được làm dưỡng tử của Thiên Chúa. Những ai đã được thanh tẩy trong Đức Giêsu Kitô và những ai sống như những người môn đệ của Người sẽ được gia nhập vào một gia đình mới, một gia đình của “các thánh” tại đây ở thế gian và trên Thiên đàng. Đức Giêsu thay đổi trật tự của những mối quan hệ và bày tỏ cho thấy rằng mối quan hệ họ hàng thật sự không chỉ dựa trên vấn đề thân xác và huyết thống. Ơn làm con Thiên Chúa biến đổi tất cả mọi mối quan hệ của chúng ta và đòi hỏi một trật tự mới của lòng trung thành với Thiên Chúa trước hết và với vương quốc công chính và bình an của Người. Bạn có muốn lớn lên trong tình yêu và tình bằng hữu không? Hãy để cho Thần Khí Chúa biến đổi lòng, trí, và ý chí các bạn để giúp bạn yêu thương cách tự do và quảng đại như Người yêu thương.
Lạy Cha trên trời, Cha là nguồn mạch tất cả mọi mối quan hệ và tình yêu. Trong tất cả mọi mối quan hệ của con, chớ gì tình yêu của Cha là sự hướng dẫn liên tục của con trong việc chọn lựa những gì tốt lành và khước từ những gì trái ngược với ý Cha.
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
ĐỂ NÊN ANH EM THỰC SỰ CỦA CHÚA GIÊSU
Ý CHÍNH:
Sau khi tuyển chọn Nhóm Mười Hai tông đồ, Đức Giê-su đã thuê nhà cho Thầy trò ở trọ. Tại đây, Người đã phải ứng phó với ba nhóm người như sau: Một là đám đông dân chúng tin vào quyền năng của Người và chen nhau đến nghe Người giảng; Hai là một số thân nhân không tin Người là Đấng Thiên Sai mà là kẻ đã bị mất trí; Ba là các kinh sư Do thái từ Giê-ru-sa-lem đến nghe ngóng tình hình và nói xấu Người nhờ tướng quỷ để trừ quỷ hầu hạ uy tín của Người.
Đức Giê-su đã cho họ biết Người trừ được quỷ là nhờ quyền năng của Thiên Chúa chứ không dựa vào thế của tướng quỷ. Những ai dám nói Người bị quỷ ám là đã phạm tôi phạm đến Thánh Thần. Người còn cho biết các anh em đích thực của Người là những người lắng nghe Lời Người giảng dạy và thi hành theo ý của Thiên Chúa.
CHÚ THÍCH:
– C 20-22: + Ðức Giê-su trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được: Đám đông kéo đến với Đức Giê-su, vì nghe biết những gì Người đã làm như chữa lành người bại tay tại hội đường vào ngày sa-bát, và chữa lành nhiều bệnh nhân. Mặc dù Mác-cô không kể ra những gì Đức Giê-su làm cho họ, nhưng chúng ta có thể suy đoán Người tiếp tục chữa lành bệnh tật và giải thoát những người bị quỉ ám. Chính vì thế mà Người và các môn đệ không có giờ ăn uống và bị người thân và các kinh sư chống đối.
Trước nhu cầu của đám đông, Đức Giê-su đã rao giảng Tin Mừng Nước Trời, chữa lành bệnh tật và giải thoát người ta khỏi bị quỉ ám. + Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí: Tại sao người thân của Người lại cho rằng Người mất trí và muốn đi bắt Người về nhà? Vì họ đã không tin Người là Đấng Thiên Sai và họ sợ dân chúng các nơi kéo đến làm mất trật tự có thể liên lụy đến họ. Họ coi Người là kẻ bất bình thường, biểu hiệu qua việc quên cả việc ăn uống.
– C 23-30: + “Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được?” : Đức Giê-su phản bác những người chống đối Người khi cho rằng Người không phải là Đấng Thiên Sai. Sở dĩ Người trừ được quỷ là do dựa vào quyền lực của quỷ vương mà trừ quỷ nhỏ đó thôi. + Ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời: Đức Giê-su đã phản bác lại họ khi cho biết về lòng nhân từ luôn tha thứ tội lỗi của loài người. Tuy nhiên cũng có thứ tội không bao giờ được tha thứ là tội phạm đến Chúa Thánh Thần. Vậy tội phạm đến Thánh Thần là tội gì? Đây là tội cố tình chối bỏ tình thương của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa đã ban cho con người có quyền tự do : tin hay không tin vào Chúa, đón nhận hay không đón nhận ơn tha thứ của Người. Vì thế, dù Thiên Chúa vẫn muốn cứu độ mọi người, nhưng vẫn có những người không được cứu độ do cố tình nghe ma quỷ cám dỗ, cố tình không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và không muốn đón nhận ơn cứu độ của Người đem đếnm thể hiện qua việc nói Người bị quỉ ám.
– C 31-35: + Mẹ và anh em Ðức Giê-su đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra… Ðây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”: Nhân lúc đó có Mẹ Ma-ri-a và mấy anh em bà con đứng bên ngoài nhà muốn được gặp mặt Người, Đức Giê-su liền dạy cho mọi người hiểu đúng ai mới thực là Mẹ và anh em của Người. Đó không những là những người có liên hệ huyết thống với Người, mà điều quan trọng hơn là phải tin Người là Đấng Thiên Sai, vâng nghe Lời Người dạy và làm theo thánh ý của Chúa Cha. Những người đó mới thực là Mẹ và là anh chị em của Người.
CÂU HỎI:
1) Đám đông đến với Đức Giê-su để làm gì ?
2) Tại sao thân nhân của Đức Giê-su lại đi bắt Người ?
3) Các Kinh sư từ Giê-ru-sa-lem xuống đã làm gì để chống lại Đức Giê-su ?
4) Đức Giê-su đã phản bác lập luận của họ về công việc trừ quỷ của Người thế nào ?
5) Theo Đức Giê-su thì ai nói phạm đến Thánh Thần ? Tại sao tội của họ sẽ không bao giờ được tha ?
6) Mẹ và anh em thực sự của Đức Giê-su là những ai ? Tại sao ?
1) Cố chấp tin theo ma quỷ sẽ bị diệt vong :
Elia xưa đã nhờ Thiên Chúa mà trừ diệt những kẻ dựa vào quỷ vương Bê-en-dê-bun thời vua A-kháp và Ô-khô-gi-a vua Ít-ra-en. Ô-khô-gi-a khi bị đau liệt, đã sai sứ giả đi cầu khẩn Bê-en-dê-bun. Thiên Chúa đã thúc giục tiên tri E-li-a đi đón sứ giả và nói: Ở Ít-ra-en không có Thiên Chúa sao mà các ngươi lại đi cầu khẩn Bê-en-dê-bun? Cho nên Thiên Chúa phán thế này: Ngươi sẽ chết trên giường ngươi nằm. Ô-khô-gi-a đã cố chấp không nghe lời cảnh cáo của E-li-a, còn sai quan quân tất cả hai trăm người đến bắt E-li-a. E-li-a đã nói với chúng: Nếu ta là người của Thiên Chúa, thì lửa hãy từ trời xuống thiêu đốt các ngươi đi. Và lửa từ trời đã thiêu đốt sạch bọn chúng, và cả nhà vua cũng chết, trừ đoàn sứ giả thứ ba biết khấn xin người của Thiên Chúa thì được sống (IIV 1,2-17).
Những người cầu khẩn tà thần ma quỷ, những người cố chấp theo những tà thuyết mù quáng, những hạng người ác ý xuyên tạc công việc của Thiên Chúa sang công việc của ma quỷ, là xúc phạm đến Chúa Thánh Thần, nên sẽ chẳng bao giờ được tha, do cố chấp nên họ bị diệt vong.
Chỉ có những người ngay lành như dân chúng, biết lắng nghe lời Thiên Chúa, làm những việc lành phúc đức, mới thực sự “là mẹ, và anh em của Đức Giêsu”.
2) Thế nào là một người quân bình?
Ngôi sao điện ảnh Lloyd lái xe đến trạm sửa chữa. Cô thợ máy ân cần đón tiếp anh. Ngay lập tức anh đã bị cuốn hút bởi đôi tay khéo léo và điêu luyện của cô.
Cả Paris đều biết đến anh, Thế nhưng cô gái này lại tỏ vẻ rất bình thản, xem ra không mấy vui sướng cũng như ngưỡng mộ con người nổi tiếng này.
– Cô có thích xem phim không? Anh ta hỏi.
– Đương nhiên là thích rồi, tôi là một “fan” điện ảnh mà.
Tay cô rất nhanh, chẳng bao lâu có đã sửa xong xe:
– Ông có thể lái xe đi rồi, thưa ông.
Anh ta vẫn tiếp tục:
– Thưa cô, tôi có thể đưa cô đi dạo được không?.
– Không! Tôi còn có công việc.
– Đây cũng giống như là công việc của cô. Cô sửa xe cho tôi, tốt nhất là tự mình lái thử kiểm tra xem sao.
– Được, vậy tôi lái hay ông lái đây?.
– Tôi lái, tôi mời cô mà!.
– Xe chay rất tốt, cô gái hỏi:
– Xem ra không có vấn đề gì, vậy xin ông vui lòng cho tôi xuống được không?.
– Sao cơ? Cô không muốn tôi đưa đi sao? Tôi chỉ muốn hỏi lại cô một việc, cô có thích xem phim không?.
– Tôi rất thích, tôi đã trả lời với ông rồi mà, hơn nữa tôi còn là một “fan” điện ảnh nữa.
– Vậy cô không nhận ra tôi sao?.
– Sao tôi không nhận ra chứ! Từ đầu tôi đã nhận ra ông là diễn viên điện ảnh Lloyd nổi tiếng hiện nay mà.
– Biết thế, sao cô vẫn lãnh đạm vậy?.
– Không! Ông lầm rồi, tôi không hề lãnh đạm. Nhưng tôi không cuồng nhiệt như các cô gái khác. Ông có thành tựu của ông. Tôi có công việc của tôi. Ông đến đây để sửa xe. Ông là khách hàng. Nếu ông không phải là ngôi sao nổi tiếng, khi ông đến sửa xe thì tôi cũng tiếp đãi như vậy. Giữa người với người không phải như thế sao?.
Anh ta im lặng. Đối diện với cô gái bình thường này anh cảm thấy mình tầm thường và thật ngông nghênh.
– Cảm ơn cô! Cô đã khiến cho tôi phải tự cảnh tỉnh về giá trị bản thân. Được, bây giờ tôi đưa cô về.
Thái độ và cách ứng xử của cô thợ sửa xe trong câu chuyện trên cho chúng ta thấy thế nào là một người quân bình trong cuộc sống đời thường.
Trên một chiếc tàu vượt đại dương, có một kỹ sư tàu biển tên là EG-BERT. Công việc của ông là ngồi trong phòng máy và tuân theo lệnh của Đô đốc ở trên cầu tàu truyền xuống.
Một hôm, Egbert tự nhủ: Ta là một người tài giỏi và quan trọng nhất mà không được ai biết đến và coi trọng. Còn lão Đô đốc chỉ huy chỉ biết ngồi trên cầu tàu mà ra lệnh, chẳng quan tâm đến ta dưới buồng máy không được ngắm trời mây non nước.
Lúc đó, có hồi chuông rung báo động và có lệnh: “Hãy quay tầu trở lại ngay !”. EG-BERT lầm bầm: “Ta là kỹ sư đã 30 năm, từng vượt biển cả 100 lần. Đây là lần đầu tiên có người dám bảo ta phải quay trở lại giữa đại dương. Lão Đô đốc này chỉ biết ra lệnh thôi !”
Nói xong, thay vì quay bánh lái trở lui, EG-BERT tiếp tục cho tàu lao về phía trước, mà còn tăng tốc nhanh lên gấp đôi. Con tàu đã đâm xầm vào một chiếc tàu khác phía trước và bị vỡ tan.
Tâm trạng anh kỹ sư tàu biển trên đây không khác gì các luật sĩ Do thái thời Đức Giê-su. Họ kiêu căng mà không nhận mình kiêu căng. Họ cho mình là tài giỏi, xứng đáng hơn người. Họ xuyên tạc chê bai việc lành của người khác. Họ giữ đạo mà không có tinh thần đạo đức. Họ làm việc thiện cốt để khoe khoang. Nếu một người lòng đầy sự kiêu ngạo, thì sẽ chẳng còn chỗ nào cho sự khôn ngoan. Thánh Gia-cô-bê viết: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gc.4,6).
Trong Chúa nhật đầu tiên tại một giáo xứ, vị linh mục vừa nhận chức đã giảng một bài giảng rất hùng hồn, văn hoa, xúc tích và sâu sắc. Tất cả các tín hữu hiện diện đều cảm thấy sốt sắng phấn khởi. Có nhiều người đã cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã ban cho họ một vị linh mục có tài ăn nói : “phun châu nhả ngọc”.
Tiếng đồn về cha xứ mới lan mau như lửa cháy, vì thế nên đến Chúa nhật kế tiếp, nhà thờ trở nên đông đảo khác thường. Mọi người đều nóng lòng chờ đợi được nghe cha giảng. Nhưng cha sở lại giảng một bài gần giống như bài giảng Chúa nhật vừa qua. Rồi trong các thánh lễ Chúa nhật kế tiếp cha vẫn giảng cũng một bài giảng đó.
Hội đồng giáo xứ cử người đến hỏi cha xứ xem tại sao cha lại cứ giảng đi giảng lại 1 bài hoài như vậy? Cha sở trả lời:
– Tại sao anh chị vẫn cứ sống như cách đây 6 tuần. Khi nào anh chị em thực hành được những gì tôi đã giảng thì tôi sẽ giảng sang bài mới.
Gia đình bé XÊ-XI-LI-A ở mạn bắc nước I-ta-li-a, nằm trong một xóm lao động nghèo. Từ sáng sớm cha của em là một công nhân đã phải đến sở làm việc, và mãi đến 8-9 giờ tối mới về lại nhà. Vì thế, chẳng mấy khi Xê-xi-li-a có dịp nói chuyện với cha. Còn mẹ em thì bận lo công việc nội trợ và còn làm thêm các việc của các nhà hàng xóm để gia tăng ngân quĩ gia đình. Bà có lòng đạo đức và thương người, sẵn sàng san sẻ giúp đỡ người nghèo trong xóm, nên ai cũng quí mến. Bé Xê-xi-li-a rất hãnh diện về cha mẹ và cảm thấy hạnh phúc sống trong gia đình có cha mẹ hòa thuận yêu thương nhau.
Từ 2 năm nay, Xê-xi-li-a được huấn luyện sống theo lời Chúa, thấy Chúa Giê-su đang bị bỏ rơi nơi những người đau khổ bất hạnh. Một hôm, Xê-xi-li-a bất ngờ khi nghe một đứa bạn nói về nỗi khổ của mẹ em mỗi ngày đều bị ba em đánh đập hành hạ!” Em không tin và muốn tìm hiểu thực hư ra sao. Tối hôm ấy, khi nghe chuông gọi cửa. Xê-xi-li-a thấy mẹ ra mở cửa. Em bước xuống thang núp sau tấm màn theo dõi. . .
Ba em đầu tóc rối bù, người sặc mùi rựơu. Ông ném mạnh chiếc mũ và áo xuống nền nhà; Mẹ em nhẹ nhàng cầm lấy cất vào trong tủ, đi dọn bàn ăn rồi mời chồng cùng ăn bữa tối. Đôi mắt đỏ ngầu, ông trợn trừng nhìn bà và chê tới chê lui kèm thêm những lời mắng chửi. Mẹ em chỉ biết vừa ăn vừa khóc. Lát sau, ba em bưng cả mâm cơm vứt xuống nền nhà và tặng vợ những cú đấm đá tàn nhẫn.
Sau bức màn, Xêxi-li-a như bị chết lịm: “ thôi đúng rồi, tụi bạn nói đâu có sai. Cả lối xóm đều biết chuyện không hay của gia đình mình”. Gượng đứng dậy, Xê-xi-li-a rón rén leo lên gác. Các ngày sau đó sự thể vẫn xảy ra như vậy. Xê-xi-li-a không biết phải làm gì. Cuối cùng, em đã đến gặp cha xứ để trình bày mọi sự và đã được ngài khuyên bảo việc em phải làm.
Sau đó tối nào Xê-xi-li-a cũng thức đợi ba về và khi ông vừa vào nhà là em đã chạy ra đón ôm hôn ba, cất áo mũ cho ba. Rồi em còn phụ giúp mẹ dọn bàn ăn. Trong suốt bữa ăn, em ngồi kề bên ba kể những chuyện vui ở trường, hỏi thăm ba công việc ở sở làm. Thoạt đầu, ba em lấy làm khó chịu, nhưng sau đó ông lại cảm thấy vui. . . Bầu khí gia đình ngày càng dễ chịu.
Ba tháng trôi qua, bi kịch ngày xưa đã không còn. Một hôm, Xê-xi-li-a âu yếm ôm lấy ba và nói: “ Ba ơi, ba có biết tại sao con không muốn ngủ sớm không?” Rồi khi được phép ba, em đã thuật lại tâm trạng của em khi nghe chúng bạn phê bình nhà mình. Em thấy Chúa Giê-su đang bị bỏ rơi trong ba, nên em muốn mang Chúa cho gia đình mình. . . Nghe con nói hai ông bà mừng mừng tủi tủi. Không ngờ con bé lại khôn ngoan và đạo đức đến vậy. Ba má Xê-xi-li-a đã ôm lấy con, nghẹn ngào nhìn nhau. . . Lát sau ông mới thốt nên: “Từ nay con phải đi ngủ sớm nghe không! Ba hứa với con là ba má sẽ hòa thuận thương yêu nhau. Ba má cũng sẽ quyết tâm sống Lời Chúa giống như con. Ba má rất yêu thương con!”
1) Bấy giờ Đức Giê-su đang giảng đạo cho một đám đông dân chúng, thì có mẹ và anh em bà con của Người đến thăm Người. Những người này muốn được gặp gỡ nói chuyện với Đức Giê-su, nhưng họ không thể đến gần Người được vì dân chúng vây quanh Người quá đông. Họ đành phải đứng bên ngoài chờ đợi Người.
2) Thấy vậy, có người đã len vào giữa đám đông báo tin cho Đức Giê-su hay. Họ nghĩ rằng Người sẽ phải ngưng giảng dạy để mau ra gặp mẹ và các anh em bà con này. Nhưng sau khi nghe báo tin, Đức Giê-su vẫn tiếp tục giảng dạy như không có sự gì xảy ra. Qua đó cho thấy Người coi trọng đám đông đang nghe Người giảng hơn là các thân nhân ruột thịt. Rồi Người đặt câu hỏi với mọi người như sau: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” (c. 33).
3) Theo lẽ thường: mẹ và anh em của Đức Giê-su không ai khác hơn là mấy người đang đứng bên ngoài chờ gặp Người. Nhưng thật bất ngờ khi Người lại chỉ tay vào đám đông đang đứng ngồi chung quanh nghe giảng và tuyên bố: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi” (c. 34). Thực ra Đức Giê-su không coi thường mẹ và các người họ hàng bà con. Nhưng Người muốn nhân cơ hội này để dạy cho mọi người biết sự thật này là: Người còn có nhiều người thân mới là các môn đệ và đám đông nghe Người giảng. Những người này đã trở thành người thân của Người khi lắng nghe Lời Người giảng dạy và làm theo Ý Chúa Cha, noi gương Người đã luôn nghe Lời Cha và làm theo ý của Cha: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người ” (Ga 4,34).
Như vậy những ai thi hành ý muốn của Chúa Cha sẽ trở nên nghĩa thiết với Đức Giê-su. Chúng ta hôm nay sẽ trở nên anh chị em của Người nếu chúng ta năng đọc kinh Lạy Cha, chú ý câu: “Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,9-10). Vì đối với Đức Giê-su điều quan trọng là làm cho Nước Trời của Chúa Cha ngày một lớn lên.
4) Hiện nay trên thế giới mấy tôn giáo có số tín hữu nhiều nhất như sau: Kitô giáo có 2,3 tỷ người; Hồi giáo có 1,5 tỷ người; Ấn Độ giáo có 900 triệu người; Đạo giáo có 400 triệu người, Phật giáo có 365 triệu người; Nho giáo có 150 triệu người, các tôn giáo truyền thống châu Phi có 100 triệu người; Thần đạo Nhật Bản có 30 triệu người…
Trong số 2,3 tỷ tín hữu Ki-tô gồm Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống, Anh giáo… Những người này đều tin thờ Thiên Chúa và cùng tin vào Đức Giê-su, nhưng vẫn chưa hiệp nhất trong đại gia đình của Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là phải cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu này. Ngoài ra phải làm cho Hội Thánh của Chúa ngày một lớn lên bằng cách hợp tác với những người thiện chí để xây dựng cho môi trường mình đang sống ngày một an bình trật tự hơn, công bình nhân ái hơn. Để thế giới chúng ta đang sống sớm trở thành một đại gia đình có Cha Chung là Thiên Chúa và mọi người sống chan hòa yêu thương nhau như anh chị em một nhà, hầu thế giới này sớm trở nên “Trời Mới Đất Mới” theo ý Chúa muốn (x. Kh 21,1).
Lạy Chúa Giê-su. Xin ban cho các cộng đoàn tín hữu chúng con được luôn hiệp nhất và yêu thương nhau, để nên anh chị em thực sự của Chúa. Giữa một thế giới đang còn nhiều hận thù và chia rẽ nhau, xin cho các tín hữu chiếu tỏa ánh sáng tin yêu bằng những việc làm khiêm nhường phục vụ và chia sẻ cơm áo cụ thể. Ước gì Hội Thánh của Chúa trên hoàn cầu sớm trở thành một cây cải cao lớn, có khả năng đón nhận được chim trời là các dân tộc từ muôn phương đến làm tổ. Ước gì khi thấy các tín hữu sống yêu thương hiệp nhất với nhau, lương dân sẽ nhận ra dấu chỉ Nước Trời đang hiện diện và sẵn sàng gia nhập vào Hội Thánh với chúng con, như Hội Thánh thời sơ khai. – Amen.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn