CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG B
Khi lãnh nhận một chức vụ gì, chúng ta rất cần người làm chứng hoặc giới thiệu ta cho những đối tác liên can. Khởi đầu cuộc đời công khai, đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng cần một người đủ uy tín để giới thiệu và làm chứng cho Chúa với dân chúng và ông Gioan Tẩy giả được lãnh nhiệm vụ này cho nên Tin Mừng hôm nay ghi nhận : “Gioan được Chúa sai đến để làm chứng về sự sáng”. Sau này Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống (Ga 8,12)”. Chúa cho người Do thái biết: “Gioan là ngọn đèn cháy sáng và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng đó trong một thời gian (Ga 5, 35)”. Vậy ông Gioan đã làm chứng cho Chúa Giêsu như thế nào?
Ông đã làm chứng cho Chúa Giêsu bằng lời nói, hành động cũng như cả cuộc sống. Khi giáo quyền từ Giêrusalem sai các tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông với câu: “Ông là ai?”, chúng ta thấy ông Gioan tỏ ra rất trung thực và khiêm tốn trong cả ba trả lời: Câu thứ nhất ông không nhận mình là Đức Kitô, câu thứ hai: ông không nhận mình là tiên tri Êlia tái lâm. Câu thứ ba ông cũng không dám nhận mình là Đấng tiên tri tức là vị Tiên tri lớn mà ông Mosê trước khi qua đời đã tiên báo Thiên Chúa sẽ ban cho dân Israel sau này. Cả ba tước hiệu vinh dự và lớn lao đó, ông đều không nhận. Giả như ông lợi dụng uy tín đang lên cao của mình mà nhận ít nữa là một trong ba danh hiệu đó thì nhiều người vẫn tin, nhưng ông đã khước từ tất cả. Vậy ông tự xưng là ai khi họ tiếp tục phỏng vấn và đây là câu trả lời của ông: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi như tiên tri Isaia đã loan báo”. Chính vì ông tự nhận là tiếng kêu dọn đường cho Chúa nên chúng ta gọi ông là Gioan Tiền hô, hay nói theo ngôn ngữ ngày nay: Ông là tiếng loa “Alô”cho người ta chuẩn bị đón Chúa đến.
Ông Gioan không chỉ làm chứng cho Chúa Giêsu bằng lời nói mà còn bằng việc làm nữa. Ông kêu mọi người sám hối và ông làm phép rửa tại sông Giođan để giúp người ta tỏ lòng thống hối hầu có thể đón Đức Kitô đang đến: Ông cho phái đoàn từ Giêrusalem và dân chúng biết: “Có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đã có trước tôi”.
Ông Gioan còn khiêm nhường xóa mình đi để nói lên sự cao trọng của Chúa Giêsu, Đấng mà ông giới thiệu đang đến khi ông nhận mình không đáng cởi giây giầy cho Chúa và phép Rửa của ông tuy đang được rất nhiều người đến xin ông Rửa cho, nhưng ông cho biết phép rửa do Chúa Giêsu cao trọng hơn nhiều vì phép Rửa của ông bằng nước chỉ có mục đích thúc dục lòng thống hối, giúp người lãnh nhận dọn tâm hồn đón Chúa đến trong khi phép Rửa của Chúa Giêsu là phép rửa trong Chúa Thánh Thần cao trọng hơn rất nhiều.
Ông còn giới thiệu Chúa Giêsu bằng cách chỉ Chúa Giêsu đang đi tới cho các môn đệ của ông: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” và sẵn sàng để cho môn đệ của ông đầu quân sang làm môn đệ Chúa Giêsu rồi sau này khi dân chúng đến cùng Chúa Giêsu nhiều hơn, ông không buồn mà còn nói lên tâm nguyện như sau: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi (Ga 3,30)”
Cuối cùng ông đã chấp nhận ngục tù và bị vua Hêrôđê chém đầu để làm chứng cho sự thật khi ông can đảm lên tiếng trách vua lấy vợ của anh mình.
Noi gương ông Gioan Tẩy giả, mỗi người chúng ta một khi đã tin theo Chúa, chúng ta sẽ nhiệt tình làm chứng cho Chúa và giới thiệu Chúa Giêsu cho những người chưa nhận biết Chúa. Chúng ta làm chứng cho Chúa bằng lời nói và hành động như ông Gioan. Trong những câu chuyện hằng ngày giữa bà con bạn bè, khi nào có thể nói về Chúa, về đạo thánh Chúa thì chúng ta không ngại có những lời nói trực tiếp hay gián tiếp về Chúa. Nhất là những việc làm bác ái từ thiện chúng ta làm cũng là cách tốt để làm chứng cho Chúa.
Câu chuyện: Có một đôi vợ chồng già đều là Bác sĩ ở Trung quốc vì thời còn trẻ họ học chung một lớp tại trường y, họ yêu nhau và kết hôn với nhau. Bà là người công giáo, ông là người ngoại giáo. Bà có khuyên ông theo đạo nhưng ông không chịu. Ông bà sinh được một đứa con trai. Tới thời chiến tranh xảy ra, ông bắt buộc phải đi làm bác sĩ quân y, cho nên vợ chồng xa cách nhau. Bà vẫn làm việc ở bệnh viện địa phương và một mình chăm sóc đứa con trai còn nhỏ. Vì chồng bà đi công tác xa và không biết khi nào về lại, nên người ta muốn ép bà li dị chồng và bỏ đạo để được thăng tiến hơn trong xã hội nhưng bà không chịu. Mỗi tối bà và đứa con quì cầu nguyện xin Chúa cho vượt qua khó khăn. Mãi sau vào cuối thập niên 1970 chồng bà mới được về nhà. Bà ra đón ông tại sân ga. Ông rất cảm động vì bà vẫn giữ sự chung thủy, trong khi nhiều đôi vợ chồng trong hoàn cảnh tương tự đều li dị, nên ông xin theo đạo và chịu phép Rửa tội.
Chúng ta nguyện trung thành sống đức tin công giáo và giữ luật Chúa dạy về hôn nhân gia đình đồng thời biết làm chứng cho Chúa trong môi trường chúng ta đang sống hôm nay. Amen
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn