Lời Chúa: Is 7,10-14; Rm 1,1-7; Mt 1,18-24
MỤC LỤC
(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Tin Mừng Luca nói đến việc truyền tin cho Đức Mẹ, còn Tin Mừng Mátthêu lại nói đến việc truyền tin cho Giuse. Sứ thần Chúa giải tỏa nỗi lúng túng và bối rối của ông, khi báo cho ông hay thai nhi nơi người vợ chưa cùng ông chung sống là do quyền năng Thánh Thần. Sứ thần mời gọi ông cứ đón nhận Maria làm vợ, và chấp nhận thai nhi như con mình.
Giuse đã nói tiếng Xin Vâng. Ông đón lấy những mầu nhiệm mà ông không hiểu hết.
Maria là một mầu nhiệm. Người con sắp sinh ra bởi Thánh Thần cũng là mầu nhiệm. Giuse đã để cho các mầu nhiệm vây bọc mình.
Cả cuộc đời Giuse là chiêm ngắm các mầu nhiệm diễn ra một cách bình thường, sát bên ông. Và chính cuộc đời của ông cũng là một mầu nhiệm.
Giuse chấp nhận ý định của Thiên Chúa dù nó phá vỡ ước mơ ông ấp ủ từ lâu. Ông muốn làm chồng cô Maria, người ông yêu mến, nhưng Thiên Chúa lại muốn ông làm bạn của cô thôi. Ông muốn là cha của một đàn con đông đúc, nhưng ông chỉ là cha nuôi của Đức Giêsu.
Bề ngoài, Giuse vẫn gánh trách nhiệm làm chồng, làm cha, nhưng căn tính sâu xa của ông, ít ai biết.
Ông sống một mình mầu nhiệm đời ông trước Thiên Chúa.
Giuse đã mau mắn nói tiếng Xin Vâng.
Ông luôn bị đánh thức vào lúc đang an nghỉ. Sứ thần Chúa bảo ông chỗi dậy để làm điều gì đó. Ông bỏ dở giấc ngủ và lên đường giữa đêm khuya. Từ Nadarét lên Bêlem, từ Bêlem đi Ai cập, rồi lại trở về. Giuse chịu trách nhiệm về những kho báu Chúa giao.
Vâng phục một cách đơn sơ: đó là thái độ của Giuse.
Hôm nay có thể Chúa không nói với tôi qua giấc mơ, nhưng qua bao con đường khác, rất riêng tư, mà chỉ mình tôi cảm nhận được. Nếu tôi mau mắn nói tiếng Xin Vâng như Giuse, tôi sẽ góp phần vào việc cứu độ cả thế giới.
Để Con Thiên Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong tư cách một người cha: những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra, nếu như Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.
Nhờ Giuse, Đức Giêsu đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm 7,13).
Cùng với Giuse, xin được gọi tên Con Thiên Chúa là GIÊSU.
Cùng với cả vũ hoàn, xin gọi tên Ngài là EMMANUEL. GIÊSU là Thiên-Chúa-ở-với-ta cho đến tận thế.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo kinh nghiệm của bạn, Thiên Chúa thường nói với bạn bằng những cách thức nào? Có khi nào bạn xin vâng khi dự tính của bạn bị tan vỡ không?
Con Thiên Chúa được gọi bằng nhiều tên: Giêsu, Kitô, Con vua Đavít, Emmanuel. Bạn thích tên nào hơn cả? Tại sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi chính mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
Tám ngày trước Đại Lễ Giáng Sinh, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm chân dung của Thánh Giuse và Mẹ Maria. Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, vai trò của Thánh Giuse và Mẹ Maria rất quan trọng. Chính nhờ lòng vâng phục của Thánh Giuse và Mẹ, mà Đấng Emmanuel đã nhập thể, nhập thế và hiện hữu trong một dòng tộc giữa trần thế để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa trong sứ mạng cứu độ nhân loại.
Vai trò của Mẹ Maria thật lớn lao. Mẹ luôn hiện diện trong những tường thuật của Tin Mừng mà chúng ta sẽ đọc cho tới ngày Noel “Đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người…” Những lời kể về Mẹ thật giản dị nhưng lại mang nặng chiều sâu nhân loại và mầu nhiệm. Chúng ta chiêm nghiệm hình ảnh của Mẹ Maria, một thôn nữ đang ở độ tuổi mười lăm đôi mươi.
Mẹ Maria theo tập tục của Phương Đông thời ấy, đính hôn và thành hôn với một người nam “Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse.” Với kinh nghiệm của nhiều người, chắc hẳn chúng ta biết trong thời gian sau khi đính hôn, người ta rất hạnh phúc để chờ đợi ngày được ở bên nhau. Thế nhưng, với Mẹ Maria, một biến cố mầu nhiệm khác đã diễn ra trong cuộc hôn nhân của Mẹ “Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.” Người con Mẹ đang cưu mang là do quyền năng Thiên Chúa thực hiện sau lời xin vâng và niềm xác tín của Mẹ vào chương trình của Ngài. Con trẻ này không là một trẻ thơ như bao đứa trẻ khác. Người là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Người sẽ được gọi là “con người và Thiên Chúa”. Nhưng làm sao Giuse, hôn phu của Mẹ hiểu được và đón nhận?
Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể. Thiên Chúa đã quan phòng chuẩn bị cho Ngôi Hai một người cha trần thế. Người cha ấy chắc chắn cũng được đầy tràn ân sủng “Ông Giuse, chồng bà là người công chính.” Vì công chính nên khi gặp điều trái ý, đối diện với những biến cố khó khăn hay sai phạm của người, Giuse chỉ âm thầm suy nghĩ và tìm cách cư xử tốt nhất cho người khác, nhất là người mà mình yêu thương “không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.” Làm sao có thể hiểu được ý Chúa nhiệm mầu? Làm thế nào để thực hiện được chương trình của Thiên Chúa, nếu không lắng nghe và mở lòng vâng phục tín thác?
Có thể nói giấc mộng và lời báo mộng của Thiên Thần Chúa cho Thánh Giuse được gọi là một biến cố “Truyền Tin”, một loan báo về cuộc sinh hạ của Chúa Giêsu Kitô- Đấng Cứu Độ “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại …Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” Lời sứ thần mà Giuse lắng nghe đã thay đổi mọi suy nghĩ và quyết định của ngài. Giờ đây thực thi ý Chúa và cộng tác với chương trình cứu độ của Chúa là chọn lựa hàng đầu của thánh Giuse. Từ đây, ngài đã đón nhận Đấng Cứu Thế và Mẹ Người bằng hành động cụ thể và cuộc sống hy sinh tận tụy trong suốt cuộc đời.
Tạ ơn Thiên Chúa về lời hứa kỳ diệu Ngài đã thực hiện “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là ‘Thiên Chúa ở cùng chúng ta.’” Một Đấng Cứu Độ mặc lấy xác phàm để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa. Một Giao Ước mới với nhân loại được thực thi “Emmanuel-Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Thật hạnh phúc cho chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương khi sai Ngôi Hai Thiên Chúa đến ở cùng và cứu độ chúng ta. Vậy chúng ta có ước muốn Thiên Chúa ở cùng và sẵn lòng đón Người không? Mẹ Maria và Thánh Giuse đã là mẫu gương cho chúng ta về việc rộng mở tâm lòng và cuộc đời để Chúa đến, ở cùng và cứu độ.
Ta hãy chiêm ngắm sự dâng hiến trọn vẹn cuộc đời và chương trình riêng của Mẹ Maria để xin vâng và cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Cung lòng Mẹ đã trở nên đền thờ cho Chúa ngự. Mẹ đã cưu mang, dưỡng nuôi Con Thiên Chúa trong chính lòng dạ mình và Mẹ được gọi là “Thân Mẫu Chúa Giêsu”. Chúng ta cũng hãy học nơi Thánh Giuse sự khéo léo tế nhị khi đối xử với anh chị em và lòng vâng phục tín thác vào thánh ý Thiên Chúa qua mọi biến cố, qua tiếng nói lương tâm chân chính và trong sáng. Sự công chính đã giúp ngài có khả năng tham dự vào mầu nhiệm của Thiên Chúa và sẵn sàng dấn thân cộng tác thực thi chương trình của Chúa dẫu cho khó khăn vất vả.
Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài. Chúng ta, từng Kitô hữu hay những đôi bạn trẻ sắp, đang và đã bước vào đời hôn nhân. Hôm nay, mỗi chúng ta cũng có một trách nhiệm: lắng nghe, thực thi thánh ý Chúa, làm cho Chúa sinh ra trong tâm lòng mình, trong anh chị em và nhất là để Chúa ở cùng, lớn lên và cứu độ chúng ta. Ước gì trong thời gian cuối của Mùa Vọng này, chúng ta biết noi gương Mẹ Maria và Thánh Giuse, biết hăng hái thưa xin vâng và sẵn sàng chọn lựa theo ý Chúa để dâng trọn cuộc đời thực hiện những phương cách cứu độ trong thế giới hôm nay qua đời sống yêu thương, công bằng, bác ái, sẻ chia cụ thể. Có như thế, cuộc đời chúng ta mới thực sự có Thiên Chúa ở cùng và chính chúng ta là cánh tay nối dài của Chúa vươn đến anh chị em.
Lạy Đấng Emmanuel, xin đến và ở cùng chúng con. Xin dạy chúng con biết mở rộng tấm lòng chờ đón Chúa và dấn thân thực thi thánh ý Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Vua Akhab, người làm chủ một đất nước, không tin Chúa nên đã đưa cả dân tộc đến chỗ diệt vong. Một gia trưởng, hết lòng tin vào Chúa, đã đưa muôn dân đến ơn cứu độ. Gia trưởng đó là ai? Thưa là Giuse, một người chồng lý tưởng trầm tĩnh sáng suốt, luôn luôn biết cầu nguyện bàn hỏi Chúa về mọi vấn đề, để hành động hợp với đức mến Chúa yêu người và luật lệ xã hội. Trước vấn đề gay cấn nhất của bậc vợ chồng là Maria đã mang thai ngoài ý của mình, Giuse đã cư xử thế nào?
1- Giuse đã rất tế nhị hiền lành: theo luật, Giuse được tố cáo Maria để ném đá. Nhưng Giuse đã không nói một lời nào làm phiền Maria, không một cử chỉ nhỏ nào làm Maria phải ngượng ngùng, e ngại, không một cái nhìn nhỏ nào làm cho Maria phải khó chịu. Giuse đã tỏ lòng trọng kính chân thành hết sức mình đối với Maria. Nếu chỉ tỏ một tí nghi ngờ, mặt nặng mặt nhẹ thôi, đủ gây đau khổ dai dẳng ngậm ngùi cho giới liễu yếu đào tơ đến chừng nào! Gia đình sẽ bị đổ vỡ lập tức.
2- Giuse đã cư xử rất thánh thiện và công chính: cứ theo nhận xét bề ngoài thì không thể biết được ơn phúc mang thai của Maria, nên Giuse không thể tự cho phép mình chung sống bất chính với Maria. Ông đã quyết định xa bà cách âm thầm. Quyết định đó rất công chính vì hôn phối của Giue và Maria chưa thành sự, mới đính hôn, chưa về chung sống với nhau, bỏ là rất hợp pháp và hợp lý cho đời sống trong sạch thanh tịnh của ông. Quyết định đó chứng tỏ Giuse rất nhân từ và thánh thiện. Thánh thiện vì Giuse thấy cái gì có dáng vẻ tội lỗi thì ông cương quyết tránh xa. Nhân từ vì ông đã hành động thật êm ái, kín đáo, không để lộ việc gì làm bà sợ hãi trong lúc mang thai. Ông còn hết sức giữ gìn danh thơm tiếng tốt của bà. Sự công chính của Chúa là biểu lộ lòng thương xót của Ngài đối với tội nhân. Giuse đã biểu lộ được lòng thương xót của Chúa, nên Kinh thánh đã đặc biệt gọi thánh Giuse là Đấng công chính. Nhờ đó, Chúa giải quyết những vấn đề gây cấn nhất cho gia đình nhân loại để nhân loại được tràn đầy vinh phúc lãnh nhận ơn cứu độ.
“Hãy đến cùng Giuse” – Xin cho hết mọi gia trưởng biết đến cùng Giuse thấm nhuần được lòng từ bi nhân hậu, thực thi đức mến Chúa yêu người như Thánh Cả để làm cho gia đình được sống trong tình thương hạnh phúc và chúc lành muôn thuở của Chúa Giáng Sinh.
Maria biết rằng mình đang mang thai khi chưa về chung sống với chồng sẽ đem lại nhiều hậu quả không hay: Cha mẹ sẽ buồn, người chồng sẽ nghi ngờ, thiên hạ sẽ dị nghị, bản thân sẽ bị chê cười, nhưng Maria luôn tin vào Chúa và mọi sự đều do sự an bài của Ngài, vì thế Maria luôn bình tĩnh, âm thầm để mặc cho Chúa tự do hành động.
Còn Giuse cũng vậy, thấy người bạn của mình như thế, Giuse không vội vã tức giận, hành động mù quáng và buộc tội gắt gao. Vì không được Maria giải thích, Giuse không hiểu ra làm sao, mặc dù thế Giuse vẫn trao phó mọi sự trong tay Chúa, còn mình thì sẽ trở lại cuộc sống độc thân cao đẹp thuở trước. Nhưng Chúa đã can thiệp, khiến cho Giuse và Maria đều hài lòng, trở lại đời sống vợ chồng và không còn thắc mắc chi nữa.
Nhìn vào lịch sử Giáo Hội chúng ta thấy, nhiều khi Giáo Hội cũng lâm vào những hoàn cảnh đen tối, những trường hợp khó khăn, nhưng rồi bàn tay Chúa cũng đã can thiệp, để Giáo Hội thoát khỏi những hiểm nguy mà phát triển, mà vươn lên. Tôi xin đưa ra những thí dụ điển hình.
Giáo Hội thuở ban đầu rất cần người lãnh đạo và Phêrô đã là người lãnh đạo, đã là vị Giáo hoàng đầu tiên, thế nhưng ngay từ khi bắt tay vào sứ mạng, Phêrô đã bị gông cùm, xiềng xích và tù đày. Ai cũng nghĩ rằng, làm sao Phêrô có thể thoát nổi. Nhưng rồi Chúa đã can thiệp, sai thiên thần xuống tháo rời xiềng xích, dẫn qua đám lính canh và Phêrô được giải thoát.
Tiếp đến là những thế kỷ đầu, Giáo Hội đã phải trải qua những cơn bách hại khủng khiếp dưới thời những bạo vương Lamã. Ai cũng tưởng con thuyền Giáo Hội sẽ bị vùi dập dưới những trận cuồng phong dữ dội nhất của lịch sử. Nhưng rồi kết cuộc ra sao? Hoàng đế Constantinople đã hoán cải, bóng cờ thánh giá đã tung bay và Giáo Hội bước vào một thời đại hoàng kim. Còn những bạo vương Lamã đã phải rơi vào một số kiếp bẽ bàng: Valerio thì thua trận, bị bắt làm tù binh và bị nhục nhã cho đến chết. Diocletiano thì bị bắt giam và bị nhịn đói cho chết. Maxilino thì thắt cổ tự tử, còn Galerio thì bị chứng lở lói đau đớn, không một vị lang y nào chữa nổi.
Qua những chứng tích kể trên, chúng ta hãy thêm tin tưởng vào quyền năng của Chúa, như tục ngữ ca dao vốn diễn tả: Thiên bất dung gian, ác giả ác báo, Trời xanh con mắt là gương, người ghét ít ngó người thương ngó hoài.
Hãy tin tưởng và phó thác cho Chúa vì mọi sự đều do sự an bài đầy quyền năng và tình thương của Chúa.
Đối với người Do Thái, thì có con là một sự chúc lành của Thiên Chúa, còn son sẻ là dấu của kẻ bị Thiên Chúa bỏ rơi. Hơn thế nữa, son sẻ còn là một tình trạng tương đương với sự chết chóc. Thực vậy, chết là hết sống. Son sẻ là hết dòng sự sống. Tên tuổi sẽ bị dứt khỏi trần gian.
Quan niệm về đời sau của người Do Thái lúc bấy giờ còn rất mù mờ. Mọi hy vọng của họ là cuộc sống trần gian. Phần thưởng chính là dòng dõi nối tiếp mãi trên mặt đất này. Bởi đó việc tiếp tục có dòng dõi sau tai ương khốn quẫn đã được diễn tả bằng sức sống lại.
Thế nhưng, như lời Kinh Thánh đã xác quyết về Thiên Chúa: Tư tưởng của Ta không giống với tư tưởng của các ngươi và đường nẻo của Ta cũng không giống với đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường nẻo của ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo các ngươi bấy nhiêu.
Chính vì thế, Thiên Chúa thường ghé mắt nhìn đến sự yếu hèn và bất lực, bởi đó mới nảy sinh những điều đáng ngạc nhiên trong hành động của Thiên Chúa. Ngài đã tỏ lộ quyền năng của Ngài trong sự bất lực. Đúng thế, sự đồng trinh của Đức Mẹ cũng là một cái chết, nhưng cái chết đó đã được Thánh Thần Chúa đem lại một sự sống mới. Đó cũng là điều diễn ra nơi thập giá với cái chết của Chúa Giêsu. Bởi vì sự phục sinh và sự sống mới, một sự sống dồi dào đã nẩy sinh từ cái chết đau thương của Ngài trên thập giá.
Đã từ lâu, Thánh Thần vẫn được giới thiệu như là nguyên nhân của sự sống. Khởi đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, thì thần khí đã bay lượn trên nước và làm cho mọi sự được thành hình. Adong được nặn từ bùn đất, nhưng nhờ Thần Khí của Thiên Chúa mà có sự sống. Thần Khí cũng trở thành sự sống của Adong mới. Một trinh nữ thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần đã nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa.
Phụng vụ ngày Chúa nhật hôm nay cho chúng ta cải cảm tưởng rằng Chúa Giêsu đang đi vào lịch sử nhân loại. Ngài chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ở giữa chúng ta để cứu chuộc, để giải phóng, để dẫn chúng ta ra khỏi ách nô lệ tội lỗi.
Giáo Hội hôm nay chính là sự nối tiếp sự hiện diện hữu hình của Chúa giữa con người trong thế giới, một sự hiện diện cứu chuộc và giải thoát không phải chỉ về mặt thiêng liêng bằng cách trao ban các bí tích, mà hơn nữa một sự giải thoát toàn diện, khỏi tất cả những gì cản trở sự phát triển của con người và xã hội bằng sự dấn thân và liên đới với mọi nỗ lực xây dựng tình thương và công lý.
Tại Việt Nam và nhất là tại Trung Hoa, người ta có tục tảo hôn, cha mẹ định liệu việc vợ chồng cho con cái từ khi chúng còn nhỏ. Trong tác phẩm “Vượt khỏi Đông và Tây”, tác giả John Wu đã mô tả như sau: “Trước đám cưới, vợ tôi và tôi chả bao giờ thấy mặt nhau. Cả hai chúng tôi đều được giáo dục theo đường lối cổ xưa của người Trung Hoa. Bố mẹ đã đính hôn chúng tôi với nhau khi chúng tôi mới lên sáu. Đến năm mười mấy tuổi tôi mới biết được nhà nàng ở đâu. Tôi khao khát được thoáng nhìn nàng thử xem, nên thỉnh thoảng lúc tan học về, tôi cố tình đi ngang qua nhà nàng, thế nhưng chả bao giờ tôi được may mắn nhìn thấy nàng”.
Từ đoạn văn trên chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được mối liên hệ giữa thánh Giuse và Mẹ Maria trước lúc Chúa chào đời. Theo tập tục Do Thái, mỗi cuộc hôn nhân thường trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là đính hôn. Việc này thường do cha mẹ hay người mai mối thực hiện, còn đôi bạn trẻ thường chẳng hề biết trước về cuộc đính hôn này.
Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Giai đoạn này thường kéo dài một năm để đôi bạn có dịp quen biết nhau… Khi đã hứa hôn, thì mọi người đều xem đôi bạn như là vợ chồng, mặc dù họ chưa thực sự chung sống với nhau. Lễ hứa hôn này được tổ chức rất long trọng, nên chỉ có sự ly dị mới xoá bỏ được nó.
Giai đoạn thứ ba là kết hôn theo đúng nghĩa. Thánh Giuse hay tin Mẹ Maria có thai khi hai người ở trong giai đoạn thứ hai, tức là đã hứa hôn với nhau.
Tuy nhiên tôi muốn chia sẻ về một điểm khác quan trọng hơn, đó là việc Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thánh Matthêu đã khởi đầu Phúc Âm bằng việc trích dẫn lời tiên tri Isaia: Một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên Con Trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đồng thời thánh Matthêu cũng đã kết thúc Phúc Âm bằng lời hứa của Chúa Giêsu: Này đây Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Vậy thì Thiên Chúa, Ngài đã ở cùng chúng ta như thế nào?
Trước hết, Ngài hiện diện giữa chúng ta qua việc sáng tạo, và đặc biệt qua quyền năng nâng đỡ của Ngài, bởi vì Ngài không phải chỉ tạo dựng mà còn gìn giữ nó được tồn tại trong một trật tự lạ lùng cho đến ngày hôm nay.
Tiếp đến, Ngài còn hiện diện giữa chúng ta qua lời Ngài trong Kinh Thánh. Chúng ta có thể sánh ví Kinh Thánh như là một bức thư của người cha gởi cho con cái mình. Người cha biểu lộ ý nghĩ của mình cho con cái trong bức thư như thế nào thì Thiên Chúa cũng mạc khải ý nghĩ của Ngài cho chúng ta trong Kinh Thánh như vậy.
Cuối cùng Ngài hiện diện giữa chúng ta một cách đặc biệt qua Đức Kitô, Con Một của Ngài. Cùng với việc giáng sinh của Đức Kitô, Thiên Chúa đã bước thêm một bước khổng lồ để đến và cư ngụ giữa chúng ta. Đồng thời nhờ đó chúng ta có thể nhìn ngắm, lắng nghe chính Thiên Chúa. Hay nói một cách khác với mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta qua một cách cụ thể và sống động qua một con người bằng máu thịt của Đức Kitô.
(Suy niệm của Jos. Hoàng Mạnh Hùng)
Không khí Giáng Sinh đã tràn ngập khắp mọi nơi. Những con đường đêm với những dàn đèn nhấp nháy giăng kín làm ta có cảm tưởng như đang đi dưới bầu trời sao rực rỡ. Những máng cỏ, hang đá, cây thông …cũng đã được dựng lên để chuẩn bị cho ngày lễ hội lớn trong năm đối với người Công giáo và cả người không theo đạo. Người ta chuẩn bị tất bật vì nay đã là những ngày cuối cùng của mùa Vọng và chỉ vài ngày nữa lễ Giáng Sinh lại về trên khắp thế giới.
Chủ đề Phụng vụ Chúa nhật cuối mùa Vọng mời gọi chúng ta đón nhận Đức Giêsu vào trong cuộc đời của mình để chúng ta được tham dự vào mầu nhiệm tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa theo kế hoạch yêu thương từ ngàn xưa qua Đức Giêsu Kitô: “Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai và đặt tên là Emmanuel.” (Is 7,14) và “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.”” (Mt 1, 23).
Thiên Chúa đã ở cùng chúng ta lâu lắm rồi nhưng ta đã chuẩn bị như thế nào để được ở cùng Thiên Chúa? Suốt mùa Vọng ta đã được nghe những lời mời gọi sám hối, những buổi tĩnh tâm …mà hầu như giáo xứ nào, hội đoàn nào cũng tổ chức. Nhưng rồi những lo toan, tất bật của cuộc sống hàng ngày đã làm ta quên những tâm tình của mùa Vọng!
Xin cùng lắng đọng tâm hồn để mỗi người trong chúng ta không chỉ chuẩn bị đón Chúa Giáng Sinh bằng những dấu chỉ bên ngoài nhưng còn thật sự đón Chúa đến trong tâm hồn mỗi người qua Lời Chúa Chúa nhật thứ IV mùa Vọng.
Trước hết chúng ta cần mở lòng đón nhận ơn Chúa và cộng tác với Chúa Thánh Thần, tích cực đem Tin mừng cứu độ cho những người hôm nay chưa được nghe loan báo Tin mừng nước trời; chưa được nhận biết và khám phá nguồn hạnh phúc đích thực nơi Thiên Chúa như Thánh Phaolô khẳng định: “Tôi, Phaolô, tôi tớ của Đức Giêsu Kitô; tôi được gọi là Tông Đồ và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa”. (Rm 1,1-3).
Đó là Tin Mừng về Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Người là Đấng mà Thiên Chúa đã hứa ban qua miệng các ngôn sứ. Người mang lấy và chia sẻ thân phận con người. Người là sự hiện hữu cụ thể của Thiên Chúa giữa con người; Người quả thật là “Emmanuel”.
Tiếp đến chúng ta hãy tìm kiếm và thực thi ý Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Can đảm và mau mắn cộng tác vào kế hoạch của Thiên Chúa qua việc Ngài mời gọi chúng ta sống và thực thi sứ điệp của Ngài. Tận tâm chu toàn mọi bổn phận mà Chúa trao ban cho ta trong từng ngày và mau mắn đón nhận thánh ý Thiên Chúa như Thánh Giuse khi Thiên Chúa mặc khải kế hoạch cứu độ qua giấc mộng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” (Mt 1,20-21) để “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà”. (Mt 1,25).
Lạy Chúa, chúng con đang bước vào những ngày cuối cùng của mùa Vọng với không khí se lạnh của những ngày cuối năm nhưng cũng rất ấm áp trong tình yêu thương qua kế hoạch cứu độ của Ngài. Xin cho chúng con nhận biết những ngày chúng con sống mãi mãi là mùa Vọng để chúng con luôn luôn chuẩn bị, trang hoàng tâm hồn chúng con bằng Lời Chúa. Để mỗi năm, khi chúng con cất tiếng hát “Trời cao hãy đổ sương xuống …”. Chúng con lại được cảm nghiệm hơn nữa tình yêu thương của Chúa qua con trẻ Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng con.
Đốt lên cây nến thứ tư của Vòng Hoa, chúng ta sắp kết thúc 4 tuần Mùa Vọng. Theo truyền thống lâu đời từ Bắc Âu, trong khí lạnh của mùa Đông, người ta đã đốt lên những cây nến trên những cành cây xanh uốn vòng. Khung vòng tròn và cành cây xanh là biểu tượng của sự sống tiếp diễn. Người ta đã đốt nến trong những đêm tối nhất trong năm, khi mọi người trông chờ những ngày dài hơn của mùa Xuân sẽ xuất hiện. Theo truyền thống, trên Vòng Hoa Mùa Vọng bao gồm có 4 cây nến. Ba cây nến mầu tím và một cây màu hồng. Bốn cây nến của Vòng Hoa biểu tượng ánh sáng dần dần được dọi chiếu vào thế gian. Ba cây nến mầu tím là biểu tượng của hy vọng, bình an và tình yêu. Ba cây nến tím này được đốt vào các Chúa Nhật thứ nhất, thứ nhì và thứ bốn của Mùa Vọng. Cây nến mầu hồng biểu trưng sự vui mừng được đốt vào Chúa Nhật thứ ba. Đôi khi có cây nến thứ năm mầu trắng được đặt ở giữa Vòng Hoa. Cây nến trắng này được đốt lên vào Lễ Giáng Sinh. Mầu trắng biểu trưng sự tinh trắng như các thiên thần và ngày sinh nhật của Chúa Giêsu. Giáo Hội Công Giáo thường dùng các mầu đặc biệt theo từng mùa, như Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh, Mùa Quanh Năm, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh để tôn vinh danh Chúa Giêsu.
Tiên tri Isaia đã xuất hiện rao giảng tại Giêrusalem khoảng năm 742-701 trước Công Nguyên. Trong sự mong đời mịt mù giữa bao thử thách, Isaia đã loan báo một tin vui cho dòng dõi Dân Do-thái: Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Is 7, 14). Đọc lịch sử ơn Cứu Độ, chúng ta nhận biết Thiên Chúa đã thực hiện công trình cứu chuộc qua cả ngàn năm. Một diễn tiến rất chậm rãi qua biết bao nhiêu thế hệ và trải qua nhiều biến cố. Thiên Chúa đã sai tiên tri loan tin mừng cứu độ qua một nhóm nhỏ trung tín còn sót lại. Biết rằng xưa kia, người ta không có in ấn sách vở, truyền thanh, truyền hình hay một phương tiện kỹ thuật văn minh nào để phổ biến. Các sứ điệp chỉ được truyền miệng và ghi chép vào các cuốn sách (papyrus) lưu giữ qua nhiều đời.
Dấu chỉ: Một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai là một sứ điệp cao trọng. Sứ điệp này đã từ từ khai mở về ý nghĩa mầu nhiệm Con Chúa giáng trần. Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa với tổ tiên loài người sau khi đã phạm lỗi. Thiên Chúa phán với con rắn là ma quỉ: Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng dõi mi và dòng dõi người ấy, dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi và mi sẽ cắn gót nó (Stk 3, 15). Chúng ta là hậu sinh được học biết nhiều về qúa trình lịch sử bốn, năm ngàn năm. Đã có biết bao dòng dõi và thế hệ con người liên đới trong công cuộc cứu rỗi này, đặc biệt là Dân Do-thái, dân được tuyển chọn. Dân sống giữa một thế giới đa dân tộc từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, từ khắp các vùng văn hóa. Đọc lịch sử tôn giáo, chúng ta nhận biết có rất nhiều các tôn giáo cổ đã xuất hiện từ rất sớm trong thời kỳ này như các đạo Hindu, Balamôn, Do-thái Giáo, Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và vô số đạo thờ các Thần ngoại. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 4, 200 tôn giáo lớn nhỏ khác nhau.
Trong cuộc lữ hành của người Do-thái, họ đã va chạm với rất nhiều nhóm người với truyền thống tôn giáo và văn hóa khác nhau. Sứ điệp loan báo về Đấng Cứu Thế cũng dễ bị lu mờ qua thời gian năm tháng. Chỉ có một dòng dõi rất nhỏ đã cưu mang sứ mệnh đón chờ con Chúa giáng trần. Thánh Matthêô đã ghi lại gia phả Đức Kitô, con cháu của Đavít và con cháu tổ phụ Abraham. Matthêo tóm gọn lich sử: từ tổ phụ Abraham đến vua Đavít là mười bốn đời; từ vua Đavít dến thời lưu đầy ở Babylon là mười bốn đời và từ thời lưu đầy ở Babylon đến Đức Kitô cũng là mười bốn đời (Mt 1, 17). Chúng ta suy tư về sứ điệp tin mừng đã được thực hiện nơi dòng dõi Dân tộc đã được Thiên Chúa tuyển chọn.
Trong thơ gởi cho tín hữu thành Rôma, thánh Phaolô đã viết: Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các tiên tri trong Kinh Thánh về Con của Người (Rm 1, 2). Khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa thực hiện ý định nhiệm mầu của Người để cứu độ trần gian. Đây là biến cố nhiệm mầu duy nhất xảy ra trong thời gian và không gian. Sự linh thiêng kết hợp giữa thần thánh và con người. Ngôi Lời Nhập Thể trong cung lòng của Đức Trinh Nữ: Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần (Mt 1, 18). Sự kiện cao siêu nhiệm mầu vượt trên mọi trí hiểu của loài người. Cho dù đã được các tiên tri loan báo, được các thế hệ truyền rao chuẩn bị cả ngàn năm nhưng cho tới ngày hôm nay, nhiều người vẫn chưa thể chấp nhận sự kiện lạ lùng này. Họ không thể tin và chấp nhận Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần làm người như chúng ta.
Nhiều người không tin vào Đấng Cứu Thế giáng trần nhưng họ vui mừng vì dịp Giáng Sinh sắp đến. Cứ mùa Giáng Sinh về, chúng ta thấy phố xá rộn rã, thiệp chúc mừng trao đổi, chuẩn bị qùa cáp, ánh sáng nhấp nháy mọi nơi và chăng hoa kết đèn mọi góc phố. Cho dù con người có niềm tin hay không, đều mừng vui và hớn hở. Ít ra đây cũng là một tin vui cho mọi người trần thế. Một cơ hội tốt để mọi người giao lưu trao đổi tâm tình. Chúa Giêsu vẫn âm thầm đi vào lòng người qua nhiều cách thế. Có biết bao nhiêu nhà hảo tâm chia sẻ món qùa nho nhỏ cho những người kém may mắn. Ánh sáng của niềm hy vọng chiếu tỏa cùng khắp khiến lòng người nao nức mừng vui. Một điều rất lạ là ai cũng muốn sự bình an, giải thoát và được hưởng nhờ ơn cứu độ nhưng lại không muốn chấp nhận Đấng ban ơn cứu độ.
Chúa Giáng Sinh mang lại niềm vui lớn cho nhân loại vì Thiên Chúa sẽ ở cùng chúng ta. Thánh Matthêo diễn tả: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1, 22-23). Chúa sẽ đến với từng tâm hồn. Chúng ta có can đảm mở rộng tâm hồn đón Chúa hay không? Chúa có thể sẽ đến với chúng ta qua hình dáng của một trẻ thơ bọc trong khăn hay một trẻ mồ côi đầu đường xó chợ và không nơi nương tựa. Chúa sẽ đến như một người vô gia cư không có nơi gối đầu hoặc một người bị đánh dầm bập tả tơi ngoài phố chợ. Vì khi đón nhận một người cùng khổ là chúng ta đang đón nhận chính Chúa trong đời sống của chúng ta.
Suy tới đây, dừng lại đôi phút để suy nghĩ và cầu nguyện xem chúng ta đang chọn thái độ nào. Đôi khi chúng ta chỉ mong muốn có một lễ Giáng Sinh hoành tráng bên ngoài, một hang đá tuyệt đẹp và một món qùa đáng giá. Chúng ta tìm mua tượng Chúa Hài Nhi thật dễ thương đặt nằm trong máng cỏ với các mục đồng và súc vật bao quanh. Nếu chúng ta chỉ chú ý chuẩn bị những hình thức tổ chức trang trí bên ngoài mà không dọn tâm hồn thật sự để đón Chúa, thì chúng ta cũng đâu khác gì những người ngoại không tin vào Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mở rộng trái tim yêu thương để đón Chúa. Xin Chúa ở lại với chúng con và ban ơn cứu độ. Xin tẩy sạch tâm hồn chúng con khỏi những sự hoen ố, ích kỷ, tham lam và thơ ơ nguội lạnh. Xin Chúa sưởi ấm tâm hồn với ngọn lửa yêu thương để chúng con biết chia sẻ cuộc sống với tha nhân.
NGƯỜI HẠNH PHÚC LÀ NGƯỜI BIẾT TIN TƯỞNG VÀO SỰ AN BÀI CỦA THIÊN CHÚA!
Những lời cầu chúc cho nhau được may mắn hạnh phúc là câu điệp khúc luôn được lặp đi lặp lại trên môi miệng mỗi người chúng ta trong mọi dịp thuận tiện của cuộc sống: Các đại lễ tôn giáo, dịp đầu năm, dịp cưới hỏi, dịp sinh nhật mỗi người, dịp thi cử, tốt nghiệp, hành nghề, mở công ty, khai trương tiệm buôn bán, v.v…! Trong dịp đại lễ Giáng Sinh, từ các đường phố cho đến các ngõ hẻm, người ta dù vội vã đến đâu đi nữa cũng vẫn chúc mừng nhau mỗi khi gặp mặt: “chúc mừng lễ Giáng Sinh vui vẻ!”
Vâng, ai nấy đều chúc cho nhau hạnh phúc! Và những lời cầu chúc may mắn hạnh phúc thường trở thành một thứ ngôn ngữ không thể thiếu trong các dịch vụ thương mại, buôn bán hay giao lưu nghề nghiệp. Nhưng trong những dịp như thế, lời cầu chúc may mắn hạnh phúc thường chỉ là những lời nói xã giao đầu môi chóp lưỡi, chứ ít khi có chủ ý hay thành tâm thực sự. Vì thế, chúng không đưa lại niềm vui dài lâu bền vững. Trong khi đó, tất cả mọi người chúng ta – từ cụ già đến em bé, từ đàn ông đến đàn bà – ai nấy đều mong muốn được hạnh phúc, được sống một cuộc sống thực sự có hạnh phúc. Nhưng nhiều người đã ngã lòng buông xuôi, không dám nghĩ tới hay đeo đuổi chạy theo ước muốn được hạnh phúc nữa, hoặc cho mình hoặc cho người khác. Sau bao nhiêu chán nản và thất vọng ê chề, mọi ước muốn và mọi tìm kiếm hạnh phúc đã biến thành những tang tóc, những khổ đau đầy cay đắng!
Thật ra, những thất vọng hay những mơ ước hạnh phúc bất thành, chắc chắn mỗi người trong chúng ta ít hay nhiều đều đã hơn một lần trải qua. Nhưng bất hạnh nhất là những người bất đắc dĩ phải đối mặt với cái số phận quá nghiệt ngã cay đắng, phải gánh chịu những thách đố hầu như quá sức. Ở đây, tôi nghĩ tới những gia đình mà vì một chút sơ suất của một ai đó, đã để xảy ra tai nạn và cướp đi cuộc sống đang bất đầu chớm nở của những đứa con thân yêu. Tôi cũng nghĩ tới người bạn trẻ, sau một cuộc tình đầu đời sâu đậm bị tan vỡ, và nay một mình phải vật lộn với nỗi cô đơn trống trải trong một cuộc sống đầy hoang vắng. Tôi nghĩ tới đôi vợ chồng trẻ đã từng lạc quan và tin tưởng nhìn về tương lai, nên đã đi vay nợ ngân hàng và bạn bè thân quen để hiện thực những hoài vọng và dự định về kế hoạch kinh tế của mình. Nhưng bỗng nhiên người chồng bị trọng bệnh. Ðời sống gia đình rơi vào cảnh chật vật, thêm vào đó nợ nần chồng chất, bất khả thanh toán. Hay tôi nghĩ tới những người giáo dân, vì nỗi trăn trở lo lắng cho miếng cơm manh áo hằng ngày, đã bỏ quên kinh nguyện sớm tối và cả đến thánh lễ ngày Chúa Nhật. Sau cùng, tôi nghĩ tới hàng triệu đứa trẻ khắp nơi trên thế giới, chỉ một vài ngày sau khi được mở mắt chào đời, đã bị chết đói, hay nghĩ tới hàng triệu đứa bé khác đang khi còn êm đềm nằm trong dạ mẹ đã bị giết chết một cách đầy dã man: Chúng bị những chiếc kềm sắt cắt ra từng mảnh trước khi bị lôi ra khỏi bụng mẹ chúng.
Vâng, có biết bao nhiêu người thật quá bất hạnh, cả đời không hề biết hạnh phúc là gì, dù một chút bé tẻo teo và chỉ trong giây lát cũng không! Thực tại đau buồn và phũ phàng đó chụp xuống trên đời con người trong suốt năm, ngay cả trong mùa Giáng Sinh, một thực tại đã làm cho nhiều người luôn cảm thấy mình hoàn toàn vô phúc và chỉ muốn tìm kiếm một sự kết liễu!
Chính số phận chàng thanh niên Giuse thành Na-da-rét, một người thợ mộc trẻ, cũng không may mắn hơn. Chàng không có may mắn và hạnh phúc như bao người khác. Chưa lâu, chàng đã đính hôn với Maria, một người con gái cùng xóm, nết na, trẻ trung và xinh đẹp. Cả hai cùng mơ ước một tương lai hạnh phúc. Nhưng bỗng chốc, giấc mơ đó đã như chiếc bong bóng nổ tan tành trước mắt Giuse khi chàng phải đối mặt với một sự thật quá phũ phàng: Maria, người hôn thê yêu dấu của chàng đã mang thai trước khi hai người cùng chung chăn gối! Trong thất vọng và đau khổ tột độ, chàng tự mỉa mai chính mình: Người con gái mà mầy yêu thương đã ăn nằm và mang thai với người đàn ông khác!
Thật vậy, khi một người đã một lần thực sự yêu, yêu thật lòng, sẽ hiểu rõ được nỗi lòng của Giuse tan nát như thế nào! Sự thách đố đối với chàng to lớn và nặng nề biết bao! Hơn nữa, chàng cũng chỉ là một con người và là một con người thanh niên, mới lớn lên! Thêm vào đó còn một nỗi đau khổ phụ khác là Giuse chỉ muốn âm thầm ôm bụng chịu đựng một mình, chứ chàng không muốn “hở môi răng lạnh”, không muốn cho bất cứ ai biết nỗi lòng của chàng để được chia sẻ và ủi an, vì lòng chàng vẫn luôn yêu quí và kính trọng Maria trước sau như một. Nhưng cũng chỉ vì không muốn bộc lộ câu chuyện ra cho ai khác biết, một chỉ suy đi nghĩ lại trong lòng một mình và không được ai góp ý kiến cả, nên chàng càng cảm thấy mình bị chạm tự ái, bị hạ nhục và trở thành trò cười cho thiên hạ. Giuse hoàn toàn mất hết can đảm để bắt đầu lại từ đầu. Do đó, chàng đã quyết định âm thầm chia tay Maria. Chàng không muốn mình hoặc Maria phải mang lấy tiếng xấu suốt đời, bị miệng đời xì xèo dèm pha. Cuộc tình duyên hạnh phúc giữa chàng và Maria kể là chấp dứt. Theo ngôn ngữ ngày nay, người ta có thể nói rằng Giuse là người thanh niên đáng nể, chàng đã dàn xếp sự việc thật khôn ngoan khéo léo. Mặc dù cảm thấy bị người hôn thê phản bội, chàng vẫn bình tĩnh, sáng suốt và cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định một cách hợp lý. Dĩ nhiên sự quyết định đó không hề làm chàng hạnh phúc. Toàn bộ sự cố còn tiếp tục dằn vặt trái tim chàng.
Thật ra, qua Phúc Âm chúng ta đã không hề biết được Giuse trong thực tế đã xử trí ra sao. Phúc Âm cũng không kể lại là đã xảy ra những cuộc cãi cọ hay đã nói những lời phàn nàn, như thường tình vẫn xảy ra trong các cuộc tình đổ vỡ khác! Cũng vậy, chúng ta cũng biết được rất ít về những giọt nước mắt và nỗi đau buồn của Giuse. Thánh sử chỉ tường thuật lại giấc mộng của Giuse mà thôi. Vâng, thánh Giuse luôn là con người khiêm tốn âm thầm, âm thầm như những giọt nước mắt và nỗi khổ đau của mình, và âm thầm như sứ mệnh làm người đứng sau hậu trường của “màn kịch cứu độ” mà Thiên Chúa đã giao phó cho ngài.
Còn nói về các giấc mộng hay chiêm bao. Tại sao thánh sử lại tường thuật giấc chiêm bao của Giuse?
Trong thời đại khoa học tân tiến ngày nay, những giấc mộng không còn mang mấy giá trị nữa. Và những người mộng mị chiêm bao thường bị thiên hạ mỉa mai trêu chọc! Có nhiều câu phương ngôn đã nói lến thái độ coi khinh những người hay mơ mộng, như: “Mơ màng chỉ đàng chết đói” hay: “ngồi mơ mộng khi bụng rỗng mới hay”, ý muốn nói những người thích mơ mộng là những người thiếu thực tế, xa lạ với cuộc sống cụ thể; “Cứ ngồi đó mà mơ mộng”, ý muốn nói đến những người mà người ta cho là loại người khờ, dại dột!
Giáo sư Carl Gustav Jung (1875-1961), một nhà tâm lý học người Thụy Sỹ nổi danh trên khắp thế giới, đã khám phá được ý nghĩa của thế giới chiêm bao. Ông gọi giấc mơ là ngôn ngữ của vô thức. Ngày nay các nhà chuyên môn về phân tâm học đều đồng ý cho rằng các giấc mơ rất cần thiết cho cuộc sống con người. Ai không mơ, ít là thỉnh thoảng, người đó sẽ chết, không thể sống được. Nếu một người luôn luôn bị quấy phá giấc mơ trong khi đang ngủ, người đó từ từ sẽ sinh bệnh và chết. Giấc mơ rất quan trọng cho cuộc sống.
Chính giấc mơ của Giuse đã cứu được cuộc đời anh. Giấc mơ đã mang lại cho anh niềm vui và sự hạnh phúc. Vâng, nhờ giấc mơ anh đã giải quyết được cơn khủng hoảng tình cảm và gia đình của mình. Nhờ giấc mơ anh đã tìm lại được nghị lực và sự can đảm cần thiết để vượt qua được cơn thử thách đầy nguy hiểm của đời mình. Nhờ giấc mơ anh đã được giải thoát khỏi mọi nỗi lo sợ hằng dằn vặt tâm hồn anh từ bao tháng ngày qua: lo sợ mình bị cắm sừng, bị cười chê, lo sợ Maria không còn yêu mình nữa, lo sợ thiếu vắng ơn Chúa trong cuộc sống. Thật vậy, giấc mơ đã chữa lành tâm hồn Giuse, đã hàn gắn và nối kết chàng lại với Maria trong tình yêu thương thủa đầu. Nhờ giấc mơ hạnh phúc của Giuse đã được cứu vãn. Trong cơn cùng khổ của tâm hồn Giuse, “Thiên-Chúa-ở-với-chúng-tôi” đã trở nên sống động và lớn mạnh trong cung lòng Maria. Và trong chính “Thiên-Chúa-ở-với-chúng-tôi” chứa ẩn trọn hạnh phúc của Giuse.
Ai không hề mơ, người đó sẽ chết! Ai được hạnh phúc trào dâng, người đó chẳng cần đến những lời cầu chúc may mắn hạnh phúc nữa. “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi” sẽ trở nên sống động cho những ai đói khát hạnh phúc. Ai hằng mơ ước một thế giới tươi đẹp hơn, thì người đó sẽ tìm gặp nơi “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi “ như là Ðấng Cứu Giúp quyền năng. Nhưng không một ai có thể chứng minh và hiểu thấu được Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi. Người hiện diện cụ thể và gần gũi trong những ai đang phải trải qua cảnh khốn cùng và sự đau khổ cùng quẫn mà vẫn có thể mơ ước. Người ở với những ai còn luôn biết hy vọng và chờ đợi một điều gì đó. Giuse đã tìm lại được hạnh phúc hằng mơ ước của mình. Tôi xin cầu chúc cho tất cả các bạn những giấc mơ có khả năng cứu vớt, thăng tiến và làm tốt được cuộc đời, tình yêu và sinh kế làm ăn của các bạn. Tôi cầu chúc cho tất cả chúng ta sự hạnh phúc chân thật của “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi.”
(Trích từ ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – RVA)
Có một vị vua kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn một người làm dưỡng tử mà sau này sẽ lên ngôi cai trị. Điều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và yêu mến anh em hết lòng.
Từ một vùng quê xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc chọn này của nhà vua. Chàng muốn đến cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có một bộ áo quàn nào xứng cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng củng cố gắng sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều yết.
Đến gần hoàng cung, chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.
Động lòng thương, chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già bộ quần áo của mình.
Khi đến gần cửa thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với quần áo tả tơi như vậy không. May mắn thay chẳng một ai hạch hỏi về quần áo của chàng và khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: “Hỡi con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con”
Chàng thanh niên đã được chọn làm dưỡng tử và làm thừa kế nhờ tấm lòng quảng đại bao dung của anh. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng tường thuận việc Vua trời đất chọn lựa một người Cha cho mình trước khi Ngài đến ở với con người.
Xết về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi David, hậu duệ của vua David. Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: “Này đây đã tới ngày Ta gây cho David một mầm giống công chính, mầu giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất nước”. Hoặc ở một chỗ khác: “Chúa sẽ lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại Người sẽ vững bền mãi mãi”.
Tuy nhiên, hậu duệ của David không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ David. Đồng thời với Giuse, dù với hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.
Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?
Theo luật Do thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngãi đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngái muốn để mặc cho nàng tự phận xử.
Đang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đả trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa thì khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.
Như chúng ta đã thấy buổi lễ đặt tên cho Gioan Tẩy Giả cũng phải do người cha đặt tên. Ở đây cũng vậy, Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết òng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người con đang cưu mang.
Thật thế, cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mổi người chúng ta do yêu thương hay dận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hứng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.
Anh chị em thân mến.
Thời gian gần đây có một bộ phim đã đi vào trong lòng người, đó là phim Hoàng Châu Công Chúa. Khi xem qua bộ phim, mọi người đều có cảm tình với nhân vật chính, một người có lòng nhân ái, nhưng vì thẳng thắng nên thường gặp những đều trắc trở. Mọi người càng thỏa mản hơn khi những trở ngại đó dần dần cũng bị phá vở và an bình lại đến. Đó là vì cô công chúa nhờ có bùa hộ mệnh. Vị thần hộ mệnh rất đắc lực, ngài là một vị vua công minh, một người cha nhân hậu. Khi nào có Ngài ở bên cạnh thì vị công chúa và những người thân không còn phải lo sợ gì hết. Chỉ khi vắng bóng ngài, mọi thế lực thù nghịch mới tìm cách hảm hại. Nhưng tất cả đều được hóa giải khi có ngài ở cùng, khi đó những nguy hiểm, những khổ đau không còn tồn tại được nữa.
Giuse lo sợ vì chưa hiểu được Thánh Ý Chúa. Ông đã có những toan tính riêng tư của mình, những toan tính của sự sợ hãi, những toan tính của con người không có Thiên Chúa Ở Cùng. Ông lo âu bối rối không biết giải quyết như thế nào. Nhưng khi ông tỉnh dậy, ông hành động không do dự nữa, hành động cách can đảm, hành động trong sự bình an và vui mừng. Vì ông đã được biết Thánh Ý Chúa, ông biết có Thiên Chúa Ở Cùng ông, ông biết ông không còn hoạt động cách cô đơn nữa. Khi đó mọi thắc mắc đã được tháo cởi, mọi lo âu đã được cất đi, mọi nguy hiểm mà ông nghĩ tới không còn tồn tại nữa. Ông chỉ còn biết vâng phục trong vui mừng, trong hân hoan, vì Có Thiên Chúa Ở Cùng.
Trong cuộc sống đời người không thiếu những lo âu sợ hãi. Có những điều do hoàn cảnh khách quan đưa đến, cũng có những cái do chủ quan từ bên trong con người. Nếu xét từ nguyên nhân, thì tất cả mọi lo âu sợ hãi trong đời sống đều phát xuất từ cảm giác cô đơn, từ lòng ích kỷ, từ những việc chỉ nghĩ đến bản thân mà quên đi người khác. Quan trọng hơn, đó là vì không thấy Chúa hiện diện ở trong con người của mình, cùng hành động với mình, mà chỉ hành động cách đơn lẻ.
Mỗi người trong chúng ta cũng đã từng trải qua cảm giác cô đơn sợ hãi. Chúng ta cũng đã từng giải quyết nhiều vấn để khúc mắc. Nhưng đã giải quyết như thế nào? Chúng ta đã vượt qua cách khổ sở như lần từng bước đi trong đêm tối, để rồi niếm mùi chua cay thất bại và trải qua nỗi thất vọng ê chề. Chúng ta đã trải qua với sự lo âu thắp thỏm, cùng với những toan tính hại người, nên sợ sẽ bị trả thù. Hay chúng ta đã vượt qua với những bực tức và khó chịu vì không được như ý muốn. Đó là vì chúng ta đã hành động cách cô đơn, hành động mà không Có Chúa Ở Cùng, hành động trong cơn mê, hành động trong đêm tối.
Nếu khi nào chúng cảm thấy bình an thư thái, cho dù bao tai vạ ập đến, những khổ đau cứ dồn vào, những bất hạnh cứ tiếp diễn, mà chúng ta vượt qua cách an toàn, không để lại chút vương vấn trong lòng. Đó là vì chúng ta đang Có Chúa Ở Cùng. Đó là vì chúng ta đã được bừng tỉnh dậy. Nếu chúng ta nhìn thấy được ích lợi chung, nhìn thấy được nhu cầu của bao nhiêu người chung quanh, để sẵn sàng hành động theo tiếng gọi của con tim chân chính, hành động không còn ỷ lại vào con người riêng tư của mình nữa, mà hành động với Chúa Ở Cùng. Nếu được như thế, chúng ta mang được tâm trạng của Hoàng Châu Công Chúa khi có Vua Cha ở Cùng. Quang trọng hơn nữa chúng đang đi trên con đường mà Thánh Giuse đã đi vì vâng nghe Lời Chúa, bởi Ngài đã nhận ra được Có Thiên Chúa Ở Cùng.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn cho mỗi người được sáng suốt, để nhận ra Chúa Ở Cùng Chúng Ta trong hoàn cảnh sống, trong những người chúng ta gặp hằng ngày, trong những công việc chúng ta đã và đang làm, để biết sống và hành động theo Thánh Ý Chúa.
Chúng ta sắp cử hành một mầu nhiệm lớn lao, mầu nhiệm Thiên Chúa đến làm người trong trần gian, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Đấng là Chủ lịch sử đã đi vào lịch cử con người, và để thực hiện điều đó, Thiên Chúa đã tạo nên cho Người một gia đình thuộc dòng tộc Đa-vít.
Thiên Chúa không làm gì mà không có một chương trình hẳn hoi.
Trước khi tạo nên con người, Ngài quyết định rõ ràng: “Ta sẽ tạo nên con người giống hình ảnh Ta.”
Trước khi thực hiện ý định cứu chuộc con người, Ngài đã chuẩn bị suốt gần 2.000 năm, một dân tộc – dân tộc của lời hứa – là dân Do Thái, để đón tiếp Ngôi Hai ra đời.
Trước khi cho Ngôi Hai ra đời, để hoàn tất chương trình cứu chuộc đó, Ngài đã chọn một trinh nữ và trinh nữ nầy đã được đính hôn với một thanh niên tên là Giu-se. Nhờ đó, Đấng sẽ sinh ra “không do ý muốn loài người, cũng không do ýmuốn của nam nhân” sẽ có cha có mẹ hợp pháp trong xã hội loài người. “Kỳ diệu thay ý định của Chúa!”
Và Giu-se, người đã được chọn cũng sẵn sàng đón nhận Con Thiên Chúa làm con mình: “Ông sẽ đặt tên con trẻ là Giêsu”, nghĩa là chính thức làm cha của Chúa Cứu Thế.
“Không có gì mà Thiên Chúa không làm được.”
Thiên Chúa, Đấng điều khiển lịch sử loài người đã xuất hiện trong trần gian đúng theo quy luật mà Ngài đã ấn định. Thánh Phao-lô thốt lên lời ca tụng: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào!” (Rm 11,33).
Còn về Maria thì thánh sử nói: “Ngài thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
Mầu nhiệm chúng ta cử hành hôm nay là mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần. Ngài là nguồn suối mọi sự từ đầu khi vũ trụ chưa thành hình…
Ngài vẫn tiếp tục hoạt động trong chương trình cứu độ suốt bao nhiêu thế kỷ…
Ngài sẽ tiếp tục hoạt động cho đến cuối cùng…
Maria đã thay mặt cho nhân loại đón nhận hồng ân của Thánh Thần và cộng tác vào chương trình của Chúa: “Nầy con là tôi tớ của Chúa, xin cứ thực hiện nơi con những gì Chúa muốn.”
Thánh Mat-thêu nhắc lại lời tiên tri I-sa-i-a: “Người ta sẽ gọi tên con trẻ là EMMANUEN” nghĩa là “Thiên Chúa ở với loài người .” Mat-thêu muốn chứng minh rằng mọi sự đều nằm trong chương trình kỳ diệu của Chúa.
“Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”, phải chăng đây là hồng ân tuyệt hảo Chúa trao ban cho chúng ta? Đáng lý chúng ta phải “nhảy mừng” và tạ ơn với tất cả tâm hồn chúng ta. Đây không chỉ là một ân huệ trong muôn vàn ân huệ mà là nguồn suối mọi hồng ân, vì nơi Ngôi Hai chúng ta được “ơn nầy đến ơnkhác”.Thánh Phao-lô nói: “Một khi (Thiên Chúa ) đã ban Người Con đó, lẽnào Thiên Chúa không ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8, 32).
Maria là dụng cụ tuyệt hảo, là người cộng tác khiêm nhu và đắc lực của Thiên Chúa. Giuse cũng là người tôi trung âm thầm nhưng rất hữu hiệu trong chương trình yêu thương của Chúa.
Để thực hiện chương trình nầy, Maria và Giuse phải đi ngang qua một thử thách hết sức lớn lao.
“Maria đã mang thai trước khi về chung sống với Giuse.” Đây có thể nói là một thảm kịch xét theo thường tình.
Chắc chắn, Giuse đã yêu Maria (các thánh sử không nói rõ, nhưng chúng ta có thể hiểu như thế), và Maria lại là một cô thiếu nữ đoan trang đạo đức (“đầy ơn phước”). Thế nhưng sau ba tháng đi thăm người chị họ về, đã mang thai.
Giuse đã đến thăm sau bao tháng ngày chờ đợi và khám phá ra thực trạng.
Giuse nghĩ gì? Chúng ta không thể biết.
Thánh Mat-thêu chỉ nói ngắn gọn: “Giuse là người công chính không nỡ lòng tố cáo Maria (theo luật thời bấy giờ). Nhưng chắc chắn Giuse đã đau khổ đến tột cùng và có lẽ thất vọng não nề. Là người công chính, tức là một người đạo đức giữ luật Chúa nghiêm chỉnh, không bị trách cứ điều gì, con người ngay thẳng hiền lành. Ông đã chọn một giải pháp êm đẹp nhất là bỏ xứ.
Chính lúc đó, vào giờ phút chót, Chúa can thiệp.
Chúng ta nhớ câu chuyện của Ap-ra-ham và Sara. Vào phút chót Chúa đã can thiệp để cứu hai người khỏi bàn tay vua Ai Cập.
Sau khi biết rõ ý Chúa Giuse đã thi hành như lời đã truyền cho ông…
Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai thành tâm theo Chúa, và những ai thành tâm cũng không bao giờ thất vọng.
Mỗi người chúng ta, trong thân phận nhỏ hèn của mình, cũng có thể là những cộng tác viên của Thiên Chúa. Chúa không chê bỏ một người nào, dù nhỏ hèn đến đâu, cũng có thể cộng tác vào chương trình của Chúa.
Dù “không có gì mà Thiên Chúa không làm được”, dù “Chúa có thể làm cho những hòn đá trở nên con cháu Ap-ra-ham”, Ngài cũng không tự mình làm mọi sự, Ngài muốn chúng ta cộng tác với Ngài.
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới đang gãy đổ vì tội ác và hận thù bất công… cần có những bàn tay xây dựng… Hãy rót vào trần gian ô nhiễm vì tội lỗi của chúng ta một giọt yêu thương.
Chúa đến trong trần gian, trong thân phận một người nghèo hèn, bị bỏ rơi bị hất hủi, phải nương thân nơi một hang đá. Hãy như Maria, đón nhận Ngài với tất cả tình yêu… Hãy như Giuse, dẫn dắc Maria về hang đá, nghèo nàn nhưng đầy yêu thương .
Chúa cần những người cộng tác đơn thật, không giả dối, những người dám buông bỏ tất cả để trở nên những bàn tay xây dựng tương lai huy hoàng cho thế giới hôm nay: tương lai của tình yêu.
Maria và Giuse nghèo nàn, nhỏ bé, đã mang lại cho thế gian một kho tàng là EMMANUEN.
Chúng ta cũng có thể làm như thế khi chúng ta “ăn lấy tấmbánh tình yêu”, tấm bánh nơi bàn thờ hiến tế và biến tấm bánh ấy thành những tâm tình yêu thương chân thật, qua trái tim nhỏ bé của chúng ta.
Ông đang toan tính như vậy, thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. (Mt. 1, 20-21)
Nhiều khi chúng ta làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa vì không biết được tính chất huyền nhiệm. Hôm nay, Tin mừng cho chúng ta thấy Giuse như chống lại đường lối huyền nhiệm của Thiên Chúa.
Giuse bị đặt trước sự kiện một con trẻ được cưu mang bởi một nữ đồng trinh. Đức Maria, vị hôn thê của ông, được chọn làm Mẹ theo ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mẹ được chọn đi vào đường lối khác thường. Thái độ của Mẹ thế nào? Thái độ của người công chính ra sao? Không phải thứ công chính giữ theo luật pháp, cũng không theo ý niệm loài người của Maria. Công chính đây theo nghĩa riêng của Kinh thánh là hợp với thánh ý Thiên Chúa. Giuse công chính vì ông kính trọng công trình của Thiên Chúa và thực thi vai trò Thiên Chúa xếp đặt cho ông. Trong khi thánh Giuse chuẩn bị cho Maria hoàn toàn tự do theo đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa đã se định, thì Thiên Chúa đã làm cho ông khám phá ra rằng ông cũng giữ một vai trò thiết yếu đối với xã hội là bảo lãnh cho Đức Giêsu thuộc gia hệ ông. Thực vậy, chính nhờ ông, Đức Giêsu thuộc dòng Đavít. Ông đã làm tròn vai trò đó khi nhận Maria làm vợ, đồng thời bảo đảm cho con trẻ sắp sinh ra có cha trước luật pháp. Nhờ thế Thiên Chúa đã thực hiện kế hoạch đã định cho Đấng Cứu thế thuộc con dòng Đavít.
Khi nhận ra thân phận loài người chúng ta, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ rằng chính trong lịch sử đời mỗi người chúng ta, trong cuộc sống hàng ngày Chúa Cha cũng thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài. Chúng ta có thể noi theo thái độ của người công chính như thánh Giuse không? Với con mắt đức tin, chúng ta có sẵn sàng luôn luôn chú ý tuân theo ý Chúa đang thực hiện trong đời sống chúng ta không?
(Suy niệm của Lm. JB. Hoàng Văn Khanh)
Mở đầu sách Tin Mừng bằng bản gia phả (Mt 1,1-17), thánh sử Mátthêu muốn giới thiệu nguồn gốc lai lịch của Chúa Giêsu: Người là người con của nhân loại, thuộc dòng tộc vua Đavít, được sinh ra bởi Đức Maria. Nhưng do đâu mà Chúa Giêsu thuộc dòng tộc Đavít, vì theo phong tục Do Thái, người ta không kể phụ nữ để xác định gia phả. Vậy Maria thụ thai bởi đâu và đâu là vai trò của Giuse. Trình thuật truyền tin cho Giuse nhằm minh tỏ Đức Maria thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần và Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, con vua Đavít, ứng nghiệm sấm ngôn Isaia (Is 7,14). Giuse có nhiệm vụ nhận Đức Giêsu vào tông tộc của mình, nhờ đó Chúa Giêsu thuộc dòng vua Đavít. Qua trình thuật này, Mt cũng giới thiệu cho ta một mẫu gương sống tinh thần vâng phục trong đức tin: Giuse, người công chính.
Giuse đính hôn với Maria như các thanh nam nữ từ thời bấy giờ. Theo phong tục Do Thái, khi hai người nam nữ đính hôn, thì đã thành vợ chồng trước luật pháp, nhưng chưa sống chung; một năm sau đính hôn, chồng rước vợ về chung sống. Thời gian đính hôn, muốn bỏ nhau phải ra toà xin ly dị. Nếu vợ ngoại tình, phải bị xử ném đá theo luật.
Sự kiện xảy ra là trước khi về sống chung, Maria đã có thai. Giuse thật khó xử. Tin Mừng viết: “Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Giuse được Tin Mừng gọi là “người công chính” theo nghĩa nào? Trước hết, công chính có nghĩa là vâng phục lề luật (Rm 4,2; Gl 3,6). Công chính còn được hiểu là lòng xót thương nhân hậu (St 12,19; Tv 37,21; Tv 112,4). Theo luật, Giuse phải tố cáo Maria. Nhưng Giuse lại là người nhân hậu, có lòng thương xót, không muốn làm nhục người phụ nữ mà ông rất tin tưởng, mến yêu và kính trọng; ông không muốn Maria bị xử phạt theo luật, nên quyết định âm thầm ra đi.
Thứ đến, công chính là hành động phù hợp với ý Thiên Chúa. Giuse không hề hồ nghi Maria, nhưng không thể nhận bào thai. Một mặt, giả như ông chưa biết là Maria thụ thai do quyền năng Thánh Thần, thì cũng nghĩ rằng đây là một mầu nhiệm. Do đó lời sứ thần nhằm thông tin sự thật về bào thai và trao phó cho ông trách nhiệm đặt tên và làm cha đứa trẻ trước pháp luật. Mặt khác, giả như ông đã biết là Maria thụ thai do Thánh Thần, ông cảm thấy mình bất xứng để đón nhận hài nhi, nên muốn âm thầm rút lui. Và như thế, lời sứ thần nhằm xác nhận là thật điều ông đã biết (dĩ nhiên qua tâm sự của Maria) và trao cho ông trách nhiệm đón nhận hài nhi vào dòng tộc của mình.
Dù giải thích cách nào thì lời truyền tin của sứ thần cũng nhắm mục đích giải thích cho biết Chúa Giêsu được thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần; Giuse được trao sứ mệnh đón nhận Người vào dòng tộc vua Đavít; và Người là Đấng Thiên Sai con vua Đavít, ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã từng loan báo: “ Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1,23).
Trước lời truyền của sứ thần, Giuse chỉ biết vâng phục. Ông không nói lời nào mà chỉ tuân theo cách triệt để. Tin là vâng phục và dấn thân hành động. Giuse, cũng như Maria với lời xin vâng, đã hành động theo mẫu gương của tổ phụ Abraham: vâng phục trong đức tin.
Sứ thần trao cho Giuse quyền đặt tên cho hài nhi là Giêsu. Quyền đặt tên đồng nghĩa với việc đón nhận Giêsu vào dòng tộc của mình và trở nên cha của đứa trẻ trước pháp luật. Giuse trở nên bạn trăm năm của Maria và dưỡng phụ của Chúa Giêsu.
Tên “Giêsu” có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ. Danh xưng này bao hàm căn tính và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Người được Chúa Cha sai đến trong thế gian như là Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, để thi hành chương trình cứu độ nhân loại. Đây chính là sợi chỉ đỏ chạy dài suốt Tin Mừng Mátthêu. Cuối cùng, Mt tuyên xưng Người đã chết và sống lại để chu toàn sứ mệnh cứu thế, và Người hằng hiện diện mỗi ngày với Giáo Hội cho đến tận thế (Mt 28,20).
Các nhà chú giải Kinh Thánh còn nhận thấy một tương đồng trong cấu trúc giữa trình thuật về nguồn gốc lai lịch Chúa Giêsu với hai chương đầu Sáng thế (St 1,1-2,4a // Mt 1,1-17; St 2,4b-25 // Mt 1,18-24). Sự tương đồng ấy nhằm cho thấy việc xuất hiện của Chúa Giêsu như một Ađam mới, khởi đầu một sáng tạo mới.
Kết luận
Hãy đến với thánh Giuse với tất cả niềm tôn kính mến yêu và học tập dưới mái trường của ngài tinh thần vâng phục ý Chúa, lòng khiêm tốn, tính tự chủ và tâm hồn nhiệt thành quảng đại phục vụ.
Tin Mừng nói rất ít về Giuse. Tuy nhiên, qua ít đoạn vắn vỏi ấy, ta cũng cảm nhận được một tương đồng giữa Giuse và Đức Maria. Nếu Thiên Chúa đã chọn Đức Maria làm mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, Ngai cũng đã tuyển chọn Giuse làm dưỡng phụ để chăm nom săn sóc. Trước đề nghị của Thiên Chúa, Giuse và Maria đã sẵn sàng vâng phục ý Chúa. Cũng như Maria, Giuse sống thánh thiện, khiêm tốn, yêu thương và hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Chúa nhật hôm nay, trước lễ Giáng Sinh, Giáo hội đề nghị chúng ta nghe “loan báo việc sinh Đức Giêsu cho Giuse”.
Mátthêu viết: “Mẹ Người là bà Maria đã đính hôn với Giuse” Đính hôn hay thành hôn có nghĩa là “đến với, phối hợp với một người nào đó,” chỉ việc chung sống vợ chồng. Cô thiếu nữ Dothái được đính hôn vào khoảng tuổi 12, thoát khỏi quyền giám hộ của người cha để ở dưới quyền giám hộ của người chồng vào lúc 13-14 tuổi. Theo phong tục và hôn nhân của người Dothái, đính hôn đã là thành vợ chồng trước pháp luật, nhưng việc rước dâu thường cách xa lễ đính hôn, có khi cả năm trời. Thường thì hai người không chung sống trước khi rước dâu, nhưng giả thiết có con với nhau trong giai đoạn này, đứa con vẫn là con hợp pháp.
Maria đã đính hôn với Giuse, nghĩa là cả hai như các cặp hôn nhân khác, có dự tính thành vợ chồng. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Người ta đặt câu hỏi: Ông Giuse có biết việc Đức Maria thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, trước khi Thiên thần báo tin không? Sự công chính của Giuse ở chỗ nào?
Theo nhiều nhà chú giải, Giuse công chính không theo nghĩa vâng lời lề luật. Vì chẳng có luật nào buộc phải ly dị người mới đính hôn (Đnl 22,13-21; 23-27), luật chỉ dạy ly dị khi hôn nhân đã hoàn hợp (Đnl 24,1). Đàng khác âm thầm ly dị, Giuse lại càng bất tuân lề luật. Vì chứng thư ly dị chỉ có giá trị pháp lý, khi mang tính cách chính thức công khai. Vả lại, ly dị âm thầm như thế không thể giữ bí mật được lâu, trong một ngôi làng nhỏ bé như Nadarét. Đàng khác, nếu Giuse coi Maria vô tội, ta không thể hiểu được tại sao ông lại nghĩ đến chuyện ly dị bà, vì pháp luật đâu cho phép. Xét như là hôn phu, ông có bổn phận bảo vệ hôn thê vô tội, chống lại mọi nghi ngờ vô bằng cứ của kẻ khác.
Hơn nữa, trong Tin mừng của Mátthêu, chỉ duy nhất Giuse được gọi là công chính, tựa như Abel người công chính. Abel công chính không phải theo luật, vì lề luật chỉ được công bố với Maisen, nhưng vì kính sợ Thiên Chúa. Vì thế, không thể cắt nghĩa đức công chính của Giuse ” theo luật” được, nhưng công chính vì kính sợ Thiên Chúa.
Nhiều nhà chú giải cho rằng: Trước khi Thiên sứ loan báo, Giuse đã biết Maria có thai bởi quyền năng Thánh Thần, có thể do chính Maria tiết lộ, tâm sự với người mình đính hôn, hay đúng hơn mẹ của Maria, theo tập quán Đông phương. Vì thế, điều làm cho Giuse băn khoăn, không phải vì tiết hạnh của Maria, song là sự thụ thai huyền nhiệm của nàng. Trước mầu nhiệm ấy, Giuse nghĩ: Ông không có quyền đem về nhà một kẻ, Đức Giavê đã dành riêng cho Người, ông không có quyền làm cha đứa con không phải là của ông. Ông nhận ra quyền làm Cha của Trẻ này là chính Thiên Chúa, còn ông, không được coi như cha của đứa con đó.
Thật thiêng thánh! Trước mầu nhiệm ấy, Giuse muốn rút lui và cẩn thận không muốn tiết lộ mầu nhiệm thiên linh ấy nơi Maria (Theo Origène và Eusèbe, từ “deigmatisai” = tiết lộ, không bao hàm ý nghĩa xấu: tố giác, bêu nhục như từ Paradeigmatisai; Touon cũng dịch là tiết lộ, bầy tỏ). Giuse phản ứng như hết thảy mọi kẻ công chính trong Kinh thánh, trước việc Thiên Chúa can thiệp vào đời họ: như Maisen cởi giầy trước bụi gai rực cháy, như Isaia khiếp đảm trước việc xuất hiện của vị Thiên Chúa ba lần thánh (Is 6,3-4), như Êlisabét hỏi tại sao mình được Mẹ Thiên Chúa đến thăm (Lc 1,39-45), như Phêrô cúi mình thưa: “Lạy Chúa, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi.” Tuy nhiên, “đang khi Giuse toan tính lìa bỏ Maria, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về.” Giuse kính sợ Thiên Chúa, không phải vì lề luật.
Giữa lúc dân Israel đang bị lưu đầy ở Babylon, Thiên Chúa đã sai Yêrêmia loan báo một Tin mừng là Ngài sẽ ban cho họ một vị vua sẽ đưa dân lưu đầy trở lại quê hương và thiết lập một dân Israel mới. Vị vua ấy được thánh Matthêu giới thiệu là Đấng Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.
Ngay từ đầu, Thiên Chúa đã ở giữa dân Ngài. Ngài đã ở với họ trong áng mây, cột lửa, Ngài đã ở nơi họ trong Hòm Bia giao ước và nơi các nhân vật đặc tuyển. Nhưng vì muốn ở với họ một cách sâu xa hơn. Ngài đã trở nên Đấng Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.
Tuy nhiên, để có thể ở giữa loài người, Ngài đã muốn có sự cộng tác của con người. Đức Maria là người đầu tiên và gương mẫu của việc thực hiện kế hoạch Emmanuel. Đứng trước kế hoạch hoàn toàn trái ngược với hoài bão và mơ ước của mình, Người đã tự xoá bỏ mình và cúi đầu vâng phục. Thánh Giuse cũng vậy, sau khi đã được giải thích cho biết về kế hoạch thần linh, Người cũng đã sẵn lòng quên mình để cho ý định của Thiên Chúa được hoàn tất. Chính việc tự xoá mình và hoàn toàn giao phó đời mình cho Thiên Chúa đã làm cho tình yêu của các ngài sung mãn và đạt đến mức thiên giới mà không cần quan hệ giới tình.
Đấng Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng tôi vẫn đang làm cho nhân loại xoá bỏ những chia rẽ, đố kỵ, ngăn cách để được hợp nhất với nhau trong tình yêu, bởi vì, Ngài là Tình yêu, Ngài sẽ không thể tìm được nơi ở, bao lâu nhân loại còn đầy những ích kỷ, oán hận, tranh chấp.
Nhưng trên tất cả, Ngài muốn có một chỗ trong tâm hồn chúng ta. Ước gì chúng ta biết mở rộng lòng đón lấy Ngài, nên một với Ngài, nhờ đó Ngài có thể mãi mãi là Đấng Emmanuel cho ta và cho nhân loại hôm nay.
Con người, dù quyền cao chức trọng đến mức nào đi chăng nữa vẫn mang trong mình những giới hạn của phận người. Cảm thức trước giới hạn đó con người thường tìm đến vị thần linh, vị cứu tinh của đời mình để kêu cứu.
Thiên Chúa là Chúa, là vị cứu tinh của dân tộc Do Thái để rồi Ngài luôn dõi mắt theo nhìn hành trình đời người của đám dân Ngài chọn. Lúc ẩn, lúc hiện, lúc đồng hành, lúc khuất bóng nhưng mà hình như lúc nào Thiên Chúa cũng ở bên cạnh dân riêng của mình. Thiên Chúa luôn can thiệp trong hành trình cứu độ, hành trình đi trong sa mạc của dân Do Thái để cứu họ thoát khỏi sự dữ, sự chết.
Hôm nay, chúng ta được nghe Isaia thuật lại câu chuyện hết sức hấp dẫn. Thời ấy, người ta báo cho nhà Đavít rằng quân Aram đã đóng quân ở Épraim. Với cái tin rùng rợn ấy, Akhát rúng động như cây rừng rung rinh trước gió như sách ngôn sứ Isaia diễn tả. Akhát rúng động và không hề biết rằng Thiên Chúa sẽ ra tay cứu ông cũng như cứu dân. Qua Isaia, Thiên Chúa hứa rằng sẽ làm cho dân Giuđa phải khiếp sợ. Khi nghe Isaia nói như vậy, nhà vua cảm thấy bình an vì có Thiên Chúa ở bên ông, ở bên dân của ông.
Thiên Chúa thương dân Do Thái, Thiên Chúa thương Akhát đến độ còn hỏi vua: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh.” Đứng trước tình yêu bao la, sự chở che, sự quan phòng của Thiên Chúa Vua Akhát trả lời: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa.”
Nếu tiếp tục theo dõi những trang sách Isaia tiếp theo, chúng ta sẽ thấy một cách hết sức thiết thực về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho vua Akhát cũng như cho dân. Thiên Chúa đã cho dân chiến thắng và qua miệng của Isaia còn hứa ban Đấng Cứu Độ như chúng ta vừa nghe: Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen.
Tâm tình của vua Akhát quả là một tâm tình dễ thương. Được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên Chúa cho đòi hỏi nhưng ông lặng lẽ trước ân huệ, trước ơn cứu độ mà Thiên Chúa hứa ban cho dân Người. Giữa dòng người ồn ào và náo nhiệt, rúng động trước những biến cố của cuộc đời thì lại có những người bình tâm để nghe tiếng Chúa nói, nghe lời Chúa hứa trên cuộc đời của mình.
Giữa mùa Vọng này, hình ảnh hết sức đẹp của một người trông chờ Chúa đã hiện lên một cách hết sức dễ thương. Hình ảnh ấy đó chính là hình ảnh của Thánh Cả Giuse. Nhà nhà náo động, người người náo động thì Giuse hoàn toàn lặng lẽ. Thái độ lặng lẽ trước ơn cứu độ của Thiên Chúa của Thánh Cả Giuse chúng ta vừa nghe Thánh Matthêu thuật lại. Thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta “gốc tích” của Đấng Cứu Độ trần gian.
“Đây là gốc tích của Đức Giêsu…”. Sau quyển sách gốc tích của Đức Giêsu Kitô, thì đây là một nguồn gốc khác được trình bày cho chúng ta. Chúa Giêsu, bám rễ sâu vào một lịch sử, trong một dân tộc, cũng là Đấng đến từ nơi khác. Giacob sinh Giuse, chồng của Maria, từ nơi bà, Chúa Giêsu sinh ra… Giuse đã đưa đứa trẻ sắp sinh nhập vào trong dòng dõi tổ tiên mình một cách hợp pháp một cách xác tín, một cách âm thầm và lặng lẽ. Từ ngày báo mộng, Thánh Giuse bước vào, nhập cuộc vào chương trình cứu độ mà Thiên Chúa mời gọi Ngài.
Để Con Thiên Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong tư cách một người cha: những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra, nếu như Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.
Nhờ Giuse, Chúa Giêsu đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm 7,13).
Thánh Giuse có thể tố cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó, nhưng Ngài không làm như vậy. Giuse muốn trốn đi vì việc này có thể được mọi người xung quanh hiểu như là một hành động bỏ trốn trách nhiệm làm cha và trên bình diện siêu nhiên thì có thể được hiểu như là việc chối từ cộng tác với chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho Giuse biết là: “Đừng ngại nhận Maria về làm Bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần”, và thiên thần mạc khải thêm về thân thế của Đấng Cứu Thế đang được cưu mang trong cung lòng Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng tác và Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc đặt tên cho con là quyền của người cha, như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho Con Trẻ không do chính máu huyết của mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận quyền hay đúng hơn sứ mạng làm cha của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.
Thánh Giuse có thể từ chối, nhưng Ngài đã không từ chối mà vâng phục lời thiên thần truyền, Ngài chu toàn vai trò Thiên Chúa muốn trong việc cứu rỗi. Khi Mẹ Maria sinh Con Trẻ thì Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu. Ngoài mẫu gương hành động của Giuse, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nơi bài đọc II nhắc chúng ta nhớ đến một mẫu gương hành động trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, đó là mẫu gương của thánh Phaolô tông đồ, một khi chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, thì con người không thể nào có thái độ dửng dưng được nữa, nhưng phải để cho Con Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô chiếm lấy, biến mình trở thành môn đệ, thành người cộng tác với Chúa để mang ơn cứu độ đến cho mọi người, mọi dân tộc.
Thực tế, Hài Nhi Giêsu đến từ một Đấng khác: đứa con bà sinh ra là bởi Chúa Thánh Thần. Vai trò là cha nuôi của Chúa Giêsu với Thánh Cả Giuse không phải là chuyện đơn giản. Phải hết sức trầm lắng mới có thể hiểu được ý muốn của Thiên Chúa trên cuộc đời của Ngài. Giuse, người công chính, sẽ đặt tên cho Hài Nhi: bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu. Tên gọi có ý nghĩa, cho biết Hài Nhi không phải là hậu duệ như những người khác, đóng kín trong những giới hạn của khả năng loài người: bởi chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi. Ai có thể giải thoát khỏi tội lỗi, nếu không phải là Thiên Chúa? Lời ngôn sứ nhận lấy đầy đủ tất cả ý nghĩa: người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. Chúa Giêsu ghi tên vào một gia phả, nhưng Ngài làm nổ tung gia phả đó. Chính Thiên Chúa bước vào trong thế giới loài người chúng ta.
Khi đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian rồi, Giuse vẫn giữ một thái độ sống hết sức mẫu mực và lặng lẽ để làm gương sáng cho đứa con yêu của Ngài bởi lẽ Ngài hiểu được tầm quan trọng của hình ảnh người cha đối với việc tạo thành nhân cách của Hài Nhi. Chính nhờ gần gũi với Giuse mà Chúa Giêsu sẽ học biết người cha là gì. Chính nơi Giuse, Chúa Giêsu nhìn thấy phản ánh nhân loại tình phụ tử của Thiên Chúa. Biết nói với chúng ta rõ ràng về Cha của Ngài, phải chăng khi đã nhìn thấy Giuse mà Ngài đã có kinh nghiệm về sự âu yếm của cha: “Ai trong các anh, nếu đứa con xin bánh mà lại cho một hòn đá ư? Hay, nếu nó xin một con cá, mà lại cho nó một con rắn?” (7,9-10). Ngài đã học biết rằng, các người cha dưới đất biết cho con cái mình những sự tốt lành. Ngài đã học biết điều đó nơi thánh Giuse. Qua bài học lặng thầm của Thánh Giuse để lại, Chúa Chúa Giêsu như được củng cố thêm tình thương của Cha để Ngài bước vào cuộc khổ hình thập giá một cách hiên ngang hơn, một cách quyết liệt hơn.
Đối diện với những thử thách cam go của cuộc đời, thánh Giuse vẫn luôn giữ thái độ im lặng. Một thái độ thầm lặng để vâng theo ý Chúa. Người không lên tiếng, ăn to nói lớn, Người không bào chữa cho những hành động của Người, nhưng tất cả đều theo ý Thiên Chúa. Thánh Giuse đã im lặng, chấp nhận dù rằng người cũng rất trăn trở, băn khoăn, bồn chồn, lo lắng. Mọi biến cố xẩy đến trong cuộc đời của thánh Giuse đều được Người chấp nhận với lòng tin thâm sâu: Người hy sinh lợi ích riêng cho kế hoạch, cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Sự thinh lặng thánh, sự ngụp lặn âm thầm theo Thánh ý Chúa của thánh Giuse gợi lên cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta bài học hết sức ý nghĩa. Vì chỉ có sự phó thác thẩm sâu nơi bàn tay nhân từ của Thiên Chúa với tất cả đức tin sâu xa, con người mới nhận ra đôi mắt nhân hiền, trái tim quảng đại và tình thương vô biên của Thiên Chúa đối với từng người. Thánh Giuse đã có mặt trong mọi lúc nguy biến mà Chúa Giêsu và Đức Mẹ cần đến, nhưng tới thời Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai thì cuộc đời của thánh Giuse cũng bắt đầu chấm dứt nơi trần gian này. Sự thinh lặng kéo dài suốt cuộc đời của thánh Giuse từ lúc Người được sinh ra cho đến ngày Người nhắm mắt xuôi tay. Sự thinh lặng thánh của thánh Giuse diễn tả cuộc đời của một con người hoàn toàn thuộc về Chúa, cho Chúa và vì Chúa và như thế, thánh Giuse là mẫu gương tuyệt vời cho mọi người noi theo.
Những ngày chờ đón Đấng Cứu Độ đến trần gian ắt hẳn mở ra nhiều tâm tình, nhiều thái độ, nhiều tình cảm nhưng chắc có lẽ tâm tình âm thầm và trầm lắng của Thánh Giuse là tâm tình, là thái độ hết sức dễ thương mà Thiên Chúa muốn nơi chúng ta. Chỉ trong âm thầm, chỉ trong chịu đựng những đau khổ chúng ta mới có thể hiểu được Thánh ý tuyệt vời mà Thiên Chúa tô vẽ trên cuộc đời mỗi người chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lộ trình phụng vụ mùa Vọng đã mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn để sẵn sàng tiếp đón, đồng thời tỉnh thức để nhận ra và chiêm ngưỡng biến cố Chúa Cứu Thế bước vào trần gian. Nên thời gian trước lễ Giáng sinh mang tính đặc thù của nó là chờ đợi với niềm vui, mong muốn gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên chúa làm người sống giữa chúng ta. Chúng ta thấy ông Dacaria và bà Êlisabét, đặc biệt là Mẹ Maria và thánh Giuse, là những người đầu tiên đã cảm thấy vui mừng khi đối với mầu nhiệm Giáng sinh. Toàn bộ lời hứa trong Cựu Ước được thực hiện với biến cố Con Thiên Chúa, Vị Cứu Tinh giáng trần. Như thế bên cạnh sự chờ mong của các nhân vật trong Thánh Kinh cũng có sự chờ mong của chúng ta nữa…
Isaia loan báo: “Này đây, Chúa toàn năng đến: Người sẽ được gọi là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi”. Đó là các lời chúng ta thường lặp lại trong các ngày này, đặc biệt Chúa nhật thứ IV và cũng là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng hôm nay.
Toàn bộ phụng vụ xoay quanh lời ngôn sứ: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. (Is 7,14; Mt 1,23). Nếu bài đọc I, ngôn sứ tuyên sấm lời Thiên Chúa hứa “sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai…” ((Is 7,14), thì lời hứa ấy được thực hiện trong Bài Tin Mừng: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai …” Mt 1,23). Câu này tiếp tục lặp lại trong phần alleluia và cả phần Ca hiệp lễ nữa.
Chân trời ơn cứu độ phổ quát hôm nay nhằm vào đối tượng cụ thể trong lịch sử và thời gian là: Gia Đình Thánh Gia Nazarét, trong đó Đức Maria là đối tượng của lời ngôn sứ, thánh Giuse, người công chính được sứ thần hiện đến trong giấc mơ, và Đức Giêsu Đấng phải đến đã nhận được hai tên: Giêsu, nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”; và “Em-ma-nu-el”, theo Thánh Kinh nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Bước vào Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, người ta có cảm thấy bầu khí nhẹ nhàng và thân thiện của Giáng sinh; máng cỏ được trưng ra với bò, lừa, tất cả sẽ được trang trí ở đó, đưa chúng ta đến gần với máng cỏ đã dọn sẵn.
Bằng cách giới thiệu bản văn Tân Ước, Isaia (7,14) chứng tỏ lời hứa đã được thực hiện, hoàn tất lời Thiên Chúa phán qua miệng các tiên tri: ‘Này đây Trinh Nữ sẽ thụ thai’ (Mt 1,22-23). Vì niềm tin của dân Israel mà lời Thiên Chúa hứa được thi hành. Đó là ý nghĩa đích thực của sự mong chờ trong Mùa Vọng. Thiên Chúa không từ trời xuống, như một giải pháp kỳ bí cho sự tuyệt vọng của con người, Ngài đến để lấp đầy khát vọng từ con tim của Abraham, Isaac, Giacob, và của toàn dân Israel, vì ước muốn này “tin vui mà Thiên Chúa đã hứa qua các ngôn sứ trong Thánh Kinh” (Rm 1,2). Cần phải đón nhận Thiên Chúa đến trong “Thần Khí”, nghĩa là như một hồn ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho con người, chứ không phải “theo xác thịt” (Rm 1,3-4).
Kết quả là những lời hứa cứu độ phổ quát dành cho dân Do thái do miệng các ngôn sứ loan báo nay hoàn tất trong biết cố Giáng sinh. Không có gì là chiến thắng hết: còn qui chiếu nào đơn giản hơn là một người nam và một thiếu nữ đang sẵn sàng sinh em bé không? Nhưng con trẻ là đối tượng của lời hứa: Thiên Chúa cứu độ nay đến ở cùng chúng ta.
“Emmanuel” nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Vâng, Người là Thiên Chúa ở trên chúng ta, nhưng hôm nay Người đến ở cùng chúng ta! Người là Thiên Chúa ở với chúng ta trong nhân tính và trong ân sủng của Người, Người ở với chúng ta trong sự yếu hèn của chúng ta và tốt lành của Người, Ngài ở với chúng ta trong đau khổ của chúng ta với tình thương của Người để đưa chúng ta vào trong tình yêu dịu dàng và từ bi của Người đối với chúng ta.
Thiên Chúa ở với chúng ta! Tác giả thư Do thái viết: Anh em là con cái Adam đã không thể lên trời ở với Thiên Chúa “Mệnh lệnh đó không ở trên trời, khiến anh (em) phải nói: “Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành?” (x. Dt 30,12) Thiên Chúa từ trời xuống là “Emmanuel”, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến nhà chúng ta, chúng ta đến với Chúa để được ở với Người! “Phàm nhân hỡi, cho đến bao giờ lòng vẫn còn chai đá ưa thích chuyện hư không, chạy theo điều giả dối? “(Tv 4:3) Ở đây có sự thật: “Sao lại yêu mến sự hư vô? ” Và đây lời chân thật và bền vững: “Tại sao tìm kiếm sự dối trá?”
Đây là Thiên Chúa ở với chúng ta. Nhỏ bé như ta, yếu đuối như ta, trần truồng như ta, nghèo khó như ta, trong mọi sự, Người đã trở nên giống tôi, mặc lấy tôi và hiến mình cho tôi. Tôi nằm chết, không có tiếng nói, không có ý nghĩa, thậm trí ánh sáng cũng không còn trong mắt tôi. Hôm nay Thiên Chúa đã hạ mình xuống làm người như ta vậy. Ôi! còn sung sướng và hạnh phúc nào hơn nữa. Thiên Chúa đến cứu thoát chúng ta khỏi tội lỗi và cái chết, sau khi Adam và Eva phạm tội, Người đã tái ôm hôn chúng ta và mở toang cửa dẫn chúng ta tới sự sống đời đời.
Thánh Ireneo giải thích rằng “Chính Con Thiên Chúa đã xuống trong một xác phàm giống xác phàm của tội lỗi” (Rm 8,3) để lên án tội lỗi và sau khi đã lên án nó, Ngài hoàn toàn loại trừ nó khỏi loài người. Ngài kêu gọi con người giống chính mình, Ngài làm cho nó bắt chước Thiên Chúa, và dẫn nó đi trên con đường Thiên Chúa Cha đã chỉ, để nó có thể trông thấy Thiên Chúa và ban tặng chính Thiên Chúa Cha cho nó” III, 20,2-3). Ireneo khẳng định rằng: với Chúa Giêsu Hài Nhi, Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên giống Người. Chúng ta thấy Thiên Chúa như Người là. Và như thế Người nhắc nhở cho chúng ta biết chúng ta phải giống Thiên Chúa, và phải bắt chước Người. Thiên Chúa đã tự hiến cho chúng ta, trong tay chúng ta.
Thánh Ireneo còn khẳng định như sau: “Ngôi Lời của Thiên Chúa đến ở giữa loài người và làm Con của loài người, để tập cho con người nhận biết Thiên Chúa và làm cho Thiên Chúa quen sống trong con người theo ý Thiên Chúa Cha. Vì thế, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta như “dấu chỉ” ơn cứu rỗi của chúng ta, Đấng được sinh ra từ Đức Trinh Nữ, là Emmanuel”. Xin Đức Trinh Nữ Maria và thánh Giuse giúp chúng ta sống Mầu Nhiệm Giáng Sinh với lòng biết ơn được canh tân. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Theo nguồn tin của Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới (WMO: World Meteorological Organization) nói hôm Thứ Năm (27/01/2011). Trái đất này đang nóng dần lên, các lớp băng ở Bắc Cực tan thêm và bởi thời tiết cực đoan. Có một số khác lại cho rằng trái đất đang lạnh đi, ngày 06/01/2014 cơn bão Hercules đi qua khu vực phía bắc Mỹ khiến nhiệt độ nơi này xuống thấp kỷ lục trong vòng 20 năm -31 độ C ở Chicago, thậm chí đến -60 độ C tại một số thành phố làm 13 người chết, gần 3.000 chuyến bay bị hủy. Ngày 7/1, 50 bang nước Mỹ đều có nhiệt độ dưới 0 độ C vào một thời điểm. Ngay tại Sapa, Việt Nam có tuyết phủ mấy ngày.
Số khác trung dung hơn, cho rằng nhiệt độ Trái đất đang thay đổi nóng lạnh bất thường và thay đổi đột ngột một cách bất thường, từ mức lạnh gần như thấp nhất chuyển sang mức nóng đỉnh điểm trong chưa đầy 100 năm, khoảng thời gian ngắn nhất trong lịch sử.
Hôm 2/5, các nhà khoa học sử dụng kính thiên văn TRAPPIST tại Chile để theo dõi và phát hiện ra ba hành tinh có kích thước giống Trái Đất quay quanh một ngôi sao lùn ở khoảng cách thích hợp, tạo điều kiện cho sự sống phát triển với hy vọng con người có thể sống được ở đó.
Tóm lại, sự sống trên mặt đất của con người và mọi sinh vật đang bị đe dọa, và người ta đi tìm một hành tinh xanh khác dễ sống hơn.
Về phương diện con người, nạn phá thai đã lến tới mức báo động chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Mỗi năm chỉ riêng Việt Nam đã có gần 3 triệu ca phá thai. Có nghĩa là mỗi ngày có khoảng 8 ngàn ca phá thai. Thứ nhất là Sài Gòn, kế đến là Hà Nội, Huế, Cần Thơ… Duy trì sự sống là một yếu tố căn bản cho sự tồn tại của một dân tộc, ấy vậy mà họ đang tiêu hủy sự sống con người.
Con người đã dùng vũ khí sinh học giết người hàng loạt để hủy diệt nhau. Có những chuyện chưa từng nghe thì nay đã thấy, như “Bất hiếu với cha mẹ nơi cửa tử bệnh viện” gây nỗi xót xa, tức giận trong cộng đồng, nghĩa là mẹ ốm có thể chữa được, 4 người con của bà có mặt tại viện (trong số tất cả 8 người con) tranh cãi nhau rồi quyết định mang mẹ về chờ chết (Vnexpress,Thứ ba, 27/8/2013). Hay cả năm người con đồng ý với án tử hình bố. Một vài dẫn chứng cụ thể trên cho thấy Trái đất này, con người ngay nay khó sống và khó yêu quá.
Trái đất và con người đang như thế, nhưng Đức Giêsu con Thiên Chúa đã đến sống cùng chúng ta, như Isaia loan báo: “Này đây, Chúa toàn năng đến: Người sẽ được gọi là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi”. Những lời trên đây được lặp lại trong các ngày này, đặc biệt Chúa nhật thứ IV, để khẳng định rằng Trái đất vẫn rất đáng yêu và con người vẫn còn đáng mến. Thiên Chúa đến vì mến địa cầu, Thiên Chúa thương vì tình thương vấn vương khi tạo dựng.
Toàn bộ phụng vụ xoay quanh lời ngôn sứ: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. (Is 7,14; Mt 1,23). Nếu bài đọc I, ngôn sứ tuyên sấm lời Thiên Chúa hứa: “Sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai…” ((Is 7,14), thì lời hứa ấy được thực hiện trong Bài Tin Mừng: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai …” Mt 1,23). Câu này tiếp tục lặp lại trong phần alleluia và cả phần Ca hiệp lễ nữa.
Thiên Chúa đến ở cùng chúng ta, vì Ngài vẫn còn tin tưởng chúng ta!… Ngài đến để sống với con người, Ngài chọn cư ngụ trên trái đất để ở lại với con người, để sống tại nơi con người vẫn sống trong niềm vui hay nỗi buồn. Vì thế, Trái đất không còn là ‘thung lũng đầy nước mắt’ nữa mà là nơi Thiên Chúa đến cắm lều, gặp gỡ con người, là nơi Thiên Chúa liên đới với con người.
Thiên Chúa xuống thế làm người vì chúng ta, tất cả chúng ta đều cảm thấy mình được yêu thương và được đón nhận; chúng ta khám phá mình có phẩm vị quý giá và duy nhất trước nhan Ðấng Tạo Hoá.
Ðấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi sinh ra trong cảnh khó nghèo tại Bêlem, Chúa Giêsu đã muốn trở thành bạn đồng hành với mỗi người chúng ta. Trên mặt đất này, kể từ khi Người muốn “dựng lều” để cư ngụ, thì không còn ai là kẻ xa lạ nữa. Thật vậy, tất cả chúng ta là những khách lữ hành sống tạm qua trên trần gian này, chính Chúa Giêsu là Ðấng làm cho chúng ta có cảm nghiệm dường như mình đang sống tại nhà mình, trên mặt đất này, nơi được thánh hoá do bởi sự hiện diện của Chúa. Và Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy biến trái đất này trở thành căn nhà đón tiếp tất cả mọi người.
“Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. (Is 7,14; Mt 1,23). Các Giáo Phụ đã giải thích. Con Thiên Chúa đã trở nên nhỏ bé, đến độ vào được trong máng cỏ. Ngài trở nên trẻ thơ để dạy chúng ta yêu thương những trẻ thơ và những kẻ yếu đuối. Bằng cách thế như vậy, Ngài dạy chúng ta tôn trọng trẻ thơ, những em đang đau khổ và bị lạm dụng trên thế giới, những em đã được sinh ra cũng như những trẻ không được sinh ra. Ngài dạy chúng ta nhìn đến những trẻ bị đưa vào trong thế giới của bạo lực, như làm lính, phải đi ăn xin, phải khổ vì nghèo vì đói, những trẻ em không được hưởng chút tình thương. Chính Thiên Chúa, Ðấng đã trở nên trẻ thơ, mời gọi chúng ta dấn thân, ngõ hầu sức mạnh của tình yêu Chúa chăm sóc cho tất cả các trẻ em này; để phẩm giá của các em được tôn trọng.
Nhưng khi Thiên Chúa chia sẻ thân phận con người của chúng ta, Ngài không hiện diện giữa nhân loại ở một nơi an nhàn lý tưởng, nhưng ở trong thế giới thực này, với bao điều tốt đẹp và xấu xa, với những chia rẽ, sự dữ, nghèo đói, lạm dụng quyền lực và chiến tranh. Ngài chọn tham gia vào lịch sử của chúng ta như lịch sử ấy vốn thế, với tất cả gánh nặng của những giới hạn và bi kịch của nó…. Ngài là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta… trong mọi nỗi khổ đau của lịch sử. Chúa Giêsu được sinh ra là minh chứng cho thấy Thiên Chúa đứng về phía con người, một lần và mãi mãi, để cứu chúng ta và nâng chúng ta lên khỏi bụi bặm của khổ đau, của khó khăn và tội lỗi chúng ta”.
Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa ở cùng, ấy là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khổ nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền… Chúa Giêsu được sinh ra mang đến cho chúng ta tin vui rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng và yêu thương mọi người và từng người trong chúng ta. Amen.
(Trích từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Thiên Chúa là Đấng toàn năng, nếu Ngài đã tạo dựng thế giới chỉ bằng một lời quyền năng của Ngài, thì Ngài cũng có thể cứu chuộc con người một cách dễ dàng bằng một lời tha thứ. Nhưng Thiên Chúa đã không làm thế. Ngài tôn trọng tự do của con người và muốn chính con người sử dụng tự do của mình để cộng tác vào công trình cứu độ. Nhưng bằng cách nào? Thưa, đó là luôn vâng theo ý Chúa như Đức Maria và thánh Giuse đã sống.
Thật vậy, Đức Maria chỉ là một thiếu nữ bình thường như bao thiếu nữ khác, sống trong một làng quê nhỏ bé, âm thầm; chỉ có một điều khác biệt là người đã luôn vâng theo ý Chúa trong mọi sự. Người đã thưa xin vâng, dù chưa biết rõ chương trình lạ lùng của Thiên Chúa. Cũng thế, thánh Giuse chỉ là bác thợ mộc nhà quê, nghèo hèn, nhưng có điều khác biệt là ngài đã luôn tuân theo ý Chúa, điển hình là ngài đã rước Đức Maria về nhà mình sau khi được sứ thần cho biết là Đức Maria thụ thai là bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
Mỗi kitô hữu chúng ta cũng có thể là một Giuse hay một Maria khác. Mặc dù chỉ là những con người bé nhỏ, tầm thường, tội lỗi, chúng ta cũng có thể góp phần vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa nếu chúng ta biết thể hiện cuộc sống hàng ngày của chúng ta trong sự tuân phục thánh ý Chúa, được biểu lộ qua luật Phúc âm, qua giáo huấn của Giáo Hội và của các vị Bề trên… Cuộc sống tốt đẹp của chúng ta sẽ trở thành một dấu hỏi cho người chung quanh: Tại sao người Công giáo lại vui tươi, bình an như thế; gương sống đạo của chúng ta sẽ tác động những người khô khan và là một khuyến khích nâng đỡ cần thiết cho những anh em đồng đạo của chúng ta.
Ước gì chúng ta ý thức được phần đóng góp tuy nhỏ bé, nhưng hữu hiệu của chúng ta, trong việc làm cho mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu được mọi người nhận biết, và làm cho nhiều tâm hồn trở thành nơi an bình cho Chúa giáng sinh.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Những người yêu nhau, thường thích ở gần nhau. Thiên Chúa yêu chúng ta, Ngài muốn ở mãi cùng chúng ta. Hơn nữa, Ngài còn muốn chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài trong đời sống mỗi người.
Với một bông hồng nhung, hoặc hồng bạch, hoặc một đoá cúc trắng, người ta có thể trầm trồ khen “đẹp quá”. Khi đi xem vịnh Hạ Long, nhiều người buột miệng: “Thiên Chúa tài thế, Ngài tạo dựng cảnh đẹp tuyệt”. Tạo vật vô tri vô giác cũng là dấu chỉ Thiên Chúa đang hiện diện với con người. Qua nét đẹp của tạo vật, con người có thể nhận ra Thiên Chúa đẹp tuyệt vời.
Thiên Chúa hiện diện một cách đặc biệt qua con người. Nét đẹp tinh thần của con người, như lòng vị tha, lòng thương xót và bác ái được thể hiện qua việc làm, là những dấu chỉ giúp con người nhận ra “Thiên Chúa hiện hữu” và “Ngài đẹp tuyệt vời”.
“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp tay Người”. Những người bình thường, không bị bệnh về mắt “thiêng liêng”, có thể nhận ra Thiên Chúa hiện diện qua trung gian các tạo vật.
Với những thăng trầm trong dòng lịch sử, như biến cố thoát cảnh nô lệ Aicập qua Môsê, việc thoát cảnh đàn áp bóc lột của những dân tộc xung quanh qua các thẩm phán, việc dân lưu đày trở về quê hương qua Kyrô, người Do Thái nhận biết Thiên Chúa không chỉ hiện hữu, những còn là Thiên Chúa yêu thương và giải phóng. Qua lịch sử dân Do Thái, Thiên Chúa cũng tỏ lộ chính Ngài cho các dân tộc khác. Chẳng hạn qua việc giải phóng dân Do Thái khỏi Aicập, Thiên Chúa cũng tỏ lộ chính Ngài cho người Aicập nữa.
Tuy vậy, những can thiệp này cũng có giới hạn, vì làm người ta tưởng rằng Thiên Chúa chỉ yêu thương người Do Thái mà ghét bỏ các dân tộc khác, nhưng thật không phải vậy. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi dân tộc chứ không riêng gì dân tộc Do Thái, nhưng để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người nói chung, theo sư phạm Ngài cần diễn tả tình yêu của Ngài đối với những con người và dân tộc cụ thể.
Thiên Chúa không chỉ mặc khải Ngài là Đấng can thiệp vào lịch sử dân Do Thái, nhưng còn cho thấy Ngài quan tâm đến tương lai của một gia đình, một dòng họ. Qua lời hứa với Ahaz trong bài đọc thứ nhất của sách tiên tri Isaya, Thiên Chúa là bảo đảm và niềm hy vọng của một gia đình, của một dòng tộc, và của cả một dân tộc.
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa: “Ta hãy tạo thành con người giống hình ảnh Ta” (St.1, 26). Qua lịch sử đời người, con người hiểu biết hơn về Thiên Chúa. Thánh Yuse là biểu hiện của tình yêu Thiên Chúa cho Đức Maria. Trong trình thuật biến cố Đức Maria có thai, thánh Yuse cho thấy Ngài là người tuyệt vời. Ngài không tố cáo Đức Maria, không làm gì gây xúc phạm đến thanh danh và mạng sống của Đức Maria, tuy dù nếu Ngài tố cáo thì Ngài cũng vẫn chỉ là nói lên một sự thật. Không chỉ vậy, thánh Yuse còn quảng đại bảo bọc Đức Maria trong những giây phút khó khăn thử thách của cuộc sống. Thiên Chúa yêu thương bảo vệ Đức Maria qua thánh Yuse.
Đức Maria cũng phản ánh tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa cho con người hôm nay. Bao người cầu xin với Đức Mẹ, và họ nhận ra Thiên Chúa hiện diện và an ủi họ khi họ được nhận lời. Đức Maria cũng là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện và yêu thương Yuse. Qua tiếng “xin vâng” của Đức Maria, Thiên Chúa yêu thương và hiện diện cách đặc biệt với con người qua Đức Yêsu.
Đức Yêsu, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (Col.1,15). Nơi Đức Yêsu, Thiên Chúa tỏ lộ chính Ngài một cách tuyệt vời nhất. Với cái chết và phục sinh, Đức Yêsu tỏ cho con người thấy Thiên Chúa là ai: Đấng trung thành, yêu thương, kiên nhẫn và tha thứ. Nơi Đức Yêsu, con người thấy rõ Thiên Chúa yêu thương và ở với con người. Thiên Chúa đã làm tất cả, đã có sáng kiến tuyệt vời để cứu độ con người. Ngài ở với con người.
“Thiên Chúa ở với chúng ta”. Đây là câu nói tuyệt vời. Ngày xưa, Thiên Chúa đã nói lời này với Isaac (St.26, 3.24), với Yacob (St.31, 3), để đồng hành và bảo vệ những người được Ngài yêu thương. Thiên Chúa đã ở với Môsê (Xh.3, 12), để giải phóng dân Do Thái ra khỏi Aicập, Thiên Chúa đã ở với Yoshua (Gs.1, 5), để dẫn dân riêng của Ngài vào đất hứa. Thiên Chúa đã ở với Yêrêmia (Gr.1, 19), để giải phóng tiên tri khỏi bao người bách hại ngài. Thiên Chúa đã ở với các tiên tri (Is. 41,10; 43,12), để giúp các tiên tri thi hành sứ mạng được trao.
Thiên Chúa ở với ai, là để yêu thương và bảo vệ người đó. Nơi Đức Yêsu, Thiên Chúa ở với con người, để yêu thương và giải phóng con người khỏi tội, để chỉ con người con đường “yêu thương” cứu độ, để giúp con người kiên nhẫn vượt qua chính mình và đến với người khác.
“Chúa ở cùng anh chị em”. Đây vừa là lời chào trong thánh lễ, vừa là lời chúc, và lời khẳng định một thực tại sâu thẳm. Với Đức Yêsu, Thiên Chúa ở mãi với con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một em bé về kể với mẹ: Mẹ ơi, hôm nay khi một chiếc xe chở bia bị lật, con thấy nhiều người ra hôi bia về uống.
Mẹ nói: Vì họ là người tham lam. Họ phạm tội ăn cắp một cách công khai đáng bị lên án.
Đứa bé: Nhưng con thấy có cả chú tư, cô ba gần nhà mình cũng vui vẻ bưng một thùng bia về nhà.
Mẹ: Vì chú tư, cô bà đã bán sĩ diện mình bằng vài lon bia.
Đứa bé: Con thấy không một ai nhặt giúp bia cho người bị nạn mà ai cũng tranh thủ chộp một vài lon hay vài thùng rồi lên xe chạy hết.
Mẹ: Vì họ sống theo bản năng đói thì ăn, khát thì uống mà không còn xét về luân lý được ăn hay không?
Đứa bé: Vậy nếu xã hội mà con người chỉ biết sống theo bản năng thì xã hội sẽ ra sao?
Mẹ: Thì xã hội sẽ chẳng còn luật lệ, người ta sẽ mạnh ai người ấy sống, hay “cá lớn nuốt cá bé”. Xã hội sẽ loạn lạc, chẳng còn ai tin vào ai.
Đứa bé: Vậy sống trong một xã hội mà con người không còn thân thiện, giúp đỡ nhau thì mình phải làm sao?
Mẹ: Mình phải là một ánh sáng cho thế gian bớt u tối bằng việc làm tốt, không hùa theo đám đông làm chuyện xấu. Dù chỉ là ánh sáng lẻ loi nhưng vẫn phá tan những đêm tối của lòng người. Nhất là mình là người Công giáo phải sống chứng nhân cho Chúa qua dấu chỉ yêu thương để người ta nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa, và đừng bao giờ vì một vài lon bia mà làm ô danh đạo thánh của chúng ta.
Cách đây hơn hai ngàn năm giữa một khung trời đầy những bóng tối của tội lỗi, của sự ích kỷ lòng người Ngôi Hai Thiên Chúa đã ngự xuống trần gian. Ngài là Emanuel ở cùng chúng ta. Ngài đến để thắp sáng trên trần gian ánh sáng của tình bác ái, của sự hiệp thông. Ngài là ánh sáng cho trần gian. Ngài soi chiếu ánh sáng chân lý để đầy lùi bóng tối gian tà. Ngài thắp sáng ánh sáng tình yêu để xua tan bóng đêm của ích kỷ, lạnh lùng. Ngài đi vào trần đời để ném ngọn lửa yêu thương, lửa bác ái, lửa tin yêu cho trần gian.
Thế nhưng, vẫn có những con người khước từ ánh sáng. Họ thích sống trong tăm tối. Họ thích sống theo bản năng, nuông chiều tính xác thịt. Họ ngồi trong u tối nhưng không muốn ra ánh sáng. Vì theo ánh sáng phải bỏ bóng tối. Bóng tối của ích kỷ, của dửng dưng, của gian tà. Nhưng tiếc thay, con người lại thích sống theo bản năng nên họ khước từ ánh sáng.
Ngày nay cũng có nhiều người không muốn theo một đạo nào. Không phải là họ không tin mà điều quan yếu là họ sợ phải sống đạo, phải giữ đạo. Họ thà không theo đạo để sống theo bản năng của mình. Thế nhưng, bản năng thường ích kỷ, thường lầm lỗi và hẹp hòi nên vẫn còn đó những việc làm thiếu tình liên đới, hiệp thông yêu thương trong tình người.
Ngày nay Thiên Chúa vẫn đang cần chúng ta hãy trở thành ánh sáng cho trần gian. Hãy chiếu sáng cho thế gian ánh sáng của yêu thương, của tình liên đới và hiệp thông. Hãy dẫn dắt con người đến cùng ánh sáng đích thực là chính Chúa Giêsu là nguồn mạch ánh sáng.
Thánh Giu-se và Đức Maria năm xưa đã cộng tác với Chúa để mang ánh sáng vào trần gian. Mẹ đã cộng tác bằng hai tiếng xin vâng để đón nhận hài nhi ngự trong cung lòng Mẹ. Thánh Giuse đã cộng tác bằng hai tiếng xin vâng để trở thành cha nuôi của Chúa Giêsu. Cả hai cùng thưa xin vâng như lời dâng hiến cuộc đời để trở thành khí cụ của Chúa mang ánh sáng vào trần gian. Ngôi Hai Thiên Chúa đã có thể cư ngụ giữa chúng ta là nhờ tấm lòng hy sinh của hai thánh nhân. Chính các ngài đã từ bỏ ý riêng, từ bỏ nếp sống của mình để hành xử theo ý Thiên Chúa.
Nếu cuộc đời mà ai cũng biết từ bỏ ý riêng của mình để làm theo ý Chúa thì cuộc đời tốt đẹp biết bao. Nếu dòng đời ai cũng biết chế ngự bản thân để sống cho tha nhân thì dòng đời sẽ không còn vẫn đục bởi hôi của, bởi dưng dưng trước khốn khó của đồng loại mà ai cũng sẵn sàng giúp đỡ nhau.
Mùa Noel nữa lại đến như mời gọi chúng ta hãy là ánh sáng cho trần gian. Xin đừng vì những quyến luyến trần tục, những tham lam bất chính mà bản rẻ lương tâm, nhân phẩm của mình. Nhưng mỗi người hãy là những vì sao sáng trên bầu trời loan báo tin vui Chúa giáng sinh cho nhân trần. Xin Đấng Emaul mãi ở lại trong tâm hồn chúng ta ban niềm vui và hạnh phúc để chúng ta cũng ra đi xây dựng tình yêu và hạnh phúc cho nhân trần. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống chung cần niềm tin nơi nhau. Niềm tin sẽ cho nhau hạnh phúc, và sự bình an. Niềm tin sẽ khích lệ nhau vượt qua khó khăn, vì ở giữa những phong ba bão táp vẫn có người tin tưởng ở bên chúng ta. Nhất là trong đời sống vợ chồng càng cần niềm tin nơi nhau hơn. Vợ chồng không tin nhau sẽ đầy đọa nhau suốt đời. Lấy phải một người đa nghi thì suốt ngày được nghe những bản án vô cớ nơi người bạn của mình.
Có một bà vợ hay ghen một cách vô cớ. Mỗi lần ông chồng đi đâu về là bà đều khám xét kỹ lưỡng trên áo xem có gì lạ không. Ngày thứ nhất bà thấy có 1 sợi tóc quăn trên áo, bà liền phán: hôm nay lại ôm cái con tóc quăn phải không? Ông chồng ậm ừ cho qua. Ngày thứ hai bà khám xét lại thấy một sợi tóc bạc. Ông chồng liền phán đừng nói tôi ôm bà lão nhé, nhưng bà vợ liền phán: Hôm nay tôi đoán chắc ông ôm con tóc bạch kim phải không?. Ông chồng đành chịu thua. Lần thứ ba, bà khám kỹ lưỡng nhưng không có sợi tóc nào dính trên áo ông. Tưởng cho qua, ai dè bà phán một câu xanh rờn: Hôm nay, lại ôm cái con trọc đầu rồi!
Ghen tương là biểu lộ tình yêu, nhưng ghen tương vô cớ sẽ đánh mất tình yêu, đánh mất tự do của người mình yêu. Hai người cần phải biết tin tưởng lẫn nhau, biết cảm thông cho nhau, nhất là biết tôn trọng nhau mới có thể cùng nhau đi qua kiếp người với lòng trung thủy khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan. Nếu không tin nơi nhau sẽ đầy đọa và làm khổ nhau suốt đời.
Thiên Chúa luôn yêu thương con người. Tình yêu của Ngài đôi lúc cũng có những ghen tương. Ngài đòi con người chỉ được yêu một mình Ngài và không có được thờ một thần linh nào khác. Nhưng tình yêu của Ngài không ghen tương mù quáng. Người luôn tin tưởng con người. Ngài luôn tôn trọng con người. Điều Ngài có thể làm để níu kéo con người về với Ngài chính là tình yêu. Ngài đã dùng tình yêu hy sinh, tận hiến cho người mình yêu được sống và sống hạnh phúc. Tình yêu của Ngài luôn bao dung có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi con người, tha thứ và nhẫn nại chờ đợi con người.
Phúc âm hôm nay cho ta thấy tình yêu đầy tin tưởng nơi thánh Giuse. Ngài từng khó hiểu tại sao người bạn đính hôn của mình lại mang thai. Ngài cũng có những giao động đến nỗi định tâm bỏ đi cách kín đáo. Nhưng niềm tin vào Mẹ Maria đã giữ ngài ở lại. Ngài tin Mẹ Maria là người đoan trang thanh khiết. Ngài tin rằng với tính cách của Mẹ Maria sẽ không làm gì trái với lương tâm hay trái với luân thường đạo lý. Trên hết mọi sự chính là niềm tin nơi Thiên Chúa. Thánh Giuse đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Ngài để cho Thiên Chúa thực hiện ý định của Ngài. Ngài tin vào đường lối của Thiên Chúa luôn tốt nhất cho từng người. Ngài đã để thánh ý Chúa thực hiện theo như chương trình đã định.
Chính niềm tin vào Thiên Chúa và sự tin tưởng nơi người bạn đính hôn, thánh Giuse đã đón nhận Mẹ về nhà mình. Không có niềm tin tuyệt đối thì làm sao có một mái ấm gia đình Nagiaret? Không có niềm tin nơi nhau làm sao thánh Giuse có thể có thể nhận làm cha nuôi của Chúa Giêsu?
Cuộc sống sẽ tốt hơn nếu con người dám tin nơi nhau. Niềm tin sẽ giúp nhau bỏ qua những nghi kỵ, hiểu lầm, những toan tính để sống chia sẻ với nhau. Niềm tin cũng có nghĩa là phó thác trọn vẹn. Khi vợ chồng tin cậy nhau sẽ phó thác cả cuộc đời mình cho nhau. Vui buồn, sướng khổ cùng chia sẻ ngọt bùi với nhau. Lòng tin cũng được bày tỏ bằng sự cảm thông và chấp nhận nhau. Cuộc sống nếu tin nhau sẽ không còn phê phán hay lên án nhau. Cuộc sống nếu tin nhau sẽ giúp gia đình hòa hợp, yên vui và hạnh phúc bên nhau.
Ước gì các đôi hôn phối biết tìm được niềm vui hạnh phúc bên nhau khi biết tin tưởng nơi nhau, khi biết sống bao dung đón nhận nhau hầu xâu dựng một mái nhà rộn ràng niềm vui và hạnh phúc. Amen.
Dường như theo cách nghĩ thông thường của con người thì ai càng yếu đuối thì càng cần nhiều đến sự giúp đỡ của người khác. Thiên Chúa chúng ta là Đấng Toàn Năng quyền phép vô cùng nhưng Người vẫn cần nhờ đến sự cộng tác của con người là thụ tạo của mình. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho thấy Thiên Chúa mời gọi hai con người cộng tác đặc biệt vào chương trình cứu độ loài người.
“Này đây một thiếu nữ sẽ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is 7, 14) Đây là lời loan báo của tiên tri Isaia ở cuối Bài đọc I cho biết Thiên Chúa đã có dự định từ lâu về chương trình cứu độ loài người. Đến giờ đã định Người đã sai thiên sứ Gapriel đến mời gọi Đức Maria cộng tác bằng cách cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Đấng Cứu Thế Giêsu.
Cũng vậy, trong đoạn Tin mừng hôm nay Thiên Chúa tiếp tục cho thiên sứ đến mời gọi Giuse: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần”. (Mt 1, 20b). Thiên Chúa mời gọi Giuse làm cha Đấng Cứu Thế Giêsu cho hợp với luật pháp dân sự.
Với lời thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền” (Lc 1, 38) Đức Maria đã thật sự đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa. Còn Giuse thì: “Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” (Mt 1, 24). Cả hai Đấng đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa một cách vui vẻ. Với sự đón nhận ấy trước mắt họ chẳng có ích lợi gì cho bản thân mình. Một trinh nữ mà phải mang thai khi chưa hề biết đến chuyện vợ chồng. Một thanh niên phải đón nhận Maria về để chăm sóc và phụ với nàng nuôi dưỡng đứa con không phải của mình.
Dầu vậy, nhờ đó Đấng Cứu Thế được sinh ra đến trong thế gian này . Người được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có đầy đủ cha mẹ như bao trẻ thơ khác.
Thánh Augustinô đã có lần nói: “Để sinh ra con Nguời không hỏi ý kiến con nhưng để cứu chuộc con Nguời phải hỏi ý kiến con”. Như vậy, Thiên Chúa đã hoàn tất chương trình cứu độ của Người nơi Đấng Cứu Thế Giêsu. Tuy nhiên Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta tùy theo cương vị và bậc sống cộng tác với Người trong việc cứu độ chính mình và anh chị em. Chúng ta hãy noi gương Đức Maria và Thánh Giuse đón nhận Chúa Giêsu vào cuộc đời mình. Khi có Chúa Giêsu ở cùng thì dù có khó khăn mấy chúng ta vẫn có thể cộng tác tốt với Chúa.
Bắt đầu bài trích Phúc Âm hôm nay, Thánh Mátthêu đã giới thiệu: “Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô…”. (Đức Giêsu Kitô sinh ra thế này – Et voici comment Jésus Christ fut engendré…bản dịch của Cha Thuấn, La Bible de Jérusalem) (Mt 1,18).
Khi thánh sử Mátthêu mở đầu Phúc Âm của ngài, ngài đã trang trọng viết: “Đây là gia phả Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đa-vít, con cháu ông Áp-ra-ham”. (Gia phả Đức Giêsu Kitô, con Đa-vít, con Abraham. – Généalogie de Jésus Christ, fils de David, fils d’Abraham. Bản dịch của Cha Thuấn, La Bible de Jérusalem). (Mt.1,1-17).
Người xưa có câu: “vô tri bất mộ”. Không biết không yêu.Trong cuộc sống, cũng không ai đặt niềm tin vào người mà mình không hề biết “gốc tích” người đó. Làm sao ta có thể an lòng đặt niềm Tin Yêu vào một người mà ta không biết gì về “lý lịch”?
Nên, không phải vô tình mà thánh Mátthêu mở đầu sách Tin Mừng, ngài đề cập đến hai lần “gốc tích” của Chúa Giêsu Kitô. Bởi vì, để dọn đường cho Đức Tin độc giả, thánh Mátthêu muốn độc giả hiểu rõ về Chúa Giêsu. – Đức Giêsu, Ngài từ đâu đến?
Đức Giêsu: nhân vật lịch sử.
Không một sử gia nào ngày hôm nay còn nghi ngờ tính chất lịch sử của Chúa Giêsu, khái niệm Ngài không phải là một nhân vật đã sống thực sự trong lịch sử không còn giá trị gì trên phương diện sử học.
Ngay cả những tranh luận thời xưa, Celse ở thế kỷ thứ hai, Porphyre ở thế kỷ thứ ba đã qui tụ nhiều lập luận chống lại Kitô giáo, dựa trên sự nghiên cứu sâu rộng về kinh Thánh, về truyền thống truyền miệng; nhưng các ông không hề nghi ngờ gì về thực tại của những lời chứng do các môn đệ đã biết Chúa Giêsu tuyên xưng, hay những lời của Phao-lô, chứng nhân và văn sĩ Kitô hữu đầu tiên. Sự sống lịch sử của Chúa Giêsu cũng không bị đặt nghi vấn bởi truyền thống Do Thái, và ngay cả kinh Coran cũng coi Ngài như một vị tiên tri loan báo đấng Mahomet của Hồi Giáo.
Trong những văn kiện ngoài Kitô giáo, chiến tranh Do Thái (la guerre Juive) và những Cổ truyền Do Thái (les antiquités Judaiques), được soạn thảo bởi sử gia Do Thái Flavius Josèphe, có nói hai lần đến sự hiện hữu của Chúa Giêsu.
Trong những cổ truyền Do Thái (XX & 200), Flavius nhắc đến cuộc tử đạo của Jacques năm 62: Vị giáo quyền Anan triệu họp đại hội những thẩm phán để xử án jacques, anh em của Giêsu còn gọi là Kitô, và một phạm nhân khác. Họ bị kết tội đã vi phạm Luật Thánh và bị kết án tử hình bằng ném đá. Bản văn này cần hai chú thích sau: thứ nhất là chữ dịch anh em phải được hiểu theo nghĩa của ngôn ngữ nguyên văn (acception sémitique), nó được dùng để chỉ những người cùng gia đình, họ hàng, bạn bè; thứ hai là chữ Kitô, dưới ngòi bút của tác giả ngoại giáo và thân Roma này, được dùng theo nghĩa xấu để chỉ những người hay gây rối loạn ở vùng Judée thời đấy.
Trong chiến tranh Do thái (Flavius Josèphe XVIII, &63-64), ông có viết: Trong thời đó có Giêsu, một người khôn ngoan, nhưng có nên gọi như thế hay không, bởi vì đó là một người làm nhiều điều phi thường, một bậc thầy đối với nhiều người muốn tìm chân lý. Nhiều người Do Thái và Hy lạp theo ông. Đó là Đức Kitô. Khi ông bị tố cáo và bị Philatô kết án đóng đinh trên thập giá, những người theo ông vẫn không từ bỏ. Bởi vì ông sống lại trong ngày thứ ba; nhiều vị tiên tri thần linh đã nói về những điều này và muôn vàn những điều kỳ diệu khác về ông. Cho tới bây giờ, nhóm người Kitô vẫn còn tồn tại. (Theo Le Figaro Magazine, 01.10.1999, Nguyễn Văn Thành chuyển ngữ).
Còn rất nhiều bằng chứng, để có thể tin chắc một người mang tên Giêsu như Tân Ước ghi lại, đã từng có mặt trong lịch sử nhân loại. Đó không phải là một nhân vật huyền thoại, được tưởng tượng ra để phục vụ cho những lý do trần tục của nhân loại.
Vì Giêsu, Ngài là một nhân vật từng có mặt trong lịch sử nhân loại, nên Ngài phải có “gia phả”, có “gốc tích” rõ ràng, Ngài là con ai, cha mẹ là ai, sinh ra ở đâu, quê hương, cuộc đời và sự nghiệp Ngài như thế nào. Đó là “nhân tính” của Đức Giêsu.
Nhưng, Chúa Giêsu không chỉ là một nhân vật lịch sử bình thường. Ngài không phải chỉ là một vĩ nhân. Ngài còn là: Thiên-Chúa-làm-người.
Đức Giêsu: “Thiên-Chúa-làm-người”.
“Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.” (Mt.1,18).
Lý lịch của Chúa Giêsu rất hợp lệ theo thủ tục của con người, nhưng không tự nhiên theo kiểu con người, vì Ngài là Thiên Chúa. Ngôi Hai xuống thế làm người, Ngài là Thần Linh Sự Sống, là nguồn sống, Ngài là Đấng ban phát sự sống, Ngài đến để tái tạo sự sống cho con người, Ngài không thể được hình thành từ máu huyết phàm nhân.
Thánh Giuse là “người công chính”, chắc chắn đã được Thiên Chúa mạc khải chương trình huyền nhiệm về Chúa Cứu Thế Giáng Sinh mà ngài có bổn phận nuôi dưỡng, nhưng, trong sự hiểu biết hạn hẹp của một phàm nhân, hẳn ngài luôn cần Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn thêm, qua việc Thiên Thần đến với ngài trong giấc mơ, để ngài an tâm thực thi sứ mạng cao cả của ngài, là cha nuôi của Đấng Cứu Thế.
“Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” (Mt.1,23-24).
Emmanuen, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, đây mới đích thực là “gốc tích” của Giêsu. Giêsu, không phải chỉ là một “vĩ-nhân-ở-cùng-chúng-ta”, nhưng là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Và nhân loại phải nhận ra “gốc tích” đích thực này của một con người lịch sử mang tên Giêsu.
Con người mang tên Giêsu ấy, có “gia phả” từ ngọn nguồn của mọi sự sống. Con người ấy là Thiên Chúa đã lặng lẽ đến với nhân loại để “ở với nhân loại”, “đồng hành với nhân loại”, mà nhân loại đã không nhận ra “gốc tích” thật sự của Ngài. Đó là “Thiên Tính” của Đức Giêsu.
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Ga.1,12).
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga.1,14).
Đón tiếp Thiên Chúa Giáng Sinh.
Lễ Giáng Sinh ngày nay tưng bừng đèn hoa ngày hội và gần như cả cộng đồng nhân loại biết đến. Nhưng phần lớn nhân loại mừng Sinh Nhật Chúa Giêsu khi chỉ được biết Chúa Giêsu như một nhân vật lịch sử và dừng lại ở sự kính trọng Ngài như một vĩ nhân. Nhưng, ngày lễ Giáng Sinh chỉ thật sự đúng ý nghĩa khi con người chào đón Ngài là “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Niềm Tin ấy chỉ có được khi con người nhận ra “gốc tích Đức Giêsu là Thiên Chúa”.
Và, như thế, đón mừng Giáng Sinh, là đón mừng Tình Yêu Thiên Chúa dành trọn vẹn cho con người với Mầu Nhiệm Nhập Thể.
“Emmanuen, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt.1,23); hay “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga.1,14), đó là hồng ân lớn lao vô bờ bến mà không một ai trong kiếp nhân sinh đầy khổ ải này lại không mong mỏi đợi chờ.
Yêu nhau trăm sự chẳng nề. Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng. Cao vời nào cao vời như Thiên Chúa, thấp hèn nào như thấp hèn kiếp bụi tro, nhưng “một trăm chỗ lệch” ấy đã được “kê bằng” để Thiên Chúa đến với con người, ở giữa con người, sống như con người, chỉ trừ tội lỗi. Chỉ có Đức Giêsu Kitô với hai bản tính Thiên Chúa và con người, Ngài mới thật sự là nhịp cầu nối trời và đất. Thiên Chúa cúi xuống với con người để con người được vươn lên tới Thiên Chúa.
Không có Tình Yêu nào không đòi hỏi sự đồng hành, và sự đồng hành của Thiên Chúa dành cho con người gần gũi và chia sẻ đến mức không thể hơn thế được.
Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. (Pl.2,6-7).
Quả thực, chỉ có Tình Yêu ngự trị vũ hoàn này, sức sống mới thật sự hồi sinh, và hạnh phúc mới tìm lại được trong mọi con tim nhân thế.
Vì Chúa đến, không phải đem lại cho con người những cuộc vui chóng tàn hay những lợi lộc chóng qua, nhưng Ngài đến để đem lại cho con người những giá trị vĩnh cửu mà nếu không có Ngài, tất cả chỉ là khát vọng.
Lòng chúng ta sẽ trống rỗng nếu chúng ta không tiếp đón Ngài là Thiên Chúa Nhập Thể trong chính tâm hồn chúng ta. Ngài đến để đi vào mọi ngõ ngách tâm hồn chúng ta, nơi mà chúng ta chưa bao giờ dám chia sẻ cùng ai, đồng hành cùng ai. Và điều kỳ diệu sẽ đến với chúng ta khi mỗi bước đi của chúng ta là mỗi bước an bình và đầy hoan lạc trong ánh sáng Tình Yêu của Ngài. Vì như thế mới đúng với danh xưng của Ngài: Em-ma-nu-el: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hiểu được Đức Giêsu Kitô là ai, Ngài từ đâu đến, con người mới biết cách tiếp đón Ngài và đón tiếp Ngài với trọn vẹn niềm Tin Yêu và hạnh phúc.
Lạy Chúa,
Này đây Máng Cỏ lòng con,
xin Ngài ngự đến.
Nghèo hèn và bé nhỏ,
không xứng với Vua Trời Đất,
nhưng con tin rất vừa
với Chúa Tình Thương. Amen.
(Trích ‘Sống Lời Chúa’ – Damiano)
Việc Chúa Ngôi Hai đến trong thế gian là một khởi đầu cho một kỷ nguyên mới. Tuy nhiên cái mới nối tiếp cái cũ chứ không hủy bỏ. Vì Cựu Ước đã chuẩn bị cho Tân Ước. Sự hiện diện của Giuse là bản lề cho sự nối kết này. Nhờ Giuse mà Chúa Giêsu được thuộc dòng dõi Đavít: “Đây là gốc tích của Chúa Giêsu… Đức Kitô con vua Đa-vít, con của Abraham… Giacob sinh Giuse, chồng Maria, từ nơi bà sinh ra Đức Giêsu, cũng gọi là Đức Kitô…”
Để cắt nghĩa vai trò tế nhị của Giuse: Sở dĩ thánh Giuse nhận là chồng của bà Maria và cha của Chúa Giêsu cách hợp pháp mà không phải là bất đắc dĩ là vì ông là người công chính. Công chính là người sống theo thánh ý Thiên Chúa. Giai đoạn này được coi như một màn kịch: một hoàn cảnh bế tắc: sinh ra mà không có cha (người mẹ sẽ bị ném đá chết, chương trình Thiên Chúa sẽ bị bế tắc hay sao?). Việc Giuse nhận làm cha nuôi theo lời Thiên Thần truyền tin cho ông , đã gỡ rối cho sự bế tắc nầy (thế là Chúa Giêsu ra đời một cách hợp pháp). Bây giờ chỉ còn việc thực hiện sứ mạng nữa thôi: Khi thức dậy, Giuse đã thực hiện điều Thiên Chúa truyền: ông rước vợ về nhà mình. Vì thế, trong chương trình của Thiên Chúa, Giuse có một chỗ đứng rất quan trọng: vừa làm vai trò bản lề giữa Cựu và Tân Ước, vừa là công tác viên tích cực không thể thiếu được trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Nhưng trọng tâm bài Tin Mừng hôm nay không phải là ông Giuse mà chính Chúa Giêsu gọi là Emmanuel (Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-tôi). Ngài có hai nguồn gốc: nhờ Giuse và Maria mà Ngài là con Đa-vít cách hợp pháp, nhưng đồng thời Ngài cũng ra đời bởi phép Chúa Thánh Thần. Qua câu: Đây là nguồn gốc… Thánh sử Mátthêu muốn cho thấy nơi Đức Giêsu có hai bản tính rõ ràng. Trong Ngài đất trời đã được nối lại với nhau; Thiên Chúa và con người lại được giao hòa. Vì thế Chúa Giêsu gọi ông Giuse là cha đồng thời Ngài cũng là con Đấng tối cao.
Giuse là cha nuôi của Chúa Giêsu, điều đó nói gì với chúng ta hôm nay? nếu Giuse đã săn sóc giữ gìn Chúa Giêsu, thì ngày nay ngài cũng đóng vai trò trước mặt Thiên Chúa cho chúng ta, vì chúng ta là Kitô hữu, thuộc Nhiệm Thể Chúa Kitô. Ngài tiếp tục là cộng tác viên của Thiên Chúa trong việc cứu rỗi chúng ta. Biết bao nhiêu lần trong lịch sử Giáo Hội, thánh Giuse đã tỏ ra thật sự là cha tinh thần của rất nhiều con cái, khi họ kêu cầu người.
Thánh Giuse đưa người lầm lạc trở về.
Một cha xứ ở Pháp kể rằng: Từ 17 năm rồi, có một người lạc đạo đến cư ngụ trong giáo xứ của ngài, và ngài đã lui tới khuyên nhủ, nhưng vô hiệu.
Sau đó một thời gian anh ấy lâm trọng bệnh. Nghe tin, cha lại đến khuyên bảo, nhưng cũng vô hiệu. Đến giờ dâng lễ, cha phải trở về. Trước khi mặc áo lễ, cha ra quỳ trước bàn thờ thánh Giuse, cầu nguyện cho kẻ lầm lạc. Lễ xong, cha lại trở lại thăm anh ta. Và kỳ lạ thay, lần này, anh ta đã thay đổi rõ ràng. Cha vừa lên tiếng chào thì anh đã vui vẻ đáp lại và tỏ dấu sám hối ăn năn thật lòng. Anh đã xin chịu các bí tích cần thiết và sau nửa ngày thì anh ta qua đời cách bình an.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Luca kể chuyện truyền tin cho Đức Mẹ.Tin Mừng Matthêu tường thuật câu chuyện truyền tin cho Thánh Giuse. Thánh nhân được mạc khải cho biết mầu nhiệm Con Thiên Chúa Nhập Thể trong cung lòng Đồng Trinh của Mẹ Maria, do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Ngài được mời gọi tích cực tham dự vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Giuse đã sống lời “Xin Vâng” trọn cuộc đời.
Ngày Sứ thần Gabriel truyền tin, sau khi Đức Maria nói lời “Xin Vâng”, Con Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng của Mẹ. Biết tin chị họ Êlisabeth có thai, Mẹ đã mau mắn lên đường đến viếng thăm và giúp đỡ suốt 3 tháng.
Trong thời gian này, Giuse ở nhà lo lắng chuẩn bị cho ngày thành hôn sắp tới. Thật bất ngờ, khi trở về Maria có dấu hiệu mang thai. Tâm hồn Giuse hoang mang bối rối khi bà con lối xóm xầm xì to nhỏ: Maria có thai. Làm sao tin nổi đó là sự thật? Maria một thiếu nữ nết na đức hạnh kia mà! Dù cố biện minh cho Maria, nhưng Giuse không khỏi xao xuyến. Làm sao đây, khi mà Maria cũng không thể tự biện hộ cho mình là bào thai này do quyền phép của Thiên Chúa chứ không phải người phàm! Giuse có thể tin được không? Phần Maria vẫn thinh lặng suy niệm trong lòng.
Về phần Giuse, chiếu theo luật có thể truy tố Maria trước pháp luật.Là người công chính, dù ghi nhận ít nhiều dấu hiệu chuyển biến nơi Đức Maria, Giuse cũng chẳng dám nghi ngờ mà chỉ một thoáng băn khoăn, để rồi định chọn cho mình giải pháp âm thầm rút lui. “Đào vi thượng sách” là giải pháp an toàn nhất. “Trong lúc định tâm như thế, thì Thiên Thần hiện đến với ông trong giấc mơ” và nói rõ về ý định của Thiên Chúa chọn Maria làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Thiên Thần trấn an Giuse: ” Chớ ngại nhận Maria làm bạn, vì Con bà đang cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông sẽ gọi tên con trẻ là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội” (Mt 1,20-21). Sứ thần nhắc cho Giuse lời tiên tri Isaia (bài đọc 1). Là người Công Chính, Giuse đã đọc Kinh Thánh Cựu Ước và biết về sấm ngôn này. Lời Thiên Thần khai mở đã trút được gánh nặng đang đè trên tâm hồn Giuse bấy lâu. Chính lúc này, được tỏ nguồn cơn, Giuse đã tiếp nhận ý Chúa và tiếp đón Đức Maria về nhà mình bằng một tình yêu trong sáng, mà người trần mắt thịt dẫu có bản lĩnh cách mấy cũng khó mà dám xâm mình mạo hiểm (Mt 1,24).
Thánh Giuse luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Ngài trở nên Thánh Cả và là mẫu gương cho mọi tín hữu.
Tổ phụ Abraham nài xin với Thiên Chúa: “Thưa Chúa, nếu tìm thấy trong thành có 50 người công chính thì với 50 người chính chính ấy Chúa có tha cho cả thành không?”. Giavê Thiên Chúa đã chấp thuận điều kiện Abraham đặt ra. Abraham đã kỳ kèo bớt dần bớt dần xuống con số 10 người công chính, Giavê cũng chấp nhận (x.St 18,16-33). Chờ đợi đến giai đoạn sau này, Abraham mới vui mừng vì hiểu được rằng chỉ với một người công chính duy nhất chính hiệu thì Thiên Chúa cũng ban ơn tha thứ cho cả nhân loại (x.Ga 8,56). Người công chính là người lôi kéo ân lộc trời cao cho nhân trần, là người trung gian hòa giải đất với trời, là người thể hiện tình yêu nhưng không của Thiên Chúa và là người nối kết mối dây giao hòa giữa nhân loại với Đấng tác thành mọi sự mọi loài.
“Giuse là người công chính”. Nơi Thánh Giuse, “sự công chính nội tâm” trùng với “tình yêu”. Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và được hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu thiệt thòi để người yêu được hưởng lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi. Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế.
Giuse luôn mở lòng lắng nghe Lời Chúa trong cầu nguyện. Thiên thần giải thích cho Giuse biết: “Người sinh bởi Đức Maria là do Chúa Thánh Thần”, theo lời ngôn sứ phán xưa: “Này đây: Trinh nữ sẽ thụ thai”, và Giuse sẵn sàng tiếp nhận những ý định của Chúa, những ý định vượt quá những giới hạn của loài người.
Giuse như là một con người đích thực sống đức tin. Đức tin liên kết với sự công chính và cầu nguyện, đó là thái độ phù hợp để gặp Đấng Emmanuel. Tin có nghĩa là sống trong lịch sử mở lòng đón nhận sáng kiến của Thiên Chúa, đón nhận sức mạnh sáng tạo của lời Người.
Thánh Giuse là người công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Trong suốt cuộc đời, Giuse hằng luôn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25; 2,13-23; Lc 2,1-7.22).
Thánh ý Chúa được Sứ thần truyền đạt đến cho thánh Giuse, vừa xoá tan mọi nghi ngờ đang dằn vặt ngài vừa mạc khải cho ngài về lai lịch và sứ mạng của thai nhi đang được cưu mang. Đó là Đấng Thánh vì được thụ thai do quyền năng của Thiên Chúa. Đó cũng là Đấng sẽ giải phóng dân tộc của ngài khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Sứ thần xác nhận “Maria mang thai do Chúa Thánh Thần” và bảo ông đừng rút lui mà hãy đưa Maria về với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng. Giuse sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Người. Dự tính muốn ra đi âm thầm không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự Maria thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lại vì kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi dép khi tiến gần bụi gai đang cháy rực (St 3,5), tựa như Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh(Is 6,5), tựa như Simon sau khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng (Lc 5,8). Giuse đựoc biết là Maria “có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình. Vì thế ông toan tính rút lui. Để cũng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì “ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà”, cần phải dịch là “ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ ‘mầu nhiệm’, quyết định rời bỏ bà cách kín đáo”. Động từ deigmatisai (ít được sử dụng trong tiếng Hy lạp) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là “tố cáo, tố giác” (điều xấu), “bày tỏ, tiết lộ” (điều tốt). Ông Giuse đựơc bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này. (x. Lm Phan tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội thánh).
Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, thánh Giuse đã được Thiên Chúa “chọn mặt gởi vàng”, chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai. Ngài cùng với Đức Maria thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan cả vật chất lẫn tinh thần.
Người Công Chính Giuse suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ.
– Ở Bêlem: “Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi!’ Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập.” (Mt 2,13-14) .
– Ở Aicập: “Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. “Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen” (Mt 2,19-21).
– Ở Giuđê: “Vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ, không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét” (Mt 2, 22-23) .
Giuse luôn thao thức lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và khi nghe được rồi thì đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.
Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Thánh Giuse là mẫu gương sống tâm tình đạo đức Mùa Vọng. Học với Thánh Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác, chúng ta sẽ trở nên người công chính Tân Ước như thánh nhân.
(Suy niệm của Trương Đình Hiền)
Hôm nay, để dẫn chúng ta vào mầu nhiệm vĩ đại của ơn cứu độ, mầu nhiệm “Con Chúa Giáng Trần”, mầu nhiệm “Emmanuel”, Lời Chúa lại một lần nữa trình bày với chúng ta những con người giản đơn, nhỏ bé, khiêm hạ, thuộc “nhóm nhỏ còn lại của Gia-vê” (Anawim), được gọi mời để cọng tác với Thiên Chúa trong chương trình tình yêu vĩ đại của Ngài, chương trình cứu độ.
Nói cách khác: để có “Thiên chúa ở cùng chúng ta”, thì cần phải có những con người “ở cùng Thiên Chúa”, nghĩa là những con người sẵn sàng trải rộng cõi lòng để đón nhận ý định nhiệm mầu và yêu thương của Thiên Chúa.
– I-sa-ia, vị ngôn sứ xuất hiện khoảng 600 năm trước Chúa Kitô đã mạnh dạn loan báo “ngày xuất hiện của một Đấng Em-ma-nu-en và người cọng tác đó lại là một trinh nữ: “Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Nầy đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”
– Trong khi đó, trích đoạn Tin mừng Matthêô tường thuật cho chúng ta “cuộc mặc khải cho Thánh Giuse để Ngài đón nhận Đức Đức Maria làm vợ”: Phải chăng Maria, Giuse, những người công chính, đó là những “đại diện cho giai đoạn của “thời gian viên mãn”, “thời của thực hiện dứt khoát, thời của Giao Uớc Mới, thời của Đấng Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Như vậy chúng ta có thể nói được rằng: trọng tâm của sứ điệp phụng vụ hôm nay đó là nhắc lại cho chúng ta chân lý nền tảng nầy: Thiên Chúa đang hiện diện, đang hoạt động trong trần gian nầy, đang thực hiện “giao ước mà Ngài đã ký kết vì yêu thương” ; và Ngài thực hiện qua những biến cố, con người, dụng cụ bé nhỏ khiêm hạ. Và chúng ta chỉ có thể cảm nhận, đón lấy hoạt động đó, hồng ân đó, giao ước đó khi hoán cải trở nên bé nhỏ khiêm hạ, hoán cải nên giống Đức Maria, nên giống Thánh Giuse như những mô hình gương mẫu.
Nhưng, để đi sâu vào những giáo huấn nầy, chúng ta thử tìm hiểu các chỉ dẫn của Lời Chúa được công bố hôm nay.
Từ ngay những trang đầu của Thánh Kinh, mặc khải của Thiên Chúa đã chỉ cho thấy rằng: cái thảm trạng to lớn nhất, kinh khủng nhất của vũ trụ, của thế giới, của loài người là “vắng bóng Thiên Chúa”. Sách Sáng thế đã ngụ ngôn rằng: Sau khi Tổ Tông con người chối từ Thiên Chúa, thì từ độ ấy, không còn nữa những buổi chiều nắng nhạt, Chúa và Người thả bộ hàn huyên nhau trong thân mật ngọt ngào; cánh cửa địa đàng khép lại, con người lủi thủi cô độc dắt nhau “cày sâu cuốc bẫm” trên những luống đất góc gai. Rồi sau đó là anh Cain giết em ruột Abel, là sa đọa và lụt đại hồng thủy, là tháp Baben chia rẽ và kiêu ngạo…
Tiếp theo những trang Thánh Kinh “mang dáng đứng huyền thoại và cổ tích đó”, Cựu ước lại tiếp nối những trang dài kinh nghiệm lịch sử của dân được chọn, Ít-ra-en: khi nào dân chọn Chúa, tin Chúa, có Chúa ở giữa dân, thì lập tức còn an vui sung túc; trái lại khi dân khước từ, chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa để chạy theo những thần tượng ngoại lai ảo ảnh, thì rơi vào những nỗi khốn cùng: nô lệ, lưu đầy, tai ương, hoạn nạn. Nhưng điều mà Lời Chúa khẳng định cách rõ nét nhất đó là: mỗi khi con người sám hối ăn năn, quay đầu trở lại, tìm đến với Thiên Chúa…lập tức Chúa lại xuất hiện, lại trở về cư ngụ giữa dân để gia ân giáng phúc. Đúng như lời Chúa nói với Mai-sen trong hoang mạc Ma-di-an: “Ta đã thấy nỗi khổ của Dân Ta” (Xh 3,5). Kinh nghiệm của 40 năm hành trình về đất hứa là “kinh nghiệm xương máu” của chọn lựa nầy, của đức tin vào sự hiện diện nầy.
Quả thật, Thiên Chúa của Ít-ra-en là Thiên Chúa sẵn sàng đồng hành hôm sớm như áng mây, như cột lửa dẫn đường, là Thiên Chúa chịu thương chịu khó cư ngụ trong lều tạm, là Thiên Chúa hiện diện nơi “hòm bia giao ước” luôn đi sát và hiện diện cùng dân. Cũng chính với niềm tin vào sự hiện diện oai hùng và thân thương đó mà, khi Đa-Vít, Vị Vua anh minh của thời định cư Đất Hứa, sau khi an định cõi bờ, đã long trọng cung nghinh Hòm Bia Giao ước về đặt tai trung tâm thủ đô Giê-ru-sa-lem để dân sớm hôm phụng thờ và lễ bái.
Tuy nhiên, những gì đã được loan báo trong Cựu ước chỉ là bóng hình và chuẩn bị. Sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa phải đợi cho đến biến cố mà chúng ta sắp sửa cử hành và hôm nay được nhắc tới: Biến cố Ngôi Lời Nhập Thể. Vâng, Thiên Chúa không còn hiện hữu một cách tượng trưng qua áng mây cột lửa, qua hai Bia đá ghi Mười điều Răn, hay là qua “ngọn gió hiu hiu trên đĩnh Ho-reb …Đã đến thời viên mãn. “Một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Đức Mẹ Maria chính là “Hòm Bia Giao ước mới” cưu mang Con Thiên Chúa làm người.
Quả thật, bài Tin mừng Matthêô hôm nay, mô tả “cuộc thị kiến của Giuse về sự mang thai lạ lùng của Đức Maria là một bản tuyên cáo hùng hồn của Thiên Chúa về lòng yêu thương miên viễn của Ngài ; đồng thời cũng nói lên thái độ ngoan ngùy của những tâm hồn công chính khát mong ơn cứu độ. Từ đây Giao ước đã trở thành hiện thực. Tất cả mọi sự đời nầy cho dù quan trọng đến mấy, cũng phải nhường bước cho ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, cho Tin Mừng vĩ đại Con Chúa Giáng Trần. Giuse không còn phải trốn chạy, trăn trở trước một Maria đồng trinh mà bụng mang dạ chữa ; nhưng kể từ đây hân hoan đón nhận Tin Mừng để cùng nhau sát cánh cọng tác để Tin Mừng sớm được vang xa và trở thành hiện thực.
Quả thật Đấng Emmanuel trong cung lòng Trinh Nữ Maria đã làm cho tất cả những ước mơ, hy vọng của con người từ đây được đáp ứng: sự hiện diện của Ngôi Lời Thiên Chúa đã chuyển từ không tới có, từ mất lại được: có ơn cứu độ, có sự tha thứ, có hồng ân tái tạo, có ánh sáng và chân lý dẫn đưa ta vào hạnh phúc vĩnh hằng. Cố linh mục thi sĩ Nguyễn Xuân Văn đã diễn tả tư tưởng của Thánh Gioan về sự hiện diện của Ngôi Lời bằng những câu thơ đẹp:
Lời hằng sống từ muôn ngàn thế kỷ
Đã vang lên khắp trời đất núi sông
Không có Lời, muôn vật chỉ là không
Không chi hết, toàn mênh mông trống rỗng…
Lời ban xuống trần gian như ngọn lửa
Quét sương mù cho rạng nước non xanh,
Thiêu cây hoang cỏ dại cho đất lành
Tỏa ánh sáng soi đường người muôn thuở…
Vâng, mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể chính là bài thuyết minh rõ nhất về sự hiện diện của Chúa Trời trên dương thế, một sự hiện diện cần thiết, thẳm sâu mà chính Chúa Trời đã khắc ghi trong sâu thẳm cõi lòng mỗi nhân loại, đến nỗi, trước những hoàn cảnh bi đát nhất, tối tăm nhất, thất vọng nhất, đau thương nhất, con người đều thốt lên “Trời ơi”, như một lời kêu cứu, một điểm tựa cuối cùng (như tiếng kêu não nùng của đôi vợ chồng Thức Lạc khi bị chìm ghe trong đêm vớt củi trên sông Hồng mùa nước lũ qua truyện ngắn “ANH PHẢI SỐNG” của Nhất Linh-Khái Hưng).
Đã biết bao nhiêu lần lịch sử của nhân loại đã rơi vào thảm kịch kinh hoàng khi cả gan chối từ Thiên Chúa, muốn gạt phét Ngài ra khỏi cuộc đời, khỏi thế giới. Thừa hưởng chủ trương “giết chết thượng đế” của Nietzsche (1844-1900), chủ nghĩa phát-xít Đức đã tiêu diệt bao nhiêu triệu con người trong thế chiến thứ II. Cũng thế, chính chủ nghĩa vô thần, phủ nhận Thượng Đế của Karl Marx-Engel và các “môn đồ kế tục” như Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông, Pônpốt… đã xô đẩy bao nhiêu sinh linh vào nỗi oan khiên chết chóc !
Mùa Giáng Sinh Kitô giáo chính là một nhắc nhở sống động cho toàn nhân loại về sự hiện diện của Thiên Chúa; và đặc biệt nhắc cho mỗi người tìm lại sự hiện diện của Thiên Chúa cho chính cuộc đời mình, dành một góc cho Thiên Chúa đến viếng thăm mình.
Thế nhưng, chắc cũng không ít người đưa ra vấn nạn: Thiên Chúa hiện diện nơi đâu để tôi tìm thấy?
Tạm bỏ qua những lần “hiển linh” của Thiên Chúa trong thời Cựu ước, chúng ta thử tìm gặp những cách thế hiện diện của Thiên Chúa qua Con Một Ngài nơi Tin Mừng.
Vâng, qua các trình thuật Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm gặp một sự hiện diện lạ lùng của Thiên Chúa mà ngay giây phút bước vào đời Ngôi Hai đã cương quyết chọn lựa: không phải hiện diện oai nghiêm rườm rà của nnững cuộc tế lễ toàn thiêu, tạ tội nơi cung thánh, mà là hiện diện bằng chính một cuộc đời, một thân xác như khẳng định của Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Rôma: “Người đã sinh ra theo huyết nhục bởi dòng dõi Đa-vít, đã được tiền định là Con Thiên Chúa quyền năng theo Thánh Thần…” (Bđ 2). Thân xác đó, cuộc đời đó đã chấp nhận có mặt, hiện diện trong vũ trụ này, trên trái đất nầy; đó là sự hiện diện thật sự
– Của một bào thai trong cung lòng của một thôn nữ nơi ngôi làng bé nhỏ ở Bê-lem,
– Của một em bé vô gia cư sinh ra trong hang súc vật giá lanh ban đêm,
– Của một chàng thợ mộc nghèo lao công vất vả nơi xưởng thợ Na-da-rét,
– Của một phó thường dân sắp hàng với những người tội lỗi để ông Gioan làm phép rửa.
– Cả một người dạt dào nước mắt trước huyệt mộ của một người bạn mới qua đời,
– Của một thánh nhân sẵn sàng nhận những nụ hôn sám hối của một gái làng chơi,
– Của một khách mời tiệc cưới, hay sẵn sàng với nhóm phần thu chén thù chén tạc,
– Của một tôn sư khố rách áo ôm ở Ga-li-lê, ngủ mê mệt trên chiếc thuyền giữa cơn bão táp,
– Của một tên tội phạm trong nỗi khổ nhục ê chề trước tòa án Phi-la-tô,
– Của một tử tội trần trụi, máu me chết nhục nhã giữa hai tên tội đồ…
Và ngày nay, Đấng là Emmanuel đó đang tiếp tục hiện diện trong tấm bánh đơn trên bàn thờ, trong nhà tạm, trong muôn cõi lòng khi chia sẻ chút máu thịt để làm của ăn cho dương thế…!
Bài học về những “hiện diện của Đấng là Đường, Sự Thật Sự Sống”, bài học của mái trường “Emmanuel” mãi mãi không bao giờ “quá đát” hay vô giá trị đối với những ai đã chọn bước theo Ngài. Và cách riêng, với chúng ta những người Kitô hữu, những người mang tước phẩm cao cả là “con cái Thiên Chúa”, thì liệu trong những ngày đặc biệt nầy, những ngày cuối cùng của Mùa Đợi chờ Chúa đến, Chúa có thật là một “Emmanuel” không, hay như những câu hỏi của một bài thơ mang tên “Có lẽ nào”, xin trích:
Có lẽ nào ta đang vắng Chúa?
Nên thấy hồn hiu quạnh hoang liêu.
Thấy chung quanh trống vắng tiêu điều,
Và trong lòng “bỗng dưng muốn khóc”…!
Chúa không về hay ta bội bạc?
Khép kín lòng trong góc tối riêng.
Ta xuyến xao trăn trở triền miên,
Và buông mất bàn tay của Chúa…!
Có lẽ nào lòng ta tắt lửa?
Chút tro tàn lạnh ngắt tình thân.
Còn đâu tình Chúa lẫn tha nhân,
Hồn câm nín và trái tim cô độc…!
Chúa không còn hay ta khô khốc?
Mảnh đất hồn gai góc rong rêu.
Sợi chỉ đời ngang dọc sân si,
Che phủ hết mọi đường ánh sáng…!
Như thế, sống mầu nhiệm “Emmanuel” để chuẩn bị cho ngày Đại lễ sắp tới chính là sống “sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa”, đón nhận sự hiện diện của Đấng Emmanuel vào tâm hồn và cuộc sống, và từ đó biểu lộ sự “có mặt của Thiên Chúa” nơi chính cuộc sống và cách ứng xử của đời mình:
– như người vợ sẽ nhìn thấy Đấng Emmanuel trong những vất vả, khổ cực của chồng để sắt son chung thủy, và chồng thấy Đấng Emmanuel trong bao nhiêu hy sinh, tần tảo sớm hôm của vợ để yêu thương chăm sóc, đỡ nâng.
– như con cái nhìn thấy Đấng Emmanuel trong cha mẹ để hiếu thảo kính yêu, vâng lời lễ độ.
– như bạn bè nhìn thấy Đấng Emmanuel trong cuộc đời của nhau để mà sống tử tế, phục vụ và chia sẻ…
– như mọi người nhìn thấy Đấng Emmanuel trong mỗi giờ kinh nguyện, trong Thánh lễ mỗi ngày, trong nhà tạm với chiếc đèn hiu hắt, trong tòa giải tội để đợi chờ thứ tha…hầu biến Lễ Giáng Sinh không trở thành một lễ hội ăn chơi đua đòi mà là một gặp gỡ đổi đời nên thánh…
Sông được như thế, phải chăng đó cũng chính là con đường đúng và ngắn nhất để “quy phục muôn dân tộc về đức tin”, như Thánh Phaolô đã đoan quyết với cộng đoàn Rôma từ 2000 năm trước (BBĐ 2).
Và để sống trọn vẹn mầu nhiệm Emmanuel trong cuộc đời hôm nay, có lẽ lời cầu nguyện sau đây của Mẹ thánh Têrêsa Calcutta là thích hợp nhất:
Lạy Chúa Giê-su của con,
xin hãy giúp con biểu lộ được
sự hiện diện của Chúa khắp nơi con đi qua…
Xuyên qua con xin hãy làm cho
Ánh sáng của Chúa được lan tỏa
và hãy hết sức ở trong con
đến nổi mọi người con gặp gỡ
đều có thể cảm thấy
sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn con.
Họ cứ ngước mắt lên đi
họ chẳng còn thấy con đâu,
mà thấy Chúa, chính Chúa, Chúa Giê-su của con….
Lễ Giáng sinh đã gần đến, hẳn là chúng ta đã bắt đầu những trang trí bên ngoài như làm hang đá, làm máng cò, làm đèn ngôi sao. Thế nhưng chúng ta đã thực sự chuẩn bị tâm hồn hay chưa? Chúng ta đã lo liệu để lễ Giáng sinh không còn là một lễ trần tục, nhưng là một dịp để chúng ta và những người thân yêu tìm gặp Chúa, lớn lên về phương diện đạo đức để nhờ đó phục vụ Chúa một cách quảng đại hơn, như chính Chúa đã trở nên một hài nhi bé nhỏ để cứu độ chúng ta và lôi kéo chúng ta đến với Ngài. Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Chúa Giêsu luôn muốn chúng ta được hưởng một niềm hạnh phúc chân thật ngay từ cuộc sống trần gian này. Niềm hạnh phúc ấy lệ thuộc nơi mỗi người chúng ta. Do đó, chúng ta cần phải sống trong tình thương của Chúa. Bởi vì chính Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu Ta thì giữ lời ta. Cha ta sẽ yêu thương nó và Chúng Ta sẽ đến và ở trong nó. Hai chữ “Chúng Ta” ở đây có ý muốn nói đến Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ biến tâm hồn những người sống trong tình thương và ơn sủng của Chúa trở nên như một đền thờ sống động.
Dostoievsky, một văn hào người Nga, đã viết: Cuộc sống là một thiên đàng, bởi vì tôi có thiên đàng ngay trong chính tâm hồn tôi. Cùng một chiều hướng ấy, thánh nữ Elisabeth đã quả quyết: Tôi tìm thấy nước trời ngay trên mặt đất này. Bởi vì nước trời là gì nếu không phải là chính Thiên Chúa. Nơi nào có Thiên Chúa, nơi đó có nước trời . Mà Thiên Chúa thì đang ngự trong tâm hồn tôi, cho nên chính tâm hồn tôi cũng là thiên đàng, cũng là nước trời. Ý tưởng Thiên Chúa ngự trong tâm hồn chúng ta là một ý tưởng vừa đơn sơ, nhưng lại vừa thâm sâu mà đôi khi cả những người ngoại đạo cũng cảm nghiệm được. Tôi xin đưa ra trường hợp của Gandhi, một vị thánh sống, một đấng anh hùng của dân tộc Ấn độ. Ông nói: Một người chỉ là người, không phải vì đã có hai tay và hai chânm nhưng vì đã trở nên một nhà tạm cho Thiên Chúa.
Thế nhưng Chúa Giêsu, con Thiên Chúa đã xuống thế làm người để đem lại cho chúng ta sự vui mừng và bình an nếu như chúng ta là những người thiện chí. Hàng trăm năm về trước, các tiên tri đã loan báo điều đó. Isaia đã long trọng công bố cho vua Achaz để củng cố niềm tin vào Chúa nơi ông như sau: Này đây, một trinh nữ sẹ thụ thai, sinh hạmột con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Trong cơn bối rối, Thánh Giuse có ý định lìa bỏ Mẹ Maria một cách kín đáo, nhưng thiên thần đã hiện ra cùng ông trong giấc mơ và bảo: Maria mang thai là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, bà sẽ sinh hạ một contrai và ông sẽ đặt tên cho là Giêsu, vì chính Ngài sẽ cứu dân mình khỏi tội. Rồi thánh Matthêu đã kết luận: Tất cả những sự kiện này được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng tiên tri mà phán, như chúng ta đã thấy ở trên.
Thánh Gioan cũng xác quyết: Không phải chúng ta đã yêu thương Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta và đã phái Con Một Ngài đến với chúng ta. Màu nhiệm tình yêu này có thể chúng ta đã được nghe nói đến qúa nhiều, nên chúng ta tỏ ra thờ ơ lạnh nhạt.
Bởi đó, chúng ta hãyxin Chúa hâm nóng lại tình yêu của chúng ta, để chúng ta không còn là những kẻ vô ơn tệ bạc. Tình yêu của Thiên Chúa đòi chúng ta phải đáp trả băng chính tình yêu. Một tình yêu chân thanh và mạnh mẽ. Một tình yêu biết khử trừ tội lỗi, để biến tâm hồn minh trở thành một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa ngự trị.
Vậy chúng ta đã lam được những gì để đón mừng Chúa đến? Chúng ta đã làm được những gì để thực sự trở nên những Kitô hữu, nghĩa là những người thực sự có Đức Kitô trong tâm hồn và mang Đức Kitô đến cho những người chung quanh.
Lạy Chúa, lễ Giáng sinh một lần nữa sắp trở lai, xin cho mỗi người chúng con biết khử trừ tội lỗi để biến tâm hồn trở thành một máng cỏ cho Chúa, cũng như biết chấp nhận những vất vả, khổ đau, buồn phiền vì lòng yêu mến Chúa vì mỗi hy sinh sẽ là một cọng cỏ khô để sưởi ấm cho Chúa.
Bản văn này khơi lên nhiều câu hỏi. Chẳng hạn, chúng ta có thể thắc mắc tại sao Matthêu, ngược lại với Luca, đã trình bày khuôn mặt của Giuse chứ không phải của Maria như là người đón nhận tin báo của Thiên Chúa về cuộc sinh hạ Đấng Cứu Độ Israel. Chúng ta có thể tự hỏi đâu là những động lực thúc đẩy Giuse muốn lìa bỏ hôn thê của mình (vì bản văn không nêu rõ những động lực này). Chúng ta một lần nữa có thể đặt vấn đề (rất phổ biến gần đây) về sự trình bày các chi tiết lịch sử ở đây nhằm mô tả cuộc sinh hạ đồng trinh và về ý nghĩa của cuộc sinh hạ đó đối với niềm tin của chúng ta. Chúng ta có thể xem xét ý nghĩa của việc đặt tên và ý nghĩa của cái tên Giêsu -”Chúa Cứu Thế”– chúng ta cũng có thể đặt vấn đề đâu là ý định ban đầu của vị ngôn sứ qua trích dẫn Isaia 7,14 -một câu trích dẫn mang ý nghĩa rất gây tranh luận ở đây.
Song đó là những vấn đề không thuộc phạm vi mà bài suy niệm ngắn này muốn đề cập đến.
Ở đây chúng ta dành quan tâm đến cái tên “Emmanuel” -cái tên công bố rằng “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” nơi con người Giêsu này.
Rất đáng đề cập một hàm nghĩa khác nữa của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, một hàm nghĩa không hề vu vơ hay vô căn cứ. Khi chúng ta nói rằng con người –trong tư cách là một tạo vật- chắc chắn có mối quan hệ với Thiên Chúa, rằng Thiên Chúa là Chúa và là cùng đích của con người -và nếu gạt Ngài ra thì cuộc sống của chúng ta sẽ mất hết ý nghĩa, rằng Ngài là Đấng phù trợ và là Đấng Cứu Độ của chúng ta- chúng ta ở trong sự quan phòng hồng phúc của Ngài, rằng Ngài với lòng nhân hậu sẽ thứ tha tội lụy chúng ta, rằng chúng ta phải trả lời về trách nhiệm của mình trước toà phán xét của Ngài, rằng đối với những ai tin vào Ngài, trông cậy vào Ngài và yêu mến Ngài, Ngài dọn sẵn cho họ cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu… Khi nói như thế là chúng ta đã giải thích “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” theo đúng chiều hướng và đã vận dụng sự thực ấy vào các chiều kích khác nhau. Thật hồng phúc tuyệt vời biết bao nếu tất cả mọi người có thể nhận ra ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” ấy trong cuộc sống của họ. Tất cả những giải thích ấy cuối cùng đều được quy hướng –trong niềm hy vọng- về một mầu nhiệm thâm sâu hơn nữa của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Nhưng không một giải thích nào trong những giải thích nói trên lột tả được cảm thức tuyệt đối Kitô giáo về ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Nếu cho rằng Thiên Chúa gần gũi chúng ta chỉ trong những ân huệ hữu hạn của Ngài, chỉ trong việc Ngài đặt chúng ta –là những hữu thể có năng lực sáng tạo- vào trong thực tại riêng của mình và trong việc Ngài hướng dẫn thực tại ấy tới sự hoàn thành định mệnh của nó xuyên qua sự thứ tha tội lụy chúng ta và sự chuẩn nhận chung cuộc tình trạng hiện hữu trưởng thành của chúng ta; nếu cho rằng Thiên Chúa gần gũi chúng ta chỉ trong mức độ bởi vì tất cả những thực tại thụ tạo của con người đều xuất phát từ Ngài và quy chiếu về Ngài đồng thời nhắc nhở chúng ta quy hướng về Ngài trong thái độ nhận hiểu và biết ơn, trong thái độ cầu nguyện chan hoà cảm mến… nếu chỉ thế thì quả chúng ta đã sai lầm về bản chất nền tảng của nhận thức Kitô giáo về “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Chính Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ở cùng chúng ta bằng chính bản thân Ngài chứ không chỉ bằng trung gian của những ân sủng hữu hạn ban cho một tạo vật hữu hạn. Thánh Kinh và Truyền Thống làm chứng cho bản chất rất độc đáo của huyền nhiệm chung cục của cuộc hiện sinh chúng ta, đó là, Thiên Chúa thông ban chính bản thân Ngài cho chúng ta trong chính thực tại vô hạn và bất khả thấu hiểu của Ngài. Ngài trao ban cho ta Thánh Thần của Ngài, Đấng thể hiện tư tưởng của Thiên Chúa, Đấng chính là sự sống nội tại của Thiên Chúa. Vì thế Chúa Cha và Chúa Con đến cư ngụ trong chúng ta, như Chúa Con là một với Chúa Cha từ đời đời. Chúng ta tham dự vào thiên tính, chúng ta không còn chỉ là tôi tớ nhưng đích thực là con ruột của Thiên Chúa, chúng ta sẽ nhìn thấy và yêu mến Thiên Chúa –không phải lờ mờ trong gương kiểu như một trung gian tạo vật- nhưng là một cách trực tiếp diện đối diện. Vì thế, thần học truyền thống –nhằm bảo vệ cho bản chất nền tảng của giáo huấn Thánh Kinh này khỏi bị giảm trừ dần về sau- đã nói về “ơn phi tạo” của việc cảm nhận trực tiếp Thiên Chúa không thông qua trung gian một thực tại thụ tạo. Thần học cổ điển nói về sự cư ngụ trực tiếp của Thiên Chúa Ba Ngôi trong con người nhân loại và về sự tự thông truyền của Ngài.
Tất cả những điều này thoạt nghe có vẻ trừu tượng. Song đó là sự thật cuối cùng về con người chúng ta, dù chúng ta đã đạt đến nó và nhận ra nó trong cuộc hiện sinh bình dị hằng ngày của mình hay chưa. Là những hữu thể hữu hạn, khi chúng ta sống đóng kín nơi mình mà thôi, chúng ta dễ hàng phục một xu hướng bất khả kháng để suy nghĩ một cách thuần tuý hữu hạn về chính mình và về sự hoàn thành của mình. Chúng ta có khuynh hướng đánh giá sai lầm về tiềm năng nơi mình và từ đó thoả mãn với những gì mà mình trông thấy và sờ thấy được. Nếu đây chỉ là vấn đề quan điểm riêng của mình mà thôi thì hẳn chúng ta không có gì sai trái khi cảm thấy hài lòng với một hạnh phúc hữu hạn. Nhưng mọi tội lỗi trên trần gian đều có chung một đặc tính là tuyệt đối hoá cái tương đối –do đó cho thấy sự hài lòng nói trên của chúng ta là một thái độ sai lầm, một sai lầm ta không dễ gì bứt ra.
Chúng ta không được phép dễ dãi hài lòng như thế, đây không chỉ bởi một quy luật ngoại giới nào đó không cho phép ta (luật này còn khá xa lạ với chúng ta), mà còn bởi sự kiện rằng Thiên Chúa –trong bản tính vô hạn của Ngài và với lòng khoan dung nhân hậu siêu việt của Ngài, đã tự làm cho chính Ngài trở thành luật nội tại khắc ghi trong bản tính chúng ta, trước khi ta ý thức về chính mình và sợ hãi không dám gieo mình vào cõi vô hạn bất khả thấu hiểu ấy- cái vô hạn vốn lấp đầy chúng ta tận trong cốt lõi thâm sâu của hữu thể mình, rồi chúng ta đi tìm náu ẩn trong những vành đai hữu hạn của cuộc hiện sinh và cố tìm kiếm hạnh phúc của mình ở đó. Tuyên bố rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta (như các Kitô hữu nhận thức một cách đầy đủ) là nói rằng chúng ta khao khát mấy cũng không vừa trong nỗi khát khao mà chính Thiên Chúa đã ban tặng cho ta, trong khát vọng tự do, hạnh phúc, trong khát vọng gần gũi thân tình, khát vọng hiểu biết, an bình và khát vọng thành toàn ở chung cuộc. Ngẫm cho kỹ, mọi sự thái quá mang dấu ấn tội luỵ trong đời ta chung quy chỉ là một tình trạng thiếu kiểm soát dẫn ta đến chỗ coi một thực tại hữu hạn nào đó là cái không thể thiếu cho hạnh phúc của mình. Một người như vậy là một người ở trong tội, bởi vì người ấy không dám thực hiện bước nhảy –bước nhảy của niềm tin, của lòng trông cậy và của tình yêu- vào trong cõi hạnh phúc đích thực khôn cùng và bất khả thấu hiểu, là chính Thiên Chúa và chỉ là Ngài mà thôi.
Sự diễn giải có tính trừu tượng như thế về ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” của bản văn Tin Mừng hôm nay thật ra không xa xăm như ấn tượng có thể có lúc ban đầu. Sở dĩ ta cảm thấy xa xăm bởi vì ta vốn xa xăm với “siêu nhiên tính” của chính mình, tức xa xăm với chính Thiên Chúa. Bất cứ khi nào chúng ta nghe trong chính mình tiếng gào réo bất tận đòi tồn sinh, ta cảm thấy không chấp nhận điều kiện hay giới hạn nào nữa ngoài một điều rằng ta là cái vô hạn đang ở chặng khởi đầu chứ chưa phải ở mức hoàn thành; bất cứ khi nào ta khắc khoải muốn yêu thương vô điều kiện bằng một tình yêu rộng mở hướng về người khác đến độ dám liều bỏ mình; bất cứ khi nào đứng trước thật gần bóng tối mịt mù của sự chết và ta vẫn tin rằng chính cái chết cũng chỉ là một cái gì hữu hạn –còn niềm hy vọng sống vĩnh cửu mới là vô cùng… Trong những cảm nghiệm như thế về cuộc nhân sinh, ta cảm nghiệm niềm hy vọng và niềm tin rằng chỉ có Thiên Chúa –chứ không phải bất cứ một thực tại hữu hạn nào- mới là sự lấp đầy cho một kiếp người hữu hạn.
Đó là ý nghĩa của “ơn phi tạo”. Ân sủng này được thông ban nơi Đức Giêsu Kitô, tuy nhiên nó vẫn hoạt động xuyên suốt giòng lịch sử thế giới và lịch sử nhân loại –biểu hiện nơi tiềm năng hiện thực hoá thâm sâu nhất của chính ân sủng này. Vì thế, nó là cốt lõi nền tảng của mọi cuộc hiện sinh.
Nhưng giáo thuyết về “ơn phi tạo” không đóng khung ở chỗ chỉ nói lên một niềm phấn khích khôn tả về tương lai loài người. Với ơn sủng này, chúng ta đạt đến chiều sâu nhất của nhận thức Kitô giáo về con người. Vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” không còn chỉ là một mầu nhiệm mông lung, một mầu nhiệm cứ mãi còn là mầu nhiệm tuyệt đối ngay cả trong nỗ lực trực tiếp nắm bắt Ngài; và con người chỉ có thể cảm nhận được điều ấy khi chính nhận thức của họ được đổ tràn tình yêu. Vâng, chỉ tình yêu mới có thể làm cho chúng ta hiểu ra rằng Thiên Chúa (Đấng là tình yêu) vĩ đại hơn cả cõi lòng mình, một cõi lòng luôn luôn bỏng cháy niềm khát khao giác ngộ.
Vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” này không phải chỉ là Thiên Chúa của sự tự do tuyệt đối (của những quyết định không còn có thể bị phủ định, và của những sự sắp đặt tất yếu phải được nhận chịu trong sự hàng phục vô điều kiện của tình yêu –một tình yêu biết cảm mến sự tự do thần linh này đến mức đó). Đúng hơn, chính sự gần gũi kỳ diệu của Thiên Chúa là nhân tố đặt nền tảng căn bản cho nền “luân lý” Kitô giáo. Với số cuộc đổi thay diễn ra trong lịch sử loài người và trong cuộc đời riêng mỗi người được thấy như là không thích đáng nếu lấy bản tính của con người và của thế giới hữu hạn này làm thước đo –vì thế, những đổi thay ấy bị tẩy chay một cách khách quan bởi những nguyên tắc đạo đức của con người, nhưng chúng không thực sự phá đổ mối tương quan tích cực cuối cùng với Thiên Chúa là Đấng tự trao ban chính Ngài và –do đó, gần gũi chúng ta đến mức không ngờ. (Có nhiều tội “khách quan” không bao hàm chút “sai quấy chủ quan” nào và do đó không gây cản ngại cho ơn cứu độ –thần học kinh viện đã khẳng định như thế).
Tuy nhiên, sự tự do của con người (là cái tác động đến cơ cấu những nguyên tắc đạo đức thế trần) không ngừng chống cưỡng lại Thiên Chúa là Đấng vô cùng gần gũi, cho dù nó không tự đặc tả nó như vậy. Thế là chúng ta có tội (“tội trọng”) theo nghĩa Kitô giáo. Tội không chỉ là đi ngược lại cơ cấu khách quan của con người và thế giới và qua đó đi ngược lại các lệnh truyền của Thiên Chúa là Đấng muốn có những cơ cấu ấy (dĩ nhiên ý muốn của Thiên Chúa không mâu thuẫn với bản tính hữu hạn và có điều kiện của những cơ cấu này); tội còn là nói “không” với chính Thiên Chúa, Đấng vô cùng gần gũi chúng ta. Đó là lời nói “không” của sự tự do của con người, qua đó nó chối từ cuộc phiêu lưu liều lĩnh của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu của chính mình.
Sống trong sự gần gũi kỳ diệu của Thiên Chúa là một cái gì vừa rất khủng khiếp vừa đầy sức ủi an. Được chính Thiên Chúa yêu thương cũng thế –đến nỗi quà tặng đầu tiên và cuối cùng mà ta nhận được chính là cái vô cùng vượt ngoài khả năng thấu hiểu của ta. Nhưng ta đâu còn có sự chọn lựa nào khác. Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta đây rồi!.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ngày xưa, có một chú bé Phi Châu tên là Emmanuel. Chú ta luôn tò mò thắc mắc. Ngày nọ, chú hỏi thầy giáo: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói: “Nói thực là thầy không biết”. Sau đó Emmanuel đi hỏi các nhà trí thức trong làng cũng như các vùng lân cận: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi.
Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin chắc có người biết được điều ấy. Vì thế chú lên đường đến các quốc gia và cả những lục địa khác để tìm hỏi, nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận được câu trả lời. Một đêm nọ sau khi bị kiệt sức vì đi quá nhiều nơi. Chú cố tìm một chỗ nghỉ đêm trong các nhà trọ, nhưng tất cả các nơi đều không còn chỗ. Vì thế chú quyết định tìm một cái hang ngoài trời để trú đêm. Cuối cùng quá nửa đêm chú mới tìm được một cái hang. Nhưng khi bước vào hang, chú nhận ra đã có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: “Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng tôi đang mong chờ con”.
Chú bé quá sửng sốt: Làm sao bà này biết tên mình? Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà ấy nói: “Đã từ lâu, con đi tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây cuộc hành trình của con kể như đã đến đích. Đêm nay chính mắt con đã thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Ngài nói bằng “ngôn ngữ của tình yêu” – “Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban cho thế gian chính Con Một của Ngài” (Ga 3,16).
Trái tim Emmanuel trào dâng niềm xúc động, chú vội quỳ gối xuống trước Hài nhi và mừng rỡ khóc lên. Giờ đây chú đã biết rằng Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất cứ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được. Và thế là Emmanuel ở lại đó vài ngày để giúp đỡ Đức Maria và Thánh Giuse. Sau đó đến lúc chú phải chia tay để đi loan báo cho mọi người Tin Mừng về ngôn ngữ Chúa dùng: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu”.
Lủi thủi một mình, Emmanuel vừa rảo bước vừa suy nghĩ: “Nếu tôi muốn kẻ cho mọi người biết Thiên Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức là ngôn ngữ của tình yêu. Bởi vì đó chính là thứ tiếng nói duy nhất mà mọi người trên thế giới đều hiểu được”.
Thưa anh chị em,
“Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Khi trao ban cho thế gian Con Một của Ngài, Thiên Chúa đã muốn dạy cho mọi người nói chung một thứ ngôn ngữ tức là ngôn ngữ của tình yêu. Chính vì thế mà Ngài đã mang tên gọi là EMMNUEL, nghĩa là “Thiên -Chúa – ở –cùng – chúng – ta”, tên gọi được báo trước qua lời Ngôn sứ Isaia cũng như qua lời Thiên Sứ báo tin cho ông Giuse: “Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên- Chúa – ở – cùng – chúng – ta”. Ngài đến ở cùng chúng ta để làm gì, nếu không phải là để nói cho chúng ta về tình yêu vô biên của Thiên Chúa bằng cả cuộc sống yêu thương đến tột cùng của Ngài, từ lúc sinh ra trong hang đá Bêlem đến cái chết treo trên thập giá. Đó là tất cả tiếng nói của tình yêu Thiên Chúa.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nên đã làm người như chúng ta. Ngài đã đến tận nơi chúng ta sinh sống, trong nhà, trong làng mạc, trong xứ sở, trên trái đất của chúng ta, để chung sống, đồng hành, chia sẻ cuộc đời với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã trở thành anh em với nhân loại. Ngài đã nhập cuộc liên đới với toàn thể nhân loại để đưa cả loài người chúng ta lên với Thiên Chúa.
Hơn nữa, Ngài còn muốn làm người nghèo giữa những người nghèo khổ, bị áp bức và bỏ rơi. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày trời đất giao hoà, để cho Thiên Chúa và loài người gặp gỡ yêu thương, cho hoà bình chớm nở trên trái đất. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày Đấng Tối Cao xa lạ trở thành thân quen, thành bạn hữu của loài người, để kêu gọi loài người hãy nhận nhau là anh em, là bạn hữu. Ngài muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày Đấng giàu sang khôn sánh trở thành người nghèo khó, để cho người nghèo khó nhất cũng được trở nên ngang hàng với Con Thiên Chúa. Và như vậy để loài người biết yêu thương và tôn trọng người nghèo, như yêu thương và kính trọng chính Thiên Chúa.
Vì vậy, thưa anh chị em, vấn đề quan trọng không phải là ăn lễ Giáng Sinh hay là mừng lễ Giáng Sinh, cho dù là sốt sắng đến đâu đi nữa, mà là hiểu sống và thực hiện bài học Giáng Sinh: đó là cùng với Chúa nhập cuộc liên đới với những anh em nghèo hèn trong nhân loại. Và một khi chúng ta biết mở rộng tâm hồn đón tiếp và yêu thương những ai bé nhỏ, khó hèn, coi họ ngang hàng với Con Một Thiên Chúa, thì khi ấy, chính tâm hồn chúng ta sẽ trở thành hang đá Bêlem, và ánh sao Noel sẽ bừng lên trong ánh mắt chúng ta.
Anh chị em thân mến, EMMNUEL, Thiên Chúa đã làm người và ở cùng chúng ta. Ngài đã nói với loài người chúng ta bằng ngôn ngữ của tình yêu và Ngài muốn dạy cho mọi người nói chung một ngôn ngữ của tình yêu này. Ngài còn biết rằng một khi người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của tình yêu thì những điều kỳ diệu sẽ lập tức xuất hiện khắp nơi: các quốc gia sẽ chia sẻ nguồn lợi và tài nguyên cho nhau, mọi chủng tộc sẽ tôn trọng nhau, mọi gia đình sẽ hoà thuận thương yêu nhau, khắp nơi mọi người sẽ xiết chặt tay nhau trong tình thân hữu. Và như thế, “vinh quang Thiên Chúa trên trời, hoà bình dưới thế cho loài người Chúa yêu”.
Chuyện xưa kể lại rằng: Đức Khổng Tử thấy người giăng lưới chim sẻ, chỉ đánh được các chim sẻ con, còn non, vàng mép. Ngài liền hỏi rằng: “Không đánh được chim sẻ già là làm sao?”. Chim sẻ già bíết sợ nên khó được, sẻ non ham ăn cho nên dễ bắt. nếu sẽ non mà theo sẻ già thì bắt sẻ non cũng khó. Nhưng nếu sẽ già mà theo sẽ non thì bắt sẽ già cũng dễ. Đức Khổng Tử nghe vậy hỏi học trò rằng biết sợ để tránh tai hại tham ăn mà quên nguy vong . Điều đó là tính tự nhiên vậy.
Qua câu chuyện trên ta thấy những con chim sẻ già biết sợ nên sống, đó là một cái sợ khôn ngoan, cái sợ của một con chim có nhiều năm kinh nghiệm, nên nó biết chọn chỗ nào nguy hiểm chỗ nào không nguy hiểm, có thể nói con chim sẽ già biết sợ để được sống chứ không phải là bị sợ vì nó hoàn toàn chủ động chứ không phải vào thế bị động.
Trong tâm lý học cho thấy, có rất nhiều cái làm cho người ta sợ. Sợ có thể là do bị mặc cảm tự ti, sợ không bằng người khác, sợ không thể làm được trước một công việc mà họ cho là quá lớn lao. Cái sợ thứ hai gần giống như sự xao xuyếnbăn khoăn thổn thức, nội tâm cảm thấy bất an sâu xa mà không có nguyên do khách quan nào. Họ sợ bị bất hạnh ập đến, một tai nạn gần kề trí tưởng tượng sẽ xảy ra cho họ rằng có những biến động bất ngờ đôi khi rất kinh sợ mà họ không tài nào xua đuổi được.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một cái sợ mới, rất độc đáo. Nó không giống cái sợ từng trải của con chim sẻ già, cũng không giống một cái sợ mặc cảm tự ti, cũng không xao xuyến bất an, một cái sợ thật dễ thương biết mình là thụ tạo được tuyển chọn, biết mình để mà sợ sống phó thác, sống vâng lời. Đó chính là cái sợ của Đức mẹ Maria cô trinh nữ làng Nazareth và anh chàng thợ mộc Giuse nghèo nàn, ít nói và luôn sống âm thầm.
Không phải tự nhiên ta có thể khẳng định Đức Meria sợ hãi. Điều đó đã được chứng minh qua việc khi sứ thần truyền tin. “Maria đừng sợ, Bà đã được Thiên Chúa sủng ái” Chắc Maria lại càng sợ hơn khi nghe nói mình sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu . Không phải chỉ có Đức Mẹ khi nghe lời đó sợ hãi mà hầu hết tất cả các thiếu nữ Do Thái khi nghe đều sợ. Vì theo lật Do Thái người phụ nữ nào có chồng mà có con trong khi Đức Mẹ lại là người phụ nữ đẹp nết đẹp người, Hơn nữa Đức Maria lại là con ông Gioan Kim và Anna sống tốt lành thánh thiện thì lại càng sợ hơn nữa. Nhưng cái sợ của Đức Maria khi nghe truyền tin không giống như cái sợ của những người phụ nữ Do thái khác. Sợ vì có một chút bất ngờ một chút bỡ ngỡ, vì không ngờ một thụ tạo hèn kém như mình lại được Chúa chọn, được Chúa ban cho hồng ân to lớn đến thế. Có thể nói cái sợ của Mẹ Maria như lời tạ ơn đơn sơ đẹp lòng Chúa nó cũng chứng tỏ nơi Mẹ một tâm hồn phó thác vì biết sợ trong Chúa vì biết tin tưởng nới Thiên Chúa mà Mẹ đã biến nỗi sợ hãi bằng lời thưa trong sự can đảm và vâng phục thánh ý Thiên Chúa
Khi nói đến Thánh Giuse, người ta nghĩ ngay đến một người công chính, ngay thẳng sống âm thầm, ít nói. Suốt cuộc đời trong Kinh Thánh không ghi lại một lời nào của ông nhưng ta biết được ông cảm thấy e ngại khi biết Đức Maria có thai, ông không hề nói cho ai biết điều làm ông e ngại đó, nhưng Thiên Chúa đã thấy và biết được sự lo lắng trong lòng ông. Do đó Thiên Thần đã đến với ông trong giấc mơ và nói với ông hỡi Giuse đừng sợ đón nhận Maria về nhà làm vợ vì nàng đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. sau khi tỉnh giấc Giuse đã tin tưởng vào Thiên Chúa và đường lối hành động của người. Do đó ông cũng vượt qua được nỗi sợ hãi và làm theo ý Chúa. Tất cả chúng ta đều đã đụng chạm đến nỗi sợ hãi và chắc chắc cũng còn gặp nhiều nỗi sợ hãi nhưng đường để nỗi sợ hãi đó làm ta không thể đến được với Chúa nhưng hãy biết chuyển đổi nỗi sợ hãi để thành niềm tin.
Trong mùa giáng sinh này hãy biến nỗi sợ hãi thành lòng khao khát đợi Chúa đến, và chỉ có Chúa ta mới nhận được niềm vui lớn lao như Đức Mẹ và thánh Cả Giuse đã nhận hơn 2000 năm trước.
(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)
Chúa nhật IV Mùa vọng hướng tâm trí chúng ta đến thật gần mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, mầu nhiệm mà mỗi người con của Giáo Hội được mời gọi đón nhận với tâm hồn được chuẩn bị kỹ lưỡng trong suốt bốn tuần Mùa vọng. Tất cả ba bài đọc trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều hướng về sự kiện căn bản này: “Con Thiên Chúa Nhập Thể và sinh ra bởi Người Nữ Đồng Trinh, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần”, theo như lời hứa của Thiên Chúa trong lịch sử dân Chúa.
Bài tường thuật biến cố Con Thiên Chúa Giáng Sinh nơi Phúc Âm thánh Luca sẽ được dùng trong Thánh Lễ Giáng Sinh vào Chúa nhật IV Mùa vọng, Giáo Hội nhắc đến biến cố căn bản qua bài tường thuật của Phúc Âm thánh Mátthêu (x. Mt 1,18-24). Dĩ nhiên, tác giả Phúc Âm theo thánh Mátthêu không tường thuật biến cố Nhập Thể và Giáng Sinh của Con Thiên Chúa trong cùng một cách thức như Phúc Âm thánh Luca. Tác giả Phúc Âm thánh Mátthêu nhắc đến biến cố trong vai trò của thánh Giuse, thánh nhân được mạc khải cho biết mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, tức Con Thiên Chúa được sinh ra trong cung lòng Đồng Trinh của Mẹ Maria, do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse được mạc khải cho biết và đồng thời mời gọi Ngài tích cực tham dự vào chương trình đó, là người cha nuôi của Con Thiên Chúa, là Đấng bảo vệ cho Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
Qua đó, Thánh Giuse được mạc khải cho biết nguồn gốc thần linh của Đấng được Mẹ Maria cưu mang. Trong mạc khải đó, Thánh Giuse được nhắc lại cho biết lời tiên tri được loan báo trong dân Israel và được ghi chép lại trong sách Isaia nơi chương VII mà bài đọc I Chúa nhật IV Mùa vọng đã nhắc lại, đó là lời tiên tri được loan báo gần 8 thế kỷ trước khi biến cố thực sự xảy ra. Là một người Công Chính như thánh Giuse, chắc chắn Ngài đã đọc Kinh Thánh Cựu Ước và biết về lời tiên tri này như bao thành phần tốt của dân Israel thời đó. Tuy nhiên, khi biến cố thực sự xảy đến trước mắt mình và có liên quan đến chính mình, thì thánh Giuse có phản ứng đầu tiên là không chấp nhận, như Phúc Âm thánh Mátthêu ghi lại như sau: “Thánh Giuse định tâm lìa bỏ Maria cách kín đáo”. Luật Do Thái phạt nặng nề một người phụ nữ đã đính hôn mà đi ngoại tình với kẻ khác. Giuse có thể đi tố cáo Mẹ Maria, vì khi thấy Bạn mình chưa về chung sống mà đã mang thai. Phúc Âm không nói gì, nhưng người ta có thể hiểu là Maria có thể đã kể cho Giuse biết biến cố thiên thần truyền tin và việc mang thai là do quyền phép Chúa Thánh Thần như lời thiên thần loan báo, nhưng có thể thánh Giuse không hiểu, không tin hoặc tin lời Maria nói nhưng lại cảm thấy mình không xứng đáng, không muốn tham dự vào chương trình cao cả của Thiên Chúa, vì thế mà Ngài định tâm rút lui.
Thánh Giuse có thể tố cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó, nhưng ông không làm như vậy, Ông muốn trốn đi, vì việc này có thể được mọi người xung quanh hiểu như là một hành động bỏ trốn trách nhiệm làm cha, và trên bình diện siêu nhiên thì có thể được hiểu như là việc chối từ cộng tác với chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho Giuse biết là: “Đừng ngại nhận Maria về làm Bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần”, và thiên thần mạc khải thêm về thân thế của Đấng Cứu Thế đang được cưu mang trong cung lòng Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng tác và Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc đặt tên cho con là quyền của người cha, như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho Con Trẻ không do chính máu huyết của mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận quyền hay đúng hơn sứ mạng làm cha của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.
Thánh Giuse có thể từ chối, nhưng Ngài đã không từ chối mà vâng phục lời thiên thần truyền, Ngài chu toàn vai trò Thiên Chúa muốn trong việc cứu rỗi. Khi Mẹ Maria sinh Con Trẻ thì Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu. Ngoài mẫu gương hành động của Giuse, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nơi bài đọc II nhắc chúng ta nhớ đến một mẫu gương hành động trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, đó là mẫu gương của thánh Phaolô tông đồ, một khi chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, thì con người không thể nào có thái độ dửng dưng được nữa, nhưng phải để cho Con Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô chiếm lấy, biến mình trở thành môn đệ, thành người cộng tác với Chúa để mang ơn cứu độ đến cho mọi người, mọi dân tộc.
Mùa Giáng Sinh sắp đến, mầu nhiệm của Con Thiên Chúa làm người được người đồ đệ suy niệm bắt chước, nhưng không dừng lại hưởng niềm vui cứu rỗi nơi mình, nhưng cần để cho ơn Chúa chiếm lấy nơi mình và dấn thân mang ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chúng ta cầu chúc cho mọi người được ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha. Amen.
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN TIẾP CHÚA
Ngày 17 tháng 12 vừa qua, ta đã đọc bài Phúc Âm nói về gia phả Đức Giêsu, trong đó Chúa Giêsu sinh bởi dòng dõi vua Đavít. Hôm nay, Phúc Âm lại trình bày cho ta một gốc tích khác của Người: Chúa Giêsu sinh ra bởi Đức Maria do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Phải chăng thánh sử Matthêu mâu thuẫn khi đưa ra hai gốc tích khác nhau như thế?
Thánh sử Matthêu không mâu thuẫn, nhưng khi trình bày cho ta hai gốc tích khác nhau của Chúa Giêsu, thánh sử có một dụng ý thần học. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên việc thụ thai phải do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng Chúa Giêsu cũng là người nên phải sinh ra bởi một con người. Thiên Chúa ban Con Một cho loài người. Đức Maria đã đại diện loài người lãnh nhận. Nhưng quyền năng Chúa Thánh Thần tác động trên Đức Maria chỉ diễn ra trong riêng tư, âm thầm. Chính thánh Giuse đưa Chúa Giêsu ra công khai khi nhận Ngài vào dòng tộc Đavít. Qua trung gian của thánh Giuse, Chúa Giêsu đã chính thức gia nhập gia đình nhân loại, trong một đất nước, trong một dân tộc, trong một dòng họ. Tên tuổi của Người được ghi trong lịch sử của dân tộc, của dòng họ, của gia đình. Vận mệnh của Người gắn chặt với dân tộc, dòng họ, gia đình ấy. Người thực là Emmanuel, là “Thiên Chúa ở với chúng ta”.
Nhờ đâu mà thánh Giuse và Đức Maria được diễm phúc là những người đầu tiên, đại diện nhân loại tiếp đón Đấng Cứu Thế. Qua bài Phúc Âm Truyền Tin và bài Phúc Âm hôm nay, ta thấy thánh Giuse và Đức Maria có những đặc điểm sau đây.
1) Các Ngài có tâm hồn khiêm nhường sâu xa.
Đức Maria là một thiếu nữ có tâm hồn khiêm nhường. Từ nhiều thế kỷ qua, lời sấm về Đấng Cứu Thế vẫn được truyền tụng trong dân Do Thái. Thiếu nữ nào cũng mong được làm mẹ Đấng Cứu Thế. Đó là một hạnh phúc, một vinh dự không chỉ cho cá nhân mà còn cho cả gia đình, cho dòng họ, cho đất nước. Vậy mà khi nghe thiên thần loan báo tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria chỉ khiêm tốn thưa: “Này là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Khi bà Êlisabeth ca tụng Ngài, Đức Maria đã đáp lại: “Vì Chúa đã đoái thương phận tôi tớ thấp hèn. Người nâng cao những người bé nhỏ”. Đức Maria nhận ra sự thật là: Nếu Ngài được ơn Chúa ban thì không phải vì công trạng của mình, nhưng do lòng từ bi thương xót của Chúa. Vì khiêm tốn, nên Đức Maria âm thầm ghi nhớ tất cả mọi việc Chúa làm, mọi lời Chúa phán. Ghi nhớ để suy gẫm trong lòng. Càng suy gẫm lại càng thêm khiêm nhường. Càng khiêm nhường lại càng kín đáo.
Thánh Giuse cũng có tâm hồn khiêm nhường không kém. Đọc Phúc Âm, ta có cảm tưởng là thánh Giuse luôn tự rút lui vào trong bóng tối. Ngài luôn sống âm thầm khiêm tốn trong công việc tầm thường của thợ thuyền. Sự khiêm tốn ấy đặc biệt thể hiện trong bài Phúc Âm hôm nay. Khi biết tin Đức Mẹ đang mang thai Đấng Cứu Thế, thánh Giuse đã âm thầm bỏ đi. Ngài không dám tự cho mình cái vinh dự được làm cha Đấng Cứu Thế. Ngài không dám chiếm hữu quyền làm cha của Thiên Chúa. Ngài không dám mạo nhận công việc của Chúa Thánh Linh. Ngài là người công chính vì khiêm tốn sống đúng thân phận của mình. Ngài là người công chính vì trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.
2) Các Ngài mau mắn vâng lời Thiên Chúa.
Các Ngài có chương trình cho đời sống. Chương trình ấy được suy nghĩ kỹ lưỡng vì được thực hành nghiêm chỉnh. Đức Maria khấn giữ mình đồng trinh. Thánh Giuse muốn sống âm thầm trong bóng tối. Nhưng khi nghe biết thánh ý Thiên Chúa các Ngài đã mau mắn xin vâng, bỏ dở chương trình riêng tư, chuyển hướng cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa “xin vâng” bất chấp những đau khổ, khó khăn đang chờ đón. Thánh Giuse đã mau mắn vâng lời dù thánh ý Thiên Chúa chỉ mơ hồ giữa bóng đêm dày đặc, trong một giấc mộng lãng đãng mơ hồ.
Vì Chúa, các Ngài đã từ bỏ ý riêng mình. Vì Chúa, các Ngài đã thay đổi toàn bộ đời sống. Thay đổi quyết liệt. Từ bỏ dứt khoát. Vâng lời mau mắn.
Thái độ của các Ngài rất gần với thái độ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ tự hạ mình thẳm sâu. Dù là Thiên Chúa, Người đã không đòi cho mình quyền được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự hạ làm một người bé nhỏ nghèo hèn. Người luôn vâng lời Đức Chúa Cha, vâng lời cho đến chết trên thập giá.
Đồng thanh tương ứng, đồng ý tương cầu. Giống nhau thì tìm đến nhau. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ khiêm hạ và vâng phục thánh ý Chúa Cha đã tìm được nơi cư trú tâm đắc nơi Đức Maria và thánh Giuse, hai tâm hồn khiêm nhường và tuyệt đối vâng lời.
Lạy Chúa Giêsu bé nhỏ, bây giờ thì con đã hiểu biết phải dọn một máng cỏ như thế nào cho Chúa. Chúa muốn con khoét một hang sâu khiêm nhường trong lòng con, trải trên đó những sợi cỏ vâng lời mau mắn. Như thế con sẽ được hạnh phúc đón tiếp Chúa, Đấng rất khiêm nhường và rất vâng lời. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Ngày càng có nhiều người mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Nhưng Lễ Giáng Sinh đã bị thương mại hóa. Bạn sẽ chuẩn bị Lễ Giáng Sinh thế nào cho phù hợp với tinh thần của Chúa?
2) Sống khiêm nhường và vâng lời trong xã hội hôm nay có dễ không?
3) Bạn nghĩ gì về việc Chúa Giêsu tự nguyện xuống thế, làm một người, làm con trong một gia đình?
Có ba thanh niên leo núi Manhull bên Hoa Kỳ. Bỗng một cơn bão tuyết đổ xuống vùng ba người đang ở. Họ bắt buộc phải ẩn trú trong một hang đá!
Cơn bão kéo dài đến ngày thứ 11. lương khô đã cạn,mỗi người chỉ còn được một muỗm mạch nha mỗi ngày. Trong cơn nguy ngập như thế, họ chỉ còn một nguồn hy vọng là cuốn Thánh Kinh của một người trong nhóm mang theo. Mỗi người đọc Kinh Thánh 8 tiếng đồng hồ rồi trao cho người khác. Cứ như thế họ đọc lời Chúa suốt đêm ngày. Bên ngoài là tiếng gió rít của bão tố, bên trong hang họ nhờ Kinh Thánh mà duy trì niềm tin cho đến ngày thứ 16, bão tuyết chấm dứt và có nhóm người tiếp cứu tìm gặp họ …
Cuộc đời chúng ta cũng tràn đầy những cơn phong ba bão táp, bao trùm khắp cả địa cầu. Đối với thời tiết cơn bão cũng chỉ có từng lúc rồi lại tan biến nhường chỗ cho thời tiết điều hoà, riêng mùa xuân cảnh vật trời đất còn được vui tươi, thanh bình, ấm áp, cùng với muôn chim ca hót trong những vườn hoa nở rộ, những bông hoa thật xinh tươi thơm tho …. Nhưng cơn bão tâm hồn nó hoành hành con người triền miên, lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác. Cơn bão nội tâm đầu tiên mà ma quỷ tạo ra ngay từ lúc nguyên tổ còn ở trong vườn địa đàng, con người đã bị ngã gục trước cơn bão khổng lồ của Satan. Cũng như mưa sa bão táp ở thiên nhiên, cơn bão tâm hồn cũng xô đẩy con người dưới nhiều hình thức và cường độ mạnh yếu khác nhau mà chúng ta quen gọi là 7 quỷ hay 7 mối tội đầu. Một cơn bão cụ thể hiển nhiên và nổi bật trong các thời đại hiện tại là cơn “bão sex”, nó bao vây thế giới trẻ hiện nay và đã có rất nhiều thanh niên thanh nữ, kể cả những anh chị mới lớn cũng bị gục ngã trước cảnh bầy hầy trong sinh hoạt hằng ngày.
Dưới sức tấn công của tà thần trong muôn mặt của cuộc đời, chúng ta cũng có quyển Kinh Thánh ở ngay trong tâm hồn người Kitô hữu. Quyển Kinh Thánh này ghi khắc vào linh hồn ta khi rửa tội, bắt đầu gia nhập hàng ngũ Hội Thánh và được chính thức làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Quyển Kinh Thánh đó, với ơn thánh trợ giúp, chúng ta đọc thấy những trang sách ở mọi nơi: Ở trong giòng suối nước róc rách chảy ngang qua các cánh đồng cỏ xanh tươi, ở trên những dãy núi hùng vĩ trùng trùng điệp điệp, ở tận bầu trời cao thẳm hay ở dưới đại dương mênh mông … vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và lời Chúa sống động nhất trong lúc ban bố ở Thánh Lễ Misa hằng ngày. Lời Chúa chính là của ăn bổ dưỡng cho tâm hồn để chúng ta chiếm hữu được Đấng EMMANUEL nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta cũng như lời thánh Phaolô nói: “cho đến khi Chúa Kitô thành hình trong anh em”.
Ngày Chúa Nhật hôm nay, Phúc Âm cũng thuật lại câu chuyện của gia đình Thánh Gia vào thời kỳ đính hôn. Hồi ấy giữa lúc mối tình đẹp đẽ đang dâng cao để tiến lễ thành hôn, thì cơn bão thánh thiện ập đến túp lều lý tưởng đề hứa hẹn. Suy đi nghĩ lại nhiều ngày trời về sự kiện Mẹ Maria, thánh Giuse rất áy náy ưu tư khi thấy bạn đồng trinh của mình ngày càng khác lạ rõ ràng. Còn đối với người ngoài cuộc, bà con trong họ hay hàng xóm láng giềng, lại không có vấn đề gì phải thắc mắc. Vì theo phong tục người Do Thái, việc thụ thai trong thời kỳ đính hôn được coi như con chính thức. Riêng thánh Giuse lại không hiểu đơn giản như thế, Ngài thấy đây là công trình tác tạo của Thiên Chúa, thánh Giuse ái ngại như thánh Phêrô khi thấy quyền năng của Thiên Chúa liền cúi mình thưa với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ có tội” (Lc.5,8). Lại nữa, thánh Giuse là người công chính, Ngài không muốn đảm nhận tư cách làm cha mà không phải là tác phẩm của Ngài. Để tôn trọng chương trình của Thiên Chúa đã được thực hiện nơi Mẹ Maria, thánh Giuse đã muốn âm thầm rút lui ….
“Nhưng đang khi định tâm như vậy …” thì Thiên Chúa đã sai sứ thần đến để trấn an, báo tin và trao ban sứ mệnh cho Ngài. Như vậy thánh Giuse là nhân chứng sống động cho việc Mẹ Maria sinh hạ Chúa Giêsu mà vẫn còn trinh khiết. Việc thánh Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu nói lên vai trò làm Cha trước pháp luật. Vì theo phong tục bấy giờ, chỉ có cha mẹ mới có quyền đặt tên cho con mình. Và vì thánh Giuse là con vua Davit, nên Con Trẻ Giêsu cũng thuộc dòng tộc Davit, đúng như lời Kinh thánh đã báo trước qua các ngôn sứ. Đó là một chiến thắng rất vĩ đại của Cha thánh Giuse, Ngài đã vượt qua mọi giông tố để chiếm được Đấng EMMANUEL cho nhân loại.
Như vậy bài suy niệm hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm hoàn cảnh gia đình thánh Nazaret, để chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng Sinh, để nhận ra công trình phi thường của Thiên Chúa, và để chúng ta noi gương các Đấng đã rất mềm mỏng tinh tế với ý muốn của trời cao.
Gương sáng chói của Chúa Giêsu, Ngài là Đấng rất cao cả vô cùng, Ngài có thể cứu chuộc thế gian bằng nhiều cách, nhưng Chúa đã trở nên con của Mẹ và con của thánh Giuse là Cha Đồng Trinh Ngôi Lời Nhập thể và nhờ Giáo hội cộng tác vào chương trình cứu thế của Ngài. Được Thiên Chúa xử dụng trong việc tông đồ, được Ngài kêu gọi chúng ta vào hàng ngũ tuyển chọn trong đời dâng hiến … Chúng ta hãy thưa lời xin vâng như thánh Giuse khi được báo tin trong giấc mơ, như lời Fiat của Đức Mẹ trong ngày truyền tin, như thánh Phêrô thưa cùng Chúa rằng: “Vâng lời Thầy con xin thả lưới…”.
Tuy nhiên cuộc đời không thuần đơn giản như thế, thánh ý Chúa dễ bị những mây mù bão tuyết của trần gian che khuất. Che khuất bởi quỉ thần Satan, bởi dục vọng nặng nề của lòng người , bởi hào nhoáng của thế gian, đấy là chưa kể ý chí bị ru ngủ, không muốn vươn cao lên khỏi tầng mây mù để bay về trước Thánh Nhan Chúa, tìm gặp Đấng EMMANUEL. Ước gì gia đình Thánh Nazret là mẫu gương sáng chói cho chúng ta noi theo sống đời theo chân Chúa.
Vài tuần trước đây, tạp chí “This week” có thuật lại câu chuyện cảm động về một cậu bé người Hòa Lan, đã từng trốn khỏi trại tập trung của Đức Quốc Xã, nhưng đã bị bắt lại và đã bị kết án tử hình. Ngày trước khi bị hành hình, cậu đã gửi cho cha ruột cậu lá thư sau đây. “Cha thân yêu, thật khó khăn lắm con mới viết được cho cha lá thư này, nhưng con vẫn phải cho cha hay rằng con đã bị tòa án quân sự kết án tử hình. Xin cha đọc lá thư này một mình và khéo léo báo cho mẹ biết giùm con. Chẳng bao lâu nữa, lúc đúng 5 giờ sáng, chỉ một lát nữa thôi, thế là con sẽ về cùng Chúa. Nói cho cùng, đấy có phải là sự chuyển tiếp đáng kinh hãi không? Không, con cảm thấy rõ ràng rằng mình đang ở gần bên Chúa, con đã chuẩn bị sẵng sàng chờ đón giờ Chúa gọi con. Con nghĩ rằng con còn đỡ đau khổ hơn cha nhiều, vì con biết rằng mình đã xưng tội, đã sống công chính và hiện tâm hồn con hoàn toàn bình an thanh than. Ký tên “John Kless”. Phúc cho ai vào giờ Chúa gọi có thể nói được như cậu ta.
Chúng ta có thể nói được rằng, Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị tâm hồn, sẵn sàng chờ đón Chúa đến. Giáo Hội khuyên chúng ta nên chuẩn bị tâm trí, chuẩn bị tâm hồn, chuẩn bị thể xác, để đón tiếp Chúa Kitô. Đây phải chăng chỉ là sự đón tiếp liên quan đến cuộc giáng thế có tính cách lịch sử của Ngài, thường được chúng ta tưởng niệm vào dịp Giáng Sinh, cũng không phải chỉ liên quan đến cuộc ẩn thân mầu nhiệm của Ngài nơi bí tích Thánh Thể, mà đặc biệt là việc Chúa đến với mỗi người chúng ta trong giờ chết.
Để đón tiếp Chúa Giêsu đến, chúng ta đã chuẩn bị thế nào? Chúng ta nên vâng theo lời thánh Gioan tầy giả khi ông chuẩn bị cho dân Do Thái thời ông đón chờ Đức Giêsu đến với thế gian lần đầu tiên. Ông dạy bảo họ ăn năn thống hối từ bỏ tội lỗi, tin vào Phúc Âm. “Hãy sinh hoa trái tốt lành để chứng tỏ lòng ăn năn thống hối của các ngươi” (Lc.3:8). Đây là điều Giáo Hội mời gọi thực hiện trong ngày đón chờ Chúa đến. Chúng ta hãy từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những tính mê nết xấu, những gian tham, những hờn oán và bắt đầu sống đúng như lời Chúa Giêsu từng khuyên dạy chúng ta. Hãy tập tành các nhân đức. Hãy dục lòng yêu mến Chúa gấp trăm lần bù lại những giây phút quên lãng. Hãy hy sinh, hãm mình và làm việc lành phúc đức nhiều hơn mọi khi. Hãy để giờ làm việc thiêng liêng, đọc kinh nguyện ngắm, để tâm thần thêm sốt sáng. Hãy nghiêm chỉnh tự vấn xem “liệu chúng ta có thể trình diện trước mặt Chúa ngay lúc này không?
Mùa Vọng là thời gian tốt nhất để chúng ta hồi tỉnh tâm trí và chuẩn bị tinh thần. Đây là thời gian tự vấn chính mình xem chúng ta đã sẵn sàng đón tiếp Chúa chưa? Chúng ta có nói được như cậu bé John Kless trước giờ hành quyết: “Con cảm thấy rõ ràng con đang ở gần Chúa. Con chuẩn bị sẵn sàng chờ đón cái chết… Con đã xưng tội và tâm hồn con hoàn toàn thanh thản, bình an và hạnh phúc”.
Chúng ta hãy qùi xuống trước tôn nhan Chúa, hãy dùng giây phút này để thầm lặng, gẫm suy đến việc chuẩn bị tâm hồn đón chờ Chúa đến.
Lạy Chúa, xin giúp con sẵn sàng đón Chúa đến trong mọi lúc. Xin canh tân trí lòng chúng con, đổi mới ý chí. Xin giúp chúng con quyết tâm trong lời nói, trong việc làm, trong hành động, để sống đạo đức thánh thiện hơn trong những ngày đón chờ Chúa đến. Lạy Chúa, con đây xin sẵn sàng thực thi ý Chúa. Amen.
Học cùng buổi, là anh lớn, tôi được cha mẹ giao cho trách nhiệm quản lý chiếc xe và đưa rước em út học ở trường mầm non gần trường tôi. Tôi chẳng thích tí nào, vì như thế tôi chẳng bao giờ được đi chơi cùng đám bạn mỗi khi tan học. Nhưng tôi chẳng còn cách nào khác vì cha mẹ phải đi làm, em út thì chưa thể tự đi được.
Lần nọ, cô giáo bị bệnh đột ngột. Chúng tôi được nghỉ tiết cuối. Tôi theo đám bạn ra sân vận động chơi đá banh. Mãi chơi quên cả giờ giấc phải đón em. Chờ mãi không thấy tôi đến rước, cô giáo nhà trẻ đưa luôn em tôi về nhà cô và điện qua nhà tôi bảo mẹ tôi qua rước em. Còn tôi, khi chơi chán thì đã trễ giờ, đến trường của em thì được biết em đã được cô đưa về. Tôi đành lững thững về nhà chịu tội. Về đến nhà, đứa em út nhìn tôi khóc tức tưởi: “Anh hai đi đâu không đón em!”.
Phúc Âm ngày hôm nay giới thiệu cho chúng ta một khuôn mặt – một người thầm lặng, thầm lặng nhưng rất vâng phục; ít nói nhưng đầy trách nhiệm. Thánh sử gọi ngài là người công chính. Đó là thánh Giuse.
Trình thuật bài Phúc Âm cho biết Giuse đã đính hôn với Maria, nhưng trước khi về chung sống thì Maria đã mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse thì lòng bối rối như tơ vò, “bỏ thì thương vương thì tội”. Tố cáo thì Maria sẽ chết, bởi luật lệ Do thái thời ấy rất khắt khe với những phụ nữ chửa hoang. Rước nàng về chung sống thì sao quá bất công cho mình. Cuối cùng Giuse đã chọn giải pháp âm thầm ra đi. Đành chấp nhận dang dở một cuộc tình đẹp… Nhưng có phải vì sự âm thầm đó mà Giuse được gọi là người công chính? Hay là vì lòng nghĩa hiệp không muốn phanh phui ra ánh sáng một bào thai đang lớn lên từng ngày trong bụng Maria?
Nếu chỉ đơn giản như thế thì cần gì phải nêu ra cho mọi người học hỏi làm gì! Vì thực tế mẫu anh hùng như thế không phải làm hiếm.
Mặc dù Phúc Âm không nói gì về cuộc đời thánh Giuse, nhưng chắc rằng ngài là một người tốt lành, có đạo đức, có học thức. Sự công chính của Giuse được các nhà chú giải cho rằng: Giuse đã biết được thai nhi trong bụng Maria là ai, ngài cũng hiểu được rằng Thiên Chúa đã chọn Maria cho công trình cứu rỗi của Người. Giuse tự thấy mình không có quyền giành Maria với Thiên Chúa, càng không xứng đáng tham dự vào công trình quá cao vời của Thiên Chúa. Giuse chấp nhận hy sinh tình yêu của mình để ý định của Thiên Chúa được thành sự. Giuse công chính là vì ngài đã nhận ra được điều Chúa muốn ngài phải hy sinh và vâng theo điều đó với cả ý thức và trách nhiệm.
Cho tới khi suy nghĩ của Giuse được xác nhận bởi lời của sứ thần, thì sự vâng phục của Gisue được chuyển sang hướng khác và nâng lên cao hơn. Giuse không là kẻ đứng ngoài công trình cứu rỗi. Rối rắm trong lòng Giuse được hoá giải. Trách nhiệm của Giuse giờ đây là công nhận người con Giêsu trong tư cách pháp lý cũng như cho Giêsu được đứng vào hàng con cháu Đavit. Giuse không hề đắn đo hối tiếc trong vai trò cha nuôi của mình. Ngược lại, ngài còn vui mừng vì đã được cộng tác, vì đã được mời gọi. Việc nầy xem ra quan trọng hơn so với việc chấp nhận người khác đứng vào dòng tộc mình. Giuse đã hoàn toàn để ý Chúa “được như lời sứ thần truyền”.
Là người Công giáo, chắc hẳn phải hơn một lần bạn nghe nói về sự vâng phục của thánh Giuse, hay của Đức Maria, hay của một vị thánh nào đó. Thế bạn nghĩ gì về điều nầy? Các ngài không phải vâng phục lề thói xã hội không đâu, mà là vâng phục ý Chúa. Và khi đã chấp nhận xin vâng như vậy, các ngài cũng phải đảm đương một trách nhiệm đi cùng.
Như câu chuyện tôi đã kể ở phần đầu, tôi đã miễn cưỡng vâng phục. Tôi không phản ứng nhưng tôi không làm tròn trách nhiệm. May là hôm ấy em tôi không xảy ra sự cố gì rắc rối. Nếu không chắc tôi phải ân hận suốt đời.
Cuộc sống đòi buộc bạn phải dấn thân, đòi buộc bạn phải đáp trả lời mời gọi cộng tác. Bạn không thể ăn bám gia đình mãi. Bạn không thể ngồi đó oán trách số phận đen đũi. Bạn càng không thể trốn chạy trước tương lai của chính đời bạn. Khi bạn chưa bắt tay vào làm bất cứ điều tốt nào thì bạn không được quyền nói bạn không có khả năng. Bạn đã thấy thánh Giuse cũng nghĩ rằng ngài không thể, nhưng với lòng tin vào Chúa và vào chính mình, ngài đã làm được.
Hãy đến chiêm ngắm sự vâng phục của Giêsu – Maria – Giuse nơi hang đá trong đêm Giáng Sinh và nguyện cầu để được các Ngài hướng dẫn cuộc đời bạn. Chúc bạn Giáng Sinh an lành.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Nếu đây không phải là một bài Thánh Kinh, người ta sẽ có thể rút ra từ bài tường thuật của thánh Matthêu những yếu tố của một thảm kịch lạ lùng. Song ở Thiên Chúa gọi ta suy nghĩ sâu xa, một suy tư vượt quá óc phân tích, vượt quá nghệ thuật. Những cõi lòng đơn sơ, nghĩa là những ai không vướng mắc vào một hệ thống tư tưởng phiền phức, nhận ra trong biến cố tường thuật lại đây một ‘phát minh’ của tình yêu Thiên Chúa. Một trong những hậu quả lớn lao nhất của mọi mối tình, và dấu hiệu của nó, là làm cho trí khôn phải sửng sốt. Ở đây là tình yêu của Thiên Chúa; nó còn làm trí khôn sửng sốt gấp bội. Nó làm cho trí khôn chưng hửng không phải để hạ thấp trí khôn, song là để nâng cao nó lên nếu nó biết khiêm tốn.
Tác giả Phúc Âm báo trước Chúa Giêsu sẽ sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh. Sự kiện đó không phải là không gây ra vấn đề cho hai người trong cuộc, là Maria và Giuse. Thánh Giuse bị đặt ở điểm then chốt của một hoàn cảnh bi đát. Trước hết, cũng như Maria, Người được Chúa mời giải quyết vấn đề của mình, từ ‘trên cao’ nghĩa là bởi một hành vi đức tin. Điều đã nói về Maria: bà có phúc vì đã tin, cũng áp dụng cho Giuse.
Thử rút ra từ đoạn Phúc Âm này hai ý tưởng:
1) Maria đã để cho Thiên Chúa làm việc báo tin cho Giuse biết tình trạng của Người.
Có những kinh nghiệm tinh thần liên quan tới kẻ khác mà người ta vẫn không thể nói tới, bởi vì chúng xảy ra ở một bình diện quá sâu xa. Chúng tôi không nói: Maria và Giuse không hề nói với nhau về việc thụ thai lạ lùng, chẳng hạn sau khi Thiên Chúa can thiệp với Giuse, nhưng Đức Trinh Nữ phó thác cho Chúa việc khai triển ‘cái lý’ của biến cố và các phương tiện của biến cố. Ở những trình độ khiêm tốn hơn nhiều, cũng xảy ra như vậy trong đời sống, nhất là đời sống giữa vợ chồng Kitô hữu. Mọi Kitô hữu ý thức, đều có những ơn sủng riêng tư, nhưng không ơn nào chỉ dành cho mình mà thôi; ơn sủng của Chúa, dù riêng tư nhất, vẫn có một chiều kích hiệp thông huynh đệ. Tuy thế loại ơn này cần phải được giữ gìn kín đáo. Vừa phải đón nhận nó trọn vẹn, vừa phải phó thác cho Chúa công việc làm cho kẻ khác hiểu biết, nhìn nhận nó. Người ta có thể mang trong mình một ơn Chúa làm cho người khác thắc mắc: nếu đó là ơn đích thực, phải để mặc cho Chúa phương tiện giải đáp thắc mắc ấy, hay nói đúng hơn: hãy giao cho Chúa trước đã; phần việc ta có thể sẽ tới sau.
2) Ta nên lưu ý tới tình hình rất cao đẹp của thánh Giuse.
Người đã có thể chiều theo luật lệ sơ đẳng của xã hội đương thời mà tố giác Maria. Một sự ngay thẳng căn bản khiến người hành động cách khác. Qua hành động này ta thấy một giá trị nhân bản sâu xa, vượt xa mặt chữ của lề luật. Lúc đó Thiên Chúa can thiệp. Sự kiện này gợi cho ta một câu hỏi: ta có xác tín rằng các hồng ân cao cả nhất Chúa ban, cái mà ta gọi là các ơn siêu nhiên, cần được dựa trên nền móng các nhân đức tự nhiên như: tính ngay thẳng, lương thiện, can đảm, tinh thần phục vụ, tấm lòng cởi mở… hay không? Sau Đức Mẹ, thánh Giuse nêu cho ta tấm gương đầu tiên trong Hội Thánh về sự thánh thiện được phát triển từ những nền tảng nhân bản rất cao quý.
Trên chuyến xe xuôi miền lục tỉnh, người ta chuyển đến tôi một cuốn truyện cũ đã mất bìa để đọc cho quên đường dài. Truyện kể lại mối tình giữa một chàng trai là con sĩ quan học tập và một cô gái là con cán bộ chức quyền. Họ thương nhau và muốn kết hôn với nhau, nhưng khi công khai ý định ấy, họ đã gặp phải những lực cản từ hai phía gia đình. Đã có nhiều nghi ngờ từ phía cha chàng trai và cũng có lắm nghi ngại từ phía cha cô gái. Giải pháp phải chọn là chia xa đôi lứa.
Đành lòng làm thế, nhưng họ vẫn âm thầm chờ đợi nhau, cho đến khi cha chàng trai mãn hạn học tập về nhà và cha cô gái đã đến tuổi về hưu. Hai người cha có dịp gần gũi cảm thông làm chất keo thân ái cho tình yêu đôi trẻ có điều kiện gắn hàn. Kết truyện là đám cưới.
Truyện có hậu và có nét hấp dẫn riêng của thể loại, nhưng điều hấp dẫn hơn hết đối với tôi không phải là cốt truyện cho bằng chính tựa đề “Tình yêu trong veo”: trong veo giữa hai người cha biết xoá tan ngờ vực để thêm gần gũi; trong veo giữa hai bạn trẻ biết vượt qua thử thách để giữ vững tình yêu. Xin mượn tựa đề “Tình yêu trong veo” ấy để gọi tên Mùa Vọng là mùa trong veo một tình yêu.
1) Bằng tình yêu trong veo, Thiên Chúa trao thân cho con người.
Trong khi người Do Thái còn đang mải miết với một vì Chúa ở trên cao và dường như say sưa về một Đấng ở xa con người, đến nỗi trong quan hệ nguyện cầu, thay vì xin những biểu tỏ gần gũi để dễ dàng nắm bắt, họ lại chỉ dám xin một dấu lạ điềm thiêng mãi tận trời cao vượt quá tầm nhìn; và trong niềm mong chờ Đấng Cứu Thế, vốn là mạch sống hy vọng cho cả dân tộc, họ những tưởng nghĩ rằng Người sẽ đến, nhưng là đến trong cung cách của một vị Chúa oai phong lẫm liệt, cho muôn dân nếu không phải cúi đầu sợ hãi thì cũng phải bái phục tôn thờ. Có ngờ đâu, khi Chúa đến, Người lại chọn cho mình một cách đến rất khác lạ.
Người đến thật gần: trong thân phận của một con người để làm người giữa muôn người trần thế. Người đến thật thấp: thấp đến nỗi chọn cho mình cách sống của một người cùng khổ dưới đáy xã hội. Người yêu thương con người để sẵn sàng trao thân cho họ, chấp nhận phải điều đình, chấp nhận được cưu mang, chấp nhận được sinh hạ, chấp nhận được làm người: “Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14)
Phải chăng khi trao thân cho con người như thế, Thiên Chúa sẽ được thêm vinh quang? Phải chăng nếu không trao thân cho nhân loại, Thiên Chúa vẫn là Chúa, nhưng là một vị Chúa không được ai biết đến hay là một vị Chúa bị kết án phải cô đơn? Thưa không phải thế. Chính khi trao thân cho con người trong mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa không còn úp mở như trong thời Cựu Ước nữa, Người đã dứt khoát cho thấy mình là Đấng giải cứu con người và sẵn sàng làm hết cách để thực hiện bằng được chương trình của Người mà không đợi chờ mảy may vinh quang nào ngoài lợi ích cứu độ cho người trần gian. Để độ thế, Thiên Chúa đã nhập thể; để cứu người, Thiên Chúa đã làm người.
Chính hai Danh xưng được nêu lên trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đã nói lên tất cả. Danh xưng Emmanuel khẳng định “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Danh xưng Giêsu bộc lộ “Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ” (Mt 1,23-25). Nối kết hai Danh xưng ấy nơi Đấng Cứu Thế, ta sẽ thấy một tình yêu trong veo Thiên Chúa dành cho con người: Người là Thiên Chúa ở cùng ta để cho ta ơn cứu rỗi, và Người là Thiên Chúa cứu độ ta bằng cách ở cùng ta.
2) Bằng tình yêu trong veo, con người gửi phận cho Thiên Chúa.
Nếu bằng tình yêu trong veo cứu độ, Thiên Chúa trao thân cho con người, thì Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng cho thấy những nhân vật gần gũi với mầu nhiệm Giáng Sinh nhất là Đức Maria và thánh Giuse đã bằng tình yêu trong veo tự nhiên gửi phận mình cho Thiên Chúa.
Đối với Đức Maria, tình yêu trong veo đã rõ qua tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội, mà Phụng Vụ hữu ý mừng kính ở đầu Mùa Vọng. Tình yêu ấy đã rõ trong việc Mẹ dâng mình vào Đền Thánh, nhưng tình yêu ấy còn rõ ràng hơn khi tiếp cận với mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Ngày Truyền Tin, mới gặp sứ thần, Đức Maria đã bối rối, thứ bối rối của một tình yêu trong sạch buổi đầu gặp gỡ. Rồi, lúc được đề xuất làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã băn khoăn, thứ băn khoăn của một tình yêu trong sáng muốn được giải thích đôi câu. Và chính lúc thưa “Xin vâng” (Lc 1,38) là cả một tình yêu trong veo như chưa bao giờ trong đến thế, Đức Maria đã gửi trọn phận mình vào tay Thiên Chúa, bất chấp đó là một mạo hiểm chết người: trinh nữ mà lại mang thai, phải ăn nói ra sao với thánh Giuse? Mới đính hôn thôi mà sắp thành mẹ, phải dàn xếp thế nào cho hợp luật pháp?
Còn thánh Giuse, con người lặng thầm nhất của Mùa Vọng, đã được đặt vào một tình huống khó xử đến độ ray rứt, nhất là trong những ngày trước lúc Đấng Cứu Thế giáng sinh như Phúc Âm hôm nay mô tả. Nhưng chính ở đây ông đã chứng minh bằng những nét đẹp kín đáo hào hùng về một tình yêu trong veo từ lâu đã dệt nên đời sống qua những lựa chọn xé lòng. Là người công chính, dù ghi nhận ít nhiều dấu hiệu chuyển biến nơi Đức Maria, ông cũng chẳng dám nghi ngờ mà chỉ một thoáng băn khoăn, để rồi định chọn cho mình giải pháp âm thầm rút lui. “Đào vi thượng sách” là giải pháp an toàn nhất. Nhưng chính lúc ấy, được tỏ nguồn cơn, ông đã tiếp nhận ý Chúa và tiếp đón Đức Maria về nhà mình bằng một tình yêu trong veo, mà người trần mắt thịt dẫu có bản lĩnh cách mấy cũng khó mà dám xâm mình mạo hiểm (Mt 1,24).
Nhìn như thế, tình yêu trong veo đã liên kết Đức Maria và thánh Giuse, để mái nhà chung sống không chỉ là nơi che nắng trú mưa cho qua ngày đoạn tháng, mà đã trở thành một mái ấm của những tấm lòng biết mở ra cưu mang Con Thiên Chúa và sẵn sàng để sinh Người ra cho dương thế, cho dẫu tình yêu trong veo ấy trên đường cứu độ như một bản trường ca sẽ không thiếu những quãng nghịch, mà việc khó xử hôm nay trong Phúc Âm mới chỉ là những nốt nhạc mở đầu.
3) Cũng bằng tình yêu trong veo, ta đón mừng lễ Giáng Sinh.
Hiểu như trên, Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng rõ ràng là một tình yêu hai chiều trao gửi: Thiên Chúa trao thân cho con người để con người biết gửi phận mình cho Thiên Chúa. Đồng thời cũng là Chúa Nhật trong veo của những tấm lòng biết gửi trao tấm lòng trong ơn cứu độ.
Trên nền tảng ấy, tình yêu trong veo đã trở nên tinh thần phải có để đón Chúa Giáng Sinh. Trong những ngày này, đi ra phố xá, đã nghe vang lên những bài ca Giáng Sinh quen thuộc; ngang qua nhà thờ, đã thấy trưng bày những bộ Noel với hang đá, cây thông, đèn sao đẹp mắt; và đi tới chỗ nào cũng thấy thấp thoáng Giáng Sinh với muôn màu lấp lánh. Nhưng có một màu được xem là không thể quên hay không bao giờ quên đối với mọi tín hữu mừng lễ Giáng Sinh, màu đó không ở trên áo quần giầy dép, môi mép tóc tai, hoa cài áo khoác, mà là ở trong tấm lòng kìa! Đó là màu trong veo của những tâm hồn trinh trong biết cưu mang ý Chúa và biết sinh hoa kết trái trong cuộc sống công minh chính trực của mình.
Nếu ngày xưa trong khúc hát quan họ Sion, câu xướng “Ai được lên Núi Chúa?” đã nhận được lời đáp “Chỉ những người thật thà ngay chính tay sạch lòng thanh mới được bước tới Thánh Cung” (Tv 23,3-4), thì hôm nay cũng thế, trong bài ca cuộc sống ai cũng nôn nao xôn xao ồn ào huyên náo tiếp cận lễ Giáng Sinh cả, kẻ tiếp thị, người tiếp tân; nhưng chỉ có những tấm lòng trinh trong mới xứng đáng trở nên Hang đá tiếp đón Chúa sinh vào. Chúa chỉ một lần đến sinh ra trên trần thế là đủ để cứu chuộc muôn người, nhưng giả như Người có đến sinh ra nhiều lần hơn nữa cũng vẫn thiếu, nếu lòng người chưa sẵn sàng một tình yêu trong veo mở ra đón nhận. Liệu ta hôm nay đã sẵn có một tâm hồn như thế trước lễ Giáng Sinh?
Hơn nữa, tình yêu trong veo cũng là tiếng nói cuối cùng của Mùa Vọng thúc đẩy ta đến với những người xung quanh. Không thể có Mùa Vọng đầy đủ nếu bỏ quên chiều kích tha nhân trong tình yêu của mình, và cũng chẳng tiếp đón Chúa cho đủ nếu từ chối tiếp nhận anh chị em gần gũi với mình trong những sinh hoạt hằng ngày.
Trong Phúc Âm, Giuse biết tiếp nhận ý Chúa “qua giấc mơ”, để rồi sau đó “tỉnh dậy” ông mau mắn đón Đức Maria nên bạn đường bạn đời của mình, cho dẫu hậu thế có kẻ điều ong tiếng ve xem ông như kẻ “vô tư”. Nhưng đó lại là bước đột phá của một tình yêu trong veo biết nhận ra rằng: Thiên Chúa đã ân cần trao thân cho mình qua mầu nhiệm Nhập Thể, thì mình cũng tín thác gửi phận mình trong mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa. Đó là hai chiều gặp gỡ của tình yêu Giáng Sinh.
Tóm lại, tình yêu trong veo là động lực khiến Chúa đến với con người và là nguồn lực thúc đẩy con người tiếp đón Chúa, để trong cuộc sống cụ thể trở thành nỗ lực của mọi tín hữu đón lễ Giáng Sinh. Trong khi còn chuẩn bị và chưa thực sự được tiếp đón Chúa, hãy bắt đầu bằng cách thực tập tiếp đón những hình ảnh sống động của Chúa là những người ta gặp hoặc những người gặp ta bằng một tình yêu trong veo luôn thăng tiến. “Nếu không gặp Ngài trong nghèo khổ, sẽ chẳng gặp Ngài giữa cao sang. Nếu không gặp Ngài ở dưới đất, sẽ chẳng gặp Ngài chốn Thiên Đàng” (thơ Xuân Ly Băng).
Đến đây, xin được khép lại những chia sẻ Mùa Vọng năm nay. Xin cám ơn Mùa Vọng đã đem đến những ý nghĩ đẹp màu. Xin cám ơn cộng đoàn đã vui lòng lắng nghe. Hy vọng những tâm tình chia sẻ cũng cung cấp chút ý tưởng giúp mỗi người hình thành được Máng Cỏ tâm hồn. Và cám ơn đứa cháu nhỏ đã tình cờ viết lộn chữ Mùa Vọng thành chữ “Màu Vọng” để có được bốn sắc màu chia sẻ nơi đây. Qua xanh đến tím gặp hồng, dìu ta đón Chúa với lòng trong veo.
Chúng ta cùng nhau tìm hiểu về bài học thinh lặng và đợi chờ trong đức tin của thánh Giuse.
Thông thường khi bản thân hay gia đình gặp phải những tai ương hoạn nạn, bị người khác hiểu lầm và chà đạp lên danh dự, chúng ta có khuynh hướng trả đũa, bằng cách bêu xấu đối phương và phân trần với người khác về nỗi bực tức của mình. Thậm chí, chúng ta còn tức giận và tìm đủ mọi cách thức để phản pháo theo kiểu mắt đền mắt, răng đền răng.
Thế nhưng, những người tin Chúa thì phản ứng một cách khác. Thay vì rêu rao phân trần với những người chung quanh, họ sẽ thưa lên với Chúa, tha thiết xin Chúa giải oan cho mình khỏi những chước mốc thiên hạ. Khi chúng ta kêu lên với Chúa, chúng ta hãy ghi nhớ một điều mà chúng ta thường hay quên đó là sự thinh lặng.
Phải, thinh lặng cũng là một cách cầu nguyện rất hữu hiệu. Kinh thánh nói rằng:
– Khi cõi lòng chất nặng nỗi ưu tư, khi ngôn ngữ không nói lên được nỗi sầu buồn của mình, thì chính Chúa Thánh Thần sẽ lấy những điều đang đè nặng tâm hồn chúng ta mà trình lên cùng Chúa Cha, cầu khấn thay cho chúng ta.
Bởi đó sự thinh lặng là điều rất cần thiết. Đúng thế, trước hết sự thinh lặng sẽ giúp chúng ta bình tĩnh lại để có thể lắng nghe được tiếng nói của Chúa và giúp chúng ta tập trung niềm tin tưởng vào Ngài.
Thứ đến, sự thinh lặng sẽ làm rung động Chúa Thánh Thần, khiến Ngài sẽ cầu nguyện thay cho chúng ta. Liệu có lời cầu nguyện nào linh ứng hơn lời van xin của Chúa Thánh Thần? Ngài hiểu rõ ý muốn của Chúa Cha và biết rõ nhu cầu của chúng ta.
Thánh vịnh 37 đã khuyên chúng ta:
– Hãy thinh lặng và đợi chờ, chớ buồn lòng.
Vậy những lý do ấy đã đủ làm cho chúng ta thinh lặng và đợi chờ hay chưa? Nhiều khi chúng ta thêm buồn vì thấy kẻ làm khổ chúng ta lại được nhiều may mắn.
Dưới con mắt trần gian, một người dù làm điều xấu mà vẫn thu hoạch được những kết quả tốt đẹp thì đó là thành công. Nhưng dưới con mắt đức tin, thì đó không phải là thành công thật. Thành công hay không là tùy vào kết quả sau này. Khi kẻ làm điều xấu mà được may mắn thì nên biết rằng Thiên Chúa muốn tỏ lòng tốt đối với họ, trước khi trừng phạt họ một cách xứng đáng.
Trên đời này không thiếu gì những trường hợp ác giả ác báo nhãn tiền. Thiên bất dung gian. Trời xanh con mắt là gương, người ghét nó ít, người thương nó nhiều.
Nhưng cũng có những trường hợp Thiên Chúa chưa làm ngay mà lại để dành đời sau hay dòng dõi của kẻ ác. Dù sao những hình phạt chúng ta nghe được vẫn là nhẹ lắm, nếu đem so với án phạt của ngày phán xét. Thiên Chúa có luật công bình và thánh thiện của Ngài. Ngài không bao giờ quên người công chính bị oan khiên. Hãy xác tín Ngài luôn can thiệp thật đúng lúc. Hãy ghi nhớ trường hợp của thánh Giuse hôm nay để thấy được bàn tay Thiên Chúa quan phòng luôn sẵn sàng thi ơn giáng phúc.
Là con cái Thiên Chúa, chúng ta phải biết yên lặng chờ đợi và trao phó mọi khó khăn oan trái cho Ngài phân xử, chứ đừng nóng lòng khi thấy kẻ dữ được sống thảnh thơi. Nhưng vấn đề là chung cuộc ai mới là người chiến thắng thật sự. Hãy can đảm yên lặng và chờ đợi ý Chúa và thời giờ của Chúa. Ý Chúa thì cao vời và Ngài có một chương trình tốt đẹp.
Tin rằng khi Thiên Chúa giải quyết thì sẽ không trí óc nào suy tưởng nổi. Cho nên nếu giờ đây gia đình chúng ta còn đang hoạn nạn hoặc người ngoài làm nhục thì bí quyết để thành công, đó là yên lặng trong đức tin, hoàn toàn phó thác cho tình thương của Chúa. Đó cũng chính là bí quyết giúp chúng ta sống vui, sống mạnh giữa những đổ vỡ của đời mình.
Lạy thánh Giuse, là gương sự nhịn nhục, xin giúp đỡ chúng con.
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Chuyện kể rằng: có một cô gái hàng ngày cầu nguyện đã nhiều năm qua, xin thánh Giuse tìm cho được tấm chồng tốt, nhưng chẳng kết quả gì. Cô bắt đầu cảm thấy thất vọng.
Một sáng Chúa nhật, sau khi đi lễ về, cô quì trước tượng thánh Giuse nài xin ngài ban cho điều cô khấn nguyện. Nhưng mười phút sau cô bỗng phát cáu vì thánh nhân không chịu đáp lời. Cô liền cầm tượng thánh Giuse ném ra ngoài cửa sổ. Tượng rơi trúng đầu anh thanh niên vừa đi ngang qua đó làm cho anh bị thương. Anh vội chạy đến gõ cửa xin cô giúp đỡ.
Cô gái rất ân hận thành thật xin lỗi anh và ao ước được chăm sóc vết thương cho anh. Họ trở nên đôi bạn thân thiết và sáu tháng sau đám cưới được tổ chức rất trọng thể.
Qua câu chuyện vui hi hữu trên đây, thánh Giuse đã giải quyết khá là ngoạn mục cho đôi tân hôn tưởng như không may lại hóa ra may mắn. Còn hôm nay, chuyện trăm năm của Ngài với Đức Mẹ phải tính sao đây? Thánh Kinh viết: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,18). Đính hôn là thời kỳ hạnh phúc nhất, là lúc đôi bạn yêu nhau dệt nên bao giấc mộng vàng. Thế mà, giờ đây giấc mơ ấy, bỗng tan thành mây khói. Maria thục nữ 15 tuổi, đạo hạnh, kiều diễm lại có thai trước khi về nhà chồng. Thật là bối rối, khó xử.
Để rồi cuối cùng, Giuse cũng phải đi tới một quyết định “Đào vi thượng sách”: “Ông Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Bỏ mặc cho số phận một người vợ đang mang thai mà Thánh Kinh gọi là “người công chính” được sao? Có lẽ Đức Maria, hay nói đúng hơn là bà thánh Anna mẹ của Đức Maria đã tiết lộ nguồn gốc của thai nhi, chính là bởi tác động của Chúa Thánh Thần. Biết được ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa nơi Đức Maria nên Giuse rất mực tôn trọng chương trình của Người. Vì thế, ông đã quyết định âm thầm rút lui, không dám nhận “quyền làm cha” đứa trẻ. Giuse quả thật là “người công chính”.
Nhưng chính lúc Giuse khước từ “Đứa con theo xác thịt” thì ông lại nhận được “đứa con của lời hứa”. Cũng như tổ phụ Abraham hy sinh Isaac con trai mình, thì ông xem đứa con ấy như “của lễ” dâng cho Thiên Chúa. Chính vì dòng dõi vua Đavid mà Thiên Chúa đã muốn Giuse đổi ý để “đón Maria vợ ông về”, và “đặt tên cho con trẻ là Giêsu”. Theo ngôn ngữ Sêmit trong Kinh Thánh, việc đặt tên có nghĩa là “nhận lấy quyền làm cha pháp lý” cho đứa trẻ. Chính qua dòng họ Giuse mà Đức Giêsu mới trở nên “con vua Đavid, để hoàn tất mọi lời hứa của Thiên Chúa”. Kết thúc Tin Mừng hôm nay, Matthêu viết: “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,24). Khép lại những giấc mơ của Giuse, là mở ra một thế giới tình yêu mới. Dù biết tình yêu rồi cũng không thoát khỏi những gian nan vất vả.
Như Maria, Giuse cũng phải mò mẫn trong đêm tối của đức tin, đến miền ánh sáng của thiên ý. Và khi nhận ra chương trình nhiệm mầu của Thiên Chúa, mặc dù chưa hiểu hết sự việc, các ngài vẫn mau mắn đáp lời xin vâng, với trọn niềm kính tin và phó thác. Các ngài nhìn tất cả chỗ nào cũng là hồng ân.
Thật đáng mừng là trong thế giới thực dụng và hưởng thụ của chúng ta ngày nay, vẫn còn hàng trăm ngàn các bạn trẻ nam nữ, tuổi 16 – 30 từ Mỹ và Pháp tình nguyện gia nhập hội Ava với bản hợp đồng “không sinh hoạt tình dục trước ngày cưới”. Đó là một lối sống mới tích cực trong hiểm họa AIDS hiện nay.
Sau khi “cam kết”, các thành viên Ava sẽ đến các trường học, các nơi công cộng… để nói với các thanh niên khác về hậu quả tai hại từ việc quan hệ tình dục bừa bãi, tuyên truyền chống lại loại phim ảnh khiêu dâm, bạo lực và cả những nhóm nhạc có phong cách quá khích.
Một khuôn mặt nổi bật trong những ngày cuối cùng của mùa vọng, đó là khuôn mặt của Đức Trinh Nữ Maria. Chúng ta có thể nói được rằng Mẹ là người đầu tiên được diễm phúc đón nhận Chúa. Tại sao thế? Vì tâm hồn Mẹ vô cùng trong trắng, không vướng mắc tội lỗi, đã trở thành chiếc nôi hồng ấm áp và tuyệt vời nhất cho Chúa ngự trị. Từ đó, chúng ta đi tới một kết luận: tội lỗi chính là chướng ngại vật ngăn cản không cho Chúa đến với chúng ta, cũng như không chúng chúng ta đến cùng Chúa.
Đúng thế, Thiên Chúa là Đấng thánh thiện, còn tội lỗi thì xấu xa, nên không thể đội trời chung với nhau, trái lại luôn đối kháng nhau như trắng với đen, như lửa với nước, như ánh sáng với đêm tối. Giữa Thiên Chúa thánh thiện và tội lỗi xấu xa là cả một vực thẳm ngàn trùng ngăn cách, không thể có được một nhịp cầu cảm thông. Nơi nào có Thiên Chúa ngự trị, thì nơi đó phải quét sạch mọi bóng dáng của tội lỗi. Trái lại, nơi nào tội lỗi ngập tràn, thì chắc chắn sẽ không có được sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa. Chính vì thế, tâm hồn tội lỗi sẽ không thể nào đón nhận Chúa mỗi khi Ngài viếng thăm, bởi vì Ngài luôn ghét bỏ tội lỗi, dù rất mực yêu thương các tội nhân.
Thực vậy, tội lỗi là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa, người cha toàn năng và giàu lòng nhân ái. Từng giây và từng phút, chúng ta đã nhận được biết bao ơn lành của Ngài. Chẳng hạn nếu không có khí trời, thì chỉ trong dăm ba phút, chúng ta sẽ không thể nào sống được. Nếu không có cơm ăn và nước uống, thì chỉ trong dăm ba ngày, chúng ta cũng sẽ không thể nào tồn tại. Vì thế, tội lỗi chính là một sự vô ơn bạc nghĩa đối với Chúa. Khi phạm tội, chúng ta giống như chàng trai phung phá trong Phúc Âm, đã bỏ mặc ngoài tai những lời khuyên nhủ, những lời van xin của người cha.
Hơn thế nữa, tội lỗi còn là một sự phản bội lại tình thương của Chúa. Vì khi phạm tội, chúng ta đã dùng những ân huệ Ngài ban để chống lại Ngài. Chẳng hạn Chúa ban cho chúng ta cặp mắt là để chúng ta chiêm ngưỡng những kỳ công của Ngài mà lên tiếng ca tụng, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để nhìn vào những sự xấu xa, khả dĩ làm cho tâm hồn bị hoen ố.
Chúa ban cho chúng ta đôi bàn tay là để chúng ta lao động sản xuất, kiếm tìm chén cơm manh áo cũng như cộng tác với Ngài trong công cuộc sáng tạo, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để đánh đập người khác và thực hiện những hành động gian tham trộm cắp.
Chúa ban cho chúng ta một trái tim là để chúng ta kính mến Ngài và yêu thương anh em, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để chất chứa những hận thù ghen ghét.
Cũng vậy, chính vì tội lỗi chúng ta mà Chúa đã phải sinh ra nghèo túng nơi máng cỏ Bêlem và đã phải chết một cách tủi nhục trên thập giá Canvê. Bởi đó, mỗi khi phạm tội là một lần chúng ta hò hét như dân Do Thái ngày xưa:
– Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào cây thập giá.
Mỗi khi phạm tội là một lần chúng ta giết Chúa, là một lần chúng ta đóng đinh Ngài vào thập giá. Đồng thời, mỗi tội chúng ta phạm là một lằn roi, là một gai nhọn, là một khạc nhổ chúng ta đổ xuống trên thân xác Chúa. Như thế, sống trong tội lỗi là chúng ta đã làm cho những khổ đau Chúa phải chịu và những giọt máu Chúa đã chảy ra trở nên vô ích.
Có một tên sát nhân âm mưu giết hại hoàng tử. Rất may hoàng tử chỉ bị thương nặng và được cứu sống. Hoàng tử đã xin vua cha tha tội chết cho tên sát nhân. Cảm động trước tấm lòng khoan dung ấy,, vua cha đã dẫn tên sát nhân tới gặp hoàng tử và hỏi hắn:
– Ngươi sẽ làm gì để đền đáp tấm lòng khoan dung tha thứ của hoàng tử?
Tên sát nhân không ngần ngại trả lời:
– Tôi sẽ tìm cách để giết chết hoàng tử một lần nữa.
Đức Kitô đã xuống thế và đã chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta cũng nói như tên sát nhân:
– Tôi sẽ tìm cách để giết chết Ngài một lần nữa.
Sau cùng, tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ bẩn, không còn xứng đáng làm nơi cho Chúa cư ngụ. Trong ngày lãnh nhận bí tích Rửa tội, vị linh mục xức dầu dự tòng cho chúng ta và nói:
– Hời thần ô uế, hãy ra khỏi người này để nhường chỗ cho Thiên Chúa ngự trị.
Thế nhưng, khi phạm tội, chúng ta nói ngược lại với những lời ấy:
– Hỡi Thiên Chúa, hãy ra khỏi tâm hồn tôi, để nhường chỗ cho ma quỉ và tội lỗi ngự trị.
Tội lỗi sẽ biến tâm hồn chúng ta trở thành một hang trộm cướp, nếu Chúa có ghé thăm, chắc chắn Ngài sẽ phải nổi nóng, rút dây lưng mà xua đuổi, như ngày xưa Ngài đã từng xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ Giêrusalem.
Vì thế, để đón mừng Chúa, để tìm gặp Chúa, cũng như để được Chúa ngự trị, điều kiện đầu tiên chúng ta phải có đó là một tâm hồn trong sạch. Muốn được như vậy, chúng ta phải ra sức chống trả những cám dỗ, xa tránh những dịp tội, là những hoàn cảnh thúc đẩy chúng ta vấp ngã. Vì lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy, chơi dao có ngày đứt tay. Sống trong dịp tội mà không vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ thực hiện cho chúng.
Có khử trừ tội lỗi, thì tâm hồn chúng ta mới sẽ trở nên một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa ngự đến.
Sách Điển Ngữ thần học Thánh Kinh xác định: “Theo trào lưu tư tưởng đầu tiên qua suốt toàn bộ Thánh Kinh, thì công chính là nhân đức luân lý mà chúng ta biết, được nới rộng để chỉ sự tuân giữ hoàn toàn các giới răn Thiên Chúa, nhưng đồng thời lại luôn được coi như một phẩm tính để đáng được công nghiệp trước mặt Thiên Chúa”.
Khi Matthêu gọi Giuse “là người công chính”, không chỉ vì Giuse tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa, nhưng còn vì trái tim của Giuse tràn ngập lòng nhân từ, quảng đại và thương yêu đối với Maria: “không muốn tố giác bà”. Thánh Kinh gọi Giuse là người công chính, vì Giuse thánh thiện và vô tội nữa. Khi viên đại đội trưởng chứng kiến Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá, đã nói: “Người này quả thật là công chính”. Công chính còn có nghĩa là thánh thiện và vô tội, Giuse đã có lòng kính sợ và thi hành thánh ý Thiên Chúa qua mọi hình thức mạc khải, dù là giấc mơ: “Khi tỉnh giấc, Giuse làm như sứ thần Chúa dạy”. Vì thế Giuse đã được chọn để đặt tên cho Đức Giêsu, “Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi”. Một người có tội không thể nào đặt tên cho Đấng Cứu Thế được!
Quả vậy, bản tường thuật về thời thơ ấu của Chúa Giêsu trong Phúc âm của thánh Matthêu đã tập trung vào vai trò của thánh Giuse hơn là của Đức Maria. Bởi Phúc âm của thánh Matthêu được viết cho những người Kitô hữu gốc Do Thái, Matthêu muốn chứng tỏ cho họ thấy rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đã đến qua dòng dõi vua Đavid. Đấng đã được hứa ban và loan báo bởi các tiên tri trong Thánh Kinh. Giuse thuộc dòng dõi vua Đavid. Chính Giuse đã đặt tên cho con trẻ, đã dâng hiến cuộc đời mình và làm tất cả mọi sự cho con trẻ. Con trẻ là Con Thiên Chúa và con Đức Maria, nhưng qua việc đặt tên của Giuse, con vua Đavid.
Mỗi vị thánh đều có một ơn đặc sủng và một nét độc đáo. Đặc sủng ấy, nét độc đáo ấy nơi thánh Giuse là sự công chính.
“Lạy Chúa, con đã để cho mình bị lừa dối; bằng ngàn cách con đã chạy trốn tình yêu Chúa, …”
“Lạy Chúa,
con đã để cho mình bị lừa dối;
bằng ngàn cách con đã chạy trốn tình yêu Chúa,
nhưng con đang ở đây một lần nữa
để lập lại giao ước của con với Chúa.
Con cần Chúa.
Xin Chúa chuộc con lại một lần nữa.
Lạy Chúa,
xin một lần nữa đón nhận con
trong vòng tay cứu độ của Chúa”
(Trích từ Niềm vui Tin Mừng số 03).
BẢY BƯỚC CẦU NGUYỆN
(15 phút mỗi buổi sáng, và 15 phút trước khi nghỉ đêm).
Buổi sáng
Buổi tối.
Chúa nhật thứ III Mùa Vọng năm A
Lời của Đức Thánh Cha Phanxico:
Lúc khởi đầu Mẹ Maria chưa biết con đường của Mẹ sẽ dẫn tới đâu, và Mẹ sẽ phải chịu những đau khổ nào, cũng như những nguy hiểm gì mà Mẹ sẽ đối diện. Nhưng Mẹ luôn ý thức rằng, chính Thiên Chúa là người nhìn đến Mẹ, và Mẹ thật sự tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa. Mẹ hiện diện hoàn toàn trong tình yêu của Thiên Chúa.
Mẹ Maria thực sự có một niềm tin mạnh mẽ. Mẹ dạy dỗ chúng ta biết nhận ra khoảnh khắc mà Chúa Giêsu đến trong lòng của chúng ta và Ngài xin chúng ta một câu trả lời thành tâm và quảng đại.
Lời gợi ý:
– Theo tâm tình của Đức Thánh Cha, Mẹ Maria bước đi trên con đường theo Chúa với niềm tin tưởng mạnh mẽ vào Thiên Chúa. Nhìn lại bản thân, bạn thấy niềm tin của bạn mạnh mẽ như thế nào? Trong những sự kiện hay biến cố tế nhị trong cuộc đời, bạn đã tin tưởng và phó thác cho Chúa ra sao?
– “Mẹ dạy dỗ chúng ta biết nhận ra khoảnh khắc mà Chúa Giêsu đến trong lòng của chúng ta và Ngài xin chúng ta một câu trả lời thành tâm và quảng đại”. Đọc đi đọc lại lời này, suy xét xem bạn nên trả lời Chúa Giêsu như thế nào, khi Ngài nhẹ nhàng đi vào cuộc đời và tâm hồn bạn?
– “Alleluia, alleluia! – Này đây trinh nữ sẽ mang thai, hạ sinh một con trai, và người ta sẽ gọi tên Người là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng ta. – Alleluia”. Bạn hãy để lời ca ngợi – Alleluia này đi với bạn trong ngày sống. Lâu lâu bạn dừng bước và nhủ thầm với chính bạn rằng: “Thiên Chúa ở cùng tôi – Emmanuel”.
Bài tập trong tuần (05 phút): ĐỂ TÂM LẮNG NGHE.
Ngồi lại trong thinh lặng. Chú ý đến hơi thở của bạn cách đều đặn. Từ từ bạn hãy chú ý lắng nghe. Trước hết bạn hãy để những âm thanh gần nhất đến với bạn. Hãy nghe những âm thanh đó, đừng vội xác định chúng là âm thành gì. Sau đó, lắng nghe các âm thanh xa hơn. Cuối cùng bạn để tất cả mọi âm thanh xung quạnh bạn được phép “nhảy múa” cách sống động trong đôi tai và trái tim của bạn. Mỗi ngày bạn có thể đổi một nơi chốn khác để tập bài này.
(dongten.net)
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Ngôi nhà thờ đương đầu rất giỏi và gió chỉ làm bung một mảng tường nhỏ mới vá sau bàn thờ chính. Bất tiện quá! Lễ Giáng Sinh gần kề làm sao bít kịp cái lỗ hổng đó? Không khéo nó lại lôi cuốn sự chú ý của người dự lễ hơn là cái hang đá. Cha xứ nảy ra sáng kiến đi ra cửa hàng tạp hóa của một hội đoàn giới trẻ. Người bán hàng đưa ra một bức thảm dệt tay kim tuyến, lấp lánh chen với ngà, chung quanh viền ren Bỉ. Chiếc thảm này trước kia được phủ trên một cái bàn trong cung điện cao sang, nhưng ở cái xó vùng sâu xa này, có ai thưởng thức được cái nghệ thuật quí giá đó? Vì thế giá rẻ mạt. Ừ, sao lại không mua bức thảm này che vào cái lổ hổng đó? Ngài mua liền.
Ý kiến thế mà hay: Bức thảm làm nhà thờ nổi bật lên! Sáng sớm ngày áp lễ, cha xứ đến nhà thờ, ở chỗ chờ xe bus, ngài gặp một bà đang đứng đợi xe trong gió lạnh, ngài bảo:
– Bà vào nhà thờ ngồi cho đỡ lạnh, còn 45 phút nữa xe mới qua đây.
Bà ta vào nhà thờ quì gối đọc kinh, mắt bà bỗng mở to ra, bà chạy lên gần ngắm nhìn, sờ sờ tấm thảm và thốt lên:
– Thưa cha, bức thảm này đúng là của chúng con. Chồng con mua nó ở thủ đô nước Bỉ. Cha coi, đây chính là ký hiệu của chúng con.
Bà kể cho cha nghe tấm thảm kịch của gia đình. Vợ chồng bà sống tại nước Áo, khi quốc xã Đức tràn tới, họ bỏ chạy. Họ định trốn sang Thụy Sỹ, là phụ nữ, bà quá cảnh dễ dàng, còn chồng bà bị bắt lại, bà cho rằng ông đã chết trong trại tập trung rồi. Cha xứ ngỏ ý muốn trao lại tấm thảm nhưng bà từ chối:
– Thưa cha bức thảm để ở đây tốt hơn trong túp lều của con. Con vui lòng chịu đựng cảnh khốn quẫn. Con đi xin việc coi sóc nhà cửa, nhưng người ta từ chối vì lý do con đã già!
Thánh lễ đêm Giáng Sinh, mọi người dự lễ đều ngắm nhìn gian cung thánh được trang trí lộng lẫy, những ánh nến càng tôn vẻ lấp lánh của bức thảm. Lễ xong một ông đến xin gặp cha xứ, ông là chủ một hiệu kim hoàn. Ông nói:
– Thưa cha, thực là lạ quá! Bức thảm này đúng là của chúng con trước kia. Khi chúng con sống ở Viên, thủ đô Áo Quốc, cứ mỗi lần mời Đức Cha đến dùng bữa, nhà con lại đem tấm thảm này ra trải bàn. Cha xứ kể lại cho ông sự việc xảy ra sáng nay. Ông hồi hộp xin cha:
– Cha có thể tả cho con vóc dáng của bà ấy được không? Có lẽ nào lại chính là nàng? Không lẽ nàng còn sống?
Ông xin cha hướng dẫn để theo dõi vết tích người đàn bà nghèo khổ đó. Quả đúng là bà vợ của ông ta. Chiều ngày lễ Giáng Sinh hai vợ chồng được đoàn tụ sau bao năm dài xa cách. Một phép lạ của Tình Yêu Con Thiên Chúa. (Internet)
Đấng Thiên Chúa Ở Cùng đem đến nhân loại tình yêu, giao hoà và bình an sáng ngời trong đêm đen chia rẽ, hãi hùng, hận thù. Tin Mừng Chúa nhật 4 Mùa Vọng hôm nay trình thuật sứ thần truyền tin cho Giuse rằng, Mẹ Maria đã thụ thai bởi Đức Chúa Thánh Thần, như ngôn sứ Isaia đã tiên báo từ 8 thế kỷ:”Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.”(Is 7, 14)
Tình yêu
“Thiên Chúa là Tình Yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” (1Ga 4, 16) Thánh Giuse từng phân vân, lúng túng, nghĩ ngợi, trước sự kiện Mẹ Maria mang thai, đã kiên quyết vượt lên chính mình, khi nghe sứ thần báo mộng. Một cách diễn tả sự bén nhạy thấu hiểu Thánh Ý Chúa qua các dấu chỉ. Đấng Emmanuel đã ban tràn đầy cho Giuse tình yêu dâng hiến, lòng khoan dung và hy sinh, để ngài sẵn sàng chấp nhận sứ vụ cao cả, làm cha nuôi nhiều chông gai, đau khổ.
Chỉ có Tình Yêu thật sự mới có thể mạnh mẽ hậu thuẫn cho Giuse quyết định, dấn thân phục vụ công trình cứu độ của Thiên Chúa. Chỉ có Tình Yêu mới có thể hoá giải Luật lệ, cũng như xung đột ý riêng với Thánh Ý, để Giuse hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa và kiên trì hoàn hành. Chỉ có Tình Yêu mới giúp Giuse thấu hiểu kỳ công của Thiên Chúa, cũng như dẫn dắt đến niềm tin vững mạnh.
Giao hoà
“Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần.” Qua lời sứ thần truyền tin, Đấng Emmanuel đến xua tan nghi ngờ, xoá sạch ngộ nhận, kết hiệp thánh cả Giuse với Mẹ Maria, trở thành Thánh Gia Thất ấm áp, yên vui, hạnh phúc, gương mẫu, ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia. “Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non.” (Is 11, 1)
Trời đất giao hoà. Đấng Emmanuel nhập thể, bày tỏ Tình Yêu vĩ đại, gánh lấy tội lỗi nhân loại, san phẳng, lấp hố sâu tội lỗi ngăn cách, hầu giao hoà Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau, vốn thường mâu thuẫn, mê muội, đắm chìm trong bùn nhơ dục vọng. Người tìm kiếm từng con chiên lạc trở về với đàn.
Bình an
“Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn mình.” Đấng Emmanuel an ủi, khích lệ Giuse an tâm, vâng theo Thánh Ý, tích cực dấn thân, cộng tác và phục vụ công trình cứu độ, cũng như làm rạng danh Thiên Chúa Tình Yêu.
Liên tiếp bốn lần, sứ thần đều trấn an mọi người “đừng sợ.” Với Thầy Tư Tế: “Giacaria, đừng sợ! Vì Thiên Chúa đã nhậm lời ông cầu xin.” (Lc 1, 13) Với Mẹ: “Maria, đừng sợ! Vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.” (Lc 1, 30). Với mục đồng: “Đừng sợ! Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại.” (Lc 2, 10) Và hôm nay với Giuse: “Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng sợ nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần.” (Mt 1, 20)
Đấng Thiên Chúa Ở Cùng đã giao hoà trời đất, và con người, đem bình an đến nhân loại, như thiên thần hân hoan đàn hát vang lừng bên hang đá Bê lem: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2, 14) Còn niềm vui nào cao sang, tuyệt vời, vĩ đại, hơn mầu nhiệm Đấng Chúa Ở Cùng giáng trần.
“Chúa hiện diện không phải là lý thuyết. Chúa là Cha, ở bên con, với tất cả quyền năng và tình yêu. Cha năn nỉ, Cha khuyên bảo, mời gọi, trách móc, tha thứ và luôn luôn yêu thương.” (Đường Hy Vọng, số 234)
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Chúa Ở Cùng, xin giải thoát chúng con khỏi chốn ngục tù tăm tối tội lỗi, khỏi cám dỗ thế gian phù vân, để chúng con được sống trong Tình Yêu viên mãn, hiệp nhất và bình an.
Kính xin Mẹ dẫn dắt chúng con theo Mẹ, cầu bầu chúng con năng ăn năn, sám hối, đổi mới, trở về Gia Đình Thánh, tràn đầy hạnh phúc cùng Chúa, với Chúa và trong Chúa. Amen.
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Câu chuyện kỳ lạ của sĩ quan Onoda tại các rừng rậm Philippines bắt đầu ngày 17.12.1944, khi mà chỉ huy của anh ta là thiếu tá Taniguchi, hạ lệnh cho người thuộc cấp 22 tuổi Onoda, cùng một số chiến binh khác, tiến hành chiến tranh du kích chống lại quân Mỹ tại Lubang. Taniguchi nói: “Chúng ta chỉ tạm thời rút lui. Các anh hãy vào rừng, làm lều, chuẩn bị kho vũ khí… Tôi cấm các anh tự tử hoặc đầu hàng. Có thể phải ẩn náu 3 năm, 4 năm hay 5 năm, nhưng tôi sẽ quay lại với các anh. Lệnh này chỉ có tôi mới được quyền thay đổi”.
Năm này nối tiếp năm khác. Onoda chiến đấu trong rừng rậm. Onoda lấy nước suối đun sôi để dùng, ăn hoa qủa và trong suốt ngần ấy năm trời chiến binh“Samurai cuối cùng” chỉ một lần duy nhất bị viêm họng. Ngay cả sau này, có những lúc Onoda hoang mang khi nghĩ rằng quân đội Nhật đã bỏ rơi họ, thì anh ta cũng không có ý định đầu hàng. Có một lần Onoda định tự tử, nhưng ngay lập tức từ bỏ ý nghĩ này vì thiếu tá Taniguchi đã ra lệnh không được làm như thế.
Vào tháng 10.1972, Onoda và người đồng đội đặt trái mìn cuối cùng trên đường gần làng Imora để phục kích quân Philippines. Trái mìn không nổ, nên họ giao tranh với quân Philippines. Người bạn bị bắn chết, còn Onoda thì bỏ chạy vào rừng sâu. Cái chết của một lính Nhật sau 27 năm khi nước này đầu hàng, đã gây chấn động cả xứ sở Phù Tang. Gần 30 năm các đội biệt động thiện chiến không phát hiện ra Hiro Onoda. Thế nhưng cuối cùng một khách du lịch Nhật tên là Suzuki, khi đi sưu tập bướm trong rừng, đã tình cờ “đụng” Onoda. Người này khẳng định với “samurai cuối cùng” là nước Nhật đã đầu hàng, chiến tranh đã kết thúc từ lâu. Onoda ngẫm nghĩ, trả lời: “Tôi không tin. Thiếu tá Taniguchi chưa thay đổi mệnh lệnh thì tôi vẫn tiếp tục chiến đấu”.
Quay trở về Nhật Bản, Suzuki tìm mọi cách để tìm thiếu tá Taniguchi, và rất khó khăn mới tìm được ông ta. Người lãnh đạo của “Samurai cuối cùng” thay tên đổi họ và trở thành nhà kinh doanh điện ảnh. Họ cùng nhau đến khu rừng Lubang, tìm đến nơi Onoda ẩn náu. Khi ấy Taniguchi mặc quân phục và ra mệnh lệnh Onoda phải ra đầu hàng. “Samurai cuối cùng” vác súng trường trên vai và đến đồn cảnh sát đầu hàng vào buổi sáng ngày 10.3.1974.
Tương tự như chuyện Onanda, Samurai cuối cùng, trung kiên, một lòng một dạ, chấp hành duy nhất mệnh lệnh của thiếu tá Taniguchi mà thôi, trích thuật Tin Mừng hôm nay giới thiệu Thánh Giuse, vị cha nuôi đáng kính của Đức Giêsu. Ngài đã toàn tâm vâng phục Thánh Ý Chúa chấp nhận vai trò nghĩa phụ của Chúa Cứu Thế, vâng theo Tiếng Gọi Tình Yêu.
Tiếng gọi
Thánh Giuse thật thầm lặng trong Tin Mừng, cũng như sống trong đời thực. Ngài thật hào hiệp, khoan dung quảng đại, và vô cùng khiêm nhường. Hơn nữa, Thánh sử Mat thêu còn vinh danh ngài “là người công chính.” Ngàiđã thực sự tỏ ra bối rối trước việc Đức Mẹ thụ thai. Nhưng vì chân thật tin yêu Mẹ Maria, rất đoan trang và đạo hạnh, ngài không mảy may nghi ngờ, chẳng phản ứng bộp chộp, nông cạn, cũng không một lời than thở, trách móc. Ngài chọn phương án thầm kín bỏ đi, để êm thắm cho cả hai.
Nhưng sứ thần Thiên Chúa đã đến báo cho ngài trong giấc ngủ: “Này ông Giuse, con cháu Đa vít, đừng ngại đón bà Maria, vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.”(Mt 1, 20-21)
Thánh nhân dạt dào lòng tin, cậy, mến, đã nhận được Thánh Ý Chúa tỏ tường, chính xác, minh bạch. Bây giờ, tôi cũng mong được sứ thần trực tiếp loan báo sứ vụ, nhưng tôi lại chểnh mảng, thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và tha nhân, lại kiêu căng, tự cao tự đại, nhất là non kém, thờ ơ, thiếu sót các nhân đức. Thì làm sao tôi lắng nghe được tiếng Chúa, hiểu được Thánh ý Chúa? May mắn thay, ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận đã khẳng định:“Bổn phận là ý Chúa trong giây phút hiện tại.” (Đường Hy Vọng, số 17)
Xin Vâng
“Khi tỉnh giấc, ông Giuse đã làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà.” (Mt 1, 24) Lắng nghe được Lời Chúa phán bảo, Thánh Giuse liền vui vẻ “Xin Vâng”, quyết tâm thực hành Thánh Ý, tương tự như Mẹ Maria, ngay sau khi được sứ thần truyền tin. Không chần chừ, chậm trễ, suy tính, cân nhắc hơn thiệt, ngài dấn thân ngay vào sứ vụ nghĩa phụ của Đấng Cứu Thế.
Chẳng ngần ngại vất vả, gian khó, ngài hồi hương cùng Mẹ Maria từ Nazaret về Bêlem, sinh hạ Hài Nhi Giêsu trong cảnh bần cùng. Cấp tốc đem Hài Nhi và Mẹ Maria chạy trốn, lánh nạn sang Ai Cập, khỏi bàn tay khát máu của Hêrôđê. Rồi lại khăn gói quả mướp tái định cư về Nazaret, khi nhà vua đã băng hà. Ngài luôn lắng nghe và vâng theo hướng dẫn của sứ thần đường đi nẻo bước, để tận tụy, nâng niu chăm sóc và bảo vệ Thánh Gia.
Ngoài bổn phận hằng ngày, tôi còn nhận được bao dấu chỉ Thánh Ý Chúa qua sự kiện, tin tức, xã hội, nhất là qua Lời Chúa. Nhưng tôi lại hay bịt tai, nhắm mắt, đóng kín cả tâm hồn, hoặc u mê, mải miết bươn chải mưu sinh, hay hưởng lạc bê tha, làm sao tôi nghe thấy, nhìn thấy, tìm và hiểu được Thánh Ý Chúa trong cuộc sống?
Hơn nữa, tôi có can đảm “Xin Vâng,“ hay lặng lẽ, âm thầm từ chối sứ vụ khó khăn, vất vả, cay cực, đau khổ như Thánh Gia đã trung kiên đón nhận.
“Vâng lời trọng hơn của lễ,” vì của lễ là hoa quả, hương trầm, súc vật, tiền bạc,…Khi vâng lời, con lấy chính mình con làm của lễ, giết chết ý riêng con, tự ái của con làm của lễ toàn thiêu. (Đường Hy Vọng, số 406)
Lạy Chúa, xin Chúa ban cho chúng con Niềm Tin vững vàng, dạy chúng con cầu nguyện sốt sắng, luôn sống mật thiết với Chúa, để có thể lắng nghe tiếng gọi tình yêu của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin luôn giúp đỡ, nhắc nhủ, khuyến khích chúng con thưa lời “Xin Vâng” trước tất cả biến cố Chúa gửi đến trong đời, để lãnh nhận hồng phước ngay đời này lẫn đời sau. Amen.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Giáo hội mời chúng ta nhìn vai trò của Đức Mẹ và thánh Giuse trong giai đoạn đầu của việc Thiên Chúa đến trong trần gian. Chúng ta nhìn thấy những sự kiện sau đây:
Thứ nhất: Maria thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần.
Thứ hai: Giuse không hiểu, định tâm bỏ Maria, không rước Maria về nhà.
Thứ ba: sự can thiệp của thiên thần Chúa.
Thứ bốn: Giuse vâng phục.
Thánh Giuse và Mẹ Maria đã gặp những hoàn cảnh như nhau: họ đã chạm trán với mầu nhiệm của Thiên Chúa, chạm trán với những biến cố bất ngờ mà không thể giải thích theo sự khôn ngoan của loài người.
Maria đã được thiên thần báo cho biết nàng sẽ thụ thai và sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Thoạt đầu Maria không hiểu và không biết phải làm thế nào, nhưng sau khi đã hiểu, nàng vâng phục. Mặc dù đã nói tiếng “xin vâng”, nhưng Maria không thể nào hiểu được tương lai sẽ như thế nào. Nàng chỉ tin vào Chúa và phó thác.
Giuse cũng thế. Chàng cưới Maria đúng theo thủ tục thời bấy giờ. Chàng yêu Maria thành thật. Nhưng đau khổ cho Giuse biết bao khi gần đến ngày cưới, chàng đã khám phá ra rằng người con gái chàng quí yêu và kính phục đã mang thai mà không do chàng. Đau khổ và tức tối. Làm gì bây giờ? Tố cáo nàng để nàng bị đem ra ném đá? Chàng không thể làm như thế. Thánh Matthêu ghi lại: “Giuse là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo”.
Người công chính theo nghĩa Do Thái là một người đạo đức chân chính. Chàng âm thầm đau khổ và âm thầm bỏ xứ. Nhưng trong một giấc mơ, thiên thần Chúa đã đến giải thích cho chàng biết, Maria thụ thai không do con người mà do quyền phép Chúa Thánh Thần. Thiên thần cũng giao sứ mệnh cho ông: “Hãy rước Maria về nhà và sau này đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì đó là Con Đấng Tối Cao”. Giuse vâng phục. Trong giây phút ấy, Maria đã trở thành thần tượng trước mắt chàng.
Cả hai đấng Maria và Giuse đã chạm trán với mầu nhiệm, với Đấng Quyền Năng. Họ phải vượt qua những khó khăn đau khổ, và sau cùng tìm thấy bình an trong vâng phục. Cả hai đấng đã trở nên dụng cụ tuyệt hảo của ơn cứu chuộc. Nhờ sự vâng phục tuyệt hảo và khiêm tốn của hai đấng, Chúa đã làm “những điều kỳ diệu” cho nhân loại.
Trong cuộc sống, bao nhiêu lần chúng ta cũng chạm trán với mầu nhiệm, mầu nhiệm đau khổ, mầu nhiệm của sự ác, những thất bại, những oan ức mà không thể hiểu, chúng ta như thế nào? Chúng ta lồng lộn, đổ lỗi cho Chúa và dẫy dụa trong những câu hỏi “tại sao”. Đôi khi lại thất vọng. Chúng ta quên rằng, chúng ta đã chạm vào bàn tay của Đấng Vô Hình. Ngài cho chúng ta đi ngang qua những thử thách cam go như thế để hướng chúng ta về những gì cao cả hơn là những chuyện vặt vãnh của cuộc sống này. Chúng ta đủ nhẫn nại và thành tâm tìm hiểu ý Chúa không? Nếu chúng ta không có câu trả lời, hãy đến với Chúa Giêsu. Một vài phút im lặng với Chúa sẽ giúp chúng ta bình yên. Đừng sợ, đừng nóng lòng. Chúa có thì giờ để giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, Ngài đến để cứu vớt chứ không để sát phạt. Nhiều lúc Chúa để chúng ta chờ đợi lâu ngày mới cho chúng ta hiểu Chúa muốn gì. Chúng ta cần hiểu rằng mỗi biến cố xảy ra trong đời sống chúng ta là một tiếng nói của Chúa. Chúng ta hãy vững tin và phó thác như Mẹ Maria và thánh Giuse. Các ngài cũng như chúng ta thôi, nhưng các ngài đã vâng phục trọn hảo. Vâng phục và tin tưởng chính là lối đi chúng ta phải theo, và chính Chúa sẽ nâng đỡ.
Khi chúng ta không hiểu, hãy cứ tin vì chúng ta biết chắc rằng Chúa luôn có mặt trong cuộc sống và “một sợi tóc trên đầu chúng ta, Ngài đã đếm rồi”.
Chúa xem như vẫn cần đến chúng ta. Đó là điều mà chúng ta không thể hiểu hay không bao giờ nghĩ đến: “Chúa cần đến tôi sao? Chúa phép tắc vô cùng, Ngài cần gì đến tôi? Tôi chỉ là một người nhỏ bé hèn mọn…” Bao nhiêu lý do để từ chối, để thối thoát. Chúng ta cần biết rằng, Chúa cần đến mỗi người chúng ta như đã cần đến Maria và Giuse. Trước mặt Chúa, chúng ta, linh mục hay giáo dân, mọi người đều có giá trị. Đối với xã hội văn minh vật chất hôm nay, con người chỉ là con số, nhưng trước mặt Chúa, chúng ta là con với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Chúng ta vẫn là những người nhỏ bé, tội lỗi, nhưng càng nhỏ bé, càng dốt nát, chúng ta càng hữu hiệu trong tay Chúa. Maria đã sống nhỏ hèn và khiêm tốn. Giuse đã im lặng trong sự hèn hạ của mình. Chúa đã dùng hai đấng mang ơn cứu chuộc cho con người.
Trong lịch sử dân Chúa, Chúa đã chọn những người hèn kém nhất. Môsê chỉ là một người chăn chiên và ngọng nghịu. Đavít là một chàng chăn chiên và quê mùa. Các tông đồ là những người chài lưới dốt nát… Với những người như thế, Chúa đã làm những công việc vĩ đại, vì chính Ngài dùng họ chứ không chỉ do tài sức của bọ đâu! Chính Ngài đã nói: “Lạy Cha, con chúc tụng Cha vì đã không mạc khải (Nước Trời) cho những người khôn ngoan, mà chỉ cho những người hèn mọn”.
Mỗi người chúng ta đều chịu trách nhiệm về Nước Trời trong trần gian này. Mỗi người chúng ta phải mang Chúa trong lòng như Đức Mẹ, nuôi dưỡng Ngài như thánh Giuse và nhờ đó Chúa Giêsu sẽ lớn lên trong thế giới và Nước Cha sẽ đến và ở giữa chúng ta như Chúa Giêsu là Emmanuen nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Chúng ta nại lý do hèn kém nhỏ nhoi để khoanh tay ngồi chờ, không làm gì cho Nước Chúa, như thế Nước Cha trị đến thế nào được?
Nếu mỗi người Công giáo đều trở nên một bàn tay xây dựng Nước Chúa thì thế gian đã không đến nỗi tệ như hôm nay. Chúng ta không có quyền ngồi yên nhìn các linh hồn hư mất, nhìn ma quỉ toàn thắng trong khắp các lãnh vực, nhìn Thiên Chúa bị loại trừ ra khỏi xã hội loài người…
Phải làm gì?
Nếu chúng ta chú tâm và nhiệt thành, Chúa sẽ chỉ cho chúng ta biết phải làm gì.
Chúng ta hèn kém chăng? Hãy đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ đến nơi bàn thờ này như đã đến trong máng cỏ Bêlem xưa. Ngài đang kêu mời chúng ta vào cuộc hiến tế với Ngài, dâng hiến tất cả cuộc đời lao nhọc vui buồn của chúng ta cho Ngài, cùng với Ngài cứu vớt các linh hồn. Ngài muốn chúng ta ăn lấy Ngài là để sống với chúng ta, yêu thương chúng ta, và cùng với chúng ta cứu vớt anh em chúng ta. Hãy chấp nhận vâng phục như Mẹ Maria và thánh Giuse, cuộc sống chúng ta sẽ trở thành nguồn phúc cho chúng ta và mọi người. Chúng ta nhỏ bé thật nhưng không phải chúng ta làm được gì mà chính Chúa sẽ hoạt động qua sự nhỏ hèn của chúng ta. Chỉ cần thiện chí và tin cậy.
Tiên tri Isaia, thánh Gioan tẩy giả, Mẹ Maria và thánh Giuse là những người có một vai trò quan trọng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Nhưng nếu ông Isaia là vị tiên tri hùng hồn nhất của mùa vọng, nếu ông Gioan là vị tiền hô anh dũng nhất của mùa vọng, nếu Đức Maria là một thiếu nữ có lòng tin vững chắc và mạo hiểm nhất của mùa vọng thì thánh Giuse lại là một thanh niên thầm lặng nhất của mùa vọng. Người bạn gái của thánh Giuse đã quả cảm thưa lên lời Xin Vâng khi nhận ra thánh ý của Thiên Chúa. Thánh Giuse, dù không thưa lời nào, nhưng đã thi hành triệt để và tức khắc những điều Chúa truyền, dù những lệnh truyền ấy chỉ được ban trong giấc mơ, dù những lệnh truyền ấy trái ngược với những tính toán của người. Người đã cúi đầu vâng phục, không một lời căn vặn, không thắc mắc, không đặt điều kiện. Người hoàn toàn chấp nhận ý Chúa, chấp nhận cả những hệ lụy đắng cay mà ý Chúa đem lại.
. Người chấp nhận đón cô bạn Maria về nhà làm bạn mình, dù người đang định tâm lìa bỏ cô bạn ấy một cách kín đáo.
. Người đã chấp nhận rời bỏ quê hương ra đi lánh nạn để bảo vệ Hài nhi con của cô bạn Maria.
. Rồi cũng vì Hài nhi ấy, người lại lặn lội đường xa vạn dặm để đưa cô bạn và Hài nhi trở về quê hương…
Biết bao là nhọc nhằn. Biết bao nhiêu truân chuyên mà anh gia trưởng trẻ này phải chịu đựng để thánh ý Chúa được nên tròn và để kế hoạch của Thiên Chúa được thực hiện như lời Tin mừng đã viết:”Tất cả những sự việc này đã xảy ra là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa đã phán qua miệng ngôn sứ”.
Thiên Chúa vẫn luôn bày tỏ thánh ý Người qua những biến cố trong đời sống của chúng ta. Và thánh ý đó nhiều khi cũng phá vỡ những dự tính, những chương trình của chúng ta để đưa chúng ta vào kế hoạch của Người, kế hoạch mà chẳng ai hiểu được nó sẽ dẫn mình đi đến đâu. Muốn đón nhận thánh ý và kế hoạch của Thiên Chúa, đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ ý riêng mình, phải vượt qua những tính toán nhân loại của mình để bước vào một tương lai mà chúng ta chẳng biết sẽ ra sao. Cũng có những lúc chúng ta nghĩ rằng mình sẵn sàng đón nhận ý Chúa, nhưng khi Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta qua những biến cố mang hình thức của một tai ương thì chúng ta lại tìm cách né tránh.
Thánh Giuse không khi nào phản ứng như chúng ta. Người đã chấp nhận để cho Thiên Chúa đảo lộn kế hoạch của người và người sẵn sàng buông mình theo sự dẫn dắt của Thiên Chúa. Chính như thế đó mà người trở thành một gương sáng cho chúng ta. Thái độ tín thác và vâng phục của người cũng giúp chúng ta chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng sinh một cách có ý nghĩa hơn. Chúng ta không chỉ vui mừng vì con Thiên Chúa giáng sinh làm người và ở giữa chúng ta. Nhưng chúng ta cũng cần phải vui mừng vì chính con Thiên Chúa đã và đang can thiệp vào cuộc đời của từng người. Người ngỏ lời và mời gọi mỗi người qua từng biến cố của đời sống dù đó là biến cố vui mừng hay đó là một tai họa đè bẹp cuộc đời ta.
Quả thực, chúng ta rất dễ dàng thưa xin vâng trước thánh ý Thiên Chúa, nếu như thánh ý đó mang lại lợi lộc và niềm vui cho chúng ta. Trái lại, quả là điều khó khi phải chấp nhận thánh ý Thiên Chúa, nếu thánh ý đó gây ra những phiền lụy và thua thiệt cho cuộc đời. Nhưng nếu vâng phục ý Chúa mà đòi phải được vinh quang và lợi lộc thì đó không phải là sự vâng phục chân thành.
Qua phần chia sẻ hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thánh cả Giuse.
Trước hết thánh cả là người tin tưởng nơi cha mẹ và truyền thống. Tin mừng giúp chúng ta hiểu sự liên hệ giữa thánh Giuse và Đức Maria trước khi Chúa Giêsu sinh ra. Theo phong tục Do Thái, đám cưới gồm ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là sự cam kết. Sự cam kết được thực hiện bởi cha mẹ hai bên hay bởi ông bà mai mối. Thường thường cả hai người bạn trẻ đã không biết nhau trước khi cam kết. Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Thời gian này kéo dài cả năm để cho đôi trai gái có cơ hội quen biết nhau. Sau khi hứa hôn họ được coi như vợ chồng, mặc dù không được sống chung với nhau. Nhưng nếu không muốn tiến tới hôn nhân nữa, họ phải xin ly dị. Giai đoạn thứ ba là đám cưới: xảy ra vào cuối năm của giai đoạn hứa hôn. Chính trong giai đoạn thứ hai của đám cưới Do Thái, Giuse biết Maria đã có thai như bài Phúc âm hôm nay tường thuật.
Tiếp đến, thánh cả Giuse là người tin tưởng bạn mình, Maria. Trong thời gian hứa hôn, nếu người vợ ngoại tình và bị tố cáo, sẽ bị xử tội “ném đá”. Sự kiện Maria đã có thai làm Giuse phải đau khổ, bối rối, nghi ngờ và khó xử lắm! Nhưng với tình yêu, sự khoan dung và lòng nhân từ Giuse “không muốn tố giác bà”, nhưng chỉ “định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Trong hoàn cảnh khó khăn này, chính tình yêu đã hòa giải sự đối nghịch giữa luật lệ và con người để khám phá ra sự quan phòng của Thiên Chúa. Tình yêu đã dẫn tới niềm tin.
Maria đã xác tín rằng, mặc dù nàng đồng trinh, nàng “đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần” như lời thiên thần đã loan báo. Khi được sứ thần báo trong giấc mơ phù hợp với điều bạn mình đã nói, Giuse liền tin tưởng vào tấm lòng thành thật của Maria và “nhận Maria về nhà làm vợ mình”. Họ đã thành thật tin tưởng nhau.
Một trong những điều sợ hãi và kinh khủng nhất của con người là phải sống trong nghi ngờ và đố kỵ. Đó là hỏa ngục trần gian. Và một trong những khó khăn nhất của cuộc sống ở mọi thời đại là sự tin tưởng lẫn nhau.
Sau cùng, thánh cả Giuse là người tin tưởng nơi Thiên Chúa. Người Do Thái quan niệm Chúa Thánh Thần là người mang sự thật đến cho con người. Chúa Thánh Thần đã dạy cho các tiên tri trong Cựu Ước phải nói gì và làm gì. Và cũng chính Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn con người nhìn nhận ra sự thật khi gặp thấy. Bởi Giuse là người công chính, nên đã được Chúa Thánh Thần mang sự thật đến. Ông đã nhận ra sự thật và tin tưởng vào sự thật được mạc khải đó, cho dù cách thức mạc khải chỉ là trong giấc mơ.
Một câu ngạn ngữ của người Nigeria nói rằng, “Hãy lắng nghe, và bạn sẽ nghe được những bước chân của các con kiến”. Chúng ta cũng được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa đến trong cuộc đời qua những cách thức không ngờ tới. Chính ở nơi Chúa Thánh Thần, chúng ta đón nhận được sự thật: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu”.
Chúng ta ca tụng thánh Giuse là “Đấng công chính” đã nêu cao tấm gương nhân từ, thánh thiện và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, Giuse là tôi tớ trung tín. Vì thế trong kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa, ngài được chọn làm bạn của Đức Trinh Nữ Maria, và dưới dòng họ của ngài, Con Thiên Chúa đã làm người thuộc dòng tộc Đavid, đã âu yếm gọi ngài là “Cha”.
Với lòng nhân hậu, thánh Giuse luôn phù trợ cho các con cái của ngài như thánh Têrêsa Avila đã nói với chúng ta: “Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý. Dường như Thiên Chúa ban ơn cho các thánh giúp ta việc này việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp. Tôi lấy danh Chúa mà xin những ai không tin lời tôi hãy thử mà xem”.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta quả là một niềm mơ ước bất tận của con người có niềm tin vào Thiên Chúa. Trong cuộc sống, nhất là trong cử hành Phụng Vụ Thánh Thể, không biết bao lần ta chúc nhau đuợc Thiên Chúa ở cùng: “Chúa ở cùng anh chị em – Và ở cùng cha”. Xin được chia sẻ đôi nét về sự biểu hiện của tình trạng được có Thiên Chúa ở cùng và một vài điều kiện để được Thiên Chúa ở cùng.
Dựa trên lời chào chúc của sứ thần Gabriel với mẹ Maria ta có thể chắc chắn rằng Mẹ chính là người được Chúa ở cùng. Tình trạng được Chúa ở cùng này được trình bày như là tình trạng “đầy ân sủng”. Một tâm hồn đầy ân sủng Chúa là tâm hồn được “rợp bóng” Thánh Thần, là Tình Yêu bản vị giữa Chúa Cha và Chúa Con, một Tình yêu hoàn toàn “hướng tha”. Chính vì thế người đầy ân sủng luôn lấy lợi ích của tha nhân làm mục đích của lẽ sống, của mọi hành vi của mình.
Tương tự một số nam nhân thời bấy giờ, chẳng hạn nhóm “tu trì” ở Qumrân, khi tự nguyện sống đời trinh khiết, Mẹ Maria đã tự nguyện hiến dâng đời mình, tự nguyện hy sinh hạnh phúc cá nhân để góp phần cầu mong Đấng Thiên Sai mau đến. Sự cao cả của tấm lòng vị tha của Mẹ hiện rõ qua việc Mẹ tự nguyện chọn lấy tình cảnh như bị Thiên Chúa chúc dữ trước mặt người đời. Người Do Thái xưa và thời bấy giờ vẫn xem những phụ nữ không sinh con là đồ bị chúc dữ. Đã đính hôn với thánh Giuse, nghĩa là vẫn lập gia đình, thế mà Mẹ tự nguyện sẽ không có con thì quả là một quyết định anh dũng trong tình yêu vị tha. Không sinh con trong đời độc thân tự hiến đã là một hành vi cao cả, còn lập gia đình mà quyết định sẽ không có con thì có thể nói rằng đó là trường hợp ngoại thường. Căn cứ vào quy định của Giáo Luật về hôn nhân Công giáo thì đây là trường hợp kết hôn không thành sự vì loại bỏ một trong hai mục đích của hôn nhân.
Khi Sứ Thần truyền tin cho Mẹ rằng Mẹ sẽ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh một con trai thì tiếng thưa “xin vâng” của Mẹ bày tỏ rõ nét tâm hồn tràn đầy tình yêu vị tha cách hoàn hảo. Các nhà chú giải Thánh kinh cho ta hay nội hàm của hai từ xin vâng không phải là thái độ thụ động mà ngược lại đó chính là tâm tình tích cực trong hân hoan. Vì tha nhân, vì hạnh phúc của nhân loại, Mẹ Maria đã chọn con đường Thiên Chúa vạch ra. Rất có thể bị Giuse hiểu lầm, rất có thể chuốc lấy nhuốc nhơ cho danh giá giá của mình và số phận Mẹ có thể bị kết liễu dưới những viên đá vô tâm vô tình theo luật pháp thời bấy giờ. Mẹ hân hoan đón nhận tất cả chỉ vì hạnh phúc của đồng loại. Đúng là một trái tim tràn đầy ân sủng Chúa.
Đón nhận nhau là một trong những nghĩa cử yêu thương. Đã yêu thì không chỉ đón nhận những gì dễ yêu, những gì đáng thương hay thích hợp với mình mà còn đón nhận cả những gì khó yêu, những điều mình chẳng muốn. “Thương cả đuờng đi” thì mới là thương yêu thật sự. Đón nhận cả những gì mà lòng mình không mong và nhiều khi chưa hiểu rõ thì mới là tình yêu không tính toán, không tham vọng cách ích kỷ.
Dù chỉ được Sứ Thần tỏ bày qua một giấc mơ thế mà Giuse đã mau mắn “tiếp nhận bạn mình”. Động thái tiếp nhận nhau như là bạn hữu đòi hỏi ta từ bỏ mình và tự hủy mình một cách nào đó. Khi đón nhận các môn đồ thành bạn hữu của mình Đức Kitô đã từ bỏ tước vị là Thầy, đã tự hủy thân phận là Chúa của mình (x.Ga 13). Khi đón nhận Maria và Con trẻ trong dạ về nhà, Giuse đã tự nguyện từ bỏ vị thế làm cha của Ngài. Nét cao cả của Giuse còn thể hiện qua việc Ngài đón nhận cả sự hiểu lầm của họ hàng, dòng tộc, xóm giềng khi họ nghĩ rằng Ngài chính cha ruột của con trẻ.
Việc thánh Giuse đón nhận Maria về nhà làm bạn cũng chính là việc Ngài đón nhận chương trình của Thiên Chúa. Dĩ nhiên đây là chương trình ngoài dự kiến, ngoài ý định của Ngài. Tin mừng tường thuật “khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Sứ Thần truyền” (Mt 1,24). Sự mau mắn, không đắn đo này nói lên thái độ tin tưởng trong an bình của chính Ngài. Đón nhận tha nhân với toàn bộ hiện trạng tha nhân đang có, đang là trong sự tin tưởng và an bình đó là một trong những điều kiện tuyệt hảo để được Thiên Chúa ở cùng.
Theo Thánh kinh, việc đặt tên có ý nghĩa rất quan trọng. Tên là người và tên cũng là sứ mạng. Vì thế người đặt tên là người có trách vụ hướng dẫn, đào tạo. Khi dẫn các con vật đến với Ađam để Ađam đặt tên cho chúng, Thiên Chúa đã trao phó trách nhiệm cai quản, huớng dẫn muôn loài cho con người (x.St 2,19). Khi đặt tên cho Abram thành Abraham, Thiên Chúa đã huấn luyện một người bán du mục cao niên, son sẻ đang chăn nuôi súc vật trong tư thế tìm sự bảo đảm, an toàn thành một người cha của đoàn lũ con cái đông đúc trong niềm tin phó thác (x.St 17,5). Khi đặt tên cho Giacop thành Israel, Thiên Chúa cũng đã huấn luyện một người láu cá “hất cẳng anh” thành một người đã “gặp gỡ, chiến đấu với Thiên Chúa” và dĩ nhiên sau đó tuân phục Thiên Chúa (x.St 32,23-30)
Thánh Giuse đã dùng gương sáng, lời nói, hành vi của mình để dạy dỗ, hướng dẫn con trẻ thành một Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế. Quả thật các áng văn Tin Mừng minh chứng cho ta thấy nhân cách và lối hành xử của Chúa Giêsu mang đượm dấu ấn của thánh Giuse. “Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng vậy” (x.Ga 5,17). “Lương thực của Ta là làm theo thánh ý Cha Ta trên trời” (x.Ga 4,34). “Ta không làm điều gì mà không nhìn việc Cha Ta làm” (x.Ga 5,19). Các thái độ, hành vi, cung cách ứng xử của Đấng Cứu Thế chắc hẳn có sự góp phần không nhỏ của thánh Giuse, đặc biệt trong thời thơ ấu và ẩn dật của Người.
Có Emmanuel, có Thiên Chúa ở cùng chúng ta chính là hạnh phúc đích thật. Dù rằng ở trần gian này hạnh phúc ấy chưa vĩnh viễn nhưng nó có thể là hoàn toàn một đôi lúc nào đó. Và những thời điểm có được hạnh phúc này chính là bảo chứng cho hạnh phúc đích thực cách hoàn hảo vĩnh viễn mai sau. Hạnh phúc ấy chính là tình trạng khi ta hết lòng vì lợi ích của tha nhân trong sự quên mình. Để có được điều này tiên vàn hãy biết tiếp nhận nhau với toàn vẹn con người của nhau, cả nhưng ưu điểm lẫn những hạn chế, cả những sự tốt lành lẫn những điều tồi tệ. Và đồng thời cần nỗ lực giáo dục dệt xây cho đời những Giêsu. Trước tòa án phong thánh cho Cha Gioan Maria Vianey, một cụ già đã thề trên Thánh Kinh rằng: “Con đã nhìn thấy Thiên Chúa nơi một con người”. Mong sao không phải đợi đến những dịp phong thánh mà ngay trong cuộc sống thường nhật người ta, bà con tín hữu lẫn anh em lương dân hay khác đạo có thể thốt lên rằng: “Thiên Chúa đang ở cùng chúng ta”.
Người ta thường nói “nhập gia tuỳ tục”, nghĩa là khi một vị khách vào nhà của ai đó thì người khách đó phải làm theo những lề thói mà gia chủ đang có, chứ không khi nào đòi hỏi người chủ phải làm theo ý mình. Điều đó nói lên thái độ lịch sự và tôn trọng của người khách đối với chủ nhà. Đó cũng là điều thường tình mà con người vẫn đã và đang làm trong cuộc sống.
Có một người bước vào căn nhà cuộc đời của Đức Maria,Thánh Giuse và tất cả chúng ta nhưng lại không làm theo những gì chúng ta đã sắp xếp, mà lại làm “xáo trộn” mọi sự của chúng ta. Người đó chính là Thiên Chúa.
Thiên Chúa bước vào cuộc đời của ai thì Ngài không để yên những gì con người đã định liệu sẵn. Ngài không muốn để cho con người “bình yên”, một thứ bình yên của xác chết, của nghĩa trang lạnh lùng và đầy dẫy xác chết. Ngài đổi mới mọi sự. Vì thế, có rất nhiều người sợ Thiên Chúa bước vào cuộc đời của mình lắm. Nói điều này xem ra có vẻ nghịch lý, nhưng thực tế là như thế đó. Chúng ta còn nhớ câu chuyện Chúa Giêsu chữa một người bị quỷ ám, sống ở mồ mả và rất hung hung dữ. Kết quả là Ngài để cho “bầy quỷ” xuất khỏi người ấy và cho phép chúng nhập vào một đàn heo khoảng 2000 con, lao xuống biển chết hết. Dân chúng trong làng run sợ và thán phục trước phép lạ lớn lao ấy, nhưng họ lại nài xin Ngài rời khỏi họ. Nhự vậy là rõ ràng họ sợ Chúa đến với họ rồi. Họ chỉ thấy sự hiện diện của Chúa là quấy rối cuộc sống bình thường của họ, làm họ thua thiệt. Hay chúng ta còn nhớ câu chuyện các tông đồ chèo thuyền đi trên biển, gặp sóng to bão lớn. Vậy mà họ không sợ. Nhưng khi Chúa hiện ra, đi trên mặt biển mà đến với họ thì họ hoảng sợ. Hay câu chuyện Chúa Giêsu vào Đền Thờ Giêrusalem, Ngài đánh đuổi các người buôn bán ra khỏi đền thờ, lật tung bàn ghế của những người đổi tiền . . . Cho nên, chúng ta thường là sợ Chúa đến với mình lắm, nếu chúng ta không chuẩn bị một tâm thế đón nhận và có một đức tin vững vàng vào tình thương của Thiên Chúa.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ ý tưởng mà chúng ta vừa nói ở trên. Chúa bước vào cuộc đời của Đức Maria và thánh Giuse và Ngài làm thay đổi hết những dự tính của các ngài. Chúa dắt các ngài bước đi theo một con đường hoàn toàn mới mẻ và xa lạ, nằm ngoài những dự tính ban đầu của các ngài. Có thể nói, Chúa đã làm xáo trộn kế hoạch vốn cũng rất tốt đẹp và thánh thiện nơi cuộc đời của Đức Maria và thánh Giuse.
Đọc Tin mừng, chúng ta thấy rõ là Đức Maria đã đính hôn với Giuse. Một kế hoạch xem ra rất bình an và hạnh phúc đối với những con người bình thường sống trong xã hội rồi. Nhưng rồi Thiên Chúa “không để yên” cho các ngài. Chúa giao cho các ngài một sứ mạng xem ra kỳ cục và nghịch lý lắm; xem ra Chúa muốn phá vỡ hạnh phúc của các ngài. Nhưng đó là cách thức Chúa hành động trên những kẻ Ngài yêu thương cách riêng.
Dù Chúa làm chủ cuộc đời của chúng ta, có có quyền bước vào căn nhà cuộc đời của chúng ta và hành động cách “nhập gia không tuỳ tục”, nhưng Chúa vẫn chờ đợi thái độ đáp trả của con người vốn chỉ là những người quản lý cuộc đời của mình trong tự do và trách nhiệm mà Thiên Chúa ban cho mà thôi. Một tiếng “xin vâng” tự nguyện của Đức Maria, một thái độ sẵn sàng của thánh Giuse đã làm cho chương trình của Thiên Chúa được thực hiện cách trọn vẹn và tốt đẹp. Có được thái độ đó là nhờ các ngài hết lòng tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa của mình, không chút nghi ngờ hay tính toán hơn thua. Các ngài đã để cho Thiên Chúa tự do hành động trên cuộc đời của mình, dù có những lúc các ngài cảm thấy mình đang bước đi trên những nẻo đường không chút hy vọng và khó hiểu nhìn theo phương diện con người. Dù các ngài là những con người được Chúa chọn cách riêng để làm theo chương trình của Chúa, nhưng các ngài đã chấp nhận biết bao khổ cực và cay đắng, chịu đựng biết bao những hy sinh và mất mát. Và nhờ thái độ tin tưởng và phó thác đến cùng đã làm cho các ngài trở thành những con người được “muôn đời ca tụng”.
Thiên Chúa không thể chịu thua con người về sự quảng đại và lòng thương xót. Những ai không hoài nghi vào tình thương của Ngài thì chắc chắn sẽ đạt được hạnh phúc viên mãn và tròn đầy cách tuyệt đối.
Chúa đã đến và đang đến với mỗi người chúng ta. Chúa đang bước vào cuộc đời của mỗi người chúng ta, nhưng chúng ta có đón tiếp Chúa không hay chúng ta muốn tự mình lãnh đạo cuộc đời của mình vì sợ Chúa đến “quấy rối” chương trình của mình, hoặc chúng ta nghi ngờ lòng thương xót của Chúa, sợ Chúa dẫn mình đi trên con đường xem ra không giống ai. Chúa nói: “Ta đứng ngoài của và gõ, ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy và dùng bữa với người ấy” (Kh 3, 12).
Chúng ta nên biết là, nếu chúng ta tự định liệu số phận cho mình thì cuộc đời của chúng ta sẽ là những con người đáng thương nhất trên hành tinh này. Bởi lẽ, chúng ta có khó nhọc, có tất bật chạy ngược, chạy xuôi thì cũng hoài công vô ích mà thôi, vì chúng ta đang xây dựng đời mình trên cát và thiếu viên đá gốc tường. Lời của Thánh Vịnh đã nói: “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công”. Hãy để Chúa giúp ta xây dựng cuộc đời của chúng ta, và chúng ta hãy tích cực cộng tác với Chúa và ngoan ngoãn bước theo Chúa, làm theo những gì Chúa đang thiết kế cho đời ta. Đó là thái độ của những con người khôn ngoan và đó cũng chính là thái độ của Đức Maria và Thánh Giuse ngày xưa, nhờ thái độ đó mà Thiên Chúa đã làm cho các ngài thành những con người diễm phúc muôn đời trên thiên quốc.
Trong Thánh Lễ sáng Chúa Nhật, vị linh mục bước lên tòa giảng và đọc một đoạn trong sách Cựu Ước. Cuốn sách này đã cũ kỹ, nhưng được cha dùng keo để gián lại. Vì vô tình khi dùng keo để dán, cha đã để lại một chút keo ở trang đàng sau, và như thế khi cha lật từ trang cha đang đọc sang trang sau, nó dính vô trang kế tiếp đó, bởi thế nên cha đã đọc đoạn sách thánh đó như sau: “Vậy khi loài người bắt đầu thêm đông trên mặt đất, và sinh ra những con gái, thì các con trai Thiên Chúa thấy con gái loài người xinh đẹp; những cô họ ưng ý thì họ lấy làm vợ… (chỗ này nhà giảng thuyết lật trang sau để đọc tiếp thì) chiều dài một trăm năm mươi thước, chiều rộng hai mươi lăm thước, chiều cao mười lăm thước…” (Gn 6:1-2,15). Sau một phút bối rối, nhà vị linh mục nói: “Tôi xin cáo lỗi cùng Quí Vị. Tuy nhiên, theo một khía cạnh, tôi thấy rằng đoạn Thánh Kinh trên diễn tả vẻ tuyệt diệu về con người chúng ta đã được Chúa tạo dựng.”
Mỗi một người là một món quà đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng và tình yêu vô hạn. Ngài không chỉ ban cho chúng ta món quà sự sống nhưng còn ban tặng chúng ta sự toàn năng và tình yêu vô hạn của Ngài để giúp chúng ta có một cuộc sống sung mãn. Đó là điểm mà đạo Công Giáo của chúng ta bắt nguồn. Căn bản của đạo chúng ta không phải là điều chúng ta có thể làm cho Chúa, nhưng là Thiên Chúa làm gì cho chúng ta.
Đó là tất cả ý nghĩa của Kitô giáo. Đó là Tin Mừng của đức tin chúng ta. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã sinh ra tại hang Bêlem. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã được nuôi dưỡng trong gia đình thợ mộc nghèo khổ. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đi từ làng này sang làng khác rao giảng về sự siêu việt của Nước Chúa, chữa lành, và bài trừ những người giả hình của phái Pharisiêu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã kiên nhẫn chịu đựng những khổ hình và chịu đóng đinh vào thánh giá. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã ra khỏi mồ và phán: “Bình an cho các con.” Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã thổi Thánh Thần vào thế giới qua các môn đệ đầu tiên của Ngài. Chúa Giêsu đã sống, đã chết, và đã sống lại để làm tất cả mọi sự đổi mới bằng ngọn lửa thanh tẩy của tình yêu Thiên Chúa. Sứ mệnh của Chúa Giêsu là chỉ cho chúng ta con đường biết hàng phục một cách vô điều kiện với sự mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa.
Đối với tình yêu bao la của Chúa, chúng ta chỉ có thể đón nhận, chứ không phải là kiếm được. Đó là món quà của Chúa ban cho một cách nhưng không mà không bao giờ chấm dứt; trước sau như một, bền bỉ, mãi mãi. Chúng ta không thể nào dứt bỏ được. Chúng ta không thể nào làm cho Chúa ngừng yêu thương chúng ta. Chúng ta không thể nào làm cho tình yêu ấy nhạt đi, biến mất, hoặc bắt buộc nó phải đi chỗ khác. Tình yêu ấy không câu nệ gì đến việc chúng ta là ai, đang ở đâu, và là cái gì. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, cho dù chúng ta có là cái gì đi chăng nữa. Câu hỏi được đặt ra là “Ngay trong giây phút này, các bạn có trong sạch như Thánh Gioan Tông Đồ hoặc Maria Mađalêna không? Các bạn có sẵn sàng để đón nhận món quà của lòng từ bi vô biên của Chúa ở tận thâm tâm của các bạn chưa? Các bạn có sẵn sàng để chấp nhận sự thật đó như là một điều khẩn thiết cho cuộc lữ hành tiến tới sự sung mãn chưa?”
Không có một tội nào ngăn cản Thiên Chúa không ban cho các bạn bất cứ điều gì, cả những điều các bạn không tưởng tượng nổi. Không có một phản nghịch nào có thể làm cho Thiên Chúa thất vọng với các bạn. Không có một buồn phiền nào có thể ngăn cản Thiên Chúa không tiếp tục dẫn dắt các bạn. Ngài tiếp tục, trước sau như một, để đi vào cuộc sống của bạn bằng cả ngàn cách thức. Ngài kiên cố và bền vững trong cách thế đó, từ tình yêu vô bờ cho các bạn và lòng ao ước mạnh mẽ để đem các bạn tới chỗ sung mãn.
Bài Phúc Âm hôm nay bắt đầu cuộc truyền tin mà thiên thần loan báo cho Mẹ rằng Mẹ sẽ sinh ra Đấng Cứu Thế. “Này tôi là nữ tỳ của Chúa,” Mẹ đáp, “Xin hãy thành sự nơi tôi theo như lời ngài truyền.” Chúng ta sẽ không có Lễ Giáng Sinh nếu Mẹ không mở rộng bàn tay để đón nhận món quà từ tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Sự ưng thuận của Mẹ là trung tâm điểm của Mầu Nhiệm Nhập Thể. Sau khi thiên thần từ giã, Mẹ liền vội vã đi thăm bà dì Elisabét. Như là muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của sự nhậm lời của Mẹ, bà dì Elisabét đã chào Mẹ rằng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lk 1:45).
Trong Sách ngôn sứ Isaiah, Thiên Chúa phán: “Hãy xem, Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta” (Is 49:16). Đó là hình ảnh tuyệt đẹp diễn tả thật đúng cách thức Thiên Chúa đối với chúng ta. Ngài nhìn chúng ta trên bàn tay của Ngài đã dùng để tạo dựng và ghi khắc. Chúng ta là một phần không thể tẩy xóa được trong sự sống của Thiên Chúa bởi vì chúng ta được dựng nên bằng hình ảnh của Ngài. Thánh Kinh cho chúng ta biết Thiên Chúa gần chúng ta như thế đó. Ngài không ghi khắc chúng ta ở trong bàn tay Ngài như là một phần thưởng. Chúng ta không giành được cái chỗ vinh dự như thế ở trong sự sống của Thiên Chúa. Thêm nữa, chúng ta không thể nào thay đổi được. Chúng ta có thể xa cách Ngài nhưng đối với Ngài thì luôn luôn trao ban cho chúng ta tất cả để chúng ta có thể đạt được sự sống sung mãn trong tình yêu Ngài.
Thiên Chúa mong muốn chúng ta cảm nghiệm được tình yêu vô biên của Ngài trong lúc này. Sự hưởng nếm ngọt ngào nhất về tình yêu của Thiên Chúa đến với chúng ta bằng yêu và được yêu. “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con,” Chúa Giêsu đã ra lệnh như thế.
(Suy niệm của Lm. Phanxico Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Mt 1: 18-24 EMMANUEL, Thiên Chúa đã làm người và ở cùng chúng ta. Ngài đã nói với loài người chúng ta bằng ngôn ngữ của tình yêu và Ngài muốn dạy cho mọi người nói chung một ngôn ngữ của tình yêu này.
Ngày xưa, có một chú bé Phi Châu tên là Emmanuel. Chú ta luôn tò mò thắc mắc. Ngày nọ, chú hỏi thầy giáo: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?” Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói: “Nói thực là thầy không biết”. Sau đó Emmanuel đi hỏi các nhà trí thức trong làng cũng như các vùng lân cận: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?” Nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi.
Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin chắc có người biết được điều ấy. Vì thế chú lên đường đến các quốc gia và cả những lục địa khác để tìm hỏi, nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận được câu trả lời. Một đêm nọ sau khi bị kiệt sức vì đi quá nhiều nơi, Emmanuel đến được một ngôi làng có tên là Bêlem. Chú cố tìm một chỗ nghỉ đêm trong các nhà trọ, nhưng tất cả các nơi đều không còn chổ. Vì thế chú quyết định tìm một cái hang ngoài trời để trú đêm. Cuối cùng quá nữa đêm chú mới tìm được một cái hang, nhưng khi bước vào hang, chú nhận ra đã có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: “Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng tôi đang mong chờ con”.
Chú bé quá sửng sốt: Làm sao bà này biết tên mình? Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà ấy nói: “Đã từ lâu, con đi tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây cuộc hành trình của con kể như đã đến đích. Đêm nay chính mắt con đã thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Ngài nói bằng “ngôn ngữ của tình yêu” – “Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban cho thế gian chính Con Một của Ngài” (Ga 3,16).
Trái tim Emmanuel trào dâng niềm xúc động, chú vội quì gối xuống trước Hài nhi và mừng rỡ khóc lên. Giờ đây chú đã biết rằng Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất cứ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được. Và thế là Emmanuel ở lại đó vài ngày để giúp đỡ Đức Maria và Thánh Giuse. Sau đó đến lúc chú phải chia tay để đi loan báo cho mọi người Tin Mừng về ngôn ngữ Chúa dùng: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu”.
Lủi thủi một mình, Emmanuel vừa rảo bước vừa suy nghĩ: “Nếu tôi muốn kể cho mọi người biết Thiên Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức ngôn ngữ của tình yêu. Bởi vì đó chính là thứ tiếng nói duy nhất mà mọi người trên thế giới đều hiểu được”.
Thưa anh chị em,
“Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Khi trao ban cho thế gian Con Một của Ngài, Thiên Chúa đã muốn dạy cho mọi người nói chung một thứ ngôn ngữ tức là ngôn ngữ của tình yêu. Chính vì thế mà Ngài đã mang tên gọi là EMMANUEL, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng- chúng-ta”, tên gọi được báo trước qua lời Ngôn sứ Isaia cũng như qua lời thiên sứ báo tin cho ông Giuse: “Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Ngài đến ở cùng chúng ta để làm gì, nếu không phải là để nói cho chúng ta về tình yêu vô biên của Thiên Chúa bằng cả cuộc sống yêu thương đến tột cùng của Ngài, từ lúc sinh ra trong hang đá Bêlem đến cái chết treo trên thập giá. Đó là tất cả tiếng nói của tình yêu Thiên Chúa.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nên đã làm người như chúng ta. Ngài đã đến tận nơi chúng ta sinh sống, trong nhà, trong làng mạc, trong xứ sở, trên trái đất của chúng ta, để gặp gỡ chúng ta trong chính cuộc đời của chúng ta, để chung sống, đồng hành, chia sẻ cuộc đời với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã trở thành anh em với nhân loại. Ngài đã nhập cuộc liên đới với toàn thể nhân loại để đưa cả loài người chúng ta lên với Thiên Chúa.
Hơn nữa, Ngài còn muốn làm người nghèo giữa những người nghèo khổ, bị áp bức và bỏ rơi. Ngài muốn cho ngày giáng sinh trở thành ngày trời đất giao hòa, để cho Thiên Chúa và loài người gặp gỡ yêu thương, cho hòa bình chớm nở trên trái đất. Ngài muốn cho ngày giáng sinh trở thành ngày Đấng Tối Cao xa lạ trở thành thân quen, thành bạn hữu của loài người, để kêu gọi loài người hãy nhận nhau là anh em, là bạn hữu. Ngài muốn cho ngày giáng sinh trở thành ngày Đấng giàu sang khôn sánh trở thành người nghèo khó, để cho người nghèo khó nhất cũng được trở nên ngang hàng với Con Thiên Chúa. Và như vậy để loài người biết yêu thương và tôn trọng người nghèo, như yêu thương và kính trọng chính Thiên Chúa.
Vì vậy, thưa anh chị em,
Vấn đề quan trọng không phải là ăn lễ Giáng sinh hay là mừng lễ Giáng sinh, cho dù là sốt sắng đến đâu đi nữa, mà là hiểu, sống và thực hiện bài học Giáng sinh: đó là cùng với Chúa nhập cuộc liên đới với những người anh em nghèo hèn trong nhân loại. Và một khi chúng ta biết mở rộng tâm hồn đón tiếp và yêu thương những ai bé nhỏ, khó hèn, coi họ ngang hàng với Con Một Thiên Chúa, thì khi ấy, chính tâm hồn chúng ta sẽ trở thành hang đá Bêlem, và ánh sao Noel sẽ bừng lên trong ánh mắt chúng ta.
Anh chị em thân mến,
EMMANUEL, Thiên Chúa đã làm người và ở cùng chúng ta. Ngài đã nói với loài người chúng ta bằng ngôn ngữ của tình yêu và Ngài muốn dạy cho mọi người nói chung một ngôn ngữ của tình yêu này. Ngài còn biết rằng một khi người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của tình yêu thì những điều kỳ diệu sẽ lập tức xuất hiện khắp nơi: các quốc gia sẽ chia sẻ nguồn lợi và tài nguyên cho nhau, mọi chủng tộc sẽ tôn trọng nhau, mọi gia đình sẽ hòa thuận thương yêu nhau, khắp nơi mọi người sẽ xiết chặt tay nhau trong tình thân hữu. Và như thế, “Vinh quang Thiên Chúa trên trời, hòa bình dưới thế cho loài người Chúa yêu”.
Thường thì trong suốt mùa Vọng cũng như mùa Giáng Sinh, và ngay cả trong suốt năm phụng vụ, chúng ta ít nói đến ông Giuse, “người đã đính hôn cùng Maria, là người chính trực, không muốn gây khó khăn cho Maria theo luật pháp [vì Maria đã thụ thai bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần trước khi hai ông bà về ở với nhau] nên đã quyết định âm thầm từ bỏ vị hôn thê” (Mt. 1:19-20).
Trong bài suy niệm Lời Chúa ngày lễ mừng kính Đức Maria vô nhiễm nguyên tội, chúng ta thấy ông Adong, nguyên tổ loài người, đã vấp phải “trái cấm”, thì ông Giuse cũng phải đương đầu với “trái cấm”: ông Giuse ít nhiều bị chạm tự ái vì người vợ chưa cưới mà đã mang thai, nên “tìm cách âm thầm từ bỏ Maria vì không muốn gây khó khăn cho Maria theo luật pháp”. Phản ứng trước “trái cấm” của Adong và Giuse hoàn toàn trái ngược nhau.
* Phản ứng của Adong: “… người đàn bà mà Chúa đặt để ở đây với tôi – bà ấy đã cho tôi trái cây, và tôi đã ăn.” (Kn. 3:13)
* Phản ứng của Giuse: “… Khi Giuse thức giấc, ông đã làm theo lời thiên sứ truyền bảo và đã đón nhận Maria về nhà mình làm vợ” (Mt. 1:24).
Trong cơn buồn sầu và nghi ngờ, Giuse đã không phản ứng hành động theo tính tự nhiên của con người – không vội lên án đổ lỗi cho nhau, không vội trút cơn tức giận chua cay vì tưởng rằng bị phản bội – trái lại Giuse chỉ biết LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng Chúa thì thầm chỉ bảo trong mọi hoàn cảnh.
Chúng ta không tìm được một câu nói nào của Giuse trong tất cả các sách Tin Mừng, chúng ta chỉ học biết phương thức hành động – phương thức SỐNG của Giuse trong suốt cuộc hành trình và đồng hành của Người với Maria và Giêsu ở trần gian này.
Trong cuộc sống thực tế của mỗi một người chúng ta, không ai trong chúng ta mà không gặp phải những nghịch cảnh, những “trái cấm” hầu như từng phút từng giây, từ những nghịch cảnh nhỏ nhất đến những chuyện “tày trời” tưởng như thế giới sắp sụp đổ:
+ anh/chị/em tôi “chơi gác” tôi
+ bạn bè tôi ích kỷ, khó tính
+ học trò tôi ngang ngược, lười biếng, láo xược
+ con tôi ngỗ nghịch, hỗn láo
+ người tôi yêu lừa gạt tôi, không thành thật với tôi, hình như không còn yêu thương tôi nữa
+ vợ/chồng tôi mọi ngày rất tốt, nhưng hôm nay làm sao ấy
+ đồng nghiệp của tôi “ma giáo”
+ vân vân và vân vân…
Chúng ta quên bẵng đi rằng chúng ta thường đặt căn bản cho mối nghi ngờ hay giận dữ trên một hiện tượng nhất thời nào đó, rồi phản ứng theo tính tự nhiên ngay tức khắc, mà chưa hay không muốn LẮNG NGHE tiếng thì thầm chỉ bảo của lương tâm, của chính Thánh Thần Thiên Chúa đã được ban cho mỗi một chúng ta.
Tâm tình LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng Chúa thì thầm chỉ bảo của thánh cả Giuse – và cũng là của Đức Maria và Đức Giêsu – là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống của mỗi một chúng ta. Muốn cho chính bản thân mình, cho gia đình mình được an vui hạnh phúc, thiết tưởng chỉ có một phương cách duy nhất là theo gương thánh cả Giuse, và ráp theo khuôn mẫu của thánh gia Giuse-Maria-Giêsu vậy.
Thánh Lasan xin thánh cả Giuse làm quan thầy cho Dòng, để các Frères, các thầy cô cũng như tất cả những ai được trao phó sứ mạng và nhiệm vụ giáo dục trẻ em, noi gương thánh cả Giuse yêu thương dìu dắt Đức Giêsu Hài Nhi như thế nào thì cũng yêu thương dìu dắt con em và học sinh mình như vậy. Mỗi ngày thứ tư trong tuần, cả nhà Dòng đọc kinh sau đây để tôn kính thánh cả Giuse và cầu xin Người cho chúng ta được noi theo gương Người, SỐNG như Người. Xin mời mọi người chúng ta cùng hợp tiếng với Dòng LaSan, đọc kinh này mỗi ngày thứ tư.
Lạy thánh Giuse rất trung tín, là Đấng được Chúa chọn làm cha nuôi Người, là Đấng nâng đỡ Thánh Mẫu, là người cộng tác và trung thành trong công cuộc trọng đại của Chúa.
Xin thánh cả cầu cho chúng con được ơn thi hành thánh ý Đức Chúa Cha, được âu yếm suy niệm những sự đã thực hiện nơi Đức Chúa Con, và nhờ ơn phong phú Đức Chúa Thánh Thần, chúng con giữ xác hồn thanh sạch, để xứng đáng phụng sự Chúa luôn – AMEN
Câu hỏi gợi ý:
Suy tư gợi ý:
Theo tục lệ Do Thái, để trở nên vợ chồng thực thụ, đôi nam nữ phải trải qua ba giai đoạn: (1) Hai gia đình tiếp xúc với nhau, đồng ý cho đôi nam nữ tiến tới hôn nhân. (2) Đính hôn hay hứa hôn: đôi nam nữ hứa hôn với nhau trước mặt hai gia đình, bà con, bạn bè và mọi người. Kể từ đây, đôi nam nữ được coi như vợ chồng, nhưng chưa được sống chung hoặc có quan hệ tính dục với nhau. Mối liên hệ này chỉ được hủy bỏ khi một trong hai người qua đời, hoặc khi tuyên bố ly dị. (3) Lễ cưới: đôi nam nữ chính thức là vợ chồng và bắt đầu sống chung với nhau. Khi Maria thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần và Giuse được sứ thần báo mộng, thì hai người đang ở giai đoạn thứ hai: đính hôn.
Trước khi được sứ thần báo mộng, Giuse thấy Maria – người bạn đã đính hôn với mình – có thai. Cứ theo cách cắt nghĩa tự nhiên cũng là duy nhất, thì rõ ràng Maria đã ngoại tình. Chắc chắn Giuse rất bối rối, buồn phiền, thậm chí thấy mình bị xúc phạm mãnh liệt. Theo luật dân sự, trong trường hợp này, Giuse có quyền từ hôn. Chàng có thể tố cáo Maria về vụ việc này, và nhà cầm quyền Do Thái có thể xử tử nàng bằng cách ném đá cho đến chết, chiếu theo luật trong Đnl 22,23-24. Nhưng chàng không làm như thế. Mặc dù cảm thấy như bị xúc phạm và phản bội, chàng chỉ định tâm bỏ nàng cách kín đáo, cho đến khi được sứ thần báo mộng.
Mặc dù chỉ biết qua giấc mộng – nghĩa là không chắc chắn và rõ ràng – rằng Maria thụ thai bởi Thánh Thần, Giuse đã chấp nhận đem Maria về nhà mình, bất chấp dư luận không hay về mình. Vì Giuse làm như thế, dư luận sẽ cho rằng: hoặc hai người đã quan hệ vợ chồng một cách bất chính trước khi được phép, điều này chứng tỏ hai người thiếu đạo đức; hoặc Giuse đã chấp nhận cái nhục “người ta ăn ốc, mình đổ vỏ”. Do đó, việc chàng chấp nhận Maria phải nói là can đảm, hy sinh, và tình yêu của chàng đối với Maria quả là chân thật và mãnh liệt. Chàng đúng là một người công chính, cao thượng, biết tuân phục thánh ý Thiên Chúa.
Việc Đức Giêsu được sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh, không do ý muốn của người nam, là do ý định khôn ngoan của Thiên Chúa. Điều này rất quan trọng trong Kitô giáo. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, với sứ mạng giải phóng con người khỏi tội lỗi, Ngài phải hoàn toàn không bị vướng vào tội lỗi. Nếu chính Ngài mà còn có tội, còn sống dưới ách tội lỗi, thì Ngài có thể giải phóng tội lỗi cho ai? Mà mọi người sinh ra bởi người nam, đều vướng tội tổ tông do Ađam truyền lại. Vì theo quan điểm của xã hội phụ hệ Do Thái, sự kế thừa từ thế hệ trước sang thế hệ sau hoàn toàn qua người nam. Do đó, nếu Đức Giêsu sinh ra từ một người nam, Ngài không khỏi kế thừa tội tội tổ tông từ cha mình. Để Ngài không chịu ảnh hưởng tội tổ tông, Thiên Chúa đã dùng quyền năng Thánh Thần của mình để Đức Giêsu chỉ được sinh ra duy nhất từ một người nữ – vốn là điều cần thiết để trở nên một người trần – mà không do sự kết hợp với người nam. Nhờ thế, Ngài không bị ảnh hưởng của tội tổ tông, lại hoàn toàn và duy nhất là Con của Thiên Chúa, đồng thời vẫn là một con người trọn vẹn.
Trong sứ mạng cứu chuộc nhân loại, thì một trong những mục đích quan trọng của Đức Giêsu là dạy con người sống yêu thương nhau. Ngài đã lập nên luật mới cho kỷ nguyên của Ngài là: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Ngài đã làm gương cho cả nhân loại bằng cách yêu thương đến tận cùng (x. Ga 13,1), hy sinh cả mạng sống cho nhân loại mà mình thương yêu (x. Ga 15,13). Nhưng Ngài không sống đời hôn nhân, nên Ngài không thể có một tấm gương cụ thể của một người chồng yêu thương vợ mình. Nhưng bù lại, cha nuôi của Ngài là thánh Giuse đã cho nhân loại gương sáng ấy. Bài Tin Mừng cho thấy Giuse đã yêu Maria bằng một tình yêu đầy tính vị tha và dâng hiến.
Tình yêu trong đời sống vợ chồng có thể phân thành hai loại:
– tình yêu vị kỷ hay chiếm đoạt: Trong thứ tình yêu này, người ta coi người mình yêu như một phương tiện để thỏa mãn nhu cầu tình cảm của mình, hay như một đối tượng mà mình phải chiếm đoạt làm của mình. Với tình yêu vị kỷ, người ta coi người mình yêu phải phục vụ cho hạnh phúc của mình. Và người ta đặt hạnh phúc của mình lên trên hạnh phúc của người mình yêu. Khi có sự xung đột giữa hạnh phúc của mình và của người yêu, thì họ sẵn sàng hy sinh hạnh phúc của người yêu cho hạnh phúc của mình, sẵn sàng chấp nhận để người mình yêu đau khổ miễn mình được hạnh phúc. Và họ không thể chấp nhận bị người yêu phản bội. Họ sẵn sàng đày đọa người mình yêu vì sự phản bội ấy. Họ không thể chấp nhận cho người mình yêu được hạnh phúc với một ai khác ngoài mình. Thực ra, đây không phải là tình yêu đích thực. Người ta chỉ yêu chính bản thân mình một cách gián tiếp qua người yêu của mình, chứ không phải yêu thương người ấy thật sự.
– tình yêu vị tha hay dâng hiến: Với tình yêu này, người ta cảm thấy có nhu cầu ra khỏi chính mình để hướng về người mình yêu, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và được hạnh phúc hơn. Người ta sẵn sàng chấp nhận mình thiệt thòi để người mình yêu được lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Với tình yêu này, người ta sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi người này lầm lỗi. Đây mới chính là tình yêu đích thực mà Thiên Chúa muốn mọi cặp vợ chồng phải có đối với nhau. Giuse đã yêu Maria bằng thứ tình yêu này.
Người yêu bằng tình yêu vị tha hay dâng hiến, gặp trường hợp tương tự như Giuse – thấy người sắp kết hôn với mình có vẻ như phản bội – thì chỉ biết đau khổ cho mình, chứ không hề muốn làm một điều gì có hại cho người mình yêu. Người ấy sẽ nghĩ: nếu người mình yêu cảm thấy sống với người khác sẽ hạnh phúc hơn sống với mình, thì mình cũng sẽ an tâm và sẵn sàng chấp nhận đau khổ, hy sinh để người mình yêu được hạnh phúc.
Giới răn yêu thương của Đức Giêsu cần được áp dụng cho tất cả mọi người, kể cả kẻ thù hay người làm hại mình (x. Mt 5,44; Rm 12,20). Nhưng trước hết, nó phải được áp dụng ưu tiên cho những người gần mình nhất, có quan hệ ruột thịt với mình, cùng sống trong một gia đình hay một nhà với mình: cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái, cháu chắt… Trong số đó không ai gần gũi mình cho bằng vợ hay chồng mình, vì là vợ chồng thì “không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt” (Mt 19,5; x. St 2,24; Ep 5,31). Vì thế, giới răn yêu thương của Đức Giêsu phải được áp dụng ưu tiên hàng đầu cho vợ hay chồng mình, rồi tới cha mẹ, con cái mình. Nếu những người ruột thịt này mà ta không yêu thương được bằng một tình yêu chân thật, vị tha, dâng hiến, thì ta không thể yêu ai khác bằng tình yêu này được. Mọi thứ tình yêu ta có đối với người khác đều chỉ là tình yêu vị kỷ, hoặc tệ hơn nữa, tình yêu môi miệng, tình yêu đóng kịch, tình yêu xây dựng trên sự đổi chác quyền lợi… Đó không phải là tình yêu đích thực.
Thiết tưởng trong việc chuẩn bị đón Chúa đến, không gì thích hợp và đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng canh tân, đổi mới lại tình yêu trong chính gia đình của mình. Hãy yêu mọi người trong gia đình mình bằng một tình yêu chân thật, mãnh liệt, đầy tính vị tha và dâng hiến. Tình yêu đối với gia đình sẽ là mẫu mực và là căn bản để từ đó ta áp dụng đối với tất cả mọi người.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin cho con có được một tình yêu đích thực, thứ tình yêu vị tha, dâng hiến, chứ không phải thứ tình yêu mang tính vị kỷ, chiếm đoạt, hay tình yêu giả hiệu, ngoài môi miệng. Xin cho con biết áp dụng tình yêu đích thực ấy ngay trong gia đình của con, để từ đó lan tỏa ra với tất cả mọi người.
Đọc lại Cựu Ước, chúng ta thấy được hình ảnh nào của Thiên Chúa? Theo tôi nghĩ, điều Cựu ước nhấn mạnh cho dân Do thái, đó là một Thiên Chúa duy nhất đầy quyền uy.
Thực vậy, ngay những trang đầu của sách Sáng thế ký, sau khi Adong Evà phạm tội, thì buổi chiều Thiên Chúa đã tản bộ đi trong vườn địa đàng với làn gió nhẹ. Adong Evà đã hoảng sợ và tìm kiếm chỗ ẩn núp, nhưng cũng không thể nào thoát khỏi cái nhìn của Thiên Chúa, để rồi cuối cùng đã lãnh nhận bản án của đau khổ, của chết chóc cho hành vi phản bội đầu tiên ấy.
Tiếp theo là việc Thiên Chúa hiện ra và kêu gọi Maisen lên đường giải phóng dân tộc Do thái, đang sống dưới ách nô lệ, dưới sự kìm kẹp của vương quốc Ai cập. Lúc bấy giờ Maisen nhìn thấy một bụi gai bừng cháy, ông mon men tiến tới, thì được Giavê đã phán:
– Chớ lại gần, hãy cởi dép vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh.
Maisen đã phải che mặt vì ông sợ không dám nhìn Thiên Chúa.
Và sau cùng trong cuộc xuất hành trở về miền đất hứa, Đức Giavê đã tàn sát các con trai đầu lòng Ai cập, đã vùi dập binh đội của Pharaon nơi lòng biển cả. Và tại đỉnh núi Sinai, Đức Giavê đã trao ban lề luật cho Maisen trong một cảnh tượng hùng vĩ. Kinh thánh ghi lại rằng: Bấy giờ ngọn núi cuồn cuộn như bốc khói. Ngay cả sau khi Maisen xuống núi, khuôn mặt ông vẫn còn chói lọi, đến nỗi dân chúng sợ hãi không dám tiến lại với ông.
Bằng đó những sự kiện chỉ có ý muốn nói lên rằng: Thiên Chúa trong Cựu ước là Thiên Chúa của uy quyền. Ngài hiện ra trong sấm chớp hãi hùng, để truyền khiến, để sửa phạt. Đứng trước vị Thiên Chúa toàn năng ấy, con người nhỏ bé của chúng ta chỉ có một thái độ, đó là run sợ và khiếp hãi.
Thế nhưng, Cựu ước chỉ nắm giữ vai trò chuẩn bị, vai trò sửa soạn cho Đức kitô xuất hiện. Tất cả Cựu ước đều qui hướng về Đức Kitô và cùng với Đức Kitô, chúng ta có được một hình ảnh đầy yêu thương của Thiên Chúa. Hình ảnh này đã được tiên tri Isaia loan báo gần 700 năm về trước:
– Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Lời loan báo này đã trở thành một sự thật trong Tân ước. Phải, đúng thế, Tân ước đã làm tròn những hình ảnh được nói đến trong Cựu ước, nhờ đó chúng ta thấy rõ Đức kitô chính là Thiên Chúa.
Qua bài Phúc âm hôm nay, sứ thần đã nhắc lại cho Giuse trong một giấc mộng lời nói tiên tri Isaia, để rồi một vài ngày nữa, trong đêm Giáng sinh, lời hứa về đấng Emmanuel sẽ được thực hiện. Thiên Chúa đã đến ở giữa chúng ta, không phải trong uy quyền với áng mây cột lửa, nhưng trong yêu thương với quang cảnh ngèo nàn và đơn sơ của máng cỏ Bêlem.
Từ một Thiên Chúa uy quyền và công bằng, Ngài đã trở nên một Thiên Chúa yêu thương và tha thứ. Ngài đó, một hài nhi bé bỏng như muôn ngàn vạn hài nhi khác. Ngài không đến trong sấm chớp, nhưng trong yên lặng của đêm khuya, trong rét mướt của mùa đông và trong nghèo hèn của chuồng bò. Ngài không làm cho bụi cây trong sa mạc bốc cháy, nhưng khi trông thấy Ngài các vì sao như rực sáng long lanh. Ngài không đòi phải có đền thánh huy hoàng, nhưng một nắm cỏ khô đã đủ cho ngài. Không phải là những biểu ngữ, những cổng chào của đám đông cuồng nhiệt đã tiếp đón Ngài như một ngày hội lớn, nhưng là nụ cười hiền dịu của Đức Maria và tấm lòng chân thành của thánh Giuse và các mục đồng, đúng như lời tiên tri Isaia đã loan báo:
– Ngài sẽ không la to, không nói lớn và người ta sẽ chẳng nghe thấy tiếng Ngài ngoài phố. Ngài đã không bẻ gẫy cây sậy đã dập và không thổi tắt ngọn đèn còn leo loét.
Thiên Chúa của chúng ta là như thế đó. Vậy đâu là nguyên nhân, là động lực thúc đẩy Ngài trở thành một Emmanuel, một Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Tôi xin thưa:
– Đó chính là vì tình yêu.
Thực vậy, người ta thường nói:
– Yêu nhau chẳng quản xa gần,
Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.
Nhìn vào kinh nghiệm thường ngày chúng ta cũng thấy được như vậy. Chẳng hạn hai anh chị yêu thương nhau, họ luôn mong muốn và làm mọi cách để có thể gặp nhau, để có thể ngồi tâm sự vui với nhau giờ này qua giờ khác.
Chẳng hạn người chồng phải đi học tập cải tạo tại, nhưng vì yêu thương, người vợ không bao giờ quản ngại đường sá xa xôi. Mỗi tháng lếch thếch với đứa con nhỏ và những đồ tiếp tế để đi thăm chồng.
Nếu quả thực là như vậy, thì hẳn tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta phải lớn lao, phải vĩ đại biết bao nhiêu. Bởi vì Ngài đã đi con đường dài nhất, con đường từ trời xuống đất, từ Thiên Chúa toàn năng đến một hài nhi yếu ớt. Khoảng cách ngàn trùng ấy đã được Chúa Giêsu vượt qua cho đến đời đời, bởi vì Ngài đã ở lại với chúng ta luôn mãi. Chúng ta có thể nói được rằng:
– Ngài đã kết hôn với bản tính nhân loại chúng ta để ăn mày đến vô biên.
Điểm đặc sắc của kitô giáo là ở chỗ đó: Thiên Chúa của chúng ta không phải là một ý niệm trừu tượng, một nhân vật hoang đường, nhưng là một con người cụ thể đã, đang và sẽ còn sống mãi bên chúng ta suốt những chặng đường đời, để yêu thương và tha thứ. Một Emmanuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Thiên Chúa đã đi quãng đường dài nhất để đến với chúng ta, còn bây giờ chúng ta sẽ phải đi nốt những bước chân còn lại. Ngài đến ở giữa chúng ta, nhưng có yêu thương và gắn bó với Ngài hay là chúng ta đã lạnh nhạt và xua đuổi Ngài như hánh Gioan đã viết: Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà đã chẳng đón nhận.
Nếu như bây giờ Chúa trở lại, liệu Ngài có tìm thấy một nơi trú ngụ trong tâm hồn chúng ta hay không?
(Suy niệm của Lm. JB. Lê Ngọc Dũng)
Con Thiên Chúa, quyền lực, cao sang quyền quý vô cùng, sao lại chọn một người cha mọn hèn dưới đất làm cha của mình? Đấng Cứu Thế sao lại thưa với bác thợ mộc rằng: “Thưa cha”, “Con xin phép cha”? Trong cả hằng trăm ngàn hậu duệ của Đavit sao không chọn người nào khác mà chọn Giuse, một người thợ mộc tầm thường.
Để có thể hiểu được phần nào, chúng ta hãy nhìn vào một số sự kiện liên quan đến Thánh cả Giuse, được Kinh Thánh thuật lại. Khi vị hôn thê yêu quý của mình có bầu, Thánh sử Mathêu ghi lại rằng: Giuse đã định tâm sẽ bỏ vị hôn thê của mình cách kín đáo.
Theo tâm lý người đời, thì chắc hẳn Giuse sẽ vô cùng tức giận, cho rằng vị hôn thê của mình đã phản bội, đã ngoại tình. Giuse sẽ tức tốc tố cáo Maria trước hội đường cho hả giận, và kẻ phản bội sẽ bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng Giuse đã không làm như vậy. Giuse đã không tố cáo nàng, đã không cãi vã to tiếng, ngài chỉ âm thầm rút lui.
Khi định tâm với tấm lòng bao dung tha thứ như vậy, Thiên Chúa không để cho Giuse phải bối rối, liền sai Thiên thần ra tay can thiệp để soi sáng cho Giuse biết rằng, đây là chương trình của Thiên Chúa.
Chúng ta phải ghi nhận rằng, Thiên Chúa chủ động tất cả trong chương trình cứu thế của Ngài. Việc chọn Giuse làm dưỡng phụ của Đấng Cứu Thế, là tùy theo ý muốn của Thiên Chúa. Nhưng ở đây chúng ta cũng phải ghi nhận rằng sự quảng đại và bao dung của Thánh cả Giuse, đã góp phần rất lớn vào sự chọn lựa của Thiên Chúa
Giuse vâng theo ý Chúa, đón nhận Maria về nhà mình và hết lòng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như người con sắp sinh ra.
Cuộc đời mỗi người chúng ta cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa, phải quyết định. Thiên Chúa biết rõ, thấu suốt những gì đang xảy ra trong tâm lòng chúng ta. Thế nhưng, nhiều khi Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mỗi người chúng ta. Đó là phản ứng của lòng yêu thương hay giận ghét, của lòng quảng đại hay hẹp hòi.
Có những người luôn phản ứng với sự chê bai ghen ghét, luôn chỉ trích phê phán, cho dù người khác có làm điều tốt đi chăng nữa. Ta thấy có những người thường tụ tập, la cà nơi này đến nơi khác, quán này đến quán khác, miệng mồm luôn tuôn ra những câu chưởi thề, dọa nạt người khác. Mà lại nói to, có ý nói cho cả người không muốn nghe. Họ muốn biểu lộ ra bên ngoài một tâm hồn chất chứa đầy những kiêu hãnh, những bất mãn, và muốn che dấu cái bất an, bực tức trong tâm hồn. Vì vậy, những cuộc chiến tranh nhỏ thường xảy ra trong xã hội.
Lại có những người vợ người chồng, không tha thứ cho nhau, cải vả nhau. Một cuộc chiến tranh nhỏ xảy ra trong gia đình, của những người đã thề nguyền yêu thương nhau suốt đời, và kết thúc ở tòa án, ly dị. Gia đình tan vỡ và họ gây đau khổ cho nhau, cho con cái; mà nhiều khi cũng chỉ vì tự ái, vì bất mãn, vì thiếu khoan dung, thiếu tâm lòng quảng đại.
Hơn bao giờ hết, con người chúng ta cần có sự bao dung, tha thứ.
Trong một cuốn sách nói về tu thiền tại Nhật, có thuật lại câu chuyện như sau:
Một sư phụ dạy thiền có rất nhiều đồ đệ. Một lần kia, trong một cuộc tụ tập để an cư nhập định, một anh đệ tử bị bắt quả tang về tội ăn cắp. Việc này được trình lên cho sư phụ với lời yêu cầu trục xuất tên tội phạm. Nhưng vị sư phụ lờ đi, làm như không có gì xảy ra. Mấy hôm sau, người đệ tử kia lại bị bắt tại trận đang khi giở trò chôm chỉa đồ vật của người khác. Vụ việc lại được trình lên, nhưng dường như sư phụ cũng chẳng bận tâm. Điều nầy làm cho các đệ tử nổi nóng. Họ họp nhau lại, cùng soạn ra một tờ kiến nghị, trình bày hành động xấu của tên ăn cắp, và tuyên bố rằng nếu sư phụ không xử tội hắn thì bọn họ sẽ bỏ, theo thầy khác hết.
Đọc qua tờ kiến nghị, vị sư phụ cho gọi tất cả mọi người đến và nói:
“Các anh là những người khôn ngoan. Các anh biết việc nào nên làm và việc nào không nên làm. Các anh có thể đi học với bất cứ vị thầy nào các anh muốn. Còn người anh em đáng thương này, anh ta u mê lầm lạc và thiếu can đảm để tránh xa điều xấu. Nếu tôi không dạy thì ai sẽ là người dạy anh ta đây? Nếu tôi từ chối thì ai sẽ là người đón nhận anh ấy? Thế cho nên, tôi sẽ giữ người anh em này lại cho dù tất cả các anh có bỏ đi hết.”
Một dòng nước mắt tuôn xuống trên khuôn mặt của người đệ tử ăn cắp. Tất cả lòng tham muốn của cải người ta tự dưng biết mất khỏi anh.
Nhờ cảm được tấm lòng xót thương mà dòng nước mắt thống hối đã tuôn trào. Như vậy, tiến trình hoán đổi con người không nhất thiết là cứ phải kết án, khước từ, hay trục xuất. Sức mạnh có khả năng tái sinh và thăng tiến tâm hồn nhất chính là sức mạnh của tình thương. Chỉ có tình thương, với lòng quảng đại bao dung, cùng sự cảm thông nhân ái mới làm tái sinh và phục hồi những nét đẹp cao quí của tâm hồn con người.
Sự kiện Con Thiên Chúa chọn Giuse làm nghĩa phụ của Đức Kitô làm nổi bật đức tính bao dung. Đó là một đức tính khởi đầu cho một gia đình thánh thiện, một gia đình an vui hạnh phúc. Khoan dung tha thứ quả là rất cần thiết để xây dựng một cộng đoàn dòng tu được bình an thánh thiện. Những bậc chính nhân quân tử, những bậc lãnh đạo đều cần trang bị cho mình sự bao dung. Chắc chắn mọi người sẽ mến phục người bao dung và được Thiên Chúa chúc phúc.
Sống bao dung cũng là một nét của sống yêu thương, quảng đại theo gương Đấng Cứu Thế mà chúng ta sắp mừng Đại lễ Giáng Sinh. Ngài đã khoan dung tha thứ, tha thứ cho kẻ bách hại mình và Ngài đã yêu thương đến cùng, cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài đã nêu gương và luôn kêu gọi chúng ta noi gương Ngài.
Hôm nay, chuẩn bị tâm hồn để mừng lễ Giáng Sinh, ít nhất chúng ta cũng cần noi gương Thánh Giuse, không lên án, tố cáo người khác, ngay cả khi người khác ấy phản bội. Chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa của lễ của lòng yêu thương tha thứ. Một tâm hồn yêu thương quản đại chắc chắc sẽ được Thiên Chúa ban nhiều ân phước. Thiên Chúa không bao giờ thua lòng quảng đại của chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Trần Thanh Sơn)
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của mùa Vọng, mùa sự đợi trông Chúa đến. Đức Giêsu Kitô đã đến không chỉ là một lần trong lịch sử cách đây hơn 2000 năm, nhưng Ngài vẫn đang đến, đang hiện diện với chúng ta hôm nay, và nhất là Ngài sẽ lại đến trong vinh quang để phán xử toàn thể thế giới.
Chính trong tâm tình đó, trong hai tuần lễ đầu của mùa Vọng, tiếp nối với tư tưởng của những ngày cuối năm Phụng vụ, lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta tỉnh thức và sám hối để xứng đáng đón chờ ngày Đức Kitô tái lâm trong vinh quang. Còn trong Chúa nhật vừa qua, lời Chúa cho thấy Đức Giêsu vẫn đang hiện diện đồng hành với chúng ta trong mỗi nẻo đường của cuộc sống. Ngài vẫn đang đến với chúng ta qua mọi biến cố lớn nhỏ, vui buồn trong cuộc sống mỗi ngày. Và hôm nay, lời Chúa trực tiếp hướng tâm hồn chúng ta đến sự kiện có một không hai trong lịch sử: Con Thiên Chúa nhập thể làm người.
Thế nhưng, mặc dù đã nhận được lời hứa, con cháu của vua David vẫn không giữ được lòng trung thành như chúng ta vừa nghe thuật lại trong bài đọc một. Khi đó vào khoảng thế kỷ VIII tr. CN, các vua phương Bắc đang đem quân tiến đánh thành Giêrusalem. Vua của Giuđa lúc bấy giờ là Akhaz thay vì hoán cải đời sống và tin tưởng vào Thiên Chúa, ông lại đi cầu viện đế quốc Assyrie. Và để làm đẹp lòng vua của Assyrie, ông đã dẹp bỏ bàn thờ của Giavê Thiên Chúa, và thay vào đó là tế đàn của các thần dân ngoại. Thậm chí, ông còn theo thói tục của dân ngoại, thiêu sinh cả con ông làm của lễ toàn thiêu. Trong hoàn cảnh đó, Thiên Chúa đã cho ngôn sứ Isaia đến để kêu gọi nhà vua quay trở lại với Thiên Chúa, và đặt trọn niềm tin nơi Ngài. Chính Ngài sẽ giải thoát dân Ngài khỏi mọi sự dữ. Và như để bảo đảm cho lời của mình, vị ngôn sứ bảo nhà vua “hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi một dấu ở dưới lòng đất hay ở trời cao”.
Thế nhưng, nhà vua vẫn không chịu xin, vì sợ rằng khi nhận được dấu chỉ, điều đó sẽ chứng tỏ sự sai trái của nhà vua. Ông vẫn cố chấp và tiếp tục sống trong tội lỗi của mình. Nhưng cho dù vua không xin, thì đây, Thiên Chúa vẫn cho ông một dấu chỉ để chứng tỏ lòng trung thành của Ngài: “Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chính Thiên Chúa sẽ đến ở với dân Ngài và giải thoát họ khỏi mọi đe doạ của quân thù.
Vâng, với việc nhập thể của Đức Giêsu lời loan báo của các ngôn sứ đã được thực hiện, lòng mong ước của muôn dân từ bao đời nay đã được đáp ứng. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn không gò ép con người. Ngài vẫn tôn trọng tự do và mời gọi con người cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Lúc đó, Ngôi Hai đã nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ bởi quyền năng của Thánh Thần, nhưng Đức Maria vẫn chưa về nhà chồng. Đức Giêsu vẫn chưa chính thức được nhận vào dòng dõi vua David như lời Thiên Chúa đã hứa. Thế là Thiên Chúa đã lên tiếng mời gọi sự cộng tác của một người thuộc dòng dõi vua David, đã đính hôn với Đức Maria, có tên gọi là Giuse. Trong một giấc mơ, thiên thần Chúa đã cho Giuse biết ý định của Thiên Chúa và muốn ông đón Đức Maria về nhà, và ông sẽ trở thành dưỡng phụ của Con Thiên Chúa. Một vinh dự thật lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm thật nặng nề. Thế nhưng, vì là “người công chính”, nên trong niềm tin tưởng và phó thác, Giuse đã sẵn sàng đáp lời. Tin mừng ghi lại: “Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền”.
Từ đây, với người cha là thánh Giuse, Đức Giêsu thật sự thuộc về hoàng tộc David, đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ muôn thuở. Đây đúng là một tin vui, một tin mừng vĩ đại không chỉ cho dân Chúa mà là cho toàn thể nhân loại. Cảm nghiệm điều đó, ngay trong những lời mở đầu thư gởi cho các tín hữu thành Roma, thủ đô của cả đế quốc thời bấy giờ, thánh Phaolô đã tuyên bố: “Tôi đã được kêu gọi làm tông đồ và đã được tuyển chọn để rao giảng tin mừng Thiên Chúa. Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các tiên tri trong Kinh Thánh về Con của Người; Người đã sinh ra theo huyết nhục bởi dòng dõi David, đã được tiền định là Con Thiên Chúa quyền năng theo Thánh Thần… Đó là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.
Tóm lại, khi hướng chúng ta nhớ lại mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa, Giáo Hội không chỉ là tưởng niệm lại một sự kiện đã qua, nhưng Mẹ Giáo Hội muốn mỗi người chúng ta xác tín rằng: Con Thiên Chúa một khi đã đến thì chắc chắn Ngài sẽ lại đến, để rồi khi vui sống mầu nhiệm Giáng Sinh, mỗi người chúng ta càng thêm tin tưởng và hy vọng, sẵn sàng đón nhận mọi thử thách, gian truân trong đời sống với một lòng yêu mến, cậy trông và phó thác. Nhờ đó, ngay từ bây giờ, chúng ta xứng đáng đón Con Chúa ngự vào tâm hồn chúng ta trong bí tích Thánh Thể và vào ngày Ngài trở lại, chúng ta cũng được hân hoan ra đón Ngài. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Mt 1: 18-24 Chúng ta đang tiến gần đến lễ Noel. Noel, một từ cổ của tiếng Pháp có nguồn gốc Latin (natalis) có nghĩa là ‘sinh ra’, nói đến chính ngày sinh của Chúa Giêsu Kitô.
Chúng ta đang tiến gần đến lễ Noel. Noel, một từ cổ của tiếng Pháp có nguồn gốc Latin (natalis) có nghĩa là ‘sinh ra’, nói đến chính ngày sinh của Chúa Giêsu Kitô: Đây là biến cố trung tâm của lịch sử Cứu độ và của toàn bộ lịch sử nhân loại. Ngày sinh của Chúa Giêsu mang một ý nghĩa rất quan trọng, đó chính là ngày Thiên Chúa thực hiện lời hứa như Tiên tri Isaia đã loan báo: Này đây một Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Thiên Chúa trong con người của Con Một Ngài là Chúa Giêsu Kitô đã làm người để chia sẻ thân phận con người phải chết với nhân loại, để nhân loại được chia sẻ bản tính Thần linh với Thiên Chúa.
Dấu chỉ Emmanuel
Để thúc đẩy vua Achaz đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa hơn là dựa vào sức mạnh của liên minh quân sự, Tiên tri Isaia đã cho ông một dấu chỉ nói lên ý muốn của Thiên Chúa sẽ yêu thương hiện diện với dân và cứu thoát dân tộc.
Lời loan báo về ơn Cứu độ nơi Đức Giêsu,
Con Thiên Chúa, Con Vua Đavít.
Bản văn được trích đọc này khởi đầu lá thư dài của Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma. Văn phong của bản văn như là một cách chào hỏi của tác giả. Thánh nhân nhấn mạnh đến sứ điệp Tin mừng mà Ngài đã lãnh nhận, sứ điệp này mạc khải về Đức Giêsu Kitô con vua Đavít, Người chính là Đấng Messia.
Vai trò cao trọng của Thánh Giuse
Tin mừng hôm nay cho thấy vai trò cao trọng của Thánh Giuse được chọn làm cha của Chúa Giêsu theo luật pháp, Con Một Thiên Chúa, đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần. Với vai trò này, Thánh Giuse đã cộng tác cách đặc biệt với Thiên Chúa trong công trình cứu độ của Ngài.
Thiên Chúa ở cùng chúng ta là để yêu thương và ban ơn cứu độ. Điều này đã được Chúa Giêsu thực hiện cách trọn vẹn. Mátthêu trong trình thuật hôm nay đã trích dẫn lời Tiên tri Isaia ngày trước để minh chứng Chúa Giêsu đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria chính là để thực hiện lời hứa mà Thiên Chúa đã hứa qua miệng Tiên tri Isaia. Ở phần cuối Tin mừng thứ nhất này, Mátthêu cũng ghi lại lời hứa của Chúa Giêsu với các môn đệ: Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20). Như thế, Tin mừng theo Thánh Mátthêu đã khởi đầu và kết thúc với tư tưởng xuyên suốt: Thiên Chúa đã ở cùng nhân loại nơi con người Chúa Giêsu Kitô.
Ngày nay chúng ta sống là sống trong Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta có Người đồng hành, có Người hướng dẫn, có Người sẻ chia cuộc sống. Thế thì tất cả cuộc sống của chúng ta có sống và làm nhờ Người, với Người và trong Người không ?
Thánh Giuse là người công chính vì đã âm thầm từ chối coi mình là cha đứa trẻ mà Ngài biết là Con Thiên Chúa, Ngài sợ mang tiếng là người chiếm đoạt vai trò mà Chúa không ủy thác. Thế nhưng, một khi đã biết ý định của Thiên Chúa mời gọi tham dự vào chương trình của Thiên Chúa, Ngài không từ chối. Như vậy sự công chính của Thánh Giuse chính là biết tôn trọng và nghe theo Chúa. Giuse đã đón nhận Chúa Giêsu. Đến lượt mỗi người chúng ta cũng phải biết nghe và đón nhận Chúa đến trong cuộc đời, trong gia đình mình. Chúa đang hiện diện với chúng ta, điều quan trọng là mỗi người có biết đón Chúa hay không.
Ngày nay, tin vào sự hiện diện của Chúa trong Kinh thánh, trong Bí tích Thánh thể xem ra dễ dàng hơn việc Thánh Giuse tin rằng con trẻ mà hôn thê của mình đang mang là Con Thiên Chúa. Chúa đã đến với nhân loại, Ngài đang hiện diện sống động nơi Giáo hội, nơi Lời của Ngài, nơi anh chị em nghèo khổ … Kitô hữu hôm nay có biết đón tiếp Ngài không ?
Thiên Chúa đến ở với nhân loại chính vì yêu thương và ban tặng hạnh phúc cho nhân loại. Ngay từ khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã tạo dựng vì yêu và vì muốn ở với con người. Trước khi sa ngã, Thiên Chúa vẫn luôn đến với con người. Chỉ vì sa ngã phạm tội mà con người đã từ chối Thiên Chúa mà thôi. Với sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa lòng nhân thế để ban ơn Cứu độ, Thiên Chúa muốn tái lập lại tình trạng hạnh phúc cho con người. Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có bình an, hoan lạc và tình yêu.
Thực ra cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa mang lại niềm vui và hạnh phúc không phải là điều dễ dàng. Cần phải tin, cần phải chuyên cần cầu nguyện và cần phải gắn bó với Chúa luôn trong Mầu nhiệm Thánh thể mới có khả năng cảm nghiệm được hạnh phúc có Chúa trong cuộc đời. “Có Chúa trong cuộc đời nỗi sướng vui tuyệt vời” là lời hát phải bật lên từ toàn bộ tâm khảm, toàn bộ con người trung thành với niềm tin.
Dẫn vào Phụng vụ Thánh thể:
Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúa Giêsu đã đến để thực hiện lời hứa này của Thiên Chúa Cha. Nơi Bí tích Thánh thể, Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện sống động với nhân loại hôm nay. Chúng ta cùng tiến đến Bàn tiệc Thánh thể để đón tiếp Người vào trong cuộc đời, trong gia đình chúng ta.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa đã yêu thương đến ở với chúng ta để mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Chúng ta cùng hân hoan chạy đến cầu xin với Ngài.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa là tình yêu, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương ban Chúa Giêsu, Con Một của Chúa đến làm người ở giữa chúng con. Xin ban ơn giúp chúng con biết mở lòng đón nhận Người qua việc yêu mến Lời Người và chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón nhận Mình Máu Thánh Người. Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)
John P., một linh mục Ái Nhĩ Lan, sau nhiều năm tận tâm thuyết phục một thanh niên bỏ đạo trở về với Giáo hội, đã phải hoài công vô vọng. Bao lời khuyên răn cứ như “nước đổ lá môn.”
Một lần kia, Mẹ Têrêsa Calcutta được mời đến thăm Ái nhĩ lan. Ban tổ chức có thu xếp một buổi nói chuyện thân mật giữa Mẹ với các bạn trẻ. Mẹ chỉ nói giản dị về tình yêu Thiên Chúa: Chúa yêu thương các bạn; Ngài luôn đồng hành với các bạn. Sau đó Mẹ rời thành phố. Ai về nhà nấy.
Trời mỗi lúc mỗi khuya! Khi mọi vật đang chìm vào tĩnh mịch, chợt một hồi chuông điện thoại reo vang phá tan giấc ngủ của cha John. Ngài nhấc vội chiếc điện thoại, và đầu giây bên kia là giọng nói của chàng thanh niên năm nào: “Alô, con muốn xưng tội với cha. Con muốn trở về cùng Giáo hội.”
– “Chuyện gì xảy ra cho anh vậy?” Vị linh mục hỏi lại. Ngài tưởng chừng chàng thanh niên đang bị tai nạn hiểm nghèo nào đó nên vội dọn mình ra đi.
Nhưng anh ta trả lời: “Thưa cha, vì chiều nay Mẹ Têrêsa đã nói với con một lời đánh động lòng con rất nhiều.”
Vị linh mục ngạc nhiên: “Mẹ nói lời gì, và nếu tôi không lầm thì nhà thờ chật ních. Mẹ lại đâu có cơ hội để gặp riêng anh?”
– “Vâng thưa cha, Mẹ không gặp riêng con, nhưng Mẹ đã nói với mọi người, trong đó có con. Mẹ nói rằng: “Chúa ở với các con.”
Nghe thế, vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa: “Ủa, đã nhiều lần tôi cũng nói với anh như thế, nhưng sao hôm nay anh lại bị thuyết phục bởi lời nói ấy của Mẹ Têrêsa?”
Anh thanh niên chậm rãi giải thích: “Thưa cha, vì Mẹ đã nói câu đó từ thẳm sâu của tâm hồn. Mẹ đã nói với con bằng tất cả con tim của mình.”
Một câu nói không phát ra từ một công thức có sẵn hay do một thói tục xã giao thông thường thúc đẩy, nhưng khởi đi từ chốn thâm sâu của một tâm hồn yêu thương mới có khả năng thuyết phục, hoán cải, và truyền đạt được ý nghĩa chân thực nhất của danh hiệu Emmanuel-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Trong một Thánh lễ, biết bao lần vị linh mục đọc lên cầu chúc: “Chúa ở cùng anh chị em,” nhưng thử hỏi có mấy lần lòng tôi bồi hồi xúc cảm vì sung sướng trước sự kiện này? Rất nhiều lần tôi nghe, đáp, hát, đọc những lời kinh nguyện có cùng một nội dung như thế, nhưng có mấy lần tôi cảm nhận được Thiên Chúa hiện hữu thật sự trong cuộc đời của mình? Tôi không có, phải chăng vì đã chưa đọc và nghe với tất cả tâm hồn?
Nếu thấu hiểu được thế nào là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” chắc chắn sẽ không có một tác nhân gì có thể làm cho con người phải run sợ bất an hay ưu sầu lo lắng.
Ngày xưa, khi Môisen đang chạy trốn người Aicập, tránh né bàn tay ác độc của Pharaô, Giavê đã hiện ra và bảo ông trở về đất Ai để giải thoát dân Israel. Trước một trách nhiệm lớn lao cùng bao hiểm nguy cho tính mạng như thế, Moisen can đảm lên đường, vì Thiên Chúa đã nói với ông: “Ta sẽ ở với ngươi” (Xh 3:12).
Rồi khi Giêrêmia được Giavê kêu gọi ra đi làm tiên tri cho các dân tộc, ông đã tìm cách thoái thác: “Tôi đâu có biết nói năng gì. Tôi chỉ ú ớ như một đứa trẻ con.” Nhưng Chúa nói: “Đừng sợ, vì Ta ở cùng ngươi” (Gr 1:8). Với lời hứa ấy của Giavê, Giêrêmia lên đường.
Trong Tân ước, khi Chúa Giêsu sai các môn đệ đi vào thế gian rao giảng Tin mừng. Sứ mạng chất đầy gian nan, không khác chi như chiên con đi giữa sói rừng. Ấy thế mà sự bảo đảm lại chỉ là một lời hứa: “Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Vậy rồi các ông ra đi.
Sẽ không lời hứa nào bày tỏ trọn vẹn nỗi lòng yêu thương của một con người cho bằng lời hứa “ở cùng người yêu,” và sẽ không có nỗi lòng khát khao nào mãnh liệt cho bằng được “sống chung với người yêu.” Một chàng thanh niên có thể hứa với người con gái: “Anh sẽ mua cho em một chiếc nhẫn kim cương làm quà Giáng sinh; anh sẽ cố học thành tài để em không phải lam lũ sau này…,” nhưng nếu không có lời hứa “ở cùng em” thì vô ích hết. Cao điểm hạnh phúc trong ngày thành hôn của hai người nam nữ không phải nơi chiếc áo cưới soirée lộng lẫy, cũng chẳng phải nơi chiếc nhẫn cưới hay lời chúc tụng của thân hữu đôi bên, nhưng là nơi giao ước tình yêu đã được thiết lập. Trong giao ước đó họ hứa “ở cùng nhau suốt đời.”
Một linh mục đã nhận xét: “ở cùng” chính là ngôn ngữ của tình yêu, vì chỉ có yêu ai người ta mới nghĩ đến “ở cùng.”
Vì yêu nên mới có việc Thiên Chúa đến “ở cùng” con người, mới có danh hiệu Emmanuel, mới có cảnh Giavê mang kiếp lầm than để thông chia nỗi đau của con người, và chưa hết, mới có danh hiệu Giêsu, nghĩa là Giavê cứu thoát.
Vì yêu thương con người nên Thiên Chúa muốn cứu thoát. Để cứu thoát, Ngài đã đến ở cùng. Có lẽ không nỗi đợi chờ hay một thoả mãn nào đáng giá hơn hình ảnh của Chúa Hài đồng nằm trong máng cỏ, hiện thân của tình yêu ở cùng.
Danh hiệu Emmanuel không chỉ gợi lên trong tôi ý thức về ân phúc tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, về những lời cầu chúc được lập đi lập lại trong các Thánh lễ đang cần được nói và nghe với tất cả tâm hồn, nhưng còn là lời mời gọi bạn và tôi hãy ở cùng tha nhân, hãy xích lại gần nhau và sống thân ái hơn trong tình người.
Như Thiên Chúa đã phá đổ bức tường ngăn cách, dù đó là sự ngăn cách vô biên–giữa Tạo hoá và loài thụ tạo, giữa trời cao với đất thấp, giữa vô hình và hữu hình–chúng ta cũng được mời gọi hãy phá đổ những ngăn cách giữa con người với con người, để việc tôi “ở cùng” tha nhân trong an hoà sẽ là một phản chiếu rõ nét khuôn mặt của Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mt 1: 18-24 Thánh Giuse đã tuân theo lệnh Chúa và đón nhận Maria về nhà mình. Người tin tưởng vào Thiên Chúa và chu tòan sứ mệnh Thiên Chúa trao gởi.
Có một vị vua kia đã già rồi nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời các chàng trai đến cung điện để vua chọn một người làm dưỡng tử mà sau này lên ngôi cai trị. Điều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và yêu mến anh em hết lòng.
Từ một vùng quê xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc tuyển chọn của nhà vua. Chàng muốn đến cung điện nhà vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có lấy một bộ quần áo tương xứng cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng cũng cố gắng sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng đáng với buổi triều yết.
Đến gần hoàng cung, chàng gặp một ông lão già xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc. Động lòng thương, không chút ngần ngại, chàng đổi cho ông bộ quần áo của mình.
Khi đến gần cửa thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với bộ quần áo rách tả tơi như thế này không. May mắn thay, chẳng ai hạch hỏi về quần áo của chàng và khi đến trước ngai rồng, chàng lại càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt mình, nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: “hỡi con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con”.
Qua câu chuyện trên, chúng ta hình dung được phần nào khuôn mặt của thánh Giuse trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa nhật thứ hai và thứ ba mùa vọng, các bài Tin Mừng đề cập tới một nhân vật không thể thiếu trong mùa vọng, đó là thánh Gioan Tẩy Giả, còn bài Tin Mừng thứ tư mùa vọng hôm nay lại nhắc đến một nhân vật nữa, đó là thánh Giuse, một nhân vật cũng không thể thiếu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa cùng với người bạn đời của ngài là Đức Maria.
Giuse đã quyết định cùng với Đức Maria xây dựng cuộc đời chung sống. Một chương trình bình thường như bao người bình thường khác, nhưng lại xảy ra một biến cố thử thách, đó là Maria có thai trước khi hai người về chung sống với nhau.
Chúng ta thấy thánh Giuse đang ở một hòan cảnh thật nan giải: một mặt ngài không thể im lặng để chấp nhận bào thai kia là con của mình, mặt khác ngài cũng không muốn làm rùm beng chuyện này vì như thế sẽ làm mất thể diện của Maria và Maria có thể bị ném đá, đó là điều Giuse không muốn chút nào.
Quả thật, thánh Giuse có thể tố cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó, nhưng ông không làm như vậy. Ông muốn trốn đi, vì việc này có thể được mọi người xung quanh hiểu như là một hành động bỏ trốn trách nhiệm làm cha, và trên bình diện siêu nhiên thì có thể được hiểu như là việc chối từ cộng tác với chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.
Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho Giuse biết là: “đừng ngại nhận Maria về làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần”, và thiên thần mạc khải thêm về thân thế của Đấng Cứu Thế đang được cưu mang trong cung lòng Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng tác và Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc đặt tên cho con là quyền của người cha, như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho Con Trẻ không do chính máu huyết của mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận quyền hay đúng hơn sứ mạng làm cha của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.
Thánh Giuse đã tuân theo lệnh Chúa và đón nhận Maria về nhà mình. Người tin tưởng vào Thiên Chúa và chu tòan sứ mệnh Thiên Chúa trao gởi. Ngài khiêm tốn thi hành phận sự như một đầy tớ tín trung. Ngài không tính tóan, nhưng luôn sẵn sàng “chỗi dậy” để thi hành thánh ý của Thiên Chúa. Mệnh lệnh của Chúa phán ra là phá đổ mọi kế họach của lòai người. Tin theo là bước đi từng bước trên nẻo đường tương lai chỉ được soi sáng từng bước. Niềm tin không có sẵn câu giải đáp cho những trường hợp cụ thể.
Nhìn vào thái độ của thánh Giuse, chúng ta rút ra được bài học cho cuộc sống. Mỗi người chúng ta đều có những chương trình riêng cho đời mình. Nhưng nếu có những bất trắc xảy ra, chúng ta sẽ giải quyết như thế nào? Có lẽ chúng ta sẽ kêu ca, trách móc, hoặc chúng ta kể lể với hết người này đến người khác gọi là để “tâm sự”. Nhưng chúng ta thấy gì nơi thánh Giuse? Ngài đã thinh lặng.
Chính trong thinh lặng thánh Giuse đã nhìn ra thánh ý của Thiên Chúa. Điều quan trọng trong cuộc sống, đó là nhận ra được thánh ý của Thiên Chúa qua những biến cố lớn nhỏ trong cuộc sống. Để làm được điều này chúng ta phải thinh lặng và sống trong bầu khí thinh lặng như thánh Giuse. Amen.
Cuộc sống luôn có những ngăn trở. Ngăn trở do chính mình gây nên cũng lắm mà do hoàn cảnh dẫn đến cùng nhiều. Ngăn trở rõ ràng nhất là những giấc mơ trong đời. Người nào cũng có những giấc mơ ước mong hoàn thành và những giấc mơ cho tương lai dài. Có những giấc mơ đến rồi qua đi rồi lại thêu dệt giấc mơ khác rồi lại để chúng qua đi rồi lại thêu dệt giấc mơ mới đến nỗi thân hữu cho là người sống tron mơ. Lí do không thực hiện được giấc mơ vì họ không thực hành điều mơ ước. Lại cũng có người thực hiện giấc mơ nửa chừng rồi chán nản, thất vọng để giấc mơ tan vào dĩ vãng. Một ít thực hiện giấc mơ cách tốt đẹp và hưởng thành quả tốt đẹp của điều hằng mơ ước.
Lịch sử Ơn Cứu Độ cũng có một số ít nhân tuyển vui lòng chấp nhận thay đổi giấc mơ cá nhân mình để thực hiện ý định chung của Thiên Chúa. Họ chấp nhận từ bỏ giấc mơ cá nhân và thay vào đó là thực hiện sứ vụ thiên quốc với mục đích rõ ràng. Mục đích đó là cộng tác vào công trình cứu độ của Đấng Cứu Thế. Người đầu tiên chúng ta biết đến đó là Đức Trinh Nữ Maria, Đấng khấn sống trọn đời khiết trinh nhưng theo ý Chúa qua ngôn sứ Đức Trinh Nữ chấp nhận làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Sau khi thưa hai tiến xin vâng cuộc sống trinh nữ của Mẹ hoàn toàn thay đổi. Người khác nữa là hai mẹ con là thánh nữ Elizbeth và thánh Gioan Tẩy Giả. Như bao nhiêu người mẹ khác luôn có những ước mơ riêng cho con mình nhưng thánh nữ vui lòng chấp nhận để con mình trở thành người mở đường cho Chúa Cứu Thế, sống trong hoang địa, mặc áo da thú và ăn châu chấu trộn mật ong. Người nữa cũng hoàn toàn thay đổi giấc mơ riêng để làm theo lời sứ thần là thánh Giuse. Phúc âm không ghi lại thánh Giuse có giấc mơ riêng gì nhưng qua trao đổi giữa thánh nhân và sứ thần thánh Giuse đã chấp nhận cưới cô Maria làm người bạn đường. Dù chấp nhận làm công việc đó nhưng thánh nhân trong hoàn cảnh sống cũng cảm thấy khó có thể thực hiện điều đã hứa. Sau nhiềm đêm mất ngủ, suy nghĩ chín chắn thánh Giuse đã định li dị cô Maria một cách kín đáo. Ý riêng đã quyết nhưng thánh nhân cảm thấy tâm hồn mất bình an. Âm thầm liên tục cầu nguyện tìm rõ ý Chúa và sứ thần Chúa đến với thánh nhân qua những giấc mơ hướng dẫn đừng ngại tiếp tục lời đã hứa. Là người khôn ngoan tin vào lời cầu nguyện cộng thêm tính cẩn trọng không vội thi hành ý riêng, thánh nhân thực hành lời sứ thần hướng dẫn trong giấc mơ và tìm lại bình an nội tâm. Chính bình an nội tâm là dấu chỉ rõ ràng giúp thánh nhân giữ trọn điều thề hứa thi hành thánh ý Chúa đến cùng.
Nhiều người trong chúng ta cũng thi hành thánh ý Chúa trong cuộc sống. Thánh ý Chúa một cách chung cho tất cả mọi người là sống làm chứng nhân cho Chúa giũa đời và loan báo Tin Mừng cho toàn thể nhân loại. Ngoài thánh ý chung ra mỗi cá nhân thường gặp khó khăn khi phải tìm hiểu thánh ý riêng cho cá nhân mình. Điều rõ ràng là hầu như ai cũng có kinh nghiệm khi sống đời sống đạo chúng ta luôn có những lúc tự tin, cảm thấy con đường mình đang đi là con đường Chúa mời gọi chúng ta đi; khi khó khăn đến chúng ta lại cảm thấy con đường mình đang đi là con đường sai, con đường dẫn đến ngõ cụt. Đây chính là kinh nghiệm của Thánh Giuse khi chấp nhận là cha nuôi Đấng Cứu Thế. Khi gặp hoàn cảnh khó khăn, ơn gọi trong đời sống bị ngăn trở hãy học hỏi từ thánh Giuse, đừng vội vã, hấp tấp đi đến quyết định dứt khoát nhưng khôn ngoan, cẩn trọng và tin vào những kinh nguyện âm thầm trong đêm, tìm bình an cho tâm hồn nhất là bình an sau khi đã có giải đáp cho vấn đề. Lắng nghe tiếng nói nhẹ nhành trong đêm tối sẽ nhận ra ánh sáng của Lời Chúa.
Trong nhiều trường hợp bệnh tật và điều kiện xã hội ngăn cản ta thi hành ý Chúa trong đời. Nhiều người muốn theo đời sống ơn gọi tu trì nhưng nếu sống trong xã hội người lãnh đạo không có thiện cảm với Thiên Chúa giáo thì ơn gọi đó thường bị ngăn cản. Sức ép của bạn bè và thiếu khuyến khích từ gia đình cũng là những cản trở cho việc thực hiện ơn gọi tu trì. Điều quan trọng cần nhớ là một khi con đường ta đang đi gặp ngõ cụt đừng quá chán nản, đầu hàng bởi nếu con dường này cụt sẽ có một con đường gần đó là con đường dẫn đến nơi tốt lành, có thể là nơi ta không muốn đến nhưng ý Chúa nhiệm mầu, hiểu sao thấu. Tỉnh táo, cẩn trọng và kiên nhẫn tìm kiếm sẽ gặp được con đường mới dẫn đến đích Chúa mời gọi. Kẻ thất bại là kẻ đầu hàng. Học từ thánh Giuse, kiên tâm bền chí dẫn đến thành công.
Khi lớn lên nhận biết trước khi mình được sinh ra thì cha mẹ đã không muốn thấy mặt mình là một nỗi sầu lớn trong đời. Cha mẹ có thể vì áp lực xã hội, phong tục địa phương không dám nhận em bé sinh ra ngoài hôn nhân. Dù lí luận thế nào đi nữa cũng không thể thay đổi được thực tế phũ phàng của việc từ bỏ đứa con chưa ra đời. Đứa nhỏ là một bào thai, vô tội, chưa từng gây điều trái trở thành nạn nhân của xã hội đương thời hoặc nạn nhân của ý riêng. Đức Kitô là đứa trẻ bị chối bỏ trước khi sinh ra nhưng Ngài lớn lên mà không hề mang mặc cảm, không hằn thù, tự ti, mặc cảm, cũng chẳn hề nửa lời trách cha mẹ mình.
Phúc Âm tường thuật trước khi về chung sống với nhau cậu Giuse biết cô Maria đã có thai nên cậu âm thầm định từ hôn một cách kín đáo. ý định từ hôn vì sợ tiếng đời và sợ liên luỵ đến an nguy của cô Maria và bào thai trong cô Mat 1,19.
Về phần cô Maria cũng không hơn gì. Sứ thần đến báo tin cho biết cô sẽ mang thai và sẽ sanh một bé trai. Để chuẩn bị đưa tin sứ thần đã chuẩn bị tâm tình cô thông báo
‘Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở củng bà’ Lc 1,28
Sau đó sứ thần loan tin. Bằng đó câu khuyến khích chúc mừng giúp cô Maria bớt lo lắng bồn chồn khi nhận tin cô sẽ thụ thai. Cô Maria bối rối, lo lắng nhưng vẫn muốn hỏi cho rõ: việc đó xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng Lc 1,34.
Mặc dù không hề có chữ nào nói là cô Maria không muốn có con nhưng thái độ của cô Maria cho thấy cô không sẵn sàng đón nhận em bé đó.
Từ chối đón nhận tin vui Đấng Cứu Thế sinh ra cách đây hai ngàn năm dường như được lập đi, lập lại nhiều lần trong lịch sử cứu độ. Mỗi một thế hệ người sinh ra lại có người chấp nhận tin vui và cũng có người từ chối tin vui. Người ta mong đợi Đấng Cứu Thế đến nhưng khi Ngài đến người ta từ chối đón nhận. Người ta đi tìm ánh sáng chân lí nhưng khi ánh sáng đó lan tràn người ta lại chạy núp trong bóng tôi, ưa bóng tối hơn ánh sáng chân lí. Người ta khát khao tình yêu chân thật từ Thượng đế nhưng khi tình yêu đó đến người ta làm ngơ tình yêu từ thiên giới và chờn vờn với tình yêu tạo vật. Người ta đi tìm sự sống nhưng khi sự sống trường sinh đến người ta lại đóng đinh sự sống đó.
Thiên Chúa đến trong thế gian một cách bình thường đến độ con người làm ngơ, coi việc Ngài đến như là sự sống bình thường của một con người bình thường. Có lẽ còn đơn sơ, hèn mọn hơn cuộc sống của một con người bình thường. Sinh ra nơi đồng hoang, trong cảnh nghèo, giữa kẻ ăn không đủ no, mặc không đủ ấm. Ngài đến rao giảng tin vui nhưng kẻ đón nhận, người từ chối, chê bai. Ngài đến không kèn, trống. Có tiền hô, hộ ủng đấy. Tiền hô là một chàng trai trẻ, mặc áo lạc đà, ăn châu chấu, uống nước sông. Hậu ủng là nhóm mươi người lang thang, thất thế, không nhà cửa. Đường lối Thiên Chúa khác hẳn đường lối xã hội. Con đường Ngài đi là con đường tình yêu mà tình yêu chân chính gắn liền với khiêm nhu, đơn sơ và khó nghèo. Ba đặc điểm trên thể hiện ngày Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Ba đặc điểm trên cũng thể hiện ngày Ngài tử nạn trên thập tự. Trên đồi Calvê có bạo động, có tiếng búa chói tai, có hò hét, la ó. Ai gây ra tiếng đó thưa là những nhà lãnh đạo trong dân. Thưa là đám lí hình hành hung người tù và cuối cùng là tiếng của đám đông chứng kiến. Đấng Cứu Thế im lìm đón nhận tất cả vì tình yêu Ngài dành cho nhân loại.
Cậu Giuse và cô Maria đón nhận Đấng Cứu Thế do sự can thiệp kì diệu của Thiên Chúa. Mùa Giáng Sinh chúng ta xin ơn bình an và ơn cam đảm đón Chúa tái sinh trong cõi lòng mỗi người.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Ông bà ta thường nói “nhập gia tuỳ tục, nhập giang tùy khúc”, nghĩa đen: “Vào nhà tùy theo tục nhà, vào sông tùy theo khúc sông”, còn nghĩa bóng: “Đến nơi nào phải theo phong tục của nơi đấy”. Cụ thể, khi một vị khách vào nhà của ai, người khách đó phải làm theo những lề thói mà gia chủ đang có, điều đó nói lên thái độ lịch sự và tôn trọng của người khách đối với chủ nhà. Đó cũng là điều thường tình mà chúng ta vẫn đã và đang làm trong cuộc sống văn hóa Á đông của chúng ta.
Nhưng, qua Trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có một người bước vào căn nhà cuộc đời của Đức Maria, Thánh Giuse và tất cả chúng ta nhưng lại không làm theo ý hay tục lệ chúng ta đã sắp xếp. Người đó chính là Thiên Chúa. Vâng, Thiên Chúa bước vào cuộc đời của Đức Maria và thánh Giuse và Ngài làm thay đổi hết những dự tính của các ngài. Chúa dắt các Ngài bước đi theo một con đường hoàn toàn mới mẻ và xa lạ, nằm ngoài những dự tính ban đầu của các Ngài. Có thể nói, Chúa đã làm xáo trộn kế hoạch rất tốt đẹp và thánh thiện nơi cuộc đời của Đức Maria và thánh Giuse. Ý định của Đức Mẹ ban đầu là dâng mình tận hiến cho Thiên Chúa, Thánh Giuse là người công chính định tâm bỏ Đức Mẹ cách kín đáo khi biết Đức Mẹ có thai mà chưa đính hôn với mình. Rõ ràng, trong Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy Thiên Chúa đã bước vào đời của các Đức Mẹ và Thánh Giuse và các Ngài cũng đã để Chúa bước vào cuộc đời của mình, vì thế, chúng ta thấy cuối đoạn Phúc âm, Thánh Mátthêu viết: “khi tỉnh giấc, Ông Giuse đón vợ về nhà”. Tới đây, tưởng chừng như bình an và hạnh phúc đến với gia đình trẻ này, nhưng rồi Thiên Chúa “không để yên” cho các Ngài. Thiên Chúa giao cho các Ngài một sứ mạng xem ra kỳ cục và nghịch lý lắm; xem ra Chúa muốn phá vỡ hạnh phúc của các Ngài, nhưng đó là cách thức Chúa hành động trên những người, Ngài yêu thương cách riêng.
Qủa thế, Mẹ Maria được Thiên tuyển chọn, Người Nữ Thánh Thiện được làm Mẹ Đấng Cứu Thế và qua trung gian Mẹ Maria, Thiên Chúa đã trao ban Đấng Cứu Độ cho loài người. Vì Mẹ Maria sống khiệm nhường nên Mẹ sẵn sàng thưa hai tiếng xin vâng làm theo ý Chúa trong ngày truyền tin cho đến tận đồi Can-vê. Vì Mẹ sống khiêm nhường nên Mẹ đã để Thiên Chúa bước vào đời Mẹ và Mẹ đã gặp được Thiên Chúa và được Chúa đến ngụ trong tâm hồn Mẹ. Vì thế, Mẹ đã luôn phó thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa, luôn sống và làm theo những gì Thiên Chúa muốn nơi cuộc đời của Mẹ với niềm hy vọng và tin tưởng trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời: Lúc vui, lúc buồn, lúc bối rối, lúc lo sợ, lúc an bình…… Nhờ việc hạ mình sống theo ý và Lời Chúa mà Mẹ Maria được gọi là người có phúc hơn mọi người phụ nữ. Còn Thánh Giuse, chàng trai cưới vợ nhưng chưa chung sống thì vợ mình đã có thai, Giuse phải đau khổ lắm! Thế nhưng, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho Ngài biết “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); rồi Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình”(Mt 1,20). Nhận ra thánh ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về”(Mt 1,24). Rồi, cuộc sống đang bình yên tại Bêlem thì chính lúc đó Chúa lại bảo ông chỗi dậy đi ngay giữa đêm khuya, không hành trang, không tiền bạc sang Aicập sống kiếp lưu đày. Trước mắt là gian truân vất vả, nhưng thánh Giuse luôn tín thác vâng phục “Chỗi dậy, ông đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Aicập ngay giữa đêm khuya” (Mt 2,14). Rồi khi đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người với một cơ ngơi bé nhỏ mà Giuse đã gầy dựng từ hai bàn tay trắng, một lần nữa Chúa lại bảo ông phải bỏ lại tất cả để ra đi. Thật mau mắn trước Thiên ý “Giuse chỗi dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel” (Mt 2,21). Ấy vậy, bất cứ hoàn cảnh nào, dù gặp những thử thách gian truân, Thánh Giuse vẫn can đảm kiên cường vượt qua, một niềm tin tưởng, phó thác vào bàn tay dìu dắt của Chúa. Ngài luôn nhạy bén khi đã nghe tiếng gọi của Thiên Chúa thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù gặp nhiều sự dữ hơn sự lành và luôn kiên định xin vâng trước Thiên ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người.
Hai tiếng “xin vâng” tự nguyện của Đức Maria, một thái độ sẵn sàng của thánh Giuse đã làm cho chương trình của Thiên Chúa được thực hiện cách trọn vẹn và tốt đẹp. Các ngài đã để cho Thiên Chúa tự do hành động trên cuộc đời của mình, dù có những lúc các Ngài cảm thấy mình đang bước đi trên những nẻo đường không chút hy vọng. Dù các ngài là những con người được Thiên Chúa chọn cách riêng để làm theo chương trình của Chúa, nhưng các ngài đã chấp nhận biết bao khổ cực và cay đắng, chịu đựng biết bao những hy sinh và mất mát. Và nhờ thái độ tin tưởng và phó thác đến cùng đã làm cho các Ngài trở thành những con người được “muôn đời ca tụng”.
Dù Thiên Chúa làm chủ cuộc đời của chúng ta, có quyền bước vào căn nhà cuộc đời của chúng ta và hành động cách “nhập gia không tuỳ tục”, nhưng Thiên Chúa vẫn chờ đợi thái độ đáp trả của chúng ta vốn chỉ là những người quản lý cuộc đời của mình trong tự do và trách nhiệm mà Thiên Chúa ban cho mà thôi. Thiên Chúa đang bước vào cuộc đời của mỗi người chúng ta, nhưng chúng ta có đón tiếp Chúa không hay chúng ta muốn tự mình lãnh đạo cuộc đời của mình vì sợ Chúa đến làm xáo trộn chương trình của mình, hoặc chúng ta nghi ngờ lòng thương xót của Chúa, sợ Chúa dẫn mình đi trên con đường xem ra không giống ai. Chúng ta nên biết rằng nếu chúng ta tự định liệu số phận cho mình, cuộc đời của chúng ta sẽ là những con người đáng thương nhất bởi lẽ, chúng ta có khó nhọc, có tất bật chạy ngược, chạy xuôi thì cũng hoài công vô ích mà thôi, vì chúng ta đang xây dựng đời mình trên cát và thiếu viên đá gốc tường là Chúa Giêsu vì Lời Chúa nói: “Được lời cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì”. Hãy để Thiên Chúa giúp ta xây dựng cuộc đời của chúng ta, và chúng ta hãy tích cực cộng tác với Chúa và ngoan ngoãn bước theo Chúa, làm theo những gì Chúa đang thiết kế cho đời ta. Đó là thái độ của những con người khôn ngoan và đó cũng chính là thái độ của Đức Maria và Thánh Giuse ngày xưa, nhờ thái độ đó mà Thiên Chúa đã làm cho các ngài và cả chúng ta thành những con người có phúc và bính an ngay hôm nay và mai sau. Amen.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Phụng vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay trình bày cho chúng ta mẫu gương Thánh Giuse, người công chính đón Chúa đến trong cuộc đời. Theo tập tục Do Thái, mỗi cuộc hôn nhân thường trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất là đính hôn. Việc đính hôn này thường do cha mẹ hay người mai mối thực hiện, còn đôi bạn trẻ chẳng hề biết trước về cuộc đính hôn này. Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Giai đoạn này thường kéo dài một năm để đôi bạn có dịp quen biết nhau… Khi đã hứa hôn, thì mọi người đều xem đôi bạn như là vợ chồng, mặc dù họ chưa thực sự chung sống với nhau. Lễ hứa hôn này được tổ chức rất long trọng. Bài Tin Mừng hôm nay nói hôn nhân của Thánh Giuse và Đức Mẹ trong giai đoạn này. Còn Giai đoạn thứ ba là kết hôn theo đúng nghĩa, tức là đôi bạn chung sống thật sự với nhau.
Tin Mừng kể trước khi kết hôn, Thánh Giuse hay tin Mẹ Maria có thai. Và cũng theo Luật hôn nhân Do thái, trong thời gian hứa hôn, nếu người vợ hay người chồng ngoại tình và bị tố cáo, sẽ bị xử tội “ném đá”. Sự kiện Maria có thai làm cho thánh Giuse phải đau khổ, bối rối, nghi ngờ và khó xử nên định tâm bỏ Đức Mẹ thật kín đáo. Nhưng, Thánh Giuse là người công chính nên với tình yêu, sự khoan dung và lòng nhân từ Giuse “không muốn tố giác Đức Mẹ”. Đang khi định tâm như vậy, thì sứ thần Chúa đến báo trong giấc mơ rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Khi tỉnh giấc, Thánh Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà và Thánh Giuse đã không ăn ở với Mẹ Maria.
Quả thật, Thánh Giuse là người công chính nên mới làm những việc trọng đại như thế. Nhưng, thế nào là công chính? Trước tiên sự công chính phải là một sự thành thực với chính mình, lắng nghe tiếng lương tâm và can đảm thi hành những gì lương tâm nói cũng là tiếng Chúa cho biết là đó là điều chính đáng, là Thánh ý Thiên Chúa. Hành động thánh Giuse không muốn tố giác…nên định tâm lìa bỏ cách kín đáo… cho thấy thánh Giuse không hành động theo thói quen, ứng ích kỷ của con người ngược lại, Thánh Giuse với sự suy nghĩ sâu xa và thành thực, Ngài đã tìm cách giải quyết đúng đắn nhất theo tiếng nói lương tâm. Thứ đến sự công chính đích thực là sự tôn trọng người khác. Thánh Giuse thực sự đã tôn trọng Đức Maria, chỉ nhờ sự tôn trọng đó mà Thánh Giuse mới có thể tin sự thụ thai của Đức Maria là huyền nhiệm nên Ngài đã không kết án Đức Maria cách võ đoán. Sau cùng chính nhờ thái độ thành thực với chính mình, tôn trọng Đức Maria như vậy, nên thánh Giuse mới nghe theo lời của Sứ thần và tin vào chương trình Thiên Chúa muốn thực hiện nơi người Bạn đời của mình và nơi cuộc đời mình.
Trong cuộc đời, mỗi người chúng ta ai cũng có những chương trình riêng: học hành, công ăn việc làm, chuyện lấy chồng lấy vợ, gia đình và con cái, tu trì, sức khỏe, của cải tương lai, chuyện Đạo hạnh bản thân và gia đình… những công việc ấy vẫn xảy ra từng giây phút trong đời của mỗi người chúng ta, làm cho chúng ta phải lựa chọn giữa chương trình của mình và kế hoạch của Thiên Chúa hay thánh ý của Chúa. Có những lúc thánh ý của Chúa làm đảo lộn dự tính tốt đẹp của chúng ta, buộc chúng phải suy nghĩ, phải lựa chọn. Có những lúc thánh ý của Chúa làm chúng ta phải bối rối vì không biết phải làm gì, vâng theo ý Chúa hay làm theo ý mình. Có những lúc thánh ý Chúa cần chúng ta phải có thái độ mở rộng trước những điều lạ lùng, những điều kỳ diệu của Thiên Chúa được thực hiện nơi chúng ta. Thánh ý Thiên Chúa không phải lúc nào cũng hợp với ý thích của chúng ta. Nhờ sự công chính, thánh Giuse đã hiểu được điều đó, Người luôn sẵn sàng, mau mắn thi hành ý Chúa. Noi gương Thánh Giuse, chúng ta hãy sẵn sàng lắng nghe ý Chúa, làm theo ý Chúa như thế chúng ta mới nên công chính và giúp ta khám phá ra những điều huyền nhiệm của cuộc đời con người. Hãy để Thiên Chúa dẫn dắt cuộc đời ta qua những nẻo đường bất ngờ, từ đó ta mới có thể cảm nhận được tình yêu bao la của Chúa dành cho ta. Cho nên, Khi gặp hạnh phúc hay sung sướng, chúng ta tạ ơn Chúa đồng thời phải gắn bó với Chúa hơn nữa. Khi thành công và giàu có, chúng ta tạ ơn Chúa đồng thời biết chia sẻ với tha nhân vì chưng Chúa Giêsu dạy “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Khi lâm cảnh túng thiếu nghèo khổ, đừng buồn bã, đừng oán trách trái lại, chúng ta cần phải cậy dựa và tìm đến Đấng phù trợ ta nhờ đó đức tin ta được mạnh mẽ và vững vàn hầu luôn được Chúa ủi an làm cho ta được bình an mà vui sống với Chúa, trong Chúa và bên Chúa. Khi gặp đau khổ tinh thân thần cũng như thân xác, đừng tuyệt vọng, đừng đánh mất đức tin! Nhưng, trước hết phải sống Lời Chúa hằng ngày, nghĩa là xin vâng và thi hành Lời Chúa ở bất cứ hoàn cảnh nào hay dù đau khổ mấy đi chăng nữa. Vì chính lúc ấy, Lời Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng đau khổ đồng thời kiên trì giữ vững đức tin để rồi đến một lúc nào đó chắc chắn chúng ta sẽ nhìn thấy những điều kỳ diệu và những điều lớn lao mà chúng ta không tưởng tượng được! Đúng như Lời Chúa trong thư Do thái quả quyết: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết noi gương Thánh Giuse, bước đi theo đường lối của Chúa và thi hành Lời Chúa trong cuộc sống hầu để Chúa luôn giáng sinh trong cuộc đời chúng con. Amen.
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Theo tiến trình phụng vụ của Giáo Hội, trước Đại Lễ Giáng Sinh, bao giờ Giáo Hội cũng cử hành một tuần lễ áp, từ ngày 17 đến ngày 24, để nhắc lại tất cả những gì xẩy ra trước Biến Cố Giáng Sinh và trực tiếp liên quan đến Biến Cố Giáng Sinh. Đầu tiên là hai bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu, một cho ngày 17, về nguồn gốc loài người của Chúa Kitô theo gia phả của Người, và một cho ngày 18, về nguồn gốc Biến Cố Nhập Thể của Người, sau đó, Phúc Âm Thánh Luca thứ tự cho thấy chi tiết hơn, ở ngày 19, về việc thiên thần báo tin Gioan Tẩy Giả ra đời, ở ngày 20, về việc truyền tin Lời Nhập Thể, ở ngày 21, về việc Mẹ Maria thăm viếng bà Isave, ở ngày 22, về ca vịnh Mẹ Maria ngợi khen Thiên Chúa là Đấng chẳng những “đã thương đến phận thấp hèn tì nữ của Ngài” là Mẹ mà còn “săn sóc Yếu Duyên tôi tớ của Ngài theo lòng Ngài xót thương, như Ngài đã phán hứa với các vị tổ phụ”, ở ngày 23, về việc đặt tên cho Gioan Tẩy Giả, và ở ngày 24, về ca vịnh Giacaria, thân phụ của hài nhi Gioan, báo trước việc “Chúa là Thiên Chúa của Yến Duyên đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài”. Theo chiều hướng ấy, các bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Thứ Bốn, Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng này, cũng cho thấy, ở chu kỳ phụng vụ Năm A theo Phúc Âm Thánh Mathêu, về việc thiên thần báo mộng cho Thánh Giuse liên quan đến Lời Nhập Thể, ở Năm B theo Phúc Âm Thánh Luca, về biến cố Truyền Tin theo Phúc Âm Thánh Luca, (vì Phúc Âm Thánh Marcô cho chu kỳ Năm B không có một chi tiết nào về sự kiện Nhập Thể), và ở Năm C cũng theo Phúc Âm Thánh Luca, về việc Mẹ Maria thăm viếng và được bà Isave nhận biết Đấng cưu mang trong lòng Người. Riêng bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu hôm nay cho chúng ta thấy nguồn gốc của việc “Con Đấng Tối Cao” (Lk 1:32) nhập thể, một biến cố trực tiếp liên quan đến cha mẹ của Người, nhất là liên quan đến vị cha nuôi của Người.
Thật vậy, hai tuần Mùa Vọng trước đây chúng ta đã thấy nhân vật Gioan Tiền Hô nổi bật trong các bài Phúc Âm Thánh Mathêu, hôm nay, cũng theo Phúc Âm Thánh Mathêu, đến phiên nhân vật Giuse, nhân vật chính được Thánh Ký Mathêu ghi nhận, “Maria đã đính hôn” và “là một con người chính trực”. Và cũng chính vì “là một con người chính trực” mà Thánh Giuse, như Phúc Âm kể tiếp, “không muốn tố cáo (Mẹ) nên “định tâm bỏ (Mẹ) cách kín đáo”. Tuy Phúc Âm không thuật lại cho biết “con người chính trực” này tại sao lại đi đến quyết tâm như vậy, chúng ta cũng hiểu là thánh nhân đã nhìn thấy tận mắt Mẹ Maria đang mang thai, trong khi hai người mới đính hôn với nhau, chưa về chung sống vợ chồng với nhau. Sự kiện Chúa Giêsu được thụ thai trong thời gian Mẹ Người đính hôn này cho thấy, theo pháp lý Do Thái bấy giờ, một khi đã đính hôn, hai người nam nữ có thể ăn ở với nhau như vợ chồng. Bằng không, Chúa Giêsu có thể bị coi là đứa con tiền hôn, thậm chí có thể trở thành một đứa con ngoại hôn hay một đứa con hoang, nếu hôn nhân không thành theo kiểu đính hôn thời nay, hay sau khi Thánh Giuse âm thầm bỏ đi. Phúc Âm cũng không thuật lại cho chúng ta biết “con người chính trực” này đã thấy được sự kiện phũ phàng oái oăm này lúc nào, (chắc chắn là sau thời gian Mẹ Maria đi thăm mẹ con Thánh Gioan Tẩy Giả về), và cuộc chiến đấu nội tâm đã xẩy ra như thế nào nơi Thánh Giuse sau khi chứng kiến thấy sự lạ xẩy ra trên thân xác của người vợ đính hôn của mình. Thế nhưng, căn cứ vào những chi tiết hết sức quan trọng, dù ngắn ngủi của Phúc Âm hôm nay, (cũng là bài Phúc Âm cho Lễ Kính Thánh Giuse 19/3 hằng năm, và cho cả lễ ngày 18/12 trong tuần trước Đại Lễ Giáng Sinh), chúng ta có thể cảm thấy được tâm trạng đau khổ quằn quại của Thánh Giuse, và cũng mới có thể thông cảm được việc ngài quyết định “bỏ (Mẹ) cách kín đáo”, một quyết định mà đối với ngài bấy giờ hết sức sáng suốt và khôn ngoan của “một con người chính trực”.
Trước hết, Thánh Giuse đã quằn quại với một tâm trạng đau khổ, đến nỗi, đã quyết định âm thầm bỏ đi. Phải chăng quyết định âm thầm bỏ đi của thánh nhân là một quyết định khôn ngoan sáng suốt, hay chỉ là một quyết định bối rối quá không biết phải làm sao hơn? Chúng ta có thể nghĩ rằng, sau khi chợt thấy người vợ đính hôn của mình rõ ràng là có bầu, với cái bụng phồng lên trông thấy, có thể nào về phương diện nhân loại, thánh nhân lại không bật ngửa ra, vô cùng lạ lùng bỡ ngỡ. Chắc chắc ngài đã không lên tiếng hỏi Mẹ Maria cho rõ ràng minh bạch về vấn đề này. Bởi thế, chúng ta cũng có thể suy ra rằng ngài đã bất chợt trông thấy Mẹ có bầu chứ không trực diện với Mẹ. Cho dù như thế, dù không trực diện với Thánh Giuse, Mẹ Maria chắc cũng linh cảm thấy, nếu không muốn nói là biết được rằng vị phu quân của Mẹ đã thấy chuyện lạ nơi thân xác của Mẹ. Cho dù có linh cảm thấy hay biết được điều này đi nữa, Mẹ Maria cũng đã chấp nhận nó ngay từ khi thưa lời “xin vâng” (Lk 1:38). Cả hai đều khó mở lời với nhau đối với vấn đề này. Về phần Thánh Giuse, nếu Mẹ Maria không tự động nói ra, chẳng lẽ ngài lại đi vặn hỏi, như thể ngờ vực và ghen tương, trong khi thánh nhân “là một con người chính trực”, cao thượng. Phần Mẹ Maria, chẳng lẽ phu quân của mình không hỏi mà lại tự động nói ra, như thể sợ bị ngài hiểu lầm, trong khi đó Mẹ lại là một con người “có phúc vì đã tin những gì Chúa phán sẽ được thực hiện” (Lk 145), nghĩa là, Mẹ không lo gì cả, hoàn toàn phó thác cho Chúa tất cả mọi sự, để Ngài tự giải quyết vấn đề theo ý định và đường lối của Ngài, không phải vì Mẹ muốn thách đố Chúa, ở chỗ, nếu Mẹ bị ném đá chết thì Chúa Kitô cũng sẽ chết, như thế những gì Chúa phán sẽ bất thành.
Chúng ta không biết khi quyết định âm thầm bỏ Mẹ Maria mà đi như thế, Thánh Giuse có nghĩ ra rằng, nếu làm vậy, cho dù thánh nhân không trực tiếp ra mặt khiến cho Mẹ bị ném đá chết, thì ngài cũng gián tiếp gây ra sự việc đáng tiếc ấy nếu chẳng may xẩy ra thực sự. Bởi vì, sau khi ngài đi rồi, mà Mẹ Maria lại bị khám phá ra không chồng mà có chửa thì cuối cùng Mẹ cũng bị ném đá chết thôi. Như thế, phải chăng Thánh Giuse chỉ nghĩ đến mình, đến danh thơm tiếng tốt của mình, hơn là dám liều mình che chở cho người khác, kể cả kẻ làm ô danh mình đi nữa, nếu quả thực là như vậy? Thế nhưng, khách quan mà nói, có một điều không thể tránh được là “chính trực” bao giờ cũng ngược với bất chính và không thể nào chấp nhận gian tà, như dâm ô, trộm cướp, giết người v.v. Bởi thế, sự kiện Mẹ Maria mang thai ngoại hôn khách quan là một chuyện không thể chối cãi, một chuyện tự bản chất thật là bất chính và gian tà, không thể chấp nhận được. Thánh Giuse có nghĩ rằng Mẹ Maria đã phạm tội ngoại tình hay chăng, không ai dám khẳng định và quả quyết. Tuy nhiên, việc mang thai ngoại hôn của Mẹ Maria trước mắt thánh nhân bấy giờ quả thực là một việc ngoại tình, và việc ngoại tình này không phải chỉ phạm đến thánh nhân mà nhất là phạm đến chính lề luật, tức đến chính Thiên Chúa. Việc ngài quyết định âm thầm bỏ đi không tố cáo Mẹ nghĩa là ngài hoàn toàn không dám phán đoán Mẹ, trái lại, trao phó những gì ngoài thẩm quyền phán quyết của ngài cho lề luật, cho Thiên Chúa Tối Cao là Đấng duy nhất có quyền phán xét Mẹ.
Như thế, quyết định âm thầm bỏ vị hôn thê của mình mà đi chứ không muốn ra mặt tố cáo người của Thánh Giuse cho thấy thánh nhân chẳng những “là một con người chính trực” theo luật cũ, mà còn là một con người nhân hậu theo luật mới nữa, một thứ luật mới được “Con Đấng Tối Cao” (Lk 1:32), “quả phúc nơi lòng” (Lk 1:42) vị hôn thê của ngài bấy giờ mà ngài không biết, sau này sẽ khuyên dạy trong Bài Giảng Trên Núi, được Phúc Âm Thánh Mathêu ghi lại ở đoạn 7 câu 1, như sau: “Đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét”. Phải, nếu Thiên Chúa đã làm sáng tỏ những mầu nhiệm của Ngài cho những tâm hồn đơn sơ bé mọn nhất (xem Mt 11:25), thì Ngài quả thực đã thực hiện điều này nơi trường hợp điển hình của “con người chính trực” Giuse. Ở chỗ, như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, “đột nhiên thiên thần Chúa hiện ra trong giấc mộng của ông mà nói: ‘Hỡi Giuse, con Đavít, đừng sợ nhận Maria làm vợ. Chính bởi Thánh Thần mà người đã thụ thai con trẻ ấy. Người sẽ sinh ra một bé trai và ông sẽ đặt tên cho bé là Giêsu, vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội’”. Chính vì “là một con người chính trực”, nhưng không phải kiểu công minh chính trực của nhóm Pharisiêu đầy những tự cao, tự đại, xét nét, khinh người, mà là một thứ công chính nhân hậu của Tân Ước, với một tinh thần hết sức đơn sơ bé mọn, nên thánh nhân đã chấp nhận ngay mạc khải của Thiên Chúa, cho dù mạc khải của Ngài không tỏ ra cho thánh nhân thấy giữa thanh thiên bạch nhật mà chỉ qua một giấc mộng. Thánh nhân đã mau mắn chấp nhận mạc khải của Thiên Chúa ở chỗ, như phần kết của bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: “Khi Giuse thức giấc ông đã làm như lời thiên thần chỉ dẫn và đã đón vợ về nhà mình”.
Trong câu chuyện của bài Phúc Âm hôm nay, câu chuyện Thánh Giuse định tâm âm thầm bỏ Mẹ Maria mà đi rồi sau đó đã đón Mẹ về nhà mình khi nhận được mạc khải của Thiên Chúa, chúng ta chẳng những thấy được hình ảnh của một Đấng Thiên Sai khổ nạn và tử giá, một cuộc khổ nạn và tử giá đã rọi chiếu nơi cha mẹ của Ngài ngay trước khi Người xuất hiện, mà còn thấy được cả ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa tỏ ra cho chúng ta thấy trong biến cố này nữa. Ý định đó là, muốn chấp nhận Vị Thiên Chúa Nhập Thể, tức chấp nhận Đấng Thiên Sai khổ nạn và tử giá, dù có nhận ra Người hay không, con người chẳng những phải chấp nhận thập giá khổ đau bởi Người và với Người, mà còn phải chấp nhận cả Mẹ của Người là Trinh Nữ Maria nữa. Khi Thánh Giuse “đón vợ về nhà mình” cũng chính là lúc thánh nhân đón cả “Giêsu quả phúc” trong lòng vị hôn thê “đầy ơn phúc” của thánh nhân về nhà của thánh nhân vậy.
Vấn đề thực hành sống đạo: Không một tạo vật nào trên trời dưới đất gần gũi Mầu Nhiệm Nhập Thể bằng Mẹ Maria, vì Mẹ là Mẹ của Lời Nhập Thể. Nếu con khổng long và bọn ngụy thần của hắn bị hất nhào xuống đất mất chỗ đứng của mình trên trời (xem Rev 12:8) là vì chúng không chấp nhận Lời Nhập Thể, tức không chấp nhận loài người được làm Mẹ Thiên Chúa (xem Rev 12:4), và nếu tinh thần phản kitô hay thành phần phản kitô là tinh thần và là thành phần “không chấp nhận Chúa Giêsu Kitô đến trong xác thịt” (2Jn 7; xem 1Jn 4:3), thì quả thực muốn chấp nhận hay muốn cảm nghiệm thần linh về Lời Nhập Thể, nhất là trong Mùa Vọng, phải chăng con người cần “hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” (Mt 18:3), ở chỗ, trước hết, chấp nhận Mẹ Maria, tức đến với Mẹ để Mẹ dẫn họ đến với Chúa, vì Chúa đã thực sự nhờ Mẹ đến với loài người: Mẹ chính là Điểm Hẹn Thần Linh, nơi Thiên Chúa hẹn gặp gỡ loài người và là nơi loài người chắc chắn sẽ gặp được Ngài là Vị Thiên Chúa Làm Người trong lòng Mẹ và được hạ sinh bởi Mẹ?
Chẳng lẽ Thiên Chúa nhập thể là thực hiện một việc hoàn toàn sai lầm, bất khôn và thất sách, gây hại hơn là tác lợi hay sao?
Hôm nay, Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Phụng Vụ Lời Chúa bao gồm 2 Bài Đọc 1 và 2 cùng với bài Đáp Ca và bài Phúc Âm như mọi Chúa Nhật khác trong phụng niên. Tuy nhiên, vì Chúa Nhật IV Mùa Vọng thường rơi vào một ngày trong Tuần Bát Nhật tiền Giáng Sinh, từ ngày 17 đến đêm vọng Giáng Sinh 24/12, nên Chúa Nhật IV Mùa Vọng năm 2016 là ngày 18/12, tức ngày thứ hai trong Tuần Bát Nhật tiền Giáng Sinh. Ngoài ra, chu kỳ phụng niên từ Mùa Vọng năm 2016 thuộc về chu kỳ phụng niên Năm A, năm theo Phúc Âm Thánh ký Mathêu, bởi thế, bài Phúc Âm theo Thánh mathêu cũng chính là bài Phúc Âm cho ngày 18/12, chỉ có Bài Đọc 1 và 2 cùng bài Đáp Ca là khác.
Đúng thế, bài Phúc Âm Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm A cũng chính là bài cho ngày 18/12 trong Tuần Bát Nhật tiền Giáng Sinh hôm nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm cho ngày 17/12. Vì bài Phúc Âm 17/12 ghi lại gia phả của Đấng Thiên Sai Cứu Thế, từ tổ phụ Abraham tới dưỡng phụ Giuse của Người, và hôm nay về chính vị dưỡng phụ Giuse này.
“Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của Bà là người công chính, không muốn tố cáo Bà, định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: ‘Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội'”.
Theo gia phả của Đấng Thiên Sai, như chúng ta đã thấy, trong 5 người phụ nữ được liệt kê, có đến 3 người không trong sạch liên quan đến chuyện xác thịt: 1 con điếm dân ngoại và 2 người vợ ngoại tình, còn 1 người nữa là dân ngoại cũng kể như không trong sạch trước mắt dân Do Thái. Trường hợp của người đàn bà thứ năm là Maria, theo con mắt tự nhiên nói chung, nhất là trước con mắt của người chồng đã đính hôn của nàng là Giuse vốn là một “con người công chính” thì kể như nàng thậm chí còn tệ hơn nữa, vì nàng là người vợ chưa cưới nhưng đã “chửa hoang”!
Chính trong trường hợp này, trường hợp thật sự là bất khả chấp trước con mắt thế gian nói chung và những ai “công chính” nói riêng, như người chồng chưa cưới Giuse của nàng Maria, một con người luôn hết mình coi trọng và hết sức tuân giữ lề luật của Chúa với lương tâm chân chính, thì nàng Maria, đáng lẽ theo luật, cần phải bị tố cáo và bị ném đá chết, như trường hợp của người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình ở Phúc Âm Thánh Gioan (xem 8:1-11).
Thế nhưng, Thiên Chúa là Đấng vô cùng khôn ngoan thượng trí đã cố ý muốn, (chứ không phải làm ngơ để xẩy ra như vậy), câu chuyện tình duyên của hai con người phải nói là thánh thiện nhất loài người được Ngài liên kết trong tình nghĩa vợ chồng đây xẩy ra một cách vô cùng oái oăm oan nghiệt như vậy. Để làm gì? Phải chăng chỉ để khách quan cho thấy rằng: Đấy nhé, Đấng Thiên Sai là Con của Ngài được Ngài sai xuống trần gian hoàn toàn được “thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần”, chứ “không phải bởi huyết nhục, bởi ý muốn nhục dục, hay bởi ý muốn của nam nhân” (Gioan 1:13).
Ở đây, ngay trong trường hợp này, chúng ta đã thấy được bóng thánh giá của Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, ở chỗ, vừa mới được thụ thai được ít lâu, khoảng hơn 3 tháng, tức sau biến cố thai mẫu của Người đi thăm viếng người chị họ Isave về (xem Luca 1:56), đã bị coi như là một đứa “con hoang” trước mắt trần gian, cùng với người mẹ đồng công của Người, cũng bị coi như là một người vợ chưa cưới “chửa hoang” theo cảm nghĩ của người đời.
Thế nhưng, chính vì là việc của Thiên Chúa, mà cho dù nàng Maria có linh cảm được cái nguy hiểm gây ra bởi những bất hạnh theo luật có thể xẩy ra cho nàng, vì trong thời gian đính hôn, có những lúc nàng không thể nào tránh né được chuyện gặp mặt vị hôn phu chưa cưới của nàng, nàng vẫn nhất định không hề đính chính hay tự vệ tí nào, trái lại vẫn tiếp tục hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, như nàng đã tin tưởng đến độ vô cùng liều lĩnh khi đáp lời truyền tin của thiên sứ Gabiên trong việc chấp nhận thụ thai “Con Đấng Tối Cao… Con Thiên Chúa” (Luca 1:32,35).
Quả thật, vì là việc của Thiên Chúa, nên chính Ngài đã ra tay can thiệp cho Con của Ngài cũng là cho người nữ đã được Ngài tuyển chọn từ đời đời làm người mẹ trinh nguyên thụ thai, cưu mang và hạ sinh Con của Ngài trên trần gian, như được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại.
Việc Thiên Chúa can thiệp đây đồng thời cũng là việc Thiên Chúa muốn cứu cả vị hôn phu chưa cưới của người mẹ đồng công và là vị dưỡng phụ tương lai của người con cứu chuộc này, một con người công chính đã có một quyết định, theo chủ quan, thật là bác ái yêu thương, mặc dù, theo khách quan, vẫn có thể nguy hại cho người vợ chưa cưới của ngài, ở chỗ, khi nàng sinh con mà lại không thấy chồng nàng đâu, nàng cũng bị ném đá chết thôi.
Và như thế, tất cả những gì được tiên báo về hai mẹ con được Thiên Chúa ngay từ ban đầu đã tiền định cùng nhau mang lại Ơn Cứu Độ cho trần gian (xem Khởi Nguyên 3:15) hoàn toàn được ứng nghiệm, chẳng những nhờ lòng tin của người mẹ mà còn nhờ đức công chính theo tinh thần bác ái yêu thương hơn là duy luật của vị dưỡng phụ nữa, một cặp vợ chồng thật lý tưởng của Con Thiên Chúa làm người, như được Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại:
“Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: ‘Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta’. Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu”.
Biến cố và sự kiện Đấng Thiên Sai Cứu Thế xuất hiện trên trần gian này không thể nào không xẩy ra, đúng như lời Thiên Chúa đã hứa với hai nguyên tổ ngay sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15). Bởi thế, không có gì có thể gây trở ngại hay làm hỏng chuyện này, như trường hợp được Phúc Âm hôm nay ghi lại ở phần đầu.
“Lời tiên tri phán xưa”, được Thánh ký Mathêu là tác giả Phúc Âm thứ nhất viết cho dân Do Thái nên bao giờ ngài cũng dẫn chứng Cựu Ước để cho dân Do Thái thấy rằng Nhân Vật Lịch Sử Giêsu Nazarét quả thực là Đức Kitô Thiên Sai của họ, chính là lời tiên tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay:
“Ngày ấy, Chúa phán bảo vua Achaz rằng: ‘Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao!’ Nhưng vua Achaz thưa: ‘Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử thách Chúa’. Và Isaia nói: ‘Vậy hãy nghe đây, hỡi nhà Ðavít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta'”.
Trong Bài Đọc 2 chính vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô cũng xác tín và loan báo cho Kitô hữu Roma về xuất xứ của một Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế là Đấng đã được tiên báo trước trong Cựu Ước qua “các vị tiên tri”, vì Người được hạ sinh theo huyết nhục Do Thái “bởi dòng dõi Đavít”, đúng như gia phả của Người được Phúc Âm Thánh ký Mathêu ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay, Đấng “chính là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người, chúng tôi đã nhận ân sủng và chức vụ tông đồ, để nhân danh Người, chúng tôi quy phục mọi dân tộc về Ðức Tin, trong đó có cả anh em là những người mà Chúa Giêsu đã kêu gọi”.
Vì “Thiên Chúa là thần linh” (Gioan 4:24) nên con người không thể nào biết Ngài nếu chính Ngài không tỏ mình ra cho họ. Mầu nhiệm Nhập Thể là tác động thần linh tỏ mình ra của Thiên Chúa “vào lúc thời gian viên mãn” (Galata 4:4), “vào thời sau hết” (Do Thái 1:2), sau khi “chính Ngài là Hoàng Ðế hiển vinh… ngự qua”, như câu thưa của Bài Đáp Ca hôm nay, “ngự qua” bằng những cách thức khác nhau cho các vị cha ông trong Cựu Ước (xem Do Thái 1:1). Nếu Ngài không nhập thể thì loài người thấp hèn hữu hình hữu hạn tự mình không thể nào biết được Ngài là ai và như thế nào.
Tuy nhiên, cho dù Thiên Chúa có “hóa thành nhục thể” (Gioan 1:14) chăng nữa, nơi Đức Giêsu Kitô Con của Ngài, chung loài người và riêng dân Do Thái của Ngài, có thể nói, lại càng khó có thể nhận biết Ngài, nhận ra Ngài nơi một con người thấp hèn như họ: “Ngài đã ở trong thế gian và nhờ Ngài mà thế gian đã đưọc tạo thành nhưng thế gian lại không nhận biết Ngài là ai. Ngài đã đến với dân riêng của Ngài nhưng dân riêng của Ngài không chấp nhận Ngài” (Gioan 1:10-11).
Vậy thì chẳng lẽ Thiên Chúa nhập thể là thực hiện một việc hoàn toàn sai lầm, bất khôn và thất sách, gây hại hơn là tác lợi hay sao? Câu trả lời cho vấn nạn nạn giải này có thể tìm thấy ngay trong Bài Đáp Ca hôm nay, trong đó, Thánh Vịnh gia trước hết đã xác tín và tuyên ngôn về đức khôn ngoan và quyền toàn năng của Vị Thiên Chúa Hóa Công tối cao rằng: “Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển cả (ám chỉ quyền năng), và Ngài giữ vững nó trên chỗ nước nguồn (ám chỉ khôn ngoan)” (câu 1).
Vì Nhập Thể cho dù bề ngoài có là một biến cố lịch sử có thật, với những nhân vật lịch sử, như được liệt kê trong gia phả của Chúa Giêsu Kitô trong bài Phúc Âm hôm qua 17/12 chăng nữa, nhất là đối với riêng cha mẹ trần gian của Người, nhưng tự bản chất là một mầu nhiệm, được Bài Đáp Ca ám chỉ như là một “cao sơn của Chúa”, là “nơi thánh của Ngài” (câu 2), chỉ có thể nhận biết bằng “đức tin tuân phục” (Roma 1:5) mà thôi: “Ai chấp nhận Ngài thì Ngài ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Gioan 1:12).
Chính vì Nhập Thể là một mầu nhiệm vô cùng cao siêu, vượt tầm mức kiến thức hạn hẹp của con người vốn hướng hạ và gian ác mà, theo Thánh Vịnh gia của Bài Đáp Ca hôm nay, muốn cảm nhận và chấp nhận mầu nhiệm nhập thể này, tức là muốn “trèo lên cao sơn của Chúa” và muốn “đứng trong nơi thánh của Ngài”, hay nói đúng hơn, muốn “tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp” (câu 3), họ cần phải là những con “người có bàn tay (ám chỉ việc làm) vô tội và tấm lòng (ám chỉ ý hướng) thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa”, những con người được tiêu biểu nhất trong thành phần này đó là Mẹ Maria trinh nguyên và Bõ Giuse công chính, cha mẹ trần gian của Con Trẻ Giêsu.
Lần giở lại những trang Tin Mừng, bạn và tôi sẽ bắt gặp ở đó đến bốn cuộc truyền tin của Thiên Chúa nói với loài người, liên quan đến mầu nhiệm Con Chúa giáng sinh. Ba cuộc truyền tin được ghi trong Tin mừng theo thánh Luca và một trong Tin mừng theo thánh Mathêu. Cả bốn cuộc truyền tin đều do thiên thần mang sứ điệp của Thiên Chúa đến cho con người. Quan trọng hơn, cả bốn cuộc truyền tin, thiên thần đều có chung một lời trấn an: “Đừng sợ!”
Đối với ông Giacaria: “Giacaria, đừng sợ! Vì lời cầu của ngươi đã được chấp nhận”. Sau đó, thiên thần cho biết ông sẽ có một con trai như lòng mong ước. Người con này sẽ nên cao trọng vì “nó sẽ làm lớn trước mặt Chúa” (Lc 1, 5- 20).
Đối với Đức Maria: “Maria, đừng sợ! Vì Người đã đắc sủng nơi Thiên Chúa”. Qua lời thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Mẹ làm mẹ Đấng Cứu Thế (Lc 1, 26- 38).
Đối với các mục đồng: “Đừng sợ! Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại”. Qua lời thiên thần, các mục đồng là những người được Thiên Chúa báo tin mừng giáng sinh trước tiên (Lc 2, 8- 15).
Đối với thánh Giuse: “Giuse, đừng sợ! Vì thai nơi bà là do Chúa Thánh Thần” (Mt 1, 18- 24).
Hôm nay Chúa nhật áp lễ Giáng sinh, Giáo Hội muốn ta suy niệm cuộc truyền tin cho thánh Giuse. Để rút ra cho mình bài học Thánh Kinh từ câu chuyện truyền tin này, tôi lại rút ra bài học từ lời của thiên thần: “Đừng sợ”.
Lần giở tiếp những trang Tin Mừng, ta sẽ phát hiện rất nhiều lần Chúa bảo các môn đệ “đừng sợ”. Khi căn dặn các ông làm chứng cho Người, Chúa nói: “Các con đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 28). Trong bữa tiệc ly, ngay trước giờ tử nạn của mình, Chúa căn dặn: “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14, 27). Sau khi sống lại, ban bình an hoặc trấn an môn đệ “Đừng sợ! Hãy đi báo tin cho anh em của Thầy” (Mt 28, 10).
“Đừng sợ”! Lời Chúa ngày xưa nói với Giacaria, Đức maria, các mục đồng, thánh Giuse, và các môn đệ. Ngày nay lời này của Thiên Chúa cũng đang là lời nhắn gởi bạn và tôi. Bạn có sợ không? Riêng tôi, tôi thấy bạn và tôi sống trong cuộc đời này mà như chìm trong nỗi sợ. Tôi không bi quan đâu, sự thật đấy. Ngày nhỏ chúng ta sợ ma, sợ đòn. Lớn hơn một chút: sợ học tập thua sút bạn bè. Lớn hơn một chút nữa: sợ người yêu bội phản. Ngày ta lập gia đình, cũng là ngày ta sợ mình không tròn trách nhiệm của một người sống đời gia đình. Và cả cuộc đời ta, nỗi sợ lớn nhất, có lẽ là sợ chết.
“Đừng sợ, hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô”. Nếu tôi nhớ không lầm, thì ngay sau khi làm giáo hoàng, đức Gioan Phaolô II đã mở đầu triều đại của mìn bằng một sứ điệp với những lời lẽ như thế. Trải dài trên 20 năm làm giáo hoàng của mình, Đức thánh cha không ngừng nhắc đi nhắc lại với thế giới: “Đừng sợ!”. Xoay quanh hai tiếng “đừng sợ”, Đức thánh cha mở ra cho ta thấy có những cái sợ rất nghịch lý. Lẽ ra ta không được sợ, lẽ ra ta phải xây dựng nó, thì ta lại sợ. Bằng chứng là hai sứ điệp ngày Quốc tế Giới trẻ lần thứ 15 và lần thứ 16, Đức thánh cha nhắc tới nỗi sợ nghịch lý này: “Các con đừng sợ trở nên những vị thánh của thiên niên kỷ mới” (ngày QTGT lần thứ 15, số 3), và các con đừng sợ đi trên con đường Chúa đã đi” (ngày QTGT lần thứ 16, số 6). Nên thánh mà sợ? Đi con đường của Chúa mà sợ? Đúng lắm! Vì đi trên con đường của Chúa để được nên thánh là khổ nạn, là từ bỏ bản thân, là sống các giá trị Tin Mừng như nghèo khó, khiêm nhu, hiền từ, vâng lời… Suy nghĩ như thế, cho tôi cảm nhận trọn vẹn lời của Đức thánh cha: “Các con đừng sợ nen thánh, đừng sợ đi trên con đường của Chúa”. Đức thánh cha chắc phải có một cảm nghiệm thiêng liêng sâu đậm lắm, người mới vượt lên trên sự sợ hãi, tông du khắp thế giới làm cho nhiều tâm hồn thay đổi, Lời Chúa được loan báo.
Nhưng chắc chắn, khi nói tới sợ hãi, thì cái sợ của chúng ta không chỉ là sợ ma, sợ học thua sút, sợ mất người yêu, sợ không tròn trách nhiệm gia đình… mà nỗi sợ còn lớn hơn nhiều. Đó là nỗi sợ trước một thế giới mà giá trị của Tin Mừng bị xem nhẹ. Một thế giới màvật chất đang lên ngôi, quyền lực đang thắng thế, tự do tình dục đang được ưa chuộng, quyền của trẻ thơ, của thai nhi bị tước mất. Có khi chính những người cha, người mẹ lại tước mất quyền sống của con mình. Một thế giới mà ngòi nổ của khủng bố, chiến tranh lúc nào cũng sẵn sàng. Sự bình an của tôi, của anh chị em, của cả nhân loại luôn bị đe dọa. Ngay trên quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà ngày xưa Chúa sinh ra, lại không có được một thánh lễ trong đêm sinh nhật Chúa, vì người ta đang gieo rắc bạo lực và chiến tranh…
Trước viễn cảnh của thế giới như thế, người Kitô hữu lại được mời gọi hãy sống các giá trị của Tin Mừng. Nghĩa là phải ngay thẳng trong một thế giới nhiều gian dối, yêu thương trong những hận thù, có tinh thần nghèo khó trong một xã hội đề cao tiền của, sống tha thứ giữa những chống đối và bạo lực… Sống như thế chỉ toàn là thiệt thòi thôi. Bởi đó ai mà không sợ. Tôi cũng sợ lắm bạn ạ! Nhưng chính trong lúc này đây, chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, bạn và tôi được mời gọi “đừng sợ”, để có thể sống trong bình an của ngày Giáng sinh. Để có bình an, bạn và tôi hãy đặt hết niềm tin vào Chúa. Tin rằng Chúa sẽ thực hiện chương trình của Người theo ý mà Người muốn. Và xin cho Thánh Ý được thể hiện nơi trần gian trong mọi hoàn cảnh của thế giới, của nhân loại, của Giáo Hội, và của mỗi người. Tin nơi Thiên Chúa là gói trọn cuộc đời mình trong tay Người, để mặc Ý Chúa được thể hiện, chắc chắn ta sẽ có bình an. Tôi xin mượn lời thiên thần lặp lại một lần nữa: “Bạn và tôi, đừng sợ!”.
Khi sống trong trông mong chờ đợi, mà bỗng dưng xảy đến điều gì bất ngờ mang lại sự may lành thích thú hơn điều mong đợi. Lúc đó lòng ta tràn đầy niềm vui hạnh phúc.
Nhưng trái lại, khi điều xảy đến bất ngờ, không những không như mong đợi mà còn đưa đến điều lo âu suy nghĩ. Lúc đó, ta mang tâm trạng buồn lo thất vọng. Thánh Giuse sau khi kết hôn với Đức Mẹ Maria, cũng đã trải qua điều xảy bất ngờ mang lại nhiều suy nghĩ bối rối.
Ông Giuse kết hôn với cô Maria, nhưng ông liền khám phá ra: Cô Maria đã có thai. Điều này xảy đến thật bất ngờ ngoài điều ông trông chờ… Bao nhiêu câu hỏi diễn ra trong tâm trí ông và ông không tìm ra câu giải đáp: Tại sao cô Maria lại mang thai trước khi cưới hỏi, với ai vậy? Phải chăng cô không trung tín với người chồng của cô, là ta đây? Bây giờ phải làm sao? Cô đã bất trung với ta, thì ta bỏ cô vậy, mặc cô muốn sống sao như ý cô?
Ông âm thầm suy nghĩ ngày đêm về chuyện này, thì lại một bất ngờ xảy đến nữa. Thiên thần Chúa hiện đến với ông trong một giấc mơ và báo cho ông biết: con trẻ trong bào thai cô Maria là Con Thiên Chúa. Cô Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần tác động. Con đừng sợ. Đó là chương trình của Thiên Chúa xuống trần gian làm người!
Ông Giuse tuy là người đạo đức, có lòng yêu mến kính sợ Thiên Chúa, nhưng làm sao ông có thể hiểu nổi điều xảy đến bất ngờ vượt quá sức tưởng tượng của một bác thợ mộc chất phác nơi miền thôn quê! Dẫu vậy, lần này thì ông không hồ nghi. Ông âm thầm chấp nhận cô Maria và những lời Thiên Thần nói cho ông về Con Thiên Chúa và để bụng suy nghĩ tiếp về chương trình dự định của Thiên Chúa. Ông tin vào sự quan phòng của Người.
Điều xảy đến bất ngờ lần này mang lại cho ông sự bình an trong tâm hồn.
Không chỉ Đức Mẹ Maria và ông thánh Giuse sống trải qua những điều bất ngờ về chương trình của Thiên Chúa, nhưng còn có những người khác nữa: các mục đồng. Họ là những người quê mùa thất học, suốt đời chỉ sống với súc vật ngoài cánh đồng cỏ. Bỗng dưng họ cũng nhận được điều xảy đết bất ngờ. Thiên thần Chúa hiện đến báo tin cho họ: “Các Bạn đừng sợ! Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa sinh hạ trong chuồng súc vật của các Bạn. Các Bạn hãy đến mà xem!”
Họ ngạc nhiên nhưng trong tâm trạng vui mừng. Vì điều bất ngờ xảy đến mang lại cho họ nhiều thích thú lạ lùng. Họ đâu có thể ngờ bỗng dưng có khách cao trọng từ trời cao đến thăm và sống trong nhà mình. Và từ đó làm biến đổi cuộc sống của họ: từ người chăm sóc thú vật thành người được nhìn thấy Thiên Thần của Chúa, được đến thăm viếng trò truyện với Con Trẻ Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa.
Không chỉ với biến cố Thiên Chúa xuống thế làm người mới có những điều xảy bất ngờ, nhưng điều xảy ra bất ngờ thường có ngay trong cuộc đời mỗi người. Điều đó có thể là điều may lành an vui, nhưng cũng có thể là điều gây ngạc nhiên bỡ ngỡ xa lạ đến độ lo âu suy nghĩ bối rối mất bình an.
Thông thường ai cũng mong điều xảy đến bất ngờ mang lại niềm vui hạnh phúc hơn điều mang đến sự bất an trong cuộc sống. Như cuộc đời thánh Giuse đã trải qua, đôi khi những điều xảy ra bất ngờ làm lo âu suy nghĩ bối rối, không mấy ai muốn chấp nhận, lại là tín hiệu quan trọng mang tin lành bình an cho con người.
Những đau khổ, bệnh tật, điều gây bối rối, điều trái ý gây khó chịu là những điều xảy đến bất ngờ và chẳng ai muốn có. Nhưng nếu như thánh Giuse với một tâm hồn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, mà vui lòng chấp nhận, điều đó có thể trở nên giá trị tốt đẹp cho đời sống chính mình và người khác nữa.
Đức Mẹ Maria cũng đã vui lòng chấp nhận sứ điệp Thiên Thần Chúa mang đến bất ngờ ngoài điều mong muốn cho đời mình, nên Chúa mới giáng sinh xuống trần gian. Ngài mang ánh sáng tình yêu từ trời cao xuống cho con người. Và qua biến cố đó, nhân loại mới có ngày lễ mừng trọng đại: Thiên Chúa làm người, để con người được làm con Thiên Chúa.
Theo C.G.Jung, một nhà tâm lý nổi tiếng của Tây phương, giấc mơ bày tỏ chiều kích vô thức của tâm trí con người, hướng về biến cố tương lai, và bộc lộ lãnh vực bị quên lãng nơi cá tính đương sự. Giấc ngủ là nhu cầu của thân xác hơn là của linh hồn. Do đó có thể nói rằng khi ngủ linh hồn vẫn tiếp tục sinh hoạt qua tiềm thúc, tức là giấc mơ. Tuy nhiên vì linh hồn không được nối kết chặt chẽ với thế giới linh thiêng, giấc mơ chỉ là sự ráp nối hỗn tạp những gì hình ảnh tồn đọng trong trí nhớ, hầu hết không có ý nghĩa gì.
Trong Thánh Kinh, giấc mơ đóng vai trò khá quan trọng. Tổ phụ Giuse đã bị anh em chế nhạo là “kẻ mơ màng” vì ông đã kể ra mình nằm mơ thấy bó lúa của các anh em cúi xuống thần phục bó lúa của mình; và trong một giấc mơ khác ông thấy mặt trời, mặt trăng, và 11 ngôi sao cúi mình trước mặt ông (Gn 37:5-9). Đây là điềm báo trước ông sẽ lên chức tể tướng của nước Ai cập. Ở đây giấc mơ làmạc khải bí nhiệm của Thiên Chúa về tương lai của đương sự. Thiên Chúa hé mở một phần chương trình của Ngài cho con người biết. Tổ phụ Giuse là người được Thiên Chúa tuyển chọn để cứu nước Ai cập và gia đình khỏi nạn đói. Ông là người công chính, biết kính sợ Chúa, nên tâm hồn nhạy cảm dễ đón nhận mạc khải của Thiên Chúa.
Vào Chúa nhật 4 mùa Vọng, Giáo hội muốn giới thiệu một nhân vật có vai trò quan trọng trong mầu nhiệm Thiên Chúa Giáng sinh; đó là thánh Giuse. Ngài được Phúc âm giới thiệu là người công chính, người sống gần Thiên Chúa. Thánh Giuse đã đính hôn Đức Mẹ, nhưng không hề biết Mẹ thụ thai bởi Chúa Thánh Thần. Nên khi thấy có dấu hiệu khác thường nơi Đức Mẹ, thánh Giuse bị bối rối không biết làm sao, nên định âm thầm rút lui có trật tự. Thiên Chúa đã dùng giấc mơ để mạc khải cho thánh Giuse vai trò của thánh nhân trong chương trình cứu chuộc nhân loại. Khi hiện ra trong giấc mơ, thiên thần đã gọi: “Hỡi Giuse, con vua Đavít”. Tuy thánh Giuse chỉ là cha nuôi, nhưng theo truyền thống của Do thái, người cha xác định dòng dõi của con cái. Chúa Kitô được tiên báo sinh ra trong dòng dõi vua Đavít. Ngài là Vua theo dòng dõi vương giả chính tông của Do thái. Sứ mệnh cứu thế của Ngài gắn liền với uy quyền của một Vị vua trên hết các vua.
Thánh Giuse là nhân vật quan trọng trong biến cố Chúa Giáng sinh, nhưng Phúc âm không ghi lại lời nói nào của Ngài. Thánh Giuse tỏ ra là người quản gia trung tín săn sóc hai kho tàng quí giá nhất trần gian đó là Chúa Giêsu hài nhi và Mẹ Maria. Tinh thần âm thầm phục vụ như người tôi tớ của Thiên Chúa là tiếng nói sâu xa mà thánh Giuse để lại cho nhân loại.
Trong mùa Vọng, Giáo hội kêu gọi các tín hữu chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa đến với tâm tình chờ đợi như người đầy tớ gọi chủ đến bất ngờ, như những trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể. Thánh Giuse chính là gương mẩu để chúng ta học hỏi. Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình khiêm tốn, âm thầm, tận tụy, và nhất là sống liên kết với Thiên Chúa qua lời cầu nguyện. Bầu khí ồn ào của những ngày lễ Giáng sinh khiến chúng ta xa rời ý nghĩa chân thực của Ngày Lễ. Chúng ta vui mừng nhưng không phải bằng cách say sưa, chè chén, nhậu nhoẹt linh đình. Chúng ta vui mừng bằng sự chia sẻ của ăn, áo mặc, với những người nghèo khổ; bằng những nụ cười với người không quen biết, không ưa thích; bằng lời nói tốt cho người súc phạm đến mình; bằng lòng rộng rãi bao dung với con cái; bằng những lời nói, cử chỉ yêu thương, biết ơn đối với cha mẹ; và hơn hết bằng lời cầu nguyện cho thế giới được hòa bình, cho những tấm lòng hận thù bị tan biến, thay vào đó là những trái tim đầy ắp tình người.
(Chú giải và Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Phần Mở của Tin Mừng Mt đi từ 1,1–4,16. Về nội dung, trong bốn chương mở đầu này trước khi Đức Giêsu xuất hiện công khai, có hai người khám phá ra Đức Giêsu là ai, theo hai đường song song và riêng tư: Giuse (ch. 1–2) và Gioan Tẩy Giả (ch. 3–4). Giuse thì được thiên thần Chúa báo tin trong giấc mơ rằng Đức Giêsu là con (cháu) vua Đavít, còn Gioan thì được một tiếng từ trời cho biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Cả hai vị đều muốn tránh né ơn gọi đặc biệt các vị được mời đảm nhận trong liên hệ với Đức Giêsu, vị đầu sẽ đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, vị sau sẽ trở thành khí cụ để tấn phong làm Đấng Mêsia trong phép rửa. Trong cả hai trường hợp, cảm thức về sự bất xứng của hai vị đã là động lực khiến các vị có thái độ như thế (chính theo nghĩa này mà ta phải hiểu sự “bối rối” của Giuse). Nhưng sự băn khoăn bối rối của các vị đã được thiên thần hoặc chính Đức Giêsu đánh tan. Cuối cùng, cũng như Giuse, khi chấp nhận đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, đã kéo theo cuộc bách hại của vua Hêrôđê, Gioan Tẩy Giả, khi chấp nhận ban phép rửa cho Đức Giêsu và tạo cho Người cơ hội được tấn phong làm Đấng Mêsia, đã kéo theo những đợt tấn công của Satan.
Bản văn đọc trong Phụng vụ hôm nay là phân đoạn thứ hai thuộc nửa đầu của Phần Mở.
Bảng gia phả đã nói rằng Đức Giêsu xuất thân từ nhà Đavít và Abraham cũng như Người bén rễ sâu vào trong lịch sử Israel. Đồng thời bảng gia phả cũng khẳng định hoàn cảnh huyền bí của cuộc chào đời của Người (1,16). Với cách bố trí cũng như những con số, bảng gia phả cho thấy rằng Đức Giêsu là cùng đích và sự hoàn tất của lịch sử này. Nhưng bảng gia phả lại không nói cho biết sự hoàn tất này hệ tại điều gì. Điều này bây giờ được nói rõ qua sứ điệp Thiên Chúa ban cho Giuse và được xác nhận qua cách xử sự của Giuse.
Trong c. 16 của ch. 1, tác giả bảo chúng ta rằng Giuse là chồng của Maria và Maria là mẹ của Đức Giêsu, nhưng Giêsu lại không phải là con của Giuse. Trong đoạn văn đọc hôm nay (1,18.20), tác giả liên tiếp nhắc lại rằng Chúa Thánh Thần ở tại nguồn của cuộc đời Đức Giêsu đến cuối đoạn văn, tác giả nhắc lại lần thứ ba rằng Giuse không can dự gì vào cuộc chào đời của con trẻ này (1,25). Nếu ở 1,25, tác giả viết: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”, ông muốn nói rằng cho đến khi Đức Giêsu chào đời, Giuse không hề có mộtquan hệ phu phụ nào với Maria, nhưng cũng không khẳng định rằng sau đó Giuse đã bắt đầu có quan hệ này.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia làm năm phần:
1) Đầu đề của đoạn (1,18a);
2) Hoàn cảnh của Giuse và Maria (1,18b-19);
3) Thiên Chúa can thiệp (1,20-21);
4) Lời bình của tác giả (1,22-23);
5) Giuse thi hành lệnh Thiên Chúa (1,24-25).
3.- Chú giải
– chung sống (18): Synelthein, “đến với, tham gia với”, có thể có nghĩa là quan hệ vợ chồng hoặc sống với nhau. Văn cảnh trực tiếp dường như hợp với nghĩa thứ nhất hơn. Người thiếu nữ Do Thái được đính hôn vào khoảng năm 12 tuổi, từ giã cha mẹ để về sống dưới sự bảo trợ của chồng vào khoảng năm 13-14 tuổi. Sự chuyển đi này mở đầu cho cuộc sống chung và cũng là việc kết hôn.
– người công chính (19): Giuse không công chính theo nghĩa vâng phục lề luật, bởi vì không có khoản luật nào buộc phải bỏ vị hôn thê bị coi là ngoại tình (Đnl 22,13-21.23-27 liên hệ đến hôn nhân hoàn hợp; x. Đnl 24,1). Vả lại, khi bỏ Maria một cách kín đáo (lathra), ngài cũng chẳng vâng phục lề luật, bởi vì hành vi rẫy vợ chỉ có giá trị pháp lý nếu làm công khai (x. Đnl 22,15: tại cửa thành). Một đàng, nếu hiểu đây là “sự công chính theo luật pháp”, chúng ta đứng trước một thế lưỡng nan. Quả vậy, nếu dưới mắt Giuse, Maria đã ngoại tình, ngài bỏ bà là chuyện dễ hiểu, nhưng ta không hiểu vì sao ngài lại tính bỏ bà “cách kín đáo”, bởi vì khi đó việc này sẽ không có hiệu quả pháp lý và thật ra bí mật cũng chẳng giữ được lâu. Còn nếu Giuse cho rằng Maria vô tội, ta không hiểu được là vì sao ngài lại nghĩ đến việc bỏ bà, vì luật không buộc như thế; đã thế, trong tư cách là hôn phu, ngài còn có nghĩa vụ bảo vệ hôn thê vô tội chống lại những ngờ vực vô căn cứ của kẻ khác. Vậy không thể hiểu sự công chính của ngài theo nghĩa pháp lý.
Đây là sự công chính tôn giáo. Chính sự công chính này buộc Giuse phải tôn trọng việc Thiên Chúa làm nơi Maria và ngăn cản ngài nhận lấy những công trạng từ một hành động của Thiên Chúa: tự mình, ngài nghĩ ngài không được phép đưa về nhà một người đã được Thiên Chúa dành riêng cho Ngài. Nếu làm như thế, ngài có vẻ chiếm đoạt mộtvai trò mà Thiên Chúa không trao cho ngài. Đứng trước mầu nhiệm này, ngài muốn rút lui, và vì tế nhị do đức công chính đối với Thiên Chúa, ngài đã để ý không “phổ biến” mầu nhiệm Thiên Chúa đang bao trùm Maria. Vấn đề nằm ở động từ deigmatisai: theo Origiênê và Êusêbiô, động từ này không hề hàm chứa một ý niệm ô nhục nào; cha Joušon dịch là “vén mở, tiết lộ”. Động từ paradeigmatisai mới là “trừng phạt để nêu gương; làm cho ô nhục, mất danh giá”. Giuse đã phản ứng như tất cả mọi người công chính trong Kinh Thánh khi nhận ra Thiên Chúa đang can thiệp vào trong lịch sử của họ: như Môsê cởi dép khi đứng trước bụi gai cháy, như ngôn sứ Isaia kinh hoàng khi thấy vị Thiên Chúa ba lần thánh xuất hiện, như bà Êlisabét tự hỏi vì sao mẹ Đức Chúa của bà lại đến thăm bà, như viên đại đội trưởng trên đồi Sọ, như Phêrô khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng. Như “Aben người công chính” (23,36: người “công chính” duy nhất được Mt nêu tên trong Tin Mừng. Chắc chắn Aben “công chính” không do lề luật, bởi vì lề luật chỉ được ban bố với Môsê!), Giuse cũng tỏ ra là người trung thành thờ phượng Thiên Chúa.
Cách giải thích này được hỗ trợ bởi ngữ cảnh tổng quát của toàn ch. 1 của Mt. Trong bài đầu tiên (1,1-17), Mt đã trình bày gia phả của Đức Giêsu khởi đi từ tổ phụ Abraham và từ vua Đavít ngang qua Giuse. Nhưng bảng gia phả này lại gặp ngay nơi Giuse một vấn đề hóc búa. Đó là vì Đức Giêsu không phải là con Giuse theo xác thịt. Vậy mục tiêu của đoạn văn này là để giải thích làm thế nào Đức Giêsu có thể thuộc về dòng dõi vua Đavít, nếu Người không phải là con của Giuse. Lời giải thích nằm ở việc Giuse nhìn nhận Đức Giêsu làm con về pháp lý. Mục tiêu của bản văn Tin Mừng này, thay vì bảo vệ việc thụ thai đồng trinh, thì tìm các xác định do đâu Đức Giêsu có thể trở thành hậu duệ vua Đavít và Đấng Mêsia thuộc dòng tộc vua Đavít cho dù có việc trinh thai. Vậy hai phần của ch. 1 của Mt làm thành hai cánh của cùng một việc chứng minh.
Một hỗ trợ khác nữa đến từ chính những lời của thiên thần (cc. 20-21): “Này ông Giuse là con cháu vua Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì quả thật (HL. gar: car certes; for, indeed, certainly) điều được sinh thành (to gennêthen = đứa con) nơi bà là việc của Thánh Thần, nhưng (HL. de) bà sẽ sinh một con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu; vì (gar) chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Dịch gar là “quả thật” (chắc chắn) là chuyện thông thường vào thời ấy (x. 1 Cr 9,10; 2 Tx 2,20; Mt 18,7; 22,14; 24,6…). Vậy khi nói như thế, thiên thần giả thiết Giuse đã biết chuyện thụ thai đồng trinh và chính chuyện này đã thúc đẩy ngài rút lui, vì thấy Thiên Chúa can thiệp vào cuộc đời Maria. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã truyền cho ngài “dù sao” (“nhưng”) cũng cứ chấp nhận và đặt tên cho con, và khi đó, ngài đưa con tháp nhập vào trong dòng dõi vua Đavít.
– thiên thần Chúa (20): Như trong Cựu Ước, thuật ngữ này được dùng để nói tới sự can thiệp của Thiên Chúa (x. St 16,7.13; Xh 3,2), chứ không có nghĩa là một trong các “thiên thần”.
– Giêsu (21): Trong Kinh Thánh, tên người còn chỉ chức năng Thiên Chúa quy định cho một người trong Lịch sử cứu độ. Iêsous là dạng Hy Lạp của tên Híp-ri Yehôshua (x. Xh 24,13) hoặc Yeshua (Nkm 7,7), có nghĩa là “Yhwh là sự cứu độ”, “Yhwh ban ơn cứu độ”, “Yhwh cứu độ”, “Ơn cứu độ của Yhwh”.
– Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai (23): Tác giả trích Is 7,14 theo Bản LXX, bởi vì trong bản này có từ parthenos, “trinh nữ”, chứ trong bản Híp-ri, ta đọc là almah, “thiếu nữ”, có thể là một thiếu nữ hoặc một người vợ trẻ. Cũng vì dựa trên Is 7,14, Do Thái giáo Paléttina không chờ đợi Đấng Mêsia được sinh ra bởi một trinh nữ, nhưng chờ đợi Người là một con đầu lòng (x. Lc 2,7).
– Emmanuel (Hp. Immanuel): Tác giả không nêu ra một tên mới của Đấng Mêsia, mà nêu lên ý nghĩa của bản thân và công trình của Người. Is 7,14 và 8,8 cũng không nhấn mạnh đến sự hiện diện của Thiên Chúa, vì điều này được giả thiết có trong Kinh Thánh, nhưng nhấn mạnh đến sự diện diện năng động của Ngài để cứu giúp. Như thế, nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài để trợ giúp và cứu độ họ. Lời hứa long trọng của Đức Kitô vinh hiển (“Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, 28,20) cho thấy lời loan báo ấy đã được thực hiện hoàn hảo. TM Mt mở ra và kết thúc với ý tưởng này: nơi bản thân Đức Giêsu, Thiên Chúa sẵn sàng đến hiện diện năng động, tích cực, với loài người.
– ông không … cho đến khi… (25): Câu này hoàn toàn đúng với c. 23 cho thấy rằng Maria là trinh nữ khi sinh con. Câu “ông không biết (= ăn ở với) bà, cho đến khi bà sinh một con trai” không chống lại việc sau đó Maria vẫn đồng trinh, cũng không ám chỉ điều này, mà cũng không cho phép kết luận rằng sau đó bà đã có những quan hệ vợ chồng với Giuse. Đàng khác, chúng ta ghi nhớ rằng mẫu tính đồng trinh của Đức Maria không có nghĩa sinh học, mà diễn tả niềm tin của Giáo Hội vào thần tính và nhân tính của Đức Giêsu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đầu đề của đoạn (18a)
Với đầu đề (18a), tác giả Mt ngỏ lời với độc giả để xác định hoặc điều chỉnh cách thức họ hình dung cuộc chào đời của Đức Giêsu.
Đức Giêsu không phải là con của Giuse, nhưng là tạo thành của Chúa Thánh Thần. Nơi Người, lịch sử Israel đi đến chỗ hoàn tất, nhưng Người không phải là hoa trái tự nhiên hoặc kết quả thiết yếu của lịch sử này. Người không lệ thuộc vào và không chỉ xuất thân từ mộtchuỗi các thế hệ và những cuộc sinh hạ con người. Người là sự hoàn tất, nhưng là như mộtkhởi đầu hoàn toàn mới. Khởi đầu cuộc sống của Người là do Chúa Thánh Thần, khởi đầu này trực tiếp gắn với hoạt động của quyền lực sáng tạo của Thiên Chúa. Thiên Chúa gồm tóm nơi Người toàn thể lịch sử Israel, đồng thời thiết lập mộtkhởi đầu mới mang tính sáng tạo. Không phải là loài người đã ban tặng Đức Giêsu cho nhau; Người là khởi đầu và là quà tặng hoàn toàn đến từ Thiên Chúa. Đó là nguồn gốc của Đức Giêsu (1,18), và nguồn gốc này cho thấy bản tính và ý nghĩa của đời Người.
* Hoàn cảnh của Giuse và Maria (18b-19)
Tuy thuộc nguồn gốc thần linh, Đức Giêsu lại được liên kết với lịch sử Israel. Mẹ Người là Maria đã đính hôn với Giuse, nhưng chưa về sống trong nhà Giuse. Theo luật lệ Do Thái, với lễ đính hôn, hai người nam nữ đã được coi là vợ chồng rồi. Vì thế, Giuse được gọi là chồng của Maria (1,16.19), còn Maria thì được gọi là vợ của Giuse (1,20.24). Chỉ mộtnăm hay mộtnăm rưỡi sau lễ đính hôn, vị hôn thê mới được đưa về nhà vị hôn phu và bắt đầu cuộc sống vợ chồng. Ở đây, tác giả Mt cũng không cung cấp một thông tin nào đặc biệt về Giuse và Maria, ngài nói về hai đấng như những nhân vật rất quen thuộc với độc giả. Vậy mục tiêu của ngài không phải là cung cấp tài liệu, mà là huấn giáo. Trong thời gian giữa lễ đính hôn và cuộc chuyển về nhà chồng, Giuse nhận ra rằng Maria đã có thai. Đọc c. 18b cách bình thản, ta thấy dường như tác giả gợi ý rằng Giuse có biết việc Maria mang thai là do sự can thiệp của Chúa Thánh Thần. Giuse quyết định bỏ Maria kín đáo vì tế nhị đối với sự can thiệp của Thiên Chúa nơi Maria.
* Thiên Chúa can thiệp (20-21)
Giuse đang toan tính như thế trong lòng, thì được Thiên Chúa can thiệp qua việc mộtthiên sứ đến báo mộng để khẳng định với ngài là quả thật con trẻ sắp chào đời thuộc nguồn gốc thần linh; nhưng ngài có nhiệm vụ đón Maria về và đặt tên cho con trẻ. Ngài phải duy trì dây liên hệ với Maria và như thế, nhìn nhận trước luật pháp rằng con trẻ ấy là con của ngài. Do nhiệm vụ Thiên Chúa giao, Giuse trở thành cha của hài nhi về mặt luật pháp và cũng trước luật pháp, Giêsu trở thành con và đương nhiên là người thừa kế của ngài. Hệ quả là Đức Giêsu được tháp nhập hợp pháp vào gia phả của Giuse. Như thế, Đức Giêsu đi vào trong dòng dõi xuất thân từ các vị tiền nhân ấy và trở thành đích điểm và sự hoàn tất của dòng dõi ấy. Như vậy, tác giả Mt không nhắm thỏa mãn óc tò mò của chúng ta. Tất cả những gì ngài muốn chúng ta hiểu là: con của bà Maria là người được Thiên Chúa hứa cho thừa kế ngai vàng vua Đavít, như các ngôn sứ đã từng loan báo.
Còn Đức Giêsu thực hiện vị trí và nhiệm vụ ấy như thế nào, thì chính tên của Người cho thấy, tên mà Thiên Chúa đã chọn cho Người và Giuse phải đặt cho Người. Thiên Chúa đã đổi tên cho người trước đây được gọi là Abram và ban cho ông tên mới là Abraham, “vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc” (x. St 17,5). Sự tuyển chọn của Thiên Chúa được diễn tả ra và xác nhận bằng việc đổi tên. Vì trao mộtnhiệm vụ mới và với nhiệm vụ này là mộtđời sống mới, Ngài ban cho mộttên mới. Điều đó càng đúng hơn nữa với Đức Giêsu, con cháu tổ phụ Abraham. Cùng với cuộc đời, Người đã được Thiên Chúa ban cho ngay từ đầu tên và nhiệm vụ. Tên của Người là Yeshua hay là Yehoshua, có nghĩa là “Thiên Chúa là sự cứu độ”; Người giải thoát khỏi tội lỗi (1,21; x. Tv 130,8). Với nhiệm vụ này, Đức Giêsu có quyền năng Thiên Chúa và ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho ta nhờ trung gian Người. TM Mt sẽ cho thấy Đức Giêsu là Đấng Mêsia, là Đức Vua và Vị Mục tử, Người săn sóc dân Người và đưa họ đến sự sống viên mãn.
* Lời bình của tác giả (22-23)
Đến đây tác giả viết lời bình. Với biến cố này, đã thực hiện điều mà Thiên Chúa đã loan báo qua miệng các ngôn sứ. Trong dự phóng của Ngài, chính Thiên Chúa muốn có cuộc chào đời và hài nhi này. Khi khẳng định rằng lời Thiên Chúa được ứng nghiệm, mộtlần nữa tác giả muốn nói rằng đàng sau biến cố này, có Thiên Chúa như là Đấng quy định và hướng dẫn mọi sự. Khi cho biết Đức Giêsu cũng chính là “Emmanuel”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, tác giả cho biết đặc tính của biến cố Người đến, cũng như đặc điểm của sự hiện diện và công trình của Người: nơi Người, Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Đức Giêsu là sự hiện diện năng động của Thiên Chúa gần kề chúng ta; nơi Người, vị Thiên Chúa từ bi thương xót tỏ mình ra, vị Thiên Chúa trợ giúp và cứu độ, cũng như tỏ hiện dự phóng của Ngài đối với loài người. Nơi Người, Thiên Chúa ở cùng chúng ta và chúng ta đến được với Thiên Chúa (x. 28,20).
* Giuse thi hành lệnh Thiên Chúa (24-25)
Khi đã biết rõ ý Thiên Chúa, Giuse thi hành ngay: ngài “đón vợ về nhà”. Câu văn tiếp theo cho biết là ngài không có quan hệ phu thê với Maria, và như thế hài nhi Giêsu không phải là con của ngài. Nhưng câu văn này cũng không hề ám chỉ là sau đó Giuse có quan hệ vợ chồng với Maria. Với lại tác giả không quan tâm đến vấn đề này. Ông còn đang cho thấy là Giuse thi hành chính xác lệnh Thiên Chúa truyền: “ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”.
+ Kết luận
Tại hai cực của lịch sử Lời Hứa, có hai ơn gọi hướng về nhau và hoàn tất lẫn nhau: ơn gọi của Abraham, tổ phụ đón nhận Lời Hứa, và ơn gọi của Giuse, người đã vâng lệnh Chúa truyền nên đã tạo điều kiện cho Lời Hứa được thực hiện, đó là biến cố Đấng Emmanuel ngự đến. Kể từ nay, nhờ đã được Giuse đưa tháp nhập vào trong dòng dõi vua Đavít, Đức Kitô có quan hệ trực tiếp với mỗi người con người cháu của tổ phụ Abraham, dù họ có đông như sao trên trời không thể đếm nổi (x. St 15,5). Công trình của Người không liên hệ đến mộtlãnh vực nào của cuộc sống loài người, nhưng đi đến tận gốc rễ và thay đổi tương quan với Thiên Chúa. Người sẽ chiến thắng sự bất phục tùng và thái độ nổi loạn, sẽ tha thứ tội lỗi và tái lập sự hiệp thông vào đời sống với Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
(Giải tích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
“Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyển”
Gia phả của Chúa Giêsu khởi từ thời Abraham, đến Đavít và cao điểm là việc Người sinh ra (1,1-17). Sau đó Matthêô trình bày việc Chúa Giêsu giáng sinh để hoàn tất lời hứa cứu chuộc của Thiên Chúa đối với dân Người (2,1-12). Trình thuật về Giuse (1,18-25) là đoạn chuyển tiếp giữa hai đoạn về gia phả và giáng sinh. Chủ đề chính của đoạn là Chúa Giêsu Kitô từ Thiên Chúa mà đến và sứ mạng cứu chuộc của Người. Phần Giuse, ông được tham dự vào sứ mạng cứu độ của Người bằng việc đem mẹ Maria về nhà, đặt tên cho Chúa Giêsu, và qua ông Chúa Giêsu được kể là thuộc dòng tộc Đavít. Những từ liên kết đoạn nầy với hai đoạn trước và sau là: “sự sinh ra” genesis (1,1.18), “sinh ra”, gennaō (1,2; 2,1); Iēsous (1,1.18.25; 2,1). Câu 1,17 như là bảng tổng kết của gia phả, trong khi những gì được trình bày trong câu 1,16 sẽ được giải thích chi tiết trong đoạn về câu chuyện Giuse (1,18-25).
Bố cục của đoạn nầy: – Dẫn nhập: lập lại bối cảnh của việc Chúa Giêsu giáng sinh (1,18); – Giuse và sứ mạng của ông đối với việc giáng sinh của Chúa Giêsu (1,19-25). Iēsous (1,18.21.25) và Iōsēph (1,18.19.20.24) là từ xuất hiện nhiều nhất trong đoạn nầy, qua đó Giuse được bàn đến trong tương qua chặt chẽ với Chúa Giêsu.
Được cưu mang bởi Chúa Thánh Thần (1,18)
Câu 1,16 chỉ ghi nhận sự kiện cách khách quan là sự sinh ra của Chúa Giêsu, trong khi câu 1,18b tập trung vào trường hợp nào Người được cưu mang. Tên “Giêsu Kitô” trở thành tên kép của Đấng được sinh bởi mẹ Maria ở đây. “Giêsu Kitô” nầy là “con của Đavít, con của Abraham” (1,1). Có một phân biệt tinh tế ở đây là Giuse được giao nhiệm vụ đặt tên cho Đấng sẽ được sinh ra nầy là “Giêsu” (1,21.25), trong khi tước hiệu “Kitô” thì do Thiên Chúa. Cụm từ “được gọi là Đấng Kitô” trở thành yếu tố cần thiết để xác định căn tính của “Giêsu” (x. 1,16; 27,17.22). Trong khi tên “Kitô” thường được gắn liền với “Con Thiên Chúa” (16,16; 26,63), tên “Giêsu” gắn liền với Giuse (13,55), chỉ nguồn gốc nhân loại và thuộc dòng tộc Đavít của Người (9,27; 12,23; 20,30.31; 21,9.15). Rất có thể Matthêô đưa tên kép “Giêsu Kitô” vào ngay trong câu dẫn nhập nầy để khẳng định nguồn gốc thiên tính của Chúa Giêsu khi bàn về mẹ Maria mang thai “bởi Chúa Thánh Thần”. Điều nầy được thiên sứ xác định lại với Giuse trong giấc mộng (1,20).
Những chi tiết về Maria được đưa ra khá đầy đủ trong câu nầy: “đã đính hôn”, “mẹ của Người”, “trước khi về chung sống”, và đáng chú ý hơn cả là Maria “được thấy mang thai (dịch theo từ ngữ là “có trong bụng”) bởi Chúa Thánh Thần”. Trước hết cách dùng động từ “heuriskō”, “được tìm thấy” ở thể thụ động chỉ một tình trạng hay sự kiện được Thiên Chúa hoặc con người khám phá ra. Khó có thể cho rằng Maria là chủ từ của động từ nầy (x. Lc 1,28-38), càng không thể là dân chúng, dựa trên những điều Giuse suy nghĩ có thể sẽ làm (1,19). Chỉ có thể là Giuse, từ đó mới dẫn ông đến những quyết định. Rồi theo cách trình bày của Matthêô, chỉ người cha mới “sinh con”, gennaō; trong khi người mẹ tham gia vào việc nầy. Giới từ “ek”, “bởi” với sở hữu cách (genitive) của người mẹ chỉ nguồn gốc của người được sinh ra: bởi Tamar (1,3), Rahab, Ruth (1,5), vợ của Uria (1,6), Maria (1,16), Thánh Thần (1,18.20). Rất hiếm khi nói là người mẹ sinh con; chỉ thấy trong Luca 1,13.57; 23,29; và Gioan 16,21. Với Chúa Giêsu, Matthêô dùng động từ gennaō nầy luôn luôn ở thể thụ động “được sinh ra” (1,16.18.20; 2,1.4) để chỉ Thiên Chúa Cha sinh ra Người. Hơn nữa trong câu 1,20 có một chút dị biệt so với 1,18 là “Người được sinh ra, gennaō, trong vợ ông (Maria) bởi Chúa Thánh Thần”. Matthêô nhất quán với mình là ngay cả mẹ Maria cũng không sinh ra Chúa Giêsu, nhưng Người được Chúa Cha sinh ra trong mẹ Maria bởi Chúa Thánh Thần. “Bởi Chúa Thánh Thần” có thể dẫn đến kết luận là Thánh Thần đóng vai trò như người mẹ trong việc sinh ra Chúa Giêsu Kitô. Sau cùng, không nên tách rời “được thấy mang thai” khỏi “bởi Chúa Thánh Thần”. Việc biết nầy phải là “mang thai bởi Thánh Thần”, chứ không phải chỉ là “mang thai”, bằng không sẽ dẫn đến chuyện hiểu sai những quyết định của Giuse. Và hai yếu tố “đã đính hôn” và “trước khi về chung sống” ra hiệu cho biết mẹ Maria mang thai không bởi Giuse. Trong câu kết luận 1,25 Matthêô còn nhắc lại lần nữa là “Ông không biết bà cho đến lúc bà sinh con”. Điều nầy chỉ muốn nói là Giuse không tham dự chút nào vào việc hình thành thai nhi trong lòng mẹ, và mẹ Maria là trinh nữ khi mang thai Chúa Giêsu Kitô và cho đến lúc sinh hạ Người. Điều nầy sẽ được khẳng định lại trong lời của thiên sứ khi nhắc lại Is 7,14 “Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con”. Vậy, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã được hình thành trong lòng mẹ Maria bởi Chúa Thánh Thần và Giuse không dự phần vào việc nầy.
Con người và quyết định của Giuse (1,19)
Giuse được khẳng định là “chồng”, anēr, của mẹ (1,16.19) và mẹ Maria được gọi là “vợ”, gynē, của ông (1,20.24) hay là “mẹ của Người/con trẻ” (1,18; 2,13). Khó khăn trong chú giải là làm sao giải thích được tương quan của hai mệnh đề phân từ trong câu nầy: “Giuse là người công chính” và “và ông không muốn tố giác bà, quyết định lìa bỏ bà cách kín đáo”. Những câu hỏi được đặt ra là hiểu thế nào là “công chính”? Nếu đi tố giác mẹ Maria, Giuse vẫn là người công chính? Giuse không muốn tố giác mẹ, nhưng bỏ mẹ mà đi cách kín đáo; đó không phải là một cách tố giác gián tiếp sao? Nếu không đi tố giác và âm thầm bỏ đi vì là người công chính, việc Giuse nghe lời thiên sứ đón nhận Maria về nhà sẽ làm cho ông hết là người công chính? Nếu Giuse biết mẹ Maria mang thai bởi Chúa Thánh Thần, sao lại đi tố giác? Bất cứ một cố gắng giải thích tiêu cực nào về quyết định và hành động của Giuse đều gặp phải khó khăn.
Để giải quyết, trước tiên cần tìm hiểu từ “công chính” áp dụng cho Giuse. Dikaios, “công chính”, 17 lần, và dikaiosynē 7 lần được dùng trong Matthêô theo nhiều nghĩa khác nhau. Trước tiên, “công chính” dùng để phân biệt cách chung với những người không công chính, cũng như người tốt lành đối nghịch với người xấu (5,45; 13,49); rồi chỉ những người sống theo luật Chúa trong Cựu ước (13,17; 23,29.35[2x]); chỉ những người tự cho mình là công chính (x. 9,13; 28,38); sau cùng là những người sống theo đòi hỏi và tinh thần của Chúa Giêsu (5,45; 10,41; 25,37.46). Giuse là người công chính không chỉ vì ngài tuân giữ luật Chúa như những người do thái tốt lành thời ấy, mà còn hơn thế nữa. Sự công chính của ngài chắc chắn vượt hơn hẳn sự công chính của các thầy thông luật và những người nhóm Pharisêô (5,20). Bởi đó, ngài không thể là công chính theo nghĩa vì tuân theo lề luật mà đem mẹ Maria ra bêu xấu trước mặt công chúng (Đnl 22,20-21.23-24). Ngài không thể làm như các thầy thông luật và Pharisêô đã làm khi đem người phụ nữ ngoại tình ra trước mặt Chúa Giêsu và mọi người để xét xử theo luật (Gio 8,3-11). Chính Chúa Giêsu không làm theo ý họ, mà còn bênh vực cho người phụ nữ nầy. Cũng không thể hiểu theo nghĩa là vì người công chính có lòng thương xót vị hôn thê, nên Giuse không đi tố giác. Việc âm thầm bỏ đi đã là một tố giác trực tiếp rồi. Nếu thật sự có lòng thương xót, Giuse phải ở lại với mẹ Maria.
Động từ “deigmatizō” là một từ hiếm (hapax legomenon) trong tin mừng nhất lãm. Chỉ xuất hiện duy nhất ở đây, và trong thư gởi cho các tín hữu Côlôsêô 2,15. Ý nghĩa căn bản của động từ nầy là “trưng bày”, “đưa ra cho công chúng thấy”; “deigma” có nghĩa là “mẫu” “sự hiển nhiên”. Bởi đó, động từ có nghĩa trung tính là trình bày cho mọi người đều thấy sự hiển nhiên, chứ không có nghĩa là “tố giác” hay “làm cho ai xấu hổ trước mặt công chúng” (x. Côl 2,15). Nếu động từ nầy có “para-” đi trước thì có thể hiểu theo nghĩa trên là “tố giác” (x. Do thái 6,6; Ds 25,4; Giêr 13,22; Êzêk 28,17). Giuse không muốn cho mọi người biết sự kiện Đấng Kitô đang được cưu mang trong lòng mẹ Maria bởi Thánh Thần. Ông không nói ra vì phải tôn trọng công việc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã cấm các môn đệ không được nói cho mọi người biết Người là Đấng Kitô sau lời tuyên xưng của Phêrô (x. 16,20). Giuse quyết định li dị mẹ Maria vì ông biết mẹ Maria cưu mang Đấng Kitô bởi Thánh Thần (xem trên). Ông li dị vì ông sợ nhận Maria vợ ông. Cụm từ “nhận Maria về nhà” (1,20.24) đóng khung sứ điệp của thiên sứ (1,20-23), trong đó thiên sứ nói đến con người và sứ mạng của Chúa Giêsu, và cả bổn phận đặt tên của ông cho con trẻ. Giuse sợ và không muốn nhận Maria làm vợ mình nữa, vì Maria đã trở thành mẹ của Đấng Kitô. Ông thấy mình bất xứng với người ông đã đính hôn, nên phải rút lui. Đây là thái độ đúng của người công chính. Mẹ Maria cũng sợ khi thiên sứ truyền tin (x. Lc 1,30), dân chúng sợ khi thấy điều kỳ diệu Chúa Giêsu làm cho người bại liệt (9,8). Như thế, chính quyết định của Giuse cho thấy cách hiển nhiên ông là người công chính trước khi ông được củng cố lòng tin và mời gọi tham dự vào công việc cứu chuộc của Thiên Chúa.
Hai cuộc truyền tin của Giuse và mẹ Maria tương tự nhau. Cả hai đều sợ trước lời mời gọi cộng tác trực biết vào việc nhập thể của Con Thiên Chúa. Tuy không nói, Giuse đã làm như mẹ Maria là thi hành ý muốn của Thiên Chúa là “đem mẹ về nhà mình”. Đứng trước Thiên Chúa ai mà không run sợ và thấy mình bất xứng?
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 4 Mùa Vọng xoay quanh cùng một đề tài: “Đấng Mê-si-a, “con vua Đa-vít”.
Is 7: 10-16
Bài Đọc I trích dẫn là lời hứa long trọng mà ngôn sứ I-sai-a gởi đến cho vua A-khát, vua vương quốc Giu-đa, trong bối cảnh bi thảm: đất nước bị phân đôi và chịu áp lực tứ phía, vua không có con nối dòng. Thiên Chúa hứa ban cho nhà Đa-vít một dấu lạ: một Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên cho con trẻ là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Rm 1: 1-7
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc nhớ rằng xét như một phàm nhân, Đức Giê-su xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít; nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng.
Mt 1: 18-24
Tin Mừng tường thuật “Biến Cố Truyền Tin” cho thánh Giu-se. Sứ thần mặc khải cho thánh nhân nguồn gốc thần linh của người con mà Đức Trinh Nữ Ma-ri-a cưu mang, và xin thánh nhân nhận đứa con này làm nghĩa tử để tháp nhập con trẻ vào dòng dõi vua Đa-vít.
BÀI ĐỌC I (Is 7: 10-16)
Sấm ngôn I-sai-a này là một trong những sấm ngôn vĩ đại về Đấng Mê-si-a: nó vang lên cách long trọng: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít!”. Vị ngôn sứ ngỏ lời với vua A-khát, vua vương quốc Giu-đa, vào năm 734 trước Công Nguyên, tại Giê-ru-sa-lem trong hoàn cảnh ngặt nghèo cùng cực.
Vào lúc đó, đế quốc Át-sua (thủ đô là Ni-ni-vê) đang bành trướng thế lực: đế quốc này gây sức ép trên cả vương quốc phương Bắc (vương quốc Ít-ra-en, kinh đô là Sa-ma-ri) lẫn vương quốc phương Nam (vương quốc Giu-đa, kinh đô là Giê-ru-sa-lem). Trong vòng ba mươi lăm năm, các đạo quân Át-sua xâm chiếm miền Pa-lét-tin đến sáu lần, tàn phá xứ sở và buộc triều cống nặng nề.
Vua A-khát cai trị vương quốc Giu-đa. Vì sợ hãi, vua tìm cách hòa hoãn với vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe. Trái lại, vua Xy-ri và vua Ít-ra-en liên minh với nhau để chống lại đế quốc Át-sua và muốn vua A-khát gia nhập liên minh vơi họ. Vua A-khát từ chối. Lúc đó, các lực lượng liên minh này mở chiến dịch gây sức ép với vua A-khát và đã tiến quân gần đến Giê-ru-sa-lem. Vua A-khát, bất trung với Thiên Chúa, đã tế lễ và đốt hương trên các nơi cao, trên các ngọn đồi và dưới mọi cây xanh (2V 16: 3-4).
Những lần can thiệp của ngôn sứ I-sai-a có thể đặt vào trong hoàn cảnh bi đát này. Vị ngôn sư chỉ đưa ra một huấn lệnh duy nhất: “Hãy đạt trọn niềm tin tưởng vào chỉ một mình Đức Chúa”.
Bản văn chúng ta đọc mô tả lần can thiệp lần thứ hai của ngôn sứ I-sai-a bên cạnh vua A-khát. Trong lần can thiệp lần thứ nhất, ngôn sứ I-sai-a cố gắng thức tỉnh đức tin đang chao đảo của vua. Chắc chắn vô ích; vị ngôn sứ thử thuyết phục vua cách khác.
Ngôn sứ I-sai-a nói với vua: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu lạ dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”, nghĩa là một động đất, sao băng hay sấm chớp…
Vua A-khát trả lời: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa”. Nhà vua tìm cớ thoái thác bằng cách viện dẫn Kinh Thánh: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em” (Đnl 6: 16). Lúc đó, ngôn sứ I-sai-a cất cao giọng: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít!”. Và có lẽ trước toàn thể triều thần, vị ngôn sứ long trọng loan báo rằng thậm chí như vậy, Thiên Chúa vẫn cứ ban một dấu lạ và qua dấu lạ này Ngài sẽ cho biết rằng, bất chấp những tội bất trung của vua, Ngài sẽ không bỏ rơi dân Ngài khi ban cho vua một dấu chỉ: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”.
Tên con trẻ này là “Em-ma-nu-en”, có nghĩa: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, chắc chắn xuất xứ từ phụng vụ. Chúng ta gặp thấy tên này như một điệp khúc trong Tv 46. Tên này đối lập với thái độ cứng tin và ngần ngại của vua A-khát. Ngoài ra, nó cô động điều cốt yếu của những lời Thiên Chúa hứa trong Giao Ước.
Sấm ngôn theo bản văn Hy-bá loan báo một thiếu nữ hay một người vợ trẻ chưa sinh con, tức là một trong các người vợ trẻ của vua sẽ sinh hạ một con trai cho vua. Sấm ngôn sẽ sớm được ứng nghiệm. Đối diện với hoàn cảnh bi thảm của Giê-ru-sa-lem, trước những đe dọa đè nặng trên vương quyền nhà Đa-vít: một mặt, thế lực liên minh muốn lật đổ vua; mặt khác, vua không có con thừa tự, vị ngôn sứ long trọng trấn an khi đảm bảo rằng Thiên Chúa vẫn phù trợ. Việc dòng dõi nhà Đa-vít vẫn không bị tuyệt tự là dấu chỉ cho thấy Đức Chúa vẫn bảo vệ che chỡ. Xem ra dấu lạ được loan báo ở đây là việc sinh hạ con của vua A-khát, tức vua Khít-ki-gia tương lai. Trên dòng dõi nhà Đa-vít, những niềm hy vọng về Đấng Mê-si-a được kết tinh.
“Con trẻ sẽ ăn sữa chua và mật ong”: Diễn ngữ “Sữa chua và mật ong” gợi nhớ những ngôn từ diễn tả những ân ban của Đất Hứa: “Xứ sở chảy sữa và mật ong”. Tuy nhiên, theo văn mạch trực tiếp, quang cảnh về xứ sở màu mở này nhuốm màu sắc bi quan. Phần tiếp theo của sấm ngôn I-sai-a loan báo lãnh thổ bị quân Át-sua xâm chiếm và trở thành hoang phế: nghề canh tác sẽ bị tàn phá; không còn dầu, rượu lẫn bánh, “toàn xứ sẽ chỉ có gai góc và bụi rậm”. Những ai vẫn còn ở lại trong xứ sẽ chỉ ăn “sữa chua và mật ong” (Is 7: 21-23). Sự thánh thiện của con trẻ sắp chào đời được miểu tả cách thanh đạm: “biết bỏ cái xấu mà chọn cái tốt”.
Cuối cùng, sứ điệp tối hậu của vị ngôn sứ đem lại niềm hy vọng cho triều thần và đặc biệt cho vua A-khát, đó là hai vị vua liên minh chống vương quốc Giu-đa rốt cuộc sẽ thất bại và bị quân Át-sua tiêu diệt trong tương lai không xa. Quả thật, vào năm 732, hai mươi năm sau sấm ngôn này, vương quốc Xy-ri và vương quốc Ít-ra-en bị triệt hạ hoàn toàn: những của cải của họ bị chuyển đến kinh đô Ni-ni-vê, và dân chúng của họ bị dẫn đi lưu đày. Và sau đó không bao lâu, vào năm 721, vương quốc Ít-ra-en bị họa diệt vong.
Chiều kích Mê-si-a của sấm ngôn này được mặc khải thành hai thời kỳ. Vào thời kỳ thứ nhất, chính ngôn sứ I-sai-a sẽ triển khai sấm ngôn này. Ở chương 9, vị ngôn sứ công bố: “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta”. Nhờ sự xuất hiện của con trẻ thuộc dòng dõi Đa-vít này, ánh sáng huy hoàng sẽ bừng lên chiếu rọi khắp miền Ga-li-lê. Ở chương 11, vị ngôn sứ hết lời ca ngợi những đức tính của con trẻ này, Đấng Mê-si-a vương đế sẽ mang đến cho thế giới sự công minh chính trực và nền hòa bình viên mãn.
Vào thời kỳ thứ hai, “dấu lạ” mà vị ngôn sứ được ơn linh hứng xác định rõ hơn. Vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, bảy mươi nhà thông thái thành A-lê-xan-ri-a họp nhau và dịch bản văn Kinh Thánh bằng tiếng Hy-bá sang Hy-ngữ, vì thế được gọi bản Bảy Mươi. Họ dịch “một thiếu nữ” của bản văn Hy-bá sang “một trinh nữ” của bản văn Hy-ngữ: “Một Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai”. Theo họ, ngôn sứ I-sai-a đã ban một dấu lạ, ấy vậy nếu một thiếu nữ sinh hạ một con trai thì chẳng có gì là lạ lùng cả, vì thế phải là một trinh nữ thụ thai và sinh hạ một con trai, thì đó mới thật sự là dấu lạ cho thấy Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của dân tộc mình và của nhân loại.
Thiên Chúa thực hiện dấu lạ khi mà những luật tự nhiên không đáp ứng hay không còn đáp ứng nữa, như khi Thiên Chúa cho bà Xa-ra, dù son sẻ và tuổi đã cao, sinh hạ I-xa-ác, hay cho bà Ê-li-sa-bét, chị họ của Đức Ma-ri-a, sinh hạ Gioan Tẩy Giả trong hoàn cảnh như bà Xa-ra. Thiên Chúa sẽ thực hiện dấu lạ còn lạ lùng hơn thế nữa khi cho Đức Ma-ri-a, một trinh nữ thụ thai và sinh hạ một con trai mà không cần đến sự kết hợp phái tính.
Nhưng việc sinh hạ Đấng Em-ma-nu-en có một tầm quan trọng khác nữa. Trong hoàn cảnh sấm ngôn được công bố, sứ điệp được gởi đến cho dân Ít-ra-en thật rõ ràng: bất chấp những bất tín của dân Ngài, Thiên Chúa vẫn ở với họ. Bất chấp tội lỗi của con người, bất chấp tội lỗi của chúng ta, “Thiên Chúa vẫn ở với chúng ta”.
BÀI ĐỌC II (Rm 1: 1-7)
Bài Đọc II trích dẫn phần mở đầu Thư gởi tín hữu Rô-ma. Phần mở đầu này tương ứng với với thể thức thư tính rất quen thuộc vào thời đại này: trước hết tên và thân thế của người gởi, tiếp đó tên và thân thế của người nhận, và cuối cùng lời chào và lời cầu chúc. Tuy nhiên, thánh Phao-lô mở rộng những dữ kiện và Ki-tô hóa chúng.
Chúng ta lưu ý đến cách thức thánh Phao-lô tự giới thiệu thân thế của mình: trước hết, thánh nhân tự nhận mình chỉ là “tôi tớ của Đức Giê-su Ki-tô”; thứ nữa, thánh nhân nêu lên đặc tính ơn gọi Tông Đồ của mình: thánh nhân được Thiên Chúa gọi làm Tông Đồ và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa, xa hơn một chút, thánh nhân còn nhấn mạnh: “Nhờ Người (Đức Giê-su Ki-tô) chúng tôi nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ”. Qua cách thức giới thiệu này, thánh nhân nhất quyết xem mình ngang hàng với nhóm Mười Hai. Như họ, thánh nhân đã được Đức Giê-su chọn; như họ, thánh nhân đã được gặp gỡ Đức Ki-tô Phục Sinh và Ngài đã được trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng cho lương dân. Đây là lý do duy nhất mà thánh nhân có thể viện dẫn để đến Rô-ma, viếng thăm một Giáo Đoàn mà thánh nhân đã không sáng lập.
Trong lời mở đầu giới thiệu và chào hỏi này, thánh Phao-lô điểm qua những khái niệm Ki-tô giáo và thậm chí rút gọn đạo lý về thân thế của Đức Giê-su. Xét như một phàm nhân, Đức Giê-su xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít; xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Đức Giê-su đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng. Chúng ta lưu ý cách diễn đạt rất tinh tế của thánh Phao-lô ở đây. Thánh nhân không nói: “Con Thiên Chúa được sống lại từ cõi chết”, nhưng với tư cách là Con Thiên Chúa, Ngài đã từ cõi chết sống lại và lấy lại quyền năng ẩn dấu của Ngài ở nơi nhân tính.
Vài người hiểu kiểu nói của thánh Phao-lô: “Theo xác thịt, Ngài xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít” theo sát từ rằng Đức Ma-ri-a cũng thuộc dòng dõi vua Đa-vít như thánh Giu-se. Cách hiểu này quá thu hẹp ý nghĩa thông thường của từ “xác thịt” theo Kinh Thánh. Trong Cựu Ước, từ xác thịt thường nhất chỉ toàn thể con người, tức là một phàm nhân đối lập với thần linh. Bất chấp vài điểm tương đồng, quan niệm Do thái về sự duy nhất của con người khác với quan niệm nhị nguyên của dân Hy-lạp theo đó có một sự đối lập giữa thân xác hư nát và linh hồn bất tử. Thuyết nhị nguyên này thật ra xa lạ với tư tưởng Do thái.
Vì thế, phải hiểu câu nói này rằng về phương diện phàm nhân, Đức Giê-su thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Đây là chủ đề ngự trị cả ba bài đọc Chúa Nhật IV Mùa Vọng này. Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít được các ngôn sứ loan báo biết bao lần, chính xác là Đức Giê-su, ở nơi Ngài mọi lời hứa đều được thành tựu.
Thánh Phao-lô không bao giờ sử dụng kiểu nói “được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần” để chỉ tước vị Con Thiên Chúa của Đức Ki-tô như các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Quả thật, thánh Phao-lô không bao giờ ám chỉ đến cuộc thụ thai đồng trinh của Đức Giê-su, cũng như không bao giờ nói về Đức Trinh Nữ, ngoại trừ một lần mà không nêu tên: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà” (Gl 4: 4).
Sự thinh lặng này có thể có lý do. Vào thời kỳ thánh Phao-lô viết Thư này, Đức Ma-ri-a có thể vẫn còn sống, vì thế, để bày tỏ lòng tôn kính Mẹ của Chúa Giê-su, thánh nhân kín đáo không nói về Đức Ma-ri-a. Nhất là, thần học của thánh Phao-lô xoay chung quanh trục biến cố Phục Sinh (và nhất thiết là Thập Giá) chứ không là biến cố Nhập Thể. Chính biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô đã thiết lập một cuộc sáng tạo mới, một con người mới, một thời kỳ mới. Chính trong ánh sáng của viễn cảnh này mà lời công bố này mặc lấy tầm mức quan trọng của chúng: “Nhưng xét như Đấng từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng”.
Sau cùng, thánh Phao-lô chào hỏi những người nhận thư. Thánh nhân ngỏ lời với hai nhóm người hình thành nên cộng đồng Ki-tô hữu Rô-ma: trước tiên, những người Ki-tô hữu gốc lương dân, nghĩa là “những người được kêu gọi để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô”; tiếp đó, những người Ki-tô hữu gốc Do thái, nghĩa là “những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh”. Và thánh Phao-lô hiệp nhất hai nhóm làm một trong lời cầu chúc sau cùng: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an”. “Ân sủng” là lời chào của người Ki-tô hữu gốc lương dân, còn “bình an” là lời chào của người Ki-tô hữu gốc Do thái.
TIN MỪNG (Mt 1: 18-24)
Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta chuyện tích Truyền Tin cho thánh Giu-se về cuộc thụ thai của Đức Giê-su bởi người mẹ đồng trinh là Đức Ma-ri-a. Trong Cựu Ước, văn thể truyền tin tự nó nói lên rằng việc con trẻ được sinh ra không do ý muốn thường tình của cha mẹ, nhưng do sự can thiệp của Thiên Chúa, như chuyện tích truyền tin cho tổ phụ Áp-ra-ham về cuộc sinh hạ I-xa-ác (St 18: 1-15), và cho cha mẹ của ông Sam-son về cuộc sinh hạ ông, một anh hùng của dân tộc (Tl 13: 1-7).
Quả vậy, ngay từ đầu chuyện tích Truyền Tin này, thánh ký ghi nhận cuộc thụ thai lạ lùng của Đức Giê-su: “Bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã đính hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”. Chuyện tích xoay quanh nhân vật chính: phản ứng của thánh Giu-se trước việc thụ thai của Đức Ma-ri-a mà tác nhân không phải là thánh nhân. Câu chuyện này thường nêu lên hai vấn đề: trước hết, Đức Công Chính của thánh Giu-se; thứ đến, Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a.
Về Đức Công Chính của thánh Giu-se, cách giải thích truyền thống nhấn mạnh rằng thánh Giu-se không hề hay biết câu chuyện Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a. Vì thế, thánh nhân nghi ngờ đức hạnh vị hôn thê của mình, nhưng vì lòng nhân hậu, thánh nhân không muốn tố giác bà cách công khai, nên định tâm lìa bỏ bà một cách kín đáo. Lối giải thích nầy bật sáng đức hạnh không chỉ của thánh Giu-se, nhưng còn của Đức Ma-ri-a nữa. Sự im lặng của Đức Ma-ri-a thật đáng thán phục. Đối mặt với một mầu nhiệm không thể nào giải thích theo phương diện con người, Đức Ma-ri-a hoàn toàn tín thác vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu việc thụ thai mà vẫn còn đồng trinh là công việc của Thiên Chúa, thì chắc chắn Thiên Chúa có cách để giải quyết vấn đề. Chắc chắn Thiên Chúa đặt để hai vị thánh này vào một sự thử thách nghiêm trọng. Từ đó rút ra một bài học linh đạo tuyệt vời: chúng ta đừng ngạc nhiên nếu phải chịu trăm chiều thử thách trong cuộc đời. Noi gương thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a, chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Chúa và triệt để trung thành với kế hoạch yêu thương của Người.
Tuy nhiên, cách giải thích truyền thống này gặp phải một vấn nạn nan giải: Đức Công Chính theo Lề Luật đòi buộc thánh Giu-se phải tố cáo vị hôn thê của mình, vì thế thánh Giê-rô-ni-mô đã nhận xét chí lý rằng: “Thánh Giu-se ém nhẹm trọng tội của vợ mình mà cho là công chính ư?”. Vì thế, theo cách giải thích hiện đại, làm thế nào Đức Ma-ri-a có thể giữ kín cho riêng mình mà không cho thánh Giu-se biết, người mà Mẹ tin tưởng gởi gắm cuộc đời cho thánh nhân như một người chồng? Vì thế, thánh Giu-se không một chút nghi ngờ về đức hạnh người bạn đời của mình. Điều làm cho thánh nhân trăn trở chính là trong hoàn cảnh này, phải biết xử sự như thế nào cho phải lẽ. Một đàng, trên bình diện công bình pháp lý, với tư cách là người chồng hợp pháp của Đức Ma-ri-a, thánh nhân có quyền nhận Đức Ma-ri-a là vợ của mình và đứa con mà nàng cưu mang là con của mình. Nhưng mặt khác, trên bình diện công bình tôn giáo, thánh nhân bị đòi buộc phải kính trọng công việc của Thiên Chúa ở nơi Đức Ma-ri-a mà cho đến lúc này thánh nhân không được Thiên Chúa mời gọi dự phần vào.
Lúc đó, thánh nhân quyết định âm thầm rút lui, nhường bước trước kế hoạch của Thiên Chúa, chấp nhận dâng hiến điều đắt giá nhất của cuộc đời mình: tình yêu đối với Đức Ma-ri-a. Chính trong tâm trạng tiến thối lưỡng nan này mà thánh nhân giữ kín ý định cho riêng mình vì không thể nào thổ lộ hay giải bày với người bạn đời của mình. Vì thế, động từ Hy ngữ được dùng trong bản văn này không có ngữ nghĩa tiêu cục “tố cáo” hay “tố giác” như cách giải thích truyền thống đã hiểu, nhưng mang ý nghĩa tích cực: “thổ lộ” hay “giải bày”: “Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính, vì thế không muốn ‘thổ lộ’ (giải bày) ý định của mình cho Đức Ma-ri-a”.
Quả thật, để xua tan những nghi ngại của thánh nhân, sứ thần tái khẳng định những gì mà thánh nhân đã biết, đó là thai nhi mà Đức Ma-ri-a cưu mang là công việc của Chúa Thánh Thần, đồng thời mời gọi thánh nhân tham dự vào công việc này trong vai trò là người chồng của Đức Ma-ri-a và là người cha hợp pháp của thai nhi qua việc thánh nhân đặt tên cho con trẻ, nhờ đó con trẻ được sáp nhập hợp pháp vào hoàng tộc Đa-vít, có như thế, sấm ngôn của ngôn sứ Na-than về Đấng Mê-si-a (2Sm 7: 12) được ứng nghiệm. Vì thế, bản văn đòi buộc phải đọc là “Này ông Giu-se, hậu duệ Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì quả thật (“gar”) thai nhi mà bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh thần. Vì thế bà sẽ sinh con trai, còn ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì quả thật (“gar”) chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ” .
Như vậy, Đức Công Chính của thánh Giu-se không dính dáng gì đến việc tuân giữ Lề Luật, (phải nói là việc tuân giữ Lề Luật quá nghiêm nhặt sẽ dẫn đến việc giết chết Đức Ma-ri-a và thai nhi Giê-su), nhưng thành tâm thiện chí lắng nghe để khám phá ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố đời thường của mình và mau mắn tìm cách đáp trả một cách tích cực: “Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà mình”. J. Escriva ca ngợi Đức Công Chính của thánh Giu-se như sau: “Thánh Giu-se là một thường nhân mà Thiên Chúa tin tưởng để thực hiện những điều vĩ đại. Thánh nhân đã làm đúng như Đức Chúa muốn thánh nhân làm, trong từng mỗi một biến cố hình thành nên cuộc đời của thánh nhân. Đó là tại sao Kinh Thánh ca ngợi thánh Giu-se là ‘người công chính’” (Bl. J. Escriva, Christ is passing by, 40).
Cả hai cách giải thích, truyền thống hay hiện đại, đều nêu bật chủ đích của thánh Mát-thêu: nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su trong việc thụ thai đồng trinh. Điều này được khẳng định qua việc trích dẫn sấm ngôn I-sai-a: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Nhưng Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a được đặt thành vấn đề ở câu cuối cùng: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai”. Anh em Tin Lành thường hiểu liên từ Hy-lạp “cho đến khi” theo nghĩa liên từ tiếng Anh: “until” hay tiếng Pháp “jusqu’a ce que”, theo cách hiểu này Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a chỉ giới hạn trước và trong khi sinh con. Tuy nhiên, liên từ Hy-lạp này không khẳng định cũng không bác bỏ việc đồng trinh vẫn tiếp tục sau khi sinh con.
Phải nói rằng qua việc sử dụng liên từ Hy-lạp này, thánh ký không quan tâm đến điều gì đã xảy ra sau đó, nhưng chỉ đơn giản lưu ý điều gì xảy ra cho đến lúc đó, tức là, việc Đức Ma-ri-a thụ thai Đức Giê-su không do bởi tác nhân nam giới, nhưng hoàn toàn do bởi sự can thiệp duy nhất của Thiên Chúa. Chúng ta gặp thấy cũng liên từ này ở Ga 9: 18, ở đó những người Pha-ri-sêu được nói cho biết họ đã không tin vào việc anh mù từ lúc mới sinh được chữa lành một cách diệu kỳ cho đến khi họ gọi cha mẹ của anh. Tuy nhiên, sau đó, họ cũng không tin. Sự bỏ ngỏ này được lấp đầy bởi truyền thống Giáo Phụ và Huấn Quyền như lời dạy của Công Đồng La-tê-ra-nô: “Nếu bất cứ ai không tuyên xưng theo các thánh Giáo Phụ rằng theo ý nghĩa đích thật Đức Thánh Nữ Ma-ri-a vô nhiễm nguyên tội và trọn đời đồng trinh là Mẹ Thiên Chúa, bởi vì vào thời sau cùng, không với yếu tố nam nhân nhưng bởi Chúa Thánh Thần, Mẹ đích thật cưu mang Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng đã sinh ra bởi Chúa Cha từ muôn thuở, và Mẹ sinh hạ Ngài mà không có bất kỳ tổn hại nào đối với Đức Đồng Trinh của Mẹ, vẫn không bị xâm phạm ngay cả sau khi sinh hạ Ngài; thì kẻ ấy sẽ bị vạ tuyệt thông” (can. 3).
Trọng tâm của câu chuyện Tin Mừng này là nhằm mạc khải nguồn gốc đích thật của Đức Giê-su được gói trọn ở nơi danh xưng “Em-ma-nu-en”, Đức Giê-su không đơn giản là một con người được tuyển chọn, nhưng là Thiên Chúa làm người để ở cùng chúng ta và cứu độ chúng ta.
Hằng năm, theo tiến trình Phụng Vụ, trước ngày đại lễ Giáng Sinh, Giáo Hội cử hành một tuần lễ thường được gọi “Bát Nhật Giáng Sinh” kể từ ngày 17 đến ngày 24 để mời gọi các tín hữu suy gẫm các biến cố và các nhân vật có liên quan trực tiếp đến Mầu Nhiệm Giáng Sinh. Như mọi năm, vào ngày 17 và ngày 18, bắt đầu Bát Nhật Giáng Sinh, chúng ta được mời gọi suy gẫm nguồn gốc nhân loại của Đức Giê-su qua gia phả của Ngài và nguồn gốc thần linh của Ngài qua chuyện tích Truyền Tin cho thánh Giu-se, được đặt ngay từ đầu sách Tin Mừng Mát-thêu, ngỏ hầu khi chiêm ngắm con trẻ trong máng cỏ, chúng ta cũng có tâm tình như các mục đồng xưa: “Các mục đồng ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (Lc 2: 20).
Những “Tin Mừng về tuổi thơ” là những trang Tin Mừng kỳ diệu, rất khác với các Tin Mừng khác: Matthêu và Luca là những người duy nhất nói cho chúng ta hay, lại không phải là những chứng nhân trực tiếp. Các ông đã sưu tập lại những kỷ niệm được lưu giữ trong các môi trường “Do Thái – Kitô” và nhất là trong gia đinh Đức Giêsu. Và với dữ kiện cơ bản” này, các ông đã xây dựng một Dẫn nhập thần học, có phần giống như một nhạc sĩ soạn một “Khúc dạo đầu” mà ở đó nhạc sĩ làm cho người ta nghe thấy những chủ đề chính mà ông muốn khai triển tiếp theo. Dưới vẻ bề ngoài thô thiển và vụn vặ, đó là những văn bản phong phú những giáo lý sâu sắc, dĩ nhiên được viết sau khi Đức Giêsu sống lại và cần phải đọc “trong đức tin”. Điều ấy không có ý nói rằng, “tính nhân bản không có trái lại là khác”.
Matthêu, khác Luca, không tập trung tuổi thơ của Đức Giêsu và Đức Maria, nhưng vào Giuse: 1. Giả phả Đức Giêsu, theo dòng dõi Giuse; 2. Loan báo việc sinh Đức Giêsu cho Giuse, và chấp nhận vai trò của mình: chồng Đức Maria và cha pháp lý của Đức Giêsu; 3. Việc thờ phụng của các nhà chiêm tinh và vai trò chủ chốt của Giuse bảo đảm an toàn hài nhi khi trốn sang Ai Cập; 4. Trở về Na-da-rét, theo lệnh của một thiên thần luôn luôn nói với Giuse (Mt 1,1 – 2,23).
Chúa nhật này trước lễ Giáng sinh. Giáo Hội đề nghị chúng ta nghe tin loan báo cho Giuse.
Đây là gốc tích (“khởi nguyên”) của Đức Giêsu Kitô.
Nói “khởi nguyên” là nói đến “bắt đầu”. Đó là tiếng trang trọng lớn lao của khởi đầu thế giới, trong sách đầu tiên của Kinh Thánh.
Đối với người Sê-mít, quan niệm “nhân vị” như một cái toàn thể, vữa có tính thể xác và linh thiêng, khác với những người Hy Lạp, coi “nhân vị” trước hết như một linh hồn, thực tại linh thiêng, nhập thể vào trong một thân xác Đức Giêsu Kitô “bắt đầu” ở chính khoảnh khắc mà người nhập thân vào “lịh sử con người”, vào biến cố này, vào tình huống mà Đức Gìêsu sinh ra.
Bà Maria, Mẹ Đức Giêsu đã thành hôn với ông Giuse.
A, tất cả mọi người đều tin là biết lịch sử về con người của Giuse. Một con người trở thành đề tài để giễu cợt trong trại lính và trong xưởng thợ. Người ta đã đặt thành những bài hát dân gian diễu cợt con người ngây thơ và nạn nhân này; ông Giuse đáng thương! không phải thế sao? Nhất thế là chế nhạo Tin Mừng và không biết tí gì về cặp Maria và Giuse. Cặp này chắc chắn là cặp hạnh phúc nhất trong suốt lịch sử. Người mà, trong tất cả các cặp được thành hình từ khi tạo thành thế giới, được mang dấu ấn một lịch sử phổ quát! Cặp này cũng là cặp ‘phong nhiêu nhất trong các cặp’. Ban đầu, tình hình của họ thế nào: hai thanh niên ở giữa tuổi 15 và 20, đính hôn với nhau, vì cùng có một dự tính kỳ diệu là thành vợ chồng. Bạn hãy nhớ đến cuộc đính hôn của các bạn! Cái thời hạnh phúc đó. Hãy, nhìn các bạn trẻ đang lui tới với nhau và xây dựng ý định lứa đôi.
Nhưng trước khi ông bà về chung sống, Bà đã có thai do quyền năng của Chúa Thánh Thần, ông Giuse, chồng bà là người công chính là không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.
Đây là chặng thứ hai: “dự tính tan vỡ”; khủng hoảng chuyện đôi lứa, khi Giuse thấy người đính hôn của mình mang thai. Tất cả mọi giấc mơ đầu bị phá tan. Có lẽ ta không thể hiểu được nỗi đau đớn tinh thần dày vò còn bị che khuất đằng sau đoạn Tin Mừng vắn tắt này? Ở giai đoạn tình huống này, Giuse quyết định không cưới Maria nữa. Và quyết định này là quyết định của người đàn ông công chính.”
Người ta đưa ra nhiều cách giải thích về sự công chính này của Giuse. Thánh Justin nghĩ rằng Giuse công chính bởi vì người muốn áp dụng Luật (Đnl 22,23). Điều kỳ lạ và có vẻ không đúng là người ta đã có thể nghĩ đến một sự nghi ngờ tội ngoại tình, mà Luật Môsê đòi phải phạt. Thánh Giêrôm, chính người lại kết luận rằng Giuse “công chính bởi vì ông muốn bỏ bà Maria một cách kín đáo”. Nhưng cũng ở chính đó, có phải là điều công chính khi bỏ mặc cho số phận một người vợ mà người ta nhìn nhận là vô tội ư? Giải pháp thỏa đáng duy nhất cho vấn đề này chính là điều mà bản văn đã gợi ra. Quả thế, ngay trước lúc diễn tả cuộc tranh chấp tâm lý của Giuse, thì Matthêu, một cách rất rõ ràng, giả định là người ta có biết việc “thụ thai mà còn trinh nguyên một con trẻ”; thụ thai bởi tác động của Thánh Thần.
Do đó có lẽ chính Đức Maria đã tiết lộ tâm sự với người mình đính hôn (hay đúng hơn, mẹ của Đức Maria theo tập quán Phương Đông). Và Giuse, sau khi suy nghĩ bằng những phương tiện nhân loại của mình, sau khi đã hiểu rằng con trẻ này do Chúa, mà đến, ông không muốn đòi hỏi về quyền hành đối với đứa con không phải là của mình; ông nhận ra ‘quyền làm cha’ của Thiên Chúa. Và ông nghĩ rằng, chính ông Giuse, không được con như cha của đứa con đó. Thế là ông quyết định từ khước ý định lứa đôi của mình. Cũng như Abraham, hy sinh cho Thiên Chúa, Giuse là “người công chính”, ông quyết định hy sinh mình.
Ông đang toan tính như vậy thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu Đavít. đừng ngại đón bà Maria vợ ông về…
Như thế chính Thiên Chúa can thiệp để thay đổi dự tính của Giuse. Để nhấn mạnh đến khía cạnh “tôn giáo”, thần linh”, của quyết định mới mà Giuse có, Matthêu để cho mạc khải” của mình chảy theo “thể loại văn chương” thoáng thấy của việc “loan báo theo ngôn ngữ quen thuộc Kinh Thánh, Chúa dựng ở đây sự can thiệp của “Thiên Thần của Chúa”, và của “giấc chiêm bao” loan tin.
Thường đó là vấn đề về các giấc chiêm bao trong Kinh Thánh và đặc biệt trong cuộc đời của Giuse (Mt 1,20; 2,13.22).
Giuse, một anh thợ tầm thường, ở đây được gọi lên một cách trang trọng là “con nhà Đavít”. Chính là với danh nghĩa “dòng dõi của hoàng gia” Do Thái, mà Thiên Chúa yêu cầu ông thay đổi ý định và nhận Maria làm vợ mình. Ông đã quyết định’ “bỏ” nàng’ và như thế khước từ làm cha đứa bé mà Maria mang thai… Tình hình cũng đúng như đại tổ phụ trong đức tin, Abraham tin điều đó, khi ông chấp nhận hy sinh con trai Ixaác của mình, thì ông xem con trai mình như một “của lễ của Thiên Chúa” (St 22). Với Giuse, người vừa khước từ một đứa con trai, cũng thế. “Thiên Thần của Thiên Chúa đòi ông đón nhận đứa con trai theo cách khác: Người phải nhận đứa con như một “của lễ”, trong đức tin. Đứa con mà ông đã khước từ theo xác thịt, thì ông lại nhận đứa con đó như “con của lời hứa” (Gl 4,2-28).
Chắc chắn người con bà cưu mang là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, và ông phải đặt tên con trẻ.
Câu văn bằng tiếng Hy Lạp được xây dựng trên sự đối lập mà chúng ta đã nhấn mạnh; bộ phận đầu tiên của câu nói bắt đầu bằng “gar”, có nghĩa là “quả thế, chắc chắn”. Bộ phận thứ hai của câu nói bắt đầu “dé”, có nghĩa là “nhưng, tuy nhiên”.
Vì thế thiên thần không báo cho Giuse biết việc thụ thai đứa con còn trinh nguyên, mà ông đã biết. Nhưng thiên thần yêu cầu ông, mặc dù ông đã biết, là thay đổi quyết định của ông. Không những Giuse không biết mình đi như ông tính làm, nhưng trái lại, Thiên Chúa cần ông. Thiên Chúa giao cho Giuse hai vai trò: 1. nhận lấy Maria về nhà mình; 2. đặt tên cho con trẻ. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, theo thói quen sêmít, điều ấy có nghĩa rõ ràng là “nhận lấy quyền làm cha pháp lý” cho đứa con. Người ta hiểu tại sao Giuse đã được chào kính với danh hiệu: Con Đavít. Chính do dòng họ Giuse mà Đức Giêsu lại trở nên con của Đavít, để hoàn thành tất cả mọi lời hứa của Thiên Chúa” (Mt 1,1 – 9,27 – 12,28: 20,23 – 21,9).
Đối với ai hiểu văn bản này một cách sâu xa, như đa chép, Giuse không hề thuộc về thứ nhân vật xanh xao và thụ động mà người ta dã làm biến dạng một cách sai lầm Đó là một “người công chính” thực sự. Một người can đảm thực sự đã thay đổi quyết định mà mmh đã có với tất cả lòng thành. Một người tin tưởng vào người đã đòi mình một “lòng tin”, vào nhịp độ của biến cố khủng khiếp sắp xảy ra. Và ta hãy thêm, “một người chồng” hoàn toàn hiệp thông với lòng tin của người vợ mình. Ngày nay, tâm lý học hiện đại nhấn mạnh đến khái niệm “đôi lứa”, “đồng trách nhiệm”. Bất chấp tất cả những cái bề ngoài hờ hợ mà người ta có thể dừng lại, than ôi. Maria và Giuse sống, một cách vượt hẳn thường lệ, một cuộc sống đôi lứa kết hợp một cách phi thường: họ “đối thoại” ở mức độ sâu xa nhất, bằng cách mỗi người đi tìm ý của Thiên Chúa, và bằng cách chấp nhận cùng một thái độ; phải vượt qua những cái nhìn nhân loại đơn giản, để có thể tin tưởng vào một tương lai mà Thiên Chúa mở ra trước mắt họ. Và còn điều này, bất chấp “cơn khủng hoảng”, một lúc nào đó một chuyện không thể tiên liệu được đã tạo ra giữa họ. Như vậy trong cuộc sống chúng ta, có thể xảy ra một tình huống bắt buộc,bất ngờ, mà khi đó dường như Thiên Chúa đến phá vỡ những dự tính của chúng ta, tức là, trong thực tế, kêu gọi ta tiếp nhận ý chí mới của Thiên Chúa. Nhưng đó là trong đêm tối đức tin; như trong một giấc chiêm bao ban đêm.
Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ. Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Nây đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hai từ này là cả một nền thần học: Thiên Chúa cứu độ Thiên Chúa ở cùng chúng ta… Giuse, lúc này, chỉ muốn có tên thứ nhất, “Giêsu-Thiên-Chúa-cứu-độ”. Và chính Đức Giêsu Phục sinh sẽ đảm nhận tên thứ hai hàm nghĩa Sê-mít ở cuối sách Tin Mừng: “Còn tôi, tôi ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Con trẻ mà tôi sắp mừng lễ ngày Giáng sinh, con trẻ ấy có đúng là Giêsu kia không? Tôi có đón nhận người như Đấng giải thoát tôi khỏi tội lỗi của tôi không? Tôi có đón nhận dấu chỉ nhiệm tích của người không?
Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dậy và đón vợ về nhà, ông không ăn ở với bà cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu.
Cuối cùng bây giờ, chúng ta tìm thấy lại cái dự tính đôi lứa muốn hình thành lúc đầu câu truyện (“Maria thuận cưới Giuse”); dự tính này, trong khoảnh khắc bị tan vỡ do tình huống đã gây ra khủng hoảng, và bây giờ thành hình (nhưng khác hẳn với dự kiến (“không có quan hệ vợ chồng”), ông ấy chẳng hề biết bà ấy”). Bản văn có một sự sáng tỏ làm lóa mắt, giống như tất cả những gì thuộc về thần linh: Giuse. nhờ quyết định của Thiên Chúa được đồng thuận tự do trong đức tin, đón nhận một chức năng làm cha đích thực mà không có quan hệ xác thịt. Tôi tưởng tượng thấy điều đó, sung sướng, hồ hởi. Tất cả chuyện đó là huyền nhiệm, như Thiên Chúa là huyền nhiệm, cũng như “Phục sinh”, như “Thánh Thể” đều là huyền nhiệm.
BÁO TIN CHO GIUSE
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Chúa nhật thứ IV này, bài đọc năm A tích trong đoạn mở đầu Phúc âm thánh Matthêu (1,1-4,16). Claude Tassin giải thích: Một đoạn mở đầu như một cái sàng, cho phép đi từ Cựu ước đến Tân ước. Bởi vì, đối với Matthêu, Đức Giêsu không đến cắt đứt những quỹ đạo lịch sử Kinh Thánh thời trước, nhưng nối kết chúng lại trong một chiều hướng bất ngờ (“L’evangile de Matthieu”, Centurion, 1991, trang 19). Đó rõ ràng là điều nỗi bật của đoạn văn dùng cho ngày 24 tháng 12 này.
Khác với thánh Luca đã gom lại các mẩu chuyện về thời ấu của Đức Giêsu, nhưng tập trung vào Đức Maria, thánh sử Matthêu đưa Giuse ra trước; như thế, ngài cống hiến cho các độc giả của ngài một con đường đi đến mầu nhiệm Đức Giêsu. Gia phả của ông: “Đây là gốc gác Đức Giêsu Kitô…” (1, 1-17) trước hết muốn tỏ cho biết Đức Giêsu Kitô là Ai: “Đức Kitô, con vua David, con của Abraham”. Tuy nhiên, việc giới thiệu ấy bất ngờ chuyển hướng; một khâu cuối cùng bị trục trặc, sự liên tục của các thế hệ bị đứt đoạn, bởi vì, ông nói rõ ràng là, Giuse không phải là cha ruột của Đức Giêsu: “Giacob sinh Giuse, chồng của Maria, từ nơi bà Đức Giêsu sinh ra, cũng gọi là Đức Kitô” (câu 16). Mặc dầu vậy, Matthêu sẽ chỉ cho biết, làm thế nào Đức Giêsu là con của David được các tiên tri báo trước, và làm thế nào, Giuse, không hề cắt đứt sự liên tục, lại là người nối kết lại. Ông nhấn mạnh ở câu 18: “Đây là gốc tích (nguồn gốc) của Đức Giêsu.
“Maria, mẹ của Đức Giêsu, đã đính hôn với Giuse…”. Vào thời đó, đôi vợ chồng đính hôn khi còn là thanh niên, sau một thời gian mới đi đến hôn nhân và vợ về nhà chồng. Chính trong khoảng thời gian này, “trước khi hai ông bà về chung sống với nhau Maria có thai do tác động của Chúa Thánh Thần”, Matthêu thêm vào ngay lập tức nhìn nhận đây là sự khởi đầu thánh thiêng, thay thế một hành động tạo dựng, cho tiến trình sinh vật học.
“Giuse, người công chính…”. Chúng ta đừng tìm cách đi vào tâm lý của Giuse, đang phải đương đầu với một hoàn cảnh tế nhị. Tuyệt nhiên, bản văn không nói với chúng ta điều gì cả. Chúng ta chỉ có thể đọc được ở đây quan điểm của thánh sử. C.Tassin chú giải: “đối với ông Giuse là người công chính, bởi vì ngài đã từ chối đảm nhận tư cách làm cha không phải là của ngài, và bởi vì ngài đã vâng lời Thiên Chúa mà chịu nhận vai trò làm cha này” (O.C. trang 26).
“Thiên thần Chúa hiện ra với ông trong giấc mơ…”. Rõ ràng là chúng ta đang gặp thể loại văn chương chuyên loan báo việc hạ sinh trong Kinh Thánh mà Matthêu đi theo sơ đồ truyền thống: 1- một hoàn cảnh bế tắc. 2- Thiên thần hiện ra và uỷ thác sứ mạng. 3- Việc thực hiện sứ mạng này. Giữa hoàn cảnh bế tắc, Giuse được uỷ nhiệm một sứ mạng: với tư cách là “Con vua David”, ngài được giao phó sứ mạng “đặt tên cho con trẻ”, dành riêng cho ngài. Mà, theo H.Vulliez giải thích: “Theo luật Do Thái lúc bấy giờ, đứa bé hiện hữu hợp pháp bằng tên mà người ta gọi nó, và nó thuộc dòng dõi người cha, dù đó là người cha. (sinh vật học) ruột thịt hay không” (“Dieu si proche”, Desclée de Brouwer, trang 16). Như vậy, tư cách con vua Daviđ thực sự của hài nhi và sự thực hiện trọn vẹn các lời tiên tri cứu thế tuỳ thuộc ở sự vâng lời của Giuse. Chẳng những ngài không phải mờ nhạt đi, mà Thiên Chúa muốn cần đến ngài để thực hiện ý định cứu độ của Thiên Chúa.
“Khi thức dậy, Giuse đã thực hiện điều Thiên Chúa truyền…” Với sự mau mắn của người công chính, hoàn toàn sẵn sàng trước sự mới lạ của Thiên Chúa, Giuse đón nhận về nhà mình mầu nhiệm của Giao ước mới: ông rước vợ về nhà mình, như thế, cho phép các lời tiên tri được thực hiện trọn vẹn: Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ đặt tên là Emmanuel, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” (xem Is. 7). Nhờ Giuse, Đấng Cứu Thế, thụ thai trong lòng Đức Maria, bởi Thánh Thần của sự sáng tạo mới, được đưa nhập vào dòng dõi David. Với đoạn các Nhà Đạo kế tiếp Ngài sẽ tỏ mình ra cho Israel và dân ngoại.
Thế nhưng, hơn cả vai trò của Giuse trong ý định cứu độ chính sứ mạng của Đức Giêsu mới làm cho Matthêu quan tâm. Một sứ mạng mà hai tên gọi loan báo được trao phó cho Ngài: Tên mà Giuse được uỷ thác trao phó cho Ngài: “Giêsu”, và có nghĩa là: “Thiên Chúa cứu chuộc”, bởi vì, chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi. – Tên gọi mà sau này sẽ dùng để chỉ định Ngài, khi mà, trong ánh sáng phục sinh, các môn đệ sẽ hiểu là đã thực hiện lời sấm của Isaia: Người ta gọi tên Ngài là Emmanuel, nghĩa là: “Thiên Chúa ờ cùng chúng tôi”. Thực ra, vào cuối Phúc âm, khi gặp nhau tại điểm hẹn, đấng Phục Sinh sẽ sai họ ra di với sứ mạng không biên giới, Ngài tuyên bố với họ: Và Ta, Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế, thì họ sẽ hiểu rõ tầm mức quan trọng cuối cùng của lời tiên tri về Emmanuel, “lời loan báo cho Giuse đã vẽ lên quĩ đạo sứ mạng của Đức Kitô” (C.Tassin, O.C. trang 28).
BÀI ĐỌC THÊM
“Đây là gốc tích của Đức Giêsu…”. Sau quyển sách gốc tích của Đức Giêsu Kitô, thì đây là một nguồn gốc khác được trình bày cho chúng ta. Đức Giêsu, bám rễ sâu vào một lịch sử, trong một dân tộc, cũng là Đấng đến từ nơi khác. Giacob sinh Giuse, chồng của Maria, từ nơi bà, Đức Giêsu sinh ra… Giuse đã đưa đứa trẻ sắp sinh nhập vào trong dòng dõi tổ tiên mình một cách hợp pháp; nhưng hài nhi này lại đến từ một Đấng khác: đứa con bà sinh ra là bởi Chúa Thánh Thần. Giuse, người công chính, sẽ đặt tên cho hài nhi: bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu. Tên gọi có ý nghĩa, cho biết hài nhi không phải là hậu duệ như những người khác, đóng kín trong những giới hạn của khả năng loài người: Bởi chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi. Ai có thể giải thoát khỏi tội lỗi, nếu không phải là Thiên Chúa? Lời tiên tri nhận lấy đầy đủ tất cả ý nghĩa: người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. Đức Giêsu ghi tên vào một gia phả, nhưng Ngài làm nổ tung gia phả đó. Chính Thiên Chúa bước vào trong thế giới loài người chúng ta. Tuy nhiên, vai trò của Giuse không phải là tầm thường. Khoa tâm lý hiện đại đã tỏ cho chúng ta biết tầm quan trọng của hình ảnh người cha đối với việc tạo thành nhân cách của hài nhi. Chính nhờ gần gũi với Giuse mà Đức Giêsu sẽ học biết người cha là gì. Chính nơi ông, mà Ngài sẽ nhìn thấy phản ánh nhân loại tình phụ tử của Thiên Chúa. Biết nói với chúng ta rõ ràng về Cha của Ngài, phải chăng khi đã nhìn thấy Giuse mà Ngài đã có kinh nghiệm về sự âu yếm của cha: “Ai trong các anh, nếu đứa con xin bánh mà lại cho một hòn đá ư? Hay, nếu nó xin một con cá, mà lại cho nó một con rắn (7,9- 10). Ngài đã học biết rằng, các người cha dưới đất biết cho con cái mình những sự tốt lành. Ngài đã học biết điều đó nơi thánh Giuse. chúng ta đừng quên rằng, những đoạn văn đến “sau”; sau một sự khám phá lâu dài về con người Gìêsu, con của bác thợ mộc, sau những lời nói và những dấu chỉ đã làm nảy sinh đức tin trong tâm hồn các môn đệ, sau những hồ nghi và sau cùng, sau một sự chắc chắn về sự phục sinh: phải nhìn nhân rằng, Đức Giêsu đã là một Đấng khác, để chúng ta có thể hiểu rằng ngài đã từ nơi khác mà đến: Trong lịch sử nhân loại, nguồn gốc thần thiêng của Đức Giêsu là một sự kiện không ai để ý đến, không ngừng được tranh cãi và chối bỏ: Đó không phải là con bác thợ mộc sao? Nhờ Thánh Thần Thiên Chúa dẫn nhập cái mới vào trong thế giới chúng ta. Ngài đã trở thành Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi. Cả nguyên việc đón nhận cái mới là chính Đức Giêsu, cái mới mà Ngài đem đến cho cuộc đời chúng ta, có thể dẫn ta đến chấp nhận điều bất ngờ trong việc Ngài sinh ra. Chính kết quả của việc khám phá này mà Matthêu muốn gởi gấm cho chúng ta. Chúng ta không thể chấp nhận nguồn gốc của Đức Giêsu bởi tác động của Chúa Thánh Thần mà không nhìn nhận là Ngài đến từ Thiên Chúa. Chính khi đã nhìn biết Ngài, chính khi đã hiểu rằng, Ngài là Đấng khác, thì chúng ta mới có thể đón nhận mầu nhiệm giáng sinh của Ngài”.
“Tính cách làm cha của Giuse đón với Đức Giêsu quan trọng hơn ta vẫn thường nghĩ. Để gọi tên Đấng mà tất cả mọi người xưng là Thiên Chúa, để chỉ định sự hiện diện rất gần gũi mà từ đó Ngài lãnh nhận tất cả mọi sự, hữu thể mà Ngài luôn luôn ý thức chỉ là một với Ngài, Đức Giêsu tự động dùng lại danh xưng mà ngài âu yếm gọi Giuse; ‘Cha, Ba, Bố’. Và khi phải giải thích sự thật gây kinh ngạc này với Thiên Chúa của Israel, Thiên Chúa mà Ngài đòi tiếp tục công trình sáng tạo, Đức Giêsu lại dùng những từ ngữ đơn giản nhất khi còn tập tành ở Nagiarét, trong xưởng của bác thợ mộc Giuse: “Cho đến bấy giờ vẫn làm việc, và Ta cũng vậy, Ta cũng làm việc. Điều mà Cha làm, thì Con cũng làm giống như vậy. Chính Cha yêu mến Con, và Cha cho Con tất cả những gì Ngài làm” (Jn 5,17-20). Chính nơi những từ ngữ thường ngày, những từ ngữ mà Ngài dùng để diễn tả cuộc đời Ngài, những mối liên hệ của Ngài, những tình cảm của Ngài, mà Đức Giêsu muốn nói đối với Ngài, Thiên Chúa là ai. Làm sao không tình thấy trong tình cảm của cha mẹ Ngài những từ ngữ đúng đắn nhất để nói cho chúng ta biết mối liên hệ tuyệt đối duy nhất vốn vẫn hiện diện trong con tim Ngài: “Cha và Ta, Chúng Ta là một” (Jn 10,30).
THIÊN SỨ BÁO TIN CHO GIUSE
CÂU HỎI GỢI Ý
*******
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
Qua tiêu đề bản văn (c.18a), Mt muốn ngỏ lời với các tín hữu để xác định hoặc sửa sai quan niệm của họ về việc Chúa Giêsu Kitô sinh ra. Mt không đưa ra một chỉ dẫn nào về Maria và Giuse; ông nói đến các ngài như những người mà độc giả đều biết rõ. Chủ ý của ông chẳng phải là trưng tài liệu song là dạy giáo lý.
Câu 18b gợi ý (song không minh nhiên quả quyết) rằng Giuse đã biết việc thụ thai con trẻ là do Chúa Thánh Thần.
Động từ sunelthein, theo tự nghĩa là “đến với, phối hợp với một người nào đó”, có thể chỉ việc giao hợp hoặc việc sống chung. Văn mạch gần phù hợp với nghĩa đầu hơn. Cô thiếu nữ Do thái, được đính hôn vào khoảng tuổi 12, thoát khỏi quyền giám hộ của người cha để ở dưới quyền giám hộ của người chồng vào lúc 13-14 tuổi (việc chuyển tiếp này, khai mạc việc sống chung, làm nên lễ hôn phối).
“Do tự Thánh Thần”: giới từ “ek” ở đây nói đến một nguyên nhân lịch sử: do một hành động độc nhất của Thánh Thần. Lc 1,35 thì loan báo một hoạt động tích cực hơn: Thánh Thần “sẽ đến trên” Đức Maria. Từ ngữ của Mt, vì chỉ ghi nhận sự kiện, nên có vẻ dè dặt hơn. Vả lại, Mt mỗi lần nói đến Thánh Thần, là để công bố hoạt động cao siêu của Thiên Chúa, nhưng không giải nghĩa hoặc phân tích gì thêm (3,11; 4,1; 10,20; 12,18; 12,28.31).
“Giuse, chồng bà, vì là người công chính và không muốn tố giác bà”: sự công chính của Giuse hệ tại chỗ nào? Giai thoại ta đang nghiên cứu đã làm các nhà chú giải bối rối không ít. Phần lớn cho rằng sự công chính đó chính là việc mặc khải cho Giuse biết Maria đã thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, hầu chấm dứt mối băn khoăn nghi ngờ nơi ngài. Nhưng lập trường này đẩy ta vào những vấn đề tâm lý giả tạo và khó giải quyết, những vấn đề hoàn toàn xa lạ với tinh thần của tác giả và độc giả Tin Mừng. Đúng hơn là hình như Giuse băn khoăn không phải về tiết hạnh của bạn mình, song là về mối liên hệ giữa ngài và đứa trẻ, về nhiệm vụ ngài phải gánh vác đối với đứa bé đó. Giuse không công chính theo nghĩa là ngài vâng lời Lề luật vì chả có luật nào buộc phải ly dị vị hôn thê mới bị coi như là ngoại tình cả (Đnl 22,13-21.23-27 chỉ liên hệ tới hôn nhân hoàn hợp, như Đnl 24,1 làm chứng). Đàng khác, nếu âm thầm ly dị Maria, thì Giuse lại càng bất tuân Lề luật, vì chứng thư ly dị chỉ có giá trị pháp lý khi mang tính cách chính thức công khai (Đệ nhị luật có nói đến việc ly dị tổ chức ở cửa thành). (Vẫn biết pháp chế của các tiến sĩ luật có cho phép tổ chức việc ly dị riêng tư trước hai nhân chứng – x.Mishnah, Sotah 1, 5- song hình như pháp chế ấy nằm sau thời Chúa Giêsu; hơn nữa, kiểu ly dị như vậy không thể là điều Giuse nghĩ tới, vì bản văn Mt rõ ràng nói đến một việc ly dị “âm thầm, bí mật” – từ ngừ hy lạp lathra, theo Zorelle, Bauer…, chỉ có ý nghĩa ấy – với lại ly dị mà có hai nhân chứng thì sức mấy giữ được bí mật lâu trong một ngôi làng nhỏ như Nadarét…). Sau cùng, mọi lối giải thích sự công chính của Giuse như là “công chính chiếu luật” sẽ đẩy ta vào chỗ tiến thoái lưỡng nan. Thật vậy nếu theo con mắt của Giuse, Maria phạm tội ngoại tình, thì ta hiểu ngay là ngài đã nghĩ tới chuyện ly dị, song ta không thấy tại sao ngài lại nghĩ đến việc ly dị âm thầm, vì bấy giờ việc ly dị sẽ chẳng có hiệu lực pháp lý và lại không thể giữ bí mật được lâu. Đàng khác, nếu Giuse coi Maria vô tội, thì ta không thấy tại sao ngài lại nghĩ đến chuyện ly dị bà, vì pháp luật đâu cho phép và vì, xét như là hôn phu, người có bổn phận bảo vệ vị hôn thê vô tội chống lại mọi nghi ngờ vô bằng cứ của kẻ khác. Thành ra không thể cắt nghĩa sự công chính của Giuse như là “công chính theo luật” được.
Vấn đề ở đây là sự công chính tôn giáo, sự công chính đòi hỏi Giuse tôn trọng công trình Thiên Chúa nơi Maria và cấm ông không được đoạt lấy công lao của một hành động thần linh: Giuse nghĩ rằng mình không được quyền đem về nhà một kẻ mà Giavê đã dành riêng cho Ngài. Trước mầu nhiệm ấy, Giuse muốn rút lui, và vì tế nhị đối với Thiên Chúa. Ngài cẩn thận không muốn “tiết lộ” mầu nhiệm thần linh nơi Maria (tiếng deigmatisai, theo Origène và Eusèbe, không bao hàm ý nghĩa xấu tố giác? bêu nhục) như tiếng paradeigmatisai; Jouon cũng dịch là tiết lộ, bày tỏ “). Ngài phản ứng như hết thảy mọi kẻ công chính trong Thánh Kinh trước việc Thiên Chúa can thiệp vào đời họ: như Môisen cởi giày trước bụi gai rực cháy, như Isaia khiếp đảm truởc sự xuất hiện của vị Thiên Chúa ba lần thánh, như Elidabét tự hỏi tại sao mình được mẹ Chúa viếng thăm, như viên bách quản trong Tin Mừng, như Phêrô cúi mình tâu: “Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ tội lỗi “… Như “Abel người công chính”, Giuse đã tỏ mình ra là kẻ hết dạ tôn thờ Thiên Chúa tabel là người “công chính” duy nhất được Mt gọi tên trong Tin Mừng của ông, 23, 36, công chính không phải vì tuân hành Lề luật, vì Lề luật chỉ được công bố với Môisen!).
Lối giải thích này được văn mạch chung của chương 1 Mt xác nhận. Thật vậy, trong đoạn văn đầu tiên, Mt kể lại gia phả của Chúa Giêsu bắt đầu từ Abraham và Đavít, đi ngang qua Giuse. Nhưng chính gia phả ấy lại gặp một vấn đề hóc búa nơi Giuse. Hóc búa là vì Chúa Giêsu chẳng phải là con Giuse theo xác thịt. Thành ra bản văn chúng ta đây có mục đích giải thích làm sao Chúa Giêsu thuộc về dòng dõi Đavít, mặc dù Người chẳng phải là con Giuse. Và lời giải thích nằm ngay trong việc Giuse thừa nhận Chúa Giêsu trước mặt pháp lý. Do đó ta thấy rõ trình thuật không có mục đích bênh vực việc thụ thai đồng trinh cho bằng là chứng minh làm sao Chúa Giêsu đã trở nên con cháu Đavít và là Đấng Thiên sai dòng dõi Đavít, mặc dầu Người được mang thai đồng trinh, một yếu tố đã gây nên vấn nạn lớn lao. Hai phần của chương đầu Mt như thế làm nên hai vế của cùng một chứng minh vậy.
Một luận cứ xác nhận khác là chính lời của thiên sứ (cc 20-21), nếu được hiểu đúng. Cách dịch hay nhất có lẽ như thế này: “Hỡi Giuse, con Đavít, chớ sợ đem Maria về nhà làm vợ vì quả thật (Hy ngữ: gar; pháp ngữ: can certes) thai sinh nơi bà là công thành của Thánh Thần, nhưng (Hy ngữ: dé) bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu; vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội lỗi “. Đúng vậy, lối dịch chữ gar ra vì quả thật thường được thấy trong Tân ước (1 Cr 9, 19; 2 Tx 2, 20; Mt 18, 7; 22,14; 24,6…). Thành ra qua lời mình, thiên sứ giả thiết là Giuse đã biết Maria mang thai đồng trinh rồi và chính việc thụ thai này đã thúc đẩy ngài rút lui trước sự can thiệp của Thiên Chúa; tuy nhiên thiên sứ ra lệnh cho ông dù sao (“nhưng”) cũng phải chấp nhận đặt tên cho đứa trẻ và đưa nó vào dòng dõi Đavít.
“Giêsu”: tên chỉ định con người và, đặc biệt trong Kinh Thánh, chỉ định chức vụ mà Thiên Chúa đặt định cho trong lịch sử cứu rỗi. Iêsous là phiên âm hy lạp của tiếng hy bá Yehôshua (Xh 24, 1 3) hoặc Yéthua (Nhm 7, 7), “Giavê là sự cứu độ”, một tên riêng khá phổ thông trong Cựu ước và Tân ước.
“Vì (từ ngữ mở đầu câu nói về ơn gọi, cái ơn gọi được diễn tả qua danh tánh mà Thiên Chúa truyền phải đặt cho đứa trẻ) chính Người sẽ cứu” (động từ “cứu” cũng tái xuất hiện trong ba Tin Mừng Nhất Lãm: 15- 15- 17 là n trong Mt-Mc-Lc, trong khi chỉ mình Lc gán cho Chúa Giêsu tước hiệu “Đấng Cứu Thế” nơi chương 2, 11 và dùng chữ “ơn cứu độ “) dân mình tức Giáo Hội, Israel đích thực; lao, “dân”, là một từ ngữ riêng của Mt (14 lần, trong lúc Mc chỉ dùng hai lần) dùng để chỉ dân Thiên Chúa) khỏi tội lỗi (x.Tv 130, 8; ta không được bảo toàn thể Do thái giáo đương thời Tân ước đều mong chờ một Đấng Thiên sai thuần túy có tính cách quốc gia và chính trị; Thánh vịnh Salomon 17 vẫn hy vọng rằng Con Đavít sẽ quy tụ dân Người, thanh tẩy và thánh hóa họ).
“Mọi sự này xảy ra…” (cc.22-23). Công thức quen thuộc này của Mt không muốn quả quyết rằng giữa các bản văn Cựu ước và thực tai của Tân ước có một cái gì bình đẳng. Mt cho rằng bao giờ cũng vẫn là chính Thiên Chúa điều khiển lịch sử thánh, nhưng các thực tại Tân ước mới là đích điểm và là sự viên mãn của Cựu ước.
“Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai”: Mt trích Is 7,14 (x.2V 16, 5- 9) theo bản 70 với chữ parthenos, “tính nữ”, trong lúc nguyên bản dùng chữ almâ, là tiếng vừa chỉ một thiếu nữ, vừa chỉ một người vợ trẻ. Vì thế, dựa vào Is 7,14, Do thái giáo miền Palestine không mong chờ một Đấng Thiên sai sinh hạ đồng trinh, nhưng dù vậy Đấng Thiên sai cũng sẽ là một người con đầu lòng (Lc 2,7). Trong hoàn cảnh lịch sử của Is 7,14, vị ngôn sứ chỉ loan báo một biến cố sắp gây chưng hửng cho vua Achaz cũng lòng tin.
“Emmanuel”: Mt chẳng cố ý nêu ra một tên mới của Đấng Thiên sai, song chỉ muốn nói lên ý nghĩa của con người và của công cuộc Người thực hiện. Chính Is 7,14, bản văn ông trích dẫn, và 8,8 cũng đã không nhấn mạnh đến sự hiện diện đơn thuần của Thiên Chúa, điều mà cả Kinh Thánh đều giả thiết, nhưng đến sự hiện diện tích cực, hằng cứu giúp của Ngài. Như vậy, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa dân Ngài để cứu vớt họ. Lời hứa long trọng của Chúa Kitô vinh hiển “Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”, 28,20) đánh dấu việc thể hiện hoàn toàn lời loan -báo trên. Như thế, Tin Mừng Mt mở đầu và kết thúc với ý tưởng này là: Thiên Chúa đã hiện diện tích cực với nhân loại trong con người Chúa Giêsu.
Nơi câu 24-25, Mt ghi nhận: sau khi được Thiên Chúa báo mộng, Giuse không còn thụ động nữa; ngài “tỉnh giấc” hay “chỗi dậy” tuân hành răm rắp lệnh truyền. Chi tiết các câu 24- 25 tương ứng sít sao với lời dạy của thiên sứ (cc.20-21) và với lời giải thích cùng trích dẫn sấm ngôn (cc.22-23). Như câu 23, câu 25 nhận xét rằng Maria còn đồng trinh lúc hài thi sinh ra; thành ra kiểu nói “ông đã không biết bà cho tới ngày bà sinh con” không phủ nhận cũng chẳng ám chỉ sự đồng trinh sau đó. Vả lại ta nên nhớ mẫu tính đồng trinh của Đức Maria không có ý nghĩa sinh vật học (mặc dầu sự kiện có thật) song là Kitô học, nghĩa là diễn tả đức tin của Giáo Hội vào thần tính và nhân tính của Chúa Giêsu.
KẾT LUẬN
Ở hai đầu của lịch sử Lời hứa, có hai ơn gọi làm âm vang cho nhau và bổ túc nhau: ơn gọi Abraham, cha của Lời hứa, và ơn gọi Giuse, kẻ mà lòng vâng phục mệnh lệnh thần linh đã giúp thực hiện lời Thiên Chúa hứa là cho Đấng Emmanuel tới. Và nhờ được Giuse đưa vào dòng dõi Đavít, kẻ thụ thác Lời hứa, Chúa Kitô từ nay liên hệ trực tiếp với mỗi người con cháu Abraham, đón con cháu đông như sao trên trời chẳng ai đếm nổi (St 15, 5).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
CHÚA KITÔ BƯỚC VÀO THẾ GIAN (1,18-25)
Đối với cách suy nghĩ của người Tây phương, những mối liên hệ trong đoạn Kinh Thánh này thật rắc rối. Trước hết, Giuse được nói là hứa hôn với Maria, sau đó lại nói là Giuse định âm thầm ly dị nàng, và kế đó Maria lại được gọi là vợ Giuse. Những mối liên hệ này tiêu biểu cho thể thức hôn nhân thông thường của người Do Thái. Trong hôn nhân Do Thái có ba bước:
(i) Hứa hẹn. Khi đôi bạn còn nhỏ, chưa biết nhau, sự hứa hẹn thường do cha mẹ hoặc do người chuyên làm mai mối. Hôn nhân được xem là một bước vô cùng quan trọng nên không thể tuỳ thuộc đam mê và tình cảm con người được.
(ii) Đính hôn. Đính hôn tức là xác nhận sự hứa hẹn khi trước. Vào lúc này, sự hứa hẹn do cha mẹ đôi bên chủ xướng hoặc người mai mối thức hiện có thể bị xoá bỏ, nếu người nữ không bằng lòng. Nhưng một khi đã đính hôn thì đôi bên bị ràng buộc với nhau cách tuyệt đối. Thời gian đính hôn kéo dài chừng một năm. Trong năm đó, đôi bạn được kể là vợ chồng dù họ không có những quyền của chồng và vợ. Nếu muốn chấm dứt thì chỉ có cách duy nhất là ly dị. Trong luật Do Thái chúng ta thường thấy câu nói hơi lạ này: người con gái có vị hôn phu chết trong năm này thì được gọi là “trinh nữ goá”. Maria và Giuse đang ở giai đoạn này, họ đã đính hôn. Nếu Giuse muốn chấm dứt thì không thể làm gì khác hơn là ly dị và theo luật thì trong năm đó Maria được kể là vợ của Giuse.
(iii) Giai đoạn thứ ba là hôn nhân chính thức được cử hành vào cuối năm đính hôn. Nếu chúng ta nhớ những phong tục cưới gả thông thường của người Do Thái thì mối quan hệ trong đoạn sách này hoàn toàn là bình thường và rõ ràng.
Chính trong giai đoạn này, Giuse được báo tin là Maria đã mang thai và do bởi Thánh Thần, và ông phải đặt tên con trai đó là Giêsu. Tiếng Hy Lạp Giêsu tương đương với tên Do Thái là Joshua (Giôsuê). Giôsuê có nghĩa là “Đức Chúa là sự cứu rỗi”. Nhiều năm trước đó, tác giả Thánh Vịnh đã nghe Chúa phán “Chính Người sẽ cứu chuộc Israel khỏi các sự gian ác” (Tv 130,8) và Giuse được báo con trẻ sinh ra, lớn lên sẽ làm Chúa Cứu Thế, Đấng sẽ cứu dân Chúa khỏi tội. Chúa Giêsu được sinh ra để làm Đấng Cứu Thế hơn là để làm Vua, Ngài đã bước vào thế gian không vì Ngài nhưng vì loài người và để cứu chuộc chúng ta.
SINH BỞI THÁNH THẦN (1,18-25)
Đoạn sách này cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã sinh ra do tác động của Chúa Thánh Thần, và cho chúng ta biết về sự “sinh đồng trinh”. Đây là một điểm giáo lý. Điều chúng ta quan tâm ở đây là tìm hiểu “sinh đồng trinh” có nghĩa gì đối với chúng ta. Lần đầu tiên đọc đoạn sách này, chúng ta sẽ thấy thật ra nó không nhấn mạnh ở điểm Chúa Giêsu do một trinh nữ sinh ra cho bằng sự Giáng Sinh của Ngài là do công việc của Chúa Thánh Thần: “Maria, Mẹ Ngài đã đính hôn với Giuse, song trước khi chung sống, thì nàng đã thụ thai bởi Thánh Thần”. Những câu này được gạch dưới và in bằng chữ lớn. Đó là điều Matthêu muốn nói với chúng ta. Vậy trong sự Giáng Sinh của Chúa Giêsu, tác động đặc biệt của Thánh Thần có nghĩa gì? Chúng ta hãy gạt bỏ mọi hồ nghi, mọi biện luận mà chỉ tập trung vào chân lý lớn đó như Matthêu muốn. Theo quan niệm của người Do Thái, Thánh Thần có những chức năng nhất định. Chúng ta không thể đem vào đoạn sách này ý niệm đầy đủ của chúng ta về Thánh Thần, vì đó là những điều Giuse không hề biết. Chúng ta phải giải thích dưới ánh sáng của ý niệm Do Thái về Thánh Thần, vì đó là ý niệm mà Giuse buộc phải đem vào sứ điệp này và là tất cả điều ông biết.
Cũng vậy, Chúa Giêsu mở mắt cho con người thấy chân lý. Con người bị mù bởi chính sự ngu dốt của mình và họ bị thành kiến dẫn đi sai lạc. Tội lỗi và đam mê làm nhãn quan và tâm trí họ tăm tối. Chúa Giêsu có thể mở mắt cho chúng ta thấy được chân lý. Trong một tiểu thuyết của William J.Locke có kể một người đàn bà giàu có, suốt nửa đời nàng dành cho các chuyến du lịch thăm các thắng cảnh và các phòng triển lãm tranh ở khắp thế giới, nàng mệt mỏi, buồn chán, nhưng rồi nàng gặp một người Pháp tuy không giàu nhưng có một kiến thức uyên bác và lòng yêu cái đẹp tha thiết. Người ấy đến với nàng và tình bạn này đã làm mọi sự hoàn toàn đổi khác. Nàng nói với chàng “Tôi chưa bao giờ biết vạn vật như thế nào cho đến lúc anh dạy tôi cách nhìn chúng”. Đời sống cũng hoàn toàn khác hẳn khi Chúa Giêsu dạy chúng ta cách nhìn đời. Khi Chúa Giêsu ngự vào lòng, mắt chúng ta sẽ thấy sự việc hoàn toàn đổi khác, vì Ngài mở mắt để chúng ta có thể thấy chúng cách xác thực.
SÁNG TẠO VÀ TÁI TẠO (1,18-25)
Cũng vậy, trong Chúa Giêsu có quyền năng sáng tạo và quyền năng ban sự sống của Chúa cho thế gian. Trong Chúa Giêsu chính quyền năng đó đã khiến cảnh hỗn mang trong thuở ban sơ trở nên trật tự, và chính quyền năng đó đem lại trật tự cho cuộc sống rối loạn của chúng ta. Chính quyền năng đó hà sinh khí vào trong vật không có sự sống, cũng đến để hà sinh khí vào trong sự yếu đuối và hư hỏng của ta. Có thể nói rằng chúng ta không sống cho đến chừng nào Chúa Giêsu ngự vào đời sống ta.
Ngoài sự kiện Chúa Giêsu Kitô do một trinh nữ sinh ra, trong đoạn này còn nhiều điều khác nữa. Trọng tâm của tường thuật Matthêu là sự Giáng Sinh của Chúa Giêsu. Thánh Thần Thiên Chúa hoạt động đặc biệt chưa từng có trong thế gian này. Thánh Thần đã đem chân lý Chúa đến cho nhân loại. Chính Thánh Thần đã giúp con người đón nhận chân lý khi được nghe và chính Thánh Thần là Đấng duy nhất có thể tái tạo linh hồn con người khi đã mất sự sống. Chúa Giêsu cho chúng ta biết Thiên Chúa như thế nào và con người sẽ ra sao. Chúa Giêsu mở mắt tâm linh làm cho chúng ta có thể thấy chân lý của Chúa. Chúa Giêsu là quyền năng sáng tạo đến giữa loài người, Chúa Giêsu là quyền năng tái tạo có thể giải phóng linh hồn khỏi sự chết là hậu quả của tội lỗi.
(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Quang Trung)
Càng gần ngày mừng kỷ niệm Con Thiên Chúa giáng trần, các công ty chuyên sản xuất hàng những quà mừng đón Noel càng tung ra nhiều mẫu hàng trang trí bắt mắt: từ những cây thông xanh mướt bằng nhựa tới những rừng thông bạc lớn nhỏ nối đuôi nhau xuất hiện ở các gian hàng treo dọc theo dài theo phố chợ. Từ những bộ sinh nhật cổ điển tới những bộ Thánh gia được cách tân. Từ những đèn sao nhấp nháy tới những ông già Noel, thiên thần bằng vải, bằng thạch cao, bằng giấy, bằng mốp, bằng những bóng điện kết nối tạo nên những hình ảnh thật sinh động không chê được! Cả một bầu khí rộn ràng bên ngoài đang chuẩn bị đón Chúa Giáng Sinh…
Gió đông vẫn đang se lạnh! Nhưng vạn ngọn thông vẫn cứ mướt xanh! Chỉ có Hương tình yêu: lúc thật đậm đà! Lúc như pha loãng!!! Bởi đường vào tình yêu, đặc biệt khi muốn cùng nhau đi suốt đường đời bằng sợi tơ hồng se kết hôn nhân, có mấy đời không trải qua thử thách vối đủ vị chát chua cay đắng ngọt bùi?
Tâm trạng đớn đau của chàng thanh niên Giuse khi chứng kiến người yêu thay hình đổi dạng: từ một thiếu nữ duyên dáng xinh tươi đạo hạnh vẹn toàn, bỗng chốc trở thành người đàn bà bụng mang dạ chửa mà bào thai không biết tác giả là ai? Làm sao không buồn? Làm sao không giận? Làm sao không hận? Làm sao không thù? Đọc đoạn Tin Mừng của Thành sử Matthêu ghi lại hoàn cảnh bi thương này để mọi người ngẫm suy trong tuần mùa vọng cuối cùng của phụng vụ năm A (Mt 1, 18-28), thật khó có chàng thanh niên nào đứng vững trước thử thách oái oăm này! Một giấc chiêm bao mộng mị! Làm sao giải tỏa hết nỗi ưu tư? Một cảnh phủ phàng đang xảy ra hiển nhiên trước mắt! cách nào nối lại nghĩa cũ tình xưa? Khó! Quá khó! Nên nỗi đau của Thánh Giuse đã thể hiện trọn vẹn tâm trạng kiếp người!
Trong dằn xé nội tâm: “ bỏ thì thương- vương thì tội” ấy! Chắc chẳng mấy chàng thanh niên ngày nay chấp nhận cách xử lý của chàng thanh niên Giuse năm xưa. “ Không ăn thì đạp đổ” là chuyện thường tinh để hả hê trong niềm đau uất hận chắc chắn sẽ là cách lựa chọn của nhiều người. Bởi sự phản bội nào cũng phải bị trả giá, chẳng qua là sớm hay muộn thôi! Quả là một thử thách đớn đau, cay đắng…
Tôi chỉ muốn dừng lại ở nỗi đau đó đề thấy lo, thấy sợ, thấy hoảng cho những chàng thanh niên hôm nay chỉ thích sống “ Tiền dâm hậu thú”! Chỉ thích hủy hoại đời người khác bởi mình không đủ trái tim cao thượng để cảm thông, để vươn lên, để thoát vòng kềm chế của thú tình lúc nào cũng đang tìm đủ mọi cách đang siết chặt đời mình vào vòng quay, vòng xoáy cùa chúng. Đáng sợ vô cùng!
Sự trầm tĩnh nơi chàng thanh niên Giuse của làng Nazareth năm xưa đã giúp tôi hiểu ra nhiều điều: tình yêu- đặc biệt tình yêu Hôn Nhân, và nhất là hôn nhân ngày nay- không bao giờ xuôi chèo mát mái! Không bao giờ biển lặng sóng êm! Không bao giờ như ý mình muốn! Không có nền tảng đạo đức: tình yêu có nguy cơ bị hủy diệt lúc nào không hay! Không có tấm lòng quãng đại: tình yêu có nguy cơ tan tành vụn vỡ lúc nào không biết! Không có tấm lòng nhẫn nại: tình yêu có nguy cơ tan đàn xẻ nghé bất cứ lúc nào! Không có tấm lòng tin tưởng: tình yêu có nguy cơ là chiếc bong bóng vuột khỏi tầm tay bất cứ lúc nào! Bởi:
Có nền tảng đạo đức: sự trầm tĩnh giúp tôi suy xét ngọn nguồn!
Có tấm lòng quảng đại: sự yêu thương giúp tôi vượt qua nỗi khổ!
Có tấm lòng tin tưởng: sự lắng nghe giúp tôi tìm lại chính mình
Trước mọi cú sốc, mọi thử thách, mọi trắc trở trên đường đời, sự trầm tĩnh sẽ giúp ta không bị dồn vào ngõ cụt, để rồi không lường được đủ thứ hậu quả kinh khủng sẽ xảy ra do hành động không tự chủ của mình! Mẹ Maria đã được đỡ nâng rất nhiều từ sự trầm tĩnh ấy! Chúa chỉ đến với những tâm hồn lắng động! Trầm tư! Hướng nội! Bản tính tự nhiên luôn cần được cắt- tỉa- gọt để Hương tình yêu không chỉ lan tỏa trong giới tính, mà còn đượm hương nghĩa xóm tình làng! Thánh Giuse đâu để cá tính tự do phát triển, mà Ngài đã uốn nắn nó trên một nền tảng đạo đức thẳm sâu. Ơn Chúa luôn có cho ta, nhưng với điều kiện ta phải cộng tác với ơn ấy! Thánh Giuse và Mẹ Maria đã làm được điều đó. Chính vì vậy, mà hương tình yêu ban đầu tưởng mãi mãi lạt phai, nhạt nhòa nhưng qua những gian nan trắc trở, hương tình yêu ấy đã ngày một đượm nồng hơn, thắm thiết hơn, ấm áp hơn…
Mùa Giáng Sinh, mùa Noel, mùa tình yêu đang đến cho mọi người. Món quà cao quý nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại chính là tình yêu. Nhưng giữ nó được hay không, hãy chiêm ngắm hang đá của gia đình chàng thợ mộc trầm tĩnh và nàng nội trợ dịu hiền đang trú ngụ, ta sẽ biết phải làm gì để hương tình yêu luôn đậm đà nơi mái ấm của ta.
Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta, Chúa đã nhập thể làm người để con người làm con Thiên Chúa. Đây là một ân huệ cao qúy mà Chúa đã dành cho loài thụ tạo chúng ta. Ngài chính là Emanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài còn tự đồng hoá mình trong những mảnh đời bất hạnh mà chúng ta gặp gỡ bên đường.
Người ta kể rằng: có một người đạo đức thánh thiện kia, đêm ngày hằng ao ước được tiếp đón Chúa một lần trong đời. Với ước nguyện chân thành, Thiên Chúa đã nói với ông qua giấc ngủ: “ngày mai Ta sẽ đến viếng thăm ông”. Thế là ông đã bắt đầu một ngày mới tràn đầy niềm vui vì nỗi niềm khát khao của mình sắp được toại nguyện. Ông chuẩn bị phòng ốc sạch sẽ, chuẩn bị tiệc tùng thiết đãi Chúa và ra tận ngoài cổng để đón tiếp Chúa. Thế rồi khi ánh bình minh xuất hiện ông thấy một lão ăn xin, rách rưới tả tơi đến xin ông chút cơm bánh lót dạ, ông đã vô tình xua đuổi vì ông đang nóng lòng chờ đợi vị thượng khách. Rồi tiếp sau là một người lữ hành, nỡ đường nỡ bước đang cần sự nâng đỡ của ông, nhưng ông vẫn từ chối. Và khi bóng chiều đã ngả sau lưng đồi ông lại thấy một phụ nữ ốm yếu, bệnh tật đến nương nhờ ông đã làm ngơ trước lời van xin. Cuối cùng, đêm về ông trách Chúa, tại sao không đến thăm ông như đúng lời đã hứa. Chúa đã nói với ông: “Hôm nay, Ta đã đến với ngươi ba lần nhưng đều bị ngươi khước từ”.
Vâng, Chúa đã đến và ở giữa nhân loại đã được các tiên tri loan báo qua mọi thời đại, đến nỗi một nhà thơ đã từng thốt lên: “Giêsu – Giêsu không bỗng dưng mà có – Cả pho Cựu ước còn đó – Trăn trở bao đời mới sinh hạ Giêsu”. Và khi thời gian đến hồi viên mãn, ngài đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong một cung điện nguy nga, tráng lệ, nhưng sinh ra giữa đám dân nghèo cùng cực, Ngài ở giữa chúng ta để chia sẻ cảnh đời tha hương khốn cùng nhất của nhân loại là “sinh vô gia cư – chết vô địa táng”. Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi, con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng chính Ngài lại không có nơi gối đầu”. Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu của mình cho những người bất hạnh vì ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là những người thu thuế và gái điếm, vì sứ mệnh của Ngài đến trần gian là để cứu vớt những gì đã mất.
Kính thưa qúy ông bà và anh chị em,
Lời báo mộng của thiên sứ với thánh Giuse dường như vẫn vang vọng nơi tâm hồn chúng ta, Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta, ngài đang hiện diện nơi những người nghèo đói, tật nguyện, nơi những người bất hạnh, bị ngược đãi, bị bỏ rơi, Ngài đang cần chúng ta gạt ra ngoài những toan tính trần thế, những nghi nan, khó khăn để mạnh dạn và quảng đại đón nhận những anh em hèn yếu, đói khổ đang cần sự trợ giúp của chúng ta. Vâng chính Ngài đã đồng hoá mình với tất cả những người khốn khó đó, vì chính Ngài đã nói: “Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng Nước Trời là gia nghiệp đã dành sẵn cho các người, vì khi xưa Ta đói, Ta khát, Ta trần truồng, bị bỏ rơi, tù đầy, ngược đãi các ngươi đã cho ăn cho uống và tiếp rước.
Song le, Chúa Giêsu cũng đang cần chúng ta trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa giữa thế giới hôm nay. Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu đã cần sự cộng tác của thánh Giuse để ngài có một vị trí trong xã hội, được sinh ra trong một gia đình, một dòng tộc vua Davít, thì ngày nay, Ngài cũng cần sự cộng tác của chúng ta để Ngài lại tiếp tục sinh ra giữa dòng đời hôm nay. Nơi nào có sự hiện diện của Chúa nơi đó có yêu thương, nơi nào có sự hiện diện của Chúa nơi đó có an bình hạnh phúc. Thực vậy, con người ngày nay đang cố gắng bon chen để dành cho mình có lắm của nhiều tiền, có một địa vị cao trong xã hội đến nỗi sẵn sàng chà đạp lên anh em mình, bất chấp lề luật của Chúa nên chính họ luôn mất bình an và làm cho cuộc sống chung quanh trở nên nặng nề vì nghi kỵ, ghen tương và hận thù.
Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta, và trong môi trường sống quanh ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa, đừng sợ những nghi nan, những khó khăn khi phải tuân theo thánh ý Chúa, vì chính Chúa sẽ tháo gỡ những nghi nan và ban ơn bình an cho những ai thành tâm thiện chí sống theo lời Ngài. Noi gương thánh Giuse, mỗi người chúng ta hãy biết đón nhận Chúa vào trong cuộc đời mình và qua đời sống tuân hành thánh ý Chúa, chúng ta gieo vãi niềm vui và sự an bình của Chúa cho anh chị em chung quanh. Ước gì trong mùa giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà ở cùng anh chị em chung quanh chúng ta. Xin Chúa Giêsu là Đấng Emmanul luôn hiện diện sống động trong cuộc đời của từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui ân thánh trong ngày mừng Chúa giáng sinh. Amen.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Tin mừng Chúa nhật hôm nay đề cập đến tên gọi mà Thiên Chúa Cha đã chọn cho Ngôi Hai Thiên Chúa khi Ngài đầu thai trong lòng Mẹ Maria. Tên gọi nầy đã được ngôn sứ I-sai-a tiên báo từ hơn bảy trăm năm trước: “Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 18,23).
Tên gọi nầy nói lên ước vọng của Thiên Chúa muốn ở mãi với loài người suốt mọi ngày cho đến tận cùng thời gian.
Liên quan đến ý tưởng nầy, Đức cha Gaillot có nhận định rất chí lý. Ngài viết:
“Sống rộng lượng là tốt, nhưng sống-với thì tốt hơn; công việc từ thiện là cần thiết, nhưng hiện-diện-bên-cạnh thì cần thiết hơn.”
Đúng thế, dù chúng ta có rộng lượng với người nghèo khổ bao nhiêu cũng không bằng đến sống-với họ, chia sẻ buồn vui cay đắng với họ. Dù chúng ta có làm bao nhiêu việc từ thiện để giúp cho người đau khổ cũng không bằng đến hiện-diện-bên-cạnh họ trong những lúc đau thương.
Thiên Chúa mong muốn ở với loài người
Vì yêu thương loài người quá đỗi nên Thiên Chúa muốn sống-với con người, muốn hiện-diện-bên-cạnh con người mọi lúc mọi nơi. Danh hiệu Em-ma-mu-en gói trọn ước vọng này của Thiên Chúa.
Vì thế, Thiên Chúa Ngôi Hai đã hạ mình xuống thế mang kiếp người phàm, hiệp thông trọn vẹn với con người. Ngài vui với người vui, khóc với người khóc, sống khốn khổ với những người cùng khốn.
Vì khuôn khổ bài viết có hạn, chúng ta chỉ đề cập đến hai khía cạnh của sự hiệp thông này: Hiệp thông với người nghèo và hiệp thông với người tội lỗi.
Khi thiên thần báo tin cho các người chăn chiên biết có Đấng Cứu Thế giáng sinh tại Bê-lem, thoạt đầu các mục đồng nghĩ rằng đấng ấy chắc phải là đấng siêu phàm, uy phong lẫm liệt… Thế nhưng, thật hết sức bất ngờ, Ngài ấy lại là một trẻ sơ sinh bé bỏng, yếu đuối, được bọc trong tã và đặt nằm trong máng ăn của súc vật, nơi chuồng bò hẻo lánh!
Người nghèo túng lắm cũng được sinh ra trên giường, trên chiếu, dưới một mái nhà; đằng nầy, Chúa Giê-su chấp nhận sinh ra trong chuồng súc vật giữa đồng vắng, được đặt nằm trong máng rơm!
Rồi khi lớn lên, Chúa Giê-su không liệt mình vào thành phần giàu có hay thượng lưu trong xã hội. Ngài không thuộc giai cấp tư tế của Đền thờ cho người ta bái phục, cũng chẳng là kinh sư, luật sĩ cho người ta trọng vọng nể vì, cũng không thuộc hàng biệt phái có nhiều thế giá trong dân… Ngài thuộc tầng lớp dân đen, làm nghề thợ mộc, đổ mồ hôi đổi lấy áo cơm.
Khi đi rao giảng Tin mừng, Ngài chấp nhận sống nghèo thiếu, chẳng có của riêng nên phải nhờ vả người khác. (Một số phụ nữ đã lấy của cải giúp Ngài cũng như nhóm Mười hai môn đệ). “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Ngài không có chỗ dựa đầu.” (Mt 8,20).
Với tư cách Em-ma-nu-en, là Thiên Chúa ở với loài người, Chúa Giê-su đặc biệt yêu thương, chăm sóc và sát cánh với người tội lỗi.
Ngài không ngại đến trọ nhà người tội lỗi như Da-kêu, chọn Lê-vi thu thuế làm môn đồ, sẵn lòng ngồi đồng bàn ăn uống với người tội lỗi, để cho người phụ nữ mang nhiều tai tiếng bày tỏ lòng yêu thương quý mến mình trong bữa ăn tại nhà người biệt phái…
Ngài thân thiện và hòa mình với thành phần tội lỗi đến nỗi người ta gọi Ngài là người “mê ăn uống, bạn bè với quân thu thuế và người tội lỗi” (Lc 7,34).
Cuối cùng, Ngài hiệp thông trọn vẹn với người tội lỗi khi chịu bắt đi giữa đêm đen như một tên đạo tặc, bị xét xử như một gã gian phi và chịu hành hình đau thương tủi nhục trên thập giá như một tên tử tội gian ác nhất đời.
Lạy Chúa Giê-su,
Nguyện vọng tha thiết của Chúa là ở với loài người mọi ngày cho đến tận thế. Và điều đau lòng nhất của Ngài là bị nhân loại từ khước như thánh Gioan nhận định trong Tin mừng thứ tư: “Ngài ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Ngài mà có, nhưng lại không nhận biết Ngài. Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Gioan 1, 10-11).
Xin cho chúng con vui lòng mở cửa tâm hồn đón nhận mọi người đang sống chung quanh chúng con, đặc biệt là những anh chị em nghèo túng, quẫn bách, những người lầm lạc, đau khổ… vì họ cũng là hiện thân của Chúa.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Việc đặt tên cho con là việc quan trọng đối với các đôi vợ chồng. Khi có con sắp chào đời, hai vợ chồng bàn bạc với nhau để chọn cho con mình một cái tên thật ý nghĩa, thật đẹp, thật hay.
Qua việc đặt tên, cha mẹ gửi gắm ước vọng của mình vào đó. Tỷ như khi đặt tên cho con là Phúc, Đức, Tài, Lộc… cha mẹ cầu mong cho con mình sau nầy đạt được những điều tốt đẹp y như tên gọi của các em.
Trích đoạn Tin Mừng theo thánh Matthêu trong Chúa Nhật thứ tư mùa Vọng nầy đề cập đến tên gọi mà Thiên Chúa Cha đã chọn cho Ngôi Lời nhập thể trước khi Người đầu thai trong lòng Mẹ Maria. Tên gọi nầy đã được ngôn sứ I-sai-a tiên báo từ hơn bảy trăm năm trước: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” (Mt 18,23)
Đây là một tên gọi thật ý nghĩa; tên gọi nầy nói lên ước vọng của Thiên Chúa là muốn ở mãi với loài người khắp mọi nơi, suốt mọi thời cho đến tận cùng thời gian.
Đức cha Gaillot có nhận định rất hay: “Sống rộng lượng là tốt, nhưng sống-với tốt hơn; công việc từ thiện là cần thiết, nhưng hiện-diện-bên-cạnh cần thiết hơn.”
Đúng thế, dù chúng ta có rộng lượng với người nghèo khổ bao nhiêu cũng không bằng đến sống-với họ, chia sẻ buồn vui cay đắng với họ. Dù chúng ta có làm bao nhiêu việc từ thiện để giúp cho người đau khổ cũng không bằng đến hiện-diện-bên-cạnh họ trong những lúc đau thương.
Vì yêu thương loài người quá đỗi nên Thiên Chúa muốn sống-với con người, muốn hiện-diện-bên-cạnh con người mọi lúc mọi nơi. Danh hiệu Em-ma-mu-en gói trọn ước vọng của Thiên Chúa muốn ở mãi với loài người.
Ước vọng nầy cũng được Chúa Giêsu khẳng định lại khi Người sắp từ giã các môn đệ: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,20)
Để thực hiện ước muốn ở với loài người, Ngôi Hai Thiên Chúa đã vượt qua khoảng cách gần như vô tận giữa trời và đất để ở cùng chúng ta, đã mang thiên tính cao cả của Thiên Chúa hòa chung với nhân tính hèn yếu của con người, để chia sẻ thân phận đau thương của kiếp người.
Ngay cả khi Chúa Giêsu được Chúa Cha vinh thăng trên các tầng trời, chấm dứt sự hiện diện hữu hình bị giới hạn bởi không gian và thời gian ở trên mặt đất, thì Người vẫn tiếp tục hiện diện cách thiêng liêng trong tâm hồn của các tín hữu và trong Hội Thánh.
– Chúa Giêsu tiếp tục ở với chúng ta qua Lời của Người: chính Thiên Chúa ngỏ lời với ta khi Giáo Hội công bố Lời Chúa.
– Chúa Giêsu tiếp tục ở với chúng ta khi chúng ta họp nhau nhân danh Người: “Khi có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, Thầy sẽ ở giữa những người đó.”
Chúa Giêsu cùng với Chúa Cha và Thánh Thần thường xuyên cư ngụ trong lòng những kẻ yêu mến và tuân giữ Lời Người: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” (Ga 14,23)
Thế nhưng bấy nhiêu cũng chưa thoả lòng yêu thương nên Chúa Giêsu còn lập nên bí tích Thánh Thể, hiện diện thực sự dưới hình bánh rượu để cho chúng ta được rước Chúa vào lòng, để chúng ta được trở nên đồng huyết nhục với Chúa, được sống trong Chúa và Chúa sống trong chúng ta.
Nguyện vọng tha thiết nhất của Thiên Chúa là ở với loài người mọi ngày cho đến tận thế. Và điều đau lòng nhất của Thiên Chúa là bị nhân loại từ khước như thánh Gioan nhận định trong Tin Mừng thứ tư. “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” (Ga 1, 10-11)
Mỗi ngày, chúng ta đang giáp mặt với nhiều hạng người, kẻ xa, người gần, đang đến với chúng ta. Họ là hiện thân của Đức Em-ma-nu-en. Ước gì chúng ta biết mở rộng trái tim để đón tiếp Người và dành cho Người một chỗ đứng quan trọng trong lòng chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Giuse Dương Hữu Tình)
Chúng ta đã bước vào Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Ở Chúa nhật này, Giáo hội mong muốn chúng ta thực sự chuẩn bị tâm hồn xứng đáng cho Đại Lễ Giáng Sinh sắp tới. Bởi thế, Giáo hội đưa ra tấm gương rất tiêu biểu như là khuôn mẫu cho một tâm hồn được chuẩn bị sẵn cho Con Thiên Chúa giáng trần. Khác Chúa nhật năm B và C, Giáo hội đưa ra khuôn mẫu là Mẹ Maria. Chúa nhật IV Mùa Vọng năm A này, Giáo hội muốn chúng ta hướng lòng về một khuôn mặt đặc biệt khác, đó là Thánh Giuse với biến cố được gọi là “Truyền tin cho ông Giuse”.
Vẻn vẹn chỉ 8 câu Phúc Âm ngắn gọn mà đã toát lên gần như trọn vẹn khuôn mặt mẫu mực và rất đáng yêu của Thánh Giuse. Chuyện bắt đầu từ việc Mẹ Maria mang thai mà Thánh Giuse không hay biết gì về nguồn gốc. Thánh Giuse thấy thế thế định bỏ Mẹ Maria, nhưng Ngài được giải thích qua giấc mộng. Thế là Thánh Giuse không bỏ Đức Mẹ nữa mà đón Mẹ về nhà mình. Chuyện chỉ có thế thôi nhưng qua sự kiện này, nhân đức của Thánh Giuse được dịp tỏa sáng. Tỏa sáng như thế nào? Thánh sử Matthêu đã trả lời cho chúng ta khi ngài nói về Thánh Giuse một cách rất ngắn gọn: “Ông Giuse, chồng bà, là người công chính”. Nếu không phải là một người công chính, thì sự việc đã xảy ra khác nhiều. Nếu không phải là người công chính thì không ai có thể biết số phận con trẻ trong lòng Mẹ Maria sẽ ra sao? nếu không phải là người công chính thì chương trình cứu độ của Thiên Chúa làm sao có thể tiếp tục một cách tốt đẹp?
Thánh Giuse là người công chính, nên đã định tâm bỏ Đức Mẹ. Ông định bỏ Đức Mẹ ít là vì hai lý do này: trước hết vì là người chồng, nên ngài hiểu vợ mình: “Ông Giuse, chồng bà”. Thánh Giuse hiểu Đức Maria hơn ai hết, nên ngài tin Đức Mẹ. Ngài biết thai nhi trong lòng mẹ do một quyền năng siêu nhiên nào đấy can thiệp và dường như càng lúc ngài càng cảm thấy Quyền năng ấy choáng ngập vợ mình, dành riêng vợ mình cho một sứ mạng lớn lao khác. Là một người đạo đức, công chính, ông lặng lẽ rút lui.
Lý do thứ hai: chính vì là một người công chính, Thánh Giuse sớm nhận ra đâu là dấu vết của Thiên Chúa và đâu là dấu vết của tà thần. Đó là tâm trạng chung của những tâm hồn đạo đức thánh thiện. Càng đạo đức bao nhiêu thì càng dễ phân biệt đâu là thánh đâu là tà, càng công chính bao nhiêu thì càng bén nhậy trước thánh ý Thiên Chúa bấy nhiêu. Vì thế, Thánh Giuse sớm nhận ra bàn tay vô hình của Thiên Chúa đang can thiệp vợ mình. Phản ứng của ông cũng giống tâm trạng của những người công chính trong Cựu Ước, đó là rút lui. Ông sợ không dám tiết lộ với ai, cũng không dám nhận một người như thế làm vợ, ông âm thầm bỏ đi.
Chính lúc đó, Thiên Chúa can thiệp. Ngài cho Thánh Giuse hiểu rằng Ngài muốn dùng cả bản thân Thánh Giuse cho chương trình vĩ đại của Ngài.
Thánh Giuse quả là một con người vĩ đại. Ngài sớm nhận ra ngay chương trình của Chúa, ông “làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà mình”.
Thiên Chúa luôn có sẵn chương trình của Ngài và chương trình nào cũng vì yêu và làm đẹp cho con người. Đáng tiếc ngày nay người công chính ít quá, nên công trình của Chúa bị hỏng nhiều.
Lạy Chúa, xin soi cho con biết ý Chúa trong cuộc đời con và xin cho con đủ sức để mau mắn thi hành.
(Suy niệm của Phanxico Xavie)
Cô đơn là đe dọa lớn nhất đối với hạnh phúc. Người cô đơn không tìm thấy lời đáp cho các vấn nạn của đời mình. Họ trở thành người bất hạnh, tuyệt vọng, vì luôn phải đối diện với cái phi lý. Emmanuel, Đấng ở cùng chúng ta sẽ cứu chúng ta khỏi nỗi niềm cô đơn tuyệt vọng ấy, vì Chúa đến trần gian này để chia sẻ với chúng ta thân phận làm người. Chính niềm tin ở Chúa, Đấng đến với chúng ta qua Đức Giêsu Kitô, sẽ cứu chúng ta khỏi cuộc sống vô nghĩa. Thiên Chúa sẵn sàng can thiệp khi chúng ta hoang mang trong tăm tối nếu chúng ta có lòng trông cậy vào Người.
Thời vua Akhaz trị vì Giu-đa cũng vậy, bị tranh chấp trong nội bộ vương quốc, bị đe dọa bởi các nước láng giềng. Vua Akhaz nghĩ đến việc nhờ ngoại binh giúp đỡ. Tiên tri Isaia khuyên ông không nên làm thế. Ông tin vào hòa ước với người Assyri hơn là tin vào Thiên Chúa. Đống thời ông tiếp tục đường lối tội lỗi, lập nhiều đền thờ tà thần. Nhưng Chúa vẫn đến như lời tiên tri Isaia đã loan báo. Để bảo đảm lời khuyên của mình, cũng như để củng cố niềm tin cho nhà vua và dân chúng, một lần nữa nhà tiên tri thúc giục vua Akhaz đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa hơn là dựa vào sức mạnh liên minh quân sự. Đức tin mà ngôn sứ Isaia đòi hỏi, bao hàm một sự tín nhiệm tuyệt đối vào Thiên Chúa. Nhưng ông vẫn không nghe và sai sứ ra ngoại quốc xin viện binh. Vì không nghe theo lời khuyên khôn ngoan của nhà tiên tri, vua Akhaz sẽ bị trừng phạt và vương quốc của ông bị tàn phá. Nhưng vì lòng thương xót, qua Tiên tri Isaia Thiên Chúa đã cho ông một dấu chỉ nói lên ý muốn của Người sẽ hiện diện giữa dân và cứu thoát họ. Đức Chúa ban cho vua Akhaz một dấu hiệu: từ dòng dõi ông, một người con sẽ chào đời, chính người con này sẽ giúp giải thoát dân. Sự long trọng của lời sấm cũng như cái tên biểu tượng Emmanuel (Thiên Chúa ở cùng chúng ta) đặt cho con trẻ, làm cho người ta thấy trong cuộc sinh hạ này một điều gì khác hơn nữa. Đó là sự can thiệp của Thiên Chúa để thiết lập hẳn một triều đại Messia. Người con này là Ezêkia, một vị vua tuyệt vời. Ông là hình ảnh của Đấng Messia và mẹ ông là hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria. Đây là những dấu chỉ để hướng tới việc chuẩn bị chờ đón Chúa Cứu Thế là Đức Giêsu Kitô – Đấng Emmanuel đích thực.
Trong trình thuật của bài Tin Mừng Mt 1, 18-24, Matthêu trích dẫn lời Tiên tri Isaia ngày trước nhằm minh chứng Chúa Giêsu đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria để thực hiện lời hứa mà Thiên Chúa đã hứa qua miệng Tiên tri Isaia với vua Akhaz. Đoạn Tin Mừng cho thấy vai trò cao trọng của Thánh Giuse được chọn làm cha Chúa Giêsu theo luật pháp. Đồng thời cho chúng ta biết, Con Một Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần.
Sự công chính của thánh Giuse trong bài Tin Mừng không thể hiểu đơn giản là sự công chính theo lề luật, mà là sự công chính mang ý nghĩa tôn giáo, đó là vì Ngài biết tôn trọng công trình của Thiên Chúa nơi Đức Maria và vâng nghe thánh ý Người. Mặc dù đã âm thầm từ chối coi mình là cha đứa trẻ mà Chúa không ủy thác. Nhưng sau khi được Thiên sứ báo mộng, biết ý định của Thiên Chúa mời gọi tham dự vào chương trình của Ngài. Thánh Giuse không từ chối, mà trỗi đậy thực hiện lệnh truyền của Thiên Chúa. Chính hành động này làm cho thánh Giuse trở thành người cộng tác tích cực trong công trình cứu độ của Thiên Chúa, và nên người công chính. Giuse đã đón nhận Chúa Giêsu. Đến lượt mỗi người chúng ta cũng phải biết lắng nghe và đón Chúa đến trong cuộc đời, trong gia đình mình.
Thiên Chúa đến ở với chúng ta chính vì yêu thương và ban tặng hạnh phúc cho nhân loại. Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có bình an, hoan lạc và tình yêu. Nhưng để cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa mang lại niềm vui và hạnh phúc không phải là điều dễ dàng. Cần phải có niềm tin, phải chuyên cần cầu nguyện và nhất là cần phải gắn bó với Chúa luôn trong Bí tích Thánh Thể.
(Suy niệm của Lm. An Phong)
Ngày lễ Giáng sinh đã gần kề, phụng vụ cũng nhắc nhở chúng ta thái độ quan trọng để Chúa có thể đến trong cuộc đời mình: tuân theo Thánh Ý Chúa.
Trong bài đọc 1, sách Isaia kể cho chúng ta việc vua xứ Giuđa là Achaz đang phải đối diện với các cuộc xâm lăng của các nước phương Bắc. Ông không trông cậy vào Chúa mà chỉ nghĩ đến việc cầu cạnh các nước khác. Ông lập đền thờ quấy và còn thiêu sinh cả con mình làm lễ tế. Ngôn sứ Isaia được Chúa sai đến nói với Achaz hãy tin tưởng vào Chúa và cho ông xin một dấu chỉ, dù trên trời hay dưới đất. Achaz không dám xin vì sợ nếu có dấu chỉ của Chúa thì sẽ phải bỏ hết những mưu tính của mình; nên giở giọng đạo đức để nói: “Tôi đâu dám thử Chúa.”
Dù vậy, Chúa cũng ban cho Achaz một dấu chỉ: “một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai”.
Ngược lại, Tin mừng Matthêu thuật lại cuộc “truyền tin” cho Giuse. Giuse cũng có chương trình và cách thức giải quyết cuộc đời của mình. Nhưng trước lời Thiên thần, Giuse đã sẵn sàng từ bỏ chương trình của mình để thực thi chương trình của Chúa; “Giuse làm như Thiên thần Chúa dạy”.
Chúa đến, Ngài làm đảo lộn cuộc sống và trở nên cớ vấp phạm cho những người không dám tin vào Ngài. Thánh ý của Chúa khác với chương trình của con người, nhưng cứu độ con người. Những ai tin tưởng, trông cậy và yêu mến Ngài thì mới có thể nhận ra “dấu chỉ” của Ngài, dấu chỉ của tình thương giáng thế: “Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”.
Chúa đã đến thật gần trong cuộc đời chúng ta. Ngài cũng đang tỏ bày những dấu chỉ nói lên Thánh Ý của Ngài qua những sự việc xung quanh ta. Ngài ước mong chúng ta nhận ra tình thương đang giáng thế và tin tưởng vào ơn cứu độ của Ngài.
Chúng ta có dám tin vào chương trình của Chúa trong cuộc đời ta không?
Lạy Chúa Giêsu!
Chúa đã không quản ngại quãng đường “xa xôi” từ trời đến trần gian. Chúa đã không chịu thua sự cứng lòng của con người muốn loại Chúa khỏi cuộc sống. Chúa đã hạ mình lãnh nhận những hậu quả của tội lỗi con người đổ xuống trên đầu. Chúa đã không chê chối trần gian tầm thường tệ bạc.
Lạy Chúa Giêsu là Chúa của con! Ngài đến với con trong tình yêu thương bao la, ẩn giấu trong tấm bánh nhỏ bé này.
Lạy Chúa Giêsu, Con cũng tin rằng Chúa không ngại ngùng trước cuộc đời của con. Con cũng tin rằng Chúa không chịu thua sự cứng lòng của con. Con cũng tin rằng Chúa không chê chối tâm hồn tầm thường của con.
Xin Chúa đến và đến hàng ngày trong tâm hồn con.
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay đề cao đức công chính của thánh Giu-se thể hiện qua cách ứng xử trước việc thụ thai lạ lùng của Đức Ma-ri-a. Tin Mừng cũng cho biết thái độ của Đức Ma-ri-a là toàn tâm toàn ý cộng tác vào chương trinh cứu độ của Thiên Chúa.
CHÚ THÍCH:
– C 18-19: + Bà Ma-ri-a Mẹ Người: Ma-ri-a là tên của Đức Ma-ri-a, là Mẹ sinh ra Đức Giêsu. + Đã thành hôn với ông Giu-se: Theo phong tục Do thái lễ cưới gồm hai giai đoạn là lễ đính hôn và lễ cưới rước dâu. Lễ đính hôn chính là thành hôn về mặt pháp lý và được cử hành trước lễ cưới cả năm trời. Thường thì hai người nam nữ sau khi đính hôn vẫn chưa ăn ở với nhau. Nhưng nếu lỡ có con trong thời gian này thì đứa con vẫn được công nhận là con chính thức của hai vợ chồng. Câu này cho thấy Giu-se và Ma-ri-a đã là vợ chồng hợp pháp sau lễ đính hôn. + Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần: Việc thụ thai của Đức Ma-ri-a không phải do Giu-se. Tuy nhiên về mặt xã hội, trẻ Giêsu vẫn được thiên hạ coi là con của bác thợ mộc Giu-se (x. Mt 13,55), dù thực sự Giu-se chỉ là cha nuôi (x Lc 3,23). + Giu-se là người công chính: Công chính là sự tuân giữ Lề Luật Chúa cách trọn hảo, và đối xử công minh ngay chính với tha nhân. Sự công chính của Giu-se ở đây không phải là công chính theo Luật, vì Giu-se đã không làm theo Luật dạy là phải làm tờ chứng thư ly dị và trao cho vợ (x. Đnl 24,1-4). Do đó sự công chính của Giu-se hệ tại ba điểm này: Một là Giu-se đã tôn trọng việc Thiên Chúa thực hiện nơi Ma-ri-a. Hai là Giu-se không dám cưới một người đã được Thiên Chúa chọn để dành riêng làm việc của Ngài. Ba là Giu-se không dám nhận làm cha một hài nhi Thần Linh khi chưa nhận được chỉ thị từ nơi Thiên Chúa. + Không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo: Giu-se bị lâm vào một hoàn cảnh nan giải: Một đàng không thể nghi ngờ người bạn mà ông biết là rất trong sạch. Đàng khác vì là người công chính, Giu-se không dám dành cho mình người phụ nữ mà Thiên Chúa đã chọn. Ông phải làm thế nào để vừa bảo toàn được danh dự cho Ma-ri-a, lại vừa giữ được sự công minh chính trực? Cuối cùng ông quyết định âm thầm bỏ Ma-ri-a để con trẻ sinh ra vẫn có cha, mà ông cũng giữ được sự công minh chính trực trước mặt Thiên Chúa.
– C 20-21: + Ông đang toan tính như vậy: Giu-se chưa kịp thi hành ý định thì Thiên Chúa đã sai thiên thần đến trấn an và trao sứ mạng cho ông. + Này ông Giu-se là con cháu Đa-vít: Giu-se được trao sứ mạng làm cha để trẻ Giêsu thuộc về dòng dõi Đa-vít theo pháp luật, hầu ứng nghiệm lời sứ thần: “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người” (x. Lc 1,32), và lời tuyên sấm của các ngôn sứ về dòng dõi Đấng Thiên Sai (x. Is 9,6; 2 Sm 12,16). + Đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần: Sứ thần đánh tan sự e ngại của Giu-se bằng cách ra lệnh cho ông mau tổ chức lễ cưới đón Ma-ri-a về làm vợ mình vì việc thụ thai là do quyền năng của Thiên Chúa. + Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu: Đặt tên cho con trẻ là thừa nhận mình là cha của đứa trẻ về pháp luật. Tên Giêsu hay Giô-suê, Giêsu-a có nghĩa là “Gia-vê Đấng cứu độ”. Đây cũng là tên riêng của nhiều người khác trước đó (x. Xh 24,13; Nkm 7,7). + Vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ: Sứ mạng của con trẻ là cứu dân khỏi quyền lực của ma quỷ, tội lỗi và sự chết (x. Tv 130,8), khác với quan niệm cứu thế trần tục mà dân Do thái đang mong đợi.
– C 22-23: + Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai: Đây là lời tuyên sấm của I-sai-a (x. Is 7,14) nói lên tính siêu phàm của Đấng Thiên Sai. Người do một bà mẹ đồng trinh sinh ra. Thực ra mẫu tính đồng trinh của Đức Ma-ri-a nói đây không nhấn mạnh về thể xác cho bằng để chứng minh thần tính và nhân tính của Đức Giêsu+ Em-ma-nu-en: nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tên gọi này bao hàm sứ mạng của Đấng Thiên Sai: Nhờ Đức Giêsu mà Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa dân Ngài để cứu độ họ. Tin mừng Mát-thêu cũng kết thúc bằng lời hứa của Đức Giêsu: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
– C 24-25: Sau khi được sứ thần báo mộng, Giu-se không còn ngần ngại. Ông lập tức tổ chức lễ cưới rước dâu để đón Ma-ri-a về nhà làm vợ mình như lệnh sứ thần truyền. + Ông không ăn ở với bà: Sở dĩ ông Giu-se đón Ma-ri-a về nhà làm vợ mà không ăn ở với bà như vợ chồng, vì ông tôn trọng lời khấn trọn đời đồng trinh của Ma-ri-a khi thưa “Xin Vâng” với sứ thần để trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế (x. Lc 1,31.38). + Cho đến khi bà sinh một con trai và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu: Giu-se đã vâng lời sứ thần khi đặt tên cho con trẻ là Giêsu.
CÂU HỎI:
Một số người Tin Lành đã dựa vào chữ “cho đến khi” trong câu này để khẳng định: Ma-ri-a chỉ đồng trinh trước khi sinh hài nhi Giêsu như lời ngôn sứ I-sai-a. rồi sau khi sinh, bà lại sống đời làm vợ của ông Giu-se theo đúng nghĩa vợ chồng, nghĩa là có ăn ở với nhau và đã sinh thêm nhiều con trai con gái khác như Tin Mừng Mát-thêu ghi lại (x. Mt 13,55). Ngoài ra, Tin Mừng Lu-ca cũng có câu: “Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7).
*GIẢI ĐÁP:
– Chữ “Cho đến khi” ở đây không có nghĩa là Giu-se đã không ăn ở với Ma-ri-a cho đến khi bà sinh con, rồi sau đó ăn ở như vợ chồng như các đôi vợ chồng khác. Khi viết câu này, tác giả Mát-thêu chỉ muốn nhấn mạnh tới sự kiện Giu-se đã không can thiệp gì vào việc Ma-ri-a sinh con, đúng như lời sấm của ngôn sứ I-sai-a về một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con trai (x. Is 7,14). Mát-thêu không lưu tâm tới việc hai ông bà có ăn ở với nhau như vợ chồng hay không sau khi bà sinh con, vì câu Tin Mừng chỉ viết: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu” (c. 25).
– Về chữ “con trai đầu lòng” (Lc 2,7), Lu-ca chỉ nhắc lại khoản luật trong Xuất hành về việc thánh hiến con trai đầu lòng cho Đức Chúa của người và thú vật (x. Xh 13,2.12.15) sắp được áp dụng cho trẻ Giêsu (x. Lc 2,23). Do đó “con trai đầu lòng” ở đây chỉ có ý nói là “đứa con thứ nhất, đứa con sinh ra đầu tiên” (primo genitus) chứ không ám chỉ còn có các con khác sẽ sinh ra sau đó.
– Tin Mừng Mát-thêu cũng trưng dẫn lời một người nọ nói với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy” (Mt 12,47). Câu này tương tự câu nhận định của dân làng Na-da-rét về Đức Giêsu: “Anh em của ông không là các ông Gia-cô-bê, Giô-xép, Si-mon và Giu-đa sao? Và chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” (Mt 13,55-56; Mc 6,3). Đây là những người anh em bà con nói chung chứ không hàm ý rõ ràng đó có phải là anh chị em ruột hay không. Cuối cùng sách Công Vụ Tông Đồ cũng viết: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giêsu, và với các anh em của Đức Giêsu” (Cv 1,14). Anh em nói đây chỉ là bà con họ nội của Đức Giêsu về phía cha nuôi là thánh Giu-se.
– Bằng chứng rõ nhất chứng minh Đức Giêsu là con trai duy nhất của Đức Ma-ri-a là trước khi chết, Đức Giêsu đã trối Mẹ Ma-ri-a làm mẹ của môn đồ Gio-an và trối Gio-an làm con của Mẹ Người. Và “Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19,27). Nếu ngoài Đức Giêsu còn có nhiều anh chị em khác nữa thì Đức Giêsu chắc chắn đã không trối trăn như vậy và môn đệ Gio-an cũng không thể rước Đức Ma-ri-a về nhà mình phụng dưỡng thay cho Thầy Giêsu được.
Khi vụ Oát-Tơ Ghết (Water Gate) xảy ra, thì Tổng Thống Ních-Sơn (Nixon) vốn được dân chúng Hoa Kỳ tín nhiệm và đánh giá cao, đang ở trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Cũng vì muốn thắng cử mà Ních-sơn tuy đã biết nhưng vẫn làm ngơ cho thuộc hạ tổ chức nghe lén điện thoại của đảng đối lập. Bây giờ bị họ phát hiện và ghép vào tội nghe lén, một hành động vi phạm pháp luật Hoa Kỳ. Ông mất ăn mất ngủ trong nhiều ngày để tìm lối thoát trong danh dự. Thế rồi một ngày nọ, sau khi làm việc ở văn phòng tại Tòa Bạch Ốc về nhà, Ních-sơn ngồi một mình khá lâu trong phòng riêng. Bỗng ông nhìn thấy cuốn Thánh Kinh đang nằm trên bàn làm việc. Ông đã cầm lấy mở ra và đọc được câu Lời Chúa sau: “Sự thật sẽ giải thoát các ngươi”. Về sau ông cho biết: Chính câu Lời Chúa đó đã nhắc nhở ông phải trung thực trong hành động. Thế là ông mau chóng quyết định dứt khoát. Mấy ngày sau đó, người ta thấy ông xuất hiện trên truyền hình phát đi toàn nước Mỹ lời nhận lỗi và xin tha thứ. Ông cũng chính thức xin từ chức Tổng Thống, một chức vụ đầy quyền lực và vinh quang mà nhiều chính khách luôn mơ ước. Đây là một hành động được đánh giá là can đảm và có một không hai trong lịch sử Hoa Kỳ. Chính nhờ sự can đảm trung thực và khiêm tốn nhận lỗi đó mà dân chúng đã thông cảm và kính phục ông như trước.
Tin mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng hôm nay mời gọi các tín hữu chúng ta dọn tâm hồn đón nhận ơn cứu độ của Đức Giêsu bằng việc noi gương thánh cả Giu-se và Trinh Nữ Ma-ri-a như sau:
1) Noi gương công chính của thánh Giu-se: Sự công chính của Giu-se được Tin Mừng diễn tả như sau: “Ông Giu-se chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Vậy tại sao Giu-se được khen là người công chính? Trong những ngày chuẩn bị đón mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta phải sống thế nào để noi gương công chính của thánh Giu-se?
2) Noi gương đức đồng trinh về tâm hồn như Trinh nữ Ma-ri-a: Tin Mừng hôm nay không những đề cao sự công chính của thánh Giu-se mà còn đề cập đến việc thụ thai kỳ diệu của Trinh Nữ Ma-ri-a do quyền năng Thánh Thần. Thông thường, nói tới sự đồng trinh của Ðức Ma-ri-a, người ta thường chỉ nghĩ tới đồng trinh về thể xác, mà ít nghĩ tới đức đồng trinh về tâm hồn của ngài. Thực ra cả hai mặt của đức đồng trinh ấy đều quan trọng và cần thiết. Nếu chỉ đồng trinh về thể xác mà thiếu đồng trinh tâm hồn thì sự đồng trinh ấy cũng không có giá trị bao nhiêu! Chính sự đồng trinh tâm hồn nơi Ðức Ma-ri-a mới quan trọng và nêu gương cho chúng ta hôm nay.
Đức Ma-ri-a đồng trinh trong tâm hồn biểu lộ qua việc Mẹ luôn quy hướng về Thiên Chúa và toàn tâm toàn ý phụng sự Chúa. Khi thưa Xin Vâng với sứ thần, Trinh nữ Ma-ri-a đã như một nữ tu khấn trọn: tuyên khấn thuộc trọn về Chúa. Qua lời khấn đó Mẹ đã tự hủy để toàn tâm toàn ý thuộc về Thiên Chúa và sống chết cho Ngài như Đức Giêsu nói: “Tôi tự trời mà xuống không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38), hoặc như thánh Phao-lô: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). Khi thưa với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38), Đức Ma-ri-a đã chứng tỏ đức đông trinh tâm hồn và trở thành gương mẫu cho các tín hữu hôm nay. Mọi tín hữu kể cả những người sống bậc hôn nhân gia đình đều có thể và được mời gọi sống đức đồng trinh trong tâm hồn, nghĩa là trọn vẹn phụng sự Thiên Chúa noi gương Mẹ Ma-ri-a.
3) “Em-ma-nu-en”- “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”: Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng hôm nay cũng đề cập đến danh hiệu của Đức Giêsu đã được ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm trước đó bảy trăm năm: “Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” (Mt 18,23). Em-ma-nu-en là danh hiệu cho thấy ý Thiên Chúa muốn ở với loài người mọi nơi mọi lúc như Đức Giêsu đã xác nhận trước khi lên trời: “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Ngày nay Chúa Giêsu vẫn tiếp tục ở cùng chúng ta bằng nhiều cách như sau:
1- Khi Hội Thánh công bố Lời Chúa trong phụng vụ: Bấy giờ chính Đức Giêsu hiện diện để nói với chúng ta qua các vị chủ chăn: “Ai nghe anh em là nghe Thầy” (Lc 10,16).
2- Khi cộng đoàn hội họp nhau nhân danh Đức Giêsu trong các buổi học sống Lời Chúa hằng tuần hằng tháng thì có Người hiện diện để dạy dỗ: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20).
3- Khi chúng ta yêu mến Chúa Giêsu và biểu lộ bằng việc lằng nghe và vâng giữ lời Người thì Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ đến ngự trong chúng ta: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).
4- Khi chúng ta cử hành thánh lễ và rước lễ sốt sắng là chúng ta được kết hiệp mật thiết với Chúa như Người dạy: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56). “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
5- Khi chúng ta phục vụ những người nghèo đói bệnh tật và bị bỏ rơi là chúng ta đã phục vụ chính Chúa Giêsu đang hiện thân nơi họ như Người đã nói: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Tóm lại: Thiên Chúa muốn ở cùng con cái loài người chúng ta mọi ngày cho đến tận thế qua Đấng Em-ma-nu-en là Chúa Giêsu. Tuy nhiên hiện nay nhiều người vẫn đang từ chối đón nhận Người như Tin Mừng Gio-an đã viết: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,10-11). Vậy trong những ngày này chúng ta sẽ làm gi để gặp gỡ tâm sự với Chúa, lắng nghe Lời Chúa và phục vụ Người nơi những người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi?
– Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con biết hy sinh quên mình để lo công việc của Chúa như thánh Giu-se hôm nay. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng làm theo ý Chúa như ngài. Ước gì mỗi ngày con tập bỏ đi một sở thích không cần thiết, bỏ qua một lời nói đụng chạm đến tha nhân. Ước gì chúng con nhìn thấy Chúa đang ở trong những người đau khổ nghèo hèn chung quanh để ân cần an ủi phục vụ họ, hầu sau này chúng con đáng được Chúa đón về quê trời hưởng hạnh phúc muôn đời như thánh Giu-se khi xưa.
– Lạy Chúa. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng tận hiến cuộc đời để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân noi gương đức đồng trinh trong tâm hồn của Trinh Nữ Ma-ri-a. Trong những giờ phút đen tối của cuộc đời, khi bị người thân hiểu lầm, bị người chung quanh nói xấu và xa lánh mà không thể tự giải oan, xin giúp chúng con biết bình tĩnh cậy trông và phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng noi gương Mẹ khi xưa. Chúng con tin rằng Chúa sẽ kịp thời giải oan và còn “biến sự dữ ra sự lành” để giúp chúng con được hưởng ơn cứu độ của Chúa.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Minh Chánh)
Mùa vọng là thời gian để chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Trong thời gian này, Giáo Hội đã cho chúng ta chiêm ngưỡng những mẫu gương sống động của các nhân vật trong Kinh thánh như: Tiên tri Isaia, Gioan tẩy giả, cũng như qua cách sống và những tâm tình của các ngài trao gởi lại, thì đó cũng là những bài học rất quý giá để chúng ta sống tốt đẹp hơn trong thời gian mùa vọng.
Thật thiếu sót, nếu chúng ta không kể đến Mẹ Maria trong thời gian mong đợi Con Chúa giáng trần. Bởi vì Mẹ Maria cũng đã từng sống tâm tình mùa vọng như bao người khác. Thế nhưng, hơn ai hết, kinh nghiệm sống tâm tình mùa vọng nơi Mẹ Maria vẫn luôn là tiếng gọi thúc giục lòng ta hãy thành tâm chiêm ngưỡng cách sống mùa vọng nơi Mẹ. Nhờ vậy chúng ta sẽ có những tâm tình xứng hợp trong khi chúng ta hướng về ngày Chúa đến trong trần gian.
1/ Mẹ Maria sống tâm tình mùa vọng bằng đời sống thánh thiện:
Vì ý thức Đấng Thiên Sai muôn dân mong đợi là Đấng thánh, nên thời gian sống tâm tình mong đợi con Thiên Chúa nơi Mẹ Maria, đã được dệt bằng những chuỗi ngày vô tận của sự thánh thiện
Mẹ sống thánh thiện, vì Mẹ xác tín những tâm hồn thánh thiện là những tâm hồn sẽ được đón nhận niềm vui ơn cứu độ cách tròn đầy.
Mẹ sống thánh thiện, vì Mẹ xác tín những tâm hồn thánh thiện là những tâm hồn luôn làm đẹp lòng Chúa là Đấng Thánh. Và Ngài rất vui khi được hiện diện với những tâm hồn như thế.
Về điểm này, chúng ta hãy suy nghĩ lại những hành động của Chúa Giêsu khi Ngài tiến về Giêrusalem để thực hiện cuộc thanh tẩy Đền thờ. Vì phía sau hành động thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta phải tự thanh tẩy đền thờ tâm hồn chính mình, nhờ vậy Thiên Chúa là Đấng thánh mới vui thích ngự trong những tâm hồn trong sạch như Ngài.
Hơn ai hết, cách sống tâm tình mùa vọng của Mẹ Maria đã để lại dấu ấn không thể ngờ và không thể phai mờ.
Không thể ngờ vì qua sự chuẩn bi tích cực để mong đợi Đấng Cứu Độ nơi Đức Maria, Thiên Chúa đã đoái nhìn đến cách sống thành tâm tuyệt vời ấy. Vì thế, một điều bất ngờ xảy ra nơi Mẹ là Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ, Người Nữ Thánh Thiện được làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa đã chọn cung lòng thanh khiết của Mẹ để trao gởi Người Con Yêu Dấu của Ngài là Đấng Thánh, và qua trung gian Mẹ Maria Thiên Chúa đã trao ban Đấng Cứu Độ cho loài người. Đó là một điều bất ngờ đối với Mẹ Maria. Thế nhưng, qua sự bất ngờ này thì Mẹ Maria đã thể hiện một dấu ấn không thể phai mờ. Vì từ giây phút bất ngờ khi được Con Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng mình, cũng từ giây phút ấy, Mẹ Maria đã khiêm tốn chỉ cho chúng ta con đường để chúng ta gặp Chúa, để Chúa đến với chúng ta. Con đường Mẹ chỉ dạy chúng ta đó là hãy trở lại kinh nghiệm của chuỗi ngày vô tận sống thánh thiện nơi Mẹ. Vì chuỗi ngày thời gian sống thánh thiện của Mẹ, đã hình thành nên bài thánh ca muôn thuở để mời gọi mọi người hãy can đảm sống tâm tình mùa vọng bằng đời sống thánh thiện như Mẹ Maria, Trinh Nữ Thánh Thiện
2/ Mẹ Maria sống tâm tình mùa vọng bằng đời sống khiêm nhường:
Khiêm nhường là cách sống Mẹ rất ưa thích. Mẹ thích sống khiêm nhường, bởi vì nhờ những tâm tình ấy mà Mẹ thật sự trở nên một người con bé nhỏ của Thiên Chúa, luôn phó thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa, luôn sống theo những gì Chúa đã dạy.
Vì Mẹ thích sống khiệm nhường, nên Mẹ sẵn sàng thưa hai tiếng xin vâng ý Chúa trong ngày truyền tin, để từ giây phút ấy mẹ đã trở nên Thánh mẫu của Đấng Tối Cao.
Vì Mẹ thích sống khiệm nhường, nên Mẹ sẵn sàng thi hành lời Chúa dạy trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống: Lúc vui, lúc buồn, lúc bối rối, lúc lo sợ, lúc an bình…… Nhờ việc hạ mình sống theo Lời Chúa mà Mẹ Maria được gọi là người có phúc. Mẹ có phúc vì Mẹ là người luôn “lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Lc11,28).
Vì Mẹ thích sống khiêm nhường, nên Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã khiêm nhường tự hạ mang lấy thân phận con người, và trong thân phận con người Ngài đã mang lấy thân phận nô lệ để phục vụ sự sống cho muôn người.
Vì Mẹ thích sống khiêm nhường, nên qua đời sống gương mẫu tuyệt vời ấy, Mẹ muốn nhắc nhở chúng ta: Thiên Chúa là Đấng khiêm nhường, Ngài rất thích những ai sống khiêm nhường. Chỉ có những tâm hồn sống khiêm nhường như Chúa mới có thể gặp được Chúa và được Chúa đến viếng thăm cư ngụ trong tâm hồn người ấy. Vì Thiên Chúa bản chất là khiêm nhường, nên Ngài không bao giờ đến với những ai kiêu căng, cậy dựa chức quyền, cậy dựa vào sức mạnh của trần thế để bôi nhọ hình ảnh tốt đẹp của Thiên Chúa là Đấng hiền lành và khiêm nhường. Về điềm này chính Mẹ Maria đã nhắc nhở cũng như đã cảnh cáo những ai sống ngược lại với cách sống khiêm nhường của Chúa, khi Mẹ nói: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc1, 51-52).
Hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật cuối cùng của mùa vọng. Thiết nghĩ, muốn thay đổi cách sống để cùng với Mẹ Maria sống những tâm tình mùa vọng còn lại cũng chưa phải là muộn. Vì đối với Chúa, những cố gắng quyết tâm chân thành sống phút giây hiện tại, cũng có thể biến chuyển đời sống chúng ta trong tương lai.
Hơn nữa, sống tâm tình mùa vọng không chỉ dừng lại bời thời gian được ấn định trong năm phụng vu. Nhưng tâm tình hướng về Con Thiên Chúa đến trần gian, đến trong cõi lòng chúng ta phải được thực hiện trong từng phút giây của nhịp sống.
Như vậy, khi khám phá hình ảnh sống mùa vọng nơi Đức Maria qua đời sống thánh thiện và khiêm tốn, thì đó cũng là lúc Mẹ chỉ cho chúng ta con đường hoàn hảo nhất, đẹp lòng Chúa nhất để Chúa đến với chúng ta.
Nếu chúng ta thật lòng sống thánh thiện như Mẹ mà không bị giằng co bởi những thú vui giả tạo mau qua của thế gian, chắc chắn đó là con đường hoàn hảo nhất để Chúa là Đấng Thánh giáng sinh trong cõi lòng chúng ta.
Nếu như chúng ta thật lòng sống khiêm nhường như Mẹ trong mọi hoàn cảnh, mà không lo sợ phải thiệt thòi bởi những thứ ham muốn của sức mạnh trần thế, chắc chắn đó là con đường đẹp lòng Chúa nhất để Chúa giáng sinh trong cõi lòng chúng ta.
Lạy Mẹ Maria! Ước gì những tâm tình sống mùa vọng nơi Mẹ sẽ là hành trang luôn đồng hành trong cách sống đức tin chúng con. Nhờ đó chúng con cũng được đón nhận nguồn ơn cứu độ như Mẹ. Lạy Mẹ Maria, xin cho niềm vui giáng sinh sắp đến được khơi dậy bằng ước muốn sống thánh thiện và khiêm nhường trong từng phút giây hiện tại của đời sống chúng con.
Với bài Tin Mừng hôm nay cũng như bài đọc I, sách Tiên tri Isaia, Giáo Hội muốn chứng minh cho ta một điều: Chúa Cứu Thế sinh bởi một Trinh Nữ.
Ai trong chúng ta cũng biết từ khuya điều đó, nhất là đối với người tín hữu Công Giáo Việt Nam, chúng ta coi như là một điều hầu như hiển nhiên hay ít là không có gì “trục trặc” và bận tâm với niềm tin sẵn có nơi Chúa Toàn Năng (“điều gì mà Thiên Chúa cả làm được”) và nhất là đối với Mẹ Maria “trọn đời đồng trinh”. Nhưng thực ra với người Âu Tây vấn đề này (cũng như thiên chức của Đức Trinh Nữ Maria) đã và vẫn còn là nguồn tranh luận sôi nổi không ngừng nơi các nhà thần học và triết gia hiện tại cũng như một số giáo dân với khuynh hướng “cấp tiến”… Rồi từ đó kéo theo luôn vấn đề phụng vụ và các nghi lễ liên hệ trong việc sùng kính Đức Trinh Nữ Maria rất khác nhau ngay trong chính một địa phận Công Giáo Âu Châu. Đấy là chúng ta chưa dám bàn luận đến vấn đề tín lý giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Tin Lành về sứ mạng “đồng công cứu chuộc” của Đức Trinh Nữ Maria.
Cho nên người giáo dân Việt Nam thường nói với tôi: “Bên Tây Phương này lòng sùng kính Đức Mẹ không như xứ mình… có người giáo dân Tây còn cho rằng việc lần hạt là cách đọc kinh của mấy cụ già…”
Điều này không lạ. Tuy nhiên ở đây chúng ta không bàn về vấn đề mục vụ Tây phương khác với Ta thế nào nhưng là bài suy niệm về mầu nhiệm cứu chuộc.
Chúng ta có 3 bằng chứng xác định rõ về sự trinh tiết của Mẹ Maria:
Không còn nghi ngờ gì nữa vì có lời tiên báo từ ngàn xưa, vì có bằng chứng chính xác về sự kiện trên đây trong chính thời của Đức Mẹ và các thánh tông đồ, Giáo Hội đã xác quyết và tuyên xưng đức tin của mình mỗi Chúa nhật trong kinh Tin Kính (Credo) tín điều nhập thể của Chúa Cứu Thế.
Nhưng điểm quan trọng hơn cả ở đây mà Giáo Hội muốn tuyên xưng và xác quyết là “Bởi phép Đức Chúa Thánh thần” tức là bởi quyền năng của Ngài, chính Chúa Thánh Thần đã và còn đang thực hiện muôn ngàn việc lạ lùng mà trí khôn ta cũng như khoa học hiện nay dù có tân tiến đến đâu cũng không bao giờ suy cho thấu. Xác quyết và tuyên xưng rằng Đức Mẹ đồng trinh trọn đời là tuyên xưng Thiên Chúa toàn năng. Ngài đã chọn một thiếu nữ dù bình thường như chúng ta lên thiên chức Nữ Vương Mẹ Thiên Chúa và Đồng công cứu chuộc với Con Ngài.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng và ít ngày nữa chúng ta sẽ mừng Chúa ra đời trong đêm Giáng Sinh. Ngoài trời thông reo và gió tuyết cùng ngàn vạn vì sao lấp lánh hợp với muôn tiếng nhạc du dương của bản thánh ca Noel hiền hoa… ai ai chúng ta cũng rộn rã trong tim một niềm vui thánh miên man đầm ấm khó tả. Hồn chúng ta bỗng chùng hẳn lại… bâng khuâng nhớ về những mùa Giáng Sinh thật đẹp năm xưa tại quê nhà dù không có tuyết rơi gió lạnh nhưng với ngàn vạn kỷ niệm yêu dấu không bao giờ quên.
Mẹ Maria và thánh Giuse năm xưa cũng xa quê nhà như chúng ta: thiếu thốn mọi sự ngay cả nơi trú thân. Cùng quỳ gối và suy niệm trước Chúa Hài Đồng trong máng cỏ, Mẹ Maria và các thiên thần sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn trong đức tin về mầu nhiệm giáng trần của Con Một Thiên Chúa sinh bởi một trinh nữ là Mẹ Thiên Chúa và là mẹ chúng sinh.
“Tỉnh giấc, Giuse đã làm như thiên thần Chúa truyền cho ông, và ông đã rước vợ về nhà.”
Hôm nay là Chúa Nhật cuối cùng trong mùa Vọng trước khi chúng ta long trọng đón mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Lần lượt trong ba tuần vừa qua, Giáo hội mời gọi chúng ta phải tỉnh thức sẵn sàng, phải ăn năn hối cải và phải nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ mà nhân loại hằng mong đợi. Trong Tin mừng hôm nay, Giáo hội đặt trước mắt chúng ta gương mẫu tuyệt vời của một con người đã biết sẵn sàng đón nhận Chúa Cứu thế vào cuộc đời mình. Đó là thánh Giuse – cha nuôi Chúa Giêsu và phu quân Đức Maria.
Chúng ta biết thánh Giuse không phải là người đầu tiên nhận biết việc nhập thể của Chúa Giêsu và đón tiếp Người vào đời. Người đầu tiên được diễm phúc độc nhất vô nhị ấy chính là Mẹ Maria, khi Mẹ nói tiếng “Xin vâng” để đáp lời truyền tin của Tổng lãnh Thiên thần Gabriel và trở nên Mẹ, Chúa Cứu Thế, như đã được thánh Luca thuật lại (Lc 1:26-38). Việc Mẹ Maria thụ thai Chúa Giêsu cách nhiệm lạ cũng đã được ngôn sứ Isaia báo trước, như chúng ta được nghe trong bài đọc Cựu Ước và bài Phúc âm của phụng vụ hôm nay. “Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi tên ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” (Is 7:14 & Mt 1:23)
Là người đầu tiên đón nhận Tin mừng Chúa nhập thể và cũng là người cưu mang Chúa Cứu Thế, Đức Mẹ đồng thời đã trở thành người chứa đựng chính nguồn ơn cứu độ, nguồn hy vọng cho toàn thể nhân loại qua mọi thời đại. Chúa Giêsu còn được gọi là Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. Và người được Thiên Chúa ở cùng trước tiên và trên hết chính là Mẹ Maria. Chỉ qua Mẹ Maria và nhờ Mẹ Maria, nhân loại mới được đón nhận Chúa Cứu Thế.
Đây chính là thánh ý Chúa để thực hiện chương trình cứu độ Người dành cho nhân loại từ đời đời.
Và thánh Giuse đã là người được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn làm bạn trăm năm của Đức Maria và được Chúa mạc khải cho biết thánh ý nhiệm lạ này, như Chúa đã chọn Đức Maria để mạc khải cho biết việc nhập thể của Chúa Giêsu.
Thánh Giuse đã chú tâm lắng nghe và mau mắn thực hiện thánh ý Chúa qua lời thiên sứ nói ngài với một lòng tin yêu vâng phục tuyệt vời đối với Thiên Chúa, cũng hệt như thái độ “Xin vâng” của Mẹ Maria trong biến cố truyền tin.
Sự việc này đã được thánh Matthêô thuật lại trong Tin mừng hôm nay: “Tỉnh giấc, Giuse đã làm như thiên thần Chúa truyền cho ông, và ông đã rước vợ về nhà.” (Mt 1:24)
Những lời này cho thấy là liền sau Mẹ Maria, thánh Giuse đã xứng đáng được gọi là người môn đệ tuyệt hảo nhất của Chúa Giêsu. Vì cũng như Mẹ Maria, ngài là người đã mau mắn lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong mọi việc. Đồng thời, cũng như người môn đệ Chúa yêu sau này sẽ vui nhận Đức Maria làm Mẹ và hân hoan đưa Mẹ về nhà mình sau khi nghe lời trối của Chúa Giêsu lúc Người hấp hối trên thánh giá (Ga 19:27), Thánh Giuse ở đây – ngay khi Chúa Giêsu còn ngự ttong lòng đồng trinh của Mẹ Maria – đã vui nhận Đức Maria làm Bạn Trăm Năm và đưa Người về nhà sau khi được thiên thần phán bảo trong giấc mơ (Mt 1:24).
Như thế, nơi thánh Giuse cũng như nơi người môn đệ Chúa yêu – biểu tượng của tất cả những môn đệ đích thực của Chúa Kitô qua mọi thời đại – việc nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế bao gồm việc đón nhận và tích cực thực thi thánh ý và chương trình yêu thương của Thiên Chúa được bày tỏ cho mình. Thánh ý ấy bao gồm việc bước vào liên hệ yêu thương thân mật với Đức Maria-Mẹ Chúa Giêsu-và đưa Người về nhà mình, nghĩa là đưa Mẹ Maria vào trong mọi chiều kích của cuộc sống của mình.
Vì Mẹ Maria là Người đẹp lòng Chúa hơn tất cả mọi tạo vật và đã được diễm phúc cưu mang và sinh hạ chính Ngôi Lời của Chúa, Mẹ sẽ giúp tất cả chúng ta biết cách sống đẹp lòng Chúa, biết cách đón nhận Chúa vào tâm hồn mình, nhất là biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, nếu chúng ta biết noi gương thánh Giuse trong Tin Mừng hôm nay tiếp nhận Mẹ về nhà mình.
Thánh Louis Maria Montfort và nhiều vị đại thánh khác trong Giáo hội cho rằng sở dĩ ngày nay nhiều người chưa nhận biết và yêu mến Chúa cách xứng hợp là vì họ chưa nhận biết và yêu mến Mẹ Maria đúng như ý Chúa muốn. Như Chúa đã dùng Mẹ Maria để đến với chúng ta, Người cũng muốn chúng ta nhờ Mẹ Maria để đến với Người.
Vì vậy, để dọn mình cách tốt đẹp nhất mừng đại lễ Chúa Giáng Sinh cũng như để sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu của mình, chúng ta hãy noi gương thánh Giuse mau mắn từ bỏ mọi bối rối nghi nan về sự cần thiết phải đón nhận Mẹ Maria vào cuộc sống tâm linh của mình. Rồi cùng với thánh Giuse, chúng ta hãy nỗ lực tích cực thực hiện thánh ý và chương trình tình yêu Chúa dành cho chúng ta từ đời đời bằng cách bước vào liên hệ yêu thương mật thiết với Mẹ Maria để nhờ Mẹ, với Mẹ, trong Mẹ và vì Mẹ, chúng ta sẽ đón nhận và yêu mến Chúa Giêsu.
Lạy Mẹ Maria, nay đã gần đến đại lễ Chúa Giáng Sinh. Chúng con khao khát được Chúa Giêsu ngự vào tâm hồn chúng con như xưa Chúa đã ngự vào lòng Mẹ và ngự nơi máng cỏ Bêlem. Nhưng như Mẹ biết đó, tâm hồn chúng con thật nhơ nhớp vì biết bao tội lỗi và chật hẹp vì còn chứa đựng bao sự phù vân. Chúng con không thể tự mình dọn cho Chúa một chỗ xứng đáng trong tâm hồn chúng con. Vì vậy, chúng con xin noi gương thánh Giuse rước Mẹ vào nhà linh hồn chúng con, để chính Mẹ sẽ giúp biến đổi tâm hồn chúng con nên giống tâm hồn Mẹ. Nhờ vậy, Chúa Giêsu sẽ sung sướng ngự vào lòng chúng con như Người đã sung sướng ngự vào lòng Mẹ năm xưa. Vậy giờ đây, xin Mẹ hãy đến và ở cùng chúng con trong mọi nơi mọi lúc của cuộc đời chúng con. Amen.
Giu-se và Ma-ri-a đã đính hôn với nhau, dự tính sẽ tiến tới một cuộc hôn nhân để có thể sống bên nhau trọn đời. Chắc chắn hai người rất thương yêu nhau. Mọi sự đang diễn biến tốt đẹp thì Giu-se bỗng thấy Ma-ri-a có thai mà không phải do mình. Ta thử đặt mình trong hoàn cảnh của Giu-se để cảm thông nỗi thắc mắc và buồn khổ vô hạn của Giu-se. Trước tình huống này, là con người, chắc chắn Giu-se phải có lúc nghĩ rằng mình đã bị người yêu phản bội. Càng yêu Ma-ri-a, ông càng cảm thấy bị xúc phạm, ghen tức và đau khổ. Những chàng trai khác mà gặp hoàn cảnh này có thể sẽ phản ứng bằng cách trả thù và rửa nhục. Cách trả thù hợp pháp nhất là đi tố cáo, vì sách Đệ nhị luật đã qui định: “Khi một cô gái còn trinh đã đính hôn với một người đàn ông, mà một người đàn ông khác gặp cô và nằm với cô, thì cả hai phải bị lôi ra cửa thành để chịu ném đá, và chúng sẽ phải chết” (Đnl 22,23-24).
Nhưng cách hành xử của Giu-se là “định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Chàng không muốn để người yêu của mình phải đau khổ và chết trong nhục nhã. Cho dù không được sống gần người mình yêu, cho dù nàng có phản bội mình và thuộc về người khác, Giu-se vẫn luôn mong cho người mình yêu được hạnh phúc. Đó mới là tình yêu đích thực. Vì thật ra, có hai thứ tình yêu:
Thế rồi Giu-se nằm mơ thấy sứ thần cho biết sự thật về Ma-ri-a, và sứ thần khuyên ông: “đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về”. Chỉ có lòng khoan dung và tình yêu mạnh mẽ chân thật đối với Ma-ri-a, cộng với tinh thần nhạy cảm với thánh ý Thiên Chúa, Giu-se mới có thể làm theo lời sứ thần bảo trong giấc mơ. Vì bình thường những người có đầu óc thực tế mấy ai lại tin vào giấc mơ. Do đó, ta thấy có một sự dằng co mãnh liệt trong tâm hồn Giu-se. Và để đưa Ma-ri-a về nhà mình, ông đã phải thắng được tính tự ái cá nhân, đã can đảm bất chấp dư luận bất lợi của những người ngoài cuộc, và chấp nhận sự nhục nhã có thể xảy ra (khi nhận ra giấc mơ chỉ là ảo ảnh). Tin Mừng còn cho biết: sau đó, “ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai”; điều đó nói lên khả năng tự chủ, bản lĩnh và sức mạnh tinh thần cao độ của Giu-se.
Như vậy, cách hành xử của Giu-se trong bài Tin Mừng cho thấy ông là người có tình yêu chân thực, khoan dung, nhân hậu, kín đáo, tự chủ, có bản lĩnh, có lập trường vững chắc, nhẫn nhục và rất nhạy cảm với thánh ý Thiên Chúa. Những đức tính ấy chứng tỏ ông đúng là một người công chính, xứng đáng là cha nuôi Đức Giêsu, là bạn trăm năm của Đức Maria, và là mẫu gương thánh thiện rất thực tế cho chúng ta.
Chủ ý của bài Tin Mừng hôm nay không nhắm vào sự công chính của Giu-se cho bằng sự thụ thai kỳ diệu của Đức Giêsu nơi cung lòng đồng trinh của Ma-ri-a do quyền năng Thánh Thần. Thông thường, nói tới sự đồng trinh của Đức Ma-ri-a, người ta thường nghĩ tới sự đồng trinh thể chất, ít ai nghĩ tới sự đồng trinh về mặt tinh thần của Ngài. Cả hai mặt của sự đồng trinh ấy đều quan trọng và cần thiết. Nhưng nếu chỉ đồng trinh về mặt thể chất mà không có mặt tinh thần thì đồng trinh ấy chẳng còn ý nghĩa! Sự đồng trinh về tinh thần nơi Đức Ma-ri-a quan trọng hơn rất nhiều.
Trước mặt Thiên Chúa, đồng trinh về mặt tinh thần có nghĩa là có tâm hồn trọn vẹn hướng về Ngài, hoàn toàn dâng hiến bản thân cho Ngài để hoàn toàn thuộc về Ngài, không còn thuộc về chính mình nữa. Trong chiều hướng đó, Đức Ma-ri-a đã sống tinh thần “tự hủy”, để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và tha nhân. Biểu hiện quan trọng và rõ rệt nhất là không còn coi ý riêng của mình là quan trọng, thậm chí không còn ý riêng nữa, để chỉ biết có thánh ý Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, Đức Ma-ri-a cũng có thể nói như Đức Giêsu: “Tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 5,30; x. 6,38), hay như thánh Phao-lô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Thiên Chúa sống trong tôi” (Gl 2,20). Trọn cuộc đời của Ngài đã chứng tỏ sự đồng trinh tinh thần ấy, được biểu hiện qua mọi hành vi của Ngài, cụ thể nhất qua hai chữ “Xin vâng” khi sứ thần truyền tin cho Ngài.
Mọi người Ki-tô hữu, kể cả người sống bậc vợ chồng, nhất là những kẻ quyết tâm theo Chúa, quyết tâm nên thánh, đều có thể và cần phải sống “đồng trinh” hiểu theo nghĩa tinh thần, nghĩa là sống trọn vẹn cho Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa. Trước mặt Thiên Chúa, một người đồng trinh về mặt thể chất, nhưng lại không đồng trinh về mặt tinh thần, chắc chắn không có giá trị bằng những người tuy không đồng trinh về mặt thể chất, nhưng lại đồng trinh về mặt tinh thần. Vì đồng trinh thể chất chỉ là phương tiện đồng thời là một dấu chỉ hay hình thức cụ thể nhất của sự đồng trinh tinh thần vốn phải là bản chất và nội dung của đồng trinh thể chất. Quá nhấn mạnh và đề cao sự đồng trinh thể chất mà quên lãng hay không đề cao sự đồng trinh tinh thần là một thứ tu đức què quặt và bị lạc hướng. Sự đồng trinh tinh thần bao giờ cũng có giá trị hơn rất nhiều, cho dù đồng trinh thể chất vẫn có giá trị riêng của nó.
Qua bài Tin Mừng, ta thấy: để là một con người, Đức Giêsu đã sống trong một gia đình, có cha có mẹ, trong một xã hội có vua có quan, có phép có tắc, trong một tôn giáo có phẩm có trật, là luật có lệ, y trang như mọi người. Ngài đã hoàn toàn “trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,7), cũng “sinh làm con của một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật” (Gl 4,4) như chúng ta, cũng “phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8-9). Vì thế, Ngài “không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15-16). Chắc chắn Ngài có thể nói như một triết gia nào đó: “Không có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với tôi”.
Ngài cũng từng kinh nghiệm những yếu đuối của con người khi bị ma quỉ cám dỗ (x. Mt 4,1-11). Vì thế, khi tôi yếu đuối, sa ngã, tội lỗi, tôi cảm thấy Ngài có thể thông cảm với tôi một cách sâu xa, và tôi biết Ngài sẵn sàng tha thứ chính vì Ngài đã từng cảm nhận được sự yếu đuối của con người như tôi.
Những điều của con người mà Ngài cảm nghiệm được nhiều nhất chính là đau khổ và sự chết. Dường như mọi hình thức quan trọng của đau khổ Ngài đều đã cảm nghiệm: phản bội, oan ức, bị đàn áp, bóc lột, mất mát, roi vọt, nhục nhã… Điều này làm tôi cảm thấy rất được an ủi khi gặp đau khổ. Tôi nhận ra Ngài đã dùng đau khổ của chính mình để xoa dịu những đau khổ của tôi. Ngài đã dùng thương tích của chính Ngài để chữa lành những vết thương của tôi (x. l Pr 2,24b). Nghĩ như thế, tôi không cảm thấy cô đơn trong đau khổ, vì tôi cảm thấy như Ngài đang cùng đau khổ với tôi, để biến những đau khổ của tôi thành một giá trị cao cả.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con học được tình yêu chân thật, vị tha nơi Đức Giêsu, Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se. Cho con biết yêu Cha vì Cha, yêu mọi người vì mọi người. Như vậy để yêu chân thực, con phải có tinh thần tự hủy, quên mình. Xin cho con thực hiện được thứ tình yêu chân thực ấy trong đời sống thường ngày của con. Amen.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Mt 1: 18-24 Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng và ít ngày nữa chúng ta sẽ mừng Chúa ra đời trong đêm Giáng Sinh.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng và ít ngày nữa chúng ta sẽ mừng Chúa ra đời trong đêm Giáng Sinh. Ngoài trời thông reo và gió tuyết cùng ngàn vạn vì sao lấp lánh hợp với muôn tiếng nhạc du dương của bản thánh ca Noel hiền hoa… ai ai chúng ta cũng rộn rã trong tim một niềm vui thánh miên man đầm ấm khó tả. Hồn chúng ta bỗng chùng hẳn lại… bâng khuâng nhớ về những mùa Giáng Sinh thật đẹp năm xưa tại quê nhà dù không có tuyết rơi gió lạnh nhưng với ngàn vạn kỷ niệm yêu dấu không bao giờ quên.
Trong cuộc sống đời người không thiếu những lo âu sợ hãi. Có những điều do hoàn cảnh khách quan đưa đến, cũng có những cái do chủ quan từ bên trong con người. Nếu xét từ nguyên nhân, thì tất cả mọi lo âu sợ hãi trong đời sống đều phát xuất từ cảm giác cô đơn, từ lòng ích kỷ, từ những việc chỉ nghĩ đến bản thân mà quên đi người khác. Quan trọng hơn, đó là vì không thấy Chúa hiện diện ở trong con người của mình, cùng hành động với mình, mà chỉ hành động cách đơn lẻ.
Dường như theo cách nghĩ thông thường của con người thì ai càng yếu đuối thì càng cần nhiều đến sự giúp đỡ của người khác. Thiên Chúa chúng ta là Ðấng Toàn Năng quyền phép vô cùng nhưng Người vẫn cần nhờ đến sự cộng tác của con người là thụ tạo của mình. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho thấy Thiên Chúa mời gọi hai con người cộng tác đặc biệt vào chương trình cứu độ loài người.
Mỗi người trong chúng ta cũng đã từng trải qua cảm giác cô đơn sợ hãi. Chúng ta cũng đã từng giải quyết nhiều vấn để khúc mắc. Nhưng đã giải quyết như thế nào? Chúng ta đã vượt qua cách khổ sở như lần từng bước đi trong đêm tối, để rồi niếm mùi chua cay thất bại và trải qua nỗi thất vọng ê chề. Chúng ta đã trải qua với sự lo âu thắp thỏm, cùng với những toan tính hại người, nên sợ sẽ bị trả thù. Hay chúng ta đã vượt qua với những bực tức và khó chịu vì không được như ý muốn. Đó là vì chúng ta đã hành động cách cô đơn, hành động mà không Có Chúa Ở Cùng, hành động trong cơn mê, hành động trong đêm tối.
Thiên Chúa bước vào cuộc đời của Đức Maria và thánh Giuse và Ngài làm thay đổi hết những dự tính của các ngài. Chúa dắt các ngài bước đi theo một con đường hoàn toàn mới mẻ và xa lạ, nằm ngoài những dự tính ban đầu của các ngài. Có thể nói, Chúa đã làm xáo trộn kế hoạch vốn cũng rất tốt đẹp và thánh thiện nơi cuộc đời của Đức Maria và thánh Giuse.
Không phải tự nhiên ta có thể khẳng định Đức Meria sợ hãi. Điều đó đã được chứng minh qua việc khi sứ thần truyền tin. “Maria đừng sợ, Bà đã được Thiên Chúa sủng ái” Chắc Maria lại càng sợ hơn khi nghe nói mình sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu . Không phải chỉ có Đức Mẹ khi nghe lời đó sợ hãi mà hầu hết tất cả các thiếu nữ Do Thái khi nghe đều sợ.
Với Tin mừng, ta thấy rõ là Đức Maria đã đính hôn với Giuse. Một kế hoạch xem ra rất bình an và hạnh phúc đối với những con người bình thường sống trong xã hội rồi. Nhưng rồi Thiên Chúa “không để yên” cho các ngài. Chúa giao cho các ngài một sứ mạng xem ra kỳ cục và nghịch lý lắm; xem ra Chúa muốn phá vỡ hạnh phúc của các ngài. Nhưng đó là cách thức Chúa hành động trên những kẻ Ngài yêu thương cách riêng.
Vì theo luật Do Thái người phụ nữ nào có chồng mà có con trong khi Đức Mẹ lại là người phụ nữ đẹp nết đẹp người, Hơn nữa Đức Maria lại là con ông Gioan Kim và Anna sống tốt lành thánh thiện thì lại càng sợ hơn nữa. Nhưng cái sợ của Đức Maria khi nghe truyền tin không giống như cái sợ của những người phụ nữ Do thái khác. Sợ vì có một chút bất ngờ một chút bỡ ngỡ, vì không ngờ một thụ tạo hèn kém như mình lại được Chúa chọn, được Chúa ban cho hồng ân to lớn đến thế. Có thể nói cái sợ của Mẹ Maria như lời tạ ơn đơn sơ đẹp lòng Chúa nó cũng chứng tỏ nơi Mẹ một tâm hồn phó thác vì biết sợ trong Chúa vì biết tin tưởng nới Thiên Chúa mà Mẹ đã biến nỗi sợ hãi bằng lời thưa trong sự can đảm và vâng phục thánh ý Thiên Chúa
“Đừng sợ, hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô”. Nếu tôi nhớ không lầm, thì ngay sau khi làm giáo hoàng, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã mở đầu triều đại của mìn bằng một sứ điệp với những lời lẽ như thế. Trải dài trên 20 năm làm giáo hoàng của mình, Đức Thánh Giáo Hoàng không ngừng nhắc đi nhắc lại với thế giới: “Đừng sợ!”.
Xoay quanh hai tiếng “đừng sợ”, Đức Thánh Giáo Hoàng mở ra cho ta thấy có những cái sợ rất nghịch lý. Lẽ ra ta không được sợ, lẽ ra ta phải xây dựng nó, thì ta lại sợ. Bằng chứng là hai sứ điệp ngày Quốc tế Giới trẻ lần thứ 15 và lần thứ 16, Đức thánh cha nhắc tới nỗi sợ nghịch lý này: “Các con đừng sợ trở nên những vị thánh của thiên niên kỷ mới” (ngày QTGT lần thứ 15, số 3), và các con đừng sợ đi trên con đường Chúa đã đi” (ngày QTGT lần thứ 16, số 6).
Nên thánh mà sợ? Đi con đường của Chúa mà sợ? Đúng lắm! Vì đi trên con đường của Chúa để được nên thánh là khổ nạn, là từ bỏ bản thân, là sống các giá trị Tin Mừng như nghèo khó, khiêm nhu, hiền từ, vâng lời… Suy nghĩ như thế, cho tôi cảm nhận trọn vẹn lời của Đức Thánh Giáo Hoàng: “Các con đừng sợ nên thánh, đừng sợ đi trên con đường của Chúa”. Đức Thánh Giáo Hoàng chắc phải có một cảm nghiệm thiêng liêng sâu đậm lắm, người mới vượt lên trên sự sợ hãi, tông du khắp thế giới làm cho nhiều tâm hồn thay đổi, Lời Chúa được loan báo.
Nhưng chắc chắn, khi nói tới sợ hãi, thì cái sợ của chúng ta không chỉ là sợ ma, sợ học thua sút, sợ mất người yêu, sợ không tròn trách nhiệm gia đình… mà nỗi sợ còn lớn hơn nhiều. Đó là nỗi sợ trước một thế giới mà giá trị của Tin Mừng bị xem nhẹ. Một thế giới mà vật chất đang lên ngôi, quyền lực đang thắng thế, tự do tình dục đang được ưa chuộng, quyền của trẻ thơ, của thai nhi bị tước mất. Có khi chính những người cha, người mẹ lại tước mất quyền sống của con mình. Một thế giới mà ngòi nổ của khủng bố, chiến tranh lúc nào cũng sẵn sàng. Sự bình an của tôi, của anh chị em, của cả nhân loại luôn bị đe dọa. Ngay trên quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà ngày xưa Chúa sinh ra, lại không có được một thánh lễ trong đêm sinh nhật Chúa, vì người ta đang gieo rắc bạo lực và chiến tranh…
Để có bình an, bạn và tôi hãy đặt hết niềm tin vào Chúa. Tin rằng Chúa sẽ thực hiện chương trình của Người theo ý mà Người muốn. Và xin cho Thánh Ý được thể hiện nơi trần gian trong mọi hoàn cảnh của thế giới, của nhân loại, của Giáo Hội, và của mỗi người. Tin nơi Thiên Chúa là gói trọn cuộc đời mình trong tay Người, để mặc Ý Chúa được thể hiện, chắc chắn ta sẽ có bình an. Tôi xin mượn lời thiên thần lặp lại một lần nữa: “Bạn và tôi, đừng sợ!”.
Người phụ nữ Hoa Kỳ gốc Do thái Ross Price. Năm 1940, Ross Price mới 13 tuổi, đã bị lính Đức Quốc Xã bắt giam ở trại Đỗ Bình Cang (Robincaz) sau được chuyển về Darkham của Ba Lan. Năm 1945, khi quân đội đồng minh tới giải phóng Au Châu, cô Mai khi ấy lên 18 tuổi, may mắn được sống sót và được định cư tại Hoa Kỳ. Điều bà Ross Price không thể nào quên được là những năm kinh hoàng nơi trại tập trung Đức Quốc Xã.
Đêm Noen ấy, bà không thể tưởng được rằng chính những người lính Đức và quản giáo đã họp nhau mừng lễ Giáng sinh với những bài hát để tung hô vị Cứu Tinh mà người Do thái hằng mong đợi qua nhiều thế kỷ. Bà tự hỏi Vị Cứu Tin Thiên Chúa đã hứa cho dân tộc bà nay ở đâu? Sao Ngài không đến tiêu diệt bọn dã man ấy đi để chúng khỏi tiếp tục hành hạ dân tộc bà?
Xảy ra vào năm 1980 Ross Price được mời phát biểu tại một cuộc họp để lên án Đức Quốc Xã ở thành phố Bá Linh. Bà đã quỳ cầu nguyện lâu giờ trước khi nhận lời mời. Năm 1981, bà đã có mặt tại sân vận động Bá Linh của nước Đức. Trước mặt cử tọa gồm 40 ngàn người, Ross Price đã kể lại chuỗi ngày đen tối của bà nơi các trại tập trung. Để kết thúc, Ross Price đã trích lời ngôn sứ Isaia nói rằng: “Đẹp thay những bước chân người sứ giả đã loan báo Tin Mừng – Chính những nỗi khổ đau của chúng tôi Người đã gánh chịu và Người đã bị đâm thâu qua vì tội lỗi chúng tôi; Người đã hiến thân chịu chết và đã bầu cử cho những tội nhân” (Is 52,7).
Ross Price thuật lại rằng khi bà trở về chỗ ngồi, thì có một số người tiến lại bên cạnh bà. Họ van xin với một giọng rất cảm động khi nói: “Chúng tôi chính là những người canh tù tại các trại tập trung nơi bà bị nhốt. Vậy bà có sẵn sàng tha thứ cho chúng tôi không?” Ross Price đã trả lời giữa hai dòng lệ: “Nếu Thiên Chúa đã tha thứ cho tôi nhờ nỗi chết của Con Ngài, thì tại sao tôi lại không tha thứ cho các ông?” Một người đàn ông đã quỳ khóc dưới chân Ross Price. Từ đó Ross Price không còn nghi ngờ gì về Chúa Kitô nữa.
Người cứu dân Người khỏi tội khởi đi từ hoàn cảnh nào?
Câu chuyện kể trên cho thấy ý nghĩa của danh xưng Giêsu là Đấng Thiên Chúa cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ (c.21). Toàn bộ Tin Mừng Matthêu (1,1-25) một đàng định vị Đức Giêsu vững vàng giữa dân Thiên Chúa; đàng khác nó còn cho thấy địa vị ngoại thường của Người vượt trên mọi nhân vật được đề cập trong bản gia phả của Matthêu (Mt 1,2-16). Ngay trong bản gia phả này điều nổi bật là sự có mặt của bốn phụ nữ (Tama, Rakháp, Urigia và Rút) mà hoàn cảnh làm mẹ chẳng được coi là thánh thiện theo luật Do thái giáo. Nhưng chính giữa hoàn cảnh đó, Đức Giêsu đã đến cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ (c.21).
Nếu muốn thực tế, người Kitô hữu cũng phải khởi đi từ cái thế giới mình đang sống. Đó là một thế giới chẳng thánh thiện gì; ngược lại, còn có nhiều đổ vỡ cần được hàn gắn.
Quả thật, con người được dựng nên để tán dương tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, nhờ đó hưởng được hạnh phúc vĩnh viễn ở bên Chúa. Nhưng cái thế giới ta đang sống không nghiêng theo chiều hướng tốt lành đó. Đúng là có khó khăn để con người trung thành với ơn tạo dựng là tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa nơi bản thân, trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Không thiếu những tội ác xảy ra như cơm bữa. Tệ nạn xã hội, như ma túy chẳng hạn, đang đe dọa giới trẻ cách khủng khiếp. Trầm trọng hơn nữa là nội tâm con người như chính Đức Giêsu đã vạch ra khi nói: “Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả các điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,21-23).
Vậy tội là gì?
Tội thường được quan niệm là hành vi lỗi luật Thiên Chúa. Đúng như vậy. Nhưng quan niệm đó có tính cá nhân và luật định, chưa nói hết được bản chất của tội.
Đúng hơn, nên hiểu tội là từ khước tình yêu, từ khước chính kế hoạch của Thiên Chúa. Thiên Chúa không chỉ là Đấng ban luật buộc ta phải giữ để được hạnh phúc. Đúng hơn, Thiên Chúa là Tình Yêu: Người luôn bao bọc và săn sóc ta. Chính Tình Yêu Thiên Chúa phải lôi kéo ta đến với Ngài hơn là luật đòi buộc ta.
Cần nhìn tội dưới cái nhìn của Phúc Âm cho thấy đó là sức phá hoại đã thấm nhuần vào thế giới ta đang sống, khiến con người bị lệch lạc ngay nơi tiềm thức của mình. Khi sức phá hoại của tội thấm sâu nơi lòng con người, nó phát sinh ra ác ý và hình thành nên những cơ cấu xã hội, chính trị, kinh tế, khiến xã hội cứ vậy đi xuống thay vì đi lên theo lý tưởng cao đẹp. Con người trở nên chai lì trong sự tự mãn, bất kể tới Thiên Chúa là Đấng sinh thành nên mình, và bất kể tới đồng loại lẽ ra phải được xử đối như anh chị em một nhà.
Vì phạm tội, con người tách rời mình khỏi Thiên Chúa là nguồn suối của tình yêu và mọi ơn lành. Đó là tình trạng cách ly từ tận gốc rễ do tội gây nên. Con người tự phá vỡ kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, tự đặt mình làm mục đích cho đời mình, kể mình là trung tâm cho sự sống nơi mình và trung tâm cho mọi hành động của mình.
Nếu Đức Giêsu đến cứu dân Người khỏi tội, Người cho ta biết tội là gì dưới cái nhìn của Người. Tin Mừng Matthêu ghi lại lời Đức Giêsu quở trách giới lãnh đạo Do thái giáo, trong đó ta đọc được ý của Đức Giêsu về tội. Thành Giêrusalem là biểu tượng của những người có trách nhiệm lãnh đạo dân.
Tội dưới cái nhìn của Chúa Giêsu
Đức Giêsu nói: “Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu. Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang mặc cho các ngươi. Thật vậy, ta nói cho các ngươi hay, từ nay các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa, cho đến khi các ngươi nói: “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!” Khi Đức Giêsu từ trong Đền Thờ đi ra, thì các môn đệ của Người lại gần chỉ cho Người xem công trình Đền Thờ. Nhưng Người nói: “Anh em nhìn thấy tất cả những cái đó, phải không? Thầy bảo thật anh em: Tại đây sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ” (Mt 23,37-24,2).
Tội chống lại Tình Yêu Thiên Chúa. Đức Giêsu mô tả tình yêu ấy bằng hình ảnh rất dễ thương của gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh.
Tội chính là từ khước tình yêu Thiên Chúa, như Đức Giêsu trách giới lãnh đạo Do thái giáo và còn trách qua lương tâm mọi Kitô hữu vì không chịu nghe tiếng nói của Tình Yêu Thiên Chúa.
Thì đây nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang – Trong thực tế, thành Giêrusalem sẽ bị phá hủy. Cuộc tàn phá ấy tượng trưng một sự phá sản do tội gây nên. Với người Do thái, gốc gác của tội là do họ không tin. “Ai không tin thì đã bị kết án rồi” (Ga 3,18). Riêng với các Kitô hữu, họ cần khám phá ra bộ mặt thực của tội họ từng phạm. Thiên Chúa ban cho ta tự do. Người tôn trọng tự do chính Người ban. Người chờ đợi ta chọn con đường yêu mến. Đó là con đường danh dự và trách nhiệm. Cần chọn giữa sự sống và sự chết (Đệ Nhị Luật 30,15).
Ý hướng cơ bản là Tán Dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa
Không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. – Đền thờ vẫn đứng vững. Nó vẫn huy hoàng, rực rỡ khiến các môn đệ tắc lưỡi ngợi khen. Nhưng Đức Giêsu đã thấy rõ số phận của Đền Thờ ấy. Người Kitô hữu cũng cần nhìn thấu hiện trạng của mình dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Bề ngoài cho dầu ta có thành đạt mấy đi nữa, giá trị thực chất của đời Kitô hữu của ta vẫn là ý hướng cơ bản mà ta cần theo đuổi. Thử hỏi ý hướng ấy có phải để tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa chăng?
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn