Các buổi gặp gỡ của ĐTC trong chuyến Tông du Iraq.

Thứ sáu - 05/03/2021 05:42  878

Tông du Iraq: Diễn văn (3) trong cuộc gặp gỡ liên tôn tại Ur
dTrong bài diễn văn tại cuộc gặp gỡ liên tôn, Đức Thánh Cha kêu gọi các tín đồ của các tôn giáo có cùng tổ phụ Abraham biến vũ khí của thù hận thành khí cụ hòa bình, bất chấp nhũng vết thương quá khứ. Ngài mời gọi cùng nhau tiếp tục dấn thân và bám chặt vào hòa bình, xây dựng một tương lai mới bằng sự đoàn kết và thân hữu để vượt qua vết thương của quá khứ nhờ hòa giải và cùng chung sống huynh đệ.

DIỄN VĂN CỦA ĐỨC THÁNH CHA
Gặp gỡ liên tôn tại thành Ur
Thứ Bảy 06/03/2021
Anh chị em thân mến,
Nơi diễm phúc này đưa chúng ta trở lại nguồn gốc của mình, nguồn gốc công trình của Thiên Chúa, nơi khai sinh các tôn giáo của chúng ta. Ở đây, nơi tổ phụ Abraham đã sống, chúng ta dường như trở về nhà. Chính tại đây, ông Abraham đã nghe thấy tiếng gọi của Thiên Chúa; chính từ đây, ông đã bắt đầu một cuộc hành trình sẽ thay đổi lịch sử. Chúng ta là kết quả của tiếng gọi và hành trình đó. Thiên Chúa yêu cầu ông Abraham ngước mắt lên trời để đếm các vì sao (x. St 15,5). Trong những ngôi sao đó, ông nhìn thấy lời hứa về dòng dõi của mình; ông nhìn thấy chúng ta. Hôm nay chúng ta, những người Do Thái, Kitô hữu và Hồi giáo, cùng với các anh chị em của chúng ta thuộc các tôn giáo khác, tôn vinh tổ phụ Abraham của chúng ta bằng cách làm như ông đã làm: chúng ta nhìn lên trời và bước đi trên mặt đất.
1. Chúng ta nhìn lên trời. Hàng ngàn năm sau, khi chúng ta nhìn lên cùng bầu trời đó, cũng những ngôi sao đó xuất hiện. Chúng chiếu sáng những đêm đen tối nhất bởi vì chúng cùng nhau tỏa sáng. Do đó, trời cao truyền đi một thông điệp về sự hiệp nhất: Đấng Toàn năng ở trên cao mời gọi chúng ta đừng bao giờ tách mình ra khỏi những người lân cận. Sự khác biệt của Thiên Chúa hướng chúng ta về phía những người khác, về phía anh chị em của chúng ta. Nếu chúng ta muốn duy trì tình huynh đệ, chúng ta không được thôi hướng nhìn về trời. Chớ gì chúng ta  - con cháu của tổ phụ Abraham và những người đại diện của các tôn giáo khác nhau - ý thức được rằng, trên hết, chúng ta có vai trò này: giúp các anh chị em của chúng ta ngước mắt lên trời và cầu nguyện. Tất cả chúng ta đều cần điều này, bởi vì, chỉ tự mình chúng ta không thể đáp ứng đầy đủ cho mình. Con người không toàn năng, tự mình chúng ta không thể làm điều đó. Nếu loại trừ Thiên Chúa, chúng ta sẽ thờ phượng những thứ thuộc về thế gian. Của cải thế gian, thứ khiến nhiều người không quan tâm đến Thiên Chúa và người khác, không phải là lý do tại sao chúng ta hành trình trên trái đất. Chúng ta ngước mắt lên trời để nâng mình lên khỏi vực sâu của sự phù phiếm; chúng ta phụng sự Thiên Chúa để thoát khỏi việc nô lệ cho cái tôi của mình, bởi vì Thiên Chúa thúc giục chúng ta yêu thương. Đây là lòng đạo đức chân thành: thờ phượng Thiên Chúa và yêu thương người lân cận của mình. Trong thế giới hôm nay, vốn thường lãng quên hoặc trình bày những hình ảnh méo mó về Đấng Tối Cao, các tín đồ được kêu gọi để làm chứng cho sự tốt lành của Người, thể hiện tình Phụ tử của Người qua tình huynh đệ của chúng ta.
Từ nơi này, nơi đức tin được nảy sinh, từ mảnh đất của tổ phụ Abraham, chúng ta hãy khẳng định rằng Thiên Chúa nhân từ, và tội lộng ngôn nhất, là xúc phạm Danh Người bằng cách ghét bỏ anh chị em của chúng ta. Sự thù địch, chủ nghĩa cực đoan và bạo lực không phát xuất từ tâm hồn của người có tôn giáo: chúng là sự phản bội tôn giáo. Các tín đồ chúng ta không thể im lặng khi khủng bố lạm dụng  tôn giáo; thực sự, chúng ta rõ ràng được kêu gọi xóa tan mọi hiểu lầm. Chúng ta đừng để ánh sáng của thiên đàng bị lu mờ bởi những đám mây hận thù! Những đám mây đen của khủng bố, chiến tranh và bạo lực đã tụ tập trên đất nước này. Tất cả các cộng đồng dân tộc và tôn giáo của nước này đã phải đau khổ. Đặc biệt, tôi muốn đề cập đến cộng đồng Yazidi, cộng đồng đã thương khóc cái chết của nhiều người nam và chứng kiến ​​hàng ngàn phụ nữ, thiếu nữ và trẻ em bị bắt cóc, bán làm nô lệ, bị bạo hành thể lý và cưỡng bức cải đạo. Hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho những người đã phải chịu đựng những đau khổ này, cho những người vẫn đang bị phân tán và bị bắt cóc, để họ sớm được trở về nhà. Và chúng ta hãy cầu nguyện cho tự do lương tâm và tự do tôn giáo sẽ được mọi nơi công nhận và tôn trọng; đây là những quyền cơ bản, bởi vì chúng khiến chúng ta được tự do chiêm ngưỡng Thiên đàng mà chúng ta được tạo dựng để lãnh nhận.
Khi khủng bố xâm chiếm miền Bắc của đất nước thân yêu này, chúng đã phá hủy bừa bãi một phần di sản tôn giáo tráng lệ của đất nước, bao gồm các nhà thờ, đan viện và nơi thờ tự của nhiều cộng đồng khác nhau. Tuy nhiên, ngay cả trong thời điểm đen tối đó, một số vì sao vẫn tiếp tục chiếu sáng. Tôi nghĩ đến những tình nguyện viên Hồi giáo trẻ tuổi của Mosul, những người đã giúp sửa chữa các nhà thờ và đan viện, xây dựng tình bạn huynh đệ trên đống đổ nát của hận thù, và những Kitô hữu và người Hồi giáo ngày nay đang cùng nhau khôi phục lại các đền thờ Hồi giáo và nhà thờ. Giáo sư Ali Thajeel cũng nói về sự trở lại của những người hành hương đến thành phố này. Hành hương đến những nơi thánh là điều quan trọng, vì đó là dấu hiệu đẹp nhất trên trái đất về sự khao khát thiên đàng của chúng ta. Vì vậy, yêu mến và bảo vệ những nơi thánh là điều cần thiết sống còn để tưởng nhớ tổ phụ Abraham; ở nhiều nơi khác nhau, ông đã ngước mắt lên trời và dựng bàn thờ kính Đức Chúa (xem Sáng 12,7.8; 13,18; 22,9). Xin Tổ phụ vĩ đại giúp chúng ta biến những nơi thánh thiêng của chúng ta thành ốc đảo bình an và gặp gỡ cho tất cả mọi người! Nhờ lòng trung thành với Thiên Chúa, ông Abraham đã trở thành phúc lành cho muôn dân (xem St 12,3); chớ gì sự hiện diện của chúng ta ở đây hôm nay, theo bước chân của ông, là một dấu hiệu của phúc lành và hy vọng cho Iraq, cho vùng Trung Đông và cho toàn thế giới. Trời cao không mệt mỏi vì trái đất: Thiên Chúa yêu thương mọi dân tộc, mọi người trong các con gái và con trai của Người! Chúng ta đừng bao giờ mệt mỏi hướng nhìn lên trời, nhìn lên chính những vì sao mà tổ phụ Abraham của chúng ta đã chiêm ngưỡng vào thời của ông.
2Bước đi trên mặt đất. Đối với Abraham, nhìn lên trời, thay vì là một sự phân tâm, là một động lực để bước đi trên trái đất, mở ra con đường mà qua dòng dõi của ông, sẽ dẫn đến mọi thời và mọi nơi. Tất cả bắt đầu từ nơi đây với Đức Chúa là Đấng đã đưa ông ra khỏi thành Ur (x. St 15,7). Cuộc hành trình của ông là một cuộc hành trình đi ra, một cuộc hành trình bao gồm sự hy sinh. Ông Abraham đã phải rời bỏ đất đai, quê hương và gia đình. Nhưng khi từ bỏ gia đình của mình, ông trở thành cha của một gia đình gồm nhiều dân tộc. Một điều gì đó tương tự cũng diễn ra với chúng ta: trong cuộc hành trình của chính mình, chúng ta được kêu gọi bỏ lại những ràng buộc và dính bén, những thứ giữ chúng ta khép kín trong nhóm của chúng ta, đã ngăn cản chúng ta chào đón tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa và không xem người khác là anh chị em của chúng ta. Chúng ta cần phải vượt ra khỏi chính mình, bởi vì chúng ta cần người khác. Đại dịch đã giúp chúng ta nhận ra rằng “không ai được cứu một mình” (Fratelli Tutti, 54). Tuy nhiên, cám dỗ tránh xa những người khác không bao giờ chấm dứt, nhưng đồng thời chúng ta biết rằng “khái niệm ‘mỗi người chỉ vì chính mình’ sẽ nhanh chóng trở thành “tất cả chống lại nhau”, điều sẽ còn tệ hơn bất kỳ đại dịch nào” ( sđd., 36). Giữa những thử thách mà chúng ta đang trải qua, sự cô lập như vậy sẽ không cứu được chúng ta. Cũng không phải một cuộc chạy đua vũ trang hay việc xây dựng những bức tường, những thứ sẽ chỉ khiến tất cả chúng ta trở nên xa cách và hung hãn hơn. Cũng không phải sự sùng bái thần tượng về tiền bạc, vì nó khép chặt chúng ta vào chính chúng ta và tạo ra những hố sâu bất bình đẳng nhấn chìm nhân loại. Chúng ta cũng không thể được cứu bởi chủ nghĩa tiêu thụ, thứ làm tê liệt tâm trí và giết chết con tim.
Con đường mà trời cao vạch ra cho cuộc hành trình của chúng ta là một con đường khác: con đường hòa bình. Nó đòi hỏi, đặc biệt là giữa bão táp, chúng ta phải cùng chèo con thuyền từ cùng một phía. Thật đáng xấu hổ rằng, trong khi tất cả chúng ta đều phải chịu đựng khủng hoảng của đại dịch, đặc biệt là ở đây, nơi mà các cuộc xung đột đã gây ra rất nhiều đau khổ, thì ai đó lại chỉ quan tâm đến chính mình. Sẽ không có hòa bình nếu không có sự chia sẻ và chấp nhận, nếu không có một nền công lý đảm bảo sự bình đẳng và tiến bộ cho tất cả mọi người, bắt đầu từ những người dễ bị tổn thương nhất. Sẽ không có hòa bình trừ khi các dân tộc mở rộng bàn tay cho các dân tộc khác. Sẽ không có hòa bình bao lâu chúng ta coi người khác là họ chứ không phải chúng ta. Sẽ không có hòa bình chừng nào các liên minh của chúng ta còn chống lại những liên minh khác, vì liên minh của một số người chống lại những người khác chỉ làm gia tăng sự chia rẽ. Hòa bình không đòi có những người chiến thắng hay kẻ thua cuộc, nhưng là những người anh chị em, những người, vì tất cả những hiểu lầm và tổn thương của quá khứ, đang đi từ xung đột đến thống nhất. Chúng ta hãy cầu xin điều này khi cầu nguyện cho toàn bộ vùng Trung Đông. Ở đây tôi đặc biệt nghĩ đến đất nước láng giềng Syria bị tàn phá bởi chiến tranh.
Tổ phụ Abraham, người hôm nay mang chúng ta đến với nhau trong sự hiệp nhất, là một vị tiên tri của Đấng Tối Cao. Một lời tiên tri cổ xưa nói rằng các dân tộc “sẽ biến gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái” (Is 2,4). Lời tiên tri này không được ứng nghiệm; trái lại, gươm và giáo đã biến thành tên lửa và bom đạn. Vậy cuộc hành trình hòa bình có thể bắt đầu từ đâu? Từ quyết định không có kẻ thù. Bất cứ ai can đảm nhìn vào các vì sao, bất cứ ai tin vào Thiên Chúa, thì không có kẻ thù để chiến đấu. Người đó chỉ có một kẻ thù duy nhất phải đối mặt, một kẻ thù đứng ở cánh cửa trái tim và gõ cửa để bước vào. Kẻ thù đó là lòng thù hận. Trong khi một số người cố gắng có kẻ thù hơn là kết bạn, trong khi nhiều người tìm kiếm lợi nhuận của riêng mình khi hy sinh người khác, những người nhìn vào các vì sao của lời hứa, những người theo đường lối của Thiên Chúa, không thể chống lại ai đó, nhưng  mọi người. Họ không thể biện minh cho bất kỳ hình thức áp đặt, áp bức và lạm dụng quyền lực nào; họ không thể áp dụng một thái độ hiếu chiến.
Quý vị thân mến, tất cả những điều này có thể không? Tổ phụ Abraham, người đã có thể hy vọng dù không còn gì để hy vọng (xem Rm 4,18), khuyến khích chúng ta. Trong suốt lịch sử, chúng ta thường xuyên theo đuổi những mục tiêu quá tầm thường và bước đi một mình, nhưng với sự giúp đỡ của Chúa, chúng ta có thể thay đổi để tốt hơn. Nó tùy thuộc vào chúng ta, nhân loại ngày nay, đặc biệt là chúng ta, những tín đồ của tất cả các tôn giáo, để biến vũ khí thù hận thành khí cụ hòa bình. Nó tùy thuộc việc chúng ta kiên quyết kêu gọi các nhà lãnh đạo của các quốc gia thay vì gia tăng phổ biến vũ khí, hãy nhường chỗ cho việc phân phối lương thực cho tất cả mọi người. Chúng ta có trách nhiệm làm cho những lời buộc tội lẫn nhau trở nên câm lặng để có thể lắng nghe tiếng kêu của những người bị áp bức và bị ruồng bỏ trong thế giới của chúng ta: quá nhiều người thiếu lương thực, thuốc men, giáo dục, các quyền và phẩm giá! Nó tùy thuộc việc chúng ta làm sáng tỏ những thủ đoạn mờ ám xoay quanh tiền và yêu cầu rằng tiền không luôn được sử dụng và chỉ củng cố sự xa hoa không thể kiềm chế của một thiểu số. Nó tùy thuộc vào chúng ta để gìn giữ ngôi nhà chung của chúng ta khỏi những mục tiêu săn mồi của chúng ta. Chúng ta phải nhắc nhở thế giới rằng, sự sống con người có giá trị vì những gì nó là chứ không phải vì những gì nó . Sự sống của những người chưa sinh ra, người già, người di cư và người nam và nữ, bất kể màu da hay quốc tịch của họ, luôn thánh thiêng và đáng giá như mạng sống của những người khác! Nó tùy thuộc chúng ta có đủ can đảm để ngước mắt lên và nhìn vào những vì sao, những ngôi sao mà tổ phụ Abraham của chúng ta đã thấy, những ngôi sao của lời hứa.
Cuộc hành trình của tổ phụ Abraham là một phúc lành của hòa bình. Tuy nhiên, điều đó không hề dễ dàng: ông đã  phải đối mặt với những cuộc đấu tranh và những biến cố không lường trước được. Chúng ta cũng có một hành trình khó khăn phía trước, nhưng giống như vị Tổ phụ vĩ đại, chúng ta cần thực hiện các bước cụ thể, lên đường và tìm kiếm khuôn mặt của tha nhân, chia sẻ những hồi ức, cái nhìn và khoảng lặng, những câu chuyện và trải nghiệm. Tôi bị ấn tượng bởi chứng từ của Dawood và Hasan, một Kitô hữu và một người Hồi giáo, những người không bị nản lòng về sự khác biệt giữa họ, đã học và làm việc cùng nhau. Họ cùng nhau xây dựng tương lai và nhận ra rằng họ là anh em. Để tiến về phía trước, chúng ta cũng cần đạt được điều gì đó tốt đẹp và cụ thể cùng nhau. Đây là con đường, đặc biệt là đối với những người trẻ tuổi, những người không được thấy ước mơ của mình bị cắt đứt bởi những mâu thuẫn trong quá khứ! Cần phải dạy họ tình huynh đệ, dạy họ nhìn lên các vì sao. Điều này thực sự khẩn thiết; nó sẽ là liều thuốc ngừa hữu hiệu nhất vì một tương lai hòa bình. Vì các bạn, các bạn trẻ thân mến, là hiện tại và tương lai của chúng ta!
Vết thương của quá khứ chỉ có thể được chữa lành với những người khác. Rafah kể cho chúng ta nghe về tấm gương anh hùng của anh Najy, thuộc cộng đồng Sabean Mandean, anh đã chết khi nỗ lực cứu gia đình người hàng xóm Hồi giáo của mình. Có bao nhiêu người ở đây, giữa sự im lặng và thờ ơ của thế giới, đã dấn thân vào những cuộc hành trình của tình huynh đệ! Rafah cũng kể cho chúng ta nghe về những đau khổ khôn tả của cuộc chiến khiến nhiều người phải từ bỏ quê hương và đất nước để tìm kiếm tương lai cho con cái của họ. Cảm ơn chị, Rafah, đã chia sẻ với chúng tôi quyết tâm kiên định của chị ở lại đây, trên mảnh đất của cha ông chị. Cầu mong cho những người không thể làm được điều đó, và phải chạy trốn, hãy tìm thấy một sự chào đón tử tế, thích hợp dành cho những người dễ bị tổn thương và đau khổ.
Chính nhờ lòng hiếu khách, một nét đặc trưng của những vùng đất này, mà ông Abraham được Thiên Chúa đến thăm và ban cho món quà là một người con trai, khi dường như mọi hy vọng đã tắt (x. St 18,1-10). Thưa anh chị em thuộc các tôn giáo khác nhau, ở đây chúng ta thấy mình như ở nhà, và từ đây, chúng ta cùng nhau mong ước dấn thân hoàn thành ước mơ của Thiên Chúa; đó là gia đình nhân loại có thể trở nên hiếu khách và chào đón tất cả con cái của Người; đó là nhìn lên cùng một bầu trời, và sẽ bước đi trong hòa bình trên cùng một mặt đất.

Tông du Iraq: Gặp gỡ riêng với Đại Ayatollah Al-Sistani
Đức Thánh Cha bắt đầu ngày tông du thứ II lúc 6 giờ 50 sáng bằng việc ra sân bay Baghdad cách Toà Sứ Thần 28km, để bay đến Najaf, nơi ngài sẽ gặp Đại Ayatollah Sayyid Ali Al-Husayni Al-Sistani, lãnh đạo của Hồi giáo Shiite Iraq.

 

Thành phố Najaf có khoảng 1,3 triệu dân, nằm ở miền Trung Iraq, cách thủ đô Baghdad khoảng 160km về phía Nam, cách thành cổ Babylon 30km, và cách thành Ur, quê hương của tổ phụ Abraham, 400km về phía Bắc. Thành phố Najaf được thành lập năm 791 sau Công nguyên bởi quốc vương Hārūn al-Rashīd và được phát triển chủ yếu sau thế kỷ thứ 10. Thành phố này có trung tâm tôn giáo chính của Hồi giáo Shiite, là địa điểm hành hương của các tín đồ Hồi giáo Shiite từ khắp nơi trên thế giới, là nơi có lăng mộ của một trong những nhân vật được tôn kính nhất Hồi giáo, Ali ibn Abi Talib, còn được gọi là Imam ʿAlī, là người anh em họ và là con rể của tiên tri Muhammad, và cũng là người đầu tiên cải sang Hồi giáo. Lăng mộ của Imam đầu tiên của Shiite, nằm bên trong Đền thờ Hồi giáo Imam ʿAlī, được coi là một trong những nơi linh thiêng nhất của đạo Hồi.
Thông cáo chính thức
Đức Thánh Cha viếng thăm Đại Ayatollah Sayyid Al-Sistani vào đầu ngày thứ 2 của chuyến tông du. Thông cáo của phòng báo chí Toà Thánh cho biết, “cuộc gặp gỡ kéo dài khoảng 45 phút, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự cộng tác và tình thân hữu giữa các cộng đồng tôn giáo, để ngang qua việc vun đắp sự tôn trọng và đối thoại lẫn nhau, các cộng đồng tôn giáo có thể đóng góp vào lợi ích chung của Iraq, của khu vực, và của toàn thể nhân loại.”
Ông Matteo Bruni, giám đốc phòng báo chí Toà Thánh, cho biết thêm: “Cuộc gặp gỡ là cơ hội để Đức Thánh Cha cảm ơn Đại Ayatollah Al-Sistani vì, cùng với cộng đồng Shiite, trước tình trạng bạo lực và nhiều khó khăn trong những năm gần đây, ngài đã lên tiếng bênh vực những người yếu nhất và chịu bách hại nhất, bằng việc khẳng định sự thánh thiêng của sự sống con người và tầm quan trọng sự hiệp nhất của nhân dân Iraq.
Tiểu sử Đại Ayatollah Al-Sistani
Đại Ayatollah Al-Sistani, sinh ngày 4/8/1930 tại Mashhad, Iran, là lãnh đạo của cộng đồng Hồi giáo Shiite Iraq và là giám đốc của Hawza (chủng viện tôn giáo Shiite) của Najaf. Ông học Kinh Koran từ khi còn nhỏ. Năm 20 tuổi, ông rời Iran để tiếp tục đào tạo ở Iraq, trở thành đệ tử của Đại Ayatollah Abu al-Qasim al-Khoei ở Al-Najaf, và theo thời gian, ông được người Sunni và người Kurd tôn trọng. Việc giải thích của ông về mặc khải Hồi giáo cách ôn hoà, về việc không cho phép các nhà lãnh đạo tôn giáo hoạt động trực tiếp vào chính trị, khiến ông trở thành một người đối thoại được công nhận bởi nhiều trào lưu chính trị khác nhau. Năm 2004, ông ủng hộ bầu cử tự do ở Iraq, góp phần quan trọng vào việc hoạch định chính phủ dân chủ đầu tiên của đất nước. Năm 2014, ông kêu gọi người dân Iraq hiệp nhất để chống lại Nhà nước Hồi giáo tự xưng. Gần đây hơn, vào tháng 11/2019, khi người dân xuống đường bày tỏ sự bất bình trước chi phí sinh hoạt cao và bất ổn chính trị quốc gia, Al-Sistani kêu gọi những người biểu tình và cảnh sát giữ bình tĩnh và không sử dụng bạo lực. Sau đó, ông kêu gọi chính phủ từ chức và cải cách bầu cử. Yêu cầu của ông được chấp nhận: Thủ tướng Adel Abdul Mahdi từ chức ngay sau đó, trong khi vào tháng 12, Nghị viện thông qua cải cách bầu cử.
Nhận định và từ biệt
Theo ĐHY Fernando Filoni, từng là Sứ thần Toà Thánh tại Iraq và Yordan trong 5 năm, nhận định rằng Al-Sistani là một biểu tượng và là truyền thống trong thế giới Shiite, đặc biệt tại Iraq. Vì vậy cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh Cha và Đại Al Sistani chắc chắn mang lại điều tốt đẹp trong chính cuộc đối thoại.
Cuộc gặp gỡ riêng giữa Đức Thánh Cha và Đại Al-Sistani kết thúc lúc gần 10 giờ. Chào từ biệt Đại Ayatollah, Đức Thánh Cha đã lặp lại lời cầu nguyện của ngài xin Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa của tất cả, về một tương lai hòa bình và tình huynh đệ cho đất nước Iraq thân yêu, cho Trung Đông và cho toàn thế giới.
Kết thúc cuộc gặp gỡ, Đức Thánh Cha ra phi trường Najaf để bay tới Nassiriya, chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ liên tôn tại vùng bình nguyên Ur, quê hương của tổ phụ Abraham.


Tông du Iraq: Gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo lý viên

Sau khi gặp gỡ chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn tại Dinh Tổng thống, ĐTC di chuyển bằng xe đến Nhà thờ chính toà Công giáo Siri ‘Đức Mẹ Ơn Cứu Chuộc’ cách đó 8km để gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên.

Nhà thờ chính toà Đức Mẹ Ơn Cứu Chuộc, với ngai toà của thượng phụ Công giáo Siri, là một trong những nhà thờ lớn nhất của thành phố Baghdad. Đây là mục tiêu của hai cuộc tấn công khủng bố do nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) thực hiện. Một trong hai cuộc tấn công xảy ra vào ngày 31/10/2010 đã làm cho 48 người chết, trong đó có 2 linh mục và hơn 100 người bị thương.

Sau vụ tấn công, nhà thờ đã được tu sửa và một đài tưởng niệm được dựng lên để tưởng nhớ các nạn nhân. Hai linh mục bị giết được chôn trong hầm mộ của nhà thờ. Trước chiến tranh Iraq, khoảng 5.000 gia đình thường xuyên thăm viếng Nhà thờ Đức Mẹ Ơn Cứu Chuộc. Nhưng từ năm 2018, cả ba nhà thờ Công giáo Siri của Baghdad không được 1.000 gia đình thăm viếng.

Đức Thánh Cha đến nhà thờ và được Đức Thượng Phụ Ignace Youssif III Younan, Giáo Chủ Công Giáo Siri và Đức TGM Ephrem Yousif Abba đón tiếp. Tại tiền sảnh nhà thờ, ĐTC được đeo một vòng hoa, sau đó ngài chào và chúc lành cho 12 người khuyết tật và những người trợ giúp.

Đức Thánh Cha vào nhà thờ, tiến lên cung thánh, giữa tiếng nhạc, để gặp gỡ các các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên.

Trước hết, Đức Thượng phụ Công giáo Siri và ĐHY chủ tịch HĐGM Iraq đã có lời chào Đức Thánh Cha. Đức Thượng phụ Younan đã cảm ơn Đức Thánh Cha đã đến thăm Iraq như một người cha, một sứ giả của bình an và tình huynh đệ. Đức Thượng phụ Louis Raffaele Sako, chủ tịch hội đồng giáo giám mục Công giáo Iraq, cảm ơn Đức Thánh Cha về chuyến viếng thăm đầy can đảm này để củng cố đức tin cho các Kitô hữu và liên đới với họ trong việc cùng chung sống với các tín đồ Hồi giáo như anh chị em. Đức Hồng Y cũng nói đến việc các Kitô hữu tại Iraq là thiểu số nhưng sống động và chủ động góp phần xây dựng và phát triển đất nước Iraq.

Trong diễn văn đáp lời, Đức Thánh Cha cảm ơn Chúa Quan Phòng đã cho “chúng ta quy tụ nhau nơi đây tại thánh đường Đức Mẹ Ơn Cứu Chuộc, ngôi thánh đường được chúc phúc bởi máu mà các anh chị em chúng ta đã phải trả cái giá tột cùng cho lòng trung tín của họ vào Thiên Chúa và Giáo Hội. Ước gì việc tưởng nhớ đến sự hy sinh của họ thúc đẩy chúng ta làm mới lại niềm tin của chúng ta vào sức mạnh của Thập giá và thông điệp cứu độ của sự tha thứ, hoà giải và tái sinh.”

Toàn văn bài diễn văn của Đức Thánh Cha: https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2021-03/dien-van-dtc-giam-muc-linh-muc-tu-si-chung-sinh-giao-ly-vien.html

Văn Yên, SJ

Tông du Iraq: Diễn văn (2) trước các giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh và giáo lý viên
Sau khi gặp gỡ chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn tại Dinh Tổng thống, ĐTC di chuyển bằng xe đến Nhà thờ chính toà Công giáo Siri ‘Đức Mẹ Ơn Cứu Chuộc’ cách đó 8km để gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên.

Diễn văn của ĐTC Phanxicô
trong buổi tiếp kiến với các Giám Mục, Linh Mục,
Tu Sĩ, Chủng Sinh và Giáo Lý Viên

Baghdad, 5/3/2021

Quý Hồng Y, Thượng Phụ Giáo Chủ, Giám Mục quý mến,
Các Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ và anh chị em thân mến!

Tôi nồng nhiệt ôm chào tất cả trong tình huynh đệ. Tôi tạ ơn Chúa đã quan phòng để chúng ta có thể gặp nhau hôm nay. Tôi xin cảm ơn Thượng Phụ Giáo Chủ Ignace Youssif Younan và Hồng Y Louis Sako qua diễn văn chào mừng. Chúng ta quy tụ nhau nơi đây tại thánh đường Đức Mẹ Ơn Cứu Chuộc, ngôi thánh đường được chúc phúc bởi máu mà các anh chị em chúng ta đã phải trả cái giá tột cùng cho lòng trung tín của họ vào Thiên Chúa và Giáo Hội. Ước gì việc tưởng nhớ đến sự hy sinh của họ thúc đẩy chúng ta làm mới lại niềm tin của chúng ta vào sức mạnh của Thập giá và thông điệp cứu độ của sự tha thứ, hoà giải và tái sinh. Thực vậy, người Ki-tô hữu ở mọi nơi và mọi thời đều được mời gọi làm chứng cho tình yêu của Đức Ki-tô. Đây là Tin Mừng để loan báo và để hiện thực hoá trên đất nước thân yêu này.

Như các Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ, Giáo lý viên và giáo dân có trách nhiệm, tất cả cùng chia sẻ vui, buồn, hy vọng và sầu khổ của người tin vào Đức Ki-tô. Nhu cầu của dân Chúa và những thách đố mục vụ mà anh chị em đang đương đầu mỗi ngày, nay lại trầm trọng thêm bởi dịch bệnh. Tuy vậy, nhiệt thành tông đồ của chúng ta không bao giờ bị ngăn trở hay suy giảm, lòng nhiệt thành mà anh chị em kín múc được từ cội rễ của sự hiện diện không ngừng nghỉ của Giáo Hội trên vùng đất này từ thuở ban đầu (trích ĐTC Biển Đức XVI, Tông huấn hậu Thượng hội đồng, Ecclesia in Medio Oriente (Giáo Hội vùng Trung Đông), 5). Tất cả chúng ta đều biết rằng thật dễ bị nhiễm virus nhát đảm mà đôi khi lan truyền trong chúng ta. Do vậy, Thiên Chúa đã trao tặng chúng ta vắc-xin hiệu quả chống lại loại virus này, đó là niềm hy vọng. Niềm hy vọng khởi đi từ lời cầu nguyện liên lỉ và từ sự trung tín hàng ngày trong sứ mạng tông đồ của chúng ta. Với vắc-xin này, chúng ta có thể tiến tới với nguồn năng lượng luôn mới để chia sẻ niềm vui Tin Mừng như các nhà thừa sai và là dấu chỉ sống động của sự hiện hữu Nước Trời, Vương quốc của sự thánh thiện, công lý và hoà bình.

Thế giới xung quanh chúng ta đang cần lắng nghe thông điệp này biết chừng nào! Chúng ta không bao giờ quên rằng Đức Ki-tô được loan báo ngang qua chứng từ là đời sống được biến đổi nhờ niềm vui Tin Mừng. Như chúng ta thấy trong lịch sử Giáo Hội nơi vùng đất này, niềm tin sống động vào Đức Giê-su đã được “lây lan” và có thể biến đổi thế giới. Gương chứng nhân của các thánh chỉ ra rằng theo Chúa “không chỉ là điều đúng đắn và chính đáng, mà còn tuyệt đẹp, có khả năng đong đầy đời sống với niềm hứng khởi và niềm vui sâu xa, ngay cả trong những thử thách” (trích Tông huấn Evangelii gaudium (Niềm vui Tin Mừng), 167).

Những thử thách là một phần trong kinh nghiệm thường ngày của tín hữu Iraq. Trong thập kỷ này, anh chị em và đồng hương của anh chị em đã phải đương đầu với hậu quả chiến tranh và bách hại, sự bấp bênh của cơ sở hạ tầng và cuộc chiến an sinh kéo dài khiến nhiều người phải di cư đến các nơi khác trên thế giới, trong số đó bao gồm cả các Ki-tô hữu. Tôi tri ân anh em, quý Giám mục và Linh mục, đã luôn ở gần đàn chiên, nâng đỡ họ và nỗ lực đáp ứng các nhu cầu của dân chúng và giúp đỡ họ đóng góp phần mình vào công ích. Sứ mạng giáo dục và từ thiện nơi Giáo hội của anh em thể hiện một nguồn lực quý báu cho cả đời sống cộng đoàn lẫn toàn thể xã hội. Tôi khuyến khích anh em kiên định trong nỗ lực này hầu đảm bảo rằng cộng đoàn tín hữu Iraq, dù rằng nhỏ như hạt cải (x. Mt 13, 31-32), tiếp tục làm phong phú cho đất nước trên đường phát triển.

Tình yêu của Đức Ki-tô đòi buộc chúng ta gạt sang một bên tất cả những biểu hiện của chủ nghĩa ích kỷ và sư ganh đua, nhưng thúc đẩy chúng ta đến sự hiệp nhất phổ quát và mời gọi chúng ta xây dựng cộng đoàn huynh đệ nơi tiếp nhận và chăm sóc lẫn nhau (x. Thông điệp Fratelli tutti (Tất cả là anh em), 95-96). Tôi nghĩ đến hình ảnh quen thuộc của tấm thảm. Các Giáo hội khác nhau hiện diện ở Iraq, mỗi giáo hội với kho tàng của mình về lịch sử, phụng vụ và linh đạo, như những sợi chỉ màu, một khi được đan xen với nhau, tạo nên một tấm thảm tuyệt đẹp, không chỉ là biểu hiện của tình huynh đệ, mà còn hướng đến nguồn cội của mình. Bởi chính Thiên Chúa là người nghệ sĩ đã nghĩ ra tấm thảm này, Ngài thêu dệt với lòng kiên nhẫn, hàn gắn với sự tận tâm, và mong muốn rằng chúng ta liên kết mật thiết với nhau như con cái của Ngài. Ước gì chúng ta luôn tâm niệm lời của thánh Inhaxiô thành Antiochia: “Không có gì nơi anh chị em có thể chi rẽ anh chị em, […] mà chỉ có duy nhất một lời cầu nguyện, một thần khí, một niềm hy vọng trong tình yêu và trong niềm hoan lạc” (Ad Magnesios (Thư gửi tín hữu Magnesia), 6-7). Chứng từ này quan trọng dường nào cho sự hiệp nhất huynh đệ trong thế giới thường bị phân mảnh và xâu xé bởi chia rẽ! Mọi nỗ lực xây dựng nhịp cầu giữa cộng đoàn và tổ chức tôn giáo, giữa giáo xứ và giáo phận đều là dấu chỉ ngôn sứ của Giáo hội Iraq và là câu trả lời được chúc phúc nhờ lời cầu nguyện của Chúa Giê-su hầu cho tất cả nên một (x. Ga 17, 21; Ecclesia in Medio Oriente, 37).

Mục tử và giáo dân, linh mục, tu sĩ và giáo lý viên chia sẻ với nhau, dù với cách thức khác nhau, trách nhiệm chu toàn sứ mạng của Giáo hội. Đôi khi xảy ra những bất đồng và thậm chí căng thẳng, đó là những nút thắt làm cản trở tiến trình thêu dệt tình huynh đệ. Là những nút thắt bên trong chúng ta, bởi tất cả chúng ta đều là tội nhân. Tuy vậy, những nút thắt đó có thể được tháo cởi nhờ Ân sủng, nhờ một tình yêu lớn hơn cả; có thể được nới lỏng nhờ sự tha thứ và đối thoại huynh đệ, biết chịu đựng lẫn nhau với lòng kiên nhẫn (x. Gal 6, 2) và nâng đỡ nhau trong buổi cơ hàn.

Lúc này đây, tôi muốn ngỏ một lời đặc biệt với chư huynh Giám mục của tôi. Tôi thích suy tư về sứ mạng giám mục của chúng ta với ngôn từ bình dân: đó là chúng ta cần ở với Chúa trong cầu nguyện, hiện diện với các tín hữu được trao cho chúng ta săn sóc và hiện diện với các Linh mục. Anh em hãy quan tâm đặc biệt đến các Linh mục. Ước gì họ không nhìn anh em như những vị quản lý, mà như người cha, người luôn lo liệu để các con được an mạnh, sẵn sàng nâng đỡ và khích lệ họ với con tim rộng mở. Anh em hãy đồng hành với họ bằng lời cầu nguyện của anh em, với thời gian và sự kiên nhẫn của anh em, trân trọng nỗ lực của họ và hướng dẫn họ thăng tiến. Bằng cách này, đối với các Linh mục, anh em trở thành dấu chỉ hữu hình của Chúa Giê-su, vị Mục Tử Nhân Lành biết chiên của mình và hy sinh tính mạng mình vì đàn chiên (x. Ga 10, 14-15).

Quý linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo lý viên và chủng sinh thân mến, anh chị em đang chuẩn bị bản thân cho sứ vụ tương lai. Tất cả anh chị em đã nghe tiếng gọi của Chúa nơi con tim mình và như cậu Samuen, anh chị em đã thưa: “Dạ, con đây” (1 Sam 3, 4). Lời đáp trả này, mà anh chị em được mời gọi làm mới mỗi ngày, hướng dẫn mỗi người đến việc chia sẻ Tin Mừng với lòng nhiệt thành và can đảm, sống và bước đi dưới anh sáng Lời Chúa, đó là quà tặng và chúng ta có nhiệm vụ phải loan báo. Chúng ta hiểu rằng sứ mạng của chúng ta mang cả chiều kích quản trị, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta dành hết thời gian để hội họp và ngồi ở bàn giấy. Điều quan trọng là ra khỏi nhà và đến giữa đàn chiên, hiện diện và đồng hành với họ, nơi thành thị cũng như thôn quê. Tôi nghĩ đến những người có nguy cơ bị bỏ lại đàng sau, những bạn trẻ, người già, đau yếu và nghèo khổ. Khi chúng ta phục vụ tha nhân với lòng quảng đại, như anh chị em đang làm, với tinh thần thương cảm, khiêm tốn, tốt bụng, bác ái, đó là chúng ta đang thực sự phục vụ Đức Giê-su, như  chính Người đã nói (x. Mt 25, 40). Khi phục vụ Đức Giê-su nơi tha nhân, chúng ta khám phá ra niềm vui đích thực. Anh chị em đừng rời xa khỏi dân thánh Chúa, chính nơi đó anh chị em được sinh ra. Anh chị em đừng quên những người mẹ và bà của mình, những người đã cho anh chị em “bú mớm” trong đức tin, như thánh Phao-lô diễn tả (x. 2 Tm 1, 5). Anh em là mục tử, là người phục vụ dân Chúa chứ không phải quan chức chính phủ, giáo sĩ quốc doanh. Anh em hãy luôn ở giữa dân Chúa, đừng bao giờ tách mình ra như thể một tầng lớp ưu tiên. Anh em đừng từ chối “dòng dõi” quý tộc này, đó là dân thánh của Thiên Chúa.

Giờ đây, tôi muốn tưởng nhớ đến anh chị em của chúng ta đã thiệt mạng nơi thánh đường này trong vụ khủng bố cách đây 10 năm, những anh chị em mà án phong chân phước cho họ đang được tiến hành. Cái chết của họ nhắc nhớ chúng ta rằng sự dấn thân vào chiến tranh, thái độ thù ghét, bạo lục và đổ máu không bao giờ tương hợp với giáo huấn tôn giáo (x. Fratelli tutti, 285). Tôi tưởng nhớ đến tất cả các nạn nhân của bạo lực và bách hại thuộc bất cứ cộng đoàn tín ngưỡng nào. Ngày mai, tại Ur, tôi sẽ gặp gỡ các vị Thủ lãnh các truyền thống tôn giáo hiện diện trên đất nước này để khẳng định một lần nữa niềm xác tín của chúng ta rằng tôn giáo phải phục vụ hoà bình và hoà hợp giữa các con cái của Chúa. Hôm nay, tôi tri ân anh chị em bởi những nỗ lực kiến tạo hoà bình, trong cộng đoàn của mình và với các tín hữu thuộc các tôn giáo khác. Anh chị em đang gieo rắc hạt giống hoà giải và chung sống huynh đệ hầu hướng đến một hy vọng mới cho tất cả mọi người.

Tôi quan tâm cách đặc biệt đến người trẻ. Ở khắp nơi, họ là những chứng nhân của kỳ vọng và hy vọng, nhất là cho đất nước này. Thực vậy, nơi đây không chỉ có kho tàng khảo cổ vô giá, mà còn là một tương lai trù phú vô biên, đó là người trẻ! Họ là kho tàng và cần được chăm sóc, củng cố những giấc mơ, đồng hành với họ trên bước đường đời và gia tăng nơi họ niềm hy vọng. Trong thực tế, dù họ còn trẻ, nhưng đã bị thử thách lòng kiên nhẫn bởi xung đột trong những năm qua. Chúng ta hãy nhớ rằng, họ, cùng với người già, là đỉnh chóp kim cương của đất nước, là hoa thơm trái ngọt mà chúng ta có nhiệm vụ canh tác cẩn thận và chăm tưới với niềm hy vọng.

Anh chị em thân mến, ngang qua Bí tích rửa tội và Thêm sức, ngang qua Bí tích truyền chức hay tuyên khấn, anh chị em được thánh hiến cho Thiên Chúa và được sai đi làm môn đệ trên đất nước này, nơi có liên hệ mật thiết với lịch sử ơn cứu độ. Anh chị em là một phần của lịch sử ấy, là chứng nhân trung thành cho lời hứa của Thiên Chúa, lời hứa không bao giờ vơi đi, và đang nỗ lực xây dựng tương lai mới. Chứng từ của anh chị em, trưởng thành trong nghịch cảnh và được củng cố nhờ màu của các vị tử đạo, trở thành ánh sáng soi chiếu đất nước Iraq và vùng lân cận, hầu loan báo sự vĩ đại của Thiên Chúa và khơi lên niềm vui cho dân tộc trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta (x. Lc 1, 46-47).

Một lần nữa, tôi tri ân Chúa đã cho chúng ta cơ hội gặp nhau. Xin Mẹ ơn Cứu Chuộc và Thánh Tông đồ Tô-ma chuyển cầu và bảo vệ anh chị em luôn mãi. Tôi chúc lành cho từng người và cộng đoàn của anh chị em. Và xin anh chị em cầu nguyện cho tôi. Xin cảm ơn anh chị em!


ĐTC gặp gỡ chính quyền, đại diện xã hội dân sự và ngoại giao đoàn
dTrong buổi gặp gỡ chính quyền, đại diện xã hội dân sự và ngoại giao đoàn của Iraq, đi từ thực trạng của Iraq, Đức Thánh Cha khẳng định: Tòa Thánh không bao giờ mệt mỏi kêu gọi các nhà cầm quyền nhìn nhận, tôn trọng các quyền và bảo vệ các cộng đoàn tôn giáo; Giáo hội Công giáo Iraq mong muốn được làm bạn với tất cả mọi người, và qua đối thoại, cộng tác xây dựng với các tôn giáo khác, vì mục tiêu hòa bình.

Sau cuộc hội kiến riêng với tổng thống Barham Salih và gia đình, lúc gần bốn giờ chiều, Đức Thánh Cha tiến sang phòng khánh tiết để gặp gỡ khoảng 150 nhân vật, gồm các vị lãnh đạo chính trị và tôn giáo, ngoại giao đoàn, đại diện các tầng lớp xã hội và văn hóa của Iraq.

Tổng thống Iraq chào mừng ĐTC

Trước hết, tổng thống Iraq thay mặt những người hiện diện có bài chào mừng Đức Thánh Cha. Ông Salih nói: “Thưa Đức Thánh Cha, chúng tôi rất vui vì sự hiện diện của ngài ở đây với chúng tôi, tại Iraq, đất nước Lưỡng Hà, vùng đất của các ngôn sứ và các tôn giáo của trời cao. Chào mừng Đức Thánh Cha đã đến với Baghad, quê hương của hòa bình”.

Tiếp đến, tổng thống nói đến vai trò quan trọng của Đức Thánh Cha trong việc kêu gọi hòa bình, công bằng xã hội và giải quyết nghèo đói, cũng như những nỗ lực ủa Đức Thánh Cha trong việc khẳng định đối thoại, sự chung sống và tình huynh đệ nhân loại là điều thiết yếu. Theo tống thống, điều này tạo thành một thông điệp đầy cảm hứng cho mọi người, để sống có trách nhiệm đối với đời sống nhân loại.

Trong bài diễn văn chào mừng, ông Salih cũng nói đến tâm tình của người dân Iraq. Theo ông, dân tộc Iraq tự hào vì sự hiện diện của Đức Thánh Cha tại đất nước này. Mặc dù những khó khăn do đại dịch, an ninh Đức Thánh Cha vẫn nhất quyết thực hiện chuyến viếng thăm. Điều này làm tăng giá trị của chuyến tông du lên gấp đôi.

Trong diễn văn đáp từ bài chào mừng của tổng thống, đầu tiên Đức Thánh Cha bày tỏ lòng biết ơn vì chuyến tông du đến Iraq, một cuộc viếng thăm đã được mong đợi từ lâu. Ngài cám ơn tổng thống Iraq, ông Salih, các thành viên của ngoại giao đoàn và các đại diện xã hội dân sự.

Tiếp đến, Đức Thánh Cha gửi lời chào thân ái đến các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và tất cả các tín hữu của Giáo hội Công giáo. Ngài nói: “Tôi đến đây như một người hành hương để khích lệ chứng tá đức tin, niềm hy vọng và bác ái của các tín hữu giữa lòng xã hội Iraq”. Ngài cũng không quên chào thăm các thành viên các Giáo hội Kitô khác, các tín đồ Hồi giáo và đại diện các truyền thống tôn giáo khác.

Hoàn cảnh chuyến viếng thăm

Đức Thánh Cha nói về hoàn cảnh của chuyến tông du: “Cuộc viếng thăm của tôi diễn ra vào thời điểm cả thế giới đang cố gắng thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng đại dịch Covid-19, gây ảnh hưởng không chỉ đến sức khỏe của nhiều người, mà còn cả đến kinh tế và xã hội. Cuộc khủng hoảng này đòi hỏi những nỗ lực chung của mỗi người để thực hiện nhiều bước cần thiết, trong đó có cả việc phân phối vắc xin công bằng cho mọi người. Hơn thế nữa, cuộc khủng hoảng này là một lời kêu gọi chúng ta ‘suy nghĩ lại lối sống và ý nghĩa sự hiện hữu của chúng ta’. Nghĩa là việc thoát ra khỏi giai đoạn thử thách này phải làm cho chúng ta trở nên tốt hơn trước đây, để cùng xây dựng tương lai dựa trên những gì đem lại sự hiệp nhất hơn là những gì gây chia rẽ giữa chúng ta”.

Từ hoàn cảnh chung của thế giới Đức Thánh Cha đề cập đến hoàn cảnh cụ thể của Iraq. Ngài nhận xét rằng, trong những thập kỷ qua, Iraq đã phải hứng chịu những thảm họa của chiến tranh, khủng bố và xung đột bè phái, thường dựa trên khuynh hướng cực đoan, không chấp nhận sự chung sống hòa bình của các nhóm dân tộc và tôn giáo, các ý tưởng và văn hóa khác. Tất cả những điều này đã mang đến sự hủy diệt, nhiều cái chết, những đống đố nát. Và không chỉ thiệt hại vật chất, thảm họa còn gây những vết thương sâu sắc trong tâm hồn mỗi người, cần thời gian dài để được chữa lành.

Theo Đức Thánh Cha, phải xem sự đa dạng về tôn giáo, văn hóa và sắc tộc, vốn là điểm đặc trưng của xã hội Iraq trong nhiều thiên niên kỷ, là nguồn lực quý giá cần được kín múc, chứ không phải là một trở ngại cần phải loại bỏ. Iraq được kêu gọi cho mọi người, đặc biệt Trung Đông thấy rằng sự khác biệt, thay vì làm phát sinh xung đột, phải được hợp tác hài hòa trong đời sống dân sự.

Vai trò của Tòa Thánh tại Iraq

Từ những thực trạng này, Đức Thánh Cha nói đến vai trò của Tòa Thánh đối với Iraq. Ngài nói: “Chung sống huynh đệ cần phải đối thoại kiên nhẫn và chân thành, được công lý và pháp luật bảo vệ. Nhiệm vụ này không dễ dàng: nó đòi hỏi nỗ lực và dấn thân của các bên để vượt qua sự cạnh tranh và xung đột, đồng thời khi nói chuyện với nhau, phải khởi đi từ căn tính sâu sắc của chúng ta, là những người con của một Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa. Trên nền tảng nguyên tắc này, Tòa Thánh ở Iraq, cũng như ở các nơi khác, không bao giờ mệt mỏi kêu gọi các nhà cầm quyền nhìn nhận, tôn trọng các quyền và bảo vệ các cộng đoàn tôn giáo. Tôi đánh giá cao những nỗ lực đã được thực hiện theo hướng này và tôi muốn hiệp chung tiếng nói của tôi với mọi người nam nữ thiện chí để tiếp tục làm việc vì lợi ích của đất nước”.

Đức Thánh Cha nói tiếp: “Một xã hội mang dấu ấn của sự hiệp nhất huynh đệ là một xã hội, trong đó các thành viên sống tình liên đới với nhau. Tình liên đới giúp chúng ta xem người khác là người thân cận, bạn đồng hành. Đó là một nhân đức giúp chúng ta thực hiện những cử chỉ chăm sóc và phục vụ cụ thể, đặc biệt đối với những người dễ bị tổn thương và thiếu thốn nhất. Tôi nghĩ đến những người, do bạo lực, bách hại và khủng bố, đã mất gia đình và những người thân yêu, nhà cửa và tài sản. Nhưng tôi cũng nghĩ đến tất cả những ai, trong khi thất nghiệp và nghèo đói gia tăng vẫn đang đấu tranh hàng ngày, tìm an ninh và phương tiện để tiến lên phía trước. Biết mình phải chịu trách nhiệm về những yếu đuối của người khác phải truyền cảm hứng cho chúng ta, nỗ lực tạo ra những cơ hội cụ thể cả trên bình diện kinh tế và trong lĩnh vực giáo dục, cũng như chăm sóc thụ tạo, ngôi nhà chung của chúng ta. Sau khủng hoảng, tái xây dựng vẫn chưa đủ, chúng ta phải làm sao để mọi người có cuộc sống xứng nhân phẩm. Người ta không thoát ra từ một cuộc khủng hoảng giống như trước: chỉ có thể tốt hơn hoặc tồi tệ hơn”.

Kêu gọi các nhà lãnh đạo thúc đẩy tinh thần liên đới huynh đệ

Từ điểm nay, Đức Thánh Cha kêu gọi các nhà lãnh đạo chính trị và ngoại giao, thúc đẩy tinh thần liên đới huynh đệ này. Theo Đức Thánh Cha, cần phải giải quyết dứt điểm tệ nạn tham nhũng, lạm quyền và bất hợp pháp, nhưng vẫn chưa đủ. Đồng thời, cần xây dựng công lý, tăng cường tính trung thực, minh bạch và củng cố các thể chế chịu trách nhiệm về việc này. Bằng cách này, sự ổn định có thể phát triển và một chính sách lành mạnh có thể phát triển, có khả năng mang đến cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người trẻ - rất nhiều ở đất nước này - hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn.

Như một người hành hương

Đức Thánh Cha bày tỏ tâm tình của ngài khi đến Iraq: “Tôi đến đây như một hối nhân cầu xin sự tha thứ từ Trời cao và từ các anh chị em, những người đã phải chịu đựng rất nhiều sự hủy hoại và tàn ác. Nhân danh Chúa Kitô, Hoàng tử Hòa bình, tôi đến đây như một người hành hương của hòa bình”.

Về điểm này, Đức Thánh Cha kêu gọi những người có trách nhiệm hãy ngưng sử dụng vũ khí, chấm dứt hành động vì lợi ích của thiểu số, của thành phần bên ngoài đất nước, những người không quan tâm đến người dân địa phương. Ngài nhấn mạnh: “Chúng ta hãy lên tiếng cho những người xây dựng hòa bình, cho những người bé nhỏ, người nghèo, những người muốn sống, làm việc và cầu nguyện trong bình an. Bạo lực, bè phái, bất khoang dung đã đủ! Hãy dành không gian cho tất cả công dân, những người muốn cùng nhau xây dựng đất nước này. Trong những năm gần đây, Iraq đã cố gắng đặt nền móng cho một xã hội dân chủ. Theo nghĩa này, điều cần thiết là đảm bảo sự tham gia của tất cả các nhóm chính trị, xã hội và tôn giáo và đảm bảo các quyền cơ bản của người dân”.

Vai trò của cộng đồng quốc tế

Hướng đến cộng đồng quốc tế, Đức Thánh Cha cho rằng, hòa bình ở vùng đất này và toàn Trung Đông cần phải có sự tham gia của cộng đồng quốc tế. Ngài cám ơn các quốc gia và các tổ chức quốc tế đang hoạt động ở Iraq để tái thiết và hỗ trợ những người tị nạn, những người phải di cư nội địa và những người đang gặp khó khăn khi trở về nhà. Về điểm này, Đức Thánh Cha đặc biệt quan tâm đến các tổ chức có nhiều người Công giáo là thành viên. Theo ngài, trong nhiều năm, các tín hữu Công giáo đã tận tâm hỗ trợ các cộng đoàn dân sự. Việc đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của rất nhiều anh chị em là một hành động bác ái và công bằng, và góp phần vào hòa bình lâu dài.

Vai trò của Giáo hội Công giáo tại Iraq

Vấn đề cuối cùng được Đức Thánh Cha nói đến đó là vai trò của Giáo hội Công giáo tại quốc gia Iraq. Ngài nói: “Giáo hội Công giáo Iraq mong muốn được làm bạn với tất cả mọi người, và qua đối thoại, cộng tác xây dựng với các tôn giáo khác, vì mục tiêu hòa bình. Sự hiện diện lâu đời của các Kitô hữu ở vùng đất này và đóng góp của họ cho đời sống quốc gia tạo thành một di sản phong phú. Các Kitô hữu muốn có thể tiếp tục phục vụ tất cả mọi người. Khi các Kitô hữu tham gia vào đời sống công cộng, và có được mọi quyền, tự do và trách nhiệm như các công dân khác, sẽ chứng tỏ rằng sự đa nguyên tôn giáo, dân tộc và văn hóa có thể đóng góp vào sự thịnh vượng và hài hòa của quốc gia”.

Sau cuộc gặp gỡ chính quyền, vào lúc gần 5 giờ chiều, Đức Thánh Cha đến Nhà thờ chính toà Công giáo Siri ‘Đức Mẹ Ơn Cứu Chuộc’ ở Baghdad, để gặp gỡ khoảng 100 người, gồm các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh và giáo lý viên.

Ngọc Yến

Tông du Iraq: Diễn văn (1) trước chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn
Sau cuộc hội kiến riêng với tổng thống Barham Salih và gia đình, lúc gần bốn giờ chiều, Đức Thánh Cha tiến sang phòng khánh tiết để gặp gỡ khoảng 150 nhân vật, gồm các vị lãnh đạo chính trị và tôn giáo, ngoại giao đoàn, đại diện các tầng lớp xã hội và văn hóa của Iraq.

ĐTC gặp gỡ chính quyền, đại diện xã hội dân sự và ngoại giao đoàn
Tại Baghdad, Phủ Tổng thống

Thứ sáu 05/3/2021

Thưa Tổng thống,
Các thành viên Chính phủ và Ngoại giao đoàn,
các nhà chức trách,
Các đại diện xã hội dân sự,
Quý bà và quý ông!

Tôi biết ơn vì có dịp thực hiện chuyến tông du đến Iraq, một cuộc viếng thăm đã được mong đợi từ lâu. Vùng đất này là chiếc nôi của nền văn minh liên kết chặt chẽ, qua Tổ phụ Abraham và nhiều vị ngôn sứ, với lịch sử ơn cứu độ và các truyền thống tôn giáo lớn của Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo. Tôi bày tỏ lòng biết ơn đến tổng thống Salih về lời mời và chào mừng của ngài và thay mặt các thành viên của chính phủ và dân tộc yêu quý của ngài dành cho tôi. Tôi cũng chào các thành viên của ngoại giao đoàn và các đại diện xã hội dân sự.

Tôi gửi lời chào thân ái đến các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và tất cả các tín hữu của Giáo hội Công giáo. Tôi đến đây như một người hành hương để khích lệ chứng tá đức tin, niềm hy vọng và bác ái của các tín hữu giữa lòng xã hội Iraq. Tôi cũng chào thăm các thành viên các Giáo hội Kitô khác, các tín đồ Hồi giáo và đại diện các truyền thống tôn giáo khác. Xin Chúa cho phép chúng ta cùng nhau bước đi, như những anh chị em, trong “niềm tin mạnh mẽ rằng những lời dạy thực sự của các tôn giáo mời gọi chúng ta tiếp tục gắn với các giá trị của hòa bình, […] của sự hiểu biết lẫn nhau, tình huynh đệ nhân loại và sự chung sống”. (Tài liệu về tình huynh đệ nhân loại, Abu Dhabi, 4/02/2019)

Cuộc viếng thăm của tôi diễn ra vào thời điểm cả thế giới đang cố gắng thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng đại dịch Covid-19, gây ảnh hưởng không chỉ đến sức khỏe của nhiều người, mà còn cả đến kinh tế và xã hội. Cuộc khủng hoảng này đòi hỏi những nỗ lực chung của mỗi người để thực hiện nhiều bước cần thiết, trong đó có cả việc phân phối vắc xin công bằng cho mọi người. Hơn thế nữa, cuộc khủng hoảng này là một lời kêu gọi chúng ta ‘suy nghĩ lại lối sống và ý nghĩa sự hiện hữu của chúng ta’( Fratelli tutti, 33). Nghĩa là việc thoát ra khỏi giai đoạn thử thách này phải làm cho chúng ta trở nên tốt hơn trước đây, để cùng xây dựng tương lai dựa trên những gì đem lại sự hiệp nhất hơn là những gì gây chia rẽ giữa chúng ta.

Trong những thập kỷ qua, Iraq đã phải hứng chịu những thảm họa của chiến tranh, khủng bố và xung đột bè phái, thường dựa trên khuynh hướng cực đoan, không chấp nhận sự chung sống hòa bình của các nhóm dân tộc và tôn giáo, các  ý tưởng và văn hóa khác. Tất cả những điều này đã mang đến sự hủy diệt, nhiều cái chết, những đống đố nát. Và không chỉ thiệt hại vật chất, thảm họa còn gây những vết thương sâu sắc trong tâm hồn mỗi người, cần thời gian dài để được chữa lành. Và ở đây, trong số những người đã chịu đau khổ, tôi không thể không nhắc đến người Yazidi, những nạn nhân vô tội của sự vô nhân đạo, bị bách hại và giết chết vì lý do tôn giáo. Căn tính và sự sống còn của họ đang bị đe dọa. Vì lẽ đó, chỉ khi chúng ta có thể nhìn vào nhau, với sự khác biệt của chúng ta, như những thành viên của một gia đình nhân loại, chúng ta mới có thể bắt đầu một quá trình tái thiết hiệu quả và để lại cho thế hệ tương lai một thế giới tốt đẹp, công bằng và nhân văn hơn. Về mặt này, sự đa dạng về tôn giáo, văn hóa và sắc tộc, vốn là điểm đặc trưng của xã hội Iraq trong nhiều thiên niên kỷ, là nguồn lực quý giá cần được kín múc, chứ không phải là một trở ngại cần phải loại bỏ. Iraq được kêu gọi chỉ cho mọi người, đặc biệt Trung Đông thấy rằng sự khác biệt, thay vì làm phát sinh xung đột, phải được hợp tác hài hòa trong đời sống dân sự.

Chung sống huynh đệ cần phải đối thoại kiên nhẫn và chân thành, được công lý và pháp luật bảo vệ. Nhiệm vụ này không dễ dàng: nó đòi hỏi nỗ lực và dấn thân của các bên để vượt qua sự cạnh tranh và xung đột, đồng thời khi nói chuyện với nhau, phải khởi đi từ căn tính sâu sắc của chúng ta, là những người con của một Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa. Trên nền tảng nguyên tắc này, Tòa Thánh ở Iraq, cũng như ở các nơi khác, không bao giờ mệt mỏi kêu gọi các nhà cầm quyền nhìn nhận, tôn trọng các quyền và bảo vệ các cộng đoàn tôn giáo. Tôi đánh giá cao những nỗ lực đã được thực hiện theo hướng này và tôi muốn hiệp chung tiếng nói của tôi với mọi người nam nữ thiện chí để tiếp tục làm việc vì lợi ích của đất nước.

Một xã hội mang dấu ấn của sự hiệp nhất huynh đệ là một xã hội, trong đó các thành viên sống tình liên đới với nhau. “Tình liên đới giúp chúng ta xem người khác […] là người thân cận, bạn đồng hành” (Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới lần thứ 54 01/01/2021). Đó là một nhân đức giúp chúng ta thực hiện những cử chỉ chăm sóc và phục vụ cụ thể, đặc biệt đối với những người dễ bị tổn thương và thiếu thốn nhất. Tôi nghĩ đến những người, do bạo lực, bách hại và khủng bố, đã mất gia đình và những người thân yêu, nhà cửa và tài sản. Nhưng tôi cũng nghĩ đến tất cả những ai, trong khi thất nghiệp và nghèo đói gia tăng vẫn đang đấu tranh hàng ngày, tìm an ninh và phương tiện để tiến lên phía trước. “Biết mình phải chịu trách nhiệm về những yếu đuối của người khác” (Fratelli tutti, 115) phải truyền cảm hứng cho chúng ta, nỗ lực tạo ra những cơ hội cụ thể cả trên bình diện kinh tế và trong lĩnh vực giáo dục, cũng như chăm sóc thụ tạo, ngôi nhà chung của chúng ta. Sau khủng hoảng, tái xây dựng vẫn chưa đủ, chúng ta phải làm sao để mọi người có cuộc sống xứng nhân phẩm. Người ta không thoát ra từ một cuộc khủng hoảng giống như trước: chỉ có thể tốt hơn hoặc tồi tệ hơn.

Là các nhà lãnh đạo chính trị và ngoại giao, quý vị được kêu gọi thúc đẩy tinh thần liên đới huynh đệ này. Cần phải giải quyết dứt điểm tệ nạn tham nhũng, lạm quyền và bất hợp pháp, nhưng vẫn chưa đủ. Đồng thời, cần xây dựng công lý, tăng cường tính trung thực, minh bạch và củng cố các thể chế chịu trách nhiệm về việc này. Bằng cách này, sự ổn định có thể phát triển và một chính sách lành mạnh có thể phát triển, có khả năng mang đến cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người trẻ - rất đông đảo ở đất nước này - hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn.

Thưa Tổng thống, thưa quý vị! Tôi đến đây như một hối nhân cầu xin sự tha thứ từ Trời cao và từ các anh chị em, những người đã phải chịu đựng rất nhiều sự hủy hoại và tàn ác. Nhân danh Chúa Kitô, Hoàng tử Hòa bình, tôi đến đây như một người hành hương của hòa bình. Trong nhiều năm chúng ta đã cầu nguyện nhiều cho hòa bình ở Iraq! Thánh Gioan Phaolô II đã không ngừng đưa ra các sáng kiến, và trên hết đã dâng những lời cầu nguyện và đau khổ vì điều này. Thiên Chúa luôn lắng nghe! Phần chúng ta, chúng ta cũng phải lắng nghe Thiên Chúa, bước theo đường lối Người. Hãy ngưng sử dụng và phổ biến vũ khí tại đây và ở mọi nơi! Hãy chấm dứt hành động vì lợi ích của thiểu số, của thành phần bên ngoài đất nước, những người không quan tâm đến người dân địa phương. Chúng ta hãy lên tiếng cho những người xây dựng hòa bình, cho những người bé nhỏ, người nghèo, những người muốn sống, làm việc và cầu nguyện trong bình an. Bạo lực, bè phái, bất khoang dung đã đủ! Hãy dành không gian cho tất cả công dân, những người muốn cùng nhau xây dựng đất nước này. Trong những năm gần đây, Iraq đã cố gắng đặt nền móng cho một xã hội dân chủ. Theo nghĩa này, điều cần thiết là đảm bảo sự tham gia của tất cả các nhóm chính trị, xã hội và tôn giáo và đảm bảo các quyền cơ bản của người dân. Không ai bị coi là công dân hạng hai. Tôi khuyến khích các bước đã được thực hiện, và hy vọng rằng chúng củng cố sự thanh bình và hòa hợp.

Cộng đồng quốc tế cũng có vai trò quyết định trong việc thúc đầy hòa bình ở vùng đất này và toàn Trung Đông. Như chúng ta đã thấy trong cuộc xung đột kéo dài ở nước láng giềng Syria, từ khi bắt đầu cho đến nay đã 10 năm, những thách đố ngày càng gia tăng đối toàn thể gia đình nhân loại. Những thách đố này đòi hỏi một sự hợp tác toàn cầu để đối phó với những bất bình đẳng kinh tế và căng thẳng khu vực, đang đe dọa sự ổn định của vùng đất này. Tôi cám ơn các quốc gia và các tổ chức quốc tế đang hoạt động ở Iraq để tái thiết và hỗ trợ những người tị nạn, những người phải di cư nội địa và những người đang gặp khó khăn khi trở về nhà; cũng như các chương trình hướng tới hòa giải và xây dựng hòa bình. Và ở đây, tôi không thể không nói đến các  tổ chức có nhiều người Công giáo là thành viên. Trong nhiều năm, các tín hữu Công giáo đã tận tâm hỗ trợ các cộng đoàn dân sự. Việc đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của rất nhiều anh chị em là một hành động bác ái và công bằng, và góp phần vào hòa bình lâu dài. Tôi hy vọng các quốc gia không rút lại vòng tay mở rộng tình bạn và cam kết xây dựng dành cho dân tộc Iraq, nhưng tiếp tục làm việc trong tinh thần trách nhiệm chung với chính quyền địa phương, không áp đặt lợi ích chính trị hay ý thức hệ.

Tự bản chất, tôn giáo phải phục vụ hòa bình và tình huynh đệ. Danh Chúa không thể được sử dụng để “biện minh cho những hành động giết chóc, lưu đày, khủng bố và áp bức” (Tài liệu về Tình huynh đệ Nhân loại, Abu Dhabi, 04/02/2019). Trái lại, Thiên Chúa đã tạo dựng con người bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi, kêu gọi chúng ta lan tỏa tình yêu, lòng nhân từ, sự hòa hợp. Giáo hội Công giáo Iraq cũng mong muốn được làm bạn với tất cả mọi người, và qua đối thoại, cộng tác xây dựng với các tôn giáo khác, vì mục tiêu hòa bình. Sự hiện diện lâu đời của các Kitô hữu ở vùng đất này và đóng góp của họ cho đời sống quốc gia tạo thành một di sản phong phú. Các Kitô hữu muốn có thể tiếp tục phục vụ tất cả mọi người. Khi các Kitô hữu tham gia vào đời sống công cộng, và có được mọi quyền, tự do và trách nhiệm như các công dân khác, sẽ chứng tỏ rằng sự đa nguyên tôn giáo, dân tộc và văn hóa có thể đóng góp vào sự thịnh vượng và hài hòa của quốc gia.

Quý vị thân mến, tôi muốn một lần nữa bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với tất cả những gì quý vị đã làm và tiếp tục làm để xây dựng một xã hội dựa trên tình liên đới, tình huynh đệ và hòa hợp. Phục vụ công ích của quý vị là một công việc cao cả. Tôi cầu xin Đấng Toàn Năng nâng đỡ quý vị trong trách nhiệm và hướng dẫn tất cả quý vị trên con đường của sự khôn ngoan, công lý và sự thật. Với mỗi người, gia đình và những người thân yêu của quý vị, và toàn thể người dân Iraq, tôi cầu khẩn phúc lành của Thiên Chúa đổ xuống trên quý vị. Xin cảm ơn!


ĐTC Phanxicô đến phi trường Baghdad và được Thủ tướng Iraq chào đón

Lúc gần 14 giờ giờ Irak ngày 5/3/2021, máy bay chở Đức Thánh Cha đã đáp xuống phi trường thủ đô Baghdad. Đức Hồng y Louis Sako, Thủ tướng Iraq và một số vị trong chính quyền và giáo quyền đã chào đón Đức Thánh Cha đến Iraq.

Máy bay chở Đức Thánh Cha và đoàn tùy tùng đáp xuống phi trường Baghdad vào lúc gần 14 giờ cùng ngày 5/3 giờ Iraq, sau giờ Việt Nam 4 tiếng, và đậu tại khu vực dành riêng cho nghi lễ chào đón.
 

Máy bay chở ĐTC đáp xuống phi trường Baghdad
Máy bay chở ĐTC đáp xuống phi trường Baghdad

Thảm đỏ được trải từ sảnh phi trường đến chân thang máy bay. Đức Hồng y Louis Raphael Sako, thượng phụ Công giáo Can-đê lên cửa máy bay chào Đức Thánh Cha. 
 

 
ĐHY Louis Sako của Giáo hội Công giáo Can-đê chào đón ĐTC
ĐHY Louis Sako của Giáo hội Công giáo Can-đê chào đón ĐTC

Đức Thánh Cha được Thủ tướng Iraq, ông Mustafa Abdellatif Mshatat chào đón tại chân thang máy bay. Hai em bé trong trang phụ truyền thống đã tặng hoa cho ngài.
 

Thủ tướng Iraq chào đón ĐTC
Thủ tướng Iraq chào đón ĐTC

Sau đó các vị trong phái đoàn Iraq được giới thiệu với Đức Thánh Cha. Đức Thánh Cha cũng chào Đức Hồng y Sako và một vài vị đại diện Giáo hội Iraq

 Đức Thánh Cha cùng Thủ tướng Iraq đi qua hàng quân danh dự giữa tiếng kèn của đội quân nhạc chào mừng ngài. Vào sảnh sân bay, ĐTC được người dân đứng hai bên cầm cờ Tòa Thánh và Iraq chào mừng với những tiếng hô: Viva Papa và tiếng hát.  
 

Người dân Iraq chào đón ĐTC
Người dân Iraq chào đón ĐTC

Thủ tướng Iraq tháp tùng ĐTC đến sảnh VIP cùng hội đàm trong ít phút. Sau đó Đức Thánh Cha lên xe đến Dinh Tổng Thống cách đó 21 km.
 

 ĐTC hội đàm với Thủ tướng Iraq tại sảnh VIP của phi trường
ĐTC hội đàm với Thủ tướng Iraq tại sảnh VIP của phi trường

Thủ tướng Iraq năm nay 54 tuổi. Năm 1985 ông đã rời Iraq sang Iran, Đức và Nga và sau đó trở về Baghdad sau khi chế độ của Tổng thống Saddam Hussein bị sụp đổ vào năm 2003. Ông tốt nghiệp ngành luật. Khi trở về quê hương, ông đã lập Mạng lưới Truyền thông Iraq và làm giám đốc điều hành của Tổ chức Hồi ức Iraq, tổ chức có mục đích thu thập chứng tá và hình ảnh về tội ác dưới thời Tổng thống Hussein. Năm 2016 ông đảm nhận chức vụ giám đốc ngành tình báo quốc gia. Tháng 5 năm ngoái (2020) ông được bổ nhiệm làm Thủ tướng Cộng hòa Iraq.


ĐTC Phanxicô lên đường viếng thăm Iraq
Sáng thứ Sáu 5/3 Đức Thánh Cha bắt đầu chuyến viếng thăm Iraq kéo dài 4 ngày. Đây là chuyến tông du thứ 33 của ngài tại nước ngoài. Khẩu hiệu chuyến viếng thăm Iraq là “Tất cả anh chị em đều là anh chị em của nhau”.

 
d


Sáng thứ Sáu 5/3, lúc gần 7 giờ, trước khi Đức Thánh rời nhà trọ thánh Marta, nơi cư ngụ của ngài, Đức Hồng y Konrad Krajewski đã hướng dẫn một nhóm khoảng 12 người tị nạn Iraq đang được cộng đoàn thánh Egidio và Hợp tác xã trợ giúp đón tiếp và tị nạn tại Ý đến chào Đức Thánh Cha.

Sau đó Đức Thánh Cha đi xe ra phi trường Fiumicino của Roma, cách Vatican hơn 30 km. 
 

ĐTC đi xe đến phi trường Fiumicino
ĐTC đi xe đến phi trường Fiumicino

Đến phi trường, trước khi lên máy bay, Đức Thánh Cha đã chào các chính quyền dân sự và tôn giáo, và tay xách chiếc cặp đen, đeo khẩu trang,  ngài bước lên thang máy bay.
 

ĐTC lên máy bay

ĐTC lên máy bay

Đến cửa trước của máy bay, Đức Thánh Cha đã chào phi hành đoàn 11 người, gồm 3 phi công và 8 chiêu đãi viên.
 

ĐTC chào phi hành đoàn
ĐTC chào phi hành đoàn

Đặc biệt trên máy bay có một sự hiện diện rất được Đức Thánh Cha yêu thích, đó là ảnh Đức Mẹ Loreto, đã được tuyên bố là Đấng bảo trợ của các nhà hàng không.
 

Ảnh Đức Mẹ Loreto trên khoang máy bay
Ảnh Đức Mẹ Loreto trên khoang máy bay

 Chiếc máy bay A330 số AZ 4000 của hãng hàng không Alitalia của Ý,
 

Máy bay số hiệu AZ 4000 của hãng hàng không Ý
Máy bay số hiệu AZ 4000 của hãng hàng không Ý

chuyến bay thứ 800 của hàng không Ý phục vụ các chuyến tông du nước ngoài của các Đức Giáo hoàng, đã cất cánh lúc 7:45, đưa Đức Thánh Cha và đoàn tùy tùng, trong đó có các ký giả của các tờ báo quốc tế đăng ký, vượt gần 3.000km, dài 4 tiếng 30’, qua không phận các nước Ý, Hy Lạp, đảo Síp, Israel, Jordan, đến phi trường quốc tế Baghdad của Iraq. Đức Thánh Cha đã gửi điện thư cho Tổng thống các nước có không phận trên hành trình chuyến bay.
 

Máy bay hãng hàng không Ý chở ĐTC và đoàn tháp tùng đi Iraq

Máy bay hãng hàng không Ý chở ĐTC và đoàn tháp tùng đi Iraq.
 
Hồng Thủy
Nguồn: vaticannews.va

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

ducchasi
 
closedbible
 
suy 5
 
thanhthan06sm 1
 
gdphanxicoxavie
 
lichconggiao2
 
giolecacnhatho adv2 copy
 
giolecacnhatho adv2
 

Tin mới nhất

Kết nối

 

 

 

Thống kê

  • Đang truy cập98
  • Máy chủ tìm kiếm35
  • Khách viếng thăm63
  • Hôm nay18,157
  • Tháng hiện tại697,292
  • Tổng lượt truy cập52,866,240

Copyright © [2018] Giáo phận Nha Trang. All rights reserved.
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Nha Trang
Email: gpnhatrangbtt@gmail.com
Địa chỉ: 22 Trần Phú - HT 42, Tp. Nha Trang - Khánh Hoà
Phone: (84) 258.3523842 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây