Chúa Nhật IV MC/C
Những điều điên rồ của một người cha
Chúa Nhật thứ tư Mùa Chay thường được gọi là ‘Laetare’, bởi vì bài thánh ca nhập lễ của nghi lễ La-tinh cổ bắt đầu bằng những từ này ‘Laetare Jerusalem’, ‘Hãy vui mừng, Jerusalem’. Và thực ra, giai điệu của Phụng vụ, của các bài kinh, của các lời cầu nguyện, dường như làm nhẹ đi, làm vui lên một chút nỗi buồn của mùa Chay, một nửa mùa Chay đã trôi qua, mở ra cánh cửa cho giai đoạn thứ hai của hành trình sám hối này, trong đó chúng ta đã thoáng thấy ánh sáng của lễ Phục sinh.
Những người Pharisiêu và kinh sư, những người đã càu nhàu và phẫn nộ trước thái độ thương xót và tiếp đón của Chúa Giêsu đối với những người tội lỗi; và khi làm như vậy, họ không làm gì khác ngoài việc cho Chúa Giêsu cái cớ để nói về họ thông qua một dụ ngôn mà chúng ta thường quen hiểu là bài học về sự tha thứ, nhưng thực ra đó là bài học về điều mà chúng ta thực sự rất nhớ trong giai đoạn này, đó là niềm vui.
Vâng, bởi vì lời phàn nàn của họ được tiếp nối không chỉ bằng một mà là ba dụ ngôn của Chúa Giêsu lấp đầy toàn bộ chương 15 của Phúc âm Luca: và điểm chung của chúng chính là yếu tố vui mừng và ăn mừng. Niềm vui và sự hân hoan của người chăn chiên khi tìm thấy một con, chỉ một con thôi, trong số hàng trăm con chiên bị mất tích; sự ăn mừng và niềm vui của một người phụ nữ tìm thấy một đồng mười xu bị mất trong ví, và chia sẻ niềm vui này với bạn bè, có lẽ bằng cách mở một bữa tiệc có thể tốn kém hơn nhiều so với giá trị của đồng xu đó. Điều đó không quan trọng: nếu có điều gì đó đáng để ăn mừng và vui mừng thì chúng ta sẽ vui mừng, bất kể giá nào! Người cha đó cũng lý luận theo cách này khi đối mặt với đứa con trai trở về nhà sau khi đã ăn thỏa thuê thức ăn của lợn (lợn theo đúng nghĩa đen, vì nó trở nên giống lợn đến mức đánh nhau với chúng để giành thức ăn), hơn nữa phung phí phần thừa kế của mình, tống tiền cha mình ngay cả trước khi ông chết, và chắc chắn không phải vì những khoản đầu tư tồi tệ hay hành động kinh tế không may, thì điều duy nhất mà người cha này nghĩ đến là chạy đến bên con, ôm con, hôn con, mặc cho con chiếc áo mới, giết bê béo để làm tiệc cho đứa con, mang vào chân con đôi giày mà chỉ những quý ông đích thực mới có thể đi và - như thể điều đó vẫn chưa đủ - lại đeo vào ngón tay con chiếc nhẫn mà chắc chắn anh đã trao làm vật thế chấp khi thấy mình trắng tay và giờ đây cho phép anh (giống như một loại mã ATM hoặc mã OTP từ ngân hàng trực tuyến) rút tiền, trả tiền và chi tiêu một lần nữa, như thể không có chuyện gì xảy ra. Làm sao bạn có thể không mời một nhóm nhạc đến để khiến mọi người nhảy múa? Và trên hết, chúng ta ăn uống rất xa hoa, tất cả đều do cha chi trả!
Và rồi, "cha" thân yêu ơi, cha có mong đợi đứa con trai cả của mình, đứa con đầu lòng, người chăm chỉ, trở về nhà sau một ngày làm việc vất vả trên đồng ruộng như bao người hầu khác (người quản lý thực thụ không chỉ ra lệnh mà còn nêu gương, chúng ta hãy nhớ kỹ điều này!), cũng sẽ trở về nhà và bắt đầu tiệc tùng như bao người khác không? Và hơn thế nữa, sau khi xác minh rằng bữa tiệc (mà anh không hề biết gì cả, vì chắc chắn là nó không được lên kế hoạch) được tổ chức như một bất ngờ do cha anh để mừng đón người em trai đồi trụy của anh trở về? Anh nhất định không vào!
Nhưng người cha có hai người con trai để gặp và ôm: và như ông đã làm với người con thứ, ông cũng làm như vậy với người con lớn, ông đi ra phía anh, đến gặp anh và lắng nghe những gì anh nói.
Mọi chuyện trở nên hỗn loạn! Không chút kiềm chế và không chút vòng vo, anh ta xổ ra khỏi miệng bao nhiêu ấm ức và kể mọi điều đã làm phiền anh ta trong nhiều năm: rằng anh ta làm việc chăm chỉ, rằng anh ta không tiêu tiền vào gái mại dâm, cần sa, rượu và máy đánh bạc như ‘thằng con trai kia của cha mình’, rằng anh ta chưa bao giờ có một ngày nghỉ nào và rằng từ ‘ông chủ’ (đó là cách anh ta gọi cha mình) anh ta thậm chí chưa bao giờ nhận được một con dê nhỏ để ăn với những người bạn khác cũng làm việc chăm chỉ như anh ta! Và người cha có mong đợi anh ta cùng đến để ăn mừng và vui mừng như những người khác không?
Ai biết được liệu người con trai cả có bao giờ tham gia bữa tiệc đó và liệu anh ta có bao giờ tha thứ cho em trai mình hay không. Tất nhiên, người cha cũng không bao giờ ngừng gọi anh ta là "con trai" (mặc dù anh không bao giờ gọi ông là "cha") và nói với anh ta rằng người con kia là em trai của anh ta, bất chấp mọi thứ, bất chấp thực tế là ông gọi anh ta là "con trai của cha" và bất chấp thực tế là anh ta vẫn có khả năng phung phí những gì ít ỏi mà anh ta chưa phung phí. Bởi vì Thiên Chúa giống như thế này: Ngài không muốn xem chúng ta là tôi tớ, Ngài muốn chúng ta là con cái. Ngài chấp nhận chúng ta như chúng ta vốn có.
Và trên hết, Chúa không muốn chúng ta hoàn hảo: Ngài muốn chúng ta hạnh phúc.
Ông nhìn thấy anh ta từ xa
Có hai hình ảnh trong câu chuyện dụ ngôn này có sức mạnh phá vỡ. Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh người cha đứng nhìn con đường vắng vẻ chờ đợi đứa con trai trở về. Đây là hình ảnh đẹp mô tả mầu nhiệm về tình phụ tử và tình mẫu tử của Thiên Chúa, về một Thiên Chúa không biết mệt mỏi, luôn dõi theo, chờ đợi ngày người con yêu dấu của mình trở về. Ông đợi đứa con vì ông yêu anh ấy, vì nếu không có anh ấy thì gia đình sẽ không trọn vẹn; ông chờ đợi anh vì ông biết con trai ông không hạnh phúc. Việc anh ta phung phí hết tài sản của mình cũng không quan trọng, việc anh ta bỏ rơi chính bản thân ông cũng không quan trọng; điều quan trọng duy nhất là đứa con thất lạc này sẽ trở về. Người cha chắc chắn về điều đó. Đứa con sẽ quay về.
Hình ảnh thứ hai là hình ảnh người cha với đứa con trai cả. Anh ấy chưa bao giờ rời khỏi nhà, nhưng anh ấy sống như một người hầu chứ không phải như một người con. Anh ta không biết vui mừng khi em trai mình trở về, cũng không biết ơn cha mình. Anh ta nghĩ rằng mọi thứ đều thuộc về mình, ghen tuông và nhạy cảm, anh ta sống trong cô độc. Nhưng hình ảnh khiến ta chú ý nhất là hình ảnh người cha rời khỏi bữa tiệc để đi tìm người con trai cả của mình. Ông ấy không mất kiên nhẫn, không la hét, không càu nhàu. Ông tìm đến đứa con trai đố kỵ của mình và kể cho cậu nghe về niềm vui của mình khi tìm được đứa con trai mới trở về.
Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa thật tuyệt vời, rất khác với hình ảnh u ám và thiếu kiên nhẫn thường vẫn len lỏi vào lương tâm tôn giáo của chúng ta. Có lẽ thời gian Mùa Chay này trước hết sẽ giúp chúng ta thay đổi hình ảnh về Thiên Chúa mà chúng ta có trong lòng mình. Mùa Chay là thời gian hoán cải, chúng ta đều biết điều đó; nhưng có lẽ chúng ta quên rằng sự hoán cải cấp thiết nhất liên quan đến khuôn mặt của Chúa. Vấn đề của đức tin không phải là tin hay không tin vào Chúa, mà là tin vào Chúa nào. Chúng ta phải cố gắng so sánh Thiên Chúa trong lời cầu nguyện và lương tâm tôn giáo của tôi (hoặc thậm chí trong nỗi sợ hãi và lo lắng của tôi...), với Thiên Chúa mà Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta trong dụ ngôn này. Có lẽ chúng ta cần dọn dẹp lại tâm trí và từ bỏ một số ý tưởng cũ kỹ, hoen gỉ về Thiên Chúa.
Một suy nghĩ cuối cùng.
Chúng ta không biết câu chuyện ngụ ngôn kết thúc như thế nào: liệu người con cả có tham gia bữa tiệc không? Không có gì mới: ngay cả Chúa Nhật tuần trước, dụ ngôn về cây vả vẫn chưa có hồi kết: giữ lại hay chặt đi?
Kết thúc hoàn toàn phụ thuộc vào bạn. Mọi thứ đều đáng được trải nghiệm.
Cho phép bản thân được hòa giải với Thiên Chúa và thách thức của tình anh em phổ quát
Khi dân tiến vào đất Ca-na-an, được giải thoát khỏi ‘sự ô nhục của Ai Cập’ (Gs 5:9a), sau một hành trình dài trong sa mạc, họ đã cử hành Lễ Vượt Qua lần đầu tiên tại Gingal, với toàn thể nam giới được cắt bì theo đúng nghi thức (x. 5.2-9). Từ “ô nhục” diễn tả gánh nặng của một tình huống rất khó chịu về sự mất danh dự, sự sỉ nhục và thiếu tôn trọng phẩm giá mà người dân Israel phải chịu đựng vì ký ức về thời kỳ nô lệ của họ ở Ai Cập. Bài đọc thứ nhất nhắc lại sự khởi đầu của một giai đoạn mới trong lịch sử của dân tộc Israel. “Hoa trái của đất Ca-na-an” (5:11.12ab) trở thành dấu chỉ của cuộc sống mới trong tự do, với sự phục hồi phẩm giá của con người. Vì thế, “manna đã ngừng [...] và dân Israel không còn có manna nữa” (Gs 5:12ab).
Sự kiện chấm dứt chế độ nô lệ ở Ai Cập đã xảy ra, nhưng cần phải cử hành lễ Vượt Qua hàng năm để kiên trì trong tình hình hòa bình và tận hưởng sự tự do của cải dồi dào trên đất hứa. Người Israel cần phải đổi mới lời cam kết tuân theo các điều răn của giao ước mà Đức Chúa của Áp-ra-ham, Isaác và Gia-cốp đã lập với họ trên Núi Si-nai, để họ có thể trải nghiệm sự thật về danh Ngài mỗi ngày. Người dân cần ăn mừng lễ Vượt Qua để không mất đi tự do, phẩm giá, quyền sở hữu đất đai, rơi vào những trải nghiệm ‘ô nhục’ khác tương tự như chế độ nô lệ ở Ai Cập. Nhưng điều đó đã xảy ra trong suốt chiều dài lịch sử của dân, vì tiếng phàn nàn và thiếu đức tin của những người được giải thoát trong suốt cuộc hành trình trong sa mạc đã không cho họ vào đất hứa, mà chỉ có Giôsuê, Ca-lép và thế hệ trẻ mới vào được (x. Ds 32:12). Nỗi thống khổ của cuộc lưu đày ở Babylon sau này được giải thích là hậu quả của sự bất trung của dân đối với Luật pháp Chúa.
Ý nghĩa của việc mừng lễ Phục sinh đối với chúng ta, những người theo Kitô giáo, là cảm thấy được hòa giải với Chúa để có thể sống hòa giải với nhau bằng tình huynh đệ đại đồng.
Giống như dân Israel, những người cuối cùng đã đến đất Canaan, chúng ta, những người Kitô hữu, cũng có thể nói, theo lời của thánh Phaolô: ‘Nếu chúng ta ở trong Đức Kitô, chúng ta là những tạo vật mới. Những điều cũ đã qua đi. Này, những điều mới đã được sinh ra!’ (2 Cr 5,17).
Đối với chúng ta, những người theo Kitô giáo, sự kiện trung tâm đã thay đổi cuộc sống của chúng ta không còn là cuộc giải phóng khỏi chế độ nô lệ ở Ai Cập, sự kiện mà người Do Thái vẫn còn nhớ đến ngày nay khi họ cử hành lễ Vượt Qua hàng năm, ăn bánh không men, với thịt chiên bị hiến tế và với các loại rau đắng, với chén rượu, chia làm bốn lần với nghi thức ca ngợi. Sự kiện trung tâm đã biến đổi cuộc sống của chúng ta chính là ‘cái chết của Chúa Giêsu trên thập tự giá’ (1 Cr. 1:23) và sự phục sinh của Người.
Trong dụ ngôn thường được gọi là ‘người con hoang đàng’, sự kiện Ba Ngôi về cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu được nhắc lại thông qua việc người cha ra lệnh giết ‘con bê béo’ để bắt đầu ‘bữa tiệc’ mừng người con út ‘đã mất và nay tìm thấy’ (Lc 15:23). Nghĩ đến “con bê béo bị giết” khiến chúng ta nhìn vào cây thánh giá và bàn thờ trong nhà thờ. Với cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu là ‘Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian’ (Ga 1:29.36), để việc cử hành giao hòa của chúng ta với Chúa Cha có thể được hoàn thành. Bàn thờ nhắc nhở chúng ta về ‘lễ mừng vui vẻ’ của dụ ngôn, vì sự hiện diện sống động và chân thực của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể khiến chúng ta cử hành niềm vui của giao ước tình yêu mới và vĩnh cửu của Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Con trong Chúa Thánh Thần, với toàn thể nhân loại, thông qua việc tha thứ tội lỗi.
Chính Lời Chúa, qua thánh Phaolô, cung cấp cho chúng ta lời bình luận tuyệt đẹp về dụ ngôn người cha nhân từ và hai người con. Ý nghĩa sứ mệnh của Chúa Giêsu được tóm tắt trong những gì Phaolô viết cho tín hữu Côrintô: ‘Vì chính Thiên Chúa là Đấng đã hòa giải thế gian với Người trong Đức Kitô, không còn chấp tội loài người nữa, và giao cho chúng tôi sứ điệp hòa giải’ (2 Cr 5:19). Sau đó là lời khuyên mạnh mẽ dành cho tất cả chúng ta: ‘Hãy hòa giải với Thiên Chúa!’ (2Cr. 520b).
Kết quả tuyệt vời của sự kiện cứu chuộc qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu chính là sự hòa giải của chúng ta với Thiên Chúa, được thể hiện qua ba cử chỉ.
Người con trai thứ, “đã chết mà nay sống lại; đã mất mà nay tìm lại được” (Lc 15:24,32). Anh ta cảm nhận được lòng trắc ẩn của cha mình, hành động chạy ngay đến bên anh của người cha và vòng tay ôm ấp của cha. Có ba cử chỉ quan trọng chứng minh cho điều này: “mặc áo dài đẹp nhất, đeo lại nhẫn gia truyền và xỏ dép” (Lc 15:22).
Vào thời Chúa Giêsu, nô lệ không bao giờ được mặc áo dài may bằng vải đẹp. Được mặc chiếc áo dài đẹp nhất, điều đó có nghĩa là cha của anh ta không bắt anh ta trở về làm nô lệ. Người con trai đó lại thuộc về ngôi nhà của cha mình như một người con được yêu thương. Đối với chúng ta, những người Kitô hữu, sự hòa giải giữa Chúa Cha với nhân loại, đạt được thông qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Con là Chúa Giêsu, đã làm cho chúng ta trở thành những người con yêu dấu trong Chúa Kitô. Khi đó, chúng ta có thể nắm bắt được lời mời gọi của Lời Chúa, qua sứ đồ Phao-lô, là “hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, đừng thỏa mãn những dục vọng của xác thịt nữa” (Rm 13:14).
Vào thời Chúa Giêsu, ‘chiếc nhẫn’ tượng trưng cho sự hợp pháp thuộc về một gia đình, vì những dấu hiệu đặc trưng của nó được khắc trên đó. Người đeo nhẫn trên ngón tay có thể thoải mái sử dụng đồ trong nhà để kinh doanh và ký kết, đóng dấu các hợp đồng thông qua chiếc nhẫn gia truyền của mình. Đối với chúng ta, những người Kitô hữu, sự hòa giải giữa Chúa Cha với nhân loại, được thực hiện qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Con là Chúa Giêsu, làm cho chúng ta trở thành những người quản lý hợp pháp di sản quan trọng nhất trong sự sống thần linh của Người: ân huệ của Chúa Thánh Thần cùng với các ân huệ của Người (Is 11:2) và hoa trái của Người (Gl 5:22-23a). “Chiếc nhẫn” là biểu tượng đẹp nhất của sự kết hợp giữa hai vợ chồng. ‘Chiếc nhẫn’ nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta như một bảo đảm chắc chắn về sự hiệp thông của chúng ta với Thiên Chúa và như một sức mạnh hòa giải giữa chúng ta, được kêu gọi nhận ra nhau là anh chị em.
Vào thời Chúa Giêsu “Dép” mang ý nghĩa tự do vì chỉ những người tự do mới có thể mang chúng, trong khi nô lệ phải đi chân đất. Đối với chúng ta là những người Kitô hữu, ‘dép’ là lời mời gọi bước đi theo hoa trái của Chúa Thánh Thần chứ không còn theo những việc làm của xác thịt: ‘Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta. Vậy chúng ta hãy đứng vững, đừng để mình bị trói buộc vào ách nô lệ nữa” (Gl 5:1).
Thách thức trong việc thúc đẩy sự hòa giải giữa chúng ta vẫn còn bỏ ngỏ.
Trong dụ ngôn này có một sự khác biệt rất lớn giữa thái độ tôn trọng, tự do, kiên nhẫn, nồng nhiệt và hòa giải của người cha đối với hai người con trai, đặc biệt là người con út, và thái độ sợ hãi, mất tự do, thiếu kiên nhẫn, lạnh lùng và xung đột của người con cả đối với cha mình, người đã khuyên răn anh ta hòa giải với ‘người em đã chết mà sống lại, đã mất mà tìm thấy’ (Lc 15:32). Người con cả tượng trưng cho ‘những người Pharisiêu và luật sĩ đã chỉ trích Chúa Giêsu vì Người tiếp đón những người tội lỗi và ăn uống với họ’ (Lc 15:2).
Sự cởi mở và lòng trắc ẩn của Chúa đối với những tội nhân chai đá nhất trong hoàn cảnh tuyệt vọng của sự bất hạnh và nô lệ cho thấy sự khép kín và lạnh lùng của con người đối với những người cảm thấy mình công chính và hoàn hảo trong việc tuân thủ luật pháp của Chúa và không chấp nhận bất kỳ mối quan hệ nào với tội nhân.
Nếu không có lòng khiêm nhường để coi mình là tội nhân và bất toàn, nếu không có kinh nghiệm cảm thấy được ôm ấp và củng cố bởi lòng thương xót của Chúa Cha, chúng ta sẽ không thể trải nghiệm niềm vui chào đón người khác như ‘anh em’ của mình và việc cử hành hiệp thông sẽ bị phá hỏng. Xin Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta ‘được hòa giải với Thiên Chúa’ để trở thành những người thúc đẩy sự hòa giải trong thế giới này, nơi tình huynh đệ toàn cầu đang bị đe dọa.
Thách thức vẫn còn đó.
Chúa Nhật IV MC B
Toàn bộ Tân Ước chú tâm về giáo lý của việc cứu độ. Việc mỗi con người và mọi việc trở về để đạt đến sự thánh thiện, nơi Chúa Cha, đều được thực hiện nhờ qua sự sống, sự chết và sự sống lại của Đức Kitô.
Tin mừng Thánh Gioan lại nhấn mạnh cách riêng đến việc nhập thể. Đức Giêsu được Chúa Cha sai đến thế gian. Đến một thế giới sa đọa và Ngài đã mang đến ánh sáng và sự sống mới. Qua cuộc thương khó và sự phục sinh của Ngài, Ngài đã phục hồi tất cả mọi sự cho Chúa Cha và mạc khải thực thể toàn vẹn căn tính của Ngôi Lời làm người. Nhờ Ngài mà tất cả được ánh sáng soi chiếu.
Đời sống của chúng ta trong Giáo Hội là thực hiện lời đáp trả cho Đức Kitô. Giáo huấn của Tân Ước – mà ta thấy một ví dụ trong trích đoạn hôm nay – rất rõ ràng. Sự cứu độ đã được thực hiện nhờ Đức Giêsu Kitô, nhưng đối với ta việc cứu độ ấy còn cần phải được thực hiện. Vì ta có thể khước từ ánh sáng và chọn bóng tối.
Trong phép rửa, Đức Kitô ngỏ lời với ta: ta được tháp nhập vào Ngài và như thế ta liên kết với mọi người đã được rửa tội trong Thân Thể Đức Kitô. Lời đáp trả của ta có thể thực hiện nhờ ân sủng của Thiên Chúa, nhưng cũng cần sự chấp thuận của chính chúng ta. Khi vẫn còn sự đồng thuận như thế, những gì ta làm đều được làm trong Đức Kitô và trở nên dấu chỉ. Ta trở nên chứng nhân của Ngài trong thế giới.
2Cr 36,14-16.19-23; Tv 136; Ep 2,4-10; Ga 3,14-21
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay được đưa vào khung cảnh của năm phụng vụ B, nhấn mạnh rằng Thiên Chúa yêu ta và giúp ta hiểu ý nghĩa của những đối nghịch do tội gây ra.
Thiên Chúa yêu ta, nhưng Ngài yêu ta theo cách của Ngài: Ngài để cho dân phải lưu đày để giáo huấn họ. Đọc lại lịch sử, dân Israel bị đồng hóa với não trạng dân ngoại, thờ ngẫu tượng. Thiên Chúa, Đấng hướng dẫn lịch sử, để cho họ xa cách Ngài [lưu đày], nhưng rồi lại can thiệp để uốn nắn lại mọi sự. Thái độ này đặt ra những thắc mắc: các kitô hữu có cần phải bảo vệ căn tính của mình không hay là…? Các kitô hữu có ý thức rằng mình là một dân tộc mang tính ngôn sứ không? Ai sẽ thắng thế gian? Thiên Chúa thấy và tiên liệu như thế nào? Đức tin của ta có thắng thế gian không? Nếu có thì đó là đức tin nào?
Hôm nay chúng ta mừng Chúa Nhật thứ tư Mùa Chay, Chúa nhật của niềm vui. Quả vậy trong lời ca nhập lễ ta đọc thấy lời: “Hãy vui mừng với Giê-ru-sa-lem, hãy vì Thành Đô mà hoan hỷ, hỡi tất cả những người yêu mến Thành Đô! Hãy cùng Giê-ru-sa-lem khấp khởi mừng, hỡi tất cả những người đã than khóc Thành Đô, để được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ (Is 66,10-11). Phụng vụ Chúa nhật hôm nay cũng cho phép mặc phẩm phục màu hồng, để nhấn mạnh đến niềm vui này: tình yêu của Thiên Chúa là nguồn mạch niềm vui, sự an ủi của ta.
Bài đọc 1 trích từ sách Sử Biên Niên thuật lại thảm cảnh của Israel, việc phá hủy đền thờ Giêrusalem và dân bị lưu đày sang Babylon, do sự bất trung, khước từ căn tính của họ và không chịu lắng nghe tiếng của các ngôn sứ mà Thiên Chúa không ngừng gửi đến cho họ để họ quay trở về và hoán cải. Tuy nhiên Thiên Chúa không dừng chương trình của Ngài nên đã khơi lên tinh thần của Ngài trong hồn Vua Kyrô, vua Ba Tư, là người mang lại niềm hy vọng hồi hương cho dân: tiếng nói sau cùng là sự tha thứ, do đó chính là tin vui.
Dựa trên những điều trên thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Ẽphêsô, lập lại chủ đề này và nhắc nhớ rằng “Thiên Chúa giàu lòng nhân hậu” và làm cho ta được cùng sống lại với Đức Kitô, dẫu là những kẻ chết do tội của mình. Thánh Phaolô nhắc rằng nguồn gốc của toàn bộ vẻ đẹp này là lòng tốt nhưng không của Thiên Chúa, nhờ đó ta có thể hưởng nhờ ân huệ của lòng tin. Do đó ta có thể thực hiện được những điều thiện hảo mà Thiên Chúa đã dự định để ta thi hành.
Trong tin mừng hôm nay ta nghe lại tường thuật cuộc gặp mặt giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, là hình ảnh của mỗi người chúng ta: một người có đức tin, biết Lời Thiên Chúa, nhưng cũng đầy những hoài nghi. Một cuộc đối thoại giữa hai cách thức nhìn cuộc sống khác biệt nhau, và lý giải cách cũng khác nhau.
Đức Giêsu nói “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để cứu độ thế gian”. Câu này là chìa khóa để đọc ra dự định của Thiên Chúa cho nhân loại. Thiên Chúa chúng ta, Ngài đã yêu thương và muốn chúng ta được hạnh phúc hơn là chính chúng ta ước muốn. Cuộc sống là điều nghiêm túc và hạnh phúc là một cuộc trải nghiệm đòi hỏi nhiều nỗ lực và kiên trì: thập giá Đức Giêsu chứng tỏ đến mức độ nào Thiên Chúa sẵn sàng yêu chúng ta và mang lại niềm vui cho ta. Trong viễn ảnh đó không phải chính Thiên Chúa xét xử chúng ta, nhưng đúng hơn là chính con người chúng ta, bằng chính cuộc sống của mình, khước từ hoặc đón nhận tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô. Con người tự xây dựng cho chính mình hoặc ơn cứu độ hoặc sự kết án, ánh sáng hoặc bóng tối. Đức tin thực hiện việc xét đoán, và con người bằng chính thái độ sống của mình tự xét xử mình. Trong câu cuối đoạn tin mừng thánh Gioan (21) dùng một thuật ngữ đặc biệt “hành động trong sự thật”. Đối với ta, sự thật là một ý niệm cần phải học, nhưng đối với thế giới thánh kinh thì ngược lại, và nhất là cách riêng đối với Gioan và Phaolô, sự thật của Thiên Chúa không phải chỉ để hiểu biết nhưng còn để thực hiện, nghĩa là đón nhận chương trình cứu độ của Thiên Chúa vào trong cuộc đời mình và cùng xây dựng đời sống với Ngài.
Đức Giêsu bị đóng đinh thập giá, là Người Con bị giương lên cao như con rắn trong hoang địa thời Xuất Hành, là điểm quy chiếu cho toàn thể nhân loại: chúng ta không phải là kitô hữu vì chúng ta yêu mến Thiên Chúa, nhưng bởi vì Thiên Chúa yêu chúng ta. Tái sinh nghĩa là nói vâng với chương trình mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống, nghĩa là chấp nhận tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đến với ta qua những gian khó, qua những lúc không luôn dễ dàng, và biết luôn nhìn vào Ngài Đấng bị giương cao trên thập giá, đang kéo ta về với Ngài và dạy ta con đường của Tình Yêu toàn hiến. Đức Giêsu mời gọi ta nên ánh sáng nghĩa là ta hãy đặt những sợ hãi, những mong ước, những đòi hỏi của ta ở hàng thứ cấp và tự nguyện đến với những nguòi bên cạnh gia đình ta, với đồng nghiệp, với con cái mình và tất cả những ai mà chúng ta quyết định đón nhận trong cuộc đời mình cùng với tiếng xin vâng.
Thứ hai Tuần IV MC
Nhờ lòng tin
Trang tin mừng hôm nay cho ta thấy không có tiên tri nào được trọng vọng nơi quê hương mình. Theo nghĩa đen, quê hương của Đức Giêsu là Nagiarét, một làng quê của Galilêa ít được biết đến. Thánh Gioan nhấn mạnh đến điểm này để nêu lên chứng cứ truyền giáo của Đức Giêsu. Ngài được sai đến với dân Giuđêa, trung tâm chính là đền thờ Giêrusalem, thế nhưng không được đón nhận (Ga 1,11).
Ơn cứu rỗi nhờ vào lòng tin vượt lên trên những đặc quyền liên hệ đến sắc tộc cũng như bất cứ một chủ nghĩa địa phương nào. Đức Giêsu đã chuyển hướng hoạt động của Ngài không chỉ về miền Galilêa nhưng còn về các miền dân ngoại. Và trong đoạn tin mừng này, cái thế giới dân ngoại ấy được viên quan chức nhà vua ở Caphanaum đại diện, ông không phải là người do thái. Ông là dân ngoại, nhưng đã tin vào lời của Đức Giêsu, trở thành mẫu gương của một đức tin trong sáng và chân thực.
Đoạn tin mừng của thánh Gioan nhấn mạnh đến cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và viên quan chức, đồng thời đề cập đến đối tượng của cuộc đối thoại: niềm tin. Niềm tin đích thực là niềm tin chấp nhận Đức Giêsu, dẫn con người đến Đấng Cứu Độ. Nhờ đức tin, chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa, khám phá ra Chúa Cha và tình yêu của Ngài trong cuộc sống chúng ta.
Khi xét đến niềm tin của chúng ta, niềm tín thác vào Đức Giêsu, qua quyền năng của lời Ngài, sẽ thực hiện những phép lạ trong cuộc đời chúng ta. Trong đoạn tin mừng này, chúng ta nhận ra hiệu quả của lời Thiên Chúa và niềm tin tuyệt đối vào quyền năng của Đức Giêsu. Như thế, cũng như Đức Giêsu đã ban thưởng niềm tin của viên quan chức nhà vua, Ngài cũng ban thưởng cho lòng tin của mỗi người chúng ta.
+++
‘Nầy, ta dựng nên trời mới đất mới; những việc trước kia sẽ không còn nhớ đến nữa, cũng không còn nhắc đến nữa." Isaia 65:17
Đây là một tuyên bố tuyệt đẹp của Nhà tiên tri, người nói những lời được Chúa truyền cảm hứng, do đó rất đúng với cốt lõi.
Đó là về “sự sáng tạo mới” là công trình của Thiên Chúa: ân sủng của Người trong chúng ta.
Nó thực sự giống như dòng sông chảy xiết cuốn trôi hoàn toàn sự xấu xa của tội lỗi khỏi chúng ta. Bởi vì nếu bạn ăn năn, nếu bạn thành thật trong lương tâm, nếu bạn đã đón nhận bí tích tha thứ bằng đức tin, thì bạn thực sự được giải thoát khỏi điều ác.
Đừng bận tâm đến quá khứ nữa, ngoại trừ việc cảm tạ Chúa, với ý định bắt đầu mỗi ngày bằng cách sống những điều tốt đẹp.
Sức mạnh của ân sủng mà Chúa đã ban cho bạn qua sự tha thứ thực sự cho phép bạn trở thành một trái tim mới trong những ngày tháng của mình, cũng trở nên mới mẻ: một lời đề nghị tốt lành cho những người bạn tiếp cận.
Xin Chúa làm cho con nên mới mỗi ngày. Con biết rõ rằng điều thực sự đổi mới thế giới và những con người sống trong đó chính là TÌNH YÊU. Con tin rằng Chúa luôn yêu thương con trước và là Mặt Trời đích thực của một sự tồn tại trong Chúa, nơi sự tồn tại này được đổi mới với ánh sáng cứu rỗi: cho con và cho hoàn cảnh mà con đang sống.
Thứ ba Tuần IV MC
Đừng phạm tội nữa
Trong thị kiến của Êgiêkien, nước chữa lành và ban sự sống, tượng trưng cho ân sủng của Thiên Chúa ban tặng dồi dào trong thời cứu độ, gắn liền với việc Đức Giêsu đến trong thế gian. Đó là lý do Đức Giêsu không dẫn bệnh nhân đến hồ Siloe, nguồn suối ơn thiêng của thời Cựu Ước, mà lại chữa lành anh ta bằng chính quyền năng riêng của Ngài.
Việc chữa lành nhằm ngày Sabát, và Ngài đã truyền lệnh cho người được chữa lành vác chõng trong ngày Sabát, bởi vì đã đến thời của một ân ban cao cả hơn lề luật, Đức Giêsu, chủ của ngày Sabát. Trong bí tích rửa tội, chúng ta được tháp nhập vào thời cứu độ và, được chữa lành khỏi mọi hình thức bất toại, chúng ta nhận được lệnh truyền ra đi mang theo hoa trái của đời sống trong Thánh Thần. Hôm nay Đức Giêsu ban cho chúng ta lời khuyến cáo như đã ban cho người bất toại: đừng rơi vào nô lệ tội lỗi nữa, vì sự bất toại tinh thần của các kitô hữu trầm kha hơn sự bất toại của người dân ngoại.
Mùa Chay là thời gian hồi tâm. Thế giới kitô và hậu kitô có lẽ nào lại không rơi vào tình trạng ngoại giáo, khi thờ các ngẫu tượng tiền bạc, danh vọng, quyền lực. Có lẽ chúng ta lại bị bất toại do không biết chiến thắng sự dữ trong xã hội, chính trị, gia đình và cá nhân sao. Những cơ cấu sự dữ trong xã hội không phải là cái ‘chõng bệnh’ của chúng ta đó sao? Các dư luận và các phong hóa trong môi trường chúng ta sống không cấu thành nên nó đó sao? Đức Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta hãy quay về. Ngài giao hòa ta với Chúa Cha và chữa lành ta. Ngài nói với ta hôm nay: Hãy đứng dậy vác chõng mà đi, hãy sống và làm việc lành. Khi nghe tin mừng hôm nay, mỗi người chúng ta hãy nhận ra việc mình cần phải làm trong lệnh truyền của Đức Giêsu: ‘Hãy đứng dậy mà đi và đừng phạm tội nữa’.
+++
Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang địa, rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Ed 47, 8-9
Trong bài đọc thứ nhất, Êdêkien kể cho chúng ta nghe một thị kiến gợi ý trong đó ông nhìn thấy một đền thờ mới, từ đó, ở phía bên phải, có dòng nước kỳ diệu chảy ra, mang lại sự sống và màu mỡ khắp mọi nơi. Các Giáo phụ, xưa đã nhận ra Đền thờ đích thực mà Êdêkien nhìn thấy, chính là Chúa Giê-su: từ vết thương bên phải cạnh sườn Người, máu và nước chảy ra. Sau đó, Êdêkien nhìn thấy đền thờ và dòng nước chảy xuống phía bên phải hướng về Biển Chết, nằm cùng vĩ độ với Giê-ru-sa-lem, nhưng ở độ sâu khoảng một nghìn mét. Biển Chết cũng có nước, nhưng đây là nước 'chết' vì quá mặn. Thay vào đó, nước chảy ra từ đền thờ là nước tinh khiết, màu mỡ và sống động, có tác dụng chữa lành nước Biển Chết.
Đó là sự biến đổi mà Thánh Thần Thiên Chúa cùng với Ân sủng của Người sẽ thực hiện nơi chúng ta và trong cộng đồng của chúng ta trong Mùa Chay này, nếu chúng ta ngoan ngoãn nghe theo những linh hứng của Người.
Thật không may, chúng ta phải thừa nhận rằng bên trong chúng ta và trong cộng đồng của chúng ta tồn tại một "Biển Chết", nơi vẫn còn những khoảng trống của sự cay đắng, ích kỷ và chia rẽ, khiến cho các mối quan hệ trở nên khó khăn và công việc tông đồ trở nên cằn cỗi. Chỉ có Ân sủng của Thánh Linh mới có thể làm sống động và phong nhiêu cho những vùng nước 'chết' này.
Chúng ta đang đến gần Lễ Vọng Phục Sinh, khi nước trong giếng rửa tội được làm phép. Đức Kitô, đã chết và sống lại, ban cho chúng ta nguồn nước mới và dồi dào, thanh tẩy chúng ta khỏi mọi tội lỗi và giải tỏa cơn khát của chúng ta một cách sâu sắc. Chúng ta phải trở về với nước của Bí tích Rửa tội.
Trở lại với trái tim mình hôm nay, tôi sẽ khiêm nhường cầu xin Chúa Giêsu: ‘Lạy Chúa, xin ban cho con nước hằng sống tuôn tràn đến sự sống đời đời.’
Thứ Tư Tuần IV MC
Đức Giêsu Kitô xét xử
Các bài đọc hôm nay cho ta biết Đức Giêsu Nagiarét là ai. Đức Giêsu biết và thấy Thiên Chúa hành động như thế nào, và nhờ đó mà Ngài hành động như Thiên Chúa, và do đó Ngài luôn hành động tốt đẹp, ngay cả trong ngày Sabát. Đức Giêsu có trong mình sức mạnh của sự sống và sự sống lại. Ngài là người con yêu dấu của Thiên Chúa, và Thiên Chúa đòi hỏi Ngài phải hoàn thành những nhiệm vụ của Ngài. Đồng thời Ngài cũng là một con người hoàn hảo, và chính vì là con người nên Thiên Chúa đã đặt Ngài làm thẩm phán xét xử mọi người. Thời giờ Thiên Chúa xét xử chúng ta, xét xử qua Đức Giêsu Kitô, không chỉ là lúc kết thúc thế gian. Là lúc này đây, hôm nay, chúng ta đều bị xét xử bởi tòa án của Đức Giêsu Kitô, bởi lẽ thời thiên sai đã khởi đầu ngay lúc Ngài chết và sống lại. Hôm nay chúng ta đứng trước sự phán xét và lòng thương xót của Thiên Chúa, được trao ban cho Đức Giêsu Kitô. Phán xét điều dữ mà chúng ta đã phạm và vạch trần cho ta thấy. Nhưng Đức Giêsu Kitô mang lại cho ta sự tha thứ tội lỗi, chữa lành điều ác và phục hồi sự sống, sự sống mà chính ta đã cắt đứt hoặc làm suy yếu đi nơi chúng ta.
Do đó, cần đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nếu ta tin rằng Đức Giêsu Kitô đã thực sự đi vào trong lịch sử của nhân loại khi Ngôi Lời Thiên Chúa làm người và Chúa Cha đã tỏ cho ta tình yêu của Người bằng cách trao ban cho ta Con của Người, nếu ta phó thác trong tay của Đức Giêsu Kitô, ta sẽ được thoát khỏi sự chết và bước vào sự sống, và thay vì bị xét xử, chúng ta nhận được lòng thương xót và trở thành con cái Thiên Chúa. Đàng khác, ta có thể từ khước ân ban này, ta có thể ưa chuộng sự dữ trong ta và không muốn được chữa lành. Trong trường hợp này, chúng ta tự đặt mình cho sự xét xử của Đức Giêsu Kitô. Cần phải cầu nguyện để không một ai làm sự lựa chọn này. Chúng ta thuộc về Đức Giêsu để cùng với Ngài cứu chuộc cả thế giới.
+++
Ta đã gìn giữ ngươi và đã đặt ngươi nên giao ước của dân, để ngươi phục hưng xứ sở... Is 49:9
Tiên tri Isaia, khi công bố một lời hy vọng, về một tương lai cho dân chúng, đã nhắc nhở giao ước và mô tả nó như được nhân cách hóa, được hình thành và thiết lập cho dân chúng. Giao ước với Thiên Chúa hình thành trong dân chúng, trong những người đại diện của họ và do đó trong mỗi thành viên của dân chúng. Đó là một cộng đồng và một thực tế cá nhân. Một kinh nghiệm giáo hội, một kinh nghiệm cá nhân. Giao ước của Áp-ra-ham được truyền qua các con vật được dâng làm của lễ toàn thiêu; khuôn mặt của Môi-sê sáng chói ánh sáng của Đức Chúa và chiếu lại ánh sáng ấy cho những vị kỳ mục. Đấng mới vượt qua thân xác và sự tồn tại trước Chúa Kitô và do đó của con người và cho phép họ thực hiện các công việc của Thiên Chúa: sống lại, tái chiếm lại di sản bị tàn phá, giải thoát các tù nhân.
Lạy Chúa, xin ban cho Thánh Thể hằng ngày có thể làm cho chúng con trở thành những người nam nữ của giao ước của Chúa và với những gì chúng con được phục hồi là sự sống, tự do và không làm mất đi di sản quý báu của Chúa.
Thứ Năm Tuần IV MC
Bò vàng hay Thiên Chúa
Bài đọc Cựu Ước gìn giữ ta khỏi cám dỗ đi tìm con bò vàng, vị thần linh thấy được và chạm đến được do tay con người làm ra. Bài Tin mừng theo thánh Gioan đòi hỏi chúng ta tin vào Đức Giêsu Kitô. Nền tảng niềm tin của chúng ta là chứng từ của Cựu và Tân Ước. Chứng từ của sự thật mà con người không thể chứng minh bằng khoa học, cũng không thể kết đọng lại trong một luật lệ. Người Do thái thời Đức Giêsu có Cựu Ước, nhưng họ không hiểu những lời của Môsê nói về Đức Giêsu. Trước mắt họ, vị tiên tri thành Nagiarét đã làm bao nhiêu dấu lạ, nhưng họ đã giải thích bằng nhiều cách khác nhau. Cần phải tin để hiểu được nội dung. Đức Giêsu đã muốn thuyết phục họ bằng cách hiến trao mạng sống mình vì họ.
Nhiều người tin vào Ngài, nhưng những kẻ thông thái và các kỳ lão chối từ. Còn chúng ta, chúng ta hiểu tin mừng như thế nào? Chúng ta có tin vào chứng từ của Chúa Cha nơi Đức Giêsu Nagiarét không? Có tin rằng Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa, là Đấng Messia mọi người mong đợi không? Thiên Chúa, chẳng ai thấy bao giờ, nhưng chúng ta có lời của Đức Giêsu Kitô. Lời của Thiên Chúa có nơi chúng ta không? Và chúng ta có ở trong Đức Giêsu Kitô không? Có lẽ người ta sẽ trách cứ chúng ta vì đã không tin vào Đức Giêsu và các sứ giả của Ngài, trong khi lại tiếp nhận bất cứ học thuyết qua bất cứ nẻo đường nào (nhiều lúc kỳ quặc) vì là ‘mốt thời đại’, vì là ‘hàng ngoại nhập’ …? Nhiều lần chúng ta xấu hổ vì tin và vì đi tìm gặp Thiên Chúa trong kitô giáo cổ xưa.
Hãy cầu xin cho được ơn đức tin, đức cậy và đức mến, để nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và để chúng ta cũng được biến đổi thành con cái Thiên Chúa, thông hiệp cùng với Người Con Duy Nhất của Ngài.
+++
Rồi Môisê cầu xin Đức Chúa Trời của ông và nói: Xin Chúa nguôi cơn giận và tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi dân Chúa. Xin Chúa nhớ đến Abraham, Isaac, và Israel tôi tớ Chúa, vì chính Chúa đã thề hứa rằng: "Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi sinh sản ra nhiều như sao trên trời, Ta sẽ ban cho con cháu các ngươi toàn cõi xứ này như lời Ta đã hứa, và các ngươi sẽ chiếm hữu xứ này mãi mãi".. Xh 32:9-13
Môisê, nhà lãnh đạo của Israel, không bỏ cuộc trong việc lặp lại lời khẩn cầu của mình với Đức Chúa: "... xin đừng làm hại dân của Chúa." Tuy nhiên, trong quá trình cầu nguyện của mình, Môsê hiểu rằng đó là đọc lại lịch sử của Israel bắt đầu từ tổ tiên xa xôi nhất. Đây là nơi Áp-ra-ham, Isaác và tất cả những tôi tớ trung thành với Đức Chúa bước vào hiện trường.
Đoạn văn sách Xuất Hành trên là một bài giáo lý về cầu nguyện, khi nó được thực hiện tốt, có sức mạnh để thay đổi tư tưởng của chúng ta, chính cuộc sống của chúng ta. Thật vậy, khi chúng ta nghĩ đến việc cầu xin ân huệ cho người khác hoặc để vượt qua những biến cố đau đớn, chúng ta cảm thấy rằng trái tim chúng ta mở ra với những viễn cảnh phấn khởi chỉ có thể đến từ thiên đàng: "Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi đông như sao trên trời". Vào thời điểm mà đối với chúng ta dường như mọi thứ đã bị mất và bị xóa bỏ, bầu trời của khả năng sáng tạo, sở hữu những của cải không thể tưởng tượng được "mãi mãi" mở ra. Trong lời cầu nguyện, chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta, như Áp-ra-ham đã làm, một dòng dõi nhiều như sao trên trời. Vì vinh quang của Chúa. ‘Hy vọng là một chiều kích của linh hồn, nó là một định hướng của tinh thần, một định hướng của trái tim. Tình huống mà chúng ta bày tỏ hy vọng của mình càng bất lợi, thì hy vọng của chúng ta càng mạnh liệt’.
Thứ sáu Tuần IV MC
Kết án cho nó chết
Tin mừng hôm nay trình bày thảm kịch Đức Giêsu bị các đầu mục trong dân loại bỏ. Đức Giêsu phải ẩn mình, và dân chúng không biết phải nghĩ gì về Ngài, vì các đầu mục tôn giáo không tin Ngài là Đấng Messia. Các biệt phái không tin vào Đức Giêsu, vì họ xét đoán Ngài dựa theo luật lệ ngày Sabát và nghi thức thanh tẩy, mà không đi vào chiều sâu của giáo huấn của Ngài. Các tư tế từ chối Đức Giêsu vì lý do chính trị. Còn chúng ta hôm nay thì sao? Thế giới hôm nay có đưa ra những lý do tương tự để chống đối và không tin lời dạy của Đức Giêsu, là những lời chứng thực căn tính của Ngài và mời gọi niềm tin không?
Đâu là những nguyên do của việc yếu kém đức tin? Chắc chắn là những hình thức tư tưởng hiện nay khác biệt với thời đại của đức Giêsu. Có lúc dựa vào khoa học, có lúc dựa vào những tập tục. Không chỉ những người theo chủ nghĩa Mácxít mới chối bỏ đức tin nhân danh một học thuyết chính trị. Xã hội tiêu thụ, chạy theo lợi nhuận vật chất, trong thực tế cũng đang chối bỏ như thế cho dù không học thuyết hóa nó. Và chúng ta, chúng ta có thể tin bằng cách chấp nhận thảm kịch của Đức Giêsu, và cùng với Ngài, chấp nhận bị loại trừ, bị lên án, hoặc hơn thế nữa bị những người xung quanh chống đối không? Có thể đó chỉ là một xung đột trong nội bộ của Giáo Hội dưới chiêu bài chủ nghĩa vụ hình thức luân lý, hoặc xung đột trong lòng của xã hội dân sự trong việc bảo vệ điều thiện hảo, bảo vệ người anh em và các quyền lợi sự sống của họ và đòi hỏi sự công bình cho họ. Là những nước nhận biết tin mừng từ bao thế kỷ, ta đã làm gì để đưa vào trong đời sống xã hội và chính trị những nguyên tắc của tình yêu đồng loại? Lẽ nào chúng ta không bị Đức Giêsu khiển trách, vì không tuân giữ luật Thiên Chúa, vì chúng ta giết hại người khác?
+++
Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm... Kn 2:1.
Những lời của Sách Khôn ngoan tái khẳng định một kinh nghiệm được thực hiện từ thuở sơ khai và tiếp tục cho đến ngày nay: sống vì sự thật, công lý, lòng thương xót và hòa bình không đảm bảo sống trong hòa bình, được mọi người yêu mến và tôn trọng. Thực sự, trong cuộc sống hàng ngày, những kẻ độc ác, xảo quyệt, những người vô đạo đức nhắm đến kết quả buộc chúng ta không xem xét bất kỳ loại giá trị nào cho phép bảo vệ quyền lợi, dường như chiếm ưu thế. Sống trung thực là một sự lựa chọn can đảm: lựa chọn duy nhất cho phép chúng ta kéo dài hành động của Thiên Chúa và xây dựng Vương quốc của Ngài. Nhưng đó là một lựa chọn có thể đưa đến việc bị kết án tử hình: mafia, chế độ độc tài, chủ nghĩa cuồng tín và chủ nghĩa tôn giáo chính thống có xu hướng tiêu diệt những người yêu công lý. Ngay cả Chúa Giêsu, trong sự thật cũng khơi dậy trong những người có quyền lực ý định bắt giữ và loại bỏ Ngài.
Lạy Chúa, cái chết của Ngài là sự cứu rỗi của chúng con. Bởi vì bằng cách trỗi dậy, Chúa đã đánh bại tất cả những điều đó và đánh dấu chấm hết vào tiềm năng hủy diệt của chúng. Xin giúp chúng con đừng sợ hãi những kẻ đe dọa cuộc sống của chúng con để chúng con có thể sống trong ánh sáng của Ngài, theo sự công bình của Chúa và trong Chúa là đường, là sự thật và là sự sống.
Thứ bảy Tuần IV MC
Số phận vị ngôn sứ
Đức Giêsu nhận lấy số phận của các ngôn sứ bị loại trừ và của tất cả những ai đang bị bỏ rơi. Ngài nhận nơi mình Ngài số phận của các quốc gia bị bách hại vì đã chiến đấu cho tự do, số phận của những người đấu tranh cho niềm tin mà bị kết án, cho dù họ bị bách hại bởi quyền lực vô thần hay bởi những tín đồ của một tôn giáo khác. Tin Mừng hôm nay cho ta thấy có rất ít người bảo vệ Đức Giêsu. Các người canh giữ đền thờ không muốn bắt Ngài, và Nicôđêmô hỗ trợ Ngài cách kín đáo, bằng cách lập luận rằng người ta không lên án ai mà chưa nghe họ bàu chữa.
Trong thế giới ngày nay, chúng ta cũng tìm cách bảo vệ những người bị bách hại cách bất công, nhưng một cách nhút nhát. Có lúc chính quân đội từ chối bắn vào thường dân, như đã xảy ra ở các nước vùng Baltique. Có lúc trên trường chính trị người ta từ chối –hết sức nhút nhát- cho một cường quốc quyền được đàn áp một dân tộc. Thảm cảnh Đức Giêsu bị kết án, bị bắt và đóng đinh như Tin Mừng hôm nay tường thuật, vẫn còn tiếp diễn trong lịch sử nhân loại. Mỗi người chúng ta đóng một vai, trong thảm kịch đó. Đức Giêsu từ Thiên Chúa mà đến để chiến thắng sự dữ bằng tình yêu. Chiến thắng của Ngài hoàn tất trên thập giá.
Chiến thắng của Ngài không ngừng được thực hiện nơi chúng ta, bằng cách ngang qua thập giá. Chúng ta cần quan sát cảnh tượng của thế giới ngày nay dưới ánh sáng cuộc xét xử của Đức Giêsu và cuộc tranh luận gây ra từ chính con người của Ngài, khi Ngài sống và thi hành sứ mạng của Ngài tại Palestina. Chúng ta có thể nhận ra Đức Giêsu và giáo huấn của Ngài trong Giáo Hội không? Quả thật chúng ta không loại bỏ một ai, cũng không xét xử một ai đó cách bất công sao? Chúng ta có thể nhận ra Đức Giêsu nơi những kẻ nghèo và nơi những nạn nhân trên thế giới không? Chúng ta đóng vai nào trong thảm kịch các ngôn sứ hiện nay đang bị loại trừ, trong thảm kịch hiện nay của Đức Giêsu Kitô và của tin mừng? Đức Giêsu? Nicôđêmô? Những người canh giữ đền thờ?
+++
Nhưng lạy Chúa các đạo binh, Chúa xét xử công minh, và dò xét tâm can. Chớ gì con sẽ thấy Chúa báo thù chúng, vì con đã phó thác việc con cho Chúa.. Gr 11,20
Giê-rê-mia khiêm nhường tự biến mình thành người phát ngôn của Đức Chúa bằng cách phó mình cho dân chúng, thực sự ông cầu bầu cho họ. Đổi lại, ngài bị chống đối với âm mưu của những người cố gắng giết chết ngài. Trong sự thất bại của tiên tri, sự yếu đuối của một Lời tự thể hiện mình như bất lực: nó không áp đặt chính mình, nhưng tự đề xuất, do đó phơi bày chính mình với khả năng bị từ chối, thực sự là chính phản ứng bạo lực. Và, trên thực tế, Giê-rê-mia bị bắt bớ và sẽ kết thúc những ngày của mình nhân danh thất bại. Một số phận tương tự sẽ xảy ra với "Lời" đã trở nên xác thịt, Chúa Giêsu, bị từ chối không chỉ vì sứ điệp của Ngài không thoải mái và làm suy yếu một trật tự được thiết lập trước bảo đảm các đặc quyền cho những người có quyền lực, mà còn vì khó khăn trong việc giải thoát mình khỏi những cạm bẫy của thành kiến: ‘Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa’.
Kết luận hợp lý là: ông không phải là một nhà tiên tri, càng không phải là Đấng Mê-sia. Do đó, việc loại bỏ ông trở thành một bổn phận để bảo vệ sự thuần khiết của tín ngưỡng Israel, để bảo vệ những người ngu dốt, để bịt miệng một tin đồn không thể là sự thật. Và mọi thứ đều được che đậy trong tính hợp pháp. Phản ứng? Chúng ta thấy nó được hình thành trong "lời thú tội" của Giê-rê-mia, trong câu ngắn này toát lên sự tin tưởng phó thác trong tay của những người chỉ biết sâu sắc những gì ngự trong lòng con người và do đó có thể phán xét với công lý. Ngài cầu xin sự trả thù, nhưng không trả thù, để Đức Chúa Trời tuyên bố lời cuối cùng. Chúa Giêsu sẽ đi xa hơn: Người không những sẽ không trả thù hoặc cầu xin Thiên Chúa làm điều đó thay cho mình, Người cũng sẽ không giới hạn bản thân mình trong việc tha thứ, nhưng Người sẽ cầu bầu để có được sự tha thứ từ Chúa Cha cho những người đóng đinh Người. Và ở đây, trong sự yếu đuối của Lời, sức mạnh bất khả chiến bại của Thiên Chúa sẽ được bày tỏ, rửa sạch, cứu chuộc và tiêu diệt bạo lực tàn bạo của sự dữ.
Hôm nay tôi muốn dừng lại và suy ngẫm về sức mạnh phục hồi của sự tha thứ: chỉ bằng cách phá vỡ vòng luẩn quẩn của hận thù và trả thù thì chân trời vô biên và giải thoát của sự tốt lành mới mở ra. Tại sao tôi không là người bắt đầu? Lạy Chúa, xin ban cho con sự phó thác đầy tin cậy của Giê-rê-mia, Đấng để dành sự phán xét cho Ngài, và sức mạnh của sự tha thứ của Chúa Giê-su, Đấng cầu bầu cho những kẻ bắt bớ Ngài. Bằng cách này, Ta cũng sẽ gieo trồng, trong sa mạc của thế giới, một hạt giống nhỏ có khả năng nảy mầm và nở rộ trong tình yêu. Tiếng nói của một nhà văn: Tha thứ là bắt đầu lại một lịch sử mới.
Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê