Lời Chúa: Nkm 8,2-4a.5-6.8-10; 1Cr 12,12-30; Lc 1,1-4; 4,14-21
MỤC LỤC
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Khi đã khá có tiếng tăm ở vùng Galilê, Đức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài sinh trưởng. Làm sao Ngài quên được mảnh đất làng quê đã ấp ủ mình, nơi có bà con họ hàng, láng giềng, bè bạn. Hơn nữa Ngài cũng không cắt đứt với tôn giáo của cha ông.
Ngài vẫn là một người Do Thái ngoan đạo, quen lui tới hội đường cùng với dân làng vào ngày sa-bát, để thờ phượng Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha.
Chúng ta cần chiêm ngắm Đức Giêsu đứng đọc Sách Thánh. rồi ngồi xuống giải thích Lời Chúa cho mọi người. Cử chỉ của Ngài thật trang trọng, đỉnh đạc, khi nhận sách, mở sách, cũng như khi cuộn sách để trả lại. Có một bầu khí cầu nguyện sâu lắng ở hội đường.
Mọi người đều chăm chú nghe lời Ngài giảng. Đoạn sách Ngài đọc hôm ấy là của ngôn sứ Isaia. Isaia đã nói lên ơn gọi và sứ mạng của mình. Ông được xức dầu để trở thành ngôn sứ cho những người Do Thái mới thoát khỏi cảnh lưu đày. Ông được sai đi để loan báo thời cùng khốn đã chấm dứt và công bố khai mở một thời kỳ đầy ân sủng và tự do.
Đức Giêsu đã bị đánh động bởi đoạn sách này. Ngài thấy nó phản ánh chính ơn gọi và sứ mạng của mình. Đây là một hướng đi mà Ngài phải theo đuổi, một chương trình hành động mà Ngài muốn hoàn thành.
Đức Giêsu là người đầy tràn Thánh Thần cách đặc biệt.
Thánh Thần chi phối toàn bộ lời nói, việc làm của Ngài. Ngài được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo, nghèo tiền bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tiếng nói.
Ngài được sai đến với những kẻ bị giam cầm bởi nỗi lo sợ, bởi thành kiến, bởi ích kỷ tham lam.
Ngài cho người mù được sáng mắt và thấy trong niềm tin.
Ngài trả lại tự do cho cả người bị áp bức lẫn người gây áp bức bóc lột. Ngài mời gọi cả hai sống thanh thoát như Ngài, sống như con của Cha và anh em của nhau.
Ngài khai mạc một Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ. “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” Chúng ta phải có thể nói một câu tương tự như Đức Giêsu.
Có nhiều đoạn Lời Chúa chẳng được ứng nghiệm bao giờ vì thiếu sự cộng tác của bản thân tôi.
Con người hôm nay khao khát niềm vui, ánh sáng, tự do, nhưng ít người chịu tin vào Đức Kitô chỉ vì đời tôi đầy sầu muộn, bóng tối và nô lệ. Thậm chí có khi tôi lại là kẻ áp bức anh em, kẻ bịt mắt và giam hãm tha nhân trong ngục tù.
Lời ngôn sứ Isaia đã được ứng nghiệm trong đời Đức Giêsu. Ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong đời tôi, để ngày hôm nay của Chúa được kéo dài đến tận thế.
Đại Năm Thánh 2000 đã kết thúc, nhưng kết thúc là để tôi bắt đầu sống quảng đại một thiên niên kỷ mới chan chứa hồng ân.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Thánh Cha đã mời gọi các nước giàu xóa nợ cho các nước nghèo nhân dịp Năm Thánh 2000. Bạn nghĩ mình có thể làm gì để những người chung quanh được vui tươi hơn, nhẹ nhàng hơn?
Thế giới hôm nay vẫn còn nhiều xung đột, chiến tranh. Bạn có thể kể ra những cuộc xung đột hay chiến tranh mà bạn biết? Đâu là lý do gây ra chúng?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần, Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Ngài giữa lòng thế giới, trong lòng mọi người.
Thế giới hôm nay còn nhiều điểm tối, nhưng vẫn có những đóm sáng rực rỡ:
khi con người ngồi lại gần nhau – để giải quyết tranh chấp, tìm kiếm hòa bình;
khi cả thế giới lo chung một mối lo: bảo vệ trái đất, ngăn chận sida, tận diệt ma tuý;
khi có những người nghèo quan tâm đến những người nghèo hơn;
khi trẻ thơ và người già được chăm sóc;
khi hàng rào ngăn cách các nước được tháo gỡ;
khi không còn nạn kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, màu da;
khi những tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho con người sống hạnh phúc;
khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau, liên đới với nhau và chịu trách nhiệm về nhau, sống trên cùng một hành tinh, dưới mái nhà bầu trời.
Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin cho chúng con thấy Ngài nơi nụ cười người ta trao cho nhau trên đường phố, nơi những hy sinh vô vị lợi, và cả nơi những thao thức của ai đó, muốn xây dựng một thế giới huynh đệ hơn.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Trước lúc lìa đời, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có giao cho con cháu một cái ống tre sơn son thếp vàng gắn bít hai đầu và dặn đến đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh tổng đốc Hải Dương, trao cái ống này cho quan thì sẽ cứu vãn được tình thế gia đình nhưng tuyệt đối không được ai mở ra xem, trừ quan tổng đốc.
Cái ống tre ấy truyền đến người cháu bảy đời của Trạng, mới rước lên dinh quan tổng đốc, đúng vào ngày giờ đã ghi trong gia phả. Khi quan mở ống thấy một cuộn giấy, ông rút ra xem thấy có hai câu chữ nho: ‘Ngã cứu nhi thượng lương chi ách. Nhĩ cứu ngã thất thế chi bần’. Nghĩa là: ‘Ta cứu ngươi khỏi xà nhà đổ. Ngươi cứu cháu bảy đời của ta còn nghèo’.
Đang lúc bận việc, quan tổng đốc thấy hai câu nói xấc xược ấy, ông liền nổi giận. Sẵn cầm chiếc quạt trên tay, ông đứng phắt dậy, chạy lại định đánh người cháu bảy đời của Trạng. Nhưng vừa bước khỏi sập, chiếc xà nhà ngay trên đỉnh đầu đổ xuống đánh rầm một cái. Phúc bảy mươi đời, ông mới vừa bước ra, nên không sao cả.
Quan tổng đốc lúc đó mới giật mình hiểu rõ Trạng đã cứu mình khỏi cái chết bất đắc kỳ tử. Quan ân cần xin lỗi người cháu ông, mời về tư thất đãi cơm rượu, rồi cho một số tiền khá lớn, để cứu giúp cho gia đình cháu của Trạng đang lâm hoàn cảnh cực kỳ túng thiếu.
Nói đến các bậc tiên tri ở nước ta, trước hết phải kể đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sinh thời ông đã nổi tiếng về các giai thoại tiên tri, đến nỗi các sĩ tử nô nức xin theo học và thiên hạ đua nhau tìm đến hỏi về những việc tương lai.
Tuy nhiên, các lời sấm của ông được ứng nghiệm là do trí thông minh của ông đã mách bảo. Còn hôm nay, nơi Đức Giêsu đã ứng nghiệm sấm ngôn của Isaia do Thánh Thần linh ứng. Chính Đức Giêsu cũng là một tiên tri được đầy tràn Thánh Thần. Một tiên tri cao cả mang ơn gọi và sứ mạng cứu độ.
Khi chịu phép rửa, Người đã nhận lãnh Thánh Thần như một việc xức dầu.
Người được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo hèn, những kẻ nghèo tiền, nghèo bạn, nghèo văn hóa.
Người được sai đến với những kẻ bị giam cầm trong lao tù, trong ích kỷ, trong tham lam.
Người cho kẻ mù được sáng mắt, kẻ u mê thoát vòng tối tăm.
Người trả tự do cho người bị áp bức, phá xiềng xích cho những tội nhân.
Người khai mở một năm Toàn Xá, Năm Thánh, năm Hồng Ân cứu độ.
Chúng ta cũng đã được xức dầu để trở thành tiên tri, đi loan báo Tin Mừng cứu độ.
Nếu Thánh Thần đã chi phối toàn bộ ngôn từ, hành vi của Đức Giêsu, chúng ta cũng hãy ngoan ngùy để Thánh Thần hướng dẫn tất cả lời nói, việc làm của mình.
Nếu sấm ngôn của Isaia đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu; ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong cuộc đời chúng ta, bằng sự cộng tác tích cực của bản thân mỗi người.
Con người ngày nay khắc khoải trong lo âu sầu muộn, người tín hữu Kitô phải là chứng nhân của niềm vui.
Con người ngày nay ngụp lặn trong bóng tối của lầm lạc, người tín hữu Kitô phải chiếu tỏa ánh sáng của đức tin.
Con người ngày nay bị kìm tỏa trong vòng nô lệ của tiền bạc, danh vọng; người tín hữu Kitô phải loan báo sự tự do của con cái Chúa.
Nếu những người đã chịu phép Rửa trong Thánh Thần, mà còn làm ngơ trước những con người nghèo hèn, áp bức kẻ cô thân cô thế, bịt mắt những anh em dốt nát, và giam hãm tha nhân trong ngục tù dưới nhiều hình thức; thì quả thật, Lời Chúa chẳng bao giờ được ứng nghiệm trong cuộc đời họ. Và Năm Đức Tin qua đi trong cuộc đời mà họ không hề nhận được một chút Hồng Ân nào của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Đức Thánh Cha đã kêu gọi các nước giàu xóa nợ cho các nước nghèo. Xin cho chúng con cũng biết xóa nợ cho nhau, không chỉ xóa nợ tiền bạc mà còn xóa đi những bất bình, nghi kỵ, thành kiến, hiểu lầm nhau…, để mọi người chung quanh chúng con được nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn, vui tươi hơn.
Xin cho chúng con luôn là những sứ giả đi loan báo và chứng tá cho tình yêu cứu độ của Chúa. Amen.
Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại sự việc Chúa Giêsu trở về quê nhà. Trong khi gửi tới dân làng Nagiarét, nơi Ngài đa lớn lên, một trong những sứ điệp quan trọng, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy một tình yêu thương chân thành và nồng thắm. Thực vậy, lúc bấy giờ Ngài đã nổi tiếng khắp miền Galilêa và nhiều nơi khác, thế nhưng, Ngài đã không quên thôn ấp nhỏ bé Ngài đã sống suốt những năm tháng dài của tuổi ấu thơ và trưởng thành. Ngài muốn chuyển thông Tin mừng cứu rỗi cho những người bà con họ hàng.
Là Con Thiên Chúa, sinh bởi Đức Trinh nữ Maria do quyền năng Chúa Thánh Thần, Ngài đã không chối từ những liên hệ của con người, nối kết ngài với Nagiarét. Và như thế, ơn thánh không phá hủy, mà trái lại còn kiện toàn bản tính tự nhiên của chúng ta.
Nếu nhìn lại cuộc sống của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ thấy Ngài không đến để công bố những lề luật, rồi sau đó Ngài đứng bên lề cuộc đời. Trái lại, Ngài đã làm người, đã hóa thành nhục thể, trở nên một người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã dấn thân vào số kiếp con người, đã nhập cuộc vào trò chơi của lịch sữ nhân loại. Trước hết, Ngài đã tuân giữ những luật lệ phần đạo cũng như phần đời.
Phần đạo, Ngài cũng đã chịu phép cắt bì, hằng ngày Ngài vẫn đến hội đường để nghe đọc Kinh thánh, hằng năm Ngài vẫn lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt qua….Phần đời, Ngài đã biểu lộ lập trường của mình về việc nộp thuế:
– Của Cêsar hãy trả cho Cêsar. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Ngài đã thực sự hòa mình vào nếp sống của mọi người: vui niềm vui của họ, buồn nỗi buồn của họ. Thực vậy, Ngài đã đi ăn cưới tại Cana để chia sẻ niềm vui của đôi tân hôn. Trái lại, Ngài đã xúc động trước đám tang người con trai của một bà góa thành Naim, Ngài đã khóc thương trước nấm mộ của Lagiarô cũng như trước viễn cảnh của một Giêrusalem sẽ bị đổ vỡ hoang tàn…Hơn thế nữa, Ngài còn cúi xuống xoa dịu mọi nỗi khổ đau của những người chung quanh: Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi sống đám đông trong hoang địa, Ngài đã xua trừ ma quỉ, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền, cho kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, kẻ điếc được nghe, và người chết được sống lại. Ngài đã chu toàn những công việc của nhân loại theo cách thức của Thiên Chúa để thánh hóa và đem lại cho chúng một giá trị tuyệt vời.
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta rút ra được một quan niệm sống cho người Kitô hữu. Thực vậy, người Kitô hữu phải sống trọn vẹn cuộc đời của mình trong những giây phút hiện tại. Họ không được phép chê ghét và xa tránh những người bà con lối xóm. Họ không được phép chạy trốn và khước từ những thực tại trần gian. Trái lại, họ phải dấn thân, phải nhập cuộc như Đức Kitô ngày xưa. Tuy nhiên, họ dấn thân không phải là để cho thế gian lôi kéo. Họ nhập cuộc không phải là để cho tội lỗi vùi dập trong đám bùn nhơ. Đời sống của họ phải trở nên như một bông sen: gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Hơn thế nữa, họ dấn thân và nhập cuộc là để lôi kéo thế gian trở về cùng Chúa. Họ chính là muối mặn ướp cho đời khỏi ươn thối. Họ chính là ánh sáng chiếu tỏa vào thế gian còn chìm ngập trong tăm tối. Họ chính là men làm cho nhân loại này dậy lên hương thơm đạo đức và thánh thiện. Ơn gọi của người Kitô hữu là làm chứng cho Đức Kitô, là sống đức tin của mình giữa lòng cuộc đời, để thánh hóa bản thân và những người chung quanh.
Nếu so sánh quan niệm trên với những luồng tư tưởng lớn của Đông phương, chúng ta sẽ nhận ra được một sự khác biệt.
Thực vậy, Lão giáo thì ngần ngại trước cuộc sống ngắn ngủi phù du, nên đã đi tìm lãng quên trong men rượu, trong vui thú để rồi đã có một cái nhìn thật bi quan và yếm thế.
Khổng giáo thì hăm hở bước vào đời để cải tạo xã hội va đem lại cho bản thân mình chút vinh quang phù phiếm:
– Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,
Không công danh thà nát với cỏ cây.
Và sau cùng, Phật giáo thì ý thức rằng đời là bể khổ, mà mỗi người là như một cánh bèo trôi dạt trên đó, để rồi lên đường kiếm tìn sự giải thoát cho cá nhân mình.
Chỉ Kitô giáo mới đưa ra một cái nhìn vừa lạc quan lại vừa đúng đắn, để xây dựng cho bản thân cũng như cho xã hội.
Có một người đã nhiều năm vui vẻ chấp nhận cuộc sống với những thiếu thốn về tiền bạc và những buồn phiền trong gia đình. Người ta hỏi ông:
– Tại sao lại có thể an vui được như thế?
Ông ta đã trả lời:
– Sở dĩ như vậy vì tôi biết sử dụng cái nhìn của tôi với đôi mắt sáng suốt.
Người ta tò mò hỏi:
– Như thế có nghĩa là gì?
Ông ta nói:
– Trước hết tôi nhìn lên trời và nhớ rằng việc chính của tôi là đạt tới trời. Rồi tôi nhìn xuống đất và hình dung ra nắm đất thân xác tôi sẽ trở thành. Sau cùng tôi nhìn sang bên cạnh và tôi nhận thấy có biết bao nhiêu người còn khốn khổ hơn tôi rất nhiều. Chính ba cái nhìn này đã làm cho tôi sung sướng và bàing lòng với cuộc sống mà không than van trách móc.
Người Kitô hữu sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian. Bởi đó, hãy biết chấp nhận những thực tại trần gian, để nhờ đó thánh hóa bản thân và những người chung quanh trên con đường trở về cùng Chúa, bởi vì tất cả đều là hồng ân.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Bài Tin Mừng này nhấn mạnh đến giá trị lịch sử và nội dung của lời Chúa.
Xét về giá trị lịch sử, Thánh Luca đã mở đầu sách Tin Mừng bằng dựa vào thế giá “các người đã được chứng kiến ngay từ đầu đã phục vụ lời Chúa, truyền lại cho chúng ta”. Thánh Luca còn “cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự … để gởi “Ông Thêôphilô nhận thức được rằng giáo huấn Ông đã học hỏi thật là vững chắc”.
Trước hết, thánh Luca tra cứu nơi chính Đức Mẹ Maria, vì các biến cố đời thơ ấu của Đức Giêsu, từ lúc Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ đến lúc Đức Giêsu lên 12 tuổi đi lễ đền thờ, Thánh Mathêu chỉ kể vài việc: Truyền tin cho Thánh Giuse biết Đức Maria thụ thai bởi phép Thánh thần, các hiền sĩ, Thánh gia trốn sang Ai Cập. Thánh Marcô và Gioan không kể gì. Thánh Luca kể khá nhiều về đời sống ẩn dật mà chỉ Đức Mẹ biết rõ thôi.
Thứ đến, Thánh Luca tra cứu nơi các tông đồ đã sống bên Đức Giêsu suốt ba năm giảng đạo. Hơn nữa, nhờ Gioan và Giacôbê là anh em họ hàng với Đức Giêsu nên có thể giúp thánh Luca biết về đời sống của Đức Giêsu lúc Người giảng đạo.
Sau nữa, Thánh Luca còn tra cứu rất đông các môn đệ mà Thánh Phaolô kể trong thư Côrintô, có tới 500 người tiễn Đức Giêsu về trời (1Cor. 15, 5-8).
Ngoài ra, Thánh Luca còn tra cứu nơi biết bao nhiêu bệnh nhân đã được Đức Giêsu cứu chữa có thể nói toàn dân Do Thái đã chứng kiến cuộc suy tôn Đức Giêsu làm vua và cuộc khổ nạn của Người trong ngày đại lễ quốc khánh của nước Do Thái.
Phần đông những người đã chứng kiến cuộc đời của Đức Giêsu vẫn còn sống lúc Tin Mừng Thánh Luca ra đời, vì Thánh Luca chép Tin Mừng khoảng năm 60-70 hay 70-80 nghĩa là khoảng 30-40 năm sau Đức Giêsu chịu chết. Như vậy những người chứng kiến đó cũng chỉ 50, 60 tuổi. Họ biết rất rõ về Đức Giêsu nên Luca không thể bịa đặt, thêm thắt, làm sai lịch sử về Đức Giêsu.
Thánh Luca lại là thầy thuốc, ở địa vị thầy thuốc, tất nhiên phải nghiên cứu học hỏi kỹ lưỡng cẩn thận. Trước khi cho một toa thuốc, Ông phải tỉ mỉ xem xét những triệu chứng gây ra bệnh tật, mới dám viết đơn thuốc. Sai trệch, cẩu thả là nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân và đe dọa chính thầy thuốc nữa. Tin Mừng Thánh Luca thật là một toa thuốc vô cùng quan trọng, vì đó là thuốc trường sinh cho cơn bệnh trầm trọng của nhân loại đang hấp hối. Thánh Luca cắt toa thuốc này không phải cho Ngài Thêôphilô và những người mới trở lại đạo, mà còn cho cả thế giới từ nay cho đến tận thế.
Ngài Thêôphilô là bậc thế giá, hàng trí thức và còn bao nhiêu Ngài trí thức vị vọng khác của hàng ngàn năm đã nhận biết chân giá trị thực sự về lịch sử của Đấng Cứu thế nhờ Tin Mừng của Luca. Nếu Luca viết sai lầm, giả dối, thì đã mất hết giá trị từ lâu rồi. Thế mà trải qua hai ngàn năm thử lửa, giá trị lịch sử về Tin Mừng càng ngày càng vững chắc. Không có một cuốn sách nào được in ra hàng ngàn thứ tiếng với hơn năm trăm triệu bản in và hơn hai tỷ cuốn sách như Tin Mừng Đức Giêsu.
Một thế giá khác hơn thế giá lịch sử, nó có giá trị tồn tại trong thời gian như lịch sử, mà còn vượt thời gian đến vô cùng, đó là thế giá nội dung của chính Tin Mừng. Thánh Luca đã tóm tắt nội dung của Tin Mừng vào mấy câu khởi đầu sau đây: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”.
Mấy câu mở đầu đó cho ta thấy rõ: Tin Mừng là của Thần khí, việc rao giảng Tin Mừng là do Thiên Chúa sai đi. Đó là thế giá tuyệt đối của Tin Mừng, không một giá trị nào của trần gian có thể sánh được. Dù bao nhiêu công trình vĩ đại của loài người cũng chỉ có giá trị tương đối, chúng luôn luôn bị thời gian xoi mòn, cuối cùng sẽ bị cạn kiệt, tiêu tan. Còn Tin Mừng của Thần khí: “Dù trời đất này qua đi, thì lời Ta, một chấm, một phẩy trong Tin Mừng cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt. 5, 18). Thần khí Chúa đã khởi đầu công trình sáng tạo thế nào, thì khởi đầu công trình Tin Mừng cứu chuộc còn kỳ diệu hơn thế nữa. Thần khí đã khởi đầu công cuộc nhập thể của Ngôi Hai xuống thế làm người, đã khởi đầu cuộc giảng đạo Đức Giêsu, khởi đầu công vụ Tông Đồ và muôn ngàn công cuộc của Hội Thánh, của các thánh nhân, những cuộc canh tân, cải thiện đời sống muôn dân về tinh thần cũng như thể chất.
Chính Thần khí của Đức Kitô đã báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, đói khát: hèn về địa vị, thấp mồm bé miệng trong xã hội; nghèo về đói khát của ăn tthể xác, nhất là đói Lời Hằng Sống và hèn do tội lỗi đè nén trên lương tâm, đang mong chờ Thần khí đến giải thoát khỏi bị giam cầm trong tối tăm áp bức, đưa về cùng Thiên Chúa là ánh sáng vinh quang của mình.
Đại văn hào Don. Dostoievski của Liên Xô, lúc sinh thời đã ghét đạo vì bao nhiêu áp bức tối tăm đã đè nặng trên tâm trí ông, khi tuổi đời đã xế bóng Thần khí của Tin Mừng đã giải thoát ông. Ông đã ăn năn sám hối và nói với vợ ông: “Tôi biết hôm nay tôi chết, hãy đốt nến sáng lên và đưa cho tôi một cuốn sách Tin Mừng”
Lạy Thần Khí Đức Kitô, xin hãy đốt nến sáng lên trong tâm hồn chúng con, không phải chỉ đến lúc hấp hối mà ngay bây giờ biết sốt sắng chiêm niệm Tin Mừng của Đức Giêsu trong Thần khí và Chân lý, cho chúng con được sống hạnh phúc trong tình thương bao la của Thiên Chúa. Amen.
Đoạn tin mừng vừa đọc trên đây, tóm gọn chương trình hoạt động của Chúa Giêsu trong ba năm truyền giáo của Ngài: đó là loan báo tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được xem thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức. Đọc xong đoạn sách tiên tri Isaia, Chúa Giêsu xếp sách lại nói với mọi người: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn sách thánh anh chị em vừa nghe”.
Và quả thực như vậy, trong ba năm truyền đạo, Chúa Giêsu đã biểu lộ tình thương yêu bao la của Thiên Chúa cho loài người, nhất là những người tàn tật, yếu đuối và tội lỗi, những người bị xã hội gạt ra ngoài lề.
Chúa Giêsu đã lấy máu đào trên thập giá, để giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, và bao tính mê tật xấu khác do dục vọng và lòng ích kỷ của con người sinh ra.
Là tín hữu của Chúa Giêsu, Giáo Hội ngày nay cũng tiếp tục sứ mạng loan báo tin mừng cho người nghèo khó, đang góp phần vào công cuộc giải thoát những người bị áp bức, những nạn nhân của chiến tranh…Tin mừng của Chúa Kitô, không phải chỉ nói với nhân loại ngày nay về sự giải thoát khỏi án phạt đời đời mai sau, nhưng còn góp phần thăng tiến cuộc sống cụ thể của con người. đạo Kitô không phải là thuốc phiện ru ngủ quần chúng cắn răng chấp nhận bất công xã hội, mang lại niềm hy vọng cho nhiều người đau khổ, nghèo đói.
Điển hình là những đóng góp đáng kể về sức người, sức của và tài năng của đồng bào Thiên Chúa giáo cho việc đổi mới đất nước của chúng ta hiện nay. Vào còn bao chiến sĩ phúc âm: điển hình như các nữ tu dòng Sainta Paul, dòng nữ tử Bác Ái…cùng bao chứng tá Kitô âm thầm khác theo gương Chúa Kitô đem nguồn vui đến cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ.
Một tín hữu công giáo cùng người bạn dạo chơi trong vườn hoa. Giữa mùa hoa, nên hoa nở thật đẹp. Người bạn hỏi tín đồ công giáo rằng: “Anh thường nói với tôi về Chúa Kitô; Vậy, Ngài với anh có liên hệ thế nào?” Tín đồ dừng bước hỉ vào một đóa hồng tươi thắm nói: mặt trời có liện hệ với hoa kia thế nào, thì Chúa Kitô cũng liên hệ với tôi như thế.
Người Kitô hữu phải là bằng chứng của Chúa Kitô, cũng như bông hồng là bằng chứng tác dụng của ánh sáng mặt trời.
Có hai đệ tử sau nhiều năm luyện tập, được sư phụ cho xuống núi để cứu nhân độ thế. Sau nhiều tháng đi khắp nơi giúp đỡ dân lành, họ trở về núi để tường trình lại cho sư phụ những việc họ đã thực hiện. Sau khi báo cáo, sư phụ thấy đệ tử A làm thật khá, nhưng đệ tử B còn khá hơn. Sự phụ cảm thấy rất hài lòng, liền nói: Hai con làm rất tốt. Ta sẽ ban thưởng cho hai con. Tuy nhiên đệ tử B lập nhiều công trạng hơn, để được công bằng, ta cho đệ tử A xin trước. Nếu đệ tử A xin một thì ta sẽ cho đệ tử B hai. Suy nghĩ giây lát, đệ tử A, trong lòng rất bất mãn, bèn nói: Xin sư phụ cho con chột một con mắt.
Trong câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy thái độ và hành động ghen tỵ của đệ tử A đối với đệ tử B cũng là thái độ và hành động ghen tỵ, thù hiềm của thính giả đối với Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay. Họ không bằng lòng đối với sự thành công của Chúa Giêsu. Đây là con ông Giuse thợ mộc, nghèo nàn. Tại sao ông ta nói hay như thế. Đối với nhà lãnh đạo tôn giáo thì họ cảm thấy bị đe doạ khi Chúa Giêsu giảng dạy hay. Chúa Giêsu được đưa lên cao, còn họ bị lép vế. Chiến thuật ghen tỵ của họ rất là đơn giản: Tìm cách hạ Chúa Giêsu xuống để họ được đưa lên cao. Thái độ ghen tỵ, hiềm thù của họ đã dẫn đến hành động đả phá. Họ dẫn đưa Người lên triền núi, để xô Người xuống vực thẳm.
Rút từ bài học Phúc Âm và nhìn vào cuộc sống của mỗi người chúng ta nói riêng và xã hội nói chung, chúng ta phải chân nhận rằng lòng ghen tỵ của con người len lỏi khắp nơi trong cuộc sống từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội.
Trong gia đình anh chị em ghen tỵ nhau khi cảm thấy rằng mình không được thương yêu hơn anh chị em khác trong gia đình. Nơi nhà trường học sinh này ghen tỵ học sinh khác trong khía cạnh học hành. Nơi xưởng thơ nhân công này cảm thấy không bằng lòng với nhân công khác trong vấn đề tiền lương.
Quả thật, sống trong xã hội ngày hôm nay, chúng ta thường dễ đem chính mình so sánh với người khác. Chúng ta so sánh quần áo, xe cộ, nhà cửa, công danh, sự nghiệp. So sánh để rút ra điều hay điều dở làm cho cuộc sống chính mình và người khác khá hơn là rất tốt. Tuy nhiên so sánh để rồi mang đến thái độ ghen tỵ, hiềm thù, đả phá, đè bẹp, gièm pha người khác vì người khác thành công hơn mình là điều không tốt. Con người ghen tỵ sẽ không tìm thấy chính mình và không có hạnh phúc vì họ luôn ao ước vài tìm kiếm nơi người khác điều mà không phải là của họ.
Ước gì mỗi người nhìn vào chính mình để làm sao chúng ta thay đổi con người cũ đầy ghen tỵ, hiềm thù để mặc lấy con người mới đầy yêu thương, bác ái của Chúa.
Không thể làm tiên tri mà không trải qua bách hại, khổ đau, thử thách. Đó là số phận chung của các tiên tri từ Cựu ước qua Tân ước. Những kẻ không được sai đi, tự lấy danh mình mà nói, đó là những tiên tri giả ; còn các tiên tri thật ý thức mình được Chúa sai đi và chỉ nói những gì Ngài muốn, một sứ mệnh như thế thường tạo ra nơi vị tiên tri một cuộc chiến nội tâm mãnh liệt. Môsê và Êlia đã trải qua khủng hoảng và ngay cả thất vọng khi phải trung thành với lời Chúa, Yêrêmia đã nhiều lần ca thán và có lúc chỉ muốn đào thoát. Đau khổ nhất cho các tiên tri là thấy lời nói của mình không được lắng nghe.
Chúa Giêsu không chỉ đến để làm cho lời các tiên tri được ứng nhiệm, Ngài cũng là vị tiên tri đúng nghĩa nhất. Nơi Ngài cũng có những đặc điểm của các tiên tri: đối đầu với những giá trị sẵn có, Ngài tỏ thái độ như các tiên tri: Ngài nghiêm khắc với những khóa Nước Trời không cho người khác vào. Ngài nổi giận trước sự giả hình của những người Biệt phái, Ngài đặt lại vấn đề tư cách là con cháu Tổ phụ Abraham mà người Do Thái vẫn tự hào, nhất là Ngài rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc sống của Ngài ; do đó, bị chống đối, bị bách hại là số phận tất yếu của Ngài.
Tin mừng hôm nay là lời tiên báo về sự chống đối và bách hại mà Chúa Giêsu sẽ trải qua. Sau một thời gian rao giảng và làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Thế nhưng, khi trờ về quê hương, Ngài chỉ nhận được sự hững hờ và khinh rẻ của người đồng hương mà thôi. Quả thật, như Ngài đã trích dẫn câu tục ngữ quen thuộc:’’không tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của mình’’, đó là định luật tâm lý mà chính Ngài cũng không thoát khỏi. Nhưng quê hương đối với Chúa Giêsu không chỉ là ngôi làng Nazarét nhỏ bé, mà sẽ là toàn cõi Palestine. Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà của Ngài đã không đón tiếp Ngài. Cái chết trên thập giá là tuyệt đỉnh sứ mệnh tiên tri của của Chúa Giêsu, là lời nói cuối cùng của Ngài như một vị tiên tri.
Là thân thể, là sự nối dàicủa Chúa Kitô, Giáo Hội cũng đang tiếp tục sứ mệnh tiên tri của Ngài trong trần thế, do đó, Giáo Hội không thoát khỏi số phận bị chống đối và bách hại. Một Giáo Hội không bị chống đối và bách hại là một Giáo Hội thỏa hiệp, nghĩa là đánh mất vai trò tiên tri của mình.
Nhờ phép rửa, người kitô hữu cũng được tham dự vào sứ mệnh tiên tri của Chúa Kitô; bằng lời nói, và nhất là chứng tá cuộc sống, chúng ta thực thi vai trò tiên tri của mình trong xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta được Thánh Thần xức dầu và sai vào trần thế. Ước gì chúng ta luôn kiên trì rao giảng Tin mừng của Chúa dù gặp thời thuận tiện hay không thuận tiên, vì biết rằng mình đang sống ơn gọi tiên tri.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Tin Mừng Luca cho thấy Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, Ngài trở về Galilê, và tiếng tăm Ngài được đồn ra khắp vùng. Ngài bắt đầu giảng dạy trong các hội đường của người Do Thái, cụ thể ở hội đường làng Nadarét.
Thánh Thần Chúa ngự trên tôi
Đức Giêsu luôn sống dưới tác động của Thánh Thần. Ngài làm tất cả dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần, cụ thể Ngài đi chịu phép rửa tại sông Yordan, Ngài vào hoang địa ăn chay cầu nguyện, và hôm này Ngài ra đi rao giảng. Dưới tác động của Thánh Thần, Đức Giêsu là người mang tin mừng cho người có tinh thần nghèo, loan báo tự do cho kẻ bị tù đầy, cho người mù được sáng, cho người áp bức được giải thoát, và năm hồng ân của Thiên Chúa cho mọi người.
Thánh Thần ở trong Hội Thánh như hồn ở trong thân xác. Trong Hội Thánh có nhiều chức vụ, nhưng tất cả đều do Thánh Thần ban tặng và tác động: người làm đầu người làm mắt người làm chân tay. Tất cả đều thuộc về Hội Thánh, và không thể thiếu một chức vụ nào, cũng như một thân xác không thể thiếu một bộ phận nào. Không một bộ phận nào trong thân thể bị thiếu mà lại không ảnh hưởng đến bộ phận khác và toàn thân thể, cũng tương tự vậy những chức vụ trong Hội Thánh.
Ước gì mỗi người đều ý thức Thánh Thần luôn gần gũi, luôn ở với, và luôn hướng dẫn mình cùng Hội Thánh trong mọi hành động.
Đức Giêsu- Tin Mừng
Thiên Chúa chúc lành cho con người, làm tất cả cho con người qua Đức Giêsu.
Có ai hiểu được những người bị tù đầy mong được ngày ra khỏi tù như thế nào? “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”: một ngày trong tù, lâu như thể ngàn năm ở ngoài. Ở đây người ta nói tới thời gian tâm lý, và qua đó diễn tả mong ước ngày được tự do đến độ nào! Đức Giêsu là người công bố ơn đại xá, được miễn án và ra khỏi tù. Nếu ai hiểu được người mù cực khổ như thế nào, và người mù mong được sáng đến độ nào, sẽ dễ dàng hiểu câu “Đức Giêsu là người làm cho người mù được sáng” có nghĩa gì với người mù. Những người bị áp bức hà hiếp, cực khổ như thế nào, mong được minh oan và được giải thoát đến độ nào! Đức Giêsu là người giải phóng họ.
Người ta có thể bị tù đày nô lệ trong không gian như bị giam cầm trong một nơi chốn nào đó, nhưng người ta cũng có thể bị giam hãm trong một cái nhìn nào đó, có thể bị nô lệ với một thành kiến mà người ta không biết. Đức Giêsu tới, cho người ta nhận ra giá trị chân thực, giúp con người biết tiêu chuẩn chân thực để phán đoán. “Chân lý” giải phóng con người khỏi nô lệ, làm người bị u mê nhận ra sự thật và nhờ đó được tự do.
Tin Mừng cho người nghèo
Tin Mừng Đức Giêsu, không phải mọi người đều nhận ra. Những người Do Thái không nhận ra, nên muốn giết Đức Giêsu. Để nhận ra Đức Giêsu là Tin Mừng, cần phải có con mắt của người nghèo, người thấy mình “còn thiếu”, người thấy mình cần được soi sáng, người sẵn sàng và luôn ngóng chờ Thiên Chúa nói với mình.
Những người tự mãn, tự cho mình đã đủ không còn thiếu gì nữa, rất khó đón nhận Tin Mừng Đức Giêsu. Những người này có thể là những người cho rằng mình đã đạo đức đủ, không nhận ra mình yếu đuối tội lỗi cần Thiên Chúa thương xót và trợ giúp. Họ cũng có thể là những người cho mình có học, không sẵn sàng đón nhận mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu với cuộc sống “bình thường”. Cũng có thể họ là những người giầu, và Đức Giêsu không thêm gì cho họ: Ngài không làm cho họ giầu hơn hoặc danh tiếng hơn hoặc có địa vị cao hơn.
“Phúc cho người có tinh thần nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của họ” (Mt.5, 3). Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, người giầu cũng như người nghèo. Người giầu có nhiều thứ và nhiều bận tâm, nên không còn chỗ và không sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa không yêu thương họ. “Nghèo” như thái độ, là mối phúc thật sự.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
ÐỨC GIÊSU RAO GIẢNG TIN MỪNG TRONG NGUYỆN ĐƯỜNG Ở NADARÉT
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa – của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Trọng tâm của bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe cũng là đề tài chính của toàn thể Lời Chúa hôm nay: chúng ta thấy Ðức Giêsu đứng công bố Tin Mừng trong nguyện đường ở Nadarét. Như vậy, câu chuyện Ezra đứng đọc luật pháp Môsê ở trước mặt con cái Israen như bài đọc I hôm nay kể lại, chỉ là hình ảnh báo trước việc Chúa Kitô sẽ rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Và như thế sinh hoạt của Hội Thánh hiện nay như thư Côrintô kể, cũng chỉ là hiệu quả của việc công bố Tin Mừng này. Chúng ta hãy suy nghĩ về cả ba bài đọc để hiểu rõ Lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta những gì chung quanh việc công bố Tin Mừng.
Bài sách Nêhêmya đưa chúng ta trở về thời sau lưu đày trong lịch sử Israen, vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước Ðức Giêsu giáng sinh… Nhà cầm quyền Ba Tư bấy giờ cho phép các dân bị trị được phục hồi các truyền thống của dân tộc mình. Con cái Israen được khuyến khích bỏ đất Babylon để trở về quên quán. Họ dựng lại đền thờ và tái thiết Giêrusalem. Công việc gặp nhiều khó khăn.
Trước hết phần lớn những người Do Thái làm ăn được ở đất khách, không muốn trở về. Những người yêu nước và tha thiết với quê cha đất tổ, muốn trở về nhưng lại ít phương tiện. Rồi về đến nơi, họ lại gặp thái độ thù địch của dân đã đến sinh sống tại Giêrusalem trong thời gian lưu đày. Do đó việc trùng tu thánh điện tiến hành rất chậm. May có Ezra và Nêhêmya.
Hai người có uy tín với triều đình Ba Tư. Ezra là tư tế. Nhưng ở đất lưu đày không có nơi phụng thờ Giavê, ông đã chuyên khảo và suy niệm luật pháp Môsê. Ðang khi ấy Nêhêmya được giữ chức tiến rượu trong đền Vua, nhưng lòng vẫn hướng về Giêrusalem. Khi được tin công việc phục hưng xứ sở gặp nhiều khó khăn, ông đã xin phép hồi hương và được nhà vua phong làm Tổng đốc Giêrusalem. Nhờ sắc phong này ông đã giúp đồng bào xây dựng lại được tường thành để có thể sống yên ổn đối với dân đã đến lập cư tại Giêrusalem trong thời gian lưu đày. Nhưng thành quách chỉ là giới hạn bên ngoài. Muốn củng cố tinh thần của đồng bào ông và xây dựng lại cộng đồng con cái Israen, cần phải có luật pháp. Và đây là phần đóng góp của Ezra.
Bài đọc I hôm nay giới thiệu ông trong vai trò luật sĩ hơn là tư tế. Và rõ ràng con cái Israen đã cử hành phụng vụ Lời Chúa chứ không phải là phụng vụ tế lễ.
Ðó là đặc điểm của Do Thái giáo sau lưu đày. Toàn dân tập họp lại đủ mọi thành phần già trẻ, trai gái. Và trăm người như một. Tất cả đều chăm chú nhìn vào thầy Ezra đang “kiệu” sách Luật lên đứng trên một bục gỗ cao, kê quay xuống quần chúng… chung quanh thầy có các phụ tế, tăng thêm vẻ trang trọng cho việc công bố Lời Chúa sắp cử hành. Thầy Ezra bắt đầu bằng mấy lời chúc tụng danh Chúa. Cộng đoàn sốt sắng đáp lại bằng những chữ “Amen, Amen”, kèm theo lễ nghi phủ phục thờ lạy. Rồi Thầy Ezra bắt đầu đọc Lời Chúa trong sách Luật. Thầy đọc dễ dàng, trang trọng. Nhưng sách viết bằng chữ Hipri. Rất nhiều người trong dân chúng không hiểu thứ tiếng ấy một cách dễ dàng nữa. Ít ra họ cũng thấy có nhiều điều khó hiểu khiến Nêhêmya và các phụ tế phải giúp thầy Ezra giải nghĩa cho dân. Càng nghe con cái Israen càng bùi ngùi xót xa. Họ thấy Chúa thương dân đến như vậy mà cha ông họ đã không nghe tiếng Người. họ thấm thía những hình phạt mà Người đã buộc lòng phải gửi đến. Nước mắt họ trào ra… Cả Nêhêmya và Ezra phải vội vàng tuyên bố: Hôm nay là ngày thánh, không được khóc như vậy… Ðúng hơn phải biến những giọt lệ xót xa vì tội lỗi nên niềm tin và ơn Chúa cứu độ. Nên hãy ăn uống và chia phần cho mọi kẻ đang túng thiếu.
Rõ ràng buổi phụng vụ Lời Chúa theo sách Nêhêmya chúng ta vừa đọc có những nét rất gần với nghi thức công bố Lời Chúa trong các buổi phụng vụ của chúng ta ngày nay. Ðó là khởi nguyên để chúng ta hoàn thành. Chúng ta nhất định phải làm tốt hơn con cái Israen ngày xưa. Họ đã tập họp đầy đủ, các thành phần già trẻ, trai gái. Gia đình chúng ta có thể làm được như vậy chứ! Họ đã nghiêm chỉnh, chăm chú nhìn vào người đọc và lắng nghe Lời Chúa. Họ lại chẳng chịu để lời nào nghe mà không hiểu, nhưng đã đòi được giải thích. Chúng ta có làm như vậy không? Nhất là họ để cho Lời Chúa, lương tâm khiến họ có thái độ thống hối ăn năn và quyết tâm sửa mình. Chúng ta cũng cần biến việc đọc và nghe Lời Chúa nên như cơ hội để thực hiện mầu nhiệm tử nạn phục sinh hầu tìm thấy ơn cứu độ của Chúa trong việc đọc và nghe Lời sách thánh.
Ước gì Lời Chúa từ nay trở thành sức mạnh tập họp và thánh hóa gia đình chúng ta và giáo xứ chúng ta. Có như vậy chúng ta mới hơn được con cái Israen ngày xưa.
Tuy nhiên chúng ta phải dành cho việc công bố Lời Chúa trong nhà thờ một địa vị quan trọng hơn. Và cho được như thế chúng ta hãy xem bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Ðức Giêsu rao giảng Tin Mừng trong nguyện đường ở Nadarét.
Chúng ta hãy tạm không nói đến những lời đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay. Ðó cũng là những lời mở đầu của sách Tin Mừng theo thánh Luca. Rồi đây, chúng ta sẽ thấy rất ý nghĩa. Nhưng chúng ta hãy nhìn thẳng vào trọng tâm của bài Tin Mừng này.
Luca tóm tắt cho chúng ta thấy, Ðức Giêsu bấy giờ đầy Thánh Thần. Người ra khỏi sa mạc hẻo lánh sau 40 ngày đêm chay tịnh. Người trở về Galilê. Chắc chắn đi đến đâu Người cũng rao giảng Tin Mừng và chữa nhiều bệnh tật. Thế nên tiếng tăm Người đã đồn ra khắp nơi. Người ta đã nhiều lần hoan hô Người khi Người lên tiếng giảng dạy trong các hội đường. Vậy, Người đến Nadarét nơi Người sinh trưởng. Và theo tục lệ, người ta trao sách Thánh cho Người đọc… Người mở ra gặp trúng đoạn Isaia nói về người tôi tớ. Ðọc xong, Người gấp sách lại. Và trước mắt của trăm người như một đang hướng về Người. Người đã khởi sự giải thích Lời Chúa bằng những lời dễ dàng sau đây: “Lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe đọc, nay đang diễn ra”.
Là vì người Tôi Tớ mà Thiên Chúa đã xức dầu Thánh Thần trong sách Isaia, không ai khác chính Người đang nói trước cử tọa trong nguyện đường ở Nadarét. Có lẽ khi viết những lời này, tác giả Isaia chỉ muốn chép quan niệm của các tiên tri về ơn gọi và sứ mạng của những người được Thiên Chúa cử làm ngôn sứ cho Người. Hết mọi người được trao phó sứ mạng rao truyền Lời Chúa đều được Người đổ Thần Linh của Người trong nghi lễ xức dầu mà sách các Vua I còn kể lại (19,16). Và sứ điệp mà họ phải tuyên bố chính là tin mừng cứu độ dành cho người khó nghèo, tù đày, để mọi nơi như được hân hoan cử hành những năm hồng ân đại xá mà nhân dân hằng mong ước. Những lời Isaia ấy hợp cho mọi ơn gọi ngôn sứ. Nhưng chắc chắn phải được dành riêng để nói về Người Tôi Tớ Ðức Giavê, một nhân vật mầu nhiệm trong sách Isaia mà chắc chắn chính là hình ảnh về Ðức Giêsu Kitô cứu thế.
Quả thật, ai đã được xức dầu Thánh Thần rõ ràng và dồi dào phong phú như chính Người sau khi chịu phép rửa ở sông Hòa Giang? Và vị tiên tri nào đã giảng dạy mà gây được niềm vui cứu độ như Người đã làm khi bỏ sa mạc trở về Galiêa? Nhiều bệnh nhân đã khỏi. Có những kẻ mù được trông thấy. Con người khó nghèo, tù đàuytrong cảnh lầm than không đang được giải thoát đó sao? Và khắp nơi đang nổi lên bầu khí hân hoan của những năm hồng ân đại xá. Ðức Giêsu thật có lý để tuyên bố: những lời tiên tri đang được thực hiện… và được thực hiện nhờ Người, do Người. Và người ta phải công nhận như vậy.
Có điều người ta chưa nhận ra đủ là Ðức Giêsu còn muốn đồng hóa mình với Người Tôi Tớ của Thiên Chúa mà Isaia muốn nói đến trong đoạn tiên tri này. Người không phải chỉ là tiên tri nhưng còn hơn tiên tri. Người đến không phải để chỉ công bố năm hồng ân, nhưng còn để thực hiện ơn cứu độ. Bà con thân thuộc của Người ở Nadarét chưa nhận ra điều ấy và sẽ không chấp nhận như chúng ta sẽ thấy trong ngày Chúa nhật sau. Họ không bằng lòng khi vừa nghe Người khẳng định Người là Ðấng Thiên Chúa sai đến vì trong thâm tâm, họ chỉ chờ được hưởng thụ những phép lạ mà Isaia đã loan báo và nghe rằng Người đã làm ở những nơi khác.
Luca viết đoạn Tin Mừng này không nhằm vào chúng ta đó sao? Lòng tin của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô dường như chưa thật vững chắc vì âm thầm có lẽ chúng ta cũng đang tiếc xót việc người không làm nhiều phép lạ ở giữa chúng ta. Người đã làm ở đất thánh ngày xưa, cho những người thời bấy giờ. Còn ngày nay đối với chúng ta, dường như Người không làm gì cả nhưng chỉ đòi chúng ta tuyên xưng Người là Ðấng Thiên Chúa xức dầu và sai đến…
Chính vì vậy Luca đã viết đoạn Tin Mừng này. Người viết cả quyển Tin Mừng thứ ba để, như trong lời mở đầu, chúng ta được am tường rằng giáo huấn chúng ta thụ lĩnh thực là đích xác. Và cho được như vậy Luca đã phải truy tầm gốc ngọn về mọi sự một cách tường tận rồi theo thứ tự đầu đuôi mà viết lại theo như các kẻ từ đầu đã được chứng kiến và phục vụ Lời Chúa đã truyền lại. Luca đã muốn cho tác phẩm của Người có giá trị đích xác để giúp chúng ta tin.
Nhưng thiết tưởng Người cũng đã làm gương để những ai muốn tin Chúa Giêsu Kitô cũng phải đào sâu giáo lý đã thụ lãnh. Không có sự truy tầm và suy niệm này, đức tin sẽ không chắc chắn và đích xác. Chúa Giêsu Kitô sẽ không rõ rệt ở trước mắt chúng ta. Người sẽ trở thành một nhân vật thuộc quá khứ hơn là hiện tại. Chúng ta sẽ thấy Người sống với dân Do Thái hơn là sống với chúng ta. Là vì chúng ta không thấy lời tiên tri đang thực hiện ở giữa chúng ta. Chúng ta đọc Kinh Thánh như những sự việc đã xảy ra mà đồng thời không thấy chúng diễn tả mầu nhiệm Ðức Kitô đang muốn ban ơn cứu độ cho mọi người. Nghĩa là không những chúng ta phải biết cử hành phụng vụ Lời Chúa như bài đọc I hôm nay đã cho chúng ta thấy. Nhưng chúng ta còn phải biết cử hành mầu nhiệm Ðức Kitô để Lời Chúa trở nên bánh nuôi tinh thần nữa. Và chúng ta chỉ làm được công việc này nhờ Hội Thánh và trong Hội Thánh vì chỉ ở đây mới có phụng vụ Lời Chúa. Nhưng phải làm thế nào để có thể ở trong Hội Thánh?
Bài thư Phaolô hôm nay viết về Hội Thánh một cách đơn sơ nhưng không kém phần sâu xa, và nhất là có giá trị rất thực tiễn. Tất cả chúng ta ở trong Chúa Giêsu như các chi thể khác nhau ở trong cùng một thân thể. Thế thì cũng như các chi thể của một thân thể không phủ nhận và từ chối nhau, thì chúng ta cũng phải chấp nhận và mật thiết kết hợp với nhau ở trong Chúa Giêsu. Các phận vụ ở trong Hội Thánh rất khác nhau, vì Người được ơn gọi làm tông đồ, kẻ được Chúa gọi làm tiên tri… nhưng đó là để ai theo phận nấy mà làm bộ phận cho thân thể. Không do một thân thể con người? Chẳng bao giờ mắt muốn mọi bộ phận khác trong con người phải như mình… vì như vậy chỉ có ngàn mắt mà không có thân thể.
Cũng thế muốn có thân thể mầu nhiệm của Ðức Kitô, mỗi người phải chấp nhận cho người khác đóng vai trò của họ và hơn nữa phải biết đau với bộ phận đau, vinh dự với bộ phận cinh dự. Nói cách khác, theo kiểu so sánh này, muốn thấy Chúa Giêsu Kitô còn tiếp tục hoạt động trong Hội Thánh để chúng ta được kết hợp với Người, ai ai cũng phải tôn trọng người khác và liên kết cộng tá với họ như các bộ phận trong một thân thể.
Hơn nữa, như lời Phaolô ám chỉ trong bài thư hôm nay mọi người phải chiếu cố hơn đến những bộ phận được coi như yếu hơn và không trang nhã mấy.
Ðó chẳng phải là thái độ và sứ mệnh của chính Ðức Kitô sao? Người được sai đến như người tôi tớ được xức dầu Thánh Thần để đem Tin Mừng đến cho người nghèo khó, kẻ tù đày… Bài Tin Mừng Luca đã cho chúng ta thấy rõ Người đến thực hiện mọi lời Tiên Tri. Người thật là vị được tuyển chọn để công bố lời cứu độ mà Ezra xưa chỉ là hình bóng xa xôi. Người còn tiếp tục sứ mạng ấy trong Hội Thánh là thân thể có đầy đủ mọi bộ phận khác nhau nhưng bổ túc cho nhau. Chính khi kết hiệp với nhau mà các phần tử trong Hội Thánh thấy mình đang được thần trí của Chúa Giêsu Kitô làm cho sống động và mới thấy Người dang sống động trong Hội Thánh.
Thế nên chúng ta họp nhau lại để nghe Lời Chúa như con cái Israen xưa, thì chưa đủ. Chúng ta cùng nhau tham dự vào Mình Máu Chúa Giêsu để kết hợp với Người, như Người đã ở giữa cử tọa hội đường Nadarét xưa cũng chưa đủ. Nhận lãnh thần trí của Người rồi, chúng ta còn phải tôn trọng và muốn hợp tác với anh em, trong các công việc chung nữa, thì mới hiện đại hóa mầu nhiệm Chúa Giêsu đang cứu độ và cứu thế.
MINH HỌA LỜI CHÚA – Nguyễn Hiếu
Một trong những dung mạo Chúa Giêsu cổ nhất là của tổng trấn xứ Duđêa phát họa năm thứ 32.
Lúc đó có một người tên là Giêsu Kitô được coi như là tiên tri, có sức mạnh phi thường, cao lớn, vóc dáng thanh lịch điềm đạm, mái tóc phủ dài xuống đôi vai. Vàng trán ông cao, nghiêm nghị, đôi má không một vết nhăn, moi miệng cân đối hiền hòa, râu dài chẻ ra ở giữa, mắt tươi sáng dịu dàng. Theo nhiều học giả, bức chân dung này được mang về Vatican vào khoảng thế kỷ thứ 19.
Trong các sách Tin mừng, chúng ta có tất cả thông tin về cuộc sống Chúa Giêsu, nhưng không thấy một chân dung nào của Người. Tại sao? Vì Thiên Chúa muốn chúng ta ý thức: Những việc Chúa Giêsu làm quan trọng hơn là những đường nét trong con người của Người.
*****
Mục đích và lý tưởng của Kitô hữu chúng ta là được nên đồng hành với Chúa Giêsu. Các tác giả sách Tin mừng không mô tả cho chúng ta biết Chúa Giêsu giống ai, vì ngoại diện của Người không quan trọng, không đáng chúng ta quan tâm. Điều quan trọng để chúng ta đồng hành với Người là thi hành việc Người làm. Người làm gì? Tin mừng hôm nay trả lời cho chúng ta:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa xức dần tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho con người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc.4,18-19).
Nét nổi bật nhất trong con người Chúa Giêsu là sự “cảm thông”. Người luôn tìm đến những kẻ bị xã hội và mọi người ruồng bỏ, Người đau khổ với niềm đau của con người. Người đến với những người mà không ai muốn đến. Người cứu giúp những kẻ bị gạt ra bên lề. Người là hiện thân của tình yêu. Giống Người là đi vào tình yêu của Người. Mỗi cử chỉ yêu thương của chúng ta là một đắp bồi cho dung mạo Chúa Giêsu. Cả cuộc sống bác ái của chúng ta là họa lại dung mạo Chúa Giêsu trong cuộc đời chúng ta. (Theo “Chờ đợi Chúa”).
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dần tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha… Công bố năm hồng ân của Chúa” (Lc.4,18-19).
Sau khi tuyên thệ nhậm chức, các tổng thống Mỹ đua ra lời phát biểu đầu tiên. Bài phát biểu thường cho thấy sự hiểu biết sâu sắc về những gì người ta chờ đợi nơi họ.
Tin mừng hôm nay cũng giống như một bài phát biểu. Chúa Giêsu được Chúa Cha chọn vào sứ vụ của Đấng Mêsia. Ngài bắt đầu sứ vụ bằng cách đứng giữa công chúng và nói cho ta biết điều ta chờ đơi nơi Ngài trong sứ mệnh cứu thế.
Điều gì làm tôi ngạc nhiên, ít là về những gì Chúa Giêsu đã nói trong sứ điệp khai mạc của Người? Tại sao?
“Tôi biết rõ con người, và tôi nói với các bạn rằng: Chúa Giêsu Kitô không phải là một con người” (Napoléon Bonaparte) (Trích “Viễn tượng 2000”).
Tại California bên Hoa Kỳ có một người ăn xin được nhiều người biết là ông En-đi-va-gát 70 tuổi. Ngày ngày ông đi nhặt những chiếc lông nhung. Ông không phải là kẻ ăn xin tầm thường, mà là người ăn xin triệu phú. Ông được trúng số độc đắc, thế là từ một người ăn xin nghèo khó nay trở thành triệu phú.
Nhưng ông không quên nguồn gốc của ông. Và vì đó mà ông rất thương yêu những người đồng cảnh ngộ. Sở dĩ ông tiếp tục ăn xin là để gần gũi những người nghèo khổ bất hạnh để ông giúp đỡ. Tiền xin được ông đem giúp trẻ em nghèo được tiếp tục đến trường, các sinh viên theo đuổi việc học. Ngay lúc trúng số, ông đã biếu ngay 20 ngàn mỹ kim vào quỹ học bổng.
Ông là một triệu phú đích thực. Ông giàu không phải vì trúng số mà giàu vì tấm lòng vàng.
———
Nét đẹp của câu chuyện trên đây là người triệu phú lại chấp nhận ăn xin cho người nghèo. Cũng như trong Tin mừng hôm nay, Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong nghĩa là được phong vương lại được sai đi để chăm lo cho những người nghèo khó, tù đày, đui mù, bị áp bức…
Chính nét đẹp đó cũng đòi hỏi nơi người Kitô hữu chúng ta “đem Tin mừng cho người nghèo khó”.
Thế giới mỗi ngày vẫn có đến 40 ngàn trẻ em chết vì đói. Có lẽ nhân loại chúng ta không chết đói vì thiếu lương thực cho bằng vì thiếu tình thương.
Con người cần cơm bánh để sống, nhưng con người cũng cần tình thương để tồn tại. Kẻ đón nhận tình thương cũng được sống mà người san sẻ tình thương cũng được sống, vì ai sống trong tình yêu người ấy sống trong Thiên Chúa. (Trích “Tất cả là hồng ân”).
Truyện cổ Trung Hoa kể lại: Hai nước kia định giao chiến với nhau. Quân đội đôi bên đã đặt trong tình thế ứng chiến. Cả hai nước đều cho người đi trinh thám để tìm địa điểm tấn công thuận lợi nhất. Thế là chiến tranh xem ra không thể tránh.
Sau một thời gian quan sát kỹ lưỡng, đội trinh sát đôi bên đều về trình lên thượng cấp:
“Có một địa điểm nằm trên khu vực thuận lợi cho cuộc tấn công. Nhưng ngay tại địa điểm đó có một gia đình sinh sống, gồm hai vợ chồng và đàn con thơ đang sống đầm ấm hạnh phúc trong một mái nhà tranh xiêu vẹo. Chúng tôi đã tìm cách tiếp xúc với gia đình này. Họ là những người rất chân chất làm ăn và rất hiếu khách. Họ tha thiết được sống yên ổn trong mái chòi tranh nhỏ bé của họ. Nếu chúng ta tấn công vào đất địch, buộc lòng chúng ta phải tiêu hủy căn nhà của họ và sát hại chính họ nữa; như thế là chúng ta cướp mất hạnh phúc của họ. Chúng ta nghĩ rằng cuộc tấn công không thể diễn ra được”. Nghe xong báo cáo, bộ tổng tham mưu hai nước đều thấy hợp lý, nên chiến tranh đã không xảy ra.
*****
Chỉ vì hạnh phúc của một gia đình mà chiến tranh đã không diễn ra giữa hai nước. Nếu ai hành động vì hạnh phúc của người khác, nhất là những người bé nhỏ bất hạnh thì chiến tranh đã không xảy ra giữa người với người. Tận trong thẳm sâu của tâm hồn, ai cũng khao khát hạnh phúc, ai cũng muốn người khác mang lại cho mình hạnh phúc, nhưng người ta quên rằng: Hạnh phúc chỉ đến với chúng ta khi chúng ta biết tạo hạnh phúc cho người khác.
Trong Tin mừng hôm nay, chúng ta được Thiên Chúa sai Con Một của Người là Đức Giêsu đến đem hạnh phúc cho ta, nhất là cho những “kẻ nghèo hèn, kẻ bị giam cầm, người mù, người bị áp bức!!!” Còn chúng ta, chúng ta có biết đem hạnh phúc niềm vui cho anh chị em chúng ta không? Chúng ta có chia sẻ niềm vui Chúa ban cho đồng bào đồng loại chúng ta chăng? Hay chúng ta ích kỷ giữ riêng cho chúng ta?
Trong cái nhìn của đức tin, tất cả những gì chúng ta có đều là quà tặng nhưng không (free) của Chúa, tất cả những gì chúng ta làm được cho đến đức tin đều phát xuất từ lòng quảng đại của Thiên Chúa. Chính vì nhận lãnh nhưng không (free) mà chúng ta cũng được mời gọi để trao ban nhưng không(free). Nếu chúng ta biết trao ban những gì Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta thì chắc chắn chúng ta sẽ được hạnh phúc, như Lời Người hứa; “Các con cho bằng đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy, và đã dằn đã lắc…” (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập IV).
Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần tấn phong để loan báo Tin mừng cho chúng ta.
Chúng ta cần phải nghe Lời Chúa bằng ba cách: bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của tâm hồn.
Nghe Lời Chúa bằng lỗ tai tâm trí là gì? Đó là cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, làm cho lời đó sống động như chúng ta đang nghe chính Chúa nói với chúng ta.
Thánh Inhatiô Loyola thường nghe Lời Chúa bằng cách này. Ngài nhắm mắt lại và tưởng tưởng như mình đang ở trong hội đường Do thái xưa nghe chính Chúa nói.
Lắng nghe Lời Chúa bằng lỗ tai của trái tim là ghi tạc Lời Chúa vào trái tim, và cố gắng áp dụng lời đó vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống chúng ta như Charlic Pitts. Ông là chủ công ty xây dựng ở Toronto, Canađa. Ông càng làm ăn phát đạt thì cá nhân và gia đình ông càng bê bối sa đọa. Ông phải cầu cứu tới việc đọc Kinh Thánh. Tình cờ ông đọc thấy: “Kẻ nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân thì nào có ích lợi gì” (Lc.9,25). Ông ghi khắc lời đó vào trái tim và suy nghĩ xem phải áp dụng lời đó vào hoàn cảnh của ông thế nào.
Và nghe Lời Chúa bằng lỗ tai tâm hồn là xin Chúa hướng dẫn phải làm gì theo Lời Chúa, như Charlie Pitts làm sau đây. Sau khi cầu nguyện, ông bàn luận với vợ con rồi bán công ty, lấy tiền mua một khách sạn, lợi tức của việc kinh doanh này ông dùng để giúp công cuộc truyền giáo.
Bởi thế, mỗi khi sắp nghe Linh mục đọc Tin mừng trong Thánh lễ, mỗi người Kitô hữu chúng ta làm dấu thánh giá trên trán, trên miệng và trên ngực: làm dấu thánh giá trên trán có ý xin cho chúng ta hiểu được Lời Chúa; làm dấu thánh giá trên miệng để xin cho chúng ta biết nói Lời Chúa cho kẻ khác; làm dấu thánh giá trên ngực có ý xin Chúa cho chúng ta biết mến mộ Lời Chúa.
Như thế việc nghe Lời Chúa mới đem lại lợi ích cho chúng ta, gia đình chúng ta và tha nhân. (Theo “Sunday Homilies”).
Chúa Nhật 3 Thường Niên (Cha Phong, FB)
NĂM HỒNG ÂN CỦA CHÚA
* LỜI CHÚA: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4,18-19)
* CHIA SẺ:
Có thể nói, cuộc sống luôn là một sự biến chuyển không ngừng. Có những sự kiện, biến cố xảy ra, đem lại niềm vui hạnh phúc cho nhiều người; nhưng cũng có những sự kiện, biến cố xảy ra làm cho cả thế giới phải lo âu, sợ sệt.
Ngày 29 tháng 6 năm 2014, những người Hồi giáo cực đoan đã thành lập nên nhà nước Hồi giáo tự xưng tại vùng đất Irắc, từ đó, họ đặt ra những luật lệ khắc nghiệt, tàn độc, họ tiến hành các cuộc đánh bom liều chết, những vụ khủng bố kinh hoàng khắp nơi trên thế giới … làm cho tình hình thế giới trở nên rối ren, sự hận thù lên đến đỉnh điểm.
Ngày 13 tháng 3 năm 2013 Khi Đức Thánh Cha Phanxicô được chọn làm giáo hoàng của giáo hội hòan vũ, với một con người gốc Á Căn Đình, có lẽ thế giới đang còn tranh luận tại sao Đức Bênêdictô 16 lại từ chức. Do Chúa muốn, từ đó đến giờ Đức Phanxicô đã mang lại cho giáo hội nhiều điều thay đổi, nhiều luồng gió mới của Chúa Thánh Thần hoạt động. Năm vừa qua tháng 9 đã đến đất nước Hoa Kỳ, có bài tại Hội đồng liên hiệp quốc, tại thủ đô của hoa kỳ, và nhất là có sự khuyến khích cho các gia đình nhân đại hội gia đình thế giới tại Philadelphia. Nhưng tháng 11 vừa qua 2015, ngài đến Trung Phi thật như một phép lạ, vì an ninh không bảo đảm và ba quốc gia rất nghèo, chính ngài đã mở cửa năm thánh lòng thương xót Chúa tại đây cho toàn khối trung phi để Chúa Thương xót an ủi họ. Đây là sinh khí của Chúa Thánh Thần rất mạnh cho giáo hội chúng ta, trong thời đại này.
Cách đây hơn 2000 năm, một con người đã đem đến cho nhân loại sự bình an, tình yêu và hạnh phúc tràn ngập – đó là Chúa Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Ngài đến để cho con người được sống và sống đời đời. “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.”
Chỉ có Chúa Giêsu Kitô mới đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc.
Chỉ có Chúa Giêsu Kitô mới đem lại cho con người sự sống đời đời.
Chỉ có những ai tin vào Chúa Giêsu, yêu mến Chúa Giêsu, tín thác vào Chúa Giêsu, những người đó mới được hưởng sự bình an và tình yêu viên mãn.
Một khi con người càng loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình, con người chỉ nhận lãnh sự đau thương và chết chóc.
Một khi con người càng loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình, chiến tranh, hận thù, khủng bố càng ngày càng gia tăng.
Chỉ có tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa mới xóa đi sự hận thù, chia rẽ, chiến tranh đang tràn lan khắp nơi trên thế giới này.
* CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa! Xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Amen.
“Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin mừng cho người nghèo khó” (Lc 1, 18-19). Nhưng ai là người nghèo trước mặt Thiên Chúa?
Trang Website “Một Góc Trời” có mục “100 bức ảnh làm thay đổi thế giới”. Có 2 bức ảnh làm tôi xúc động đến ngậm ngùi. Bức ảnh thứ nhất đăng hình một bàn tay bé nhỏ, gân gốc, đen đủi, xấu xí của một người Uganda (mà tôi đoán là bàn tay của một bà lão) đưa ra và đặt lên một bàn tay trắng trẻo, mập tròn của một nhân viên cứu trợ đến làm việc ở đất nước này. Một hình ảnh thật xúc động làm sao! Bức ảnh đó làm tôi suy nghĩ đến thân phận của con người trước Thiên Chúa. Thiên Chúa đã giơ tay ra nâng đỡ bàn tay đen đủi và khẳng khiu của con người.
Bức ảnh thứ hai chụp hình một đức bé khoảng 5 tuổi ở, trần truồng, ốm yếu ở Xuđăng (chỉ còn da bọc xương), đang đói lả nhưng vẫn cố bò về phía trại phân phát lương thực của Liên Hợp Quốc, cách đó khoảng 1km. Phía sau em là một con chim Kên Kên đang chờ đứa trẻ bị chết để nó có thể ăn thịt. Bức ảnh đã làm cho cả thế giới bàng hoàng. Không ai biết điều gì xảy ra với em bé, kể cả nhà nhiếp ảnh Kevin Carter, người đã rời ngay khỏi hiện trường sau khi chụp. Người ta cũng nói rằng ba tháng sau, Kevin đã tự sát.
Hai hình ảnh vừa kể cho chúng ta thấy rõ thực tế rất đáng buồn trên thế giới ngày nay là tình trạng nghèo khổ của hơn 1 tỷ người không có thức ăn hàng ngày, đặc biệt là ở các nước Châu Phi, chiến tranh và thiên tai nặng nề. Cái nghèo đói về mặt thân xác đã làm cho con người ta khổ đau đến thế. Người nghèo được Chúa Giêsu giải thích còn là những kẻ bị giam cầm, người mù, người bị áp bức… họ đang mong được thoát khỏi tình trạng ấy. Cho nên, Tin mừng của Chúa Giêsu mang đến cho họ quả là tin vui và tin mừng trọng đại.
Nhưng nếu người nghèo chỉ là những người nghèo về cơm bánh, những người bị giam cầm, bị mù loà, bị áp bức mà thôi, thì có lẽ đa số chúng ta đang ngồi đây không thuộc về hạng người đó. Vậy thì việc Chúa nói “loan Tin Mừng cho người nghèo khó” xem ra không liên hệ gì đến chúng ta rồi! Nhưng tinh thần của Tin Mừng hôm nay còn vượt xa phạm vi ấy rất nhiều. Theo nghĩa đen, thì chúng ta có thể là những người không bị giam cần, không bị mù loà, không bị áp bức về thể xác. Nhưng xét cho cùng, ai trong chúng ta mà không khổ sở thiếu thốn về một thứ gì đó: hoặc là vật chất hoặc là tinh thần. Ai trong chúng ta mà không bị “giam cầm” bởi một thứ “tù ngục” nào đó. Trong thực tế, chúng ta thấy có những kiểu nhà tù không chấn song, nhưng đã giam hảm con người trong đó. Có người bị “giam cầm” bởi những đam mê về tình, tiền hay tửu (rượu). Trong thực tế, ai trong chúng ta lại không bị “mù” một cách nào đó trước những vấn đề của cuộc sống: “mù” về nhận thức (không nhìn thấy chân lý), “mù” trong những chọn lựa (nhất là tình yêu mù quáng), “mù” trong cách hành xử đối với nhau…Cách đây 3 ngày, có một chuyện gây náo động cả thành phố Huế. Đó là câu chuyện liên quan đến anh chàng tên Minh, đang là một quân nhân phục vụ trong sư đoàn 968 đóng quân tại Cam Lộ, Quảng trị. Vì nghĩ rằng bị gia đình người yêu (đã đính hôn) ở thành phố Huế khinh thường vì mình nghèo, nên đã lén lấy súng của đơn vị đi tìm người yêu để nói chuyện. Vì được báo trước nên người yêu kịp lánh mặt, nhưng không may cho một cô nữ sinh đang học lớp 10 tình cờ bị hắn bắt làm con tin và đem vào một Khách Sạn ở Huế. Sau gần một đêm không ngủ của người dân cả khu vực gần đó và một lực lượng cảnh sát chuyên nghiệp, cuối cùng anh chàng Minh ấy đã bị trúng hơi cay của cảnh sát nghiệp vụ (cả cô gái nữ sinh cũng bị) và đã bị bắt. Đó là một thứ “mù quáng” trong những chọn lựa và hành động của con người! Cũng vậy, ai trong chúng ta lại không bị “áp bức” bởi một thế lực gian tà nào đó trong thế gian này. Đến như thánh Phaolô mà còn phải nhìn nhận rằng: “điều tôi muốn làm thì tôi không làm, điều tôi không muốn làm thì tôi lại cứ làm”. Đó lại không phải là mình đang bị “áp bức” bởi dục vọng thấp hèn đó sao?!… Vì thế, Tin Mừng mà Chúa Giêsu đem đến cho trần gian và rao giảng là Tin Mừng dành cho tất cả mọi người, trong đó có chúng ta. Tin mừng có sức mạnh giải thoát, cứu sống và ban niềm vui cũng như hạnh phúc đích thực cho con người. Tuy nhiên, Tin Mừng mà Chúa Giêsu loan báo chỉ có hiệu quả đối đích thực đối với những ai ý thức về thân phận của mình là người nghèo, những người cần được Thiên Chúa cứu giúp.
Vậy chúng ta hãy xét lại xem mình là người thế nào trước mặt Thiên Chúa. Nếu thấy mình là “người nghèo” của Thiên Chúa, thì chúng ta hãy nhanh chóng chạy đến với Chúa và mở lòng mình ra đón nhận Tin mừng cứu độ của Ngài, vui vẻ sống theo những gì mà Chúa chỉ dạy để chúng ta là những người hạnh phúc ngay ở trần gian này: “Phúc cho những ai biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa”. Amen.
Sau phép lạ ở tiệc cưới Cana, tiếng tăm Ngài đồn ra khắp xóm. Ngài vào hội đường giảng dạy. Ngài đọc Thánh Kinh, gặp thấy đoạn sách: “Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng cho người nghèo khó, ban bố thứ tha cho mọi kẻ giam cầm, người mù được chữa lành, người áp bức được tự do và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa”. (Lc.04:14-21).
Thánh Luca nhắc lại lời của ngôn sứ Isaia như nhắc đến đường lối hoạt động của Chúa, khác xa với đường lối hoạt động của chúng ta. Chúng ta chỉ đánh giá qua biểu tượng bên ngoài, chỉ dựa trên thế quyền (lý của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng), dựa trên danh giá (có thế mới bế nổi người), dựa trên giấu sang (Miệng nhà giầu có gang cò thép, nén bạc đâm toạc tờ giấy), và dựa trên kiến thức (có văn hóa cao). Còn đường lối của Chúa là đem Tin Mừng cho người nghèo khó, khổ sở, đói khát…
Một Đavid bé con Chúa làm cho thắng nổi Goliat đồ sộ to lớn. Maria hè mọn Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Các môn đệ quê mùa dốt nát Chúa cho làm môn đệ giảng giải sự chân thật. Đường lối của người đời thì kiêu căng, kiêu ngạo, lên mặt, còn đường lối của Chúa thì khiêm hèn, đơn sơ, chất phác, đem hạnh phúc cho người khiêm tốn. Thánh Grêgoriô nói:
– Kiêu căng là dấu rõ ràng nhất của kẻ đã bị loại trừ, còn kẻ hèn yếu thì đặt niềm tin, cậy và phó thác vào Chúa, dễ đón nhận tin mừng và được Chúa chúc phúc. Cũng thế, kẻ kiêu căng chất đầy tâm hồn những tự phụ, tự mãn, tự cao thì đâu có chỗ cho Chúa nữa.
Từ đó chúng ta suy ra: Người nào coi mình chỉ là số không, thì có đủ chỗ cho Đấng vô cùng, còn kẻ nào coi mình là vô cùng thì trước mặt Chúa họ chỉ là hư vô mà thôi.
Xưa có ông Trần Công, là người tốt, gặp ai cũng giúp, gặp việc gì cũng làm. Một hôm ông đến làng Hòa Đa, nơi đây đang bị hạn hán, đồng ruộng nứt nẻ, sông ngòi khô quêo không một giọt nước. Đi cả ngày, thấy khô cổ, ông vào làng kiếm nước, nhà nào cũng bỏ đi nơi khác. Ông trèo lên một ngọn núi cao, thấy xa xa một toán người cầm bình nước, ông gọi xin. Người kia nói:
– Làng chúng tôi bị hạn hán 6 tháng trời, dân làng bỏ đo nơi khác hết trọi Giá có người nào lên thỉnh thần mưa, nhắc khéo hộ chút thì tốt quá. Trần Công nói ngy:
– Tôi đây, chứ ai nữa. Rồi ông xấn xả đi liền, đi cả ngày chưa tới. Ông trèo lên đồi trọc, thấy bà già khòm lưng bị nhốt trong nhà kêu cứu:
– Cứu tôi với. Ông chạy đến thả tự do cho bà. Bà hỏi:
– Ông đi đâu đấy? Ông trả lời:
– Tôi đi tìm thần mưa giúp làng Hòa Đa, họ bị hạn hán lâu ngày rồi, xin thần mưa thương họ chút.
– Nhà Thần mưa còn xa lắm. Để tôi biếu ông cái này, nó có phép thần thông thu ngắn đoạn đường. Chỉ cần nói mình muốn đi đâu là đủ. Trần Công vui vẻ nhận tặng vật, cảm ơn, rồi bảo gậy:
– Hỡi gậy thần, hãy đưa ta tới xứ thần mưa. Tự nhiên ông thấy hoa mắt, cây nối, núi non chạy như bay về phía sau. Phút chốc ông thấy mình đến xứ Thần mư. Ông đến gọi cổng thì một người trương phi xuất hiện tự xưng là Thần mưa. Trần Công nói:
– Xin Thần mưa giáng phúc cho làng Hòa Đa, lâu quá rồi không có một giọt nước. Thần Mưa chỉ cho ông một con tuấn nã và một bình nước, rồi sai ông cỡi tuấn mã đi rảni nước xuống các làng ông muốn. Bỗng chốc, nước vẩy nước mưa lai láng cả mặt đất. Đến làng Hòa Đa Trần Công dội cả bình nước xuống, khiến thành bão lụt, trôi chảy cả nhà cữa, đất đai. Hôm sau ông từ giã ra về, cái gậy thần lại cuốn ông như lần trước. Đến làng Hòa Đa, nhà cửa, đất đai trôi sạch, khiến ông tiếc xót chép miệng than “Làm ơn nên oán”.
Đường lối của con người nghĩ là tốt, là hay nhưng đường lối Chúa thì khác. Chúa đã muốn phạt ai thì dù có tìm mọi cách để đem lại bình an cho họ, cũng sẽ bị Chúa trừng trị cách khác. Chi bằng lặng yên theo đàng nẻo Chúa thì hơn.
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Sau khi đọc xong lời Kinh Thánh trên đây tại hội đường Nazarét, Chúa Giêsu đã tuyên bố rằng: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các người vừa nghe” (Lc 4,21). Vâng, đó chính là sứ mạng của Ngài. Trong ba năm hoạt động công khai, Ngài đã chu toàn trọn vẹn sứ mạng cao cả đó. Trước khi về trời, Ngài đã trao sứ mạng đó cho các Tông đồ và mỗi người chúng ta: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15. Vậy, chúng ta phải làm gì để chu toàn sứ mạng đó?
Để loan báo về Đức Kitô thì trước hết phải biết về Ngài. Muốn biết về Đức Kitô một cách chính xác cần phải biết Kinh Thánh. Thánh Giêrônimô nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Đức Kitô”. Để biết về Kinh Thánh, cần phải đọc Kinh Thánh dưới sự hướng dẫn của Giáo Hội và sự linh hứng của Chúa Thánh Thần. Để hiểu ý nghĩa từng câu, từng đoạn trong Kinh Thánh cần phải liên kết nó với toàn bộ Kinh Thánh. Kinh Thánh là Lời Chúa. Lời Chúa là chính Chúa. Bởi vậy, cần phải đọc Kinh Thánh với một thái độ tôn kính và yêu mến. Chúng ta thường thấy ở phần cung thánh của nhiều thánh đường đã thiết kế hai nhà tạm: Một bên để Lời Chúa và bên kia là Thánh Thể. Lời Chúa và Thánh Thể ngang hàng với nhau.
Trong bài đọc I, khi Esdras đọc Lời Chúa: Tất cả dân chúng đều lắng nghe ông đọc sách luật; tất cả đều đứng lên; toàn dân cảm động đến muốn khóc (x. Bài đọc I). Trong bài Tin Mừng, Thánh Luca tường thuật lại: Chúa Giêsu đứng dậy đọc Sách Thánh. Đọc xong, Ngài gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống(x. Lc 4,20). Tất cả các cụm từ: Lắng nghe, đứng lên, cảm động, gấp sách lại…Là những thái độ thể hiện sự tôn kính, yêu mến Lời Chúa. Cũng vì để thể hiện sự tôn kính, yêu mến Lời Chúa, Giáo hội có thói quen đứng dậy khi đọc Lời Chúa, đặc biệt là đọc Tin Mừng. Sau bài Tin Mừng trong thánh lễ, các linh mục hôn kính Sách Thánh.
Để nhằm mục đích cho con cái được đọc và nghe Lời Chúa thường xuyên, trong các ngày thường quanh năm, ngoài bài Tin Mừng ra, Giáo hội sắp xếp các bài đọc trong thánh lễ thành năm chẵn, năm lẽ. Trong các ngày Chúa nhật, ngoài bài đọc I và II, Bài Tin Mừng được sắp xếp theo chu kỳ A,B,C. Ngoài ra, Giáo Hội còn đưa các bài đọc vào các Giờ Kinh Phụng Vụ. Giáo Hội còn khuyến khích các gia đình đọc Lời Chúa trong các giờ kinh tối sáng. Giáo hội còn mong muốn con cái của mình đọc một đoạn Lời Chúa: Trước các buổi sinh hoạt của các tổ liên gia hay trong các cuộc hội họp của hội đoàn, đặc biệt là tại các buổi chia sẻ Lời Chúa…Giáo Hội làm hết sức mình để mỗi người có thể tiếp xúc với Lời Chúa, đọc và suy gẫm Lời Chúa hằng ngày. Chính vì vậy, mỗi chúng ta cần phải dành nhiều thời gian để đọc và suy gẫm Lời Chúa như Giáo Hội mong muốn.
Khi đã đọc và suy gẫm Lời Chúa, người Kitô hữu chúng ta còn cần phải tìm cách phổ biến Lời Chúa cho những người khác. Thánh Phaolô nói: “Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng?” (Rm 10,14). Đối tượng để chúng ta phổ biến Lời Chúa là hết thảy mọi người.
Trước hết, phải phổ biến Lời Chúa cho những người thân trong gia đình. Mỗi thành viên trong gia đình có trách nhiệm phổ biến Lời Chúa cho nhau. Đặc biệt, cha mẹ có trách nhiệm phổ biến Lời Chúa cho con cái. Nhiều cha mẹ thường đưa những kinh nghiệm rút ra từ các câu ca dao, tục ngữ để dạy con cái. Điều đó rất tốt. Nhưng sẽ tốt hơn, nếu cha mẹ biết vận dụng những câu Kinh Thánh, những câu chuyện được rút ta từ Kinh Thánh để dạy cho con cái mình. Để làm tốt điều đó, mỗi gia đình cần có ít nhất là một cuốn Kinh Thánh.
Thứ đến, chúng ta có trách nhiệm phổ biến Lời Chúa cho những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Thánh Ingatiô đã lặp đi lặp lại câu Lời Chúa “Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?” (Mt. 16,26a). Nhờ thế, Ngài đã thuyết phục được chàng trai trẻ là Phanxicô Xaviê từ bỏ mọi vinh hoa phú quý để trở thành vị Tông đồ đem Tin Mừng cho người Á Đông. Theo gương Thánh Ignatiô, chúng ta có thể tặng cho bạn bè, tặng cho anh em lương dân, những người chúng ta gặp gỡ các câu Lời Chúa, sách Kinh Thánh. Và nếu có thể, hãy dạy giáo lý cho họ khi có cơ hội. Thánh Phanxicô viết cho Thánh Ignatiô từ Viễn Đông rằng: “Khi tôi đến các làng, trẻ em không để cho tôi đọc kinh nhật tụng, ăn uống, ngủ nghỉ, nếu tôi chưa dạy cho một kinh…Tôi đã bắt đầu dạy cho chúng làm dấu thánh giá mà tuyên xưng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy cho chúng kinh Tin Kính, kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng” (x. Bài đọc 2, Kinh Sách ngày 3/12).
Thứ ba, hãy phổ biến Lời Chúa qua các phương tiện truyền thông đại chúng: Internet; sách báo… Hiện nay, hầu hết các Giáo Phận, các Dòng Tu và nhiều Giáo Xứ có trang Web riêng. Đa số các trang web đó đều phổ biến Lời Chúa và các bài suy niệm Lời Chúa hằng ngày. Ngoài ra, trên các trang mạng xã hội, có rất nhiều cộng đoàn, cá nhân đăng tải các bài Lời Chúa, các câu Lời Chúa, các bài suy niệm…Thiết nghĩ, đó là cách phổ biến Lời Chúa rất hữu dụng. Đành rằng, phương tiện nào cũng có hai mặt: Mặt phải và mặt trái; mặt tốt và mặt xấu. Đừng vì mặt trái, mặt xấu mà chúng ta bỏ lỡ cơ hội để phát huy mặt tốt. Trong mảnh ruộng đầy cỏ gú, cách tốt nhất để diệt chúng là trồng thế vào đó những cây giống tốt.
Ngoài ra, chúng ta có thể phổ biến Lời Chúa bằng nhiều cách khác nữa, tuỳ vào hoàn cảnh và điều kiện của chúng ta. Tôi thấy nhiều nhà thờ có chương trình hái lộc Thánh Lời Chúa trong đêm giao thừa hay trong ngày mùng một tết. Mỗi gia đình cử một đại diện lên hái lộc Lời Chúa, câu Lời Chúa hái được là châm ngôn sống của cả gia đình mình trong năm mới. Đó là cách làm rất có ý nghĩa.
Sau khi đọc sách tiên tri Isaia(x. Is 61,1-2). Chúa Giêsu dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay, ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe” (x.Lc 1,21). Chúa Giêsu không những tuyên bố mà Ngài còn thực hiện trọn vẹn lời tiên báo của tiên tri Isaia: Ngài đã đi khắp nơi rao giảng Tin mừng; giải thoát cho những kẻ bị giam cầm trong tội; trả tự do cho kẻ bị áp bức; chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền…Chúng ta cũng vậy, không chỉ đọc, suy gẫm và phổ biến Lời Chúa mà còn cần phải thực hành Lời Chúa, nghĩa là sống chứng nhân Tin Mừng. Đây là cách loan báo Tin Mừng có sức thuyết phục nhất. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Con người thời nay thích lắng nghe các chứng nhân hơn là nghe những thầy dạy, và nếu họ lắng nghe những thầy dạy thì bởi vì những thầy dạy ấy là các chứng nhân”. Có nhiều cách sống chứng nhân Tin Mừng, nhưng thiết nghĩ cách tốt nhất là sống hiệp nhất yêu thương: Sự hiệp nhất yêu thương đó đã được Thánh Phaolô diễn tả một cách rõ ràng trong bài đọc II, Ngài nói: “Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1Cr 12, 12-13). Đức Kitô là thân nho, mỗi thành phần trong Giáo hội là những cành nho. Cành nho phải liên kết với thân nho (x. Ga 15,1-8). Mặc dầu mỗi thành phần trong Giáo hội khác nhau về tiếng nói, màu da, chủng tộc… Nhưng đều là chi thể trong một thân thể là Đức Kitô. Vì vậy, cần phải liên kết với nhau, cần phải hiệp nhất yêu thương nhau. Hiệp nhất yêu thương giữa các thành viên trong gia đình, trong các cộng đoàn và trong toàn thể Giáo Hội. Các Kitô hữu đầu tiên đã sống hiệp nhất yêu thương khi tất cả các tín hữu chỉ có một lòng một ý, và để mọi sự làm của chung (x. Cv 2,44). Khi đạo Công Giáo mới du nhập vào nước ta, người ngoại giáo chưa biết gọi tên đạo chúng ta là gì, nhưng họ nhìn thấy các kitô hữu sống hiệp nhất yêu thương nhau nên họ gọi đạo chúng ta là đạo yêu thương. Cho nên, có thể nói “Yêu Thương” là tên gọi khác của đạo Công Giáo. Xin cho mọi người kitô hữu chúng ta biết sống hiệp nhất yêu thương để mọi người nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa, như Chúa Giêsu đã từng nói: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xưa Chúa đã hoàn thành sứ mạng loan báo Tin Mừng. Trước khi về trời, Chúa đã trao phó sứ mạng đó cho Giáo Hội và mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con chu toàn sứ mạng đó bằng cách siêng năng đọc, phổ biến và thực hành Lời Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Trong cuộc lưu đầy ở Babylon, dân Do thái bị quân thù hành hạ áp bức, nhiều người đã tuyệt vọng vì tương lai rất mịt mờ, nhưng tiên tri Isaia đã báo cho họ biết là họ sẽ được giải phóng. Khi trở về quê hương, họ đã qui tụ lại làm việc thờ phượng Chúa, ghi lại các hồng ân Thiên Chúa đã ban cho họ suốt dòng lịch sử và nhớ lại Giao ước bị bỏ quên (Bài đọc 1).
Từ nhiều thế kỷ trước, tiên tri Isaia đã báo cho họ biết sẽ có Đấng Messia đến giải thoát họ và họ nóng lòng chờ đợi. Nhân dịp về thăm quê hương Nazareth, ngày sabat, Đức Giêsu vào giảng ở hội đường, đọc nhằêm đoạn sách tiên tri Isaia mô tả về Đấng Messia và Ngài xác nhận chính Ngài là Đấng Messia ấy, khi Ngài nói: ”Hôm nay ứng nghiệm lời Sách thánh mà quí vị vừa nghe” (Lc 4,21). Nhân dịp này Ngài đọc bản tuyên ngôn mô tả sứ mạng và chương trình hành động của Ngài, chính yếu là Ngài được sai đi loan báo Tin mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo hèn, khốn khổ… Và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Ngày nay, Hội thánh và mọi Kitô hữu, theo căn tính, phải tiếp tục sứ mạng mà Đức Giêsu đã làm: ”Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con ra đi” (Ga 17,18). Sứ mạng của Kitô hữu được sai đi là làm tông đồ cho Chúa, loan báo Tin mừng Đức Kitô cho mọi người bằng đời sống chứng tá, yêu thương và hiệp nhất.
+ Bài đọc 1: Nhm 8,2-6.8-10.
Lần đầu tiên khi từ chốn lưu đầy trở về, dân Do thái đã tụ họp lại để làm việc thờ phượng, được tiên tri Nêhêmia trình bầy như một lễ hội, nhắc lại Giao ước. Tư tế Esdras tập họp mọi người lại tại quảng trường và đọc Sách Luật cho họ nghe. Esdras đọc và giải thích cho họ hiểu, và khi đã thông suốt thì họ đồng thanh thưa: ”Amen”.
Khi nghe đọc Sách Thánh, họ cảm động đến muốn khóc. Họ khóc một phần vì nhớ đến những hồng ân Thiên Chúa đã ban cho họ qua dòng lịch sử, phần khác vì họ hối tiếc vì sự bất trung của họ đối với tình thương bao lao của Thiên Chúa.
Vì thế, tư tế Esdras yên ủi họ: ”Anh em đừng sầu thương khóc lóc, đừng buồn bã vì niềm vui của Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (Nhm 8,10).
+ Bài đọc 2: 1Cr 12,12-30.
Thánh Phaolô gửi thư cho tín hữu Côrintô để tiếp tục việc giáo huấn cho họ bằng một ví dụ cụ thể, dễ hiểu: “một thân thể có nhiều chi thể”. Cũng giống như một thân thể có nhiều chi thể, Giáo hội dù bao gồm nhiều thành viên với những ơn gọi khác nhau tạo thành một sự thống nhất trong Đức Kitô.
Qua đoạn thư này, chúng ta có thể rút ra được 3 ý chính:
– Giáo hội là thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, trong đó Đức Giêsu là đầu, và các Kitô hữu là chi thể.
– Các chi thể khác nhau nên cũng có những nhiệm vụ khác nhau, nhưng không chống đối nhau mà còn bổ túc cho nhau.
– Mọi chi thể phải đoàn kết với nhau và phải dùng những đặc ân Chúa ban cho mình để phục vụ ích lợi chung của Hội thánh.
+ Bài Tin Mừng: Lc 1,11-4 ; 4,14-21.
Trong lời mở đầu sách Tin mừng của mình (Lc 1,1-4), thánh Luca nói lên mục đích của sách Tin mừng Luca là điểm qua lịch sử đời Chúa Giêsu, để giáo hữu thêm lòng tin. Truyện về Chúa được truyền qua lời kể của các môn đệ của Chúa, là những người đã tận mắt chứng kiến việc Chúa làm và tận tai nghe lời Chúa nói.
Trong đoạn sau (Lc 4,14-21) thánh Luca cho biết Đức Giêsu sau một thời gian hoạt động, đã trở về Nazareth và giảng dạy trong hội đường. Ngài đọc một đoạn sách về lời sấm của tiên tri Isaia (61,1-2) và Ngài kết luận: ”Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh mà quí vị vừa nghe” (Lc 4,21). Theo đó, Ngài xác nhận mình chính là Messia mà tiên tri Isaia đã loan báo từ lâu. Với tư cách là Messia vừa được xức dầu tấn phong, Ngài được sai đi loan báo Tin mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo hèn, khốn khổ… và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Sứ vụ của Ngài là mở ra một kỷ nguyên hồng ân, tức là kỷ nguyên của Tin mừng.
Loan báo Tin mừng cho mọi ngươi
Xét về nguồn gốc, ai cũng biết Đức Giêsu xuất thân từ Nazareth xứ Galilê, con bác thợ mộc Giuse và bà nội trợ Maria. Còn người đồng hương thì quá biết Ngài vì đã sinh sống với họ gần 30 năm, và xét theo bề ngoài, Đức Giêsu không có gì đặc biệt, chưa hề làm một phép lạ nào, chỉ là một thanh niên lam lũ, kiếm sống bằng nghề thợ mộc.
Rời khỏi Nazareth một thời gian, tự nhiên danh tiếng Ngài đã vang dội khắp nơi qua việc rao giảng Tin mừng và làm nhiều phép lạ chữa mọi bệnh tật, trừ quỉ và làm cho kẻ chết sống lại. Tuy thế, đối với dân làng thì họ vẫn còn nhửng nhưng, hoặc bán tín bán nghi. Nói chung, đối với dân làng Nazareth, Ngài vẫn chỉ là một thanh niên xuất thân từ Nazareth không hơn không kém. Nay trở về quê hương, dân làng cũng chỉ coi Ngài bình thường như các thanh niên khác, chưa tỏ ra thái độ kính trọng hay kiêng nể gì.
Nazareth có lẽ không phải là một thôn làng, nó được gọi là “Polis” nghĩa là một thành hay một thị trấn, và có thể có tới 20.000 dân. Nazareth tọa lạc trong vùng đất của sườn đồi của Galliê, có ba con đường lớn vòng quanh, tiện lợi cho việc thông thương và kinh doanh.
Có lẽ người ta sai lầm nếu nghĩ rằng Đức Giêsu lớn lên tại một làng quê hẻo lánh. Ngài lớn lên trong một thành có trục lộ giao thông của thế giới chạy qua ngay trước ngõ. Chính nơi đây Đức Giêsu đã giảng một bài quan trọng trình bầy nội dung chương trình hành động của Ngài, hay cũng có thể được gọi là bản tuyên ngôn về công tác cứu rỗi mà Ngài đến thực hiện.
Sau một thời gian đi rao giảng Tin mừng và làm phép lạ, danh tiếng Đức Giêsu đã lan rộng khắp nơi, Ngài trở về thăm quê hương Nazareth. Vào một ngày sabat, Ngài vào hội đường cùng với bà con cô bác để ca tụng Chúa và nghe đọc Sách Thánh, tất cả mọi người nóng lòng muốn nghe một người mà họ quen biết nhiều, thình lình nổi tiếng. Có thể là Ngài yêu cầu, hoặc là người phụ trách hội đường đưa cho Ngài cuộn da ghi lời Kinh thánh của tiên tri Isaia để hướng dẫn giờ đọc Lời Chúa.
Ngài mở nhằm chỗ nói về niềm vui của năm hồng ân, tác giả mô tả sự vui mừng của những kẻ trở về sau cuộc lưu đầy từ Babylon. Hay nói đúng hơn đoạn sách nói về Đấng Cứu thế: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng” (Lc 4,18-19). Đọc xong, gấp sách lại, ngồi xuống như các diễn giả thường làm. Tất cả đều chăm chú nhìn Ngài chờ đợi, xem Ngài cắt nghĩa đoạn sách này như thế nào. Ngài lợi dụng dịp này để công bố lời tiên tri này được ứng nghiệm nơi chính Ngài. Ngài tuyên bố chính Ngài là Messia (Cứu thế) đã được hứa, khi trịnh trọng nói: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các vị vừa nghe” (Lc 4,18-19).
Chúng ta nhận thấy trong các buổi nhậm chức của tân Tổng thống, bao giờ cũng đọc một bài diễn văn quan trọng đầu tiên, trong đó ông vạch ra đường hướng, chính sách và chương trình hành động trong nhiệm kỳ mới. Bài Tin mừng hôm nay miêu tả bài diễn văn đầu tiên của một vị tân Lãnh đạo tôn giáo. Đó là bài nói chuyện đầu tiên của Đức Giêsu Kitô tại Nazareth, quê quán của Ngài. Ngài đưa ra một phác thảo về đường hướng và sứ mạng của Ngài, Đấng Thiên Sai, qua lời tiên tri Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi…” (Lc 4,14-21)
So sánh lời công bố của Đức Giêsu Kitô và các diễn văn của các tân tổng thống trong ngày nhậm chức, chúng ta thấy có sự khác biệt rõ ràng. Quí vị tổng thống nói rất nhiều, hứa đủ thứ, nhưng sau cùng chẳng thực hiện được bao nhiêu trong thời gian tại chức. Trái lại, Đức Giêsu đã nói rất ít nhưng đã thực hiện tất cả những điều Ngài đã tuyên bố.
Nếu ngày xưa tác giả sách tiên tri Isaia loan báo một thời kỳ cứu độ chỉ để cho dân Chúa được bình an mà sống những ngày tháng sau lưu đầy, thì đây, với lời tuyên bố: ”Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh thánh mà tai các vị vừa nghe” (Lc 4,21), Đức Kitô đã chính thức công bố thời kỳ cứu độ ấy đã đến. Ngài không chỉ ban bình an trong cuộc đời mà còn là bình an vĩnh cửu.
Ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu là đến để giải phóng con người một cách toàn diện, cả tâm linh lẫn thể xác, cả cá nhân đến xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo: chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23). Về tâm linh, Ngài giải phóng con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, của lề luật, của thói hư tật xấu, khỏi tính yếu đuối của bản tính con người. Thánh Phaolô viết: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13). Ngài cũng đến để giải phóng con người về mặt thể chất: “Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,24-25). Về mặt xã hội, Ngài đến để thực hiện một xã hội lý tưởng là Nước Trời, không chỉ tại thiên mà còn tại thế , trong đó mọi người đối xử với nhau bằêng chân lý, công lý và tình thương.
Truyện: Xóa nợ.
Ngày xưa có một lãnh chúa, và các tá đền của ông thì nợ ông tiền thuê đất. Chẳng bao lâu họ thấy mình nợ nần chồng chất. Họ thấy mình không tài nào thoát ra tình cảnh khó khăn ấy, tuy ông lãnh chúa là người nhân ái và nhẫn nại. Nhưng các tá điền tự hỏi, ông cho họ thêm bao nhiêu thời gian để trả hết nợ. Điều đáng sợ là cả khi ông cho họ đến ngày họ chết, họ cũng không thể trả hết nợ.
Kế đó một quản lý mới của lãnh chúa xuất hiện và bắt đầu làm một cuộc kinh lý. Trong suốt cuộc kinh lý ấy, quản lý đã hỏi mỗi tá điền mắc nợ bao nhiêu. Nhưng thật đáng kinh ngạc, quản lý không dừng ở đó. Ôâng đi thăm từng nhà, ông hỏi người ta ăn uống ra sao. Ôâng hỏi thăm người già, người bệnh, người khó ở. Chính ông thấùu hiểu những vấn đề và những lo lắng của họ.
Rồi một ngày kia, ông tập họp họ lại, nói rằng ông có một sứ điệp quan trọng mà lãnh chúa tức chủ đất gởi cho họ. Các tá điền họp lại trong sợ hãi và run rẩy, tưởng rằng cái ngày thanh toán khủng khiếp sau cùng đã đến. Các tá điền đã biết hoặc nghĩ rằng mình đã biết những lời mà ông quản lý sắp nói. Hẳn ông sẽ nói rằng: “Trong suốt cuộc kinh lý, tôi đã khám phá rằng không một người nào trong các anh lo lắng việc trả nợ. Các anh chỉ nên tự trách mình. Các anh chỉ là một đám lười biếng, chẳng làm được việc gì. Chủ đất đã chán ngấy các anh. Ôâng ấy đã cho các anh vô số cơ hội, nhưng các anh vẫn không làm ra của cải. Các anh khiến ông ấy không còn chọn lựa nào khác là lấy lại đất đai khỏi tay các anh và đưa nó cho những người khác và họ sẽ trả được nợ của họ”.
Đó là những gì họ chờ đợi ông quản lý nói, dù rằng trong lòng họ, họ mong mỏi một điều gì khác. Rồi người quản lý bắt đầu nói: “Chủ đất biết rằng tất cả các anh đều mắc nợ số tiền lớn. Oâng ấy nhờ tôi nói với các anh những điều sau đây”. Quản lý ngừng nói. Họ chờ đợi cơn bão ập tới và gắng hết sức mình để chống lại nó. “Thế thì”, quản lý nói tiếp “Tôi có một tin mừng cho các anh”. Một lần nữa ông ngừng lại. Tin mừng! Họ không thể tin điều họ nghe.”Chủ đất nhờ tôi nói với các anh rằng các anh có thể quên hết nợ nần. Ông ấy xóa hết nợ nần cho các anh. Từ hôm nay, các anh có thể bắt đầu lại từ đầu”.
Họ reo hò mừng rỡ. Các tá điền ôm hôn nhau. Một số người bắt đầu nhảy múa, đã lâu rồi họ không nhảy múa. Khi họ trở về nhà mình với tâm hồn thanh thản, lần đầu tiên trong nhiều năm, họ nhận thấy mặt trời chiếu sáng, chim hát ca và những bông hoa rực rỡ nở rộ trong các cánh đồng.
Tin mừng Đức Giêsu loan báo trong hội đường Nazareth cũng như thế. Ngài là người quản lý mới mà Thiên Chúa sai đến với dân mắc nợ Người. Theo người Pharisêu, ngày của Chúa phải là ngày phán xét. Và ở đây, Đức Giêsu tuyên bố rằng đó là ngày của ân huệ Thiên Chúa, không chỉ dành cho những người đáng khen mà dành cho tất cả mọi người.
(Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr 365-366).
Sứ mạng của Đức Giêsu, ngày hôm nay, vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo hội và trong Giáo hội. Thực vậy, Khi Đức Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gửi Thánh Thần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ tuần phải tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách tiên tri Isaia thâu tóm sứ mạng của Đức Giêsu cũng là lời thâu tóm sứ mạng của Giáo hội mọi thời đại. Hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
Qua bài Tin mừng này, thánh Luca trình bầy Đức Giêsu như một kẻ được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần và sai đi. Tất cả chúng ta là những kẻ được Chúa sai đi. Mỗi người chúng ta cũng được Chúa sai đi. Ngày trước, Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu đi, rồi đến phiên Đức Giêsu lại sai chúng ta đi. Đức Giêsu đã phán: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con ra đi” (Ga 17,18). Bởi vậy lời Thánh Kinh mà Đức Giêsu đã áp dụng cho bản thân Ngài “Chúa đã sai tôi đi”, cũng phải được chính chúng ta áp dụng cho chúng ta “Chúa cũng sai tôi đi”.
Sai đi để làm gì? Thưa sai đi để làm tông đồ cho Chúa. Mỗi Kitô hữu là một tông đồ. Công đồng Vatican II còn nói mạnh hơn: “Làm tông đồ là bản tính chủa người Kitô hữu”. Nói khác đi, nếu không làm tông đồ thì không còn phải là Kitô hữu nữa.
Muốn đi loan báo Tin mừng thì phải biết Tin mừng, muốn biết Tin mừng mà không mộ mến Lời Chúa thì làm thế nào mà biết rao giảng Lời Chúa, nhất là biết sống theo lời Chúa dạy. Dĩ nhiên, nếu chỉ tin rằng những gì được nói trong Thánh kinh, nhất là Tin mừng, đều là sự thật mà thôi thì chưa đủ, vì đó là thái độ luôn phải có đối với bất cứ cuốn sách phàm tục nào mà chúng ta cho là đúng đắn. Trái lại, khi đọc Tin mừng là phải đọc với tất cả niềm tin cao độ và lòng mến thiết tha nghĩa là tin tưởng tất cả những gì trong đó đang được thực hiện. Thánh Giêrônimô nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Khi đọc Kinh thánh, chúng ta hẵy lắng nghe những điều Chúa nói với chúng ta qua ân sủng, với tất cả con tim nồng cháy của mình.
Truyện: Chẳng nghe được gì hết.
Trong vở kịch “The Royal Hunt of the sun” (Hoàng gia đi săn mặt trời) có kểû lại cuộc chinh phục dân da đỏ ở Pêru của người Tây ban nha vào thế kỷ 16, trong đó có một màn kể lại câu chuyện một người nọ biếu cho tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn Thánh Kinh và bảo ông ta: “Đây là Lời Chúa, Ngài nói với chúng ta qua cuốn sách này”. Viên tù trưởng nghiêm trang cầm cuốn Thánh Kinh lên, xem xét kỹ lưỡng và dịu dàng đặt nó vào lỗ tai. Ôâng cố gắng nghe đi nghe lại nhưng chẳng nghe được gì hết. Thế là ông ta nghĩ rằng mình bị phỉnh gạt, nên giận dữ dằn mạnh cuốn sách xuống đất.
Màn bi kịch trên khiến chúng ta tự nhủ: “Vậy chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa như thế nào”? Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng ba cách thức: bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của linh hồn… (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm C, tr 166-167).
Chúng ta phải làm sao để Lời Chúa được diễn lại sống động nơi tâm trí chúng ta, phải ghi khắc lời ấy vào trái tim chúng ta và phải bàn bạc với Chúa cũng như lắng nghe điều Ngài nhắn nhủ chúng ta qua lời ấy.
III. CÁCH THI HÀNH SỨ MẠNG.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Người thời nay thích những chứng tá hơn là thầy dạy”. Đúng thế, lời dạy dỗ không hấp dẫn và thuyết phục bằng chứng tá vì người ta thường nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Nếu thầy dạy mà thực hành điều mình dạy thì lời ấy càng có tính thuyết phục; nếu ngược lại, những lời giảng dạy ấy hoàn toàn trở nên vô ích, có khi còn phản tác dụng: không làm cho người ta đến với Chúa mà còn làm cho người ta lìa xa Chúa nữa. Muốn cho lời rao giảng của mình có tác dụng, người truyền giáo nên thực hành lời Đức Giám mục chủ phong trong thánh lễ truyền chức Linh mục khuyên tân Linh mục:
“Hãy tin vào điều con đọc,
Hãy giảng điều con tin,
Và hãy thực hành điều con giảng dạy”.
Về vấn đề làm chứng này, chúng ta hãy trở lại thời Giáo hội sơ khai, các tín hũu đầu tiên đãõ sống với nhau như thế nào theo một tác giả thế kỷ thứ ba:
“Người Kitô hữu không khác với những kẻ khác về cư trú, về ngôn ngữ hay lối sống. Bởi vì họ không cư ngụ một thành nào riêng biệt, cũng không dùng ngôn ngữ nào khác thường và nếp sống của họ chẳng có chi khác biệt. Không phải do suy tư hay bận tâm tra cứu mà họ khám phá được các giáo thuyết. Họ không chủ trương một giáo điều nào của loài người như một số người nọ…
Họ ở trong xác thịt nhưng chẳng theo xác thịt. Họ cư ngụ trên mặt đất nhưng có thành trì ở trên thiên đàng. Họ tuân theo mọi lề luật đã được đặt ra, nhưng lối sống của họ còn hơn cả lề luật. Họ yêu mến mọi người mà mọi người bách hại họ. Họ bị giết nhưng nhờ vậy mà được tái sinh. Họ thật nghèo nhưng lại làm cho bao người trở nên giầu có. Thiếu thốn mọi sự nhưng họ được tràn đầy mọi sự. Người ta khinh khi họ, nhưng trong sự khinh dể đó họ tìm được vinh quang. Danh giá họ bị nhục mạ nhưng nhờ đó họ được minh chứng là công chính. Bị chửi bới, họ chúc lành cho người ta, người khác hành hạ họ nhưng họ một niềm kính trọng. Khi làm lành họ bị trừng phạt như những kẻ bất lương, và chính lúc bị trừng phạt như vậy họ lại vui mừng, dường như được sống. Người Do thái khai chiến với họ như với những kẻ ngoại, đang khi đó dân ngoại bắt bớ họ, nhưng chẳng ai có thể nói tại sao lại thù ghét người Kitô hữu như vậy” (Trích Các bài đọc 2, mùa Phục sinh, tr 84-85).
Đức Giêsu đã phán: “Người ta cứ dấu này mà biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,35). Cốt lõi của đạo Công giáo là Bác ái bởi vì chỉ có một lề luật là mến Chúa yêu người. Nếu người ta chỉ yêu Chúa mà không thương yêu tha nhân là một điều khó hiểu vì như thánh Gioan nói, những người chung quanh sờ sờ ra trước mắt mà người ta không yêu thương được, thì làm sao người ta có thể yêu thương Thiên Chúa là Đấng vô hình? Vậy nếu muốn giới thiệu cho người khác Đấng mà thánh Gioan gọi “Thiên Chúa là tình yêu” thì phải có một hình ảnh nào, để qua đó người ta biết Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Hình ảnh đó chính là tha nhân và nếu yêu tha nhân là hình ảnh của Chúa thì người ta sẽ dễ nhận ra Chúa hơn.
Truyện: Bà có họ hàng với Chúa.
Dan Clack kể lại một câu chuyện rất ngắn nhưng cũng rất ấn tượng: Vào một buổi tối trời tuyết lạnh, một em bé khoảng sáu, bảy tuổi đang đứng tần ngần trước một siêu thị sang trọng. Đứa bé đi chân đất, khoác trên người bộ quần áo cũ kỹ, tơi tả, trông như miếng giẻ rách. Có một thiếu phụ đi ngang qua trông thấy cậu bé và đọc được nỗi thèm muốn trong đôi mắt mầu xanh đó. Bà cầm tay đứa trẻû, dẫn vào tiệm và mua cho em đôi giầy mới và bộ quần áo ấm.
Sau đó, họ bước ra phố, và thiếu phụ nói với cậu bé:
– Chúc cháu vui vẻ và một đêm ngủ ngon.
Đứa bé trố mắt nhìn thiếu phụ, rụt rè hỏi:
– Thưa bà, bà có phải là Chúa không?
Bà cúi xuống mỉm cười với cậu bé, vỗ nhẹ vào vai cậu trả lời:
– Con ơi, không phải đâu, bà chỉ là một trong những đứa con của Ngài thôi!
Cậu bé như khám phá được điều gì mới lạ:
– Cháu đã biết ngay là bà có họ hàng với Chúa mà.
(Thiên Phúc, Lời gọi yêu thương, tr 3-4).
Sống đời bác ái yêu thương là dấu chỉ con cái Chúa và là dấu chỉ anh em với nhau. Đức Giêsu đã xác nhận: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 6,21). Quả thật, thiếu phụ trong câu chuyện trên đã nghe và thi hành lời gọi yêu thương của Chúa: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Được làm anh em, họ hàng của Chúa không là một vinh dự vô cùng lớn lao cho con người sao?
Trong thân thể con người có rất nhiều chi thể. Thân thể tạo nên một thể thống nhất dù bao gồm nhiềâu chi thể. Những chi thể này rất khác nhau và có những chức năng rất khác nhau: dĩ nhiên có một số chi thể quan trọng hơn những chi thể khác. Nhưng một thân thể đầy đủ cần có mọi chi thể và các chi thể cần lẫn nhau.
Giáo hội cũng như thế. Chúng ta dù nhiều nhưng cùng tạo thành một thân thể trong Đức Kitô. Nhận thấy trong giáo đoàn Corintô có sự chia rẽ, thánh Phaolô đã viết thư khuyên nhủ các tín hữu tránh sự chia rẽ mà phải hợp nhất trong Chúa Kitô: “Tất cả chúng ta, dầu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể… Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (Bài đọc 2).
Gia đình là Hội thánh tại gia. Hội thánh tại gia cũng phải có những đặc tính như Hội thánh toàn cầu: duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Một trong các đặc tính là sự hiệp nhất. Thánh Phaolô cũng trưng Sách Thánh ra để nói lên sự hiệp nhất vợ chồng là cần thiết: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Ep 5,32). Nếu trong gia đình Kitô hữu, mọi người hiệp nhất với nhau, nhất là vợ chồng không ly dị, thì đây là chứng tá hùng hồn để giới thiệu cho người ta một Chúa Ba Ngôi duy nhất, nguyên lý của mọi tạo vật, và mọi loài thọ sinh phải tùng phục thờ lạy Ngài.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi.
Ngài sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo”
(Lc 4,18)
Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài với lời tuyên bố “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho những người nghèo”. Chúng ta đều là những người nghèo: kẻ thì nghèo vật chất, người thì nghèo tinh thần. Như vậy Tin Mừng của Chúa được loan báo cho chính chúng ta. Chúng ta hãy mở rộng lòng mình ra đón nhận Tin Mừng của Chúa.
Chúng con thường khư khư bám lấy ý riêng, không mở lòng ra đón nhận ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu đã mang Tin Mừng đến cho chúng con, nhưng chúng con không nhiệt tình đón nhận.
Do cuộc sống ích kỷ và khô cằn, chúng con không làm cho Tin Mừng của Chúa trở nên hấp dẫn đối với những người chưa biết Chúa.
III. Lời Chúa
Dân Do Thái vừa từ chốn lưu đày trở về. Tư tế Ét-ra tập họp mọi người tại quảng trường và đọc Sách Luật cho họ nghe. Có lẽ đây chính là bộ Ngũ Thư mà Ét-ra đã sưu tập lại từ những nguồn tài liệu rải rác có sẵn trước đó (các nguồn tài liệu J, E, D, P), vì thế mà thời gian đọc kéo dài rất lâu, từ sáng tới trưa.
Khi nghe đọc, toàn dân đều khóc. Có lẽ một phần do cảm động vì thấy được tình thương của Thiên Chúa đối với họ qua dòng lịch sử; phần khác là do hối tiếc bởi họ đã không đáp ứng tốt với tình thương Thiên Chúa.
Ét-ra an ủi dân: “Anh em đừng sầu thương khóc lóc, đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em”.
Nối tiếp ý tưởng của bài đọc I, Tv 18 ca tụng Luật Chúa: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn”
Sau một thời gian hoạt động, Chúa Giêsu trở về rao giảng tại chính quê hương mình là Nadarét miền Galilê. Tại đây, trong một bối cảnh trang nghiêm và chính thức (ngày Sabbat, trong hội đường), Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động của Ngài: Với tư cách là Messia vừa được tấn phong, Ngài được sai đi loan Tin Mừng cho những người nghèo hèn, khốn khổ. Như thế là Ngài thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia.
Tiếp tục huấn đức cho tín hữu giáo đoàn Côrintô đang chia rẻ nhau, Thánh Phaolô dùng hình ảnh nhiệm thể Đức Kitô.
Giáo Hội là một thân thể mầu nhiệm, trong đó Chúa Giêsu là đầu và các tín hữu là chi thể.
Các chi thể tuy khác nhau, nhưng mỗi chi thể có chức năng riêng của mình.
Do đó các chi thể phải bổ túc cho nhau, đoàn kết với nhau, và nhất là luôn kết hợp với đầu.
* 1. Có phải là Tin Mừng không?
Quyển sách ghi lại cuộc đời và giáo huấn của Chúa Giêsu ngày xưa được gọi là “Ê Vang”, trước đây không lâu lắm được gọi là Phúc Âm, còn ngày nay thì thường được gọi là Tin Mừng.
Xét theo thần học Thánh Kinh thì hai chữ “Tin Mừng” là đúng nghĩa nhất. Nhưng nếu xét về ảnh hưởng của nó trên cuộc sống thì sao?
Trên thực tế, có nhiều người không thích đọc Tin Mừng. Nhiều người ngán không muốn nghe Tin Mừng. Tại sao? Vì họ thấy trong đó toàn là những bổn phận và những đòi buộc. Không nghe, không biết thì không phải làm theo.
Sở dĩ có cảm giác ngán và sợ như thế là vì người ta chỉ mới thấy được những chi tiết phụ, chứ chưa hiểu thấu tới cốt lõi.
Cốt lõi là một lời loan báo rất phấn khởi: Xin hãy nghe đây. Thiên Chúa rất yêu thương loài người nên đã sai Con của Ngài đến dạy cho loài người con đường hạnh phúc. Biết được con đường dẫn tới hạnh phúc chẳng phải là một Tin Mừng sao?
Dĩ nhiên những lời Chúa Giêsu dạy là những điều ta phải làm theo, mà làm theo thì phải cố gắng, phải cực khổ, phải hy sinh v.v. Nhưng làm theo như vậy thì sẽ được hạnh phúc.
Một bà kia rất thường đọc Sách Tin Mừng và đọc rất sốt sắng. Khi được hỏi tại sao thì bà dùng một thí dụ để giải thích: Hôm qua tôi nhận được một bức thư của một người tôi rất quý mến. Tôi đã đọc rất chăm chú và đọc đi đọc lại tới năm lần. Không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong thư vốn đã quá rõ, nhưng vì tôi biết đó là những lời của một người rất thương tôi và tôi cũng rất thương người đó.
Chúng ta đừng coi những lời trong sách Tin Mừng là những đòi hỏi của một người xa lạ đâu đâu. Hãy xem đó là những lời khuyên dạy chí tình của Đấng đã không quản ngại từ trời xuống thế, chịu cực chịu khổ đến gần chúng ta và chịu chết vì chúng ta. Ngài đã làm tất cả chỉ vì thương chúng ta và Ngài không muốn gì khác hơn là muốn cho chúng ta được hạnh phúc.
* 2. Tin Mừng cho người nghèo
Không phải Chúa Giêsu được sai đi để loan Tin Mừng cho tất cả mọi người sao? Vậy tại sao Ngài lại nói “Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo”?
Chúng ta hãy phân tích kỹ toàn văn đoạn sách Isaia mà Chúa Giêsu đã áp dụng cho sứ mạng của Ngài:
Sau khi công bố “Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo”, Chúa Giêsu đã đưa thêm một số thí dụ để giải thích thế nào là loan báo Tin Mừng cho người nghèo:
Công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha
Cho người mù biết họ được sáng mắt
Trả tự do cho người bị áp bức
Công bố một năm hồng ân của Chúa
Như vậy, “người nghèo” là những kẻ đang ở trong tình cảnh khổ sở, thiếu thốn như bị giam cầm, bị mù, bị áp bức… và đang mong thoát khỏi cảnh ấy. Đối với những người như thế, lời công bố của Chúa Giêsu mới thực sự là Tin Mừng. Còn những ai không khổ sở thiếu thốn thì lời Chúa Giêsu như nói với ai đó chứ chẳng liên can gì tới họ, cho nên chẳng phải là Tin Mừng gì cả. Bởi vậy Chúa Giêsu cũng chẳng cần loan báo cho họ.
Nhưng xét cho cùng, ai mà không khổ sở thiếu thốn? Ai mà không “bị giam cầm” trong một thứ tù ngục nào đó? Ai mà không “mù” một cách nào đó? Ai mà không “bị áp bức” bởi một thế lực gian tà nào đó?
Thành thử Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng cho tất cả mọi người. Tuy nhiên Tin Mừng ấy chỉ có hiệu quả đối với những ai ý thức mình là người nghèo.
* 3. “Chúa đã sai tôi đi…”
Qua bài Tin Mừng này, Thánh Luca trình bày Chúa Giêsu như một kẻ được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần và sai đi.
Bất cứ ai khi được sai đi làm một nhiệm vụ thì sẽ cố gắng để làm cho thật tốt:
– Khi còn nhỏ, chúng ta thường được cha mẹ sai đi tới những nhà hàng xóm để mượn một món đồ, hay để biếu xén vài món quà. Bình thường thì ta nói năng hồ đồ, cộc lốc. Nhưng khi được sai đi làm những nhiệm vụ đó, chúng ta lựa lời nói, lựa cung cách xử sự, có khi suốt doc đường cứ lẩm nhẩm những câu lễ phép mà cha mẹ đã dạy để chút nữa nói năng cho đàng hoàng.
– Thỉnh thoảng cha sở sai một người giáo dân trong họ đi đến một gia đình nguội lạnh rối rắm để làm việc tông đồ. Người tông đồ ấy đến gia đình bê trễ nọ phải biết cách tỏ ra lịch thiệp, giúp đỡ, phải dám nói về đạo, và đồng thời cũng phải tỏ ra mình có đôi chút đạo đức để khỏi bị người bê trễ kia hạch sách “Ông cũng bê bối như ai thôi đừng khuyên tôi”.
Dĩ nhiên khi đóng vai trò một kẻ được sai đi làm tông đồ thì người ta phải cố gắng tỏ ra mình là người tốt, trong khi thực tế thì đời sống của họ chưa chắc là tốt được như thế. Điều đó xem ra là một sự giả hình, vì cái mình tỏ ra bên ngoài không đúng với cái đời sống thực sự của mình. Tuy nhiên có lẽ không nên nặng lời dùng chữ “giả hình” trong trường hợp này. Bởi vì người tông đồ ấy có tỏ ta như vậy cũng chỉ vì muốn cho sứ mạng tông đồ của mình được hoàn thành tốt đẹp thôi. Và hơn nữa, nhờ cố gắng tỏ ra tốt hơn như thế trước mắt người khác mà dần dà chính đời sống của người tông đồ thực sự trở thành tốt hơn thật.
Tất cả chúng ta đều là những kẻ được Chúa sai đi. Mỗi người chúng ta đều được Chúa sai đi. Ngày trước, Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đi, rồi đến phiên Chúa Giêsu lại sai chúng ta đi. Chúa Giêsu đã phán “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con ra đi”. Bởi vậy lời Thánh kinh mà Chúa Giêsu đã áp dụng cho bản thân Người ” Chúa đã sai tôi đi”, cũng phải được chính chúng ta áp dụng cho chúng ta “Chúa cũng sai tôi đi”.
Sai đi để làm gì? Thưa sai đi để làm tông đồ cho Chúa. Mỗi người Kitô hữu là một tông đồ. Công đồng Vaticanô 2 còn nói mạnh hơn: “Làm Tông đồ là bản tính của người Kitô hữu”. Nói khác đi, nếu không làm tông đồ thì không còn phải là Kitô hữu nữa.
Nhưng sai đi làm tông đồ với ai? Bài Tin Mừng hôm nay kể rõ những hạng người mà Chúa sai ta đến với họ:
a/ Trước tiên là những người nghèo: Số người này thật là nhiều, hàng ngày ta gặp thiếu gì người như vậy. Thế nhưng, khi ta gặp một người nghèo tôi có cư xử lễ độ với họ không hay là khinh bỉ họ? Ta có tìm cách giúp đỡ họ, hay nếu không có khả năng giúp đỡ thì ta có vận động người khác giúp đỡ không? hay ta tìm cách tránh xa họ, đuổi khéo họ để mình khỏi bị quấy rầy? Ta có cố gắng an ủi họ để họ đừng vì cảnh nghèo mà phải xa đạo, xa Chúa không? Trước những câu hỏi đó, nếu ta chỉ biết trả lời “không” thì sứ mạng tông đồ của ta như một kẻ được Chúa sai đi đã bị thất bại.
b/ Chúa còn sai ta đi tới những người đau khổ. Những người này cũng không thiếu trong khu xóm của ta, có khi ở cạnh nhà ta nữa. Nhưng phải chăng mặc dù Chúa đã sai ta đi, ta vẫn cứ ở nhà chưa đến thăm viếng họ? Và khi đến với họ, ta có đem lại cho họ được thêm một chút bình an, một chút tin tưởng nào không? Chúng ta đừng quên câu Tin Mừng hôm nay “Chúa đã sai tôi đi rao giảng Tin mừng, nghĩa là phải làm cho người ta được thật sự vui mừng, tin tưởng, hy vọng.
c/ Chúa còn sai ta đi đến với những người tội lỗi. Những người này cũng không thiếu trong họ đạo. Nhưng có lẽ đối với họ, chúng ta lại cũng quên lời Chúa “Chúa đã sai tôi đi đến với họ”. Vì quên mà thường chúng ta cứ lảng tránh họ, cứ kết án họ. Chúng ta không thực hiện Lời Chúa dạy ta đến với họ để an ủi họ, khích lệ và dẫn họ trở về tình thương của Thiên Chúa.
d/ Cuối cùng trong xã hội ngày nay, Chúa còn sai ta đi đến với những kẻ không tin. Những người này cũng có mặt rất nhiều: trong sở làm của ta, ngoài đường phố chung với ta, trong buổi họp với chúng ta. Đừng quên Chúa sai ta đi tới họ để cũng rao giảng Tin mừng cho họ. Nếu ta ngại, hay thấy bất tiện không dám nói thẳng với họ về Chúa về đạo thì ít ra đời sống của chúng ta, cách làm việc của chúng ta, lương tâm của chúng ta có thể thay cho lời nói của chúng ta không?
Ngôn sứ Isaia đã hát lên rằng “Đẹp thay bước chân của những kẻ được sai đi rao giảng Tin mừng”. Những kẻ được sai đi rao giảng Tin mừng ấy là chính chúng ta, mỗi người hết thảy trong chúng ta. Xưa nay có lẽ chúng ta quên điều đó. Nhưng hôm nay Lời Chúa nhắc chúng ta nhớ lại. vậy dưới sự hướng dẫn và ban ơn của Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy mạnh dạn bước đi. Đi đến với những người nghèo khó, những người đau khổ, những kẻ tội lỗi và những kẻ không tin. Đến với họ để rao giảng Tin mừng cho họ bằng cách này hay cách khác tùy hoàn cảnh. Và hãy an ủi mình rằng những bước chân được sai đi như vậy thật là đẹp!
* 4. “Ngày của Chúa”
Ngày một vị Thủ Tướng nhậm chức, ông đọc một bài diễn văn để công bố cho dân biết chương trình hoạt động của ông trong nhiệm kỳ. Khởi đầu sứ vụ của mình, Chúa Giêsu cũng làm như vậy. Tại hội đường Nadarét, Chúa Giêsu đã dùng một đoạn trích từ sách ngôn sứ Isaia để phác họa sứ mạng của Ngài. Chúa Giêsu loan báo rằng cái “Ngày của Chúa” mà dân chúng bấy lâu nay hằng mong đợi thì nay đã đến. Đó là một ngày hồng ân cho mọi người, cách riêng là những người nghèo.
Mẫu chuyện sau đây có thể giúp chúng ta hiểu lời công bố ấy của Chúa Giêsu tuyệt diệu đến chừng nào.
Ngày xưa có một ông điền chủ có đất đai rất nhiều. Ông cho các tá điền mướn đất làm ăn. Một thời gian sau, các tá điền lâm cảnh túng thiếu nợ nần. Họ rất lo lắng vì không đóng tô đúng hạn cho chủ được. Dù họ biết ông chủ rất tốt bụng không đến nỗi làm khó dễ họ, nhưng họ vẫn áy náy không biết chủ sẽ hoãn nợ cho họ bao lâu.
Thế rồi một hôm viên quản lý đi đến từng nhà các tá điền. Ông này hỏi mỗi người thiếu nợ bao nhiêu, trong nhà có bao nhiêu người, hằng ngày ăn uống thế nào, gia đình có ai già yếu bệnh tật gì không v.v. Cách chung nhà ai cũng túng thiếu và đang gặp rất nhiều khó khăn.
Một ít ngày sau, các tá điền được mời đến gặp chủ. Ai nấy đều hồi hộp, tin chắc là ông chủ sẽ lấy lại đất, bởi họ không còn khả năng đóng tô nữa. Khi mọi người đã đủ mặt, viên quản lý bước ra, bắt đầu nói: “Ông chủ biết là các người ai cũng rất nghèo nên không còn khả năng đóng tô nữa. Vì thế ông bảo tôi báo cho các người hay”. Nói tới đây viên quản lý bỗng ngừng lại. Con tim của các tá điền cũng như ngừng đập. Viên quản lý nói tiếp: “Tôi có một Tin Mừng muốn loan báo cho các người”. Mọi người xôn xao: “Tin Mừng ư! Tin Mừng gì vậy?” Lúc đó viên quản lý hô lớn: “Ông chủ tha hết nợ cho các người. Từ nay các người cứ an tâm làm ăn nuôi sống gia đình”.
Thế là mọi người reo hò sung sướng. Họ ôm nhau nhảy múa hát ca. Sau đó ai nấy trở về nhà mình. Sau bao năm trời, hôm nay họ mới chợt nhận thấy ánh nắng mặt trời rất là tươi đẹp, tiếng chim hót trên cành rất líu lo, hoa cỏ hai bên đường và trên khắp cánh đồng vô cùng rực rỡ.
Lời loan báo của Chúa Giêsu tại hội đường Nadarét cũng là một Tin Mừng như thế. Chúa Giêsu là viên quản lý của Thiên Chúa. Ngài được sai đến để báo tin Thiên Chúa đã xóa nợ cho loài người.
Những người pharisêu nghĩ rằng “Ngày của Chúa” là một ngày phán xét. Còn Chúa Giêsu thì loan báo “Ngày của Chúa” là người xóa nợ, ngày hồng ân.
“Ngày của Chúa” không phải là một ngày nhất định ghi trong lịch, mà là mọi ngày. Thực vậy, ngày nào cũng là “Ngày của Chúa” hết. Tin Mừng về “Ngày của Chúa” là: ơn giải thoát chúng ta không tùy thuộc vào công nghiệp của chúng ta, mà hoàn toàn do lòng tốt của Thiên Chúa. Điều duy nhất chúng ta phải làm là mở rộng cửa lòng cho Chúa Giêsu ngự vào mang ơn đến cho chúng ta. (FM)
* 5. Quyển sách
Sau nửa thế kỷ bị lưu đày bên Babylon, dân Do Thái được hồi hương. Tư tế Ét-ra tập họp họ lại để tái hiến dâng họ cho Thiên Chúa. Ét-ra bắt đầu bằng việc đọc cho họ nghe sách luật của Môsê. Từ đó trở đi, đời sống và tín ngưỡng của dân Do Thái gắn chặt với quyển Sách Luật ấy. Có thể nói, đó là một dân “sống với sách”.
Kitô hữu chúng ta cũng là những người “sống với sách”. Chỉ khác một điều là quyển sách chúng ta sống với là quyển Tin Mừng.
Có một chuyện kể về một dân kia chưa từng nghe nói tới quyển Tin Mừng. Một hôm có một người lạ đến báo cho họ rằng “Tôi đến đây mang cho các người một tin mừng”. Rủi thay người ấy mang bệnh và chết trước khi nói rõ cho họ biết tin mừng ấy là gì. Họ mới lục lúi của người ấy và gặp một quyển sách có tựa đề là “Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô”. Họ đoán rằng đó chính là cái tin mừng mà người kia muốn báo cho họ biết. Thế là họ bắt đầu đọc quyển sách ấy. Sách viết về một nhân vật giàu lòng nhân ái, làm nhiều việc lạ lùng để giúp cho những người khốn khổ và dạy nhiều điều rất cao thượng.
Đọc xong quyển sách, một người trong họ nói: “Tiếc thay người mang quyển sách này đã chết. Chắc là một môn đệ của ông Kitô ấy”. Một người nói: “Nhưng chắc là ở nơi ông ấy sống cũng có nhiều một đệ khác của ông Kitô”. Một người khác nữa góp ý: “Chúng ta thử gởi người đến đấy xem các môn đệ ông Kitô sống những lời ngài dạy thế nào”. Mọi người tán thành.
Họ cử Francis đi. Đây là một chàng trai rất chín chắn. Chàng đã tìm đến nơi, tiếp xúc với rất nhiều người, sau đó trở về. Khi chàng vừa về tới nơi thì những người đồng hương của chàng đặt những câu hỏi tới tấp:
“Những tín đồ của quyển sách ấy có thương yêu nhau không?”
“Họ có hòa thuận với nhau không?”
“Họ có đơn sơ không?”
Họ có hạnh phúc không?”
Tất cả các câu hỏi đều có thể tóm trong một câu duy nhất này: “Những môn đệ của ông Kitô ấy có sống theo quyển sách của Ông ta không?”.
Và sau đây là báo cáo của Francis:
Trên căn bản, tôi đã gặp được 5 hạng môn đệ của ông Kitô ấy:
Hạng thứ nhất chỉ mang danh Kitô thôi. Dù họ có rửa tội nhưng họ chẳng sống theo một lời dạy nào của Ngài cả.
Hạng thứ hai là những người làm môn đệ Đức Kitô theo thói quen. Mặc dù người ta thấy họ giữ những điều Đức Kitô dạy, nhưng những điều đó chẳng ảnh hưởng gì đến cách sống của họ cả. Tôi đã quan sát cách sống của họ một thời gian lâu và thấy ra rằng thực ra họ sống theo những nguyên tắc không liên can gì tới lời dạy của Đức Kitô, một số còn ngược lại nữa.
Hạng thứ ba gồm một số người rõ ràng là sùng mộ đức tin Kitô. Họ cố sức làm những việc tốt, nhưng xem ra họ thiếu sức sống, họ không thực sự có được những đức tính của Thầy họ.
Hạng thứ tư có thể được gọi là những Kitô hữu thực hành. Dường như họ đã nắm được trọng tâm của Tin Mừng. Họ biết quan tâm đến người khác và không xấu hổ vì người khác biết họ là Kitô hữu. Ở một vài nơi tôi thấy họ bị bách hại. Ở một vài nơi khác tôi thấy họ phải gặp tình cảnh có lẽ còn tồi tệ hơn nữa, đó là bị đồng bào của chính họ đối xử lạnh nhạt.
Hạng thứ năm không nhiều. Đó là những người mà tôi không ngại gọi là những Kitô hữu chính danh. Họ sống Tin Mừng cách sâu sắc. Khi gặp họ, tôi tưởng là gặp chính Đức Kitô.
Câu chuyện kết thúc ở đó, nên không biết dân chúng xứ đó có đón nhận Tin Mừng hay không.
Ngày nay rao giảng Tin Mừng cho thế giới là nhiệm vụ của chúng ta. Đó là một đặc ân to lớn nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề. Tuy nhiên, cũng như Đức Kitô, chúng ta được Chúa Thánh Thần giúp đỡ. Cách tốt nhất để rao giảng Tin Mừng là sống tốt đời Kitô hữu. Quyển sách duy nhất mà nhiều người chưa bao giờ đọc để hiểu Tin Mừng, đó chính là quyển sách của đời sống chúng ta. (FM)
* 6. Xóa nợ cho nhau
Trước lúc lìa đời, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có giao cho con cháu một cái ống tre sơn son thếp vàng gắn bít hai đầu và dặn đến đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh tổng đốc Hải Dương, trao cái ống này cho quan thì sẽ cứu vãn được tình thế gia đình nhưng tuyệt đối không được ai mở ra xem, trừ quan tổng đốc.
Cái ống tre ấy truyền đến người cháu bảy đời của Trạng, mới rước lên dinh quan tổng đốc, đúng vào ngày giờ đã ghi trong gia phả. Khi quan mở ống thấy một cuộn giấy, ông rút ra xem thấy có hai câu chữ nho:
Ngã cứu nhi thượng lương chi ách
Nhĩ cứu ngã thất thế chi bần!
Nghĩa là:
Ta cứu ngươi khỏi xà nhà đổ,
Ngươi cứu cháu bảy đời của ta còn nghèo.
Đang lúc bận việc, quan tổng đốc thấy hai câu nói xấc xược ấy, ông liền nổi giận. Sẵn cầm chiếc quạt trên tay, ông đứng phắt dậy, chạy lại định đánh người cháu bảy đời của Trạng. Nhưng vừa bước khỏi sập, chiếc xà nhà ngay trên đỉnh đầu đổ xuống đánh rầm một cái. Phúc bảy mươi đời, ông mới vừa bước ra, nên không sao cả.
Quan tổng đốc lúc đó mới giật mình hiểu rõ Trạng đã cứu mình khỏi cái chết bất đắc kỳ tử. Quan ân cần xin lỗi người cháu ông, mời về tư thất đãi cơm rượu rồi cho một số tiền khá lớn, để cứu giúp cho gia đình cháu của Trạng đang lâm hoàn cảnh cực kỳ túng thiếu.
****
Nói đến các bậc tiên tri ở nước ta, trước hết phải kể đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sinh thời ông đã nổi tiếng về các giai thoại tiên tri, đến nỗi các sĩ tử nô nức xin theo học và thiên hạ đua nhau tìm đến hỏi về những việc tương lai.
Tuy nhiên, các lời sấm của ông được ứng nghiệm là do trí thông minh của ông đã mách bảo. Còn hôm nay, nơi Chúa Giêsu đã ứng nghiệm sấm ngôn của Isaia do Thánh Thần linh ứng. Chính Chúa Giêsu cũng là một tiên tri được đầy tràn Thánh Thần. Một tiên tri cao cả mang ơn gọi và sứ mạng cứu độ.
Khi chịu phép rửa, Người đã nhận lãnh Thánh Thần như một việc xức dầu.
Người được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo hèn, những kẻ nghèo tiền, nghèo bạn, nghèo văn hoá.
Người được sai đến với những kẻ bị giam cầm trong lao tù, trong ích kỷ, trong tham lam.
Người cho kẻ mù được sáng mắt, kẻ u mê thoát vòng tối tăm.
Người trả tự do cho người bị áp bức, phá xiềng xích cho những tội nhân.
Người khai mở một Năm Toàn Xá, Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ.
Chúng ta cũng đã được xức dầu để trở thành tiên tri, đi loan báo Tin Mứng cứu độ.
Nếu Thánh Thần đã chi phối toàn bộ ngôn từ, hành vi của Chúa Giêsu, chúng ta cũng hãy ngoan nguỳ để Thánh Thần hướng dẫn tất cả lời nói, việc làm của mình.
Nếu sấm ngôn của Isaia đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu; ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong cuộc đời chúng ta, bằng sự cộng tác tích cực của bản thân mỗi người.
Con người ngày nay khắc khoải trong lo âu sầu muộn, người tín hữu Kitô phải là chứng nhân của niềm vui.
Con người ngày nay ngụp lặn trong bóng tối của lầm lạc, người tín hữu Kitô phải chiếu toả ánh sáng của đức tin.
Con người ngày nay bị kìm toả trong vòng nô lệ của tiền bạc, danh vọng; ngườt tín hữu Kitô phải loan báo sự tự do của con cái Chúa.
Nếu những người đã chịu phép Rửa trong Thánh Thần, mà còn làm ngơ trước những con người nghèo hèn, áp bức kẻ cô thân cô thế, bịt mắt những anh em dốt nát, và giam hãm tha nhân trong ngục tù dưới nhiều hình thức; thì quả thật, Lời Chúa chẳng bao giờ được ứng nghiệm trong cuộc đời họ.
***
Lạy Chúa, xin cho chúng con cũng biết xoá nợ cho nhau, không chỉ xoá nợ tiền bạc mà còn xoá đi những bất bình, nghi kỵ thành kiến, hiểu lầm nhau…, để mọi người chung quanh chúng con được nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn, vui tươi hơn.
Xin cho chúng con luôn là những sứ giả đi loan báo và chứng tá cho tình yêu cứu độ của Chúa. Amen. (Thiên Phúc)
* 7. Giáo Hội là nhiệm thể Đức Kitô
Ngày nay trong y khoa có quá nhiều chuyên khoa khiến cho cơ thể như bị tách rời thành nhiều phần. Một số bác sĩ chuyên về tim, một số khác chuyên về não, một số khác chuyên về mắt, một số khác chuyên về tai, vân vân. Chuyên môn là tốt nhưng cũng có mặt trái của nó. Các bác sĩ ấy có thể hiểu biết rất ít về con người mà họ đang điều trị về mắt, hay tim, hay chân tay…
Cơ thể con người là một toàn thể thống nhất mặc dù nó gồm bởi nhiều bộ phận. Những bộ phận này rất khác nhau và có những chức năng khác nhau. Chắc hẳn là một số bộ phận quan trọng hơn những bộ phận kia. Tuy nhiên chúng đều cần cho cơ thể và đều cần cho nhau.
Giáo Hội cũng thế. Chúng ta tuy nhiều nhưng tạo thành một thân thể duy nhất trong Đức Kitô (Bài đọc II). Bởi Phép Rửa, chúng ta đã trở thành chi thể của thân thể Đức Kitô, tức là Giáo Hội. Có lẽ có “người” nào đó muốn sống một mình, không lệ thuộc cộng đoàn. Nhưng không thể nào có “người kitô hữu” đơn độc được. Kitô hữu nào tự ý cắt mình rời khỏi cộng đoàn thì làm cho cộng đoàn bị đau như một cơ thể bị cắt lìa một chi thể.
Cộng đoàn đòi hỏi chúng ta. Vì lý do đó nên nhiều người bị cám dỗ sống một mình, tìm ơn cứu độ một mình không cần đến người khác. Nhưng không thể như thế được. Chúng ta cần nhau, cũng như các chi thể cần nhau vậy. Và Giáo Hội cần tất cả chúng ta. Chúng ta cần ý thức tùy thuộc nhau và tùy thuộc Đức Kitô. Chúng ta vẫn liên đới với nhau dù khi chúng ta chỉ muốn nghĩ đến bản thân mình.
Sự tùy thuộc vào cộng đoàn có nhiều lợi ích rõ ràng. Hãy lấy cây sậy làm thí dụ. Nếu chỉ có một mình thì nó rất yếu và dễ gãy đổ. Nhưng nhiều cây bó chung lại với nhau thì không thể nào bẻ gãy được. Đối với con người cũng thế. Sức mạnh là do hợp quần. Người ta sẽ can đảm hơn khi quen biết nhau, khuyến khích nhau và sát cánh cùng nhau chiến đấu. Nhiều công trình to lớn đã được thực hiện nhờ người ta biết làm việc chung với nhau.
Tinh thần cộng đoàn được chính Chúa Giêsu nhấn mạnh khi Ngài kể dụ ngôn cây nho và cành nho: “Thầy là cây nho, chúng con là cành”. Một hình ảnh thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu sắc về sự hợp nhất và tùy thuộc lẫn nhau.
Rõ ràng là các cành nho cần đến cây nho. Nhưng cây nho cũng cần đến cành nho vậy, bởi vì chính cành nho sinh trái. Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn có giữa Ngài và các môn đệ của Ngài. Ngài là cây nho, chúng ta là cành nho. Hay nói như Thánh Phaolô: “Chúa Giêsu là đầu của thân thể, chúng ta là chi thể của thân thể ấy”. Nếu không ý thức về sự tùy thuộc lẫn nhau, chăm sóc cho nhau và chịu trách nhiệm về nhau thì ta không còn là Kitô hữu nữa.
Hoa trái mà Chúa Giêsu mong muốn nơi chúng ta trước hết chính là sự hiệp nhất giữa chúng ta với nhau. Dấu chỉ cho mọi người biết chúng ta thuộc về Ngài là chúng ta yêu thương nhau và chăm sóc nhau. (FM)
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa là núi đá cho ta trú ẩn, là thành trì bảo vệ ta. Với lòng tin tưởng Chúa là Đấng phù trợ, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
Chủ tế: Lạy Chúa, khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, chúng con trở nên anh em một nhà và có cùng một Cha chung trên trời. Xin Chúa cho chúng con luôn sống hiệp nhất và yêu thương nhau. Chúng con cầu xin
– Trước kinh Lạy Cha: Tất cả chúng ta đều được Rửa tội trong cùng một Chúa Thánh Thần. Giờ đây chúng ta hãy kết hợp với Thánh Thần mà dâng lên Chúa Cha lời kinh nguyện mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta.
VII. Giải tán
Chúa Giêsu đã được đầy tràn Thánh Thần và được sai đi loan Tin Mừng cho những người nghèo khó. Anh chị em cũng đã đón nhận tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần và Chúa cũng sai anh em đi. Vậy anh chị em hãy hăng hái ra đi loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người anh chị em gặp gỡ.
“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh qúy vị vừa nghe”, lời kết luận trên đây của Ðức Giêsu tại Hội Ðường Nazareth phải là Kim Chỉ Nam cho mọi nỗ lực loan báo Tin Mừng. Có lẽ chúng ta vì miệt mài trong công tác rao giảng, nên ít có thời gian nghiêm túc xem xét lại hướng đi của mình.
Lời Kinh Thánh Ðức Giêsu vừa công bố tuy vắn gọn, nhưng lại có cái nhìn bao quát về hoạt động loan báo Tin Mừng:
Tin Mừng vì thế có một năng động tính đến nỗi chúng ta có thể qủa quyết rằng không ai có thể nghĩ mình có thể đáp ứng sức linh hoạt của Tin Mừng, nếu không được Thần Khí Thiên Chúa tác động.
Con người ngày nay tự hào về sự hiểu biết của mình, nhờ trí khôn ngoan, con người phát minh khoa học,…Thế nhưng đứng trước mầu nhiệm về Thiên Chúa, trí khôn con người không sao hiểu nổi và ngôn ngữ của con người làm sao có thể diễn tả hết được? Bởi vì con người mang bản tính giới hạn, bất toàn. Chỉ Thiên Chúa mới có thể giúp con người hiểu Lời Ngài cách xứng hợp.
Hôm nay chúng ta được nghe chính Đức Giêsu đọc lại lời tiên tri Isaia và giải thích: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết họ sẽ được sáng mắt, trả lại tự do người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18 – 19). Đọc xong, Ngài ngồi xuống. Mọi người nhìn thẳng vào Ngài mà chờ đợi. Trong khung cảnh im lặng linh thiêng ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (Lc 4, 20 – 21).
Phải, Đức Giêsu đã làm ứng nghiệm mọi lời tiên tri nói về Ngài từ hàng trăm năm trước. Đó là bằng chứng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến, Ngài thật là Con Thiên Chúa. Một bằng chứng khác nữa là những phép lạ Ngài làm đã có rất nhiều lời tiên tri trong Cựu Ước tiên báo. Hơn nữa, suốt thời gian Ngài sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện lời tiên tri tiên báo: “Ngài công bố Tin Mừng cho người nghèo”. Ngay lúc mới sinh ra, những mục đồng nghèo khó là những người đầu tiên được loan báo Tin Mừng. Sau này, khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả đến hỏi Ngài có phải là Đấng Cứu Thế không, Ngài đã bảo họ về kể lại cho ông Gioan biết những gì Ngài đã làm; người mù được thấy, người què được đi, người điếc được nghe, người câm được nói…đúng như lời tiên tri Isaia đã tiên báo.
Hôm nay, trong hội đường ở Nagiarét, giữa người đồng hương của Ngài, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Ngài đến thể thực hiện những lời tiên tri Isaia mà họ vừa nghe Ngài đọc”. Ngài có sứ mạng đem ơn cứu độ đến cho những người nghèo đói, bệnh tật, kẻ bị tù đày, bị áp bức, qua lời giảng dạy và những phép lạ Ngài làm. Nói như thế có nghĩa là Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến công bố năm hồng ân cho những người nghèo khổ. Ngài quan tâm đến những khổ đau của những con người đau khổ; Ngài giải thoát của họ và ban ơn cứu độ, trước mắt Ngài, là trái lập trật tự trong xã hội con người và trong thế giới, nơi đó, công lý, yêu thương và hòa bình phải ngự trị.
Đức Giêsu đã trao sứ mạng của Ngài cho Giáo Hội. Do đó, Giáo Hội luôn ý thức sứ mạng của mình trong thế giới. Suốt chiều dài lịch sử, Giáo Hội luôn nổ lực thực hiện sứ mạng của Đức Giêsu là đem Tin Mừng cho người nghèo khó…Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm ngày nay vẫn còn giá trị. Và ngày nay sứ mạng của Giáo Hội có lẽ còn khẩn thiết hơn nữa, vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ ngày nay phải bao gồm cả những vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết nhất, liên quan đến công lý, phát triển và hòa bình.
Mỗi người trong phạm vi của mình, không được nản chí, đừng chê việc nhỏ, vì hành động của tình yêu không có gì là nhỏ, là không đáng kể. Còn biết bao người nghèo đói, khốn cùng chung quanh chúng ta. Đến bao giờ chúng ta mới có thể nói được như Chúa Giêsu: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe”. Mỗi người hãy tiếp nối công việc của Đức Giêsu chung quanh mình, bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người dốt nát, xoa dịu các oán nhờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng hoạt động của mình.
Nếu chúng ta trung thành thực thi nhiệm vụ của người môn đệ Chúa Kitô như đoạn Phúc âm hôm nay, thì lời tiên tri Isaia hôm nay cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa hôm nay đã được công bố và Nước Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta ngay từ bây giờ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con là những môn đệ của Chúa biết bắt chước theo gương Chúa, tiếp nối công việc của Chúa đem tình thương, công lý đến cho người khác. Amen.
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin mừng Lc 1:1-4; 4:14-21 Chúa Giêsu đã xuất hiện như một con người nhân từ và dịu hiền, luôn quan tâm tới những đau khổ của con người, lấy việc giải thoát họ như là nội dung của sứ mạng mình được sai đến.
Suy niệm:
Chúng ta biết Thánh lễ gồm hai phần chính liên kết với nhau là Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể. Với Phụng vụ Lời Chúa, chúng ta được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa hằng sống, tiếp nối là Phụng vụ Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng bằng chính Thịt và Máu Thánh của Người.
Nghi thức Phụng vụ Lời Chúa có từ xa xưa, được biết đến với thầy tư tế tên là Esdras, sống vào thế kỷ thứ V trước Thiên Chúa Giáng Sinh. Trong bài đọc I hôm nay, sách Nơkhemia kể lại việc Esdras tập họp dân chúng, mở sách Luật ra đọc và giải thích từ sang tới trưa mà dân chúng vẫn lắng nghe, tung hô, và phủ phục cầu nguyện.
Và đoạn Tin mừng hôm nay cho biết Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, Người trở về Galilê, và tiếng tăm Người được đồn ra khắp vùng. Người bắt đầu giảng dạy trong các hội đường của người Do Thái. Ở hội đường làng Nadaréth, Chúa mượn lời ngôn sứ Isaia tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” Như vậy Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết sứ mạng của Đấng Cứu Thế đến để thực hiện những lời tiên tri Isaia loan báo trong Cựu Ước. Người được Chúa Cha xức dầu và được đổ tràn đầy Thánh Thần để “đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”.
Lời giải thích của Chúa Giêsu thật ngắn gọn nhưng lại vô cùng quan trọng, đặt người nghe trước một bối cảnh mới, một thời đại mới: Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai quý vị vừa nghe. Chúa Giêsu đã xuất hiện như một con người nhân từ và dịu hiền, luôn quan tâm tới những đau khổ của con người, lấy việc giải thoát họ như là nội dung của sứ mạng mình được sai đến.
Thánh Thần hoạt động nơi Chúa Giêsu thế nào thì Ngài cũng hoạt động nơi mỗi chúng ta là thành phần trong Giáo hội để chúng ta hợp nhất với nhau nhờ một Thánh Thần. Thánh Phaolô ví Giáo hội như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau. Mỗi chi thể đóng một vai trò nhưng bổ túc cho nhau và phục vụ cho lợi ích chung. Chân không thể nói với tay: “Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể,” hay các bộ phận khác cũng thế. Mỗi bộ phận có sự lớn nhỏ, mạnh yếu khác nhau nhưng để giúp đỡ nhau. Trong thân thể Giáo Hội cũng vậy, Thiên Chúa đặt người làm Tông Đồ, người làm ngôn sứ, kẻ làm thầy dạy, người được ơn làm phép lạ, người được ơn chữa bệnh để giúp kẻ khác… Trong một giáo xứ các thành phần dân Chúa khác nhau với những đặc sủng khác nhau nhưng đều đến từ một Chúa Thánh Thần, có một mục đích chung là phục vụ lợi ích của Giáo hội. Đây là những chi thể làm nên thân thể Giáo hội của Chúa Kitô. Như một vườn hoa với đủ loại hoa, mỗi loài hoa làm nên vẻ đẹp phong phú của vườn hoa Giáo Hội muôn sắc.
Năm nay, Giáo phận chúng ta sống chủ đề: “Hiệp thông trong đức ái” là dịp để chúng ta chú tâm hơn trong cung cách phục vụ. Chính việc hiệp thông trong đức ái, yêu thương phục vụ quên mình là chúng ta đang thực thi tiếp nối sứ vụ của Chúa Kitô. Như Đức Thánh cha Phanxicô khi được bầu làm Giáo hoàng, người bạn ngồi bên cạnh là Đức Hồng y Hummes đã nói với ngài một câu “Đừng quên người nghèo” khiến ngài lấy khẩu hiệu Phanxicô Assisi cho đời Giáo hoàng của mình.
Trong xã hội hôm nay còn đó những người nghèo, nghèo về vật chất đã đành, lại có người nghèo về tinh thần là những tâm hồn đau thương, kẻ bị giam cầm, người mù lòa về thể lý hay đức tin, kẻ bị áp bức… Chính Chúa Giêsu đã đồng hóa kiếp nghèo hèn, mỏng giòn của con người để cứu chuộc con người như lời một bài hát: “Chúa Giêsu là người là một người rất nghèo, sinh thì nghèo, sống cũng nghèo, chết cũng nghèo. Chúa Giêsu yêu thương người nghèo muốn cho họ được sống, được kính trọng, được quan tâm, được yêu thương”, chúng ta cũng được mời gọi học nơi Người như vậy.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Thánh Thần xuống trên chúng con, để chúng con cam đảm dấn thân loan báo Tin mừng Chúa cho những người đang cần đến tình thương của Chúa. Amen.
Giêsu đã đến trong cuộc đời này. Lời Hứa Cứu Độ đã hoàn thành nơi Chúa Giêsu. Lời Hứa Cứu Độ ấy được báo trước qua miệng các ngôn sứ. Các ngôn sứ loan báo hình ảnh của Đấng Cứu Độ. Có lẽ rõ nét nhất là hình ảnh của ngôn sứ Isaia, một ngôn sứ quá đau khổ.
Mở sách ngôn sứ Isaia, ở Is 52, 13-53 chúng ta bắt gặp ngay: “Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật và được suy tôn đến tột cùng.” Đọc những dòn tiếp theo, một mảng tối thật u ám nơi cuộc đời của vị ngôn sứ đau khổ này. Một bản mô tả rất sống động về sự thất thế, đau khổ cũng của người tôi tớ đó. Ông sẽ không còn được nhận ra nữa: “Khi thấy tôi trung của Ta, mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa.” Mọi người ngoảnh mặt đi chẳng dám nhìn người tôi tớ đau khổ. Điều gây sửng sốt nhất là hình phạt này xem ra là do Thiên Chúa gây nên. Xưa nay vẫn giải thích như vậy. Thực thế bản văn có một câu làm tôi lưu ý mãi: “Đức Chúa hài lòng khi thấy người bị nghiền nát trong yếu đuối.” Đức Chúa này là Thiên Chúa nào mà lại hài lòng vì người vô tội bị nghiền nát?
Nhìn hình ảnh người tôi tớ như thế này, độc giả sẽ nghĩ ngay trong lòng“Ông Trời đáng ghét của Cựu ước.” Nhưng nhìn kỹ hơn vào toàn thể bài ca thì đoạn văn này được viết dưới dạng kịch nghệ. Tức có sự thay đổi về người nói. Khởi đầu thì Thiên Chúa nói, sau đó đến các khách bàng quan bàn tán khi quan sát người tôi tớ trong khổ đau. Đối với những người này thì rõ ràng Thiên Chúa đang nghiền nát người tôi tớ vô tội. Chuyện này giống như khi chúng ta kêu ca về những đau đớn của mình: “Chúa thử thách đức tin của tôi quá sức chịu đựng. Thật ngã lòng, chẳng thể còn kiên nhẫn hơn nữa.” Đúng vậy, thượng đế đã đẩy người ta đến bờ vực thẳm của thất vọng?
Rồi thay đổi vai trò của khách bàng quan: Họ cố gắng tìm hiểu căn do sự đau khổ của người tôi tớ, và khám phá ra rằng chính vì tội lỗi của mình mà người tôi tớ phải chịu cực hình. Thật là điều gây ngỡ ngàng hết cỡ. Ông ta chịu đựng đau khổ để cứu chuộc thiên hạ. Họ đã sai lầm khi lên án ông, coi ông như kẻ có tội. Họ ăn năn hối lỗi, thú nhận sai lầm của mình. Sự thật là người tôi tớ đã gánh lấy tội thiên hạ và chính họ là những kẻ được hưởng sự tha thứ của Thượng đế: “Tôi trung của Ta sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ”.
Do đó, ý muốn của Đức Chúa Trời là tội lỗi nhân loại được tẩy sạch nhờ đau khổ và cái chết của người tôi tớ. Đúng là một mầu nhiệm. Đường lối suy nghĩ của chúng ta hoàn toàn sụp đổ, bởi lẽ công việc vĩ đại như gánh tội và xoá tội trần gian lại không theo lối nhìn cũng như cách hiểu của con người. Với Thiên Chúa thì khác, người tôi tớ của Thiên Chúa là người khiêm nhường, nhịn nhục và là người yếu đuối, dễ bị tổn thương, một dấu chỉ của sự chống đối. Cho nên chẳng lạ gì các tác giả Tân ước sử dụng những bài ca này để nói về Chúa Giêsu và lòng nhân từ, thương xót của Đức Chúa Trời. Thí dụ, thánh Phaolô nhiều lần đã chỉ ra cho chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô khi Ngài bị dân Do thái khước từ, chối bỏ. Chính trong công việc này mà nhân loại được lợi không kể xiết. Tác giả thư Do thái cũng thường khích lệ độc giả của ông không nên hổ thẹn vì thập giá Đức Ki-tô, ngược lại “hãy mạnh dạn tiến lại gần Ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần”. Bởi lẽ Thiên Chúa đã cho phép Đức Giêsu, người tôi tớ, chia sẻ những yếu hèn và đau khổ với nhân loại. Cho nên quan niệm về “ông Trời đáng ghét của Cựu ước” là sai lầm. Chính qua người tôi tớ khiêm nhường mà Thiên Chúa mặc khải gương mặt yêu thương, nhân từ của Ngài.
Người tôi tớ Giavê đứng làm trung gian cho cả Thiên Chúa và loài người. Một sự tổng hợp kỳ lạ giữa thần linh và nhân loại. Ông là đại diện cho thần linh, đứng về phía Thiên Chúa, Ngài gọi ông: “Tôi tớ của Ta”. Trong ông, ý muốn của Đức Chúa hoàn toàn được thành tựu. Ông cũng đại diện cho nhân loại tội lỗi, mặt mày tan nát, chịu khổ đau đến cùng cực, chịu chung số phận với loài người, đồng hoá với anh em mình. Chúng ta nhìn nơi ông hành động của thượng đế trên nhân loại và vì nhân loại. Chính trong nơi người tôi tớ mà chúng ta cảm thấy được Thiên Chúa cứu độ.
Nhưng người tôi trung cũng có tham gia phần của mình vào cuộc đau khổ mà Thiên Chúa đã chỉ định cho ông. Ông đồng ý với chương trình của Đức Chúa, gánh chịu hậu quả của tội lỗi người khác, vâng lời Thiên Chúa cho đến mức bằng lòng chịu chết thay cho thiên hạ. Ông là một nhân tố tự do và tự nguyện, không ai ép buộc ông, nhưng hoàn toàn hiến dâng cho Thượng đế. Đây là một sự cộng tác lạ lùng giữa Thiên Chúa và nhân loại để mưu ích cho loài người. Kết quả là một công trình vĩ đại. Bởi người tôi tớ đã “xoá tội trần gian và tranh thủ được ơn tha thứ cho những kẻ xúc phạm”. Ai đã thi hành cuộc hy sinh? Thiên Chúa hay người tôi tớ? Câu trả lời là cả hai. Thiên Chúa đã hy sinh người tôi trung. Người tôi trung đã bằng lòng hiến tế. Trường hợp của Abraham và người con duy nhất Isaac. Trong văn bản, kẻ có lỗi dùng ở đại từ “chúng ta”: “Sự thật, chính Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta… Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội… Chúng ta đã đi lạc như chiên cừu v.v…” Hoá ra người tôi tớ này không phải là kẻ phạm tội. Đau khổ của ông có mục đích duy nhất là thức tỉnh ý thức tội lỗi của nhân loại!
Ngày hôm nay, người tôi tớ mà Isaia loan báo đó đã trở thành hiện thực nơi cuộc đời ngôn sứ Giêsu. và ngôn sứ Giêsu hôm nay tiến vào hội đường như là việc hết sức bình thường. Những người trong Hội Đường đã trao cho ngôn sứ Giêsu sách Isaia và mở ra, bất chợt bắt gặp lại hình ảnh của người tôi tớ đau khổ cũng như sứ mạng của người ngôn sứ đó Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Sau đó, Chúa Giêsu đã nói với những người ở trong hội đường rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” Một lần nữa, Chúa Giêsu khẳng định lại vai trò của Ngài. Ngài đến để đem niềm vui, đem bình an, đem hạnh phúc cho con người.
Sứ vụ của Chúa Giêsu cũng đã được ông Etra nói với dân sau khi nghe sách Luật mà ông mở ra đọc cho dân: “Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em.”
Vẫn là loan báo Tin Mừng cho người nghèo.
Chúng ta sẽ tự hỏi rằng chúng ta có giàu có gì đâu để loan báo cho người nghèo?
Và, có ai hỏi ta, ta cũng sẽ nói rằng tôi nghèo lắm, tôi đâu có gì để mà cho, có gì để mà chia sẻ? Nói như thế mà không biết ngượng.
Thử, lúc nào đó trong lặng thầm, nhìn lại cuộc đời chúng ta xem, chúng ta được Chúa ban cho quá nhiều ơn đó nhưng chúng ta đã không nhận ra.
Có lúc nào đó, người hằng nghiền ngẫm suy tư
Cảm thấy đời ta, chứa chan hồng ân Chúa ban
còn chờ gì nữa? Không vang khúc hát tri ân Ngài?
Lạy Chúa, con xin cảm tạ, Lạy Chúa con xin cảm tạ
Ôi lạ lùng hồng ân Chúa đã ban cho đời!
Chúa ơi, sao con suy thấu tỏ tường?
Ôi, nhiệm mầu tình yêu thánh thiêng dâng cao vời!
Chúa ơi, tình Ngài tuyệt diệu xiết bao
Nghiền ngẫm thử đi sẽ rõ! Những ngày này, những ngày Tết Nguyên Đán cận kề. Giữa dòng đời ngược xuôi đi tìm miếng cơm manh áo, ta hạnh phúc hơn nhiều người đó chứ! Ta hạnh phúc hơn nhiều người nhưng ta đâu nhận ra để rồi ta oán trách Chúa thế này thế kia.
Cứ thử đặt mình vào vai một người di dân xa quê nghèo vì miếng cơm manh áo ta sẽ rõ hơn ai hết. Đi làm tháng vài triệu bạc, thuê căn phòng trọ ọp ẹp gần triệu bạc. Cơm ăn, áo mặc nữa, quay đi quay lại hết tháng phải đóng tiền phòng trọ, tiền điện tiền nước, thử hỏi còn bao nhiêu. Và, những ngày này dắt díu nhau về quê gặp gia đình được dăm ba bữa. Những ngày này, ra các bến xe, ta thấy những người nghèo ngược xuôi để về quê với hai bàn tay chai sạm và bờ vai gầy guộc nhỏ ta mới thấy được Chúa thương ta là dường nào.
Và, nhất là cuộc đời của ta là ta hạnh phúc, ta có Chúa trong đời.
Một chút, một chút thôi một bữa ăn, một chầu karaoke ta có thể làm ấm lòng những người nghèo. Những người nghèo đó ở đâu xa? Những người nghèo đó ngay bên cạnh nhà ta mà bấy lâu nay ta vô tâm vô tình không nhớ đến họ.
Có cái để cho nữa đó chứ! Là chút tấm lòng với những người bất hạnh.
Sứ vụ của Chúa mở ra cho mỗi người chúng ta, chuyện quan trọng là chúng ta có sống sứ vụ mà Chúa đã sống, đã mời gọi chúng ta hay không mà thôi.
Sách của Nơkhemia diễn tả cuộc lưu đày của dân Dothái từ Babylon trở về xây lại tường thành Giêrusalem. Khi vua nước Babylon chiếm hữu thành Giêrusalem và đánh đổ nước Giuđa, đã bắt dân Dothái cư ngụ ở Palestine đi làm tôi đòi nô lệ tại Babylon. Sau khi các vua nước Medes và Persians đánh thắng dân thành Babylon vào năm 538 BC, vua Cyrus đã cho phép dân Dothái trở về quê hương. Đúng ra, có 3 nhóm trở về vào 3 thời kỳ khác nhau. Nhóm thứ nhất dưới sự hướng dẫn của Zerubbabel vào năm 536 BC. Nhóm thứ hai được dẫn dắt bởi Ezra vào năm 458 BC và nhóm sau cùng được Nehemia dẫn về quê hương vào năm 445 BC. Sách của Nehemiah được viết vào trong khoảng thời gian (465-423 BC).
Sách Nơkhemia diễn tả việc ông thư ký Ezra đã quy tụ dân chúng đến lắng nghe sách lề luật của Chúa: “Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật.” (Nkm 8,3) Chúng ta biết Sách Luật đã được ghi chép trên các tấm da thuộc hoặc viết trên cuộn giấy Papyrus. Khắc ghi những lề luật và huấn lệnh được truyền tụng qua nhiều đời. Các luật lệ bắt nguồn từ Mười Điều Răn mà Chúa đã truyền cho ông Môisen trên núi Sinai. Dân chúng chăm chú lắng nghe sách Luật từ sớm tới trưa và họ đã vui mừng hân hoan: Bấy giờ ông Ezra chúc tụng Thiên Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: “Amen! Amen! Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Thiên Chúa.” (Nkm 8,6). Dân Dothái là dân được tuyển chọn. Họ được Thiên Chúa dẫn dắt qua sự hướng dẫn của các tiên tri và các vị tư tế cùng các bô lão. Họ sống liên kết thành cộng đồng tin thờ Thiên Chúa duy nhất.
Từ xa xưa, dưới thời vua Salômon, dân Dothái đã xây dựng đền thánh để tôn thờ Thiên Chúa. Họ đã có tổ chức xã hội về mọi mặt. Hàng tư tế đã có những nghi thức thánh hiến và dâng lễ toàn thiêu đền tội. Đền thờ là nơi mọi người dân tụ lại làm nên một cộng đồng dân Chúa. Đền thờ là trung tâm của cuộc sống đạo và là trái tim của mọi sinh hoạt. Dân chúng xum họp tại đền thờ để lắng nghe Lời Chúa, giải thích Kinh Thánh và dâng tiến lễ vật đền tạ. Niềm tin vào Thiên Chúa độc nhất được hun đúc và phát triển qua đời sống cộng đồng. Trải qua lịch sử ngàn năm, đạo Dothái vẫn luôn trung thành với các nghi lễ, giờ cầu nguyện, giữ ngày sabát, tuân giữ các giới răn và huấn lệnh. Ngoài trung tâm đền thờ chính, nhiều nhóm tại địa phương đã xây dựng nhiều Hội đường để cùng tụ họp nghe giảng và học hỏi Kinh Thánh.
Khi ra giảng đạo, Chúa đã đi cùng khắp mọi miền. Có khi Chúa giảng ngoài bãi biển, nơi chân đồi, ngoài cánh đồng, trong tư gia, ngoài đường phố và hôm nay Chúa đã vào Hội đường: “Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh.” (Lc 4,15) Nhiều người đi theo Chúa và chăm chú lắng nghe. Chúa giảng với uy quyền và lời Chúa có sức biến đổi tận tâm can. Khi vào Hội đường, Chúa Giêsu đã đứng lên đọc sách Tiên tri Isaia với đoạn này: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4,18-19) Đây là đoạn sách quan trọng nhất nói về Đấng Thiên Sai đã được chính Chúa Giêsu xác nhận: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” (Lc 4, 21). Trong 3 năm giảng dạy, Chúa đã hoàn thành mọi lời tiên tri đã loan báo về Ngài.
Chúa Giêsu đã lập Giáo Hội, khởi đầu với một nhóm nhỏ các tông đồ, môn đệ và các thân hữu. Giáo Hội phát triển như hạt giống được gieo vào lòng đất, nẩy mầm, lớn lên và sinh nhiều bông hạt. Giáo Hội bao gồm những người cùng lãnh nhận một phép rửa, một đức tin, đức cậy, đức mến và một niềm hy vọng vào ơn cứu độ. Chúa Giêsu đã thi hành sứ mệnh của Chúa Cha đã trao và hoàn tất qua việc hiến thân mình chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Các tông đồ là những vị đầu tiên ra đi làm nhân chứng cho Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ trần gian. Các nhân chứng sống động được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần đã không ngừng rao giảng và thiết lập các giáo đoàn phụng vụ khắp nơi. Số tín hữu ngày thêm đông đảo và đa dạng. Giáo Hội mở cửa đón nhận mọi thành thành qua Bí tích Rửa Tội và lòng tin ao ước.
Giáo Hội khởi đi từ niềm tin yêu trong lòng người. Niềm tin qui tụ mọi dân, mọi nước, mọi chủng tộc, ngôn ngữ và văn hoá truyền thống. Thánh Phaolô Tông đồ đã dùng những hình ảnh rất cụ thể để diễn tả sự liên kết giữa các thành phần trong Giáo Hội: “Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy.” (1 Cr 12,12) Giáo Hội là một xã hội của loài người. Cần có các tổ chức phẩm trật, vai trò nghĩa vụ, mục vụ, phục vụ và cộng đồng tin yêu. Giáo Hội cần có sự hỗ tương trong tất cả các sinh hoạt đời sống. Giáo Hội mỗi ngày thêm đông số các thành viên nên phải kết hợp và gắn bó đoàn kết trong một nguồn sức sống. Kết hợp giống như các nhành nho được liên kết với cây nho là Chúa Giêsu Kitô. Thánh Phaolô tả hình ảnh bộ phận của thân thể: “Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một.” (1 Cr 12,20)
Chúng ta quan sát một cộng đoàn phụng vụ trong khi cử hành thánh lễ. Mỗi thành viên có trách nhiệm riêng theo chức vụ của mình. Trong tập thể bao gồm: cộng đoàn dân Chúa, các thừa tác viên thánh thể, đọc sách, các em giúp lễ, các vị tiếp tân, ban trật tự, xin tiền, dâng của lễ, ca đoàn và linh mục chủ tế. Mỗi người có một nhiệm vụ cần được chu toàn ăn khớp với nhau. Chúng ta biết rằng những bộ phận xem ra yếu đuối và có vẻ thụ động nhưng đây lại là bộ phận cần thiết nhất, đó là mọi tín hữu tham dự phụng vụ: “Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất.” (1 Cr 12,22) Không có cộng đoàn dân Chúa, chúng ta sẽ không có các cuộc cử hành phụng vụ cách long trọng. Mỗi thành viên đều rất quan trọng tùy theo vai trò của mình, trong đó có các cụ ông cụ bà, các trẻ em và mọi thành phần dân Chúa.
Bí tích Thánh Thể liên kết chúng ta nên một. Trong niềm tin yêu, chúng ta hỗ trợ và nâng đỡ nhau sống hoàn thiện. Chưa hẳn các linh mục chủ tế là những người đạo đức tốt lành hơn các thành viên khác. Chủ tế nên chu toàn các nghi thức và cử hành thánh lễ cách nghiêm trang và sốt sáng. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng, không ai hơn ai. Điều quan trọng là trái tim yêu thương và sự gắn bó với thân thể mầu nhiệm của Chúa: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận.” (1 Cr 12,27) Các bộ phận trong cơ thể tuần hoàn phát sinh sự sống khoẻ mạnh và cường tráng. Các thành viên trong cộng đồng dân Chúa phải gắn kết yêu thương, đùm bọc và nâng đỡ nhau để chu toàn sứ vụ trong sự hài hoà và thuần thiện.
Chúa Giêsu không đến để kêu gọi nhưng người công chính và thánh thiện, nhưng là những kẻ tội lỗi. Những thành phần yếu bệnh cả hồn lẫn xác cần được sự nâng đỡ chở che và chữa lành. Họ là những bộ phận cần được quan tâm nhất vì: “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.” (1 Cr 12,26) Chúng ta không thể lên thiên đàng một mình, cần có những anh chị em xung quanh cùng đồng hành dìu dắt và đỡ nâng. Mỗi người đều có bổn phận làm cho thân thể mầu nhiệm được triển nở và phát sinh kết quả đời này và đời sau.
Lạy Chúa, đừng để chúng con bị lạc xa đường lối Chúa. Xin cho chúng con biết lắng nghe các huấn lệnh, điều răn, chỉ thị và giáo huấn của Chúa và Giáo Hội, để chúng con tuân cứ luật pháp của Chúa đêm ngày. Ước mong tên của mỗi chúng con sẽ được ghi vào sổ hằng sống đời đời, vì: “Ai không có tên ghi trong Sổ Trường Sinh thì bị quăng vào hồ lửa.” (Kh 20,15).
(Suy niệm của AM. Trần Bình An)
Thánh Philip Neri, biệt danh là “Tông đồ thành Rôma” là một trong những khuôn mặt vĩ đại đã đóng góp vào việc cải tổ Giáo Hội thời bây giờ. Ngài đã ảnh hưởng dân chúng bằng chính đời sống của mình. Ngài không viết một quyển sách, cũng không đưa ra một lý thuyết thần học nào, hoặc một đường hướng tinh thần nào. Neri sinh ở Florence năm 1515. Gia đình ngài sống chật vật nên đã gởi ngài đến ở với người bà con buôn bán giàu có. Trong thời gian này, Neri thường đến một hang đá gần nhà đã biến thành nhà nguyện, mà đọc kinh cầu nguyện. Trong lúc cầu nguyện Neri được soi sáng nên quyết định rời bỏ việc buôn bán mà tận hiến đời sống mình lên Thiên Chúa.
Sau khi từ giã người bà con, Neri đi lên Rôma vào năm 1533 và sinh sống bằng cách dạy kèm cho mấy đứa con của một người đồng hương. Neri theo học triết và thần học cho đến lúc Neri nhận thấy việc học đã cản trở việc kinh nguyện, nên Neri liền bỏ việc học mà sống như một vị ẩn tu. Ðêm đêm, Neri thường ra ngoài đường phố, lắm lúc đi vào trong nhà thờ, nhưng thường xuyên là đến hầm mộ của thánh Sebastiano mà cầu nguyện.
Thánh Philip Neri lúc 29 tuổi, nhận được một quà lớn lao của Chúa Thánh Thần. Khi ngài sốt sắng cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần hãy ban cho ngài những ơn đặc sủng của Chúa, thì một có một trái cầu bằng lửa rớt vào miệng ngài và nằm trong ngực ngài. Lúc ấy, ngài ngạc nhiên vì nhận được lửa tình yêu của Chúa Thánh Thần. Vì không thể chịu được sức nóng của tình yêu Thiên Chúa, nên ngài phải ném mình xuống mặt đất để làm cho thân xác được mát mẻ hơn. Trong khi đó nơi lồng ngực ngài thì có lửa tình yêu thiêng liêng bốc cháy. Ngài phải nằm yên trong một hồi lâu để được phục hồị. Sau đó ngài ngồi dậy với tràn đầy niềm vui. Trái tim ngài sưng to lên như có một cái bướu lớn bằng nắm tay của một người lớn. Nhưng sau đó ngài không còn đau đớn nữa, trong suốt 50 năm của cuộc đời. Ngài cương quyết từ bỏ tất cả để đi theo Chúa. Giúp việc tại bệnh viện của những người bệnh gần chết và ngài bắt đầu rao giảng cho mọi người về Thiên Chúa, từ người ăn xin ngoài đường cho đến những chủ nhà băng.
Năm 1548 Neri thành lập một hội đoàn, cầu nguyện giúp đỡ những người hành hương đến Roma, thiếu thốn lương thực và nơi trú ngụ. Vi linh hướng của cộng đoàn khuyến khích Neri làm linh mục, thì sẽ giúp ích được nhiều hơn. Sau khi đã theo học đầy đủ, Neri được lãnh nhận chức linh mục vào năm 1551.
Tại trú sở mới, nhà thờ San Girolamo, ngài yêu mến phép giải tội. Những người trẻ tìm thấy nơi Neri những lời khuyên giải khôn ngoan và giúp cho đời sống thiêng liêng lớn mạnh. Neri cảm thấy những ngưòi trẻ này không chỉ cần tha tội, nhưng cần được hướng dẫn trong đời sống thường nhật nữa, nên Neri mời gọi họ đến nhà thờ mỗi buổi chiều, để đọc và học hỏi Kinh Thánh và cùng nhau cầu nguyện. Số người đến tham dự càng ngày càng gia tăng, nên ngài cùng Cha Buonsignore Cacciaguerra chính thức thành lập một Hội đoàn cầu nguyện để hướng dẫn họ. Năm 1575, Hội đoàn này được Đức Giáo Hoàng Gregory XIII thừa nhận và những qui luật của Hội đoàn phản ảnh tính phóng khoáng của thánh nhân. Thánh Philip Neri đã làm nhiều phép lạ, trong dịp lễ Hiện Xuống năm 1544, Neri đã xuất thần và cảm thấy tim mình tràn đầy tình yêu của Thiên Chúa. Sau đó khi dâng Thánh Lễ thì mặt ngài sáng rực một cách lạ lùng. Vào ngày 25 tháng 5 năm 1595, như thường lệ, Thánh Neri ngồi tòa giải tội và tiếp những người đến thăm viếng. Trước khi đi về nghỉ ngài nói: “Cuối cùng rồi chúng ta cũng phải chết.” Và đêm đó ngài về với Chúa. (Kim Hà, 7 Vị Thánh Tràn Đầy Ơn Chúa Thánh Thần. MeMaria.org)
Tin Mừng Chúa Nhật 3 TN hôm nay, thánh sử Luca thuật lại Đức Giêsu về Nazareth, vào hội đường ngày Sabat, đọc sách ngôn sứ Isaia: “Thần Khí Chúa ở trên tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, ban bố ân xá cho kẻ tù đầy, cho người đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được giải oan; loan báo năm hồng ân của Chúa.” Với tràn đầy Thần Khí Thiên Chúa, thánh Philip Neri đã bước theo bước chân Đức Giêsu, chu toàn cả ba sứ vụ: tư tế, ngôn sứ và vương giả. Đây cũng chính là ơn gọi và sứ mạng của người Kitô hữu trong Giáo Hội và trong thế giới.
Tư tế
“Thần Khí Chúa ở trên tôi” Qua Bí Tích Thánh Tẩy, Thần Khí Chúa thánh hoá người lãnh nhận, trở nên con cái Thiên Chúa, chi thể của Đức Giêsu. “Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Ðức Kitô, đều mặc lấy Ðức Kitô.” (Gl 3, 27) Người Kitô hữu bất cứ ở đâu, hay bất cứ thân phận nào được xức dầu trong Thần Khí đều trở nên đền thờ thiêng liêng, hiệp nhất với Đức Giêsu và Hội Thánh. Như thánh Phaolô đã mạnh mẽ minh xác với tín hữu Côrintô: “Vì trong Thần Khí độc nhất, hết thảy ta được thanh tẩy mà nhập vào Thân Mình độc nhất, dù là Do thái hay Hy lạp, dù là nô lệ hay tự do, và hết thảy ta đã được cùng uống Thần Khí độc nhất. (1Cr 12,13 Bản dịch của Lm Nguyễn Thế Thuấn, DCCT)
Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu được tham dự vào chức năng tư tế của Ðức Kitô, theo cách thức riêng của mình, trở nên đền thờ Thiên Chúa, chiếu tỏa sự thánh thiện và thánh hiến con người cho Thiên Chúa Cha. “Thực vậy, mọi hành động, kinh nguyện và công việc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm hàng ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, nếu họ chu toàn trong Thánh Thần, và cả đến những thử thách của cuộc sống, nếu họ kiên trì đón nhận, thì tất cả đều trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô.” (Hiến Chế Lumen Gentium, 34, đ 2)
Chức năng tư tế của tín hữu là hiệp dâng lên Thiên Chúa tất cả bổn phận, lẫn trách nhiệm theo ơn gọi, noi gương cuộc đời Ðức Giêsu hiến dâng, phục vụ cho Thiên Chúa và con người. Hằng ngày, người Kitô hữu tiến dâng lên Chúa những thành quả, lẫn thất bại, niềm vui lẫn nỗi buồn, âu lo và hy vọng, để biết ơn, cảm tạ, ngợi khen, cũng như để được an ủi, cứu giúp.
Ngôn sứ
“ (Thánh Thần Chúa,) sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.” Người Kitô hữu còn có chức năng ngôn sứ, đem Tin Mừng đến mọi người, nhất là người nghèo hèn, đau khổ, bệnh tật, qua chính cuộc sống bản thân, qua chứng tá đức tin, qua lời nói chân thành và việc làm bác ái, tương thân, tương ái với tha nhân.
Nhân Năm Thánh Lòng Thương Xót, từng Kitô hữu có thể tự kiểm điểm vai trò ngôn sứ của mình qua kinh Thương Người Có Mười Bốn Mối. Thương Xác Bảy Mối thì tương đối dễ dàng thực hành, còn Thương Linh Hồn Bảy Mối thì người tín hữu Kitô đã chu toàn hay đã bỏ quên, chỉ vì lối sống vị kỷ mackeno, chẳng muốn dây dưa với tha nhân, khỏi phiền luỵ. Nếu thế, đến ngày cánh chung, Chúa cũng sẽ ngoảnh mặt làm ngơ, không biết chúng ta là ai, mà cho vào hưởng Nước Chúa.
“Gia đình Kitô giáo lớn tiếng loan truyền sức mạnh của Nước Thiên Chúa và niềm cậy trông vào một đời sống hạnh phúc. Như thế, bằng gương lành và chứng tá, gia đình Kitô giáo làm cho thế gian nhận biết tội lỗi mình, đồng thời sáng soi những kẻ đang kiếm tìm chân lý.” (Hiến Chế Lumen Gentium 35, đ. 3)
Vương giả
“Ban bố ân xá cho kẻ tù đầy, cho người đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được giải oan; loan báo năm hồng ân của Chúa.” Hơn nữa, nhờ thuộc về Đức Giêsu người Kitô hữu còn dược vinh dự thông phần vào chức năng vương giả của Người. Đem ánh sáng Tin Mừng giải thoát tha nhân khỏi ngục tù tội lỗi chế ngự, khai sáng những kẻ mù loà, hoa mắt trong thế giới vật chất phù phiếm hấp dẫn, đem sự thật, công lý và tình thương đến những kẻ bị sự dữ khai trừ, đàn áp, bị bỏ rơi. Như thế, người Kitô hữu được mời gọi phục vụ, xây dựng và phát triển Nước Chúa ngay tại thế.
Nhưng trước hết, người Kitô hữu phải chiến đấu với chính mình, tỉnh thức vượt qua các chước cám dỗ hằng ngày, cũng như luôn ăn năn sám hối tội lỗi đã vấp phạm. Nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng và ban sức mạnh, canh tân, đổi mới, người Kitô hữu mới có thể phục vụ Đức Giêsu đang hiện hữu trong mọi người. Như thánh Phaolô chân thành khuyên nhủ tín hữu Roma: “Anh em là những người sống đã từ cõi chết trở về, anh em hãy hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ, để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa.” (Rm 6, 13)
Nếu con bảo “giáo dân có ơn đặc sủng của Chúa Thánh Thần” có người sẽ cho rằng con nhạo báng họ! Nếu con bảo “giáo dân là tư tế, tiên tri, vương giả”, có người sẽ cho con là thệ phản! Có mấy giáo dân ý thức họ được Chúa gọi? Chúa cần họ? Hãnh diện và tri ân vì được làm con Chúa nhờ phép Thánh Tẩy? Làm chiến sĩ, chứng nhân cho phép Thêm Sức? (Đường Hy Vọng, số 333)
Lạy Chúa Thánh Thần xin thương xót, giúp chúng con noi gương Đức Giêsu, chu toàn ba chức năng Tư Tế, Ngôn sứ và Vương Giả với người thân thuộc đến Giáo xứ, Cộng đoàn và tất cả tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ soi sáng chúng con ý thức rằng, nhờ Đức Giêsu Kitô nhập thể làm người, chúng con luôn được vinh hưởng Lòng Thương Xót, trở nên đồng hình, đồng dạng Con Chúa, cũng như biến thành chi thể của Người. Xin Mẹ luôn nhắc nhủ chúng con chân thành tri ân, cảm tạ, ca tụng và ngợi khen Thiên Chúa chí nhân chí ái muôn đời. Amen.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay, tôi dâng thánh lễ. Lúc đã quen với thời khóa biểu của trại, tôi dâng lễ ban đêm, vì chúng tôi được chia thành từng đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ, mỗi người được 50 cm, đầu đụng nhau, chân quay ra ngoài.
Chúng tôi đã tự thu xếp để năm anh em Công giáo nằm quanh tôi. Ðến 9 giờ rưỡi đêm, nghe tiếng kẻng là tắt đèn và mọi người phải nằm trong mùng muỗi cá nhân; tôi ngồi cúi sát xuống để dâng lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay dưới mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ. Chúng tôi nhặt giấy nylon bọc bao thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng Mình Thánh. Như thế Chúa Giêsu luôn ở giữa chúng tôi. Chúng tôi tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt Máu Chúa làm cho chúng tôi sống, “Ta đã đến là để chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào” (Ga 10, 10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Ðất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng. (Ga 6, 53)
Ai cũng biết có Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở giữa trại tù với họ. Chính Ngài an ủi, xoa dịu những khổ đau thể xác và tinh thần; chính Ngài thêm can đảm chịu đựng cho họ. Ban đêm, họ thay phiên nhau làm giờ thánh. Sự hiện diện thinh lặng của phép Thánh Thể biến đổi họ cách lạ lùng. Nhiều người Công giáo trở lại sống đạo đức hơn; nhiều anh em không Công giáo, Phật giáo tìm hiểu Phúc âm và lãnh phép Thánh tẩy trong trại cải tạo, hoặc sau lúc được tự do. Không có gì cưỡng lại được tình yêu Chúa Giêsu. Ðêm tối của ngục tù trở thành ánh sáng, hạt giống đã đâm chồi dưới đất đang lúc trời giông tố phong ba. Những ơn trọng này do Chúa Giêsu Thánh Thể chứ không phải do sức loài người. (ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá)
Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh sữ Luca giới thiệu sứ mạng loan báo Tin Mừng của Đấng Cứu Thế. Đấng Messia mà Ngôn sứ Isaia đã loan báo hàng trăm năm trước.
Đem Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn
Người đến không đem Tin Mừng đến cho quý bậc vương giả, quý chánh khách, quý nhân sĩ học cao hiểu rộng, quý vị kiêu căng, hợm hĩnh tự phụ về tài năng, về chức tước, bổng lộc. Mà Người đến với những thân phận nghèo hèn, những kẻ cùng đinh, những thân phận bên lề xã hội, những người bé nhỏ, khiêm tốn, nhường nhịn, tự hạ, vị tha, chân thành ý thức bản thân như cát bụi với Đấng Tạo Hóa.
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.” (Lc 4, 18)
Đến thờ lạy Đấng Cứu Thế trong hang đá Bê Lem, những trẻ mục đồng chăn chiên khốn khó, với tâm hồn chân thành, trong sáng, những nhà chiêm tinh thiện tâm, nhiệt tình khao khát yết kiến Vua Vũ Trụ.
Khởi sự đi rao giảng, Người cũng kêu gọi và chọn những tông đồ từ dân thuyền chài tầm thường, nghèo khó, đơn sơ, mộc mạc. Những người sẵn sàng từ bỏ hết mọi sự thế gian, công việc, gia đình, để đi theo Chúa.
Trong khi đó, bao nhiêu luật sĩ, kinh sư, tư tế và cư dân thành Giêrusalem đều nghe biết Đấng Messia được sinh hạ ở Bêlem, nhưng vẫn lạnh nhạt, hờ hững, làm ngơ, chẳng hề đoái hoài đón nhận Ngươì.
Cũng như trào lưu xã hội hiện nay, đang đua nhau phủ nhận Chúa, đang xua đuổi Người ra khỏi mọi lãnh vực. Khi đua nhau vái lạy những con Bò Vàng tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, lạc thú, thay vì kính Chúa, yêu người, thì Tin Mừng đương nhiên trở nên điều xa xỉ, không cần thiết với họ.
Do vậy, Tin Mừng chỉ có thể đến được với những tâm hồn khiêm cung, nhỏ bé, đói khát sự công chính, sự thật và chân lý. Chúa Giêsu vẫn khuyên nhủ mọi người, hãy trở nên trong sáng, hồn nhiên, đơn sơ như trẻ thơ, dễ dàng nhận được những hạt giốngTin Mừng, ươm chồi, nảy lộc, thành cây xanh tươi, sinh hoa thơm trái ngọt sau này.
Đem tự do cho người tù và bị áp bức
Chúa Giêsu đến thế gian không phải làm chiến sĩ anh hùng, giải thoát dân Israel khỏi ách đô hộ La Mã, không giải thoát những tù binh hay nô lệ. Nhưng giải thoát con người khỏi xiềng xích ma quỷ, khỏi quyền lực thế gian đen tối độc ác, khỏi cạm bẫy cám dỗ, khỏi đam mê xác thịt. Dẫn dắt con người đến bến bờ hy vọng cứu rỗi.
“Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha,…,trả lại tự do cho người bị áp bức” (Lc 4, 18)
Ngay nơi tù ngục,Tin Mừng vẫn đem lại ánh sáng tự do cho những ai đang quằn quại chịu nhục hình. Giải thoát tâm hồn họ khỏi ách tù đày, khỏi áp bức tra tấn, khỏi thù hận, nghi kỵ, bất mãn, như ĐHY Phanxicô Xaviê đã trải nghiệm “Dẫu qua thung lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.” (Tv 23, 4)
Nhất là Tin Mừng còn phá tan vòng kiềm tỏa của ma quỷ, giam hãm con người trong ngục thất tội lỗi u mê, tìm được lối thoát an toàn. Những tù nhân của đam mê vật chất, những con tin của cuộc sống trụy lạc, sớm thức tỉnh, sẽ được tự do trở về với Lòng Thương Xót vô bờ.
Đem ánh sáng cho người mù
“Người sai tôi đi công bố cho người mù biết họ được sáng mắt.” (Lc 4, 18)
Người đem Tin Mừng đến dẫn dắt, soi sáng, hướng dẫn những ai mù lòa lạc đường trong tối tăm, trong bóng đêm vô thần. Những người đang bị chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng, khuynh đảo che mất tầm nhìn về tương lai. Nhất là chủ nghĩa duy tương đối và khuynh hướng tục hóa đang thách thức và đe dọa thô bạo đến niềm tin Kitô hữu. Vì “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119, 105)
Trước cái bả danh lợi, sắc dục, của cải, con người dễ dàng mù quáng lao theo chước cám dỗ chiếm đoạt, không còn biết đến công bằng, chánh trực và đạo nghĩa. Trước những lời nói có cánh, khen ngợi, dụ dỗ, khích động, con người cũng dễ dàng gục ngã, a dua, tán đồng, hoặc bị phỉnh lừa. Đó là chính là lúc cần đến Lời Chúa đến soi sáng phân minh, đâu là thật giả, đâu là con đường chính đáng phải theo.
Ban phúc Hồng Ân
Đấng Cứu Thế công bố năm hồng ân của Chúa, không chỉ là một năm duy nhất, mà kéo dài cho đến ngày chung thẩm. Nay thời thế mạt sắp đến gần, thế nhưng có bao nhiêu người chịu lắng tai nghe, tiếng kêu khần thiết trong hoang mạc của ông Gioan Tiền Hô, để kịp thời ăn năn sám hối?
Nhiều người đang trở nên điếc đặc, hay mù lòa trong cái xã hội hỗn độn, phù phiếm, gian manh, lừa đảo, bóc lột, đàn áp, bất nhân, bất nghĩa. Trong đó, con người coi nhau như cừu địch, chỉ biết đua nhau bước lên đầu lên cổ người khác để tiến thân, để hưởng thụ. Nhưng Đấng Cứu Thế đã kịp thời đến xua tan bóng đêm hãi hùng, chiếu dọi ánh sáng Tin Mừng, hóa giải những mưu ma, chước quỷ, mời gọi mọi người quay trở về đường ngay, nẻo chính, về với quê hương Nước Trời.
Lạy Chúa, xin hãy giải thoát con khỏi xiềng xích tội lỗi, xin mở mắt, mở tai con ra, để biết đón nhận Tin Mừng, áp dụng vào đời sống thường ngày.
Lạy Mẹ Maria, xin cầu bầu cho con biết ăn năn sám hối, trở về cùng Chúa nhân lành, hầu con xứng đáng hưởng hồng ân cứu độ. Amen.
Là con người chắc hẳn ai trong chúng ta cũng mong muốn được tự do và hạnh phúc. Xã hội phong kiến thời xưa đã làm cho người Việt nam sống trong sự nô lệ của những người giàu sang và có quyền thế. Sống trong tâm trạng như thế thật là thê thảm. Chính những người Do thái ngày xưa cũng đã hết sức cực khổ vì phải làm tôi mọi cho người Ai Cập. Nhờ Thiên Chúa mà họ đã được giải thoát để trở về sống an bình trong vùng đất Chúa hứa.
Hình ảnh ấy báo trước một sự giải thoát quý báu thiêng liêng hơn mà Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi thời Tân Ước. Thiên Chúa thực hiện điều ấy nơi Chúa Giêsu, Con duy nhất của Ngài.
Hôm nay, Chúa Giêsu vào hội đường Nagiaret và người ta trao cho Người đoạn sách thánh. Ðây là việc làm mà Chúa Giêsu thường làm trong mỗi ngày Sabat. Ðoạn sách thánh hôm nay được trích từ sách tiên tri Isaia: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 28 – 19).
Có một sự lạ thường đối với Chúa Giêsu trong ngày hôm nay là đọc xong đoạn sách thánh này Người mạnh dạn tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” (Lc 4, 21b). Nghĩa là chính Chúa Giêsu sẽ làm những điều này cho toàn thể nhân loại. Người đem đến cho con người sự giải thoát. Giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết đời đời.
Từ khi tổ tông phạm tội thì con người đã đánh mất sự tự do thiêng liêng Thiên Chúa ban. Mà hậu quả của tội lỗi là sự chết. Dầu rằng chính con người tự chọn lấy điều ấy cho mình, nhưng Thiên Chúa vẫn không nỡ lòng nào để cho các con cái của Người phải gánh chịu mãi những hậu quả ấy. Ðó là hậu quả hết sức đát. Thiên Chúa tìm mọi cách để giải thoát con người. Và chính Chúa Giêsu là Ðấng đến đem cho con người sự giải thoát thiêng liêng vô cùng cao quý.
Cả cuộc đời của Chúa Giêsu nơi trần thế này là bằng chứng hùng hồn nhất về sự giải thoát mà Thiên Chúa đem đến cho con người. Chúa Giêsu đi đến đâu là bao nhiêu bệnh hoạn tật nguyền và nhất là tội lỗi của con người được cứu chữa và tha thứ đến đó. Trước khi về trời Chúa Giêsu đã ban quyền lại cho các tông đồ và những người kế vị: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20, 22b – 23)
Ðược nhận lãnh ơn tha thứ mỗi khi phạm tội là một ơn vô cùng cao quý. Ðặc biệt, cùng với Giáo hội chúng ta đang sống trong Năm thánh về linh mục và Năm thánh 2010. Ðây là một thời gian hết sức thuận tiện để chúng ta được lãnh nhận những ơn tha thứ của Chúa. Hãy biết tận dụng thời gian này cho thật sự có ích lợi.
Vào năm 1969, Dòng Chúa Cứu Thế có chương trình truyền giáo tại Miền Thượng của các tỉnh Cao Nguyên – Việt Nam.
Vì thế, một số linh mục đã khởi hành từ Sài Gòn, các ngài tiến về Tòa Giám Mục Kontum theo đường quốc lộ 14. Khi đến nơi, các cha chào thăm Đức Giám Mục Paul Léon Seitz Kim và bày tỏ ước nguyện muốn dấn thân cho vùng truyền giáo nơi đây. Đức Giám Mục vui mừng đón nhận tâm nguyện cao quý của các cha. Sau khi trò chuyện thân tình, ngài dẫn các thừa sai đi trên một chiếc xe tới vùng truyền giáo. Đến nơi, đức cha đọc đoạn Tin Mừng theo thánh Luca 10, 1-11 nói về việc Đức Giêsu sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng. Đọc xong, ngài làm dấu 4 hướng và chỉ cho các cha thấy vùng đất rộng lớn, mênh mông, bao la và chính thức sai các ngài đi loan báo Tin Mừng cứu độ cho anh em dân tộc nơi đây (x. Thường huấn các bề trên liên Dòng mến Thánh Giá 2015).
Sau gần 20 năm, Chúa đã ân thưởng bằng việc ban cho các ngài một mùa lúa bội thu với cả ngàn người xin theo đạo.
Nhờ đời sống gương sáng, nhất là lòng thương yêu người nghèo, giúp đỡ người cô thế cô thân, bênh cực người bị áp bức… nên những anh chị em dân tộc nơi núi rừng Tây Nguyên này đã nhận ra Thiên Chúa là Tình Yêu và tin theo.
Hôm nay, thánh sử Luca trình thuật cho chúng ta biết: nhân dịp thuận tiện, Đức Giêsu trở về nơi chôn nhau cắt rốn của mình để thăm quê hương. Vì là Con Thiên Chúa, nên Đức Giêsu rất yêu mến, quý trọng Hội Đường là nơi tôn thờ Cha của mình. Bởi vậy, Ngài thường xuất hiện nơi đây vào những ngày Sabát để tham dự giờ Kinh Thánh. Tuy nhiên, lần này, Đức Giêsu trở về quê hương, Ngài vào Hội Đường trong tư cách là Đấng Mêsia và chính thức công bố chương trình hoạt động, những lựa chọn ưu tiên cũng như đối tượng mà Ngài nhắm đến trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Tất cả những gì Đức Giêsu đọc thấy trong Sách Thánh hôm nay thì đã được tiên tri Isaia loan báo trong thời Cựu Ước, vì thế: “Hôm nay ứng nghiệm nơi Ngài”.
Ứng nghiệm, bởi vì: Đức Giêsu được chính Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong, trở thành Đấng Kitô của Thiên Chúa. Ngài là vị lãnh đạo tôn giáo, đến để giải thoát con người cách toàn diện cả tâm linh lẫn thể xác, cá nhân đến xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo, đó là: chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23).
Về tâm linh, Đức Giêsu đến để giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, đem lại cho nhân loại sự tự do trong ân sủng. Vì thế, thánh Phaolô viết: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13).
Về mặt thể xác, Đức Giêsu đứng về phía người nghèo để yêu thương, nâng đỡ và bảo vệ khỏi bị tấn công bởi sự bất nhân, ích kỷ của con người và loan báo cho họ biết gia tài, kho báu, niềm vui và hạnh phúc đích thực của họ ở nơi Thiên Chúa.
Về mặt xã hội, Ngài đến để thiết lập triều đại mới, triều đại của ân sủng và tình thương, của công lý và sự thật, đồng thời mời gọi mọi người hãy sáp nhập vào nước đó để được tự do và được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
Sứ mạng ấy không chỉ dừng lại nơi Đức Giêsu, mà: “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian” (Ga 17,18); và: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).
Thật vậy, “Truyền giáo là một ân sủng, ơn gọi xứng hợp, và là căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội” (Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 14). Vì thế: “Giáo Hội vẫn sẽ tiếp tục là một Giáo Hội truyền giáo trong tương lai, bởi vì đặc tính truyền giáo thuộc về bản chất của Giáo Hội” (Gioan Phao lô II, Thông điệp Tertio Millennio Adveniente, năm 1994, số 57). Đây là nguồn gốc, căn nguyên và sứ mạng chính yếu của Giáo Hội. Giáo Hội không thể đứng nhìn và an tâm bởi những gì đã đạt được, nhưng Giáo Hội luôn luôn mang trong mình mọi thành phần, để cũng cùng một sứ vụ như Đức Giêsu, đó là: giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, đem lại cho nhân loại một nền hòa bình trong công lý và tình thương, xây dựng một xã hội mang đậm dấu ấn yêu thương, bác ái.
Bao lâu còn người nghèo, bấy lâu sứ mạng còn cấp bách; bao lâu còn gian dối lọc lừa, Giáo Hội có trách nhiệm lên tiếng và thanh tẩy để nó trong sáng hơn; bao lâu con người còn thất vọng, Giáo Hội sẽ loan báo và trả lời những chất vấn về niềm hy vọng của nhân loại hôm nay (x. 1 Pr 3, 15).
Nếu Giáo Hội không lựa chọn người nghèo, không tiến ra chỗ nước sâu mà thả lưới, không vượt ra khỏi vỏ bọc an thân để đi đến những vùng ngoại vi, thì Giáo Hội vẫn chỉ trơ trơ như một cái máy, hay như con rô bốt không hồn!
Nếu Giáo Hội không lựa chọn ưu tiên vì sứ vụ như Đức Giêsu, thì một lúc nào đó, nhân loại sẽ không cần đến Giáo Hội vì Giáo Hội chỉ là một thể chế công chức xã hội thuần túy. Và, lẽ đương nhiên, nhân loại không còn tin tưởng Giáo Hội nữa, vì đã thất trung, bội ước với Đấng sáng lập nên mình!
Thật vậy, Giáo Hội sẽ mất đi bản chất nếu không rập đời sống và hoạt động của mình theo khuôn mẫu của Thầy Giêsu. Bởi lẽ: “Nếu Giáo Hội chỉ đi với kẻ có quyền, người ta sợ; chỉ đi với người giàu có, người ta khinh bỉ; nhưng đi với người nghèo thì được cả hai đối tượng trên và được tất cả mọi sự”.
Từ sứ mạng của Đức Giêsu, rồi đến sứ mạng của Giáo Hội và tới sứ mạng của mỗi chúng ta như một mạch liền lạc không thể tách rời. Tuy nhiên, điều chúng ta đặt ra, đó là: làm tông đồ bằng cách thế nào? Đức Phaolô VI đã vạch ra cho chúng ta một tiêu chuẩn để làm chứng cho Chúa, đó là: “Người thời nay thích nghe những chứng nhân hơn thầy dạy, bởi vì thầy dạy cũng là chứng nhân”. Đúng thế, lời dạy dỗ không hấp dẫn và thuyết phục bằng chứng tá vì người ta thường nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”.
Lời nhắn nhủ của đức giám mục trong thánh lễ phong chức linh mục muốn nhắc cho các mục tử về vai trò chứng tá. Tuy nhiên, lời nhắn gửi này có thể hiểu rộng cho mỗi người Kitô hữu, vì theo nghĩa phổ quát, mỗi chúng ta đều là mục tử vì được tham dự vào chức Tư Tế của Đức Giêsu ngày lãnh Bí tích Rửa Tội. Ngài khuyên: các con “hãy tin vào điều con đọc. Hãy giảng điều con tin. Và hãy thực hành điều con giảng dạy”.
Mong sao lời đó sẽ được mỗi người suy đi và nghĩ lại trong lòng, để trở nên chứng tá của tình yêu Thiên Chúa trong lòng xã hội hôm nay!
Được như thế, Thiên Đàng không chỉ tại Thiên mà đã ở giữa nhân loại ngay trong giây phút hiện tại.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con ý thức được sứ mạng của mình, đồng thời, biết noi gương Chúa để loan báo Tin Mừng cho con người cách toàn diện, ngõ hầu nhân loại này được an vui, hạnh phúc và bình an khi sđược sống trong tình yêu, công lý và sự thật. Amen.
1/ Trong những lời cuối cùng để kết thúc Tin Mừng thứ tư, tác giả Gioan Tông Đồ nói đến mục đích của cuốn sách mà mình biên soạn, nghĩa là nhằm giúp độc giả được đón nhận đức tin vào Đức Giêsu Kitô, nhờ đó mà họ sẽ được sống. Vì thế Thánh Gioan đã kết luận: “Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ Danh Người” (Ga 20,31). Như vậy theo nét nhìn của Thánh Gioan thì: Đức Giêsu Kitô là đối tượng của đức tin chúng ta; Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, là nguồn ơn cứu độ của chúng ta. Nhưng thực tế thì như thế nào?.
2/ Đó là một sự thật phũ phàng.
Gọi là phũ phàng vì qua trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe, phần nào đã tỏ được thái độ của người làng quê Nazarét, đồng hương với Chúa Giêsu khi Chúa về thăm họ: Đó là thái độ phẫn nộ hơn là vui vẻ; thái độ xua đuổi hơn là đón tiếp. Thái độ căm phẫn còn thể hiện khi những người trong Hội đường muốn lôi Chúa Giêsu lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực thẳm nhằm làm nguy hại đến tính mạng Ngài (x. Lc4,30).
Hơn nữa, gọi là phũ phàng, vì đọc xuyên suốt Tin Mừng chúng ta luôn bắt gặp một Đức Kitô luôn bị từ khước, cho dẫu Ngài là Con Thiên Chúa; rồi một hình ảnh của Đấng đến nói lời Chúa Cha, nhưng thường bị mọi người hững hờ, vì có lúc họ đã nói: “ lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi” (Ga6,60). Rồi chúng ta còn gặp hình ảnh của Đấng bị thất bại trong các phép lạ Ngài làm. Mặc dù phép lạ Chúa làm là do quyền năng Thánh Thần, nhưng lại bị người ta coi đó là sức mạnh của ma quỷ. Vì họ nói những phép lạ Chúa làm”là dựa thế quỷ vương Bêendêbun mà trừ quỳ” (Lc 11,15). Rồi cuối cùng chúng ta lại thấy sự thật phũ phàng đã bao trùm lên Đức Giêsu Kitô là Vua dân Do thái, khi vị Vua này đã bị chính người đồng hương của mình tước đọat hết phẩm giá của một con người, khi họ nhục mạ, chế giễu, khạc nhổ, đánh đập, đóng đinh, và cuối cùng chính họ đã giết Ngài trên thập giá với một thân hình trơ trọi.
3/ Nguyên nhân nào đã làm ra những sự thật phũ phàng đáng tiếc như thế?
Đó cũng là vì thái độ thiếu khiêm nhường. Vì thiếu khiêm nhường nên đa số người Do thái luôn khẳng định những giáo lý, những truyền thống mà họ đã lãnh nhận từ cha ông của họ đó là tuyệt đối. Vì tuyệt đối nên họ không cúi mình xuống để nhận lấy lời dạy mới mẻ của Chúa Giêsu như “ách êm ái và gánh nhẹ nhàng” (Mt 11,30). Vì là tuyệt đối nên họ không cúi mình xuống để đón nhận lời giải thích của Chúa Giêsu về niềm tin của họ. Mục đích là Chúa giúp họ có một đức tin hoàn hảo. Đức tin hoàn hảo là đức tin phải được xây dựng trên lời nói và cách sống của Chúa. Rất tiếc cho những người đồng hương của Chúa Giêsu. Vì Chúa đến với mục đích để giúp cho người nhà của mình có một đức tin tuyệt đối, nhưng họ không muốn. Ngược lại vì sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa dân tộc Do thái, đã bị mọi người coi như một cái gai trong mắt mình, nên họ đã đi đến một hành động tuyệt đối mù quáng, đó là khử trừ Chúa ra khỏi đức tin của họ, ra khỏi cộng đoàn mà họ đang sống.
4/ Sự thật chối bỏ Chúa cách đây hơn hai ngàn năm vẫn chưa chấm dứt. Sự thật này vẫn lan tràn nơi đây nơi đó, ngay cả trong cộng đoàn chúng ta, và trong cách sống chúng ta. Vì thực tế để đạt đến đức tin hoàn hảo nơi Chúa đó không phải là chuyện đơn giản. Vì tin Chúa thì Chúa luôn mong muốn chúng ta phải sống như Chúa: chịu hiểu lầm, chịu nhục mạ vì Tin Mừng, chịu đau khổ, chịu hy sinh, chịu mất đi những của cải mình có để đổi lấy yêu thương theo Tin Mừng. Nói chung để có đức tin hoàn hảo là chúng ta phải đi trên con đường hẹp, con đường thập giá. Đây chính là hành động của đức tin.
Khi đối diện với con đường thập giá, chúng ta cảm thấy mình bị thiệt thòi, thấy cuộc sống bị gò bó, trước mắt đó là những gian truân thử thách. Vì thế chúng thường rút lui, không muốn đi theo con đường hẹp của Chúa nữa, không muốn hành động vì đức tin nữa. Từ nguyên nhân đó chúng ta rất dễ rơi vào thái độ lệch lạc đức tin và dễ bị đánh mất đức tin trong cuộc sống, cũng vì muốn sống ích kỷ, không muốn sống theo đòi hỏi của Tin Mừng.
5/ Theo thống kê ngày 31-1-2006 của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng cho các dân tộc: Trong năm 2006 đã có 24 linh mục, tu sĩ và anh chị em giáo dân đã bỏ mình trên đường truyền giáo, khi phục vụ tại các miền truyền giáo hay giữa các thành phần kém may mắn trong xã hội. Sự hy sinh của những anh hùng truyền giáo này, đã làm cho dấu ấn đức tin không thể phai nhoà trong lịch sử Giáo Hội.
Vì muốn có một đức tin “hoàn tất”, nên các ngài phải chấp nhận chịu ngược đãi. Vì muốn có một đức tin “hoàn chỉnh”, nên các ngài phải chấp nhận bách hại. Vì muốn có một đức tin “hoàn hảo” nên các ngài rất vui lòng chấp nhận hy sinh. Đó là một đức tin tuyệt đối vô cùng.
6/ Hôm nay khi hướng ánh mắt nhìn lên ơn cứu độ, mỗi người chúng ta hãy can đảm chọn cho mình một con đường thật chắc chắn, thật bảo đảm để tiến bước về ơn cứu độ. Con đường chúng ta đi để được ơn cứu độ không gì khác hơn là con đường đức tin, con đường sống đức tin. Sống đức tin để chúng ta có một đức tin hoàn hảo. Nhưng để có một đức tin hoàn hảo đòi hỏi chúng ta phải gánh chịu những hy sinh thử thách, chính những hy sinh này sẽ dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời. Vì thánh Giacôbê đã quả quyết: “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người” (Gc 1,12)
Chủ đề: “Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng 3 lỗ tai: Lỗ tai của tâm trí, lỗ tai của trái tim và lỗ tai của linh hồn”
Vào thời Chúa Giêsu, tại Israel có hai nơi dành cho việc phụng tự, là Đền thờ và Hội đường (Sy-nagogue). Đền thờ thì chỉ có một cái, tức Đền thờ tại Giêrusalem, nhưng có tới hàng trăm hội đường, hầu như mỗi làng đều có một cái. Đền thờ là nơi dân Do Thái dâng hy lễ cho Chúa, chẳng hạn chiên, cừu và bồ câu. Còn hội đường là nơi dành cho việc giảng thuyết nơi dân chúng lắng nghe Lời Chúa và cố gắng áp dụng lời ấy vào cuộc sống của họ. Như chúng ta thấy, nghi thức phụng tự trong hội đường và trong đền thờ tương ứng với nghi thức phụng tự trong thánh lễ Misa của chúng ta. Nửa phần đầu của thánh lễ tương ứng với nghi thức trong hội đường được gọi là phần phụng vụ Lời Chúa, bao gồm việc nghe đọc các bài Kinh Thánh và áp dụng chúng vào cuộc sống chúng ta giống như Chúa Giêsu đã chỉ dẫn cho dân Nagiarét trong Phúc Âm hôm nay. Nửa phần sau của thánh lễ tương ứng với nghi thức phụng tự trong đền thờ, được gọi là phục vụ Thánh Thể, liên quan đến việc dâng hy lễ; giống như Chúa Giêsu đã thực hiện trong bữa Tiệc Ly; “Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Ngài cầm chén lên và nói: “Đây là chén của giao ước mới ký kết trong máu Ta, máu sẽ đổ ra vì các con” (Lc 22:20)
Giờ đây chúng ta hãy xét một cách sâu sát hơn phần đầu của thánh lễ, tức phần phụng vụ Lời Chúa. Trong phần này nhiệm vụ chính của chúng ta là lắng nghe Kinh Thánh. Vấn đề then chốt ở đây là lắng nghe. Cách đây nhiều năm có một vở kịch ở Broadway tựa đề là The Royal Hunt of the Sun (Hoàng gia đi săn mặt trời). Vở này kể lại cuộc chinh phục dân da đỏ ở Pêru của người Tây Ban Nha vào thế kỷ 16, trong đó có một màn kể lại câu chuyện một người nọ biếu cho tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn Kinh Thánh và bảo ông ta; “Đây là Lời Chúa, Ngài nói với chúng ta qua cuốn sách này” Viên tù trưởng nghiêm trang cầm cuốn Thánh Kinh lên, xem xét kỹ lưỡng và dịu dàng đặt nó vào lỗ tai. Ông cố gắng nghe đi nghe lại nhưng chẳng nghe được gì hết. Thế là ông ta nghĩ rằng mình bị phỉnh gạt, nên giận dữ dằn mạnh cuốn sách xuống đất. Màn bi kịch trên khiến chúng ta tự nhủ; “Vậy thì chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa thế nào đây?”
Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng cả ba cách thức: bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của linh hồn.
Trước hết, thế nào là nghe bằng lỗ tai tâm trí. Đó là cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, và hơn nữa, làm cho lời ấy sống động y như chúng ta đang nghe chính Chúa nói. Chẳng hạn, thánh Ignatiô Loyola thường nghe lời Chúa theo kiểu này bằng cách nhắm mắt lại và tưởng tượng mình đang có mặt trong hội đường Do Thái để nghe Chúa Giêsu nói. Ngài tưởng tượng ra niềm xúc động khiến giọng nói Chúa Giêsu nghẹn ngào khi Chúa đọc đến câu; “Thần khí Chúa ngự trên tôi. Và Ngài còn tưởng tượng ra nỗi phấn khích như điện giật lan chuyền nơi cộng đoàn tham dự khi Chúa Giêsu tuyên bố “Hôm nay, lời Kinh Thánh trên đã ứng nghiệm khi anh chị em nghe đọc nó”.
Như thế nghe bằng tâm trí tức là không những chỉ hiểu Lời Chúa, mà còn làm cho lời ấy trở nên sống động như thể nghe từ miệng Chúa nói ra.
Cách thứ hai là lắng nghe Lời Chúa bằng lỗ tai của trái tim, nghĩa là ghi tạc Lời Chúa vào trái tim và cố gắng tìm cách áp dụng Lời ấy vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống chúng ta. Cách đây nhiều năm, Charlie Pitts là chủ nhân một công ty xây dựng chuyên xây dựng điện ngầm ở Toronto, Canada. Công việc làm ăn của ông càng khuếch trương bao nhiêu thì đời sống cá nhân và gia đình ông càng khốn đốn bấy nhiêu. Ngày nọ, vì thấy tình thế tồi tệ quá, Charlie phải cầu cứu tới việc đọc Kinh Thánh. Tình cờ trong lúc đọc Kinh Thánh, một câu nói đập mạnh vào mắt ông; “Được lời lãi cả thế gian mà mất đi chính mình thì lợi ích gì đâu?” (Lc 9:25). Những lời này như nói trực tiếp với Charlie, như hàm ý bảo ông: “Này Charlie, chính điều ấy đang xảy đến cho ông đó!”. Như thế, nghe bằng trái tim tức là ghi khắc Lời Chúa vào trái tim và xét xem có thể áp dụng lời ấy vào hoàn cảnh cụ thể của chúng ta như thế nào.
Và cách lắng nghe Lời Chúa sau cùng là nghe bằng lỗ tai của linh hồn, nghĩa là ngoài việc ghi khắc Lời Chúa vào trái tim, chúng ta còn chuyện vãn với Ngài về Lời ấy, đồng thời làm những gì mà Charlie Pitts đã làm. Chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta thực hiện những bước cần thiết để làm cho cuộc sống phù hợp với Lời Ngài. Chẳng hạn, sau khi Charlie Pitts cầu nguyện về tình trạng sống của ông và bàn luận với vợ xong, ông liền bán toàn bộ công ty của ông trước khi hủy diệt đời sống ông. Tiếp đó, Charlie bỏ tiền ra mua một khách sạn có bãi sân gôn rổi quản trị nó”. Lợi tức của công việc kinh doanh này ông dùng để truyền bá Phúc Âm.
Như thế bước thứ ba trong việc lắng nghe Lời Chúa là tâm sự với Ngài để xem Ngài muốn chúng ta làm gì khi nghe lời đọc trên. Dĩ nhiên, chúng ta không mong Chúa dùng lời nói để đáp trả lại lời nói của chúng ta, vì Ngài thường nói với chúng ta một cách thiêng liêng từ thâm sâu linh hồn ta. Và hơn nữa, không phải là Ngài sẽ luôn luôn đáp lời chúng ta ngay lập tức trong giờ cầu nguyện, mà Ngài thường đáp lời chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, ngoài phút giây chúng ta cầu nguyện chẳng hạn, Ngài làm cho chúng ta từ từ cảm nghiệm được niềm mơ ước muốn cải tạo hoàn cảnh hiện tại, Ngài khiến chúng ta tìm ra những ý tưởng về cách thức cải tạo cảnh ngộ chúng ta về môt trong những ý tưởng trên. Nói rõ hơn, những chuyển biến tâm linh này có thể là do Lời Chúa đang âm thầm nói với chúng ta từ sâu thẳm của linh hồn
Tóm lại, chúng ta phải lắng nghe Chúa bằng ba cách;
Bằng lỗ tai tâm trí,
bằng lỗ tai trái tim
và bằng lỗ tai linh hồn.
Nói cách khác, chúng ta phải làm sao để Lời Chúa dược diễn lại sống động nơi tâm trí chúng ta, phải ghi khắc lời ấy vào trái tim chúng ta, và phải bàn bạc với Chúa cũng như lắng nghe điều Ngài muốn nhắn nhủ chúng ta qua lời ấy.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Mở cuốn Thánh Kinh, chúng ta thấy ngay sức mạnh của Lời, đó là tạo dựng nên vũ trụ vạn vật. “Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng…” (x.St 1). Thánh Gioan khởi đầu Tin Mừng bằng những dòng tuyên tín về tính siêu việt, sự tiền hữu cũng như quyền năng của Ngôi Lời: “ Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3).
Thành thật cám ơn anh em Tin Lành đã góp phần một cách nào đó để rồi trong Công Đồng Vatican II Giáo hội Công giáo mạnh mẽ khẳng định rằng Giáo hội luôn tôn kính Lời Chúa ngang hàng với Thánh Thể Chúa Kitô (x.MK số 21). Với các bài Thánh Kinh trích đọc trong Chúa Nhật III TN C này, cách riêng bài đọc thứ nhất, Thánh vịnh đáp ca và bài Tin mừng, khiến chúng ta dễ nhận ra chủ đề là Lời Chúa và hiệu năng của Lời.
Khi khẳng định mình luôn tôn kính Lời Chúa như Thánh Thể Chúa Kitô, thì Giáo hội tuyên tín rằng Lời Chúa không chỉ là những gì được Chúa phán dạy mà còn chính là một Hữu thể, một Ngôi vị siêu việt, có từ đời đời và đầy quyền năng. Và Lời quyền năng ấy cũng là Lời Tình Yêu. Chính vì thế hiệu quả của Lời được tuyên ban luôn là những sự tốt đẹp cả về sự hiện hữu lẫn cách thế hiện hữu (x. St 1). “Lạy Chúa, Lời Chúa là thần trí và là sự sống” (Đáp ca). Qua bài trích Tin Mừng thánh Luca của Chúa Nhật III TN C, chúng ta cùng xem xét một vài hiệu quả của Lời được tuyên ban vốn đã được Chúa Giêsu minh nhiên khẳng định “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 1,21).
Lấy lại lời Ngôn sứ Isaia, Chúa Giêsu minh định rằng Thánh Thần ngự trên Người, xức dầu tấn phong cho Người để Người loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Và những hiệu quả của Lời Người loan báo đó là: “công bố cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19).
Công bố năm hồng ân của Thiên Chúa: Đây là năm toàn xá đã được Thiên Chúa thiết lập trong Cựu Ước. Cuối một chu kỳ bảy năm là năm Sabat, thì phải để cho đất đai được nghỉ ngơi, không canh tác. Các nô lệ cũng được trả tự do …(x.Xh 21,2; Lv 25,1-7). Cuối chu kỳ bảy lần bảy năm và bắt đầu ngày mồng mười tháng bảy năm thứ bốn mười chín thì khởi đầu một năm toàn xá (x.Lv 25,8-54). Trong năm này đặc biệt cần phải thực thi ân tình cách khoáng đạt với người nô lệ, người nghèo, khách ngụ cư…như tha nợ, trả tự do, trả lại đồ cầm cố… Những quy định của năm toàn xá không nguyên chỉ để tái lập sự công bằng theo nghĩa công bằng phân phối, vì “ai giàu ba họ, ai lại khó ba đời!”, mà còn nói lên lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa, đặc biệt dành cho những người nghèo hèn, bé mọn, cô thân, yếu thế. Tự sức mình, những người này như bất lực để giải thoát mình khỏi cảnh bần hàn, túng khổ. Và chỉ có Thiên Chúa mới có thể giải thoát họ.
Khi công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Chúa Giêsu muốn nói đến tình yêu vô điều kiện của Cha trên trời, Đấng đã yêu thế gian đến nỗi ban chính Con Một để cho thế gian được sống và sống dồi dào (x.Ga 3,16). Sự kiện Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta là một hồng ân vô giá, vượt quá mọi công trạng của loài người. Đấng Siêu Việt mà xưa dân Chúa rất đổi kính sợ và cả kinh sợ, vì bất cứ ai thấy long nhan thảy đều phải chết, thì nay hiện diện giữa loài người và người ta có thể diện kiến, tiếp xúc, đụng chạm cách trực tiếp để được lãnh nhận ân phúc (x.1Ga 1,1).
Cho người mù được sáng mắt: Quả thật Chúa Giêsu đã dùng lời quyền năng của Người cho một vài người mù trong dân Israel thời bấy giờ được nhìn thấy ánh sáng. Tuy nhiên chắc chắn vẫn còn đó nhiều người về thể lý lúc bấy giờ chưa được lãnh nhận ân phúc. Như thế việc công bố lời ở đây không nhắm đến sự mù hay sáng của đôi mắt thể lý. Chúa đến để công bố lời giúp nhân loại nhìn thấy chân lý. Chân lý ấy chính là Người, Giêsu Kitô, cuộc sống, các hoạt động và những lời giảng dạy của Người. “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chúng cho sự thật” (Ga 18,37).
Chân lý nền tảng mà Chúa Giêsu đã từng long trọng khẳng định lại lời Kinh Thánh đó là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Đấng dựng nên mọi sự và là Cha chung của mọi người. Chúng ta phải tôn thờ, yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Yêu mến Chúa thì phải thực thi lời người phán dạy. Vì thế chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính bản thân mình, dù họ thương ta hay ghét ta, dù họ làm ơn cho chúng ta hay bách hại chúng ta (x.Mc 12,28-34; Mt 5,43-48). Chính khi bước đi trong ánh sáng chân lý thì chúng ta sẽ được tự do. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi cảnh tình nô lệ.
Giải thoát, trả tự do cho người bị áp bức, kẻ bị giam cầm: Chúng ta chớ quên rằng khi Chúa Giêsu công bố những lời này và khẳng định chúng đang ứng nghiệm thì người anh em họ của Chúa là Gioan Tẩy giả đang ở trong ngục tù. Khi sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu rằng Người có phải là Đấng phải đến chăng, thì có lẽ Gioan Tẩy giả đang băn khoăn và ít nhiều cũng đang ở trong đêm tối của đức tin (x.Lc 7,18-23).
“Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do” (Ga 8,34-36). Những lời khẳng định trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ sứ mạng của Người. Người đến thế gian là để giải phóng chúng ta khỏi cảnh nô lệ thần dữ, khỏi cảnh ngục tù của tội lỗi. Các bức tường gỗ đá của chốn lao tù vẫn không thể cướp đi sự tự do của tâm hồn. Chính tội lỗi mới làm cho chúng ta thành người nô lệ, mặc dù chân vẫn thong dong ngoài đời.
Sau lời tuyên phán “Ta truyền cho anh: Hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà” đôi chân của người bất toại được giải phóng.
Nhưng rồi phải đến ngày đôi chân ấy lại bất động vì bệnh tật hay vì tuổi tác. Chính lời truyền phán: “ Tội lỗi anh được tha” mới là lời giải thoát người bất toại khỏi cảnh nô lệ, giam cầm. (x.Mc 2,1-12)
Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã ban Ngôi Lời. Ngôi Lời là Ánh Sáng thế gian. Ánh sáng chân lý dẫn đưa con người thoát cảnh nô lệ tội lỗi đến cảnh đời tự do của phận người con được sống và sống mãi trong tình Cha trên trời. Hãy lắng nghe lời của Esdra: Đừng sầu thảm khóc lóc, nhưng hãy hân hoan vui mừng đón nhận Lời giải thoát, Lời yêu thương. Vậy hãy xét xem, bạn, tôi, chúng ta đã tham dự phần Phụng Vụ lời Chúa trong các Thánh Lễ, đặc biệt Thánh Lễ Chúa Nhật ra sao? Cũng hy vọng rằng các thừa tác viên của Lời trên giảng đài chớ quên rằng những chia sẻ của mình là một phần của Phụng Vụ Lời Chúa. Mong sao những lời ấy cũng có “quyền năng” vì là thần trí và là sự sống.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Những người có mặt trong Hội Ðường Na-da-rét hôm đó thật vô cùng kinh ngạc khi nghe Ðức Giêsu tuyên bố: Những lời hứa về Ðấng Messia mà các vị đã nghe, nay đã được hiện thực nơi tôi! Và chúng ta có thể dễ dàng hiểu được sự bất bình của những người Na-da-rét, vì trên thực tế tình hình nơi chính chúng ta cũng không khác lắm so với hoàn cảnh của họ. Vâng, chúng ta đã nghe biết sứ điệp của Giao Hội và sự đòi hỏi của nó là loan truyền ơn cứu rỗi của Thiên Chúa, nhưng ngay trong Giáo Hội, chúng ta lại cảm nghiệm được rất ít ơn cứu rỗi đó. Cách đây mấy năm, có một bạn thanh niên nói: “Giáo Hội muốn tìm cách giải thoát thế gian ra khỏi sự dữ, nhưng chính Giáo Hội lại là sự dữ!” Có lẽ đây là một lời nói quá nặng của một người đang trong tâm trạng thiếu bình tĩnh! Nhưng trong thực tế, lời nói đó đã bộc lộ điều mà nhiều người từng thầm che đậy trong lòng, khi họ cảm thấy đau khổ và thất vọng về Giáo Hội, về những tính cách nhân loại bất toàn trong Giáo Hội, như: Trước những yếu đuối, những lầm lỗi và những luật lệ khe khắt của Giáo Hội, v.v…Vì thế nhiều người đã tỏ ra dè dặt trước sứ điệp cứu rỗi mang tính cách thiên sai do Giáo Hội loan báo, cũng như đã đánh mất dần lòng tin tưởng vào sứ vụ và sự thánh thiện của Giáo Hội.
Vấn đề khó khăn đó của con người ngày nay, cũng chính là vấn đề của những người Do-thái ở Na-da-rét xưa kia. Họ biết Ðức Giêsu là ai, và họ cũng cho là mình biết rõ Ðấng Messia phải như thế nào. Theo họ, Ðức Giêsu, người đồng hương của họ và hình ảnh mà họ vẫn có được về một Ðấng Messia, hoàn toàn không trùng hợp với nhau. Nói cách khác, người anh em đồng bào Giêsu này của họ không thể là Ðấng Thiên Sai từng được toàn dân mong chờ từ hàng thế kỷ nay.
Thế mà ngày nay, tuy chúng ta nhận thức được rằng Thiên Chúa đã xuất hiện trong thế gian qua con người Ðức Giêsu Na-da-rét, một cách hoàn toàn bất ngờ và trái ngược với quan điểm và sự chờ đợi của những người Do-thái xưa kia, nhưng tương tự như hai môn đệ Em-mau xưa (x Lc 24,25), chúng ta vẫn không tránh được những khó khăn, một khi chúng được mời gọi: Phải rút tỉa ra từ sự nhận thức về sự kiện Thiên Chúa nhập thể trong con người Ðức Giêsu, những hiệu quả cụ thể cho cuộc sống của mình và đồng thời không còn đem những quan niệm nhân loại hẹp hòi của mình ra để đo lường và phê phán về Thiên Chúa và chương trình cứu rỗi của Người nữa. Thí dụ: Khi chúng ta khắt khe đòi hỏi Giáo Hội phải hoàn toàn tinh tuyền và hoàn hảo thế này thế kia, thì chúng ta đã quên đi là chính mình đang ngồi trên cùng “một hàng ghế” với những người Do-thái xưa kia ở trong Hội Ðường Na-da-rét, những người đã chờ đợi một Ðấng Messia xuất hiện uy hùng trong vinh quang Thiên Chúa, đến nỗi không một ai còn dám nghi ngờ được sứ vụ thiên sai của Người nữa! Trong khi đó, Ðấng Messia, Ðấng Thiên Sai lại đã xuất hiện trong thế gian hoàn toàn khác hẳn: Người đã đến như một người bình thường, yếu đuối, chứ không có hào quang rực rỡ nào cả; nhưng lòng tin tưởng phó thác của Người vào sự cứu rỗi và sức mạnh của Thiên Chúa thì hoàn toàn tuyệt đối. Ðức Giêsu không cần đến quyền bính hay sự vinh quang rực rỡ bên ngoài. Người chỉ biết tuân phục và thực hiện thánh ý Thiên Chúa Cha, và Người hoàn toàn phó mặc cho Thiên Chúa hướng dẫn sứ mệnh của Người đến chỗ thành công, cũng vì thế Người đã khước từ tất cả mọi phẩm chất thần thiêng, để sống hòa mình vào cuộc sống hằng ngày của con người như một người trong họ. Thánh Phaolô viết trong Thư gửi Phi-líp-pê: “Ðức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như mọi người trần thế” (Pl 2,6-7).
Do đó, kể từ Ðức Giêsu cuộc sống hằng ngày của con người mang dấu ấn thần thiêng. Ðể tìm gặp Thiên Chúa, con người không cần phải rời bỏ thế gian, và con người cũng không cần phải chờ đợi một dấu hiệu đặc biệt về sự gần gủi của Thiên Chúa. Thay vào đó, con người cần phải tin vào sự gần gủi của Thiên Chúa trong chính cuộc sống hằng ngày của mình, và qua chính những kinh nghiệm về nghèo khổ, tật nguyền, mù lòa và đau ốm (x. Lc 4,18). Tuy nhiên, để đạt được điều ấy, trước tiên chính con người phải có những kinh nghiệm đó đã. Vâng, khi một người càng ý thức được sự nghèo nàn của mình, thì càng hiểu rõ được “Năm hồng ân của Thiên Chúa” có ý nghĩa gì; đó chính là: Dù cho vương vấn mọi lầm lẫn và tội lổi, con người vẫn không bị xua đuổi loại trừ và không phải lo âu bối rối. Niềm hy vọng và tương lai luôn mở rộng trước mắt con người. Giáo Hội luôn ý thức được điều đó, nên luôn tìm cách gần gủi với con người để giúp cho con người đạt tới được một cuộc sống sung mãn. Dĩ nhiên, Giáo Hội đã và sẽ không luôn luôn thành công trong công tác nâng đỡ con người như thế. Giáo Hội còn có thể làm nhiều hơn nữa, nhân bản hơn nữa, hành động đầy yêu thương hơn và bộc lộc được sức sống của mình một cách mãnh liệt hơn nữa, v.v…!
Thiên Chúa đã xuất hiện trong thế giới này qua con người Ðức Giêsu và chỉ cho chúng ta biết phải sống và phải cư xử thế nào: Ðó là phải bắt chước gương Ðức Giêsu mà biết thông cảm nỗi cơ cực của kẻ khác và tìm cách mang tới cho họ sức sống mà chính Thiên Chúa đã ban cho chúng ta và còn tiếp tục ban cho chúng ta.
Những con người biết ý thức và thực thi được điều đó, thì không còn khổ sở và khó chịu về những yếu đuối và lầm lỗi của kẻ khác nữa, trái lại tìm cách giúp đỡ họ điều họ đang cần, như: Một lời nói đầy thông cảm, một cử chỉ thân thiện, một cái mĩm cười thanh thản vui tươi, dành cho họ một chút thời giờ, v.v… Tất cả những điều đó hoàn toàn phản chiếu tinh thần Phúc Âm – và đều nằm trong tầm tay của chúng ta, bất cứ ai cũng đều làm được – vì thế chúng là dấu chỉ sự gần gủi của Thiên Chúa – cả hôm nay nữa -, là dấu chỉ tiên báo ơn cứu rỗi mà Ðức Giêsu đã công bố trong Hội Ðường Na-da-rét năm xưa, tức: “Giải phóng người bị cầm tù, mang lại ánh sáng cho người mù lòa, trả tự do người bị áp bức và loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ” (Lc 4,18). Amen.
Hội đường là nơi tụ họp có tính cách tôn giáo của người Do Thái. Đồng thời, ngày Sabat, tức là ngày nghỉ lễ được cử hành tại hội đường, với việc nghe đọc Thánh Kinh và diễn giảng. Mọi người Do Thái trưởng thành, tức là từ 30 tuổi trở lên đều có thể được đề nghị hay tình nguyện lên đọc và giải thích Kinh Thánh.
Trở về Nadarét lúc này, Chúa Giêsu đã trên 30 tuổi, cho nên Ngài đã tham dự vào sinh hoạt của cộng đồng tại quê nhà. Theo thánh Luca cho biết, Chúa Giêsu đã nhiều lần giảng dạy trong các hội đường và lời giảng dạy của Ngài hẳn đã có được một sức lôi cuốn và hấp dẫn, vì chẳng bao lâu, tiếng tăm Ngài đã được làn truyền khắp vùng. Tất cả bầu khí phấn khởi này được sử dụng như là phần nhập đề cho Tin Mừng lớn lao, mà Ngài sẽ rao giảng tại hội đường Nadarét, như là một xác định lập trường và công bố chương trình hành động của Ngài. Vậy lập trường ấy như thế nào và chương trình hành động của Ngài ra làm sao?
Tôi xin thưa: Lập trường ấy, chương trình hành động ấy xoay quanh lời loan báo của tiên tri Isaia: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu tấn phong tôi và sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, giải phóng những kẻ bị giam cầm, làm cho người mù được sáng, trả lại tự do cho những người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Lời loan báo này có nghĩa là thời cứu chuộc đã bắt đầu, và Chúa Giêsu, người đang đọc và cắt nghĩa đoạn tiên tri này, chính là Đấng đã được Thiên Chúa xức dầu và sai đến để thực hiện ý định cứu chuộc mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.
Lời giải thích của Chúa Giêsu thật ngắn gọn nhưng lại vô cùng quan trọng, đặt người nghe trước một bối cảnh mới, trước một thời đại mới: Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe. Có thể xưa cũng như nay, nhiều người đã chờ đợi ở Vị Cứu Tinh những việc cả thể và lớn lao, những chiến công lừng lẫy và oanh liệt. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã xuất hiện như một con người nhân từ và dịu hiền, luôn quan tâm tới những đau khổ của con người khổ đau, lấy việc giải thoát họ như là nội dung của sứ mạng mình được sai đến và phải thực hiện. Trước mặt Ngài, thời cứu độ là thời tái lập lại trật tự và tình thương giữa người với người.
Lời tuyên bố của Chúa Giêsu tại hội đường năm xưa chính là một sự thách đố đối với cá nhân mỗi người chúng ta, cũng như đối với toàn thể Giáo Hội, bởi vì cá nhân chúng ta cũng như Giáo Hội có nhiệm vụ tiếp nối sứ mạng cứu độ của Chúa nơi trần gian, thế nhưng cá nhân chúng ta cũng như Giáo Hội đã thực sự tái lập trật tự và tình thương yêu giữa người với người hay chưa?
Khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu được Thần Khí thúc đẩy, hướng dẫn, ngự trị và tràn đầy quyền năng. Đây là một hành trình, là thời gian đặc biệt cho một cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Đây là thời gian hồng ân của Chúa cho nhân loại (Lc 4, 19), nhưng cũng là thời gian thách đố của con người trước Tin Mừng Chúa Giêsu loan báo và mời gọi thực thi.
– Đây Là Thời Gian Hồng Ân vì là thời Thiên Chúa trực tiếp gặp gỡ con người qua Đức Giêsu Kitô – Đấng được Xức Dầu và tràn đầy Thần Khí. Là lúc Thiên Chúa thi ân giáng phúc cho con người, nhất là những người nghèo khó: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19). Đây có thể được gọi là tuyên ngôn cứu thế của Chúa Giêsu. Với những từ ngữ, những cử chỉ, những việc làm cụ thể và sự đón tiếp của Chúa Giêsu với những người nhỏ bé nghèo hèn, những người bị tước đoạt tự do, họ đang bị giam cầm trong nhiều hình thức, những người mù không thấy được vẻ đẹp của vũ trụ và muôn tạo vật, những người đang đau khổ vì bất công, những người đang bị gạt ra lề của tôn giáo và xã hội, những người tội lỗi đang sống với tâm hồn tan nát… và Người mở lòng cho tất cả những ai khốn cùng.
Chúa Giêsu diễn tả lời của Thiên Chúa cách xác thực, nghe được, thấy được và hiện diện giữa con người. Người trở nên dấu chỉ tình yêu hữu hình của Chúa Cha cho nhân loại. Người hiến thân cho Tin Mừng mà Người vừa công bố và làm cho Tin Mừng ấy hiện thực để con người có thể mắt thấy tai nghe và hưởng tràn trề hồng ân cứu độ của Thiên Chúa “Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng…” (Lc 7, 22-23).
Bằng lời giảng dạy, qua lối sống và những hành động cụ thể, Chúa Giêsu mạc khải và thể hiện tình yêu của Người đối với nhân loại. Người xót thương thân phận con người hữu hạn và mong manh của chúng ta nên Người biểu lộ lòng thương xót đặc biệt cho những ai đau khổ, bất hạnh, tội lỗi. Và tình yêu thương xót ấy không chỉ là Lời chúng ta nghe nhưng là việc làm trên đôi tay của Chúa Giêsu mà chúng ta có thể thấy, chứng nghiệm vì: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe.” (Lc 4, 21) Lời ứng nghiệm trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu và đỉnh cao là cái chết và sự phục sinh của Người để giải thoát, để cứu nhân loại cách trọn vẹn.
– Thế Nhưng Đây Cũng Là Thời Gian Thách Đố Của Chúng Ta, vì đứng trước tình yêu thương của Thiên Chúa và Tin Mừng Chúa Giêsu loan báo, chúng ta không chỉ lãnh nhận, nghe, thấy nhưng Người đòi hỏi chúng ta phải để cho tình yêu và Tin Mừng hướng dẫn cuộc sống chúng ta. Sứ mạng của Chúa được tiếp nối nơi chính chúng ta là những Kitô hữu, như lời nhắn nhủ của ĐTC Phanxicô: “Ước gì những lời Chúa Giêsu công bố sẽ được trở nên tái rõ ràng trong việc đáp trả phát xuất từ đức tin, cũng như trong chứng tá đời sống mà tất cả các Kitô hữu đều được mời gọi để cho đi.” (Trích Tông Sắc Misericordiae Vultus số 16)
Chúa Giêsu đã trở nên mẫu gương cho chúng ta bằng những việc làm cụ thể biểu lộ tình yêu và Người mời gọi chúng ta là những môn sinh của Người đã lãnh nhận nhưng không thì cũng hãy trao ban cách nhưng không. Người đã từng mời gọi các môn đệ “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi.” (Mc 6, 37) Hãy yêu thương bởi vì đó là huấn lệnh của Chúa và là giới luật cốt yếu của Tin Mừng. Chúng ta là chi thể của thân thể Chúa Kitô, mỗi người có trách nhiệm và bổn phận yêu thương, nâng đỡ những chi thể khác như lời thánh Phaolô khuyên: “Vậy anh em là thân thể Đức Kitô và mỗi người là một bộ phận. Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau.” (1Cr 12, 27.25) Chúng ta hãy là những cánh tay nối dài của Chúa, mang đến cho người nghèo một cử chỉ ủi an, nâng đỡ và trao lại ánh nhìn tin yêu hy vọng cho những ai thất vọng sầu khổ…Hãy họa lại khuôn mặt của Chúa Kitô, hãy đặt Lời của Người trên bàn tay của chúng ta và hãy để Thần Khí hướng dẫn chúng ta trong từng việc phục vụ, trong từng nhịp sống bác ái xót thương.
Nguyện xin Chúa Giêsu- Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa ở cùng chúng con và xin ban tràn đầy quyền năng Thánh Thần, giúp chúng con biết đem Tin Mừng thực thi cách thiết thực trong cuộc sống chúng con. Amen.
Hôm nay lời Kinh Thánh đã được ứng nghiệm. Nếu tìm hiểu Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu đã thực thi mọi lời tiên tri nói về Ngài từ hàng trăm năm trước. Đó là một bằng chứng xác quyết Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại.
Chẳng hạn về việc Ngài được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, thì tiên tri Isaia đã loan báo:
– Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi con trẻ ấy là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Chẳng hạn về việc Ngài sinh ra ở Bêlem, thì tiên tri Mikêa đã nói:
– Và ngươi hỡi Bêlem xứ Giuđêa, ngươi không phải là một thành trì nhỏ bé, bởi vì từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị nhà Israel.
Chẳng hạn việc Thánh Gia trốn sang Ai Cập, tiên tri Ôsê đã loan báo:
– Ta sẽ gọi con Ta ra khỏi đất Ai Cập.
Nhất là những biến cố trong quãng đời công khai và cuộc tử nạn của Ngài, cũng đã được ứng nghiệm một cách hết sức đầy đủ, chẳng hạn về cuộc khải hoàn, tiến vào Giêrusalem một cách long trọng, thì tiên tri Giacaria đã mô tả:
– Hỡi Giêrusalem, này vua ngươi đang đến, Ngài cưỡi trên lừa con.
Về cái chết của Ngài, tiên tri Isaia đã công bố:
– Người ta đánh đập Ngài, nhưng Ngài đã bằng lòng chấp nhận, như con chiên yên lặng trước người thợ xén lông.
Và còn nhiều biến cố, còn nhiều sự việc khác nữa, Chúa Giêsu đã thực hiện đúng như lời các tiên tri đã loan báo. Và như chúng ta đã xác quyết: Điều đó chứng tỏ Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa.
Mỗi lời tiên tri là một lời nói trước, về một biến cố nào đó sẽ xảy ra, liên quan đến hành động tự do của Thiên Chúa. Những lời nói trước về Đức Kitô, được Thiên Chúa tỏ bày cho các tiên tri, để rồi chính các tiên tri đã công bố hàng trăm năm về trước cho dân Do Thái.
Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta phải tin nhận rằng Đức Kitô đã đến với chúng ta, Ngài là Thiên Chúa, là Đấng cứu độ muôn dân mong đợi, như trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã dẫn chứng lời tiên tri Isaia, để xác quyết rằng Ngài là Thiên Chúa đã đến trong trần gian để cứu chuộc những người nghèo đó, khổ đau và bất hạnh. Hơn thế nữa, chính Chúa Giêsu cũng nói tiên tri về những chuyện sẽ xảy ra và tất cả đều đã được ứng nghiệm. Chẳng hạn Ngài đã tiên báo về sự sụp đổ của Giêrusalem: Rồi đây sẽ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào.
Và sự thực đã xảy ra như vậy. Vào năm 70, tướng Titus, người Rôma, đã mang quân vây hãm Giêrusalem. Sau khi đã lọt được vào trong thành, họ đã đốt phá và san bằng thành phố.
Còn chúng ta thì sao? Trong giờ phút quan trọng này, chúng ta cũng đang sống lại những biến cố đã được ứng nghiệm: Thánh lễ là sự giáng sinh, là cái chết và phục sinh của Đức Kitô được lặp lại trên bàn thờ này. Thế nhưng chúng ta có đón nhận lời Chúa cùng với Bí tích Thánh Thể một cách trang nghiêm và sốt sắng, hay chúng ta lại cứng lòng như dân làng Nadarét, để cuối cùng đã xua đuổi Chúa, và tìm cách xô Ngài xuống vực sâu.
Trong quyển sách mang tựa đề “Chuyện ở đời”, có một câu chuyện như thế này: Ông chủ điền nọ rất giàu có. Ông cho các tá điền mướn đất làm ăn canh tác. Nhưng rồi sau một thời gian làm ăn thất bại, các tá điền lâm vào cảnh túng th iếu nợ nần, nên không thể đóng thuế cho chủ theo đúng kỳ hạn được. Và dù biết rằng ông chủ mình rất tốt bụng, nhưng họ vẫn áy náy lo sợ vì không biết chủ sẽ hoãn nợ cho mình được bao lâu. Một ngày nọ, tất cả các tá điền được mời tới để ông chủ gặp mặt. Ai nấy đều hồi hộp sợ ông chủ thu hồi lại đất vì họ không còn khã năng để đóng thuế nữa. Khi mọi người có mặt đông đủ thì người quản lý của ông chủ bước ra và nói: “ông chủ biết chắc là ai trong các ngươi cũng không đủ khả năng để đóng thuế, cho nên ông chủ nhờ tôi nói cho các người hay ” Nói tới đây, viên quản lý ngừng lại, và dường như tim của các tá điền cũng ngừng đập theo, và rối viên quản lý nói tiếp: “..hôm nay tôi mang đến cho các ngươi một tin mừng, đó là ông chủ quyết định tha hết nợ nần cho các ngươi. Từ nay các ngươi cứ an tâm làm ăn sinh sống “. Thế là mọi người sung sướng reo hò. Họ ôm nhau múa nhảy hát ca. Sau nhiều năm vất vã cực nhọc, hôm nay họ mới nhận thấy ánh sáng mặt trời là tươi đẹp, tiếng chim hót trên cành rất thanh thót, cây cỏ chung q uanh mình thật rực rỡ và đáng yêu.
Thưa quý ông bà và anh chị em! Câu chuyện trên đây phần nào giúp chúng ta hiểu được điều mà Giáo hội muốn trình bày trong phần Phụng vụ Lời Chúa của Thánh lễ hôm nay: “Chúa Giêsu là niềm vui cứu độ”. Niềm vui đó không phải là những lời loan báo suông với những hứa hẹn, mà là chính con người của Chúa Giêsu, cùng với những lời loan báo thật chính xác của tiên tri Isaia về Người: “Thánh Thần chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, Công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”. Đây là một tin mừng mà Người Quản Lý của Thiên Chúa mang tên là Đức Giêsu Kitô đã đem đến cho tất cả mọi người. Quả thật, nếu đọc lại tất cả những gì đã được ghi chép trong phúc âm, chúng ta sẽ th ầy được rằng: Đức Giêsu đã thực hiện từng câu từng chữ một trong lời giới thiệu của tiên tri Isaia qua những lời dạy dỗ, các phép lạ, và qua cung cách ứng xử của Người. Chính vì thế mà hôm nay Người hoàn toàn có đầy đủ tư cách để tuyên bố trước mặt mọi người rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm đoạn Thánh Kinh mà tai các ngươi vừa nghe”. Nói khác đi là hôm nay, Đức Giêsu muốn nói cho mọi người biết rằng: Người chính là Đấng Cứu Thế, là người Tôi Tớ Giavê mà Isaia đã loan báo thủơ nào. Lời của tiên tri Isaia vi ết về sứ mạng của chúa Giêsu, cũng là lời viết cho sứ mạng của Giáo hội ở mọi nơi và mọi thời, nhất là trong thời đại này, sứ mạng ấy càng trở nên cấp bách và khẩn thiết hơn.
Đứng trong ngôi nhà Giáo hội, chúng ta cũng mang lấy chính vai trò của người mẹ mình, đó là tiếp tục sứ mạng của Chúa, là nối dài những công việc mà Người đã làm, là đem tinh thần của Người đến với tất cả các môi trường mà chúng ta đang sinh sống và làm việc. Sứ mạng này chúng ta đã nhận lấy trong ngày lãnh Bí tích Rữa tội khi Giáo hội tuyên bố: “Con đã trở nên ánh sáng Chúa Kitô. Con hãy dùng chính đời sống tốt lành của con để giúp những người chung quanh nhận biết được ánh sáng của Chúa”. Thế nhưng bây giờ thử hỏi rằng: Chúng ta đã đón nhận lời đó ra sao? Chúng ta đã sống, chúng ta đã thực hiện lời đó trong mức độ nào? Có bao giờ chúng ta đón nhận lời của Chúa giống như là dân Do Thái trong câu chuyện của bài đọc thứ nhất không? Tác giả của bài đọc một thuật lại là: ngày hôm ấy, Thầy Tư Tế Esdras không phải là chỉ đọc vài ba phút như chúng ta ở đây, mà Thầy đã đọc từ sáng cho tới trưa. Vậy mà không ai càn nhằn trách móc, không ai bỏ ra về cả. Khi Thầy Tư Tế mở sách ra thì toàn dân đều đứng dậy, họ cúi mình, họ phủ phục sát đất để nghe lời của Chúa. Và tác giả cho biết thêm là mọi người đều khóc trong ngày hôm đó.
Họ khóc không phải mỏi chân hay dài dòng, cũng chẳng phải vì đó là những luật lệ mà họ phải gánh vác, mà họ khóc vì họ đã cảm nghiệm được tình thương của Chúa dành cho họ. Vì tình thương, vì muốm bảo vệ, vì muốn họ nên tốt hơn, mà Chúa đã ân cần ban lời của Chúa cho họ.
Thưa anh chị em! Chúa chúng ta đã hứa rằng:
“Điều Ta dạy, con ơi giữ cho thật đúng
Tuân cứ lệnh Ta, con sẽ sống một đời “.
Vâng! quá rõ ràng, quá dứt khoát. Lắng nghe và sống Lời Chúa là con đường duy nhất dẫn chúng ta về “Trời mới đất mới”, nơi mà ánh sáng mặt trời luôn tươi đẹp, tiếng chim trên cành luôn thánh thót, cây cỏ luôn rực rỡ muôn màu. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho nhau, để khi bước qua năm mới dương lịch này, chúng ta cãm nhận được tình thương của Chúa trong cuộc sống của mình, thì chúng ta cũng sẵn lòng đón nhận lời dạy của Người như là một hướng dẫn tốt nhất cho con thuyền cuộc đời của mình. Đón nhận không phải là để cho riêng mình, nhưng là để chia sẻ lại những lời đó cho người khác bằng một đời sống chân thành đầy bác ái, để qua đó, mọi người khi nhìn thấy đời sống tốt lành của mình thì cũng thốt lên rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Thánh Kinh mà chúng tôi vừa nghe”.
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” Đây là lời đã được tiên tri Isaia tuyên sấm từ xa xưa trong Cựu Ước. Hôm nay Chúa Kitô nhắc lại và tuyên bố: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”, Chúa đã làm cho lời sấm của tiên tri Isaia thành hiện thực và chính Chúa là người thực hiện lời sấm ấy.
Chúa đến để “mang Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”. Đó là những người nghèo tiền bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tiếng nói… Chúa Kitô được sai đến với những người bị giam cầm, thiếu thốn tự do bởi nhiều sự trói buộc. Những trói buộc đó có thể là nỗi lo sợ về muôn điều đe dọa về vật chất cũng như tinh thần; hoặc có thể là sự hoang mang bởi nhiều nỗi lo, nỗi chán chường; hoặc bị trói buộc bởi những ích kỷ tham lam…
Chúa Kitô ưu tiên dành cho người nghèo trong trái tim của Người. Đúng thôi, bởi người giàu có thì có quá nhiều việc phải lo. Thời gian đâu còn, cả tâm hồn cũng không lúc nào trống để Lời Chúa có thể đến và lớn lên. Vì thế, trong Tin Mừng, chúng ta nhận ra, những lời ngọt ngào, dịu dàng, Chúa Kitô đều dành cho những người nghèo khó, người bé mọn: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5, 11); Hoặc: “Đức Giêsu cất tiếng nói: ‘Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (11, 25)…
Trong khi những lời gay gắt nặng nề, Chúa lại không tiếc để chỉnh đốn, trách cứ người giàu có, người có quyền hành: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ vào” (Mt 23, 13); “Chúa nói rằng: ‘Thật, nhóm Pharisêu các ngươi, bên ngoài chén đĩa, thì các ngươi rửa sạch nhưng bên trong các ngươi thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. Đồ ngốc! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao? Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các ngươi” (Lc 11, 39-41).
Đọc Lời Chúa hôm nay, chúng ta ý thức hơn thế giới quanh chúng ta còn nhiều người nghèo. Họ nghèo từ tinh thần đến vật chất. Họ cần sự quan tâm, chia sẻ của chúng ta. Ước gì mỗi người đều hiểu rằng, cuộc sống sẽ đẹp hơn, hạnh phúc hơn khi có những người giàu quan tâm đến người nghèo, người nghèo quan tâm đến người nghèo hơn, khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau mà sống liên đới đùm bọc lấy nhau…
Lạy Chúa Thánh Thần, xin đến tràn ngập tâm hồn chúng con, như xưa Chúa đến và hoạt động nơi Chúa Kitô, để chúng con cũng có một tấm lòng giàu tình yêu thương bác ái như Chúa Kitô. Xin cho chúng con luôn tìm đến vơi anh chị em hơn là tìm an thân cho mình, để nhờ biết quan tâm lẫn nhau, chúng con có hạnh phúc và bình an. Amen.
(Suy niệm của Lm. Đaminh Hương Quất)
Tại Hội Đường quê nhà, hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố lời tiên báo cúa sứ ngôn Isaia: “Thần khí Chúa ngự trên tôi… sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” đã được ứng nghiệm nơi chính Ngài. Ngài chính là Đấng Kitô đem Loan báo và đem Tin Mừng Cứu độ cho dân tộc cho muôn dân.
Cụ thể hơn, Chúa Giêsu sau một thời gian đi Rao giảng Tin Mừng Ngài nổi tiếng khắp nơi. Hôm nay Người trở về quên hương Nararet, vào Hội trường quen thuộc, nơi mà những năm sống ẩn dật Chúa vẫn thường đến, nhất là Ngày xa bát để như mọi người Do Thái đạo đức khác để tôn thờ và nghe Lời Chúa. Tại đây, trong một bối cảnh trang nghiêm và chính thức, Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động của Ngài: Với tư cách là Messia được Thánh Thân Chúa tấn phong, Ngài được sai đi loan Tin Mừng cho những người nghèo hèn, khốn khổ. Như thế là Ngài thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia. (x.HGNM)
Sau khi công bố lời Sứ ngôn Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tơi, vì Ngà xức dầu cho tơi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”.
Ngay sau đó, Chúa Giêsu công bố: Lời sứ ngôn trên đã được ứng nghiệm nơi chính Ngài. Trong Chúa Thánh Thần Chúa Giêsu đã hoàn thành viên mãn sứ vụ Loan báo Tin Mừng cứu độ mà chính ngài là Tin Mừng Cứu độ.
Điểm độc đáo, công cuộc Công bố Tin Mừng Cứu độ Chúa Giêsu không chỉ cho riêng Ngài. Ngài ủy quyền cho Giáo hội và không ngừng mời Giáo hội tiếp tục thực thi công cuộc Loan báo Tin Mừng mang tính bản chất của Giáo hội.
Quả thế, Chúa Giêsu ngay sau khi Phục Sinh đã ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ để tiếp tục sứ vụ Loan báo Tin Mừng Cứu độ đến với muôn dân, cho đến ngày tận thế. Đấng Phục Sinh nói: ‘Như Cha đã sai Thầy Thầy cũng sai anh em… Anh em hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần” (Ga 21, 21-23)
Tuy nhiên, chỉ khi nhận ơn Chúa Thánh Thần trong biến cố Ngũ Tuần Giáo hội mới chính thức khai mạc sứ vụ Loan báo Tin Mừng cho muôn dân.
Thật vậy, khi nhận viên mãn ơn Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ Tuần, các Tông đồ, các Kitô hữu tiên khởi của Giáo hội sơ khai đã hăng say, can đảm dấn thân phục vụ cho công cuộc Truyền giảng Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, không sợ gian khó, chẳng ngại hiểm nguy, ngay cả tính mạng cũng chẳng nề. Thậm chí, các ngại có kinh nghiệm sống động: “Khốn cho tôi nếu không rao giảng Tin Mừng’…
Nhờ Bí tích Rửa Tội mỗi chúng ta đã được Thánh hiến cho Chúa Giêsu, trở thành chi thể của Chúa Giêsu. Thánh Phaolo trong bài đọc 2 đã khẳng định rõ điều đó. Thánh nhân quả quyết Mỗi Kitô hữu là thân thể, là chi thể của Chúa Giêsu.
Trong Giáo hội Hiệp thông và Sứ vụ, là chi thể của Chúa Giêsu vấn đề trong Chúa Thánh Thần ta có tiếp tục Công cuộc loan truyền Tin Mừng của Chúa Giêsu không; có để Chúa Thánh Thần biến đổi để như Chúa Giêsu tích cực sống đời chứng nhân Tin Mừng…
Nói cách khác,
Trong sức mạnh Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu quả quyết: Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”
Đây chính là điều đáng để mỗi chúng ta nghiệm xét.
Tôi là chi thể- thân thể Chúa Giêsu, vậy ta có tiếp tục để cho Lời Chúa ứng nghiệm trong đời sống mình hay chưa?
Ta có là dấu chỉ, là hiện thân của Thiên Chúa Tình yêu hay chưa?.
Chủ để sống Năm thánh của Giáo phận: ‘Sống và Loan báo Lòng thương xót của Chúa’ có hiện tại hóa trong lời nói việc làm của mình hay chưa?.
Ngày 25.01 tới, giáo xứ chúng ta có niềm vui Hồng ân được Đức cha Giuse về làm phép nhà Giáo lý, nhất là Ban Bí tích Thêm Sức cho hàng trăm con em chúng ta.
Khi cử hành Bí tích Thêm Sức, Mẹ Giáo hội hiện tại hóa Ngày lễ Ngũ Tuần xin Chúa Ban Chúa Thánh Thần cho các thụ nhân để kiện toàn ơn Bí tích Rửa Tội. Để chứng thực và giúp trở thành chiến sĩ Loan báo Tin Mừng, can đảm sống Đức tin.
Đấy cũng là dịp tốt để mỗi chúng ta nhìn lại Bí tích Thêm Sức mà mình đã lãnh nhận, xem mình có để Chúa Thánh Thần giúp sống Đức tin, để Lời Chúa ừng nghiệm nơi đời sống mình hay chưa.
Bài đọc 1 trích sách Nơ- khê-mi-a cho ta hình ảnh đáng suy nghĩ. Dân Do Thái, cách đây hơn 2500 năm, sau nhiều năm lưu đầy, lần dầu tiên toàn thể dân Chúa đã được quy tụ tại quảng trường để nghe kinh sư Ét-ra, thống đóc Nơ-khơ-mi-a và các thầy Lêvi giải thích Lời Chúa. Khi nghe Lời Chúa, dân đã ăn năn khóc lóc, phủ phục thờ lạy Đức Chúa [1].
Họ đã để cho Lời Chúa đụng chạm đến đời mình, còn chúng ta, mang danh là Kitô hữu – là thân thể- chi thể của Chúa Giêsu có để Lời Chúa đụng chạm đến con tim mình chưa!
Quả là rất buồn, khi nghe đây đó trong chúng ta, giữa chúng ta còn những hiềm khích, đố kỵ, gian tham, nghi ngờ làm hại nhau…. Chỉ vì vài trăm ngàn ta sẵn sàng xâm hại đến phẩm giá người khác, chà đạp tín uy, xúc phạm đến tình người… Nhiều khi ta sống còn tệ hơn những người chưa biết Chúa. Không đâu xa, đôi khi là hàng xóm của nhau, anh chị em nhau, thậm chí ngay trong một gia đình.
Giáo hội đang trong tuần lễ cầu nguyện cho sự Hiệp nhất Giáo hội, liệu ta có ý thức để xây dựng gia đình hiệp nhất, công đoàn hiệp thông trong yêu thương; Giao hòa với Chúa gắn liền với giáo hòa anh chị em.
Xin Thánh Thần của Chúa Giêsu hãy đến và thúc đẩy mỗi chúng con ý thức, hăng say và can đảm dấn thân trong sứ vụ loan báo Tin Mừng, biết Sống Và Loan Báo Lòng Thương Xót Của Chúa.
———————–
[1] Lm Phaolo Nguyễn Văn Đông, Tin Mừng Chúa Nhật Năm C, tr.176
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Thánh Luca đã đề tặng sách Tin Mừng của ngài cho một người tên Thêôphilê. Ông này là ai?
Không ai biết. Thánh Luca viết bằng tiếng Hy Lạp và độc giả của ông là một người mang tên Hy Lạp có nghĩa là “người yêu mến Thiên Chúa”. Theo những nhà chuyên môn về Kinh Thánh, thì có lẽ có một người nào đó thân với thánh sử và ngài đã đề tặng sách Tin Mừng này cho ông, nhưng cũng có thể là một tên tượng trưng mà thôi chỉ những người “yêu mến Thiên Chúa” tức là những tín hữu.
Thánh Luca công nhận rằng, “đã có nhiều người ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã xảy ra giữa chúng ta…” và họ đã viết theo những chứng nhân trực tiếp của những biến cố này, đó là các Tông đồ.
Thánh Luca là đồ đệ của thánh Phaolô, ngài không trực tiếp gặp các Tông đồ, nhưng đã “cẩn thận điều tra”, vì thế sách Tin Mừng của Ngài có thể được xem là đáng tin và vững chắc.
Mặc cho những nhà chú giải (thường là Tin Lành) nghi ngờ sự xác thực của các sách Tin Mừng, chúng ta vẫn tin theo sự hướng dẫn của Giáo hội, và chúng ta được bảo đảm khỏi những nghi ngờ lầm lạc.
Đạo Công giáo không phải là một lý thuyết như bao nhiêu lý thuyết khác, luôn thay đổi và sai lầm. Đạo Công giáo là đón nhận Thiên Chúa, được mạc khải qua Chúa Giêsu Kitô, Con Một Chúa Cha hằng hữu,
– đón nhận những gì Thánh Truyền của các Tông đồ là những chứng nhân trực tiếp của Chúa Giêsu, truyền lại,
– đón nhận trong sự vâng phục theo ánh sáng của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta không phải là những nhà chuyên môn, họ đã tìm kiếm suy nghĩ thay chúng ta và nhờ đó đức tin của chúng ta không bị sai lệch, không tròng trành theo chiều gió của những lý thuyết linh tinh”.
Sau khi đã xác định ý hướng của ngài khi viết sách Tin Mừng (mà chúng ta gọi là Tin Mừng thứ ba), ngài đưa chúng ta đối diện với chính Chúa Kitô nhập thể.
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta ngắm nhìn Chúa Giêsu khi Ngài giảng ở Hội đường Nadaret, nơi chôn nhao cắt rốn của Ngài. Ngài vào hội đường ngày sabat. Ngài giữ Luật như mọi người Do Thái.
Theo tập tục của người Do Thái, trong phụng vụ của Hội đường thì có hai phần trong việc đọc Kinh Thánh ngày sabat: một bài đọc về Luật thì do một vị trong Hội đường đọc và giải thích, bài đọc thứ hai là bài đọc các tiên tri, thì do một người nào đó “có máu mặt” trong dân được mời đọc, miễn là trên ba mươi tuổi.
Chúa Giêsu đã từng rao giảng nhiều nơi và thánh Luca ghi rõ: “Được quyền năng Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê và tiếng tăm Người đồn ra khắp miền lân cận” (Lc 4,14). Ngài đã nổi tiếng, vì thế khi về Nadaret, người ta mời Ngài đọc Sách Thánh và giảng dạy.
Ngài đọc đoạn tiên tri Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. “Gấp sách lại đưa cho ngườigiúp và công bố: “Hôm nay, đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. (Lc 4,18-21)
Một lời tuyên bố thật lạ lùng!
Lời tiên tri được viết cách đó hơn năm trăm năm, hôm nay được ứng nghiệm. Được ứng nghiệm như thế nào? Nơi tôi. Chính tôi làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh đó. Rất tiếc rằng thánh Luca không ghi lại nội dung bài giảng hôm đó. Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng Chúa Giêsu đã cho mọi người hiểu rằng hồng ân Chúa đã đến, không còn trì hoãn nữa. Những lời tiên tri đó báo trước những hồng ân của Thiên Chúa ban cho dân Người là hôm nay, trong lúc hiện tại này. Ơn tha thứ đã đến.
Từ hôm nay của Chúa Giêsu là thời gian của lòng thương xót, của ánh sáng. Dân không còn đi trong tăm tối nữa. Đó là Tin Mừng cho mọi người. Tin Mừng đó chính là Ngài.
Thiên Chúa không lệ thuộc vào thời gian. Ngài không lệ thuộc vào lịch sử, Ngài siêu vượt thời gian. Ngài vẫn luôn là hiện tại, là hôm nay. Tình thương của Ngài không bị hạn chế trong thời gian. Muôn đời đối với Ngài vẫn là hôm nay. Hôm nay, tiếng gọi của Ngài luôn thối thúc con người đứng dậy, không ngủ mê trong những giấc mơ trần thế nữa mà phải nhìn về tương lai đang đợi chờ, tương lai đó chính là chấp nhận Thiên Chúa trong cuộc sống, trong cái hôm nay của mình. Thiên Chúa đã đến trong trần gian, không phải để rong chơi mà biến đổi trần gian thành vương quốc của tình yêu, của ơn tha thứ. Ơn cứu độ là như thế.
Hôm nay, nghĩa là Thiên Chúa đã sẵn sàng đón tiếp con người vào tình yêu của Ngài. Không còn có đợi chờ trông ngóng nữa mà là hiện thực, là hôm nay. Chúng ta có sẵn sàng đón nhận cái hôm nay của Thiên Chúa không? Chúng ta có muốn được cứu độ không, muốn sống trong ánh sáng của tình yêu không?
Đó là những gì Thiên Chúa muốn nói với chúng ta qua người Con Một của Người.
Muốn thế, phải theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Thánh Thần đó đã đến trên Chúa Giêsu thì cũng được Ngài ban cho những ai tin vào Ngài.
Thánh Luca luôn nhấn mạnh đến hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi Chúa Giêsu và trong suốt sách Tin Mừng của thánh sử, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và hoạt động. Tin Mừng của thánh Luca và cả sách Tông đồ Công vụ, cũng do thánh nhân viết, Thánh Thần luôn hoạt động mãnh liệt nơi các Tông Đồ. Có thể nói, sách Tin Mừng thứ ba là sách Tin Mừng của Chúa Thánh Thần.
Thánh Thần Chúa đã đến trên Đức Maria và đem Chúa Giêsu đến trong trần gian. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta đang đọc, thánh sử đã nói rõ ràng: “Được quyền năng Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Chúa Giêsu đến miền Galilê…” Và khi đọc sách tiên tri Isaia, Ngài đọc đoạn nói về Chúa Thánh Thần, chứng tỏ Ngài luôn hoạt động trong Thánh Thần, nhất là khi Ngài tuyên bố: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi…”
Chúng ta chỉ có thể bước vào con đường cứu độ khi chúng ta đón nhận Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta. Không thể có con đường nào khác. Muốn thế, chỉ cần tin vào Chúa Giêsu. Ngài cũng là con đường duy nhất dẫn đến sự sống vì Ngài cũng chính là sự sống. Trong suốt lịch sử của Giáo hội, Chúa Thánh Thần cũng là sức mạnh cần thiết giúp Giáo hội vượt qua tất cả mọi trở lực để mang Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Tin Mừng Cứu Độ đó đã khởi đầu nơi Chúa Giêsu Nadaret và sẽ hoàn tất trong Ngài mà thôi. Công Đồng Vatican II luôn nhắc đến hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội, trong mọi tầng lớp tín hữu từ giám mục đến người giáo dân.
Sức sống mãnh liệt của Giáo hội nằm trong sự trung thành lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần. Trong đời sống tín hữu cũng vậy, không thể quên Chúa Thánh Thần vì chính Người đang hoạt động và giúp chúng ta nhận ra cái HÔM NAY của Chúa trong cuộc sống chúng ta.
Hôm nay, trong hiến tế này, Chúa Giêsu đến với chúng ta qua Thánh Thần. Linh mục, trước khi truyền phép, đã đặt tay lên của lễ và cầu xin Thánh Thần đến thánh hóa bánh rượu để biến thành Mình và Máu Chúa Kitô, cho chúng ta luôn được đầy no của ăn trên trời và giúp chúng ta luôn sống trong cái HÔM NAY của Chúa, là sống trong tình yêu. Hãy ăn lấy tấm bánh Tình Yêu để luôn là tình yêu giữa cuộc sống đầy gian lao của chúng ta.
(Suy niệm của Lm An Phong, OP)
Tin mừng hôm nay gồm hai phần: Lời mở đầu Tin mừng thánh Luca, với lời “Kính gửi ông Thêôphilê”; và trình thuật Đức Giêsu trở về quê hương là Nagiarét, miền Galilê “trong quyền lực của Thánh Thần”. Trong lời mở đầu Tin mừng của mình, thánh Luca đã tuyên bố những sự kiện mà ngài viết ở đây là “cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự… và giáo huấn… thật là vững chắc.” Trong trình thuật Đức Giêsu trở về quê hương, thánh Luca thuật lại việc Đức Giêsu vào Hội đường và đọc đoạn sách ngôn sứ Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi… xức dầu cho tôi… sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó… ân xá cho kẻ tù đày… cho kẻ đui mù được thấy… trả lại tự do cho người bị áp bức… công bố năm hồng ân của Chúa”.
Đây thật là những dấu chỉ của thời đại cứu thế, thời đại Thiên Chúa thực hiện ơn cứu độ.
Khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu trở về quê hương xứ sở của mình. Điều này cho thấy sứ vụ công khai đầu tiên của Người được thực hiện nơi quê quán. Người đã trở nên nỗi tiếng “danh tiếng Người lan tràn khắp miền chung quanh”. Người muốn mang tin mừng cứu độ, “năm hồng ân của Chúa” khởi đi từ những người thân thuộc, họ hàng, đồng hương đến toàn thể thế giới. Như thế, Đức Giêsu, tuy là con Thiên Chúa, sinh ra bởi quyền năng Thánh Thần, vẫn gắn bó mật thiết với quê hương của mình. Việc trở về quê cha đất tổ nói lên mối thâm tình nhân loại. Việc loan báo năm hồng ân của Chúa nơi quê nhà nói lên ân sủng tràn đầy nhờ sự hiện diện của Người.
Đời sống công giáo là gì, nếu không phải là “gắn bó với nơi mình sinh ra”, nhưng làm cho nơi đó trở thành nơi hồng ân. “Ân sủng không phá hủy tự nhiên, nhưng kiện toàn” (thánh Tôma Aquinô). Một đời sống công giáo thực sự không tách rời chúng ta khỏi người đồng hương của mình, người hàng xóm láng giềng, người thân quen, nhưng làm cho chúng ta gần gũi với họ, có khả năng yêu mến họ, để biến cuộc sống trở nên hồng ân.
Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ nơi những người nghèo, những người bị áp bức, những người khuyết tật, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Lời ngôn sứ Isaia sẽ được Đức Giêsu thực hiện trong sứ vụ công khai. Người là tình yêu, niềm vui, bình an, hạnh phúc và hồng ân của Chúa. Người quan tâm đến những nỗi khổ về thân xác cũng như tâm hồn của con người. Người giải thoát con người khỏi tội lỗi, sự dữ, đồng thời mở con mắt đức tin cho họ. Tình yêu, bình an, hạnh phúc và hồng ân của Chúa vẫn được tiếp tục trong và qua Hội thánh của Người. Nhờ các bí tích, Đức Giêsu tiếp tục giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi, nuôi dưỡng chúng ta bằng Thánh Thể Người, củng cố chúng ta bằng ân sủng của Người. Qua lời rao giảng và giáo huấn của Hội thánh, Đức Giêsu vẫn đang chiếu dọi ánh sáng Người vào nơi tối tăm. Năm hồng ân của Thiên Chúa vẫn đang được thực hiện nơi những tâm hồn đón nhận Tin mừng và ánh sáng của Đức Giêsu. Đức Giêsu giải thoát chúng ta khỏi lo âu, sợ hãi, đơn độc, ích kỷ…miễn là chúng ta biết lắng nghe Lời Người. Đức Giêsu đổ tràn ân sủng người trên những ai thành tâm tìm kiếm “hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho”.
Như thế, Đức Giêsu chính là tình yêu, niềm vui, bình an, hạnh phúc và là hồng ân. Người đang hiện diện để cứu độ con người.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, trường cửu,
Chúa tạo dựng và Chúa hoàn tất.
Một năm dưới mắt Chúa chỉ là một phút chóng qua.
Nhưng đối với chúng con là tạo vật,
đôi mắt đâu có thấy được chiều dài cũng như chiều sâu
của chuỗi ngày chất chứa những điềm tốt và điềm xấu.
Chúng con biết chắc một điều:
Mỗi năm là một bước tiến đến gần Chúa.
Người đời tiến đến tuổi già, người kitô hữu tiến về ngày mới.
Năm cũ đang trôi qua, tựa như một con đường cái,
lúc thì thẳng tuột, lúc thì quanh co,
lúc lên đèo, lúc xuống dốc, lúc đầy ổ gà.
Đã có lúc chúng con đến chậm, bị kẹt xe, chúng con lỡ hẹn.
Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh trong năm mới sắp đến.
Xin cho con khao khát Lời Chúa. Amen.
(Lời nguyện cầu Phi châu)
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Sau khi kể lại những sự kiện thời thơ ấu của Chúa Giêsu, thánh Luca nói đến hoạt động của Chúa ở Ga-li-lê. tại đây, Chúa bắt đầu bằng một biến cố bất ngờ ở hội đường Na-da-rét. Vào ngày hưu lễ, người ta phải đến hội đường để nghe đọc Sách Thánh và hát thánh vịnh. Nhân dịp Chúa Giêsu trở về quê nhà, Ngài cũng vào hội đường với mọi người. Đây là lần đầu tiên Chúa về Na-da-rét trong quãng đời công khai.
Theo luật lệ Do Thái, bất cứ ai cũng có thể lên diễn đàn đọc và giải thích Kinh Thánh. Nhưng thường người có trách nhiệm coi sóc hội đường trao công việc đó cho những người am tường Kinh Thánh. Vì Chúa Giêsu đã giảng dạy ở nhiều nơi trước khi về Na-da-rét, nên việc người ta mời Ngài lên diễn đàn là chuyện bình thường. Theo thông lệ, vị diễn giảng đứng dậy đọc Sách Thánh, rồi ngồi xuống giải thích bài đọc đó. Hôm nay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa cuốn Sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn ngôn sứ I-sai-a nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Người sẽ làm. Đọc xong, Chúa gấp sách lại và ngồi xuống. Mọi người đều chăm chú nhìn Ngài và chờ đợi những lời giải thích của Ngài.
Ngài dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Tất cả bài giảng hôm ấy thế nào chúng ta không được biết, thánh Lu-ca chỉ ghi lại có một câu mở đầu ấy, nhưng thật đầy đủ ý nghĩa. Lịch sử cứu chuộc là quá trình giữa lời hứa của Thiên Chúa và sự thực hiện lời hứa ấy. Các vị ngôn sứ được sai đến để công bố lời hứa và loan báo sự thực hiện. I-sai-a công bố về một người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ đem ơn lành của Thiên Chúa đến cho mọi người. Chúa muốn nói cho những người đang nghe Ngài biết: hôm nay họ đang được nghe chính người tôi tớ mà ngôn sứ I-sai-a đã loan báo. Người tôi tớ ấy chính là tôi, người đang nói với quý vị, tôi chính là Đấng Cứu Thế, và sứ mạng của tôi là thực hiện những điều I-sai-a đã nói.
Quả thực, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện từng chi tiết đoạn Sách Thánh này. Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Ngài đã cảm thông, an ủi những tấm lòng sầu muộn. Ngài đã giải phóng những người bị tà ma ám ảnh, chữa lành tất cả những bệnh tât. Ngài đã khích lệ, tha thứ cho những người tội lỗi. Ngài đã hòa đồng với những người hèn hạ nghèo khó. Ngài không hề xua đuổi bất cứ ai. Ngài dạy phải quảng đại, bác ái, yêu thương đối với mọi người, kể cả kẻ thù, và không bao giờ được xét đoán bất công. Ngài muốn mọi giao tế giữa loài người với nhau phải được thể hiện trong yêu thương. Những dẫn chứng trên cho chúng ta thấy những lời ngôn sứ I-sai-a đã loan báo trước được ứng nghiệm đầy đủ nơi Chúa Giêsu, Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng Thiên Sai, đã thi hành trọn vẹn sứ mạng Thiên Chúa trao phó cho Ngài.
Sứ mạng của Chúa Giêsu, ngày hôm nay, vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo Hội và trong Giáo Hội. Thực vậy, khi Chúa Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gởi Thánh Thần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin Mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo Hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ Tuần phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách I-sai-a thâu tóm sứ mạng của Chúa Giêsu cũng là lời thâu tóm sứ mạng của Giáo Hội mọi thời đại. Hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
Từ Công đồng Va-ti-ca-nô II, Giáo Hội đã ý thức sâu xa hơn về sứ mạng của mình. Điều này không có nghĩa là trước đây Giáo Hội đã quên con người mà chỉ nghĩ đến “linh hồn”. Thử hỏi: ai đã khai sinh ra các bệnh viện, các cô nhi viện, các trại phong, trại tế bần, trại dưỡng lão…Ai đã khai hóa cho thế giới “Mandi” của Âu Châu thời hậu đế quốc Rô-ma? Chính là Giáo Hội. Cái mới của Va-ti-ca-nô II là quan niệm lại cho phù hợp với thời đại mà thôi.
Bài học cho chúng ta: Chúa Giêsu đã thực hiện đầy đủ, trọn vẹn những lời Kinh Thánh nói về Ngài. Chúng ta cũng vậy, chúng ta có bổn phận thực hiện những lời Chúa đã giảng dạy. Nghĩa là chúng ta phải sống những lời Chúa đã giảng dạy. Bởi vì đời sống của người tín hữu rất hệ trọng trong việc mời gọi mọi người đến với Chúa. Đời sống của chúng ta có thể hoặc xua đuổi hoặc giữ người khác lại cho Chúa Ki-tô.
Đối với óc thực nghiệm và đời sống thực dụng ngày nay, cái gì người ta cũng đòi phải có bằng chứng. Chúng ta là Ki-tô hữu, chúng ta đi lễ nhà thờ, chúng ta làm các việc đạo đức đầy đủ. Nhưng tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Ki-tô đích thực không? Đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Nhìn vào đời sống chúng ta, người ta có nhận ra chúng ta là người Ki-tô hữu không? Vì vậy, để truyền giáo, để làm chứng cho Chúa, cho đạo, cách hay nhất là chúng ta hãy sống tốt trong gia đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với người chung quanh, bất cứ là lương hay giáo, mà sống tốt cụ thể nhất là hãy sống bác ái.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức mình là Ki-tô hữu, và xin cho chúng ta hiểu rằng làm Ki-tô hữu có nghĩa là sống trọn vẹn ơn gọi làm người bằng một cuộc sống quảng đại, yêu thương và đầy tình người.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bài Tin Mừng hôm nay thánh Luca kể lại một lần Chúa Giêsu về thăm Na-da-rét, nơi Ngài sinh trưởng, Ngài vào hội đường với mọi người trong ngày Sa-bát, như từ nhỏ đến lớn Ngài vẫn tới hội đường này. Cũng như tại các nơi khác, Ngài đã làm như thế từ lúc bắt đầu sứ mạng rao giảng. Có lẽ vì đã nghe tiếng đồn về công cuộc rao giảng của Ngài nên người ta trao Sách Thánh cho Ngài đọc, Ngài mở ra và đọc trúng đoạn ngôn sứ Isaia nói về sứ mạng người tôi tớ của Thiên Chúa.
Đọc xong, Ngài gấp sách lại và dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Tất cả bài giảng hôm ấy thế nào chúng ta không được biết, thánh Luca chỉ ghi lại một câu mở đầu ấy, nhưng thật đầy đủ ý nghĩa. Isaia công bố về một người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ đem ơn lành của Thiên Chúa đến cho mọi người. Chúa Giêsu muốn nói cho những người đang nghe Ngài biết rằng: hôm nay họ đang được nghe chính người tôi tớ mà Isaia đã loan báo, người tôi tớ ấy chính là tôi.
Suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện lời Sách Thánh ấy. Ơn cứu độ Chúa Giêsu công bố và thực hiện không phải chỉ là “cứu các linh hồn” nhưng là sự giải phóng toàn diện con người và xã hội khỏi nghèo đói, bệnh tật, tù đày, áp bức, bất công… Chúa cho người ta hưởng một phần hiệu quả của sự giải phóng ấy qua lời giảng dạy và những phép lạ Ngài làm. Ngài cho người ta nếm những ân huệ của “Năm Toàn Xá của Thiên Chúa”. Như vậy, chính Chúa Giêsu đã tự giới thiệu sứ mạng của Ngài tại hội đường Na-da-rét, và qua ba năm cuộc đời công khai, quả thực Ngài đã thực hiện trọn vẹn sứ mạng ấy.
Ngày hôm nay, sứ mạng của Chúa Giêsu vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo hội và trong Giáo hội. Thực vậy, khi Chúa Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gửi Thánh Thần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin Mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ Tuần phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu. Như vậy, lời sách Isaia thâu tóm sứ mạng của Chúa Giêsu cũng là lời thâu tóm sứ mạng của Giáo hội mọi thời đại, hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
Đối với chúng ta hôm nay, nhờ bí tích rửa tội, chúng ta đều thuộc về Giáo hội, chúng ta đã và đang thụ hưởng những hồng ân cao cả của Chúa, chúng ta phải làm sao cho những người mình gặp gỡ, tiếp xúc, được hưởng những ân huệ ấy như mình. Vậy chúng ta phải làm gì và làm thế nào? Chúng ta hãy sống cho thật tốt đẹp ơn gọi làm người của mình. Tại một bộ lạc trong rừng già Phi châu, có ba thanh niên, sau khi trải qua một số thử thách, đã đến trình diện với viên tù trưởng của họ. Ông nhìn từng người rồi nói: “Trong sáu ngày qua, các ngươi đã được đưa vào rừng sâu để trải qua một cuộc thử thách, sau không biết bao nhiêu gian khổ và nguy hiểm, các ngươi đã trở về bình an vô sự, nhưng vẫn chưa đủ, các ngươi hãy kể lại cho ta nghe tất cả những gì các ngươi đã làm trong sáu ngày qua để xứng đáng được gọi là chiến sĩ”.
Lần lượt mỗi người kể lại thành tích của mình. Người thứ nhất cho biết là anh đã giết được con báo. Người thứ hai kể lại anh đã hạ được một con trăn khổng lồ. Đến phiên mình, người thứ ba chỉ biết đứng im lặng, tên anh là Ma-ma-đu. Ông tù trưởng hỏi anh: “Nào Ma-ma-đu, ngươi đã làm được gì?”. Một cách nhỏ nhẹ, anh nói rằng anh đã lấy được một tảng mật ong. Nghe thế mọi người cười ồ lên, bởi vì họ cho rằng lấy được mật ong thì có gì đáng gọi là một thành tích. Ông tù trưởng hỏi anh: “Tại sao ngươi lấy mật ong mà không chịu đi săn thú dữ?”. Ma-ma-đu trả lời: “Cha mẹ tôi đã già yếu bệnh tật, tôi luôn nghĩ đến các ngài, cho nên tôi đã lấy mật ong mang về biếu các ngài”. Nghe thế, viên tù trưởng liền đứng dậy, ông lấy cây đao trao cho người thanh niên và tuyên bố: “Ngươi hãy cầm lấy cây đao, bởi vì ngươi là người xứng đáng để lãnh nhận danh hiệu chiến sĩ hơn cả. Trước khi trở thành một người thợ săn giỏi, cần phải nên người đã, và chỉ có một cách duy nhất để biết một kẻ nào đó đã thực sự nên người là kẻ đó biết đặt tình thương trên tất cả mọi sự và hiếu thảo với cha mẹ mình”.
Trước khi trở thành một chiến sĩ, phải sống xứng đáng như một con người đã. Người dân nước Mỹ có thể sẽ nói: “Trước khi trở thành tổng thống, hãy sống xứng đáng như một con người đã”. Đó là lý do tại sao người Mỹ đòi hỏi vị tổng thống của họ phải là một người có đời sống trong sạch, gương mẫu. Tất cả những ứng cử viên bị phát giác có những lem nhem, lăng nhăng đều bị cử tri tẩy chay.
Chúng ta cũng có thể nói: Trước khi là một tín hữu Chúa Kitô, hãy sống xứng đáng như một con người đã. Thực ra ơn gọi làm Kitô hữu không loại bỏ hoặc chồng lên ơn gọi làm người. Thiên chức Kitô hữu phải là một thể hiện cao độ của chính ơn gọi làm người. Và ngược lại, sống cho ra người, sống xứng với những đòi hỏi của phẩm giá con người, đó cũng có thể là một cách thế làm Kitô hữu.
Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn ơn gọi làm người của Ngài. Ba mươi năm thinh lặng của Ngài ở Na-da-rét là một thể hiện trọn vẹn ơn gọi làm người ấy. Sống cho tha nhân, chết cho tha nhân, đó cũng chỉ là đòi hỏi tất yếu của ơn gọi làm người mà thôi. Con người không thể làm người một cách thành toàn nếu không đặt tình yêu thương trên tất cả mọi sự. Chúa Giêsu đã đi cho đến tận cùng ơn gọi làm người ấy khi Ngài dốc cạn giọt máu cuối cùng, Ngài đã trở thành con người kiểu mẫu, bởi vì Ngài đã sống trọn vẹn cho tha nhân. Vì thế, đạo của Chúa Giêsu, tôn giáo của Chúa Giêsu cũng chính là đạo, là tôn giáo của con người. Chúng ta chỉ có thể là tín đồ đích thực của tôn giáo ấy nếu chúng ta biết yêu thương mọi người như anh em của mình.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức mình là Kitô hữu, và xin cho chúng ta hiểu rằng làm Kitô hữu có nghĩa là sống trọn vẹn ơn gọi làm người bằng một cuộc sống quảng đại, yêu thương và đầy tình người.
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Lc 1:1-4; 4:14-21 Hôm nay, trong Hội đường ở Nagiarét, giữa đồng bào đồng hương của Ngài, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Ngài đến để thực hiện những lời Tiên tri Isaia mà họ vừa nghe Ngài đọc.
Nhiều tu sĩ cao niên đến gặp thầy Antôn. Ở giữa là thầy Giuse. Muốn thử họ, thầy Antôn đưa ra cho họ một lời Thánh Kinh, và bắt đầu từ tu sĩ trẻ nhất, thầy hỏi ý nghĩa của lời ấy. Mỗi tu sĩ đều nói theo khả năng của mình. Nhưng với tu sĩ nào thì thầy Antôn cũng nói: “Anh chưa tìm ra ý nghĩa”.
Tu sĩ cuối cùng nói với thầy Giuse:
– “Còn thầy, thầy giải thích lời đó ra sao?”
Thầy Giuse đáp:
– “Tôi không biết”.
Lúc ấy thầy Antôn nói:
– “Đúng, thầy Giuse đã tìm được giải đáp, vì Thầy nói: tôi không biết”.
Trước lời giải đáp của những vị tu sĩ cao niên đã nhiều năm sống đời tu hành trong hoang địa, ngày đêm không ngừng suy niệm Lời Chúa, thầy Antôn vẫn nhất mực nói: “Anh chưa tìm ra ý nghĩa”. Nhưng với thầy Giuse, người có uy tín nhất, người đã trả lời “tôi không biết”, thầy Antôn lại bảo: “chính thầy Giuse đã tìm được giải đáp”.
Thưa anh chị em,
Phải chăng có một nghịch lý trong giai thoại trên đây?
Trước mầu nhiệm của Thiên Chúa, trí khôn con người làm sao có thể hiểu nổi và ngôn ngữ của con người làm sao có thể diễn tả được? Bởi vậy, cách giải thích Lời Chúa trung thực nhất là thú nhận rằng mình không giải thích nổi. Chỉ Thiên Chúa mới hiểu biết Lời Ngài và nói Lời Ngài cách thích đáng và xứng hợp. Hôm nay chúng ta được nghe chính Chúa Giêsu đọc lại lời tiên tri Isaia và giải thích cho chúng ta:
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. Đọc xong, Ngài ngồi xuống. Mọi người nhìn thẳng vào Ngài mà chờ đợi. Trong khung cảnh im lặng linh thiêng ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe”.
Phải, Chúa Giêsu đã làm ứng nghiệm mọi lời tiên tri nói về Ngài từ hàng trăm năm trước. Đó là bằng chứng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến, Ngài thật là Con Thiên Chúa. Một bằng chứng khác nữa là những phép lạ Ngài làm đã có rất nhiều lời Tiên tri trong Cựu Ước tiên báo, trước khi Ngài sinh ra hàng trăm năm và đã ứng nghiệm từng chữ trong đời sống của Ngài.
Thật vậy, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện lời Tiên tri tiên báo: Ngài công bố Tin Mừng cho người nghèo. Ngay lúc mới sinh ra, những mục đồng nghèo khó là những người đầu tiên được loan báo Tin Mừng. Sau nầy, khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả đến hỏi Ngài có phải Ngài là Đấng Cứu Thế không, Ngài đã bảo họ về kể lại cho ông Gioan biết những gì Ngài đã làm: người mù được thấy, người què được đi, người điếc được nghe, người câm được nói v.v… đúng như lời Tiên tri Isaia tiên báo.
Hôm nay, trong Hội đường ở Nagiarét, giữa đồng bào đồng hương của Ngài, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Ngài đến để thực hiện những lời Tiên tri Isaia mà họ vừa nghe Ngài đọc. Ngài có sứ mạng đem ơn Cứu độ đến cho những người nghèo đói, bệnh tật, tù đầy, bị áp bức, qua lời giảng dạy và những phép lạ Ngài làm. Nói như thế có nghĩa là Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến công bố năm hồng ân cho những người nghèo khổ. Ngài quan tâm đến những khổ đau của những con người đau khổ ; Ngài lấy việc giải thoát họ làm sứ mạng của mình, và ơn cứu độ, trước mắt Ngài, là tái lập trật tự trong xã hội con người và trong thế giới, nơi đó, công lý, yêu thương và hòa bình phải ngự trị.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã trao sứ mạng của Ngài cho Giáo Hội. Và Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Qua suốt chiều dài lịch sử, Giáo Hội luôn nổ lực thực hiện sứ mạng của Chúa Kitô, đem Tin Mừng cho người nghèo khó. Chính Giáo Hội đã khai sinh ra các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, trại tế bần, nhà dưỡng lão. Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm, ngày nay vẫn còn giá trị. Và hôm nay sứ mạng của Giáo Hội có lẽ còn khẩn trương hơn nữa, vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ ngày nay phải bao gồm cả những vấn đề hết sức quan trọng và sôi nổi nhất, liên quan đến công lý, giải phóng, phát triển và hòa bình.
Mẹ Têrêxa Calcutta trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô. Mẹ đã bị sốt liệt giường. Trong cơn mê sảng, Mẹ bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt Thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên đàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho Mẹ Têrêxa vào Thiên đàng. Thánh Phêrô nói: “Không để cho một người ở khu ổ chuột được vào Thiên đàng: Thiên đàng không có nơi cùng khổ”.
Mẹ Têrêxa tức giận nói với Thánh Phêrô: “Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên đàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên đàng”.
Tội nghiệp Thánh Phêrô. Kể từ sau giấc mơ đó, Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ đã không để cho Ngài được ở yên phút nào. Không biết bao nhiêu người cùng khổ và cô đơn đã qua đời trong vòng tay ôm ấp của Mẹ và các nữ tu. Thiên đàng đã trở thành nơi cư trú của những người cùng khổ.
Ngày nay với gần 3000 nữ tu đang dấn thân với danh nghĩa là “thừa sai bác ái” trong 350 cơ sở xã hội, thuộc gần 100 quốc gia, những thừa sai bác ái ấy là những nhân chứng cho Chúa Kitô, cho sức mạnh của Tin Mừng, sức mạnh giải phóng những người nghèo khổ trên thế giới.
Nhắc lại thành quả của Mẹ Têrêxa, không nhằm làm chúng ta hãnh diện cho bằng thúc giục chúng ta, mỗi người trong phạm vi của mình, không được nản chí, đừng chê việc nhỏ, vì hành động của tình yêu không có gì là nhỏ, là không đáng kể. Còn biết bao người nghèo đói, khốn cùng chung quanh chúng ta. Đến bao giờ chúng ta mới có thể nói được như Chúa Giêsu: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe “. Mỗi người hãy tiếp nối công việc của Chúa Kitô chung quanh mình, bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người dốt nát, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng hoạt động của mình.
Nếu chúng ta trung thành thực thi nhiệm vụ môn đồ Chúa Kitô như thế, thì lời Tiên tri Isaia hôm nay cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa hôm nay đã được công bố và Nước Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta ngay từ bây giờ.
Chúng ta đều biết rằng Thánh lễ gồm hai phần liên kết chặt chẽ là Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể. Trong Phụng vụ Lời Chúa, Thiên Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng lời hằng sống của Chúa. Trong Phụng vụ Thánh Thể, Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng chính Thịt và Máu Thánh của Ngài.
Nghi thức Phụng vụ Lời Chúa có từ xa xưa trong đạo cũ Do-thái và người khởi xướng ra là một tư tế tên là Esdras, sống vào thế kỷ thứ V trước Thiên Chúa GS. Trong bài đọc I hôm nay, sách Nohemi kể lại việc ông tập họp dân chúng, mở sách Luật ra đọc và giải thích. Dân chúng nghe, tung hô, rồi phủ phục trước Thiên Chúa cầu nguyện.
Đó là nghi thức Phụng vụ Lời Chúa thường được tổ chức tại Hội đường Do-thái trong ngày Sabba.
Thì, trong bài Phúc Âm, Luca kể lại một nghi thức Phụng vụ đặc biệt tại Hội đường Nagiaret, quê quán của Chúa Giêsu. Trong xóm nghèo Nagiaret, ai cũng biết Ngài là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria. Ngài đã từng sống giữa họ, chia sẻ đời sống của họ. Rồi gần đây, Ngài bỏ họ, bỏ nghề, bỏ làng đi rao giảng Tin Mừng, làm nhiều phép lạ. Danh tiếng đồn thổi khắp nơi. Hôm nay, ngày Sabba lễ nghỉ, họ được tin Ngài trở về làng. Thế là họ ùn ùn kéo đến Hội đường nơi người sẽ giảng, đến vì muốn xem sự việc xảy ra làm sao. Con bác thợ mộc, ít học trở thành một Rabbi!
Người ta trao cho Ngài sách Tiên tri Isaia, Ngài mở đúng vào nơi có chép: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chữa những tâm hồn xám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.”
Đoạn đó trích ở Isaia, chương 61, tiên báo về Đấng Messia. Đến đây, không có gì lạ. Đoạn ấy dân chúng đã nghe nằm lòng. Sự lạ lớn lao như quả bom nổ là: Người gấp sách lại và dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay, Lời Thánh Kinh mà các ông vừa nghe, đã thực hiện.” Chưa một tiên tri nào nói như thế hay cả dám nói như thế. Chữ “hôm nay” thật là quan trọng. Lời của Thiên Chúa mà đem áp dụng vào mình, y rằng mình là Thiên Chúa. Họ ngạc nhiên, họ bàn tán, họ châm biếm: Đó là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria đầu xóm kia mà. Trong Hội đường, có lẽ chỉ có một người đàn bà hiểu, một người đang đứng với chị em phụ nữ bên kia tấm chấn song ngăn cách. Đó là Đức Mẹ.
Ngài tuyên bố: Thời gian cứu độ đã đến. Chính Ngài là Đấng “hôm nay” đến để cứu chuộc nhân loại, khai mạc mùa hồng ân cứu rỗi. Ơn cứu chuộc đó, mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận, thì trong bài đọc II, Thánh Phaolô dạy chúng ta phải ăn ở xứng đáng vì “chúng ta là chi thể của Ngài.” Mỗi người trong thân phận của mình hãy làm sáng danh Chúa.
Lạy Chúa, “giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can, mệnh lệnh Chúa sáng ngời”, xin sáng soi con mắt và đường lối con đi.
Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Tin Mừng nhiều lần đề cập đến điều này. Chẳng hạn như: được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện. Hôm nay được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người đi rao giảng khắp miền Galilê. Trở về Nagiaréth, Người đọc Sách Thánh trong hội đường đúng đoạn nói về Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Nhiều lần Tin Mừng nói Chúa Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Nhờ đâu được như thế? Một phần nhờ việc đọc Sách Thánh.
Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Tim hôm nay diễn tả: “Rồi Chúa Giêsu đến Nagiaréth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabbat, và đứng lên đọc Sách Thánh”. Yêu mến và gắn bó với hội đường, nên Chúa Giêsu thường xuyên đến sinh hoạt với mọi người trong hội đường. Yêu mến và gắn bó với Sách Thánh nên Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Còn hơn thế nữa, sau khi đọc, Người đứng ra giải nghĩa cho mọi người. Đó là nếp sinh hoạt bình thường của Người. Nếp sinh hoạt này đã thành thói quen từ khi Người còn nhỏ bé. Nên ngay từ khi lên 12 tuổi, Người đã có thể đối đáp với các bậc tiến sĩ trong Đền Thờ Giêrusalem.
Chúa Giêsu kính cẩn đọc Sách Thánh. Chúa Giêsu không đọc Sách Thánh theo thói quen. Người đọc một cách trịnh trọng kính cẩn. Ta hãy chiêm ngắm thái độ của Người theo lời diễn tả của thánh Luca: “Họ trao cho Người cuốn sách tiên tri Isaia. Người mở ra và đọc… Người cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ”. Thật là trang nghiêm kính cẩn. Thái độ của Người ảnh hưởng đến cả hội đường. Nên khi Người đọc mọi người chăm chú nhìn Người. Chúa Giêsu trân trọng việc đọc Sách Thánh vì Người luôn thao thức tìm thánh ý Chúa Cha. Người đọc Sách Thánh để tìm hướng dẫn cho cuộc đời. Người đọc Sách Thánh để mong chu toàn thánh ý Chúa Cha. Người nhận biết thánh ý Chúa Cha qua những trang Sách Thánh. Người cố đọc giữa những hàng chữ để tìm thánh ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu nghiêm túc thực hành lời Sách Thánh. Khi nói với mọi người rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói đến hai điều. Điều thứ nhất: Người tìm thấy thánh ý Chúa Cha qua đoạn Sách Thánh. Với thái độ kính cẩn, với lòng khiêm tốn hiếu thảo lắng nghe, Chúa Giêsu đã đọc được thánh ý Chúa Cha qua đoạn sách tiên tri Isaia. Biết lời tiên tri Isaia ứng nghiệm vào sứ mạng của mình. Điều thứ hai: Biết được thánh ý Chúa Cha rồi, Chúa Giêsu cương quyết thực hành. Người coi đó là chương trình hành động. Người coi đó là chỉ nam hướng dẫn. Dù sứ mạng của Người vừa mới khởi đầu, Người cũng cương quyết hoàn thành. Suốt đời Người sẽ thực hành chương trình này. Vì thế đoạn sách Isaia ứng nghiệm vừa do thánh ý Chúa Cha vừa do ý chí của Chúa Giêsu quyết tâm thực hành thánh ý Chúa Cha.
Đây là mẫu gương cho ta. Đó là kết quả của Ơn Chúa Thánh Thần. Hãy thường xuyên đọc Kinh Thánh để ta luôn được tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy kính cẩn tìm thánh ý Chúa trong Kinh Thánh chắc chắn ta sẽ được ơn Chúa soi sáng cho biết đường đi. Nhất là hãy quyết tâm thực hành Lời Chúa mà ta đã đọc. Ta sẽ được tràn đầy Ơn Chúa Thánh Thần. Thật vậy, chẳng ai có thể say mê Kinh Thánh nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần lôi cuốn. Chẳng ai tìm được thánh ý Thiên Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Chẳng ai có thể thực hành Lời Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Như một phản hồi hai chiều. Càng được Ơn Chúa Thánh Thần ta càng say mê Kinh Thánh. Càng say mê Kinh Thánh ta lại càng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời. Cuộc đời sống theo Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ hoàn toàn ứng nghiệm ý định của Thiên Chúa cho bản thân và cho tha nhân. Đó chính là cuộc đời đạt được mục đích cao quý nhất.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)
Truyền thống cũng là sáng tạo
”Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo thánh Luca.”
Để hiểu ý nghĩa của câu này, cần phải biết rằng Tin Mừng hoàn toàn không phải là một bộ sưu tập những mẩu chuyện liên quan đến Đức Giêsu và các giáo huấn của Người. Mỗi tác giả Tin Mừng đều là một chứng nhân về Con Thiên Chúa, và khi viết Tin Mừng, tác giả có ý trả lời vấn đề vẫn thường được nêu lên: Đức Giêsu là ai? để nhờ đó mỗi người có thể gặp được Đức Giêsu khi nghe nói về Người, hay khám phá ra Người qua cuộc sống của các môn đệ. Mỗi nhân chứng này kể lại lòng tin của mình vào Đức Giêsu dựa theo một lịch sử: những sự kiện và những lời Đức Giêsu nói. Tuy nhiên mỗi tác giả còn dựa vào kinh nghiệm riêng của mình và của môi trường sống. Điều này giải thích vì sao mỗi tác giả có nét đặc trưng và âm giọng khác nhau.
Dù vậy, vẫn luôn chỉ có một Tin Mừng, bởi vì chỉ có một Đức Giêsu Kitô. Mọi bản văn trong Kinh Thánh đều quy hướng về Người.
Bản văn được phụng vụ sử dụng hôm nay là một thứ sắp xếp lại. Đây là một cách thức đọc Tin Mừng. Cách thức này làm nổi lên ba đề tài: Luca quyết định viết một quyển sách; Đức Giêsu mở quyển sách; Người gấp sách lại và bắt đầu hoạt động.
Thánh Luca biên soạn theo một trật tự có sẵn. Người ta nhận ra ngay đây là một ông thầy đang nghiên cứu và soạn thảo nhằm hiểu các biến cố cách khách quan. Mục đích của tác giả thật rõ ràng: giúp người đọc nhận thức được rằng giáo huấn mình đã học hỏi thật là vững chắc. Chính vì vậy, những chữ được viết ra phải đem lại điều chắc chắn. Tác giả mong muốn mỗi người cảm nhận được sự vững chắc này và mỗi người phải tự kiểm chứng lại giá trị của điều đã được viết ra. Nói cách khác, mỗi người phải chọn lựa và dấn thân. Một truyền thống được gọi là đích thực khi truyền thống ấy luôn khơi dậy sức sáng tạo.
Khi vào hội đường Na-da-rét và đọc bản văn ngôn sứ Isaia, Đức Giêsu cũng không làm gì khác hơn. Người không lặp lại bản văn, không bình luận về bản văn lâu đời này; Người cũng không đưa ra những nhận định uyên bác về thời kỳ bản văn được soạn thảo. Trái lại, Người làm nảy sinh một ý nghĩa mới, Người đem lại sức sống cho những chữ chết. Chữ viết không chỉ là chứng từ của quá khứ, nhưng trở thành nguồn mạch cho hoạt động. Đức Giêsu không phải là nhà khảo cổ hay người chú giải. Người hoàn tất điều bản văn đã nói. Người mở ra một thế giới mới. Vì vậy, Người quả quyết: ”Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”
Đức Giêsu là Đấng mà mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là ”có” nơi Người (2 Cr 1,20), Người không thể đọc lời Chúa mà không thi hành, không hoàn tất ngay tức khắc. Chính vì thế, theo bước chân Người đi, các phép lạ được thực hiện cho những người nghèo khó, những kẻ bị tù đày, người mù, người bị áp bức …
Như vậy, quả là điều vô ích khi một số Kitô hữu muốn đóng khung truyền thống, đóng khung lời nói và hoạt động của Đức Giêsu. Người ta muốn hiểu chính các điều đã xảy ra trong quá khứ, thế nhưng người ta lại quên rằng, những điều ấy được truyền lại cho thế hệ sau với mục đích mỗi thế hệ phải đọc lại theo một cung cách mới, phù hợp với bối cảnh sống hiện tại của mình. Dấn thân phục vụ lời Chúa, đó là bước vào một hoạt động sáng tạo, đó là biến mình trở thành người phục vụ cho những khởi đầu mới.
Lời Chúa không thể mất đi
Tin Mừng cứ chạy, chạy mãi: từ Luca đến Ti-mô-thêu, từ những nhân chứng tai nghe mắt thấy đến tất cả chúng tôi – tức là những cộng đoàn tiên khởi, từ ngôn sứ Isaia đến Đức Giêsu, từ Đức Giêsu đến những người Do-thái đang tụ họp trong hội đường, và đến cả những người ngày nay – tại sao lại không?
Lời Thiên Chúa do Đức Giêsu công bố, dù mọi người đã biết, nhưng vẫn có tính cách đặc biệt. Người ta chẳng hiểu vì sao Người có uy quyền như thế.
Trước đấy, danh tiếng Đức Giêsu đã lan rộng ra khắp miền Galilê. Nhưng khi trở về quê hương, Người biết rõ là người ta không để ý lắng nghe lời Người nói. Tại những miền khác, Người thường đến với những kẻ bị bỏ rơi, những kẻ bị tù đày, những người mắc bệnh phong hủi, hay với kẻ mù loà, với người đàn bà goá … Còn hôm nay, Người xuất hiện trong một cuộc hội họp: Người tỏ mình ra trong Hội Đường của người Do-thái.
Đức Giêsu đứng lên, đọc sách, và ngồi xuống như những người khác. Thế nhưng điều Người nói quả là lạ lùng, khó có thể tin được:
Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Người đã sai tôi đi công bố
cho kẻ giam cầm biết họ được tha,
cho người mù biết họ được sáng mắt,
trả lại tự do cho người bị áp bức,
công bố một năm hồng ân của Chúa.
…
Hôm nay dã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe
Các lời Đức Giêsu nói và những việc Người làm vừa có tương quan hỗ tương với nhau, vừa có liên hệ tới toàn bộ sứ điệp Cựu ước. Vì vậy, các thính giả nhận ra một sự thật rõ ràng: Thần Khí Thiên Chúa luôn có mặt!
Người ta vẫn gặp thấy những người hăng hái dấn thân phục vụ người nghèo, mặc dù hoàn cảnh của họ không thuận lợi lắm -nếu không muốn nói là bi đát, và công việc phục vụ của họ rất khiêm tốn. Chính lúc ấy, dường như lời họ nói có sức thuyết phục hơn, chặt chẽ hơn, làm cho người nghe phải bối rối. Trước những mẫu gương này, thường có hai phản ứng: một là bịt tai lại, không muốn lắng nghe, hai là để ý và theo dõi bước chân người đi trước.
Theo cái nhìn trong đức tin, các vị thánh, các ngôn sứ hay những người được Chúa xức dầu là những người dùng lời nói hay hành động của mình để thúc đẩy người khác nói và hành động, làm cho vương quốc tự do của Chúa được xuất hiện.
Như thế, Thần Khí Thiên Chúa luôn hoạt động trong mọi người và trong mọi thời để người nghèo, kẻ tù đày, người bị áp bức trong mỗi thời đại được giải thoát, về cả đời sống vật chất lẫn những khát vọng sâu xa của con người.
Và như vậy, Tin Mừng không bao giờ bị mất đi.
“Ngày hôm nay”
Tất cả được bắt đầu vào ngày Đức Giêsu mở sách ra và đọc lại lời ngôn sứ Isaia, và tuyên bố với mọi người: ”Hôm nay” đã ứng nghiệm …
Không ai, có thể lầm lẫn về lời tuyên bố này, vì đoạn sách Đức Giêsu vừa đọc lại nói về Đấng Mê-si-a. Và Đức Giêsu quả quyết: Hôm nay và chính tôi.
Lời tuyên bố này không phải là một lời sấm, nhưng là một biến cố, một biến cố duy nhất và không thể đảo ngược lại. Lời tuyên bố này đòi mỗi người phải tự xác định lại mình trong tương quan với Đức Giêsu. Bởi vì vẫn chỉ là một lời duy nhất, một lời luôn có tính hiện đại: lời Đức Giêsu nói tại hội đường Na-da-rét, lời thánh Luca viết cho ông Thê-ô-phi-lô, và lời chúng ta đang nghe hôm nay.
Chính ngày hôm nay mà mỗi người nhận ra Thiên Chúa đang can thiệp vào lịch sử cửa toàn thể nhân loại và của mỗi người. Chính ngày hôm nay mà mỗi người nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương mình. Chính ngày hôm nay mà mỗi người phải hành động vì cuộc sống vĩnh cửu của mình.
Chính ngày hôm nay mà mỗi người bước vào mối hiệp thông với Thiên Chúa, Đấng duy nhất.
Chính ngày hôm nay là một cuộc truyền tin cho mỗi người, bởi vì họ phải lắng nghe và chọn lựa.
Chính ngày hôm nay, Thiên Chúa đang đến với mỗi người. Chính Người đang hiện diện, qua Hội Thánh, qua các bí tích. Chính ngày hôm nay mà mỗi người phải đón tiếp Thiên Chúa.
Phần chúng ta, chúng ta sống ngày hôm nay như thế nào, chúng ta làm gì?
Thánh Luca đã khởi đầu Tin Mừng từ ngày hôm nay. Đó cũng là khởi đầu cho mọi cuộc loan báo Tin Mừng. Ngày hôm nay là một biến cố, người ta không chỉ bình luận về biến cố, nhưng người ta sống và loan báo.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Người ta kể: “Có ông nhà giàu Do Thái kia có tên là Rabba, nhiều ruộng vườn, gia nhân đầy tớ và thợ làm công. Một hôm có người thợ làm việc cho ông lỡ làm bể một thùng rượu, ông giận dữ mắng, chửi thậm tệ và buộc bồi thường. Bọn thợ đến than phiền với một tiến sĩ luật, vị này khuyên ông Rabba tha cho đám thợ nghèo. Ông Rabba hỏi vị luật sĩ: “Đây có phải là luật Chúa không?” Vị tiến sĩ trả lời: “Phải, nếu ông hiểu biết tinh thần luật”. Nghe thấy, Rabba tha không đòi đám thợ bồi thường nữa. Có lần khác, đám thợ can đảm than thở thẳng với ông chủ của họ: “Thưa ông, chúng tôi quá nghèo túng, mặc dầu được ông thương cho việc làm và chúng tôi cũng đã làm hết sức như ông thấy, nhưng chúng tôi cũng đói khổ và thiếu thốn mọi sự”. Vị tiến sĩ biết chuyện, nói với ông Rabba: “Ông hãy cho họ lãnh lương tháng trước đi, nhưng đừng ghi sổ và sau đó sẽ quên chuyện này”. Ông Rabba hỏi: “Đây có phải là luật Chúa không?” Vị tiến sĩ luật trả lời: “Phải, nếu ông hiểu tinh thần luật, vì thật ra luật Chúa đòi buộc công bằng, nhưng có chủ đích làm cho con người trở nên tốt lành hơn”.
Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa, mở mắt tinh thần canh tân tâm lòng và sống tốt lành hơn giữa những suy đồi xã hội một cách đích thực. Esdra và Nêhêmia là hai vị lãnh đạo Do Thái đã có công rất lớn trong nỗ lực hồi sinh dân Israel, tái thiết thành Giêrusalem và xây lại đền thờ sau khi họ từ Babylon trở về nước vào năm 537 trước Tây Lịch. Hai tác phẩm mang tên hai vị tường thuật công tác tái thiết cuộc sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tôn giáo của dân Do Thái trong thời ấy. Chương VIII sách Nêhêmia nêu bật vai trò của Lời Chúa trong công trình tái thiết. Thật vậy, đối với dân Do Thái là dân riêng Chúa chọn, đã nhận được luật lệ Chúa ban, nghĩa là Lời Người nói với họ, thì công trình tái thiết không thể chỉ hạn hẹp trên bình diện vật chất như xây lại nhà cửa đền đài, tổ chức trở lại bộ máy chính trị, kinh tế và các dịch vụ hành chánh của cuộc sống thường ngày, mà còn phải tái thiết cuộc sống tinh thần nữa.
Tái thiết ở đây, trước tiên có nghĩa là trở về với các đòi buộc của Giáo Hội, tuân giữ các luật lệ của Chúa, sống chìm ngập trở lại trong bầu khí đạo hạnh, tin tưởng vững mạnh vào các Lời Chúa hứa vào giao ước và các phúc lành của Chúa. Nói cách khác, dưới ánh sáng Lời Chúa, việc tái thiết đầu tiên mà dân Do Thái phải làm là công cuộc tái thiết cuộc sống nội tâm, cuộc sống tinh thần bị tội lỗi phá hủy. Vì nếu không thì công cuộc tái thiết vật chất cũng sẽ không giúp dân Do Thái hồi sinh thật sự. Có đền thờ đẹp mà làm gì với tâm lòng con người đầy tràn tội lỗi và xa rời Thiên Chúa. Đây là lý do giải thích tại sao mặc dầu có rất nhiều điều phải làm trong giai đoạn tái thiết, ông Nêhêmia vẫn tổ chức các buổi cử hành Phụng vụ Lời Chúa và dành thời giờ cho việc đọc, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, và toàn dân tán thành việc tái thiết cuộc sống tinh thần do ông đề xướng.
Mặc dầu giờ đây họ cũng đang rách rưới, đói khát cơm bánh, cần đến nhà cửa và công ăn việc làm, nhưng người dân hiểu rằng trong quá khứ, kiểu cách sống tội lỗi sa đọa của họ đã khiến cho Giêrusalem bị đánh chiếm và thành thánh bị phá hủy bình địa, thì giờ đây, chỉ có cuộc sống tâm linh mới giúp họ duy trì những gì họ sẽ xây dựng mà thôi. Nếu không có nếp sống tinh thần mạnh mẽ, nền văn minh vật chất cao, sớm muộn gì cũng dẫn đưa con người đến chỗ diệt vong.
Lịch sử thăng trầm của mỗi dân tộc trên thế giới đều minh xác sự thật này. Sự suy đồi luân lý đạo đức và các giá trị tinh thần là dấu chỉ các bước đầu suy thoái của một xã hội. Do đó phát huy cuộc sống tâm linh và các giá trị tinh thần là cách thế hữu hiệu nhất giúp duy trì và thăng tiến cuộc sống xã hội. Ngay trên bình diện vật chất, lập trường của ông Nêhêmia là một bài học quí báu cho các vị lãnh đạo tinh thần, cho các cộng đoàn dân Chúa. Công việc cấp thiết nhất luôn luôn là việc đào tạo nhân lực, củng cố tinh thần sống đạo sâu đậm của tín hữu, chớ không phải là xây thêm nhiều nhà thờ và cơ sở cho to, cho lớn, cho đẹp. Các cơ sở cần thiết nhưng chúng không làm nên sức mạnh của cộng đoàn dân Chúa. Nguyên tắc này đã được thánh Phaolô áp dụng như tường thuật trong chương 12 thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô.
Cộng đoàn này hồi đó bị chia rẽ nội bộ trầm trọng, các cuộc cải vã, tranh chấp giành địa vị xảy ra trong các tầng lớp trong cộng đoàn, thêm vào đó là kiểu cách sống và hành xử đi ngược tinh thần Kitô. Trong các tín hữu có người sống dâm loạn, buông thả các nhân đức Kitô, đặc biệt là đức bác ái bị lãng quên. Để tái tạo sự hiệp nhất giữa các thành phần cộng đoàn và cho thấy tất cả mọi người đều có một chỗ đứng quan trọng và một phận vụ cần thiết đối với cộng đoàn, thánh Phaolô đã dùng lại hình ảnh thân mình và các chi thể là một hình ảnh quen thuộc trong nền văn chương Ai cập, và nhà văn Rôma, Titô Liviô, đã dùng lại để diễn tả nỗ lực của hoàng đế Agrippa làm hòa lại giữa hai nhóm cùng đinh và quý tộc Rôma tranh chấp chống đối nhau. Tuy nhiên, thánh Phaolô không chỉ dùng hình ảnh thân mình và chi thể như một kiểu nói ám chỉ, diễn tả tính cách bổ túc và phối hợp điều hòa giữa các chi thể với nhau trong thân thể con người, mà thánh nhân cũng còn rất thường hay nói đến thân mình thật sự của Chúa Kitô là bí tích Thánh Thể và thân mình mầu nhiệm của Chúa Kitô là cộng đoàn tín hữu, là Giáo Hội. Cộng đoàn tín hữu phải có khả năng diễn tả cho mọi sinh hoạt và kiểu cách sống của mình, những gì được biểu lộ trong bí tích Thánh Thể, nghĩa là diễn tả sự hiệp nhất tinh thần, chia sẻ ơn thánh, thái độ sống tận hiến cho nhau, hòa tan trong nhau và xây dựng cho nhau và với nhau. Điều đó cũng có nghĩa là các tương quan giữa các tín hữu với cộng đoàn và nhiệm vụ mỗi người giữa lòng Giáo Hội, phải được sống như trong bí tích Thánh Thể, phục vụ, hy sinh và tận hiến, chớ không được để cho chủ trương tranh giành địa vị, đòi hỏi quyền lợi như các thái độ vụ lợi trần tục chi phối và hướng dẫn.
Trong viễn tượng và tinh thần đó, mỗi một Kitô hữu đều tìm ra chỗ đứng của mình trong lòng cộng đoàn Giáo Hội mà không bị rơi vào chước cám dỗ coi mình là có nhiều khả năng nhất, tài giỏi nhất và giữ địa vị quan trọng nhất, không có mình thì không xong. Thay vì cố gắng xây dựng vun trồng cộng đoàn Giáo Hội vững mạnh thì lại sống phản chứng, ích kỷ, kiêu căng ngạo mạn để đi đến chỗ trở thành dụng cụ của Satan, đánh phá Giáo Hội, gây chia rẽ kỳ thị khiến cho cộng đoàn Giáo Hội bị thương tích tan rã và suy yếu đi.
Mỗi khi không sống theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô và không diễn tả những gì được thể hiện qua bí tích Thánh Thể, là người tín hữu chối bỏ ơn cứu độ mà Chúa Giêsu Kitô đã đem đến cho nhân loại khi nhập thể làm người, khi bước vào lịch sử và sống giữa lòng xã hội con người. Trong chương 1 và 4, thánh Luca có ý củng cố niềm tin của tín hữu, đặc biệt những người nghi ngờ nền tảng lịch sử của ơn cứu độ. Thánh nhân đề nghị với mọi người theo sát chương trình sống của Chúa Giêsu Kitô, chương trình này hiện thực Lời Thiên Chúa hứa, vĩnh viễn can thiệp vào cuộc sống của con người đã bị tội lỗi biến sự sống trở thành cái chết. Tất cả những động từ thánh Luca dùng trong chương 4,14-21, như giải thoát, chữa lành, trao ban ơn thánh cho con người, diễn tả ơn cứu độ toàn vẹn mà Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại. Chúng cũng phải là kiểu cách sống của một Kitô hữu, khi nào và ở đâu có bóng dáng Kitô hữu, thì ở đó bóng tối của sự dữ cũng phải bị đẩy lui. Khi đó, ở con người cũng có cuộc sống sung túc lành mạnh hơn trên thân xác mà nhất là trong tinh thần. Đây là lý do giải thích mọi nỗ lực và mọi sinh hoạt của xã hội trong việc củng cố cuộc sống tâm linh và thăng tiến cuộc sống xã hội cho con người. Tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện, một thân thể có to lớn mập mạp béo tốt đến đâu mà không có tinh thần và tâm trí lành mạnh, thì cũng chỉ là một thân thể bệnh hoạn đáng thương.
Sau khi nghe giảng về Thiên Chúa là Cha nhân lành, là Chúa đầy lòng yêu thương, một thính giả không đồng tình với vị giảng thuyết. Đầu óc ông quay cuồng bởi những câu hỏi như:
Làm sao người ta có thể tin Thiên Chúa là Đấng nhân lành khi Ngài nhắm mắt làm ngơ trước cảnh biết bao nhiêu người nghèo khổ, tuyệt vọng, mất phương hướng phải sống trong sầu đau mà không ban cho họ một tin mừng, một tia hy vọng?
Làm sao người ta tin được Thiên Chúa là Cha nhân ái khi có biết bao người phải chịu cảnh giam cầm trong ngục tù vật chất, trong sự trói buộc của các đam mê mà Ngài không ra tay giải thoát?
Thật khó tin có Thiên Chúa là Đấng tốt lành khi Ngài để cho những người mù, nhất là mù tối trong tâm hồn, không được nhìn thấy ánh sáng chân lý.
Và bao nhiêu người bị áp bức, bị gông cùm sao Chúa không giải thoát họ?
Đêm hôm ấy, trằn trọc không ngủ được vì những câu hỏi ấy lởn vởn trong đầu, ông chợt nhận ra câu đáp của Thiên Chúa từ trong vắng lặng của đêm trường:
– Ta đã ra tay rồi đó, sao con còn trách Ta?
– Ngài ra tay lúc nào đâu? Ngài đã làm gì để cứu vớt những người tuyệt vọng, những người bị giam cầm, những người mù tối, những người bị áp bức?
– Ta đã dựng nên con và đặt con hiện diện giữa lòng đời để con thay Ta mà hành động. Thế sao còn trách Ta?
Có một điều quan trọng nhưng thường bị lãng quên, đó là chúng ta là những cánh tay, là những bàn tay của Thiên Chúa và Ngài hành động, Ngài thực hiện mọi việc qua chúng ta. Thiên Chúa có làm gia tăng số người trên mặt đất thì Ngài cũng thực hiện việc đó qua trung gian một người cha và một người mẹ trong gia đình. Thiên Chúa muốn nuôi dạy cho thiếu nhi nên tốt thì Ngài cũng thực hiện điều đó qua cha mẹ thầy cô.
Xưa kia Thiên Chúa Cha đã nhờ đến Chúa Giê-su để đem Tin Mừng cho người nghèo, giải thoát cho kẻ bị giam cầm, đem ánh sáng cho người mù tối, trả tự do cho người bị áp bức thế nào, thì hôm nay, Ngài cũng cần đến chúng ta để thực hiện những công việc đó.
Thế là chúng ta phải lựa chọn: Hoặc là chúng ta chấp nhận ở lại trong nhiệm thể Chúa Giê-su, trở thành cánh tay nối dài của Ngài để tiếp tục sứ mạng của Ngài, hoặc là chúng ta tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa Giê-su để khỏi bị Ngài sử dụng và sai khiến.
Tờ Times, một tờ báo nổi tiếng nhất thế giới, vào dịp cuối năm có thói quen giới thiệu cho độc giả biết những con người làm nên lịch sử của từng năm. Năm 2004, tờ báo bình chọn tổng thống Bush làm nhân vật quan trọng nhất trong năm. Năm 2005, tờ báo chọn vợ chồng Bill Gates vì những hoạt động từ thiện của hai vợ chồng nầy. Cuối năm 2006 vừa qua, báo Times chọn một nhân vật chẳng ai ngờ, nhân vật đó là, là… “Bạn” (You). Tức là mỗi một người trong quý ông bà anh chị em.
Đúng vậy, đó không phải là chuỵên đùa. Mỗi người trong chúng ta làm nên lịch sử. Thế giới nầy có được đổi mới, có được tiến bộ hay không cũng là nhờ sự cộng tác của từng người, của mỗi một người trong cộng đồng nhân loại.
Đừng nghĩ rằng mình chỉ là một hạt cát bé nhỏ vô ích, vì những bãi cát mênh mông được tạo nên bằng những hạt cát bé nhỏ như thế đó.
Đừng nghĩ rằng mình chỉ là một giọt nước li ti không nghĩa lý gì, vì cả đại dương bao la cũng được tạo nên bằng những giọt nước li ti như vậy đó.
Hãy nhận ra rằng mình là chi thể của Chúa, là khí cụ cứu rỗi của Ngài. Hãy để Chúa sử dụng chúng ta như khí cụ xây dựng hoà bình của Chúa.
Điều chính yếu và quan trọng là chúng ta hãy hiến dâng đời mình cho Chúa, hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Chúa, nầy con đây, xin hãy sai con.
Một khi chúng ta đã hành động theo lời sách tiên tri Isaia hôm nay, để cho “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức”…, chúng ta có thể mãn nguyện và nói như Chúa Giê-su hôm xưa rằng: “hôm nay, đã ứng nghiệm nơi tôi đoạn sách mà quý vị vừa nghe”.
“Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabat, và đứng lên đọc Sách Thánh (Lc 4,16)
Những ngày đầu ra đi rao giảng Tin Mừng, danh tiếng của Chúa Giêsu đã lan rộng, được mọi người tôn vinh khắp nơi trong đất nước của mình và một trong những nơi quan trọng Ngài muốn gởi sứ điệp đó là ở các hội trường.
Hội đường đã gắn liền với đời sống tôn giáo của dân tộc Do Thái, một nơi biểu lộ nhu cầu tâm linh không thể thiếu của họ. Ở đây, họ được nghe và đọc Kinh Thánh, học hỏi Lề Luật, Giáo Lý và mục đích trên hết là học đến để tôn thờ Thiên Chúa. Chúa Giêsu luôn sống đúng với tinh thần quí báo của cha ông, của dân tộc mình. Có rất nhiều đoạn Phúc âm mô tả Chúa Giêsu là mẫu mực tuân giữ tinh thần này. Cũng như hôm nay: “Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabat, và đứng lên đọc Sách Thánh (Lc 4,16).
Giờ đây ngoài tư cách là một công dân thông thường của đất nước mình, theo thói quen đến hội đường vào ngày Sabát để nghe Kinh Thánh, Ngài còn là người đại diện để công bố Lời Chúa và đặc biệt hơn cả chính Ngài lại là nhân vật mà Lời Chúa đề cập. Đoạn Kinh Thánh thật đẹp mô tả về một Đấng Cứu Thế với những đặc tính lý tưởng làm cho lòng người bình an và hạnh phúc khi vị này xuất hiện và bây giờ Chúa Giêsu đang ở ngay trước mặt mọi người.
Ngày hôm nay hằng tuần vào mỗi ngày Chúa nhật chúng ta tụ họp nhau để nghe Lời Chúa, học hỏi Lời Chúa và để thờ phượng Thiên Chúa. Đời sống đạo của chúng ta thật sự hạnh phúc và ý nghĩa khi cùng nhau một lòng một ý hướng lòng lên Chúa, yêu mến và thờ phượng Ngài. Chúng ta thử nghĩ xem nếu đời sống đạo thiếu vắng ngày Chúa nhật và những buổi tụ họp nhau để cử hành Phụng Vụ, cử hành Lời Chúa, cùng nhau chia sẻ bàn tiệc Thánh Thể sẽ như thế nào? Ngày Chúa nhật quí báu biết bao, bằng những lời kinh tiếng hát chúng ta cùng nhau thờ phượng để khi ra về lòng đầy hớn hở vui tươi. Đời sống đạo thật sự hạnh phúc, đầy đủ cũng từ những của ăn thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn nó là động lực vững vàng để chúng ta bước vào cuộc sống thường ngày với những trăn trở, lo toan, mạnh dạn đối diện với cuộc sống bấp bênh, nhiều cám dỗ. Cuộc đời có Chúa, luôn có Lời Chúa dẫn dắt và hướng dẫn chúng ta.
Nhìn vào gương Chúa Giêsu, chúng ta học nơi Ngài lòng trung thành với Lề Luật, không chỉ với lòng trung thành mà đó còn một bổn phận nhưng trên hết vẫn là lòng yêu mến Thiên Chúa, Đấng là Cha dựng nên và yêu thương chúng ta.
Với những tâm tình đó chúng ta cảm ơn Chúa vì những ơn lành Ngài ban cho chúng ta. Có Chúa cuộc sống chúng ta luôn có điểm tựa vững chắc và biểu hiện cụ thể của người con thảo, chúng ta trung thành giữ và yêu mến ngày Chúa Nhật.
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Lc 1:1-4; 4:14-21 “Ngày hôm nay…” Từ ngữ này của Tin mừng cho chúng ta hiểu rằng chúng ta đang sống thời hiện tại. Bây giờ, tại đây, Đức Kitô đối với chúng ta, Ngài là Đấng Giải Phóng, Đấng Thánh, Đấng mang sứ điệp cứu độ. Đây quả là niềm vui lớn lao của chúng ta.
Bản văn này thâu tập hai đoạn trích Tin mừng theo Thánh Luca, không có sự nối kết rõ ràng giữa chúng. Đoạn trước là Lời tựa, phần khởi đầu của Tin mừng; đoạn sau trình thuật về vai trò của Đức Giêsu trong Hội đường vào một ngày Sabbat.
Ngay từ đầu, để gây lòng tin ở độc giả của mình, Thánh Luca đã xác định nghiêm túc về tác phẩm của mình: Trước khi viết, Ngài đã tự mình tiến hành tìm hiểu tỉ mỉ, cẩn thận mọi sự.
Sau đó, trình thuật câu chuyện sảy ra tại Hội đường ở Nagiarét. Đức Giêsu khéo léo dùng lời Kinh Thánh để mạc khải về Thiên tính của mình: Ngài là Đấng Messia mà các Tiên Tri loan báo.
“Ngày hôm nay…” Từ ngữ này của Tin mừng cho chúng ta hiểu rằng chúng ta đang sống thời hiện tại. Bây giờ, tại đây, Đức Kitô đối với chúng ta, Ngài là Đấng Giải Phóng, Đấng Thánh, Đấng mang sứ điệp cứu độ. Đây quả là niềm vui lớn lao của chúng ta.
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu Kitô là Đấng Messia được Chúa Cha sai đến để cứu độ loài người chúng ta. Với tâm tình tri ân cảm tạ Thiên Chúa, chúng ta cùng sốt sắng dâng lời nguyện xin.
* Kết Nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã khẳng định: ” Ngày hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh …” Ngày hôm nay chính là chúng con, là xã hội chúng con đây. Xin cho chúng con luôn ý thức sống những giá trị của Tin mừng trong cuộc sống hàng ngày, để qua đó, mọi người nhận ra được ơn cứu độ của Chúa. Chúa là Đấng hàng sống và hiển trị muôn đời.
Anh chị em thân mến.
Nhìn vào xã hội ngày hôm nay, đâu đâu anh chị em cũng thấy trường học, từ những trường cho các cháu bé đến những trường cao cấp, đủ mọi ngành nghề. Mọi người trong chúng ta, nếu có đủ điều kiện thì cũng lo đến trường học, để lo tương lai bản thân, gia đình. Khi có con cái cũng thế. Ai cũng cố gắng cho con mình đến trường, để học những điều hay, điều tốt, học để bảo đảm cho tương lai. Thật thế những người có học, thì tương lai không đến nỗi tệ, cho dù về mặt vật chất của cải không sung túc, nhưng ít ra họ cũng biết cách sống làm người. Cũng có những người có vốn học thức, nhưng không biết đem những gì mình đã học để áp dụng vào đời sống, thì cũng trở nên vô ích. Còn có những người không chịu đến trường, không nghe lời cha mẹ, cũng không chịu học một người nào để biết những điều tốt đẹp của cuộc sống, thử nghĩ xem, đời sống của những người đó sẽ như thế nào, khi họ chỉ biết cậy dựa vào bản thân, chỉ học hỏi nơi bản thân.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, mặc lấy thân phận con người, Ngài sống thật sự gương mẫu cho con người: ” Theo thói quen, Người vào hội đường”. Như vậy từ lâu,Ngài đã có thói quen như những người thời bấy giờ, đến hội đường để học hỏi những điều cần thiết cho cuộc sống. Trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe, Ngài đến hội đường, mọi người cũng đến hội đường và chăm chú nghe. Mọi người thời bấy giờ nhận thấy: hội đường là một trường học, là một ngôi nhà mà Thiên Chúa là Cha còn tất cả mọi người là anh em. Gia đình hội đường là nơi họ sống và lớn lên, cho nên hội đường không thể thiếu được trong đời sống của họ. Nhờ hội đường mà đời sống về phần đạo cũng như đời thường, được nuôi dưỡng, bồi bổ mỗi ngày được lớn mạnh thêm.
Thiên Chúa ban cho mỗi người một hoàn cảnh sống, Ngài còn cho mỗi người có trí thông minh và sự tự do, để biết chọn lựa tốt xấu cho cuộc sống. Chúng ta những người đang ngồi trong nhà thờ này, ai cũng có điều kiện để học biết. Trước tiên là cha mẹ, trường học đầu tiên mà mỗi người đều được trải qua. Kẻ đến là những người thân thuộc chung quanh. Đó là những ngôi trường tự nhiên không thể thiếu được trong cuộc sống làm người. Đa số trong chúng ta đều được đến trường học, để trao dồi thêm kiến thức. Nhưng những gì mà mình đã học biết, những gì đã tích lũy bao nhiêu năm qua, có sinh lợi ích thật sự cho chúng ta không? Đặt biệt, chúng ta còn là người Công Giáo, từ nhỏ đến giờ, chúng ta đã đến nhà thờ, đã nghe, đã biết, đã học, đã nhận lãnh rất nhiều. Nhưng những điều đó có sinh ích lợi gì cho chúng ta không? Hay chúng ta giống như những người học mà không biết đem áp dụng những gì mình đã học, để sinh lợi cho cuộc sống, như thế thì phí đi những gì mình đã vất vả đầu tư. Nếu như thế, thì buồn thay cho Đấng đã từng hy vọng nơi chúng ta, khi cố công chỉ dạy. Đó là Thiên Chúa, Ngài từng thương yêu mỗi người, chăm sóc cách đặt biệt, tạo nên những phương tiện cần thiết để chúng ta được học biết. Thế mà chẳng đem lại kết quả gì sao? Như vậy, nhà thờ của ngày hôm, có phải là ngôi nhà hội họp, là hội đường, là nơi không thể thiếu được trong đời sống của chúng ta không? Chúng ta có thấy cần thiết để đến nhà thờ nhận lấy sự hiểu biết để mà sống, nhận lấy sự bồi bổ cho đức tin, nhận lấy những lẽ phải để sống xứng đáng là con Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Hay là chúng ta sợ nhà thờ, chúng ta không quen đến nhà thờ, chúng ta thấy không cần thiết để lắng nghe, để học biết. Nếu như thế thì chúng ta sẽ ra sao, khi không học, không biết gì hết?
Mỗi người nhìn vào chính mình, nhìn vào những ngày tháng đã qua. Có những lúc chúng ta chìm đắm trong cô đơn thất vọng, cuộc đời không lối thoát, đó là những lúc chúng ta không biết đến với Chúa, không biết lắng nghe, không biết đem ra áp dụng những gì Thiên Chúa đã chỉ dạy chúng ta phải sống. Cũng có những lúc chúng ta can đảm đứng vững vàng trước những sống gió của cuộc đời, chúng ta vượt qua được những khó khăn của cuộc sống mà hiên ngang bước đi. Đó là những lúc chúng ta luôn có Chúa bên cạnh, luôn biết chạy đến với Ngài, luôn biết học nơi Chúa. Đó cũng là những lúc chúng ta cảm nhận được rằng: Thiên Chúa không thể thiếu vắng trong đời sống của chúng ta được.
Xin Chúa cho chúng ta biết siêng năng đến với Ngài.
Mẹ Têrêsa Calcuta đã trở nên mẹ của người nghèo, mẹ của những con người cùng khổ, bất hạnh và bị bỏ rơi. Với cuộc đời luôn sống với người nghèo, cho người nghèo, mẹ càng trở nên cao trọng giữa muôn người trong thế kỷ thứ 20. Mẹ đã được cả thế giới gọi mẹ bằng một tên gọi đầy kính trọng Mẹ Têrêsa Calcutta. Và có lẽ chẳng mấy ai còn nhớ đến tên gọi của mẹ do hai cụ thân sinh đã đặt từ ấu thơ Agnes Gonxha Bojaxhiu.
Trong thánh lễ phong Chân phước cho Mẹ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cao mẹ như là một chứng nhân phục vụ theo gương Thầy Chí Thánh Giêsu. Ngài nói: “Mẹ Têrêsa không những đã chọn chỗ thấp nhất mà còn muốn đi phục vụ những người hèn mọn nhất của xã hội. Tựa như một người mẹ của những người nghèo. Người nghiêng mình xuống trên những người cùng khổ vì đủ mọi thứ nghèo khổ”. Mẹ đã dấn thân đến với người nghèo hầu mong nâng cao phẩm giá họ lên giữa một xã hội còn đầy những kỳ thị chủng tộc, kỳ thị sang hèn, giai cấp… Chính Mẹ đã từng nói: “Cái nghèo khổ nhất trên đời này là bị xua đuổi, không còn được ai đoái hoài đến nữa”. Mẹ còn muốn cho công việc của Mẹ được nhân rộng thêm lên, Mẹ đã thành lập hội dòng Thừa sai bác ái với ước nguyện: “Thiên Chúa vẫn mãi yêu thương thế gian và Người sai chị em chúng ta ra đi biểu lộ tình yêu và lòng thương cảm của Người đối với người nghèo”.
Lời Chúa hôm nay có thể nói là tin vui cho những người nghèo khổ, những người bất hạnh và bị bỏ rơi. Chúa Giêsu đã chọn người nghèo để dấn thân, để phục vụ. Không phải là Chúa Giêsu khinh bỉ người giầu, người quyền thế mà có thể nói Ngài đến để giúp cho những con người thấp hèn kia được nâng cao, được tôn trọng như những con người giầu có, quyền quý. Chính Ngài đã chọn sinh ra trong thân phận một người nghèo. Chính Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó. Nghèo khó đến nối “không có nơi gối đầu”. Mỗi bước chân của Ngài đều hướng đến những người khổ đau. Mỗi ánh mắt của Ngài đều hướng về những con người bất hạnh. Mỗi cái nhìn của Ngài đều chạnh lòng thương những ai đang đau khổ bơ vơ vì bị bỏ rơi, vì thiếu thốn tư bề. Ngài đã thực hiện trọn vẹn sứ vụ của Đấng Messia mà các tiên tri đã loan báo. “Khi Người đến mắt người mù sẽ được nhìn thấy. Tai người điếc sẽ được nghe. Người câm nói được và người què nhảy nhót như nai”. Tất cả những điều đó hôm nay đã ứng nghiệm trong con người Đức Giêsu miền Nagiaret. Thiên Chúa đã nhập thể làm người để nâng con người nên làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở lại luôn mãi với nhân trần. Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người để yêu thương và ban phát ơn lành. Đấng Thiên Sai đã chọn người nghèo, người cùng khổ để dấn thân phục vụ. Đấng Thiên Sai đã sống một kiếp người trong nghèo khó, thiếu thốn tư bề để cảm thông với những lắng lo của kiếp người truân chuyên.
Đó cũng là sứ điệp mà Lời Chúa muốn nhắn nhủ con người hôm nay. Giữa một xã hội quá chênh lệch giầu nghèo, địa vị. Giữa một xã hội quá phân biệt giai cấp và địa vị. Mức sống của từng giai cấp, địa vị đều khác nhau. Có những người ăn tiêu một bữa ăn bằng tiền lương cả một tháng lao động vất vả của một công nhân quèn. Ở Việt Nam hôm nay có những trường học phổ thông dành cho con nhà giầu, mỗi tháng thu lệ phí mỗi em cả hàng chục triệu đồng, trong khi đó nhiều gia đình phải chật vật để kiếm vài trăm ngàn cho con có cơ hội đến trường, đến lớp. Có những người ốm đau bệnh tật kéo dài cả cuộc đời vì không có tiền trang trải cho viện phí nên đành chấp nhận đau đớn mỗi khi trái gió trở trời, đang khi đó có biết bao người giầu có dư tiền dư của đến nỗi bỏ ra hàng triệu đồng để lột da cho tươi trẻ, và còn khoét thêm má lún đồng tiền để thêm phần duyên dáng thanh cao. Có những người cơm không đủ no, áo không đủ mặc đang khi đó có biết bao người áo chỉ mặc một lần và đồ ăn thức uống vất ngổn ngang quanh nhà.
Giữa một xã hội quá nhiều những thị phi như thế, Chúa đang cần chúng ta hãy tiếp tục công việc của Chúa. Hãy là những chứng nhân cho công việc phục vụ anh em. Hãy đem tình yêu Chúa trải rộng khắp mọi nẻo đường chúng ta đi. Hãy biết chạnh lòng thương với những ai đang khốn khổ lầm than. Hãy biết chia sẻ cơm bánh cho những anh em nghèo đói. Hãy cúi mình phục vụ những ai không có gì để đền đáp lại chúng ta.
Năm nay, Giáo hội Việt Nam hân hoan đón mừng năm Đức Tin, là dịp để chúng ta nhìn vào cung cách sống phục vụ quên mình của các nhà truyền giáo đã không quản ngại vất vả, gian truân, đói khát, thiếu thốn để vun trồng tin mừng cho quê hương Việt Nam. Chính đời sống yêu thương phục vụ của các nhà truyền giáo và của các bậc cha ông chúng ta ngày xưa đã đánh động những người dân Thăng Long đến nỗi họ đã từng nói với nhau: “Kìa nhìn xem người ky-tô hữu họ yêu thương nhau biết bao”. Đó cũng phải là cung cách sống của chúng ta, những con người thời đại hôm nay hãy biết sống quên mình, biết sống phục vụ vì lợi ích anh em để làm chứng cho Chúa. Ước gì với tinh thần sống đời kytô giáo yêu thương và phục vụ sẽ là dấu chỉ thật đẹp của người môn đệ Chúa Kytô giữa thế giới hôm nay. Amen.
Từ thuở khai thiên lập địa, Thiên Chúa đã tạo dựng nên loài người và Ngài đã yêu thương con người cách rất đặc biệt. Ngài coi con người như con cái của Ngài, cho hưởng hạnh phúc trong khu vườn địa đàng. Từ khi con người phạm tội, xa cách Thiên Chúa, Thiên Chúa như người Cha già luôn mong nhớ đứa con đi hoang. Bởi không hiểu tình Cha mà con dại khờ nghe theo lời dụ dỗ của kẻ ác.
Ðể cứu giúp con mình trong cảnh lầm than, Cha đã sai biết bao sứ giả đến bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Dù loài người thế nào, dù con người phản bội, tội lỗi, Chúa vẫn một lòng yêu thương sẵn sàng đón nhận trở về. Tình yêu Thiên Chúa vơi con người là tình yêu của một người Cha, và có thể ví như tình yêu khắng khít của tân lang với tân nương.
Khi dân Do Thái phản nghịch với Chúa, bỏ Chúa theo các thần khác, họ phải chịu cảnh lưu đày nơi đất nước mà các thần này được tôn thờ. Nhưng rồi khi họ có lòng hối cải, Chúa lại qui tụ họ lại như trong bài đọc II chúng ta thấy: Yavê Thiên Chúa thức tỉnh vua Kyrô để ông ban sắc chỉ cho dân Israel trở về nước tái thiết lại đền thờ Giêrusalem. Và khi dân chúng đã trở về định cư, chính tư tế Esdras đã quy tụ họ lại, giáo huấn họ bằng cách mang sách luật ra đọc cho toàn dân Israel nghe. Dân chúng hiểu được tình thương của Chúa đối với họ và nhận ra những sự xúc phạm của mình đối với tình thương của Ngài. Họ ăn năn khóc lóc khi nghe những lời trong sách luật và quyết tâm sống trung thành với Chúa, tuân giữ những lời Chúa dạy trong sách luật.
Sách luật mà tư tế Esdras đọc đây không phải là bộ luật hình sự của một quốc gia thế gian toàn là những quy định cấm đoán và mức hình phạt. Sách luật này là bộ Ngũ kinh, là lời Chúa dạy. Đó là luật tình thương, bồi bổ tâm linh như bài đáp ca thánh vịnh 18. Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can, mệnh lệnh Chúa trong ngời sáng soi con mắt. Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh, phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. Vì vậy, luật Chúa đem lại sự sống, đem lại sự giải phóng, đem lại hạnh phúc thật cho con người.
Trong bài Phúc âm, chúng ta thấy chính Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa, Ngài đến làm ứng nghiệm tất cả những gì sách thánh Cựu Ước đã tiên báo. Ngài là Ðấng của lời hứa, Ngài là Ðấng Kitô của Thiên Chúa. Khi đọc đoạn sách tiên tri Isaia này, Ngài cảm nghiệm rất rõ sứ mạng của Ngài: Thiên Chúa xức dầu cho Ngài, sai đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho những kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.
Chúa Giêsu là Ðấng cứu tinh của chúng ta. Chúng ta có nhận thức rõ tình thương của Ngài đối với chúng ta chưa? Ngài là Thiên Chúa đến không phải để lấy uy quyền trách phạt chúng ta nhưng để phục vụ bằng lời rao giảng, bằng sống hy sinh và nhất là bằng cái chết trên thập giá vì chúng ta. Chúng ta hãy đáp tình thương yêu ấy. Một tình yêu chung thủy vì loài người được đáp trả bằng sự thờ ơ của nhân loại. Một mối tình không nói được hết bằng lời nhưng bằng sự hy sinh đổ hết máu mình ra để chuộc lấy linh hồn chúng ta.
Chúng ta hãy yêu mến Chúa, hãy cảm nghiệm tình thương Chúa trong cầu nguyện, trong hy tế thánh lễ và đáp trả bằng những việc hy sinh cụ thể để có thể xứng đáng với tình thương hy sinh của Người.
(Suy niệm của Nguyễn Chí Thanh, OP)
Ngày 10-12-1948. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã long trọng tuyên bố bản tuyên ngôn quyền con người… đây là lần đầu tiên trong lịch nhân loại, cộng đồng thế giới đã đảm nhận trách nhiệm quảng bá và bênh vực quyền của con người như một nghĩa vụ trường kỳ. Bản tuyên ngôn nhân quyền đã được công bố một thời gian ngắn sau đệ nhị thế chiến.
Thảm kịch chiến tranh cho nhân loại mỗi lúc hiểu rằng hòa bình chỉ có thật sự có khi con người biết tôn trọng những quyền lợi và tự do căn bản của con người. Ngược lại, nơi nào quyền con người bị phủ nhận và chà đạp, thì cho dẫu không có chiến tranh đẫm máu, người ta cũng chỉ sống trong một thứ hòa bình giả tạo mà thôi.
Thưa cộng đoàn, nếu bản tuyên ngôn ở trên được con người đặt ra để cử xử với nhau trong cuộc sống ở trần gian này, cho dù thế nào đi nữa nó vẫn có những bất toàn của nó. Thì trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã công bố “bản tuyên ngôn tình thương”, bản tuyên ngôn ấy vượt ra khỏi không gian và thời gian, và được thể hiện bằng thần khí, bằng sự thật, bằng cuộc sống, bằng tình yêu, bằng tình người và sẽ bằng chính máu – thập giá của Người
Trở lại với trình thuật Tin Mừng, chúng ta thấy thánh Mát Thêu diễn tả: Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Thưa cộng đoàn, đã ứng nghiệm vì Đức Giêsu đến trần gian và đi vào cuộc sống làm người chỉ trừ tội lỗi, vì vậy “Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế ”.
Đã ứng nghiệm vì Đức Giêsu là sợi chỉ nối kết giữa Cựu Ước và Tân Ước. Do đó Người đến không phải là để phá đổ những cái cũ nhưng là để kiện toàn và tạo cho nó một sinh khí mới.
Thưa cộng đoàn, qua bài đọc một chúng ta thấy rất rõ sách luật đã nói đến “hôm nay là ngày thánh hiến Đức Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc”
Đó cũng chính là điều đã ứng nghiệm rằng một viễn tượng hết sức tốt đẹp là sẽ có một đấng thiên sai đến với toàn dân, sẽ giải phóng họ thoát khỏi cảnh lầm than cơ cực, khỏi cảnh bị áp bức bóc lột; vì thế “ hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em ”
Và vì vậy đã ứng nghiệm qua trình thuật Tin Mừng của thánh Mátthêu được Đức Giêsu công bố, chúng ta thấy “Bản tuyên ngôn tình thương” đã được ngôn sứ Isaia tiên báo trước đó năm thế kỷ là “Thần khí chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”.
Nhưng để thực hiện, để mở ra bản tuyên ngôn này thì chỉ có Đức Giêsu là người duy nhất có chìa khóa mở ra.
Điểm cốt yếu của bản tuyên ngôn tình thương tại thủ phủ Nazaret được Đức Giêsu công bố ít nhiều đã làm xáo trộn trật tự sẵn có. Vì đối với não trạng của người Do Thái, đặc biệt của các thượng tế và kinh sư, thường coi những kẻ nghèo hèn, những kẻ khố rách áo ôm, những kẻ đui mù câm điếc… là do Thiên Chúa chúc dữ, do đó cần loại những kẻ ấy ra ngoài đời sống sinh hoạt của tôn giáo, của phụng tự, của xã hội. Thế mà một Đấng Thiên Sai lại đi rao giảng sự giải phóng cho những người ấy. Vâng thưa công đoàn, sao mà có thể chấp nhận cho được! .
Nhưng đã ứng nghiệm vì Đức Giêsu đến loan báo một thứ Tin Mừng khác hẳn, không phải là một thứ Tin Mừng chỉ dành riêng cho một dân tộc ưu tuyển nào, hay chỉ dành riêng cho các thượng tế và kinh sư, nhưng Đức Giêsu còn mang đến một thứ Tin Mừng cho những người đang sầu khổ, đui mù, câm điếc và những dân ngoại đang khao khát lời Chúa.
Thưa cộng đoàn, bản tuyên ngôn được Đức Giêsu công bố, đã biến Đức Giêsu trở thành một vị Thiên Chúa ngôi vị, đã trở thành anh cả giữa một đàn em đông đúc mà qua bài đọc hai cho chúng ta thấy Đức Giêsu là Đầu, là Trưởng Tử, còn chúng ta là những thành phần được kết hợp với người, được thông phần với người vì chúng ta đã được đầy tràn một thần khí duy nhất.
Chính vì vậy Đức Giêsu đã sống đồng hành, sống cùng sống với thân phận của mỗi con người; lúc thì thủ thỉ như cha con, lúc thì chung chạ như anh em, lúc thì đồng bàn như bạn hữu.
Đức Giêsu không chỉ dừng lại đồng hành bên cạnh những thân phận ấy, nhưng Người nhận thấy nơi những con người bệnh tật, bần cùng đói khổ, tội lỗi ấy một giá trị mới, một phẩm giá mới; là được làm con Thiên Chúa. Một cách quyết liệt hơn nữa nói như tôn sư Eckhart “ Thiên Chúa xuống làm người để con người trở thành Thiên Chúa” là vậy.
Thưa cộng đoàn, bản tuyên ngôn tình thương được Đức Giêsu công bố vẫn còn rất thời sự, vẫn còn rất nóng hổi đối với thế giới của chúng ta đang sống. Vậy mỗi người ki tô hữu chúng ta sẽ thực hành bản tuyên ngôn ấy như thế nào trong thế giới hôm nay?. Đây là vấn đề tôi cũng như các quý ông bà anh chị em phải suy nghĩ rất nhiều trước bối cảnh chúng ta đang sống.
Ắt hẳn cũng còn rất nhiều điều chưa ứng nghiệm là bởi vì qua thái độ sống của mỗi người chúng ta chưa thực hiện được qua bản tuyên ngôn của Đức Giêsu;
Chưa ứng nghiệm là vì chúng ta chưa sống đúng với chứng tá là một ngôn sứ đến với những con người bất hạnh, và vẫn còn những thái độ tránh xa họ.
Chưa ứng nghiệm là vì chúng ta chưa mở rộng tấm lòng ra để đón nhận những nỗi đau của đồng loại, bởi vì chúng ta sợ không dám chia sẻ những gì chúng ta có như tinh thần và vật chất.
Chưa ứng nghiệm là vì chúng ta chưa công bố một sứ điệp Tin Mừng chân thật, sứ điệp Tin Mừng đó chính là thể hiện cách sống của chúng ta đối với những người bất hạnh.
Vâng, đúng vậy, khi chúng ta lãnh nhận bí tích thánh tẩy, chúng ta được tháp nhập vào chức vụ tư tế, ngôn sứ, vương đế phổ quát của Đức Giêsu.
Cho nên mỗi ki tô hữu chúng ta cũng phải có trách nhiệm loan báo, công bố, và thực hiện bản tuyên ngôn đó; là loan báo niềm vui đến với những người đang khát khao lời Chúa biết rằng Thiên Chúa luôn luôn đón chờ, luôn dang rộng cánh tay để dìu dắt nâng đỡ, an ủi một khi trông cậy vào Người
Và công bố niềm hy vọng đối với những người tội lỗi, sầu khổ, bệnh tật, đui mù câm điếc về cả tinh thần lẫn thể xác là Thiên Chúa luôn luôn đồng hành với mỗi người chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống, và luôn luôn ôm trọn tất cả những tội lỗi, sầu khổ, bệnh tật của mỗi người chúng ta bằng trái tim đầy thương yêu của Người và chữa lành những vết thương ấy qua Bí Tích Thánh Thể mà chúng ta đón nhận mỗi ngày.
Chính vì vậy mỗi người chúng ta cầu xin Chúa luôn tăng thêm thần khí để dẫn dắt chúng ta dám sống, dám xả thân phục vụ và thực hiện bản tuyên ngôn tình thương mà Đức Giêsu đã trao lại là: mang Tin Mừng đến với mọi người, qua đó nhận biết tình yêu thương của Thiên Chúa. Vì chỉ có như vậy chúng con mới có thể thực hiện lời Người đã dạy “anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, và loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”.
Và cũng chỉ có như vậy thì “hôm nay sẽ ứng nghiệm lời kinh thánh” trong bối cảnh chúng ta đang sống và qua đó làm bật dậy sức sống mới trong từng tâm hồn mỗi người chúng ta. Amen.
(Suy niệm của Achille Degeest)
Trong phần đầu bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thu hẹp nhận định vào điểm thánh Luca đã soạn thảo Phúc Âm của ngài với tất cả thái độ nghiêm túc của giới trí thức đương thời. Chúng ta dừng lại ở phương cách Đức Giêsu thuyết giáo trong nhà hội ở Nagiarét. Chúa tham gia đầy đủ vào những tục lệ dân tộc, tuân giữ ngày hưu lễ như những người Do Thái khác, nghĩa là đến tụ họp tại hội đường nghe đọc Lề Luật rồi nghe người ta bình giải. Người giữ hội đường đưa cho Chúa một cuốn sách về Cựu Ước (thời đó sách là một tờ giấy rất dài cuộn lại). Chúa đọc trong đó một bản văn mang ý nghĩa lời sấm về Đấng Mêsia. Chúa đọc xong, tất cả mọi người, kể cả Chúa, ngồi xuống. Bấy giờ Chúa loan báo cho đám thính giả rằng thời đại cứu độ mà nhân loại mong đợi đang mở ra cho họ, Chúa dùng lối nói bóng cho họ linh cảm rằng Đấng Mêsia đang hiện diện trước mắt họ.
Đoạn Phúc Âm cho chúng ta biết giảng thuyết của Đức Giêsu bắt nguồn từ đâu và nhằm mục đích gì?
1) Bắt nguồn từ quyền phép Chúa Thánh Linh. Một trong những nét được coi là đặc điểm của Đấng Mêsia hiện rõ lên ở đây: đó là quyền phép Chúa Thánh Linh. Sở dĩ Đức Giêsu có được quyền phép ấy vì Người là Con Thiên Chúa. Tuy vậy, trên bình diện nhân tính, quyền phép ấy Chúa có được cũng là do sự Người cầu nguyện liên tục. Chúng ta có thể nghĩ rằng mỗi lần trước khi nói và hành động, Chúa cầu xin Chúa Thánh Linh soi sáng hướng dẫn Người. Nhờ mối liên hệ tâm linh ấy, Chúa là một người có những lời nói châu ngọc khiến người nghe ngưỡng mộ, và có một quyền năng làm phép lạ khi nào Chúa muốn. Đây là một quy luật căn bản cho tất cả những ai sau này đến lượt mình mang sứ vụ loan báo cho thế gian rằng thời đại cứu độ đã tới. Dẫu cho ngày nay không cần phải làm phép lạ, sự giảng dạy về đức tin vẫn phải bắt nguồn từ tâm tình tuỳ thuộc hoàn toàn vào Chúa Thánh Linh.
2) Mục đích giảng thuyết của Đức Giêsu là loan tin một sự giải phóng. Chúng ta nói rõ, không phải là một sự giải phóng về chính trị, nhưng là giải phóng về tâm hồn: mở ra một vận hội hy vọng cho những kẻ vô vọng. Được dễ dàng chuẩn bị nhất để đón sứ điệp ấy, là những kẻ nghèo, những kẻ bị áp bức, những kẻ đi tìm sự thật cho trí óc và giải thoát cho tâm hồn. Chúa phán rằng sự hiện diện của Người mở ra một năm ân sủng của Thiên Chúa, nghĩa là khai mạc một thời đại mới, thời đại cứu độ. Chúa tuyên bố điều ấy một cách dè dặt. Chúa để cho người ta phỏng Chúa là AI hơn là Chúa xác nhận. Chúa biết rõ sự áp bức thật sự là những thiên kiến của trí óc và những mờ ám của tâm hồn. Suốt ba năm giảng dạy, Đức Kitô giáo dục dân chúng cách tuần tự, cho họ quyền tự do nghe hay không nghe, dẫn dắt họ tiến dần đến chỗ hiểu biết rằng niềm tin vào Chúa đem đến sự giải phóng thật sự. Tất cả những cuộc giải phóng khác đều xuất phát từ sự giải phóng Chúa đề nghị với nhân loại.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Một số người Công Giáo đã thất vọng nơi những cấu trúc gần đây của những nhà thờ, họ nhìn thấy chúng quá tiêu điều, không trang trí những đồ dùng sốt sắng và thiếu đi vẻ đẹp. Một số khác thì nhắm đến những nhà thờ cổ hơn thì quá cầu kỳ. Chúng ta hãy hướng đến bài đọc thứ hai ngày hôm nay. Đúng hơn là hãy quan sát những cấu trúc và trang trí của tòa nhà, hãy nhìn xem những người ở bên trong nhà thờ. Với đôi mắt đức tin Công Giáo của bạn hãy nhìn họ như họ thật sự là: Thân Mình của Đức Kitô, được làm nên bởi nhiều phần tử khác nhau. Bên trong mỗi con người là ánh sáng rực rỡ của con người Đức Kitô, Đầu của thân mình là Giáo Hội. Ánh sáng rực rỡ ấy chiếu sáng không chỉ trên những người mà đôi mắt của họ được soi sáng bởi chân lý và những người của Giáo Hội thật sự là thân mình của Đức Kitô, bên trong mỗi người là một vẻ đẹp đặc biệt và lạ lùng. Lúc ấy tôi ước ao, chúng ta có một cái nhìn quang tuyến X thiêng liêng cho phép chúng ta trong suốt Thánh Lễ nhìn xuyên được vẻ đẹp bên trong. Và tiếp theo chúng ta sẽ thấy đôi hôn phối ở gần chúng ta thì phải tranh đấu để giữ cho cuộc hôn nhân của họ được tồn tại, họ phải cầu nguyện nồng nhiệt biết bao để nắm bắt lại ân sủng thời họ mới cưới, tất cả bởi vì họ thật sự tin đó là ý muốn của Thiên Chúa, họ là hai trong một xác thịt. Đức tin của họ thì rất xinh đẹp.
Chúng ta thấy một người thanh niên ăn mặc lịch lãm. Với một cái nhìn đặc biệt chúng ta có thể biết anh ta đang nài xin Chúa giải thoát anh ta khỏi ách nô lệ của một đam mê đang đe dọa phá hủy đời sống của anh. Kế bên anh là một người thanh niên khác cũng đang cảm tạ Chúa vì những ân phúc trong đời sống của anh và xin Chúa hãy cho anh biết anh phải làm gì, để dâng mình cho Giáo Hội như là một linh mục. Bên trong cả hai con người đều rực lên ánh sáng xinh đẹp của đức tin. Chung quanh chúng ta, chúng ta nghe nhiều người đang nhiệt tình đọc kinh hoặc hát những bài hát sốt sắng. Họ là những thành phần rất khác biệt nhau trừ sự kiện họ là những người trưởng thành trẻ đã không còn đến với Thánh Lễ nữa. Tất cả bọn họ đều đã xa rời Giáo Hội Công giáo, một số khác đã kết hợp vời các tôn giáo khác, một số người nghĩ cuộc sống sẽ rất đẹp nếu Thiên Chúa không hiện hữu. Tiếp đó, một điều gì đã xảy ra, điều gì khác cho mỗi một người, làm cho họ nhận biết rằng họ cần có Thiên Chúa và Giáo Hội của Người biết bao. Bởi vì họ có hạt giống đức tin gieo bên trong họ, họ biết phải trở lại tìm kiếm Thiên Chúa ở đâu. Họ trở lại để nâng niu Giáo Hội với một sự nhiệt tình, cũng giống như những người mới gia nhập Giáo Hội vào ngày lễ Phục Sinh. Chúng ta chú ý đến những đứa trẻ. Nếu không có tia X quang, chúng ta vẫn có thể thấy sự đơn sơ và khiêm nhường của chúng. Chúng ta được nhắc nhở khi Chúa Giêsu cảnh cáo chúng ta: “Nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ thì các con sẽ không được vào Nước Thiên Chúa”. Trẻ em là một cuốn Phúc Âm sống động và chúng thì giống như những bông hoa đáng yêu trang trí cho Giáo Hội.
Thánh Phaolô đã suy niệm về sự hiệp nhất Đức Kitô với dân Người là Giáo Hội. Thánh nhân đã viết cho các tín hữu thành Corintho rằng: “Thân Mình của Đức Kitô thì có nhiều chi thể, tất cả những chi thể mặc dù chúng có nhiều nhưng chỉ là một Thân Thể, đó là Đức Kitô”. Bài học đầu tiên nói với chúng ta, dân chúng đã hạnh phúc biết bao khi họ tái khám phá cuốn sách Luật (ở đây có thể là Đệ nhị luật). Chúng ta sẽ hạnh phúc trong ngày của Chúa đã khám phá Thân Mình của Đức Kitô ở giữa chúng ta. Trong bài đọc của thánh Phaolô nơi Thánh Lễ ngày Chúa Nhật ngày hôm nay đã ứng nghiệm giữa chúng ta. Hãy nhìn chung quanh bạn. Hãy chiêm ngắm Thân mình của Đức Kitô. Vẻ đẹp thật của ngôi nhà thờ. Chân lý lớn lao này đã cho chúng ta một tiếng Amen sốt sắng.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đến với trần gian. Ngài đã sống một cuộc đời của người được sai đi. Khoảng thời gian sống ẩn dật và những năm rao giảng Tin Mừng, Ngài luôn thực hiện trọn vẹn công việc của một ngôn sứ: “Rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó”, sống chứng nhân tình yêu giữa đời.
Chúa Giêsu xuất hiện công khai giữa đời với những chuỗi ngày rao giảng không mệt mỏi. Khắp những nẻo đường xứ Galilê đều ghi dấu bước chân của Ngài. Danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến với nhiều lời khen tặng. Chính nơi vùng đất Galilê này Ngài bắt đầu sứ mệnh với nhiều thành công. Nhiều người đã đón nhận và say sưa với sự hiện diện của Ngài. Giai đoạn này được gọi là Mùa Xuân của Galilê. Ngài đến như mang lại một luồng gió ấm áp từ nơi Thiên Chúa. Chưa có phe đối lập nào xuất hiện, lòng người đang còn khát khao lời hằng sống đem lại sự tươi mới cho cuộc đời. Bởi lẽ bản tính con người Galilê ưa chuộng những gì mới mẻ và thích đổi thay.
Hôm nay Chúa Giêsu vào hội đường như thói quen Người vẫn làm trong ngày Sabbat. Tại đây, trong bối cảnh trang nghiêm, Ngài chính thức công bố chương trình hoạt động của mình: Ngài được sai đi để loan báo Tin Mừng cho những người nghèo nàn, khốn khổ. Như thế, Ngài đến để thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia.
Tin mừng Chúa Giêsu được rao giảng cho hết mọi người nhưng đối với những người không khổ sở thiếu thốn thì Lời Chúa như đang nói với ai đó, chẳng liên can gì đến họ. Cho nên đối với họ đó chẳng phải là Tin Mừng gì cả. Nhưng đối với những người nghèo là những kẻ đang ở trong tình cảnh khổ sở, bị giam cầm, bị áp bức, bệnh tật.. họ đang mong thoát khỏi cảnh ấy. Với những người như thế, họ thật sự cần đến Chúa Giêsu. Do đó, những lời công bố của Chúa Giêsu mới thật sự là Tin Mừng cho họ.
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, mỗi người nhận lấy sứ mệnh là ngôn sứ của Chúa, là người được Thiên Chúa sai đi. Ngài sai ta làm tông đồ cho Ngài. Công việc tông đồ là gì? Chúa Giêsu đã cụ thể đó là loan Tin Mừng cho người nghèo khổ. Ngày nay có những hạng nghèo mà người tông đồ phải đến loan tin: nghèo vật chất, nghèo tình thương, nghèo ân sủng, nghèo đức tin.
Những người nghèo về vật chất: cuộc sống của họ thường vất vả, cơ cực. Ta có đủ tôn trọng và cư xử lễ độ với họ không? Ta có giúp đỡ họ hay tìm cách vận động để ngượi khác giúp đỡ không? Ta có những lời an ủi động viên để họ đừng vì cảnh nghèo mà phải xa Chúa không? Hãy đến cảm thông, chia sẻ và an ủi họ. Hãy cho họ biết rằng họ là những người Thiên Chúa đặc biệt yêu thương.
Những người nghèo tình thương: đó là những người cô đơn, không nhà cửa, những người đau bệnh ít người đến viếng thăm. Họ là những người bị bỏ rơi phải lang thang lề đường, phố chợ. Có thể họ là những người gần cạnh bên ta. Ta có đến thăm nom họ không? Ta có gieo chút bình an, chút tình thương nào không? Người được sai đi loan Tin Mừng phải cho người khác một hy vọng và tin tưởng rằng Thiên chúa vẫn đoái nhìn đến họ.
Những người nghèo ân sủng: đó là những người tội lỗi, bê trễ trong đời sống đạo. Ta có mạnh dạn nhắc nhở để họ trở về với tình thương của Chúa không?
Sau cùng, những người nghèo đức tin: hạng này rất đông. Những người này hiện nay gặp rất nhiều nơi sở làm, trong đám tiệc, xóm giềng…Đừng quên Chúa sai ta đến với họ để cũng rao giảng Tin Mừng cho họ. Nếu ta ngại ngùng không dám nói thẳng thì ít ra đời sống của ta phải tỏ ra mình là người tông đồ thật sự và luôn sống tốt với mọi người.
Sứ mệnh đến với người nghèo của Đức Giêsu luôn được tiếp tục trong Giáo hội và qua Giáo hội. Chúa Giêsu mong muốn là môn đệ Ngài tiếp tục sứ mạng ấy. Vì được nhận lãnh Tin mừng và hồng ân từ Thiên Chúa, ta cũng phải làm cho ơn ấy tiếp tục đến với nhiều người: gặp nhau trong niềm vui, nâng đỡ ai đau khổ, xoa dịu các oán hờn. Tình yêu Chúa sẽ đổ tràn cho những người biết rộng tay đón nhận và mạnh dạn dấn thân.
Nhiều tu sĩ cao niên đến gặp thầy Antôn. Ở giữa là thầy Giuse. Muốn thử họ, thầy Antôn đưa ra cho họ một lời Thánh Kinh, và bắt đầu từ tu sĩ trẻ nhất, thầy hỏi ý nghĩa của lời ấy. Mỗi tu sĩ đều nói theo khả năng của mình. Nhưng với tu sĩ nào thì thầy Antôn cũng nói: “Anh chưa tìm ra ý nghĩa”.
Tu sĩ cuối cùng nói với thầy Giuse:
– “Còn thầy, thầy giải thích lời đó ra sao?”
Thầy Giuse đáp:
– “Tôi không biết”.
Lúc ấy thầy Antôn nói:
– “Đúng, thầy Giuse đã tìm được giải đáp, vì Thầy nói: tôi không biết”.
Trước lời giải đáp của những vị tu sĩ cao niên đã nhiều năm sống đời tu hành trong hoang địa, ngày đêm không ngừng suy niệm Lời Chúa, thầy Antôn vẫn nhất mực nói: “Anh chưa tìm ra ý nghĩa”. Nhưng với thầy Giuse người có uy tín nhất, người đã trả lời “tôi không biết”, thầy Antôn lại bảo: “Chính thầy Giuse đã tìm được giải đáp”.
Thưa anh chị em,
Phải chăng có một nghịch lý trong giai thoại trên đây?
Trước mầu nhiệm của Thiên Chúa, trí khôn con người làm sao có thể hiểu nổi và ngôn ngữ của con người làm sao có thể diễn tả được? Bởi vậy, cách giải thích Lời Chúa trung thực nhất là thú nhận rằng mình không giải thích nổi. Chỉ Thiên Chúa mới hiểu biết Lời Ngài và nói Lời Ngài cách thích đáng và xứng hợp. Hôm nay chúng ta được nghe chính Chúa Giêsu đọc lại lời tiên tri Isaia và giải thích cho chúng ta:
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết họ sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. Đọc xong, Ngài ngồi xuống. Mọi người nhìn thẳng vào Ngài mà chờ đợi. Trong khung cảnh im lặng linh thiêng ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe”.
Phải, Chúa Giêsu đã làm ứng nghiệm mọi lời tiên tri nói về Ngài từ hàng trăm năm trước. Đó là bằng chứng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến, Ngài thật là Con Thiên Chúa. Một bằng chứng khác nữa là những phép lạ Ngài làm đã có rất nhiều lời tiên tru trong Cựu ước tiên báo, trước khi Ngài sinh ra hàng trăm năm và đã ứng nghiệm từng chữ trong đời sống của Ngài.
Thật vậy, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện lời tiên tri tiên báo: Ngài công bố Tin Mừng cho người nghèo. Ngay lúc mới sinh ra, những mục đồng nghèo khó là những người đầu tiên được loan báo Tin Mừng. Sau nầy, khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả đến hỏi Ngài có phải Ngài là Đấng Cứu Thế không, Ngài đã bảo họ về kể lại cho ông Gioan biết những gì Ngài đã làm: người mù được thấy, người què được đi, người điếc được nghe, người câm nói được v.v… đúng như lời tiên tri Isaia tiên báo.
Hôm nay, trong hội đường ở Nagiarét, giữa đồng bào đồng hương của Ngài, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Ngài đến để thực hiện những lời tiên tri Isaia mà họ vừa nghe Ngài đọc. Ngài có sứ mạng đem ơn cứu độ đến cho những người nghèo đói, bệnh tật, kẻ bị tù đầy, bị áp bức, qua lời giảng dạy và những phép lạ Ngài làm. Nói như thế có nghĩa là Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến công bố năm hồng ân cho những người nghèo khổ; Ngài quan tâm đến những khổ đau của những con người đau khổ; Ngài lấy việc giải thoát họ làm sứ mạng của mình, và ơn cứu độ, trước mắt Ngài, là tái lập trật tự trong xã hội con người và trong thế giới, nơi đó, công lý, yêu thương và hòa bình phải ngự trị.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã trao sứ mạng của Ngài cho Giáo Hội. Và Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Qua suốt chiều dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng của Chúa Kitô là đem Tin Mừng cho người nghèo khó. Chính Giáo Hội đã khai sinh ra các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, trại tế bần, nhà dưỡng lão… Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm ngày nay vẫn còn giá trị. Và hôm nay sứ mạng của Giáo Hội có lẽ còn khẩn trương hơn nữa, vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ ngày nay phải bao gồm cả những vấn đề hết sức quan trọng và cấp bách nhất, liên quan đến công lý, giải phóng, phát triển và hòa bình.
Mẹ Têrêsa Calcutta trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô. Mẹ đã bị sốt liệt giường. Trong cơ mê sảng, Mẹ bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt Thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên đàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho Mẹ Têrêsa vào Thiên đàng. Thánh Phêrô nói: “Không để cho một người ở khu ổ chuột được vào Thiên đàng: Thiên đàng không có nơi cùng khổ”.
Mẹ Têrêsa tức giận nói với Thánh Phêrô: “Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên đàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên đàng”.
Tội nghiệp Thánh Phêrô. Kể từ sau giấc mơ đó, Mẹ Têrêsa và các nữ tu của Mẹ đã không để cho ngài được ở yên phút nào. Không biết bao nhiều người cùng khổ và cô dơn đã qua đời trong vòng tay ôm ấp của Mẹ và các nữ tu. Thiên đàng đã trở thành nơi cư trú của những người cùng khổ.
Ngày nay với gần 3000 nữ tu đang dấn thân với danh nghĩa là “thừa sai bác ái” trong 350 cơ sở xã hội, thuộc gần 100 quốc gia, những thừa sai bác ái ấy là những nhân chứng cho Chúa Kitô, cho sức mạnh của Tin Mừng, sức mạnh giải phóng những người nghèo khổ trên thế giới.
Nhắc lại thành quả của Mẹ Têrêsa, không nhằm làm chúng ta hãnh diện cho bằng thúc giục chúng ta, mỗi người trong phạm vi của mình, không được nản chí, đừng chê việc nhỏ, vì hành động của tình yêu không có gì là nhỏ, là không đáng kể. Còn biết bao người nghèo đói, khốn cùng chung quanh chúng ta. Đến bao giờ chúng ta mới có thể nói được như Chúa Giêsu: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe”. Mỗi người hãy tiếp nối công việc của Chúa Kitô chung quanh mình, bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người dốt nát, xoa dịu các oán hơn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng hoạt động của mình.
Nếu chúng ta trung thành thực thi nhiệm vụ của người môn đệ Chúa Kitô như trang Tin Mừng nêu lên, thì lời tiên tri Isaia hôm nay cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa hôm nay đã được công bố và nước Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta ngay từ bây giờ.
Ta đang sống trong một thế giới mà dường như người ta đang rất đề cao sự tự do. Tự do đi lại, tự do ăn uống, tự do mua sắm… Dường như càng ngày con người càng không muốn lệ thuộc vào bất cứ thứ gì hay bất cứ ai. Họ chỉ muốn tự mình giải quyết tất cả những vấn đề của cuộc sống. Thế nhưng, trớ trêu thay khi càng tự mình đi tìm tự do theo ý mình bao nhiêu thì người ta lại càng tự trói buộc mình bấy nhiêu. Như vậy, tự mình chúng ta không thể giải thoát được mình. Chúng ta phải cần nhờ đến Thiên Chúa.
Các thầy tư tế và Lêvi sau khi đọc sách luật đã giải thích cho dân chúng nghe. Họ bảo dân chúng hãy vui lên và đừng buồn nữa vì Thiên Chúa là thành trì bảo vệ. Đây là điều ta thấy được trong bài đọc 1.
Con Chúa Giêsu trong bài Tin mừng sau khi đọc đoạn sách ngôn sứ: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”Người đã tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Nghĩa là chính Chúa Giêsu đang đến và ngay hôm nay Người đang thực hiện những việc đó cho con người chúng ta.
Chắc chắn từ trước đến giờ và mãi mãi về sau không có ai dám tuyên bố như Chúa Giêsu hôm nay. Chỉ có Con Thiên Chúa mới dám khẳng định như vậy. Bởi lẽ, sứ mạng chính của Người khi đến trần gian là đem ơn cứu độ và ơn giải thoát cho muôn người.
Nhìn lại lịch sử cứu độ ta cũng sẽ thấy sau khi Tổ tông phạm tội, Thiên Chúa đã không vì thế mà bỏ rơi con người. Thiên Chúa tìm mọi cách để giải thoát họ. Thiên Chúa cứu gia đình ông Nôe khỏi lụt Đại hồng thuỷ. Thiên Chúa chọn Ông Abraham để thành lập dân riêng….Nổi bật nhất là qua Môsê, Thiên Chúa đã giải thoát dân Người khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Còn với Chúa Giêsu thì chỉ trong 3 năm mà Người đã giải thoát cho không biết bao nhiêu người bị đủ các thứ bệnh hoạn tật nguyền. Người đã giải thoát cho nhiều người từ bị đui mù, què quặt đến bị quỷ ám. Bên cạnh đó, Người còn giải thoát cho nhiều người bị xã hội và lề luật chèn ép như người phụ nữ tội lỗi, ông Dakêu người thu thuế, người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình…
Ngày nay, Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục giải thoát ta. Những Lời Chúa dạy trong Kinh Thánh, những chỉ dẫn của Giáo hội, các Bí tích… là những phương thế Thiên Chúa dùng để giải thoát ta. Quan trọng nhất là qua đó Thiên Chúa sẽ giải thoát ta khỏi tội lỗi và sự chết.
Như thế, chỉ có đặt niềm tin và phó thác nơi Thiên Chúa thì ta mới mong được thoát khỏi tội lỗi và sự chết.
Suy Niệm 1. CUỐN SÁCH
Khi dân Do Thái trở về quê hương sau nửa thế kỷ lưu đày ở Babylon, họ phải xây dựng lại quốc gia họ. Ét-ra đã kêu gọi dân chúng thánh hiến chính mình cho Thiên Chúa. Ông bắt đầu đọc cho họ nghe sách luật của Môsê. Từ thời kỳ đó, đời sống và tôn giáo của người Do Thái có nền tảng là sự tuân thủ chính xác Luật Môsê. Là những Kitô hữu, chúng ta cũng là một dân của “sách Thánh”, tuy nhiên trong trường hợp của chúng ta là sách Tin Mừng.
Có một câu chuyện về một dân tộc chưa bao giờ nghe nói về Tin Mừng. Một ngày kia, một người nước ngoài đến và loan báo: “Tôi đến và mang cho các bạn một Tin Mừng”. Khổ nỗi, ông ta bị mắc bệnh và chết trước khi ông có thể nói cho họ nghe Tin Mừng. Người ta tìm thấy một cuốn sách nhỏ trong ba-lô của ông. Nhan đề cuốn sách là: “Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”. Họ kết luận rằng đó là điều mà người nước ngoài muốn nói với họ. Họ bắt đầu đọc cuốn sách ấy.
Dù cuốn sách đã cũ, sứ điệp xem ra vẫn mới toanh. Nhân cách trung tâm hiện rõ ra với họ từ những trang sách mốc meo. Đó là một con người đầy sức sống, đã có được sự hiền lành và lòng thương xót cao cả. Họ đọc các tường thuật về những phép lạ. Người đã thực hiện cho những người bệnh và những người quẫn bách. Họ đọc thấy Người đã đi ra khỏi đường lối thông thường để liên kết với những người bị gạt bỏ. Lời Người tốt đẹp và có quyền bính gây một ấn tường sâu sắc trong lòng họ. Quả là một cuốn sách lạ lùng và lôi cuốn!
Tội nghiệp cho ông mang cuốn sách này đến đây và đã chết, có người nói: “Rõ ràng ông ta là một môn đệ của Đấng Kitô đó”.
“Nhưng ở xứ sở của ông ta, hẳn phải còn có nhiều môn đệ”, một người khác nói. “Chúng ta có nên sai một người đến đó để xem người dân sống giáo huấn mới này như thế nào hay không? Rồi người ấy sẽ trở về, tường thuật lại và có lẽ sau đó chính chúng ta có thể cố gắng sống giáo huấn ấy?”.
Họ chọn Francis, một thanh niên chính trực. Anh đã đi du hành khắp nơi và quan sát kỹ lưỡng. Anh sẵn sàng tìm gặp các thành phần tiêu biểu của quần chúng rộng rãi. Anh không vội vàng đưa ra kết luận và phán đoán. Sau cùng đến ngày mà anh cảm thấy đã quan sát đủ, anh liền trở về quê hương. Vừa mới về đến, đồng bào anh đã đặt ra cho anh những câu hỏi dồn dập:
“Những môn đệ của Sách Thánh có yêu thương nhau không?”
“Họ có sống hoà bình với nhau không?”
“Họ có sống một cách đơn sơ không?”
“Họ có hạnh phúc không?”
Nhưng mọi câu hỏi có thể tóm gọn trong câu hỏi này: “Các môn đệ của Đức Kitô có sống theo đúng Sách Thánh không?”.
Và đây là một bản báo cáo tóm tắt về những gì Francis nhận thấy, được anh trao cho đồng bào anh:
“Về cơ bản, tôi thấy có năm loại Kitô hữu. Trước hết, tôi nhận thấy một số người là Kitô hữu nhưng chỉ trên danh nghĩa. Dù rằng họ đã được rửa tội, họ không tuân giữ một điều gì trong đạo và cũng không cam kết điều gì.
“Thứ hai, tôi nhận thấy một số người là Kitô hữu chỉ bởi thói quen. Dù rằng họ công khai cam kết tuân giữ theo giáo huấn của Đức Kitô, nhưng điều đó không ảnh hưởng gì đến cách họ sống. Thậm chị, tôi còn thấy họ sống theo những nguyên tắc không liên quan gì đến những lời dạy trong Sách Thánh, mà trong nhiều trường hợp còn ngược lại với những lời dạy ấy.
“Thứ ba, tôi nhận thấy một số người rõ ràng là có lòng nhiệt thành với đức tin Kitô giáo. Họ dấn thân trong những công việc tốt lành. Nhưng dường như họ còn thiếu một yếu tố quan trọng. Họ dường như có ít hoặc chỉ có một bài phẩm chất mà Thầy họ yêu cầu.
“Thứ tư, tôi nhận thấy những người mà các bạn có thể gọi là các Kitô hữu hành đạo. Theo tôi những người này đã hiểu rõ tinh thần của Sách Thánh. Họ thật sự quan tâm đến người khác và không hổ thẹn là những Kitô hữu. Tôi thấy họ bị bách hại ở một số nơi. Ở những nơi khác, họ gặp phải tình cảnh có lẽ là tệ hại nhất: sự dửng dưng khủng khiếp của đồng bào họ.
“Sau cùng, tôi đã gặp một số người, phải thừa nhận là không nhiều, và tôi không ngần ngại gọi họ là những Kitô hữu đích thực. Họ là những người có đời sống tâm linh sâu xa. Khi gặp họ, tôi cảm thấy mình gặp được chính Đức Kitô”.
Câu chuyện không cho chúng ta biết dân tộc ấy có đón nhận Tin Mừng hay không. Ngày nay, nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho thế giới tuỳ thuộc vào chúng ta. Có là một đặc ân to lớn nhưng là một công việc làm nản chí. Cũng như Đức Giêsu, chúng ta được Chúa Thánh Thần ban ơn phù trợ. Cách tốt nhất để rao giảng Tin Mừng là sống một đời sống Kitô hữu đích thực. Cuốn sách duy nhất mà nhiều người sẽ đọc biết Tin Mừng chính là cuốn sách của đời sống chúng ta.
Suy Niệm 2. GIÁO HỘI LÀ NHIỆM THỂ ĐỨC KITÔ.
Ngày nay trong y học, có rất nhiều chuyên khoa đến nỗi thân thể con người được chia ra làm nhiều phần. Một số bác sĩ chuyên về tim, những bác sĩ khác chuyên về não bộ hoặc về mắt, về tai v.v… Sự chuyên môn hoá là điều tốt như có thể có một khía cạnh tiêu cực. Nhà chuyên môn có thể chỉ quan tâm đến các bộ phận của con người mà không quan tâm đến chính con người. Họ hiếm khi hiểu rõ con người có mắt, hoặc tai hoặc hông đang được điều trị.
Thân thể con người tạo nên một thể thống nhất dù nó bao gồm nhiều chi thể. Những chi thể này rất khác nhau và có những chức năng rất khác nhau: dĩ nhiên có một số chi thể quan trọng hơn những chi thể khác. Nhưng một thân thể đầy đủ cần có mọi chi thể và các chi thể cần lẫn nhau.
Giáo Hội cũng thế. Chúng ta dù nhiều nhưng cùng tạo thành một thân thể trong Đức Kitô (Bài đọc 2). Qua phép Rửa Tội, chúng ta đã trở thành những chi thể của Thân Thể Đức Kitô, tức là Hội Thánh. Một số người muốn sống một mình, không nhờ cậy vào ai, được độc lập với cộng đoàn. Nhưng không thể có một Kitô hữu cô lập như thế. Những người chủ tâm tách lìa mình ra sẽ làm tổn thương cộng đoàn. Chúng ta là một phần của người khác và phải cố gắng không để mình sống biệt lập.
Cộng đoàn có những yêu cầu đối với chúng ta. Vì lẽ đó, cám dỗ muốn sống một mình, không cần đến ai, muốn tìm kiếm sự cứu độ độc lập với những người khác là một cám dỗ mạnh mẽ. Nhưng điều đó không thể có được. Chúng ta cần cho nhau, giống như những phần của một thân thể cần lẫn nhau.
Và Giáo Hội cần đến mọi người chúng ta. Chúng ta cần có ý thức mình thuộc về nhau và thuộc về Đức Kitô. Chúng ta phải được bao gồm cả khi chúng ta chỉ muốn tốt hơn là lo cho chính mình.
Thuộc về một cộng đoàn có những lợi ích rõ ràng. Hãy lấy những cây sậy làm ví dụ. Từng cây một, chúng mềm yếu và bị bẻ gãy dễ dàng. Nhưng khi cột chúng lại với nhau thành bó, chúng thật sự không thể bẻ gẫy được. Điều đó cũng đúng với con người.
Sức mạnh to lớn là kết quả của sự hợp quần. Người ta có thêm lòng can đảm khi hiểu biết nhau, động viên nhau, và nương tựa nhau. Khi ta cùng nhau làm việc thì có thể làm được nhiều điều vĩ đại.
Tầm quan trọng của cộng đoàn được Đức Giêsu nhấn mạnh và Người dùng một hình ảnh khác để mô tả nó. Đó là hình ảnh cây nho và cành nho: “Thầy là cây nho, anh em là cành”.
Hình ảnh tuy đơn sơ nhưng đã minh hoạ sâu sắc tính hiệp nhất và lệ thuộc lẫn nhau.
Rõ ràng là cành nho cần có cây nho. Nhưng cây nho cũng cần có cành, bởi vì chính cành sinh ra quả.
Đức Giêsu muốn tương quan ấy tồn tại giữa Người và các môn đệ. Đó là cách mà Người muốn có ở giữa Người với chúng ta. Người là cây nho, chúng ta là cành. Vả lại, nếu nói theo ngôn ngữ của Phaolô: “Đức Giêsu là đầu của thân thể, chúng ta là những chi thể”. Nếu một người không có ý thức thuộc về cùng một cộng đoàn, chăm sóc và chịu trách nhiệm cho nhau, người ấy không thật sự là một Kitô hữu.
Hoa quả mà Đức Giêsu mong muốn nơi chúng ta, trước tiên là sự hiệp nhất ở giữa chúng ta. Bởi sự hiệp nhất ấy, mọi người sẽ biết rằng chúng ta thuộc về Đức Giêsu, nói cách khác là bởi sự liên kết có ở giữa chúng ta và sự chăm sóc mà chúng ta thực hiện cho nhau.
“Người đến Nagiaret, nơi sinh trưởng…”
Một trong những điều bắt buộc với nhà truyền giáo là học tiếng nói của người bản xứ. Điều này không đơn giản là chỉ học để giao tiếp thông thường mà phải trao dồi càng chuẩn xác bao nhiêu càng tốt. Đến khi nào mà ngay chính người sở tại cũng không nhận ra được đây là một giọng nói của người nước ngoài nói tiếng nước mình mà như người bản xứ thật sự thì mới được coi là đạt yêu cầu. Thực tế điều này rất khó, đòi hỏi nhiểu tời gian và lòng kiên nhẫn. Tuy vậy, điều thú vị là khi am tường được ngôn ngữ của một dân tộc thì gần như thấu hiểu được trọn vẹn nền văn hóa của họ.
Ngược lại khi đến một xứ truyền giáo thì ít nhiều nhà truyền giáo cũng mang theo những nét văn hoá của xứ sở họ. Do đó, nếu biết khôn ngoan chắc lọc thì những xứ truyền giáo sẽ có nhiều cơ hội làm giàu thêm cho nền văn hoá vốn có của dân tộc mình. Được như vậy thật là điều đáng coi trọng.
Theo chân Đức Giêsu, hôm nay chúng ta trở về Nagiaret, nơi chôn nhau cắt rốn của Người, nơi đã in đầy những dấu chân của Người, cũng là nơi chứng kiến Ngài lớn lên trong suốt 30 năm ẩn dật. Từ ngày từ giã đất mẹ ra đi làm loan báo Tin Mừng cứu độ theo ý Cha đến nay, Đức Giêsu mới có dịp trở về thăm quê. Lần trở về quê này quả thật có nhiều điều để nói. Ngài trở về “trong quyền lực Thánh Thần” và trong cái “danh tiếng đang lan tràn khắp chung quanh”. Có lẽ dân chúng đã chờ đợi ngày này lâu lắm rồi. Chờ đợi để được chiêm ngưỡng người con đã làm rạng danh xứ sở. Nhưng quan trọng hơn là chờ đợi để được nghe những “cung vàng thước ngọc” từ miệng Người thốt ra. Và họ đã được toại nguyện. Ngài vào hội đường. Vị cai quản hội đường không ngần ngại trao cho Ngài Thánh Kinh, và ưu ái dành cho Ngài công việc giảng giải Lời Chúa.
Quả thật, Đức Giêsu hôm nay không như một Giêsu, con một người thợ mộc ngày xưa. Giêsu hôm nay là Con Một Thiên Chúa đã được chứng nhận rõ ràng. Hàng thật đã được đóng ấn và xức dầu.
Ấy vậy mà trong mắt dân chúng Ngài vẫn rất thân quen, gần gũi, dễ thương như ngày nào. Ngài cao vời hơn chính tầng mây nhưng cũng thật đơn sơ và thân thuộctrong vị trí của những ngưòi bà con họ hàng, trong cái tình làng nghĩa xóm chân chất nhưng dạt dào nghĩa nhân. Là bởi đức Giêsu không phủ nhận cái nhân tính của mình. Ngài vẫn không từ chối quê hương máu thịt trần gian. Hơn thế, Ngài đã dùng chính cái thiên tính, và sức mạnh Thánh Thần để thánh hóa, truyền cho cái trần gian ấy một sức sống thiêng liêng, làm cho nó nên trọn vẹn theo ý Ngài.
Không biết vô tình hay hữu ý mà nhiều người vẫn còn ngộ nhận rằng theo đạo Công giáo là theo tà đạo, là chối bỏ truyền thống dân tộc, là bất hiếu. Tôi không phủ nhận có sự hiểu lầm hoặc là trong chính nội dung giáo lý, hoặc là trong cách ứng xử của những người có đạo. Đây thật sự là điều đáng tiếc. Nhưng phải nói ngay rằng, không bao giờ có sự mâu thuẫn đó. Bằng chứng là khi các nhà truyền giáo Tây phương sang Việt Nam thì chưa bao giờ các ngài cố gắng để xóa bỏ những truyền thống của dân Việt. Nếu có sự sai lầm là bởi các ngài đã hiểu không đúng và do đó đã áp dụng không phù hợp.
Ơn siêu nhiên không làm mất ơn tự nhiên. Nhưng thánh hoá con người, bổ túc cho những bất toàn của con người và tăng thêm sức mạnh để giúp chúng ta sống trọn vẹn và tốt đẹp hơn trong cuộc sống tự nhiên. Sự mất thăng bằng hay nói cách khác tại sao chúng ta không mở rộng được tâm hồn, không hoà nhập được với vũ trụ vạn vật và con người. Tại sao ta không giúp được gì cho người khác mà ngược lại còn cản trở họ tiến triển cũng do ta thiếu ơn Chúa mà ra. Tại sao ta khắc khoải, đau khổ, chán chường, thất vọng… bởi vì ta không nhận ra được những may lành mà Chúa đã ban. Với lòng tin, phó thác, và sự trợ giúp của Chúa ta dễ dàng vượt qua những trở ngại và hân hoan tiến bước.
Ước gì, ơn Chúa không trở nên hư mất mà còn làm cho chúng ta thêm triển nở trọn vẹn hồn xác.
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Sau khi Chúa Giêsu đã lãnh nhận lễ rửa của Gioan và vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ. Ngài ở lại Giuđê một thời gian rồi quay về Galilê. Nơi đây Ngài bắt đầu một chức vụ mà Luca để dành sáu đoạn trong Phúc Âm ông viết để nói đến. Ông kể ra ba đặc điểm của chức vụ này: được thi hành do quyền năng của Chúa Thánh Thần, danh tiếng Ngài được dồn rộng khắp xứ, cách giảng dạy có uy quyền giữa công chúng.
Nơi đâu tiên Ngài thăm viếng và giảng bài giảng đầu tiên là tại hội đường Nadaret không phải là một làng, nó được gọi là ‘Polis’ nghĩa một thành hay một thị trấn, và có thể có tới hai mươi ngàn dân. Nadaret tọa lạc trong một vùng đất của sườn đồi của Galilê gần cánh đồng Gitrien. Chỉ cần leo lên đỉnh đồi vượt cao trên mặt thành là có thể thấy toàn cảnh bao la hàng dặm chung quanh đó. Geoge Ađam Smith diễn ra phong cảnh từ đỉnh đó như sau: “Lịch sử của Israel mở ra trước mặt chúng ta: kia là cánh đồng Edroelon, nơi Đêbora và Barac đã chiến đấu, nơi Giêđêon đã thắng trận vẻ vang, nơi vua Saolê đã thảm bại, và chính nơi này Giosia đã bị giết trong chiến trận. Kia là vườn nho của Na-bốt, chỗ Giêhu giết Giêsaben, kìa nữa là đất Sunem, nơi tiên tri Êlia đã sống, kìa là núi Các-men, nơi tiên tri Êlia đã đánh trận oanh liệt với các tiên tri Ba-an, và xanh canh ở đàng xa là Địa Trung Hải và các đảo. Nhưng không phải chỉ có lịch sử Israel ở đó, mà lịch sử thế giới cũng mở ea từ trên đỉnh đồi Nagiarét. Có ba con đường lớn vây quanh Nagiarét. Có con đường từ phía nam đưa các khách hành hương lên Giêrusalem. Có con đường lớn dọc bờ biển để đưa những đoàn thường gia chở nặng hàng háo từ Ai-cập lên tới Đa-mát. Có con đường lớn đi về Phương Đông cho những đoàn doanh thương từ xứ Arabi tới, và cũng có những đoàn quân viễn chinh La-mã tiến về các biên giới miền Đông của đế quốc. Thật sai lầm nếu nghĩ rằng Chúa Giêsu lớn lên tại một nơi hẻo lánh. Ngài lớn lên trong một thành có tầm cỡ lịch sử và có các trục lộ giao thương của thế giới chạy qua ngay trước ngọ. Chính nơi đây Chúa Giêsu đã giảng bài quan trọng chứa đựng cả chương trình chức vụ của Ngài hay cũng có thể gọi được là bản tuyên ngôn về công tác cứu rỗi mà Ngài đến thực hiện.
Hôm ấy là ngày sabat. Các bà con bạn hữu và những người đồng hương của Chúa Giêsu đều hội họp đông đảo tại nơi thờ phượng chung là hội đường. Tất cả đều nóng lòng muốn được nghe một người mà họ quen biết nhiều, một người mới thình lình nổi tiếng. Có thể là Ngài yêu cầu hoặc là người phụ trách hội đường đưa cho Ngài cuộn da ghi lời Kinh Thánh của tiên tri Isaia để hướng dẫn giờ đọc Lời Chúa. Ngài mở nhằm chỗ nói về niềm vui của năm hồng ân, tác giả mô tả sự vui mừng của những kẻ trở về sau cuộc lưu đày từ Babylon. Chúa Giêsu đọc xong thì ngồi xuống như cách các giáo sư nhà hội thường làm. Tất cả đều chăm chú nhìn Ngài chờ đợi, Ngài lợi dụng dịp này để công bố lời tiên tri này được ứng nghiệm nơi chính Ngài, Ngài tuyên bố Ngài chính là Đấng Mêsia (Cứu Thế) đã được hứa. Lời tiên tri bắt đâu với câu “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi”, đem áp dụng cho Ngài, có nghĩa rằng ngài đã được xức dầu tấn phong, không phải bằng dầu thương như các tiên tri, thượng tế hay vua, nhưng bằng Thánh Thần để làm Đấng Được Xức Dầu hay Đấng Kitô của Thiên Chúa. Với tư cách ấy, Ngài sẽ giảng Tin Mừng cho người nghèo về thuộc thể cũng như thuộc linh. Ngài sẽ công bố sự giải póng hco những kẻ bị tù đày vì tội lỗi, và thiết lập những nguyên tắc rồi đây sẽ đem lại sự tự do cho nhân loại. Ngài sẽ giúp cho kẻ bị áp bức được tự do, nghĩa là cởi bỏ những hậu quả và sự độc ác của lòng ích kỷ và tội lỗi. Ngài sẽ rao truyền một thời đại ân điển cho tất cả. Như vậy với những lời mô tả về sự giải póng nô lệ và niềm vui của năm hồng ân, Chúa Giêsu đã diễn đạt tính chất ân điển và phước hạnh của chức vụ Ngài.
Chúng ta cần xem xét kỹ lưỡng hơn để thấy được dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu đã vận dụng Kinh Thánh Cựu ước như thế nào cho sứ mệnh cứu thế của Ngài.
Khi Chúa Giêsu giảng dậy trong các nhà hội, thường vẫn có đọc Sách Thánh, như đây là cơ hội duy nhất chúng ta được biết Ngài chọn bản văn. Và những lời đầu tiên được Ngài công bố trong bản văn Thánh “Thần Khí Chúa ngự trên tôi.” Người có thể nhận thấy niềm hoan lạc tỏa ra từ giọng nói và nét mặt khi Ngài thốt ra Thần Khí Chúa, lời mà tiên tri Isaia đã ghi lại mà không nắm bắt hết nội dung, còn Ngài thấu hiểu trọn vẹn ý nghĩa. Khi công bố “Thần Khí Chúa”, Ngài muốn tôn vinh tác giả Thần Linh, Đấng đã linh hứng lời tiên tri và bây giờ đây hướng dẫn việc thực hiện. Âm thầm và mau mắn, Chúa muốn cho thấy chính Thần Khí Chúa là nguồn gốc sứ mệnh của Ngài và hướng dẫn mọi đường đi nước bước. Ngài dùng chính từ ngữ mà chính Thần Khí đã bảo nhà tiên tri.
Trước những người đồng hương Nagiarét, việc nêu rõ tên như thế này mang lại một tầm quan trọng hơn. Chúa Giêsu đang ở trong làng nơi đã nhiều năm sinh sống, ai cũng biết rõ gia đình Ngài: “Đây không phải là con ông Giuse sao?” Câu nói biểu lộ sự ngạc nhiên thấy con của một người thợ tầm thường lại có được khôn ngoan và quyền năng như thế. Nhưng cũng hé mở cho thấy niềm xác tín rằng một giá trị cao cả như thế không thể do nguồn gốc gia đình mang lại. Chúa Kitô lập tức phải đối đầu với nhóm thính giả gợi ra gia đình thần linh mà Ngài đang thuộc về. Chẳng phải gia đình nhân loại đem lại cho Ngài những danh hiệu cho công trình Ngài đang đảm nhiệm, nhưng là Thần Khí của Đức Chúa. Ít ra các thính giả hiểu rằng Ngài đang nại đến uy quyền thần linh, Ngài tuyên bố giáo ký và hành động của Ngài là do Thiên Chúa đặt định. Ngay lúc này họ chưa có thể nhẫn ra Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến một ngôi vị thần linh khác, vì cho đến lúc này họ chưa hề có được ý tưởng Thần Khí là một Ngôi vị Thiên Chúa. Nhưng ý tưởng này đã bao hàm trong lời nói của Chúa Cứu Thế.
May mắn hơn dân làng Nagiarét, chúng ta biết được nghĩa Chúa Giêsu áp dụng cho lời tiên tri. Chúa Giêsu áp dụng cho Ngôi vị thần linh khác là nguồn gốc và điều khiển sứ mệnh cứu thế của Ngài. Để sứ mệnh của Ngài được điều hành do Thiên Chúa, chỉ cần Ngôi Hai Thiên Chúa làm người hoàn thành cũng đủ, thế nhưng Chúa Giêsu dựa vào sự hiện diện của Đức Chúa trên Ngài. Ngài xác nhận vai trò chủ quản của Thần Khí, và hơn thế, ở phía sau vai trò nguyên thủy tối quan trọng của Chúa Cha, là nguồn gốc của tất cả; vì nếu từ “Thần Khí” hướng về Chúa Thánh Thần, thì từ “Đức Chúa” trong ý của Chúa Giêsu phải quy hướng đặc biệt về Ngôi Cha, và như thế tất cả gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa được gợi lên. Như thế là theo chương trình của Thiên Chúa, Đức Kitô hoạt động nhờ Chúa Thánh Thần là Thần của Chúa Cha, đang ngự trong Ngài.
Cần hiểu đúng ý nghĩa việc Thần Khí ngự trên Đức Giêsu. Lời sấm trong sách tiên tri Isaia cho thấy một sự hiện diện qua việc xức đầu và trao ban một sứ mệnh. Nếu Thần Khí của Đức Chúa ngự trên Ngài là vì Đức Chúa đã xức dầu cho Ngài. Xức dầu là dấu chỉ thánh hiến một người, biệt riêng ra để phục vụ Thiên Chúa và mặc lấy quyền năng do Chúa ban như xưa trong Cựu ước, quyền làm vua, làm tiên tri, làm tư tế.
Chúa Kitô quả quyết Ngài được xức dầu do Đức Chúa, từ Thiên Chúa Cha. Không phải dầu vật chất, nhưng là chính Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Chúa Giêsu được thánh hiến để phục vụ Chúa Cha, chính do Thánh Thần mà Ngài nhận được quyền năng. Danh hiệu Kitô của Chúa Giêsu là do Thánh Thần, vì danh hiệu này theo nguyên ngữ là “Đấng được xức dầu”. Vì thế mỗi khi nhắc tới danh hiệu Kitô là nêu ra việc Ngài được Chúa Thánh Thần thánh hiến.
Việc xức dầu là đề hoàn thành một sứ mạng. Khi đọc lời tiên tri, Đức Giêsu loan báo sứ mạng mà Thần Khí Chúa trao cho Ngài thi hành. Điều đáng lưu ý là Ngài cắt ngang ngay giữa câu. Lời sấm ghi: “Thần Khí của Đức Chúa là Chúa Thượng… Ngài sai tôi công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta.” (61,2), Chúa Giêsu ngừng lại sau “Năm hồng ân” và bỏ qua loan báo “ngày báo phục”. Ngài không đến để loan báo ngày báo phục của Thiên Chúa, nhưng để công bố năm hồng ân. Như thế chữ cuối cùng “Năm hồng ân” diễn tả phúc lộc của Thiên Chúa phù hợp với chữ đầu tiên “Thần Khí Chúa”. Thần Khí Chúa làm cho sứ điệp và công việc của Chúa Giêsu thành dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa. Khi bỏ đi phần báo phục, Chúa Kitô muốn chứng tỏ rằng Chúa Thánh Thần chỉ thông chuyển tình yêu qua Ngài. Có thể coi Chúa Thánh Thần như là hồn của sứ mệnh Đức Giêsu. Chính Chúa Cha giao nhiệm vụ cho Chúa Con, khi thi hành sứ mệnh này, Chúa Thánh Thần đã tác động cho Chúa Con, chính Ngài qua Chúa con “loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ.” Khi Chúa Giêsu hăng say rao giảng cho quần chúng, chính Thánh Thần linh động lời Ngài và thấu vào tâm trí người nghe. Chính Chúa Giêsu cũng không đưa ra dấu hiệu nào khác minh chứng cho sứ mệnh của Ngài bằng nại đến ban phát tình thương. Khi Gioan Tẩy giả nóng lòng chờ đợi thiết lập vương quốc thiên sai, từ trong ngục tù sai người hỏi Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải chờ đợi đấng nào khác?” Chúa Giêsu trả lời bằng cách nhắc cho vị Tiền Hô lưu ý tới thể hiện tinh thần yêu thương, Thần Khí đã giáng xuống dưới hình chim bồ câu để làm cho dung nhan Đấng Cứu Thế có diện mạo Con Chiên lành. Đừng chờ đợi nơi Đấng Cứu Thế một quyền năng nào khác ngoài tình yêu được ban phát giờ đây. Để nhắc lại Thần Khí Chúa ngự trên Ngài, Chúa Giêsu trích dẫn chính lời tiên tri Isaia, và kể lại cho Gioan điều mắt thấy tai nghe: “Mù được thấy, què được đi, phong cùi được khỏi, điếc được nghe, kẻ chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo.” (Mt 11,4,6)
Chúng ta đã được tháp nhập vào Đức Kitô với Bí tích Rửa tội. Không gì thích hợp hơn để chúng ta áp dụng trong thực tế lời kinh Năm Thánh 2000: “Lạy Cha, xin cho chúng con trong Năm Toàn Xá, biết vâng nghe tiếng Chúa Thánh Thần, biết trung thành theo Đức Kitô, biết chuyên cần lắng nghe lời Chúa, và năng đến với nguồn mạch ân sủng.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh,
Chỉ có Chúa là Thiên Chúa và là Đấng Tối Cao,
Chúng con xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời.
Lạy Cha, xin dùng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, làm cho Hội Thánh thêm nhiệt tâm loan báo Tin Mừng, cách thích hợp trong thời đại mới. Xin dẫn bước chúng con trên khắp nẻo đường trần gian, để rao giảng Đức Kitô bằng tất cả đời sống, và hướng cuộc lữ hành dương thế của chúng con, tiến về thành đô ánh sáng trên trời. Xin cho các môn đệ Đức Kitô được tỏa sáng nhờ biết yêu thương những kẻ nghèo hèn và những người bị áp bức. Xin cho họ biết liên đới với những kẻ khốn cùng và quảng đại sống bác ái yêu thương. Xin cho họ biết khoan dung với mọi người hầu chính họ cũng được hưởng lòng Cha tha thứ khoan dung…”
Câu kết của bài hát “Bài ca cây lúa” được hát như thế này “Ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay”. Trong ca dao, tục ngữ Việt Nam chúng ta cũng bắt gặp nhiều tư tưởng đề cao giá trị của thời phút hiện tại, cái “hôm nay” của cuộc sống. Đặc biệt trong các sách Tin Mừng Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần dùng “thì hiện tại” trong các cuộc đối thoại của Ngài “hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe”, “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ”, “Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất… “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.”… Thế giá trị của cái hôm nay quan trọng như thế nào cho ơn cứu độ của chúng ta?
Hôm qua là lịch sử, ngày mai thì bí ẩn chỉ có hôm nay là quà tặng, quà tặng của cuộc sống. Cuộc sống người Kitô hữu của chúng ta cũng thế, Chúa vẫn hằng đến với chúng ta hằng ngày và đặc biệt trong ngày hôm nay của cuộc sống. Trong bài Phúc Âm Luca chúng ta được nghe hôm nay, sau khi Chúa Giêsu đọc đoạn sách Tiên Tri Isaia thì Ngài nói “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe”. Ứng nghiệm là ứng nghiệm cái gì? Thưa là ứng nghiệm lời tiên tri Isaia loan báo ngay chính lúc này, chính ngày hôm nay. Chúa Giêsu nhận mình là người mà Tiên Tri Isaia loan báo, là người được xức dầu, để loan báo Tin Mừng cho người nghèo hèn, công bố cho người bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Đối với Thiên Chúa không có quá khứ cũng chẳng có tương lai mọi sự đối với Chúa chỉ toàn là hiện tại. Qua mỗi trang Tin Mừng ta dễ dàng thấy nếu ai biết nhận ra Chúa đến với họ và họ biết nhanh chóng đón Chúa thì họ như được tất cả do Thiên Chúa ban cho, còn ai ngập ngừng lần lựa thì Chúa kể như “đồ ngốc” và như họ bị vuột mất mọi thứ.
Đơn cử như trường hợp Dakêu, ông nghe biết Chúa Giêsu tiến vào thành Ghêrikhô thì ông đã phải vượt qua những rào cản hữu hình cũng như vô hình, từ những khiếm khuyết thể lý cho đến những khiếm khuyết luân lý. Ông vượt qua tất cả. Chúa Giêsu thấy sự nỗ lực của ông và Chúa đã đáp lại hơn cả sự mong đợi của ông. Chúa còn ban ơn cứu độ cho gia đình ông”Hôm nay nhà này. được ơn cứu độ…”.Về phía Dakêu sau khi đón nhận Chúa vào nhà mình, ông đã biến đổi: từ một con người coi tiền tài danh vọng là tất cả mọi sự thì nay ông nhận ra Chúa và ơn cứu rỗi của Người là cùng đích đời ông nên ông nói “Này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi cưỡng đoạt của ai cái gì, thì tôi xin đền gấp bốn”. Rõ ràng khi Dakêu thấy Chúa Giêsu thì ông không chần chừ, lần lựa mà ông đón Chúa và nhà mình và ông nhận được ơn cứu rỗi.
Người giàu có trong dụ ngôn của Chúa Giêsu thì ngược lại. Sau khi thấy mình có đầy dư gạo thóc, ông định phá bỏ những kho lẫm cũ để xây dựng những kho lẫm mới lớn hơn và ông cho rằng lúc đó mình sẽ an tâm cho số phận của mình. Chúa bảo “Đồ ngốc vì đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi”. Người nhà giàu này chần chừ lần lựa, tự lo cho chính mình, đợi kế hoạch của mình hoàn thành đã thì mới tính tiếp. Chúa không coi đó là cách thức khôn ngoan vì đối với Chúa mọi sự phải là hiện tại.
Trở lại bài đọc I, Tiên Tri Nơkhemia và tư tế Et-ra sau khi giảng giải lề luật cho dân chúng thì các ông nói “Hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc…”và chính ngày hôm nay là ngày hồng phúc Thiên Chúa dành cho chúng ta, ngày Thiên Chúa mang Tin Mừng đến cho những người nghèo hèn…. ngày Thiên Chúa thi ân giáng phúc.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy sống “ngày hôm nay” như là hồng ân của Chúa, Chúa đến với ta từng giây, từng phút trong cuộc đời, ta phải nhận ra Chúa qua từng biến cố, từng cảnh sống. Chính Chúa Giêsu cũng đã chấp nhận cuộc sống trần thế và Ngài đón nhận nó như là ân ban và Ngài đã thánh hoá đem lại ơn cứu độ cho những ai biết thánh hoá từng ngày sống của mình.
(Suy niệm của Lm. Paul-Maurice Lâm Thái Sơn)
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi… sai tôi đi rao giảng Tin Mừng”
Thông thường chúng ta nghĩ rằng Chúa Giêsu chỉ đi giảng dạy trên khắp bờ cõi xứ Giuđêa, mà quên rằng Ngài vẫn hành đạo như mọi người Do Thái thời đó, và theo thói quen, thì ngày nghỉ lễ, Ngài vào Hội Đường. Hôm đó Ngài được mời đọc sách, vừa mở ra Ngài gặp đoạn chép rằng: “ Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó…” Sứ mệnh của Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế là: rao giảng Tin Mừng để làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Là những người tin theo Ngài, sứ mệnh của chúng ta, qua lời nói và hành động, cần phải phản ảnh Tình thương Thiên Chúa đến biến đổi tất cả, như Chúa Giêsu đã đến để thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức…
Khi đề cập đến Tình Yêu, hẳn nhiên chúng ta không thể nào không biết đến nhiều phong trào hiện đại với chủ đề “yêu cuồng sống vội” hoặc những trào lưu tư tưởng chủ trương tự do luyến ái… do đó những từ ngữ “yêu-thương” được quá thông dụng đến độ không còn mang ý nghĩa đặc thù, và đôi khi giá trị của những chữ đó cũng bị giảm sút.
Và lúc còn nhỏ, khi được dạy bảo phải thương yêu nhau, qua những câu ca dao: anh em như thể tay chân… thương người như thể thương thân… bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy không cùng giống nhưng chung một giàn v.v… chúng ta nghĩ rằng thương yêu là ngoan ngoãn, vâng lời, không làm buồn lòng người trong gia đình hay bạn bè. Nhưng khi lớn khôn, ta lại hiểu thêm tình yêu không chỉ giới hạn một cách tiêu cực ở mức không làm hại kẻ khác, và nếu chúng ta là chứng tá của Đức Kitô thì mức độ Yêu Thương cần phải vượt xa hơn nữa. Yêu Thương là cổ động bênh vực lẽ phải chống lại những gì làm nguy hại đến đời sống con người, là đứng về phía bảo vệ quyền lợi những người bị bất công áp bức hoặc bị ruồng bỏ, là dấn thân đấu tranh cho công ích để mọi người đều có phần trong miếng cơm manh áo, được hưởng hạnh phúc trong công lý và bình đẳng. Đó chính là điều mà Chúa Giêsu nắm rõ từ lúc bắt đầu đi rao giảng Tin Mừng.
Cựu Ước, đối với Đức Kitô, là Lời của Thiên Chúa tác động trên “Đấng được xức dầu” sẽ phải đến (còn được gọi là: “Đấng thiên sai”), và gợi ra hai đường hướng có vẻ khác nhau: trong nhiều trường hợp, đấng thiên sai được coi như một tướng lãnh hùng mạnh dẫn đưa dân Ít-diên làm bá chủ thế giới và áp đặt lề luật Thiên Chúa ở khắp nơi. Nhiều nhà chú giải còn thêm rằng vị thiên sai đó sẽ xét đoán, lên án và tiêu diệt những ai không chấp nhận lề luật này. Ngược lại trong những đoạn khác, vị thiên sai được xem như là người của Thiên Chúa đến để liên kết Dân của Ngài trong một giao ước tình yêu và tha thứ, vì Thiên Chúa là Đấng ban tặng tình thương và ân sủng, ban phát một cách nhưng không, Ngài không áp đặt và hoàn toàn tôn trọng sự tự do của những ai ngỏ lời cùng Ngài. Vậy thì tràn đầy Thánh Thần, “đấng được xức dầu” (Đấng Thiên Sai) sẽ không đè bẹp ngọn lau bị dập nát, Ngài không dập tắt ngọn đèn lu mờ, nhưng sẽ nâng đỡ những người nghèo khổ, goá bụa và mồ côi, Ngài sẽ mang ánh sáng, sự giải thoát và hoà bình đến cho những ai tiếp nhận Ngài.
“Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Qua đoạn cuối Phúc Âm của Chúa Nhật này, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã quyết định, Ngài tuyên bố: Ngài là Đấng được xức dầu và được sai đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chứ không phải là một tướng lãnh hùng mạnh. Và cách thức loan báo Tình Yêu Thiên Chúa không chỉ là vấn đề ngoan ngoãn lịch thiệp, nhưng là những hành động dũng cảm ưu đãi những kẻ bất hạnh, tội lỗi, bị đàn áp dưới đủ mọi hình thức. Như thế mới thật là Tin Mừng.
Riêng chúng ta, thế nào là thực hiện Tin Mừng cho những người khác? Cách thức nào chúng ta nối tiếp công việc rao giảng của Đức Kitô? Nếu viện lý không va chạm với ai để an tâm và an phận trong cuộc sống thì rất dễ, như vậy thì đời sống của chúng ta có phải là Tin Mừng cho trần gian này hay không? Sống đạo và hành đạo không chỉ là tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật hoặc các Lễ trọng trong năm, mà còn phải thực thi Yêu-Thương bằng hành động. Điển hình nhất (ví dụ): sẵn sàng đóng góp vào quỹ cứu trợ đồng bào bị nạn lụt, tùy theo khả năng… quyết tâm không làm tổn thương đến thanh danh của người khác, nhất là sống trong một Cộng Đoàn… gia nhập các Hội từ thiện hoặc các đoàn thể chống kỳ thị, chống vi phạm nhân quyền v.v… tuỳ mỗi người tự tìm những phương thức thực hiện Tình Yêu tha nhân, để cuộc sống của chúng ta trở nên ánh sáng và niềm vui cho kẻ khác.
Ước gì câu “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó” được áp dụng cho cuộc sống hôm nay và từng ngày của chúng ta.
(Suy niệm của Lm Phan Kế Sự)
“Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho: kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”
Kinh sư Esdra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, khi nhắc lại những ân huệ mà Giavê Thiên Chúa dành riêng cho dân tộc Israel, đã làm cho nhiều người cảm động đến rơi lệ. Qủa vậy, tình yêu của Giavê Thiên Chúa luôn đồng hành và cứu giúp dân chúng trong mọi hòan cảnh, đặc biệt trong những ngày khốn khổ và cùng cực của những ngày là nô lệ dân ngọai. Thiên Chúa đã không bỏ rơi, nhưng trái lại, Ngài hằng thương xót và bảo vệ dân riêng của Ngài, dẫu họ có phản bội và nhiều lần chối bỏ Ngài mà thờ cúng bụt thần của dân ngọai. “Ông Ét-ra còn nói với dân chúng rằng: “Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của ĐỨC CHÚA là thành trì bảo vệ anh em.”
Khi trở về quê hương của Mình, Chúa Giêsu mặc khải sứ mạng Mình cho chính những người bà con thân yêu của Mình, như là một lời giới thiệu về những việc Mình đã và đang làm cho mọi người. Sứ mạng đó đã được các tiên tri tiên báo, và Ngài chính là Người đến để hòan tất. Ngài cũng chính là đầu của thân thể mầu nhiệm, mà mọi chi thể đều phải lệ thuộc và hướng về. Ngài muốn mọi người đều được cứu rỗi và khỏe mạnh, bởi với Ngài, mọi người đều được Thiên Chúa quan tâm,yêu thương và chăm sóc. “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận.”
Mỗi người chúng ta là một chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa, đặc biệt là những người nghèo. Ngay từ những bài giảng đầu tiên, cho đến những phép lạ, Chúa Giêsu luôn quan tâm đến những ai không có chỗ tựa nương, không có chỗ trông nhờ,không có ai giúp đỡ. Sự xuất hiện của Ngài ở đâu,bất cứ lúc nào, cũng đều là tâm điểm lôi cuốn tất cả mọi người.Ngài đã đồng hành với mọi người bằng những tiêu chí: cùng ăn, cùng ở và cùng sống với những người đói khổ, khó nghèo cả tinh thần lẫn vật chất. Ngài không sống riêng cho mình, nhưng trái lại bị quấy rầy suốt ngày, thậm chí không còn giờ để ăn uống, gia đình cũng tưởng “Ngài đã mất trí”.
Năm đức tin, năm mà Giáo Hội muốn tất cả chúng ta trở về nguồn, vừa để học hỏi và đào sâu những Lời Chúa dạy; và cũng để soi dọi lại cách sống của mình có còn thích hợp với những gì Chúa dạy và những gì Chúa muốn cho xứng với bậc mình. Thường chúng ta vẫn tự mãn về cái gốc gác của mình: nào là 50 năm đạo gốc, nào là những chức vụ mình đang mang trên thân mình, nào là những thành tích rỗng tuếch bằng những con số thống kê ảo, nào là những công trình hòanh tráng đã thực hiện cho Giáo Hội.
– Liệu những khoe khoang, khoác lác đó có thực sự thích hợp với cái nhìn và cách sống của Chúa.
– Liệu những con số thống kê có thực sự nói lên những nỗ lực của chính mình hay cũng chỉ là những nhận vơ, cho những khó nhọc và đóng góp của những đồng trinh nhỏ của những bà góa nghèo hằng ngày kiếm được bằng cả cuộc sống cơ cực.
– Liệu cách sống giầu sang khoe mẽ, những thói quen tiêu xài phung phí, những thái độ chơi ngông có thực sự thích hợp với lời giảng dạy như chính Chúa đã sống.
– Liệu những hành động tiêu cực hoặc cách đối xử với anh em mình bằng những thái độ “lọai trừ” có thực sự xứng đáng là những ngừơi đem Chúa Kitô đến cho người khác, hay chỉ là những lời phản chứng đang ngày đêm âm thầm phá họai Giáo Hội.
Lời cầu nguyện:
Lạy Thánh Thần Chúa, xin hãy đến trên tất cả chúng con.Xin hãy làm cho tất cả chúng con trở thành những nhân chứng thực sự của tình thương Chúa giữa trần thế, để trong mọi hòan cảnh, chúng con là những hiện thân đích thực của Chúa.
Xin hãy thanh luyện và thanh lọc khỏi chúng con những gì là giả dối,giả hình và thiếu sót để mỗi người chúng con xứng đáng là những chi thể lành mạnh và có ích trong thân thể mầu nhiệm của Chúa.
Lạy Chúa xin hãy thánh hóa chúng con. Amen.
Nhìn vào xã hội, chúng ta nhận thấy con người thời nay đang bị giằng co, đang bị lôi kéo bởi hai ước muốn, đều tích cực, đều hợp lý như nhau nhưng chưa bao giờ được dung hòa một cách tốt đẹp.
Thực vậy, từ thẳm sâu cõi lòng, chúng ta đều mong muốn người khác biết đến những tư tưởng, những tài năng của mình, đòi hỏi họ phải tôn trọng và giúp đỡ để chúng ta phát triển được toàn diện con người. Khuynh hướng này có tính cách cá nhân.
Đằng khác, con người lại ước muốn hợp nhất, để xã hội này trở thành một cộng đồng hợp nhất và thương yêu, trong đó, con người không còn phải trải qua những sự trống vắng và cô đơn. Ước mơ này ngày càng trở nên mãnh liệt trong một thế giới bị phân hóa trầm trọng. Đây là một khuynh hướng có tính cách cộng đồng.
Hai ước mơ trên đây càng mãnh liệt bao nhiêu thì lại càng va chạm dữ dội bấy nhiêu, và cho đến nay chưa ai có thể dung hòa được một cách tốt đẹp.
Riêng với những người Công giáo, những người có đức tin, thì sự dung hòa ấy khả dĩ có thể tìm thấy được nơi Đức Kitô và lời Ngài phán dạy. Thực vậy, qua bài đọc thứ nhất, tiên tri Giêrêmia đã mô tả cái quang cảnh hùng vĩ: Dân Chúa tụ tập để lắng nghe lời Ngài. Esdras đọc và chú giải lời Chúa, còn dân Chúa thì vui mừng đến rơi lệ bởi vì Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài. Cảnh tượng trên đây đã được chính Đức Kitô thực hiện trong Tân ước. Đúng thế, Ngài đến để thực hiện sự hiệp nhất giữa muôn người. Ngài đến để thực hiện những lời hứa đã được tiên báo. Ngài đến để phá vỡ những bức tường ngăn cách, như nghèo đói, bệnh tật và dốt nát. Công cuộc hợp nhất này, cho đến ngày hôm nay, vẫn không ngừng được thực hiện dưới tác động của Chúa Thánh Thần…
Thực vậy, Chúa Thánh Thần luôn thúc đẩy chúng ta tìm về gặp gỡ để tạo thành một thân thể, tuy một mà nhiều, tuy duy nhất mà lại đa diện, trong muôn ngàn sắc thái của ơn Chúa. Nếu suy nghĩ chúng ta cũng sẽ nhận thấy nhân loại tự bản tính vốn đa diện: Có Do Thái, có Hy lạp, có nam có nữ, có trắng có đen, nhưng nhờ bí tích Rửa tội, con người đã gặp gỡ, đã hiệp nhất và trở nên một.
Vì thế sự hiệp nhất không phải chỉ là kết quả của những cố gắng giữa người với người, mà hơn thế nữa còn là một ơn Thiên Chúa trao ban. Bởi vì, nếu chỉ cậy dựa vào sức người, chắc chắn chúng ta sẽ thất bại, hay nếu có đạt được thì đó chỉ là một sự hiệp nhất dổm, một sự hiệp nhất giả hiệu mà thôi.
Sự hiệp nhất đích thực chỉ được tìm thấy trong việc lắng nghe và thực thi lời Chúa. Nó là kết quả của một công trình lâu dài, của một nỗ lực không ngừng để tẩy rửa, để tinh luyện tư tưởng dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần.
Tuy nhiên, hiệp nhất không có nghĩa là phải dẹp bỏ, phải bóp chết các tài năng, các ơn thánh cá nhân. Vườn hoa chỉ đẹp, khi mỗi cánh hoa đều phô diễn trọn vẹn cái sắc thắm của mình. Cũng thế, tất cả các ơn Chúa ban, đều phải được xử dụng để làm vinh danh Chúa và góp phần đem lại lợi ích chung.
Thế nhưng trở ngại vẫn còn đó, nào ích kỷ, nào tự ái, nào kiêu căng. Con đường tiến về hiệp nhất vẫn còn nhiều chông gai và sỏi đá, tuy nhiên, chúng ta chắc chắn sẽ đạt tới đích, nếu như chúng ta luôn trung thành với lời Chúa và với Kinh Thánh.
Ước chi hôm nay chúng ta bắt đầu sống sự trung thành ấy trong chính cuộc sống của mình, bằng cách chấp nhận người khác, để cộng đồng nhân loại sẽ là một vườn hoa đủ màu đủ sắc của Thiên Chúa.
Vào thời Chúa Giêsu, tại Israel có hai nơi dành cho việc phụng tự, là Đền thờ và Hội đường. Đền thờ thì chỉ có một, tức là Đền thờ tại Giêrusalem, nhưng có tới hàng trăm hội đường, hầu như mỗi làng đều có một cái. Đền thờ là nơi dân Do thái dâng hy lễ cho Chúa, chẳng hạn chiên, cừu, bồ câu… Còn hội đường là nơi dành cho việc giảng huấn, nơi dân chúng lắng nghe Lời Chúa và cố gắng áp dụng lời ấy vào cuộc sống của họ. Như chúng ta thấy, nghi thức phụng tự trong hội đường và trong Đền thờ tương ứng với nghi thức phụng tự trong thánh lễ của chúng ta. Nửa phần đầu của thánh lễ tương ứng với nghi thức trong hội đường được gọi là phần phụng vụ Lời Chúa, bao gồm việc nghe đọc các bài Kinh Thánh và áp dụng chúng vào cuộc sống giống như Chúa Giêsu đã chỉ dẫn cho dân Nagiarét trong Phúc Âm hôm nay. Nửa phần sau của thánh lễ tương ứng với nghi thức phụng tự trong đền thờ, được gọi là phụng vụ Thánh Thể, liên quan đến việc dâng hy lễ, giống như Chúa Giêsu đã thực hiện trong bữa Tiệc ly: “Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,20)
Giờ đây chúng ta hãy xét một cách sâu sát hơn phần đầu của thánh lễ, tức phần phụng vụ Lời Chúa. Trong phần này nhiệm vụ chính của chúng ta là lắng nghe Kinh Thánh. Vấn đề then chốt ở đây là ‘lắng nghe’. Cách đây nhiều năm có một vở kịch ở Broadway tựa là ‘Hoàng gia đi săn mặt trời’ (The Royal Hunt of the Sun). Vở kịch kể lại cuộc chinh phục dân da đỏ ở Pêru của người Tây Ban Nha vào thế kỷ 16, trong đó có một màn kể lại câu chuyện một người nọ biếu cho tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn Kinh Thánh và bảo ông ta: “Đây là Lời Chúa, Ngài nói với chúng ta qua cuốn sách này”. Viên tù trưởng nghiêm trang cầm cuốn Kinh Thánh lên, xem xét kỹ lưỡng và dịu dàng đặt nó vào lỗ tai. Ông cố gắng nghe đi nghe lại nhưng chẳng nghe được gì hết. Thế là ông ta nghĩ rằng mình bị phỉnh gạt, nên giận dữ dằn mạnh cuốn sách xuống đất. Màn bi kịch trên khiến chúng ta tự nhủ: “Vậy thì chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa thế nào đây?” Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng cả ba cách thức: bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của linh hồn.
Trước hết, thế nào là nghe bằng lỗ tai tâm trí?
Đó là cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, và hơn nữa, làm cho lời ấy sống động y như chúng ta đang nghe chính Chúa nói. Chẳng hạn, thánh Ignatiô Loyola thường nghe Lời Chúa theo kiểu này bằng cách nhắm mắt lại và tưởng tượng mình đang có mặt trong hội đường Do thái để nghe Chúa Giêsu nói. Thánh nhân tưởng tượng ra niềm xúc động khiến giọng nói của Chúa Giêsu nghẹn ngào khi Chúa đọc đến câu: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”, và thánh nhân còn tưởng tượng ra nỗi phấn kích như điện giật lan truyền nơi cộng đoàn tham dự khi Chúa Giêsu tuyên bố “Hôm nay, lời Kinh Thánh trên đã được ứng nghiệm khi anh chị em nghe đọc nó”. Như thế, nghe bằng tâm trí tức là không những chỉ hiểu Lời Chúa, mà còn làm cho Lời ấy trở nên sống động như thể nghe từ miệng Chúa nói ra.
Cách thứ hai là lắng nghe Lời Chúa bằng lỗ tai trái tim, nghĩa là ghi tạc Lời Chúa vào trái tim và cố gắng tìm cách áp dụng lời ấy vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống chúng ta. Cách đây nhiều năm, Charlie Pitts là chủ nhân một công ty xây dựng chuyên xây đường điện ngầm ở Toronto, Canada. Công việc làm ăn của ông càng khuếch trương bao nhiêu thì đời sống cá nhân và gia đình ông càng khốn đốn bấy nhiêu. Ngày nọ, vì thấy tình thế tồi tệ quá, Charlie phải cầu cứu tới việc đọc Kinh Thánh. Tình cờ trong lúc đọc Kinh Thánh, một câu nói đập mạnh vào mắt ông: “Nào người ta được ích gì khi được lời lãi tất cả thế gian, mà lại mất hay thiệt chính mình?” (Lc 9,25). Những lời này như nói trực tiếp với Charlie, như hàm ý bảo ông: “Này Charlie, chính điều ấy đang xảy đến cho ông đó!”. Như thế, nghe bằng trái tim tức là ghi khắc Lời Chúa vào trái tim và xét xem có thể áp dụng lời ấy vào hoàn cảnh cụ thể của chúng ta như thế nào.
Và cách thức lắng nghe Lời Chúa sau cùng là lắng nghe bằng lỗ tai của linh hồn, nghĩa là ngoài việc ghi khắc Lời Chúa vào trái tim, chúng ta còn chuyện vãn với Ngài về lời ấy, đồng thời làm những gì mà Charlie Pitts đã làm. Chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta thực hiện những bước cần thiết để làm cho cuộc sống chúng ta phù hợp với Lời Ngài. Chẳng hạn, sau khi Charlie Pitts cầu nguyện về tình trạng sống của ông và bàn luận với vợ xong, ông liền bán toàn bộ công ty của ông trước khi nó huỷ diệt đời sống của ông. Tiếp đó, Charlie bỏ tiền ra mua một khách sạn có bãi sân gôn rồi quản trị nó. Lợi tức của công việc kinh doanh này ông dùng để truyền bá Phúc Âm.
Như thế bước thứ ba trong việc lắng nghe Lời Chúa là tâm sự với Ngài để xem Ngài muốn chúng ta làm gì khi nghe lời đọc trên. Dĩ nhiên, chúng ta không mong Chúa dùng lời nói để đáp trả lại lời nói của chúng ta, vì Ngài thường nói với chúng ta một cách thiêng liêng từ thâm sâu linh hồn ta. Và hơn nữa, không phải là Ngài sẽ luôn luôn đáp lời chúng ta ngay lập tức trong giờ cầu nguyện, mà Ngài thường đáp lời chúng ta trong cuộc sống hàng ngày, ngoài giây phút chúng ta cầu nguyện. Chẳng hạn, Ngài làm cho chúng ta từ từ cảm nghiệm được niềm ước muốn đang lớn mạnh, khiến ta phải làm một điều gì đó để cải tạo hoàn cảnh hiện tại; Ngài khiến chúng ta tìm ra những ý tưởng về cách thức cải tạo cảnh ngộ chúng ta; hoặc Ngài khiến chúng ta cảm thấy nghiêng chiều về một trong những ý tưởng trên. Nói rõ hơn, nhưng chuyển biến tâm linh này có thể là do Lời Chúa đang âm thầm nói với chúng ta từ sâu thẳm của linh hồn.
Tóm lại, chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng ba cách thức: Bằng lỗ tai tâm trí, bằng lỗ tai trái tim và bằng lỗ tai linh hồn. Nói cách khác, chúng ta phải làm sao để Lời Chúa được diễn lại sống động nơi tâm trí chúng ta; phải ghi khắc lời ấy vào trái tim chúng ta; và phải bàn bạc với Chúa cũng như lắng nghe điều Ngài muốn nhắn nhủ chúng ta qua lời ấy.
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Phương, CSsR)
Trước khi nhậm chức, các nguyên thủ quốc gia thường công bố diễn văn thể hiện đường hướng hoạt động sẽ mang lại lợi ích cho đất nước.
Trong thực tế, “nhân vô thập toàn”. Mọi cố gắng của con người luôn giới hạn nên tôn giáo mới chính là lời đáp cho con người tìm về lẽ sống.
Hôm nay, khai mạc sứ vụ loan báo Tin Mừng cứu độ, Đức Giê-su đã công bố lời ngôn sứ I-sai-i-a. Lời ấy không lý thuyết phô trương, nhưng ứng nghiệm nơi cuộc đời của Người.
Ngày Sa-bát, Người Do Thái vào hội đường để nghe công bố và giải thích lời Chúa. Họ đón nhận giáo huấn của Đức Chúa nhờ nghe và suy gẫm lời của Người.
Ngày nọ, trong hội đường Do Thái, một nhân vật đặc biệt xuất hiện giữa đám đông dân chúng. Sau khi công lời ngôn sứ I-sai-i-a, người ấy khẳng định những lời ông ta vừa công bố hôm nay đã ứng nghiệm (x. Lc 4, 20). Người ấy chính là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người mang tên Giê-su.
Bằng ngôn ngữ và văn hóa của nhân loại, Đức Giê-su đã công bố lời Thiên Chúa và quả quyết lời Thiên đã ứng nghiệm nơi sứ vụ cứu thế của Người. Một sứ vụ do Chúa Cha sai thực hiện trong sự thông hiệp của Chúa Thánh Thần: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” (Lc 4, 18).
Như vậy, đón nhận Chúa Giê-su và lời của Người là đón nhận giáo huấn của Thiên Chúa trong ân sủng của Chúa Thánh Thần. Nói cách khác, muốn đón nhận giáo huấn của Thiên Chúa người ta phải đón nhận ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần trong sự thần phục suy tôn Chúa Giê-su là Cứu Chúa. “Nơi Người ơn cứu độ chan chứa” (Tv 129, 7).
Ơn cứu độ nơi Chúa Giê-su không mơ hồ trừu tượng. Sự hiện diện của Người ở đâu đều mang lại ơn đổi mới đến đó:
– Được Đức Giê-su chữa lành, mẹ vợ ông Phê-rô đã trỗi dậy phục vụ (x. Mc 1, 31).
– Đón tiếp Đức Giê-su đến nhà, ông Gia-kêu đã được ơn hoán cải nên đã quyết tâm đền bù thiệt hại gấp bốn, và chia nửa gia tài cho người nghèo (x. Lc 19, 8).
– Nghe lời Đức Giê-su chỉ dạy, gười phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp đã nhận ra sự thật nên nhanh chóng trở về làng kêu gọi mọi người ra gặp Đức Giê-su (x. Ga 4, 28).
– Ánh mắt của Đức Giê-su đã giúp ông Phê-rô hoán cải (x. Lc 22, 61).
– Lời hứa của Đức Giê-su trên thập giá, đã bảo đảm cho người trộm lành được phúc thiên đàng (x. Lc 23, 43).
– Cuộc sống và sự chết của Đức Giê-su đã giúp cho viên sĩ quan chỉ huy nhận ra Người là Con Thiên Chúa (Mt 27, 54).
– Nghe lời Chúa Giê-su Phục Sinh cắt nghĩa Sách Thánh và tham dự Thánh Lễ do chính Đấng Phục sinh dâng hai môn đệ trên đường Em-mau, đã phục hồi tinh thần, ngay trong đêm trỗi dậy trở lại Giê-ru-sa-lem (x. Lc 23, 33).
– Tiếng Chúa Giê-su Phục Sinh gọi đã giúp bà Ma-ri-a Mác-đa-la nhận ra Chúa và hăng hái lên đường loan báo tin vui Chúa đã phục sinh (x. Ga 20, 16).
– Nghe lời Chúa Giê-su Phục sinh, các Tông Đồ đã vượt qua cơn mệt mỏi chán chường hầu vững vàng thả lưới bắt cá (x. Ga 21, 6) và hân hoan ra đi khắp nơi loan báo tin vui cứu độ có Chúa cùng hiện diện và dấu lạ kèm theo (x. Mc 16, 20).
Như vậy, Chúa Giê-su chính là Lời Chúa đã thành xác phàm. Lời ấy đã: phục sinh người chết, xua trừ quỉ mà, mang lại niềm hy vọng, chữa lành bệnh tật thân xác và tâm linh: người điếc nghe được, người mù xem thất, người câm nói được, người què đi được… công bố năm hồng ân cứu độ và vẫn đang được tiếp nối nơi những hoạt động của Hội Thánh Chúa.
Hoạt động cứu thế của Chúa Giê-su đã khởi đi từ việc công bố lời Thiên Chúa, thứ đến là những hoạt động cứu sống nhân mạng, chữa lành bệnh tật thân xác và tâm linh. Đỉnh cao của hoạt động cứu thế là: Công bố năm hồng ân với ơn giải thoát: “kẻ giam cầm biết họ được tha… trả tự do cho người bị áp bức” (Lc 4, 18).
Năm hồng ân chính là thời gian Thiên Chúa ban ơn đặc biệt cho con người. Trong Chúa Giê-su, Thiên Chúa đã thi ân cho nhân lọai. Chính việc Chúa Giê-su đến trong thế gian đã thực sự đem lại thời hồng phúc, thời cứu rỗi.
Trong Chúa Giê-su, phẩm giá con người được nâng cao. Họ không còn bị nô lệ cho bất cứ một thể chế nào hay hệ tư tưởng nào. Thiên Chúa đã giải thoát họ để họ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và thờ phượng Người trong chân lý và sự thật.
Nối tiếp họat động cứu thế của Chúa Giê-su, Hội Thánh không ngừng loan báo tin vui cứu độ bằng lời, bằng tình yêu với những họat động trợ giúp cụ thể, nhất là bằng chính mạng sống của mình.
Ngày nay, theo định kỳ 25 năm và những dịp đặc biệt, Hội Thánh mở Năm Thánh hầu giúp dân Chúa ý thức sâu sắc thời gian thánh là thời gian hồng ân Thiên Chúa ban cho con người để họ thánh hóa cuộc sống, củng cố đức tin, sống tình hiệp nhất yêu thương và hiệp thông huynh đệ trong lòng Hội Thánh và thế giới, và nhất là tuyên xưng đức tin một cách chân thành và sống sống động nơi Chúa Giê-su Cứu Thế.
Hội Thánh đang đồng hành với nhân nhân loại đây đó vẫn còn nhiều vấn nạn về phận con người: Con người hiện diện trên đời để làm gì? Sau khi chết con người đi về đâu? Đâu là con đường giải thoát?… Tự sức con người, những câu hỏi này mãi mãi chỉ là vấn nạn. Do đó, Hội Thánh mang nơi mình sứ vụ làm chứng cho niềm tin, trở nên trung gian để muôn người tìm đến với Chúa Giê-su, đón nhận lời của Người hầu khám phá lẽ sống cho đời mình.
Tuyên ngôn của tân nguyên thủ quốc gia là những thiện chí giúp ích cho đất nước an bình thịnh vượng.
Tuy nhiên,giữa lý thuyết và thực tế luôn có khoảng cách.
Trong khi đồng hành với cuộc đời, người tín hữu chọn bước theo Chúa Giê-su, tin Người là con đường là sự thật và là sự sống, “Nơi Người ơn cứu độ chan chứa” (Tv 129, 7).
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Ngày 21 tháng 1 (theo giờ Mỹ), Tổng thống Obama và “phó tướng” Biden đã tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ 2. Hình ảnh “bộ đôi quyền lực” này đặt tay lên cuốn Kinh Thánh và đọc lời tuyên thệ theo quy định của Hiến pháp là một hình ảnh rất đặc biệt, gây sự chú ý mạnh mẽ.Báo chí đưa tin, khi thực hiện nghi thức tuyên thệ, ông Obama giơ tay phải lên và tay trái đặt lên 2 cuốn Kinh Thánh lịch sử của nhà lãnh đạo nhân quyền huyền thoại Luther King Jr và cố Tổng thống Abraham Lincoln, vị tổng thống thứ 16 của Mỹ. Chánh án Toà Tối cao John Roberts chủ trì nghi thức này. Phó Tổng thống Biden đặt tay lên cuốn Kinh Thánh mà dòng họ của ông sử dụng từ năm 1893. Thẩm phán tòa tối cao Sonia Sotomayor chủ trì lễ tuyên thệ của Biden. (Antoine Nguyễn).
Các nguyên thủ quốc gia, sau khi được toàn dân tín nhiệm qua lá phiếu bầu cử, thường đọc diễn văn quan trọng khởi đầu một nhiệm kỳ mới. Nội dung diễn văn trình bày hành động bao quát nhắm đến lợi ích của đồng bào đang mong đợi.
Tại quê hương Nazaret, Chúa Giêsu đã mượn bản văn của ngôn sứ Isaia để chính thức công bố với đồng hương chương trình hành động của mình: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin Mừng cho người nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho những người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. Người nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Trước đó ít lâu, khi Gioan Tiền Hô nghe nói về hoạt động của Chúa Giêsu, từ trong tù ông đã sai môn đệ đến hỏi Ngài, có phải là Đấng thiên sai hay không? Chúa Giêsu thẳng thắn trả lời: “Các anh về thuật lại cho ông Gioan những gì mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què đi được, người phong cùi được lành sạch, người điếc nghe được, kẻ chết sống lại, người nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,4-5). Qua câu trả lời gián tiếp này, Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, dấu chỉ hiển nhiên của Đấng thiên sai là hành động chọn lựa đứng về phía những người nghèo khổ, bé mọn, tật nguyền và xấu số. Ngài tự đồng hóa với những người đói khát, rách rưới, trần truồng, bệnh tật, đau yếu, tù tội…Bất cứ những gì đụng chạm đến họ là đụng chạm đến bản thân Ngài. Tất cả những gì chúng ta làm cho họ là làm cho chính Ngài. Và tất cả những gì chúng ta không làm cho một trong những người bé mọn nhất của nhân loại khổ đau này là đã không làm cho chính Ngài (x. Mt 25,31-45). Sau Công Đồng Vaticanô II, một số thần học gia đã khai triển bản văn này và đặt nổi ba hình thức hiện diện đặc biệt của Đức Kitô: trong Thánh thể (Lc 22,19-20; 1Cr 11,23-25), trong cộng đoàn (Mt 18,20) và trong người nghèo (Mt 25,31-45).(x. ĐGM Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Bước theo Đức Kitô, trang 32-33).
Chúa Giêsu thực hiện chương trình hoạt động cứu độ dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Sứ điệp đó, Giáo hội luôn thực thi suốt dòng lịch sử.
“Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.Người đã sai tôi đi công bố…”. Nội dung của sứ điệp nói lên đầy đủ sứ mệnh Chúa Giêsu sẽ thi hành gồm bốn hoạt động là rao giảng Tin Mừng cho người nghèo hèn, công bố sự giải thoát cho người tù đày, sự sáng mắt cho người mù loà, trả tự do cho người bị áp bức và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.
Như vậy sứ điệp gồm hai điểm chính là loan báo Tin Mừng và đi công bố những gì Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại.
Tin Mừng được loan báo là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).
Sứ điệp công bố là những gì Thiên Chúa muốn làm cho nhân loại khốn cùng. Chúa Giêsu đã công bố bằng lời nói và bằng việc làm. Chính nơi Chúa Giêsu, người tội lỗi nhận được ơn tha thứ, người đau khổ gặp được nguồn an ủi, người chán nản gặp được niềm vui và người thất vọng tìm lại niềm hy vọng. Biết bao người tội lỗi đã “bị giam cầm” nay được thứ tha. Ánh sáng là một báu vật cho những người đang chìm trong tăm tối. Người mù thể lý được Chúa mở mắt. Người mù thiêng liêng được mở mắt đức tin để nhìn thấy và tin vào Chúa. Tự do là quà tặng quí giá nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Những người bị áp bức, bị vùi dập, bị đè nén, những thống khổ nay được giải thoát. Những lo lắng, bệnh tật, bất công… làm cho con người trở nên nô lệ, mất đi phẩm giá, nay được Chúa chữa lành bệnh tật, bênh vực kẻ yếu, duy trì công bình xã hội và phục hồi phẩm giá cho họ. Đó là hồng ân Chúa Giêsu công bố và thực hiện. Đây là sứ mạng giải thoát con người hoàn toàn khỏi mọi cảnh bất công xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Trong Nước Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa. Hình ảnh lý tưởng ấy đang hiện diện một cách huyền nhiệm trong Giáo Hội (x. Lumen Gentium, 3).
Cơ chế xã hội bất công đã tạo nên bao thảm cảnh trong cuộc đời. Người nghèo chính là nạn nhân của những cơ chế bất công. Vấn đề muôn thuở đó vẫn luôn mang tính thời sự. Chúa Giêsu có sứ mạng giải thoát những người nghèo khổ và bị áp bức. Nhưng sứ mạng đó chỉ có thể thực hiện được khi có Thánh Thần hướng dẫn và Chúa Cha ủy thác.
Nhiều lần Tin Mừng nói, Chúa Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Từ ngày Truyền Tin, Thiên Thần đã loan báo: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Trong cuộc đời thơ ấu và ẩn dật của Chúa Giêsu, sách Tin Mừng nói rất ít về Người. Dù vậy, chắc chắn đó phải là những ngày Thần Khí Thiên Chúa giúp cho Chúa Giêsu “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40); “ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc 2,52). Khi Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ, vai trò của Chúa Thánh Thần thường được nhắc tới dưới hình thức, Chúa Giêsu “được đầy Thánh Thần, được Thánh Thần dẫn đi, được quyền năng Thánh Thần thúc đẩy”. Vào ngày chịu phép rửa tại sông Giođan, Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần ngự xuống. Thánh Luca coi đây như là việc “xức dầu”, được tấn phong làm “Đấng được xức dầu” (Cv 10,37-38; Lc 4,18; x. Is 61,1). Xức dầu tấn phong là nghi thức trao ban sứ mệnh, không chỉ là sứ mệnh của ngôn sứ mà còn là sứ mệnh cứu độ của Đấng đến để chu toàn tất cả những gì Lề Luật và các Ngôn Sứ đã nói về Người.
Chúa Giêsu xác định: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe.” Trải suốt Tin Mừng Luca, từ “Hôm nay” xuất hiện tại những đoạn then chốt. Trong ngày Lễ Giáng Sinh, chúng ta đã nghe các thiên thần loan báo “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra” (2,11). Khi Chúa Giêsu gặp ông Giakêu, Người nói với ông “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (19,9). Chúa Giêsu hứa với người trộm bị đóng đinh bên phải rằng “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (23,43). Ý nghĩa của từ “Hôm nay” mà Chúa Giêsu công bố không chỉ là “ngày hôm nay” vào lúc Người tại thế, mà còn là “ngày hôm nay” của Giáo Hội nữa.
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc cứu thế trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội.
Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Người. Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Giáo Hội nối dài hoạt động của Đức Kitô. Qua dọc dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng đem Tin Mừng cho người nghèo hèn. Giáo Hội đã thiết lập các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, nhà dưỡng lão…Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm và đang tiếp tục làm: “Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ” (Lumen Gentium, 8). Thời đại hôm nay, sứ mạng của Giáo Hội còn quan trọng và thiết thực hơn nữa, liên quan đến tự do, công lý, nhân quyền, phát triển và hòa bình. Những hoạt động bác ái và y tế xã hội chỉ xoa dịu phần nào nỗi đau khổ của những người nghèo hèn. Còn những người bị giam cầm trong các trại tù cải tạo, những người bị áp bức đến mất tự do ngoài xã hội và những người dân đang bị hạn chế tự do, đói khát nhân quyền. Giáo Hội quan tâm nhiều đến họ và trợ giúp cho họ. Phương tiện của Giáo Hội luôn là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là “sự thật giải thoát” (Ga 8,32).
“Có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương những người cô thế, bị gạt ra ngoài lề, bị loại trừ, coi họ là những người đầu tiên cần phải đến gặp và là những người chủ yếu phải được nâng đỡ, vì nơi họ phản chiếu gương mặt của chính Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra gương mặt Chúa phục sinh nơi những người đang mong được chúng ta yêu thương”. (Cánh cửa đức tin, số 13). Mỗi Kitô hữu tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng những hoạt động bác ái của mình. Trung thành thực thi sứ vụ của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta góp phần làm cho lời tiên tri Isaia cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa được công bố và Nước Thiên Chúa hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay.
Sau một thời gian ngược xuôi giảng dạy ở nhiều nơi, Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét yêu dấu thăm viếng. Vào ngày Sabát, Ngài đến hội đường, người ta mời Ngài đọc sách thánh và giảng dạy. Thời đó, tại Israel có hai nơi dành cho việc phụng tự là Đền thờ và Hội đường. Chỉ có một Đền thờ tại Giêrusalem. Hội đường rất nhiều, hầu như mỗi làng đều có một cái. Đền thờ là nơi dân Do thái dâng hy lễ cho Thiên Chúa, như chiên, cừu, bồ câu… Còn Hội đường là nơi dành cho việc giảng huấn, nơi dân chúng lắng nghe Lời Chúa và cố gắng áp dụng lời ấy vào cuộc sống của họ.
Ngày Sabát, người ta thường đọc sách Luật, các sách Ngôn sứ rồi tiếp theo là một bài giảng giải. Người Do thái trưởng thành nào cũng có quyền được lên tiếng ở đó, nhưng thường những người coi sóc hội đường hay giao cho ai thông thạo Kinh Thánh làm việc này. Hôm nay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa Giêsu cuốn Sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn ngôn sứ Isaia nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Ngài sẽ làm.
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó.Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,19-19). Chúa Giêsu xác nhận lời tiên báo được thực hiện nơi chính bản thân Ngài: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Nội dung của sứ điệp ngôn sứ được ứng nghiệm nói lên công việc Chúa Giêsu sẽ thi hành. Công việc gồm hai điểm chính là loan báo Tin Mừng và đi công bố những gì Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại.
Loan báo Tin Mừng
Tin Mừng được loan báo là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Chúa Giêsu nói rõ đối tượng ưu tiên của việc rao giảng Tin Mừng là đến với những người nghèo khó: “Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khó”. Mọi người đều là những người nghèo: kẻ thì nghèo vật chất, người thì nghèo tinh thần. Như vậy Tin Mừng của Chúa được loan báo cho tất cả mọi người.Giáo Hội luôn phục vụ những người nghèo.Sống nghèo, tận tụy phục vụ người nghèo, đó là những nét nổi bật của Giáo Hội. Sứ vụ ấy làm nên tinh thần khó nghèo của Tám Mối Phúc.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Khi tôi được bầu, tôi đã có bên cạnh người bạn của tôi là Đức Hồng y Hummes. Bởi vì chúng tôi ngồi cạnh nhau. Chính ngài đã nói với tôi một câu khiến tôi hạnh phúc: ‘Đừng quên người nghèo’. Thật là đẹp”. (x.Bài phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho Đài truyền hình Braxin Globo sau kết thúc ngày Giới Trẻ tại Rio de Janeiro).
Thực sự, “Đừng quên người nghèo” là một lời khuyên đơn sơ. Nhưng là một lời khuyên rất đạo đức, rất Phúc Âm, rất thời sự. Lời khuyên đó trong giây phút lịch sử trọng đại bầu Giáo hoàng đã và đang đánh thức lương tâm rất nhiều người. “Đừng quên người nghèo” cũng được coi là lời khuyên, chính Chúa gởi tới mọi người có trách nhiệm lo cho nhân loại hiện nay. Đức Giêsu, không những đã không quên người nghèo mà còn rất thương họ. Người thương người nghèo, trước hết bằng cách mặc lấy thân phận người nghèo. Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem trong hang đá với những hoàn cảnh cực nghèo. Người sống 30 năm ở Nadarét, như một người thợ mộc, thuộc gia đình nghèo. Quê Người thuộc vùng dân nghèo. Người đi giảng trên đất những người nghèo. Những nơi mà Chúa Giêsu sinh sống và hoạt động đều không thuộc về trung tâm của Đời và Đạo. Những người mà Chúa Giêsu năng lui tới hầu hết thuộc loại bên lề xã hội và tôn giáo, như những người tàn tật, bệnh hoạn, nghèo túng, tội lỗi.
Thuộc về trung tâm tôn giáo hồi đó là các thượng tế, các luật sĩ, và các thầy Lêvi. Họ có nhiều chức, nhiều quyền, nhiều lợi. Còn Chúa Giêsu thì thuộc loại bên lề. Đặc biệt là lúc sinh ra và lúc chết. Sở dĩ Chúa Giêsu chọn ở bên lề như vậy, là để những người ở bên lề vốn bị khinh chê và bị loại trừ, thấy được là họ được Chúa yêu thương, được Chúa chia sẻ, được Chúa lo giải cứu. Chúa Giêsu giải cứu họ bằng sự lo chữa bệnh tật cho họ, trừ quỷ cho họ, cho họ có của ăn khi cần, bênh quyền lợi của họ, loan báo Tin Mừng cho họ, nhất là bằng việc Người hy sinh mạng sống mình. Người chết, nhưng đã sống lại, để rồi mọi kẻ tin theo Người, cho dù bị Đời và Đạo lúc đó loại trừ, cũng sẽ được sống lại hiển vinh như chính Người. Theo cung cách đó, Tin Mừng cho người nghèo và người tội lỗi chính là điều Chúa mạc khải và đã thực hiện như được kể trong Phúc Âm.Những gì xưa Chúa Giêsu đã làm cho người nghèo, vẫn được các môn đệ Chúa trong mọi thời mọi nơi tiếp tục thực hiện.
Thế nào là đừng quên người nghèo? Theo các bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô, khi còn là Hồng y, và khi đã làm Giáo hoàng, xin tóm lược ý của Ngài về đừng quên người nghèo.
Đừng quên người nghèo là cố gắng cứu giúp người nghèo một cách cụ thể tế nhị và quảng đại, tùy khả năng. Đừng quên người nghèo là hãy có một thái độ gần gũi với họ. Họ là những trẻ em nghèo, những người già yếu, bệnh tật, những người lỡ lầm, những người bị xã hội loại trừ. Đừng quên người nghèo là hãy có một đời sống giản dị, không xa cách người nghèo. Không cấm có những tiện nghi cần thiết, nhưng đừng sang trọng xa hoa. Đừng quên người nghèo là hãy đơn sơ trong việc giảng dạy, để người nghèo dễ hiểu. Đừng quên người nghèo là hãy lắng nghe những người yếu đuối nhất. Đừng quên người nghèo là hãy tìm hiểu hoàn cảnh nhiều người bỏ đạo, lấy tình thương mà giúp họ trở về. Đừng quên người nghèo là hãy biết ân cần đón nhận bất cứ dấu chỉ thiện chí nào của những người tội lỗi, nghèo túng, để nhờ đó mà có những bắt đầu dọn đường cho tình yêu thương xót Chúa, giúp họ làm lại cuộc đời. Đừng quên người nghèo là hãy khiêm tốn học nơi nhiều người nghèo những đức tính tốt. Đừng quên người nghèo là phải có tấm lòng yêu thương nồng nàn chân thật và kiên trì đối với người nghèo theo gương Chúa Giêsu. Thiết tưởng có một trái tim đầy lửa tình yêu thương xót chính là mấu chốt của “đừng quên người nghèo”. Để yêu thương, Đức Phanxicô nhắc đến thánh giá và sự từ bỏ mình. Ngài nhận đó là điều khó chịu, nhưng không phải là vô bổ trong tình yêu thương xót đối với người nghèo khổ. “Đừng quên người nghèo” đang được khơi động sâu rộng trong Hội Thánh do Đức Phanxicô. Đây là một lựa chọn vừa thần học và cũng vừa tiên tri. Có thể tính cách tiên tri vượt nổi hơn.Đạo nơi nào không quên người nghèo sẽ tồn tại và phát triển. Đạo nơi nào quên người nghèo sẽ tự biến chất và tự hủy. Đó là một lời tiên tri không nên coi thường. (x. Đừng quên người nghèo, ĐGM Bùi Tuần).
Đại Hội Đồng các Giám Mục Mỹ Châu La Tinh đã tuyên bố tại Puebca năm 1979 rằng: “Việc phục vụ con người tốt đẹp nhất là loan báo Tin Mừng. Công việc đó giúp con người phát triển như con cái Thiên Chúa, giải thoát con người khỏi những bất công và thúc đẩy công trình phát triển toàn diện con người”.
Đi công bố
Sau khi công bố “Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo”, Chúa Giêsu đã đưa thêm một số thí dụ để giải thích thế nào là loan báo Tin Mừng cho người nghèo:
– Công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha.
– Cho người mù biết họ được sáng mắt.
– Trả tự do cho người bị áp bức.
– Công bố một năm hồng ân của Chúa.
Như vậy, “người nghèo” là những kẻ đang ở trong tình cảnh khổ sở, thiếu thốn như bị giam cầm, bị mù, bị áp bức… và đang mong thoát khỏi cảnh ấy. Đối với những người như thế, lời công bố của Chúa Giêsu mới thực sự là Tin Mừng. Còn những ai không khổ sở thiếu thốn thì lời Chúa Giêsu như nói với ai đó chứ chẳng liên can gì tới họ, cho nên chẳng phải là Tin Mừng gì cả. Bởi vậy Chúa Giêsu cũng chẳng cần loan báo cho họ. Nhưng xét cho cùng, ai mà không khổ sở thiếu thốn? Ai mà không “bị giam cầm” trong một thứ tù ngục nào đó? Ai mà không “mù” một cách nào đó? Ai mà không “bị áp bức” bởi một thế lực gian tà nào đó? Thành thử Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng cho tất cả mọi người. Tuy nhiên Tin Mừng ấy chỉ có hiệu quả đối với những ai ý thức mình là người nghèo. (x. Sợi chỉ đỏ, CN 3 thường niên C).
Sứ điệp công bố là những gì Thiên Chúa muốn làm cho nhân loại khốn cùng. Chúa Giêsu đã công bố bằng lời nói và bằng việc làm. Chính nơi Chúa Giêsu, người tội lỗi nhận được ơn tha thứ, người đau khổ gặp được nguồn an ủi, người chán nản gặp được niềm vui và người thất vọng tìm lại niềm hy vọng. Biết bao người tội lỗi đã “bị giam cầm” nay được thứ tha. Ánh sáng là một báu vật cho những người đang chìm trong tăm tối. Người mù thể lý được Chúa mở mắt. Người mù thiêng liêng được mở mắt đức tin để nhìn thấy và tin vào Chúa. Tự do là quà tặng quí giá nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Những người bị áp bức, bị vùi dập, bị đè nén, những thống khổ nay được giải thoát. Những lo lắng, bệnh tật, bất công… làm cho con người trở nên nô lệ, mất đi phẩm giá, nay được Chúa chữa lành bệnh tật, bênh vực kẻ yếu, duy trì công bình xã hội và phục hồi phẩm giá cho họ. Đó là hồng ân Chúa Giêsu công bố và thực hiện. Đây là sứ mạng giải thoát con người hoàn toàn khỏi mọi cảnh bất công xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Trong Nước Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa. Hình ảnh lý tưởng ấy đang hiện diện một cách huyền nhiệm trong Giáo Hội (x. Lumen Gentium, 3).
Giáo Hội tiếp nối sứ vụ.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Sức thuyết phục của Chúa Giêsu chỉ có thể giải thích được là tất cả lời giảng, dụ ngôn và suy luận của Người không bao giờ tách khỏi đời sống của Người. Theo nghĩa đó, tất cả cuộc đời của Người là một bài giảng liên tục…” (Catechesi tradendae số 9). Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Ngài. Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Giáo Hội nối dài hoạt động của Chúa Giêsu. Qua dọc dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng đem Tin Mừng cho người nghèo hèn. Giáo Hội đã thiết lập các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, nhà dưỡng lão…Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm và đang tiếp tục làm: “Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ” (Lumen Gentium, 8).
Thời đại hôm nay, sứ mạng của Giáo Hội còn quan trọng và thiết thực hơn nữa, liên quan đến tự do, công lý, nhân quyền, phát triển và hòa bình.Những hoạt động bác ái và y tế xã hội chỉ xoa dịu phần nào nỗi đau khổ của những người nghèo hèn. Còn những người bị giam cầm trong các trại tù cải tạo, những người bị áp bức đến mất tự do ngoài xã hội và những người dân đang bị hạn chế tự do, đói khát nhân quyền. Giáo Hội quan tâm nhiều đến họ và trợ giúp cho họ. Phương tiện của Giáo Hội luôn là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là “sự thật giải thoát” (Ga 8,32). Trong Tông huấn “Niềm Vui Tin mừng”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi các Kitô hữu cùng với ngài đem Tin Mừng cứu độ đến cho thế giới: “Sứ mạng của Hội Thánh là đi ra để cung cấp cho tất cả mọi người sự sống của Đức Kitô” (số 49). Giáo hội thực thi sứ vụ ấy không phải bằng uy quyền sức mạnh của trần gian, nhưng bằng ân sủng của Tin Mừng.
Mỗi Kitô hữu tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng những hoạt động bác ái của mình. Trung thành thực thi sứ vụ của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta góp phần làm cho lời tiên tri Isaia cũng được ứng nghiệm,năm hồng ân của Chúa được công bố và Nước Thiên Chúa hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay.Chúa luôn đồng hành với chúng ta. Chúa luôn luôn ở bên trong sứ vụ tình yêu của chúng ta.
Trong một vài phút ngắn ngủi này, tôi xin chia sẻ một vài ý tưởng đơn sơ chung quanh lời nói của tiên tri Isaia, mà thánh Luca đã nhắc lại qua đoạn Tin mừng hôm nay:
– Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy được rằng: tư tưởng và đường nẻo của Chúa thật khác với tư tưởng và đường nẻo của chúng ta. Như trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo của Chúa cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo của chúng ta bấy nhiêu.
Thực vậy, chúng ta thường đánh giá người khác qua những biểu hiện bên ngoài, dựa trên quyền lực và giàu sang. Đúng thế, người có tiền thì được yêu mến:
– Bần cư chung thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khác tầm. Có nghĩa là ngèo mà ở giữa phố chợ cũng chẳng ai thăm, còn giàu mà ở trên rừng trên núi, đèo heo hút gió cũng vẫn có kẻ chịu khó tìm đến. Hay: Thấy người sang bắt quàng làm họ. Miệng nhà giàu có gang có thép. Nén bạc đâm toạc tờ giấy.
Còn người có quyền, thì được vị nể, trọng kính:
– Lý kẻ mạnh bao giờ cũng thắng.
Bởi đó, người đời thường mơ ước được giàu sang và quyền thế. Trong khi đó, Chúa Giêsu lại đem Tin mừng đến cho những kẻ nghèo hèn. Trong bài giảng trên núi Ngài còn chúc phúc cho những người nghèo khó, đói khát, đau khổ và bị bách hại. Lần khác, Ngài cũng đã nguyện cầu:
– Lạy Cha, con xin cảm tạ Cha, vì Cha đã dấu không cho những người thông thái biết những sự mầu nhiệm này, mà lại tỏ ra cho những kẻ bé mọn.
Chúa không phải chỉ nói, mà Ngài còn làm như vậy. Một Đavít nhỏ yếu với vóc dáng của một cậu bé chăn chiên, thế mà Chúa đã cho thắng được Golíat, lên ngai vàng và trở thành một vị vua hùng mạnh, dẫn đưa dân Do Thái tời một thời đại hoàng kim. Một Maria khiêm tốn với thân phận của một nữ tì, thế mà Chúa đã chọn làm mẹ Đấng Cứu Thế. Và khi Chúa đến, thì ai là những người đầu tiên được diễm phúc đón nhận tin mừng giáng sinh, nếu không phải là những mục đồng, những kẻ chăn chiên vất vả nghèo túng. Rồi những môn đệ được Chúa mời gọi để cộng tác với Ngài trong việc rao giảng Phúc âm là ai nếu không phải là những bác tuyền chài quê mùa và dốt nát.
Chính Chúa cũng vậy. Ngài không đến với binh đội hùng hậu, nhưng đến dưới vóc dáng của một hài nhi bé nhỏ, nghèo túng, không một mái nhà ẩn náu. Vậy tại sao Ngài lại dành Tin mừng và phúc lành cho những kẻ khó nghèo và dành yêu thương cho những người bất hạnh?
Dĩ nhiên có nhiều lý do, nhưng hôm nay tôi chỉ xin đưa ra một lý do rất đơn giản mà thôi. Sở dĩ Chúa hành động như vậy là vì người giàu sang và quyền thế thường hay cậy dựa vào sức riêng của mình, nên rất dễ sinh ra kiêu căng. Mà đã kiêu căng, thì chắc chắn sẽ bị Chúa loại trừ. Trong Kinh thánh, Chúa đã phán:
– Ta chống lại kẻ kiêu căng.
Hay trong lời kinh ngợi khen, Mẹ Maria cũng đã nói:
– Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao nhưng người phận nhỏ.
Vì thế, thánh Gregorio đã nói:
– Kiêu căng là dấu chỉ rõ ràng nhất của kẻ đã bị Chúa loại trừ.
Trái lại, người nghèo hèn và bất hạnh sẽ cảm thấy mình yếu đuối, thấp hèn và thiếu thốn, nên dễ đặt trót niềm tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa, dễ đón nhận Tin mừng và được Chúa chúc phúc.
Muốn bỏ một vật gì vào túi, thì chiếc túi phải rỗng. Nếu túi đã đầy thì làm sao nhét vào cho được. Cũng thế, kẻ kiêu căng chất đầy tâm hồn những tự phụ, tự mãn, tự cao thì đâu còn chỗ cho Chúa nữa. Trong khi đó người nghèo hèn và bất hạnh luôn cảm thấy tâm hồn mình trống để cho tình thương của Chúa hoạt động.
Từ đó, chúng ta đi tới kết luận: người nào coi mình chỉ là một con số không, thì sẽ có đủ chỗ cho Đấng vô cùng. Trái lại, kẻ nào coi mình là vô cùng, thì trước mặt Chúa chỉ là một con số không mà thôi.
Tác giả tập sách có tựa đề: “Cuộc Săn Đuổi Mặt Trời” kể lại cuộc mạo hiểm của những người lính Hoàng Gia Tây Ban Nha trong thế kỷ XIX đi chiếm thuộc địa bên Nam Mỹ, tại vùng đất mà ngày nay gọi là quốc gia Pe-ru.
Một người trong nhóm đem tặng cho viên tù trưởng trong bộ lạc da đỏ một quyển Kinh Thánh và nói: Đây là quyển sách Thánh, nơi Thiên Chúa nói với con người và ban cho con, những ai lắng nghe được lời Ngài, một sức mạnh phi thường vượt qua được mọi gian nan thử thách và được hạnh phúc trường sinh.
Đón nhận quyển sách,viên tù trưởng kia vui mừng vội mau tìm nơi vắng đưa sách lên tai để lắng nghe Thiên Chúa nói. Nhưng thật là vôi ích, ông cầm lên, đưa xuống đủ cách mà im lặng vẫn hoàn im lặng, không có tiếng Thiên Chúa nào phán cả. Bực mình, viên tù trưởng ném sách đi và lẩm bẩm: Ta bị gạt, ta đã bị gạt.
Có thể ta sẽ cười thái độ ngớ ngẩn của cả hai người, người cho cũng như kẻ nhận. Không chỉ cầm quyển sách Kinh Thánh trong tay là nghe được Lời Chúa. Người cho cũng như người nhận cần phải thực thi một vài điều kiện để giúp cho mình và kẻ khác được nghe Lời Chúa. Bài Phúc Âm của Chúa Nhật III Mùa thường niên được trích từ Phúc Âm thánh Luca, tác giả đã cẩn thận ghi lại như sau:
Kinh thánh là sách bán chạy nhất thế giới, vượt mọi kỷ lục từ xưa đến nay. Kinh thánh được ham mộ vì đó là một cuốn sách chứa đựng kho tàng Lời Chúa, chứa đựng đầy dẫy những bí quyết giúp con người sống ơn gọi làm người của mình, đứng đắn và hạnh phúc. Biết lắng nghe lời Chúa và để cho lời Chúa thấm nhập tấm lòng rồi đem ra thực hiện trong cuộc sống của mình là con người thành công trong nỗ lực sống ơn gọi làm người hạnh phúc. Cũng chính vì thế nên Mẹ Giáo Hội cống hiến Lời Chúa cho tín hữu qua các bài đọc phụng vụ mỗi ngày. Từ sau Công Đồng Vaticano II đến nay, các bài Tin Mừng ngày Chúa Nhật được phân chia như sau: Hãy Ra Khơi
Chu kỳ A theo Phúc Âm thánh Matthêu.
Chu kỳ B theo Phúc Âm thánh Marcô.
Chu kỳ C theo Phúc Âm thánh Luca.
Còn Tin Mừng theo thánh Gioan thì đặc biệt dùng cho mùa Phục Sinh và mùa phụng vụ khác.
Trong số bốn thánh sử, thánh Luca là người có óc sử gia hơn cả. Trong những câu mở đầu đọan Tin Mừng hôm nay, thánh sử cho biết ngài đã sưu tầm, tra cứu kỹ lưỡng các loại tài liệu truyền miệng cũng như viết tay để viết ra sách Tin mừng.
Là người gốc Siry Antiôkia, thánh sử Luca không thuộc Do Thái giáo. Nghề bác sĩ y khoa khiến thánh sử đặc biệt chú ý đến các phép lạ chữa lành bệnh tật. Thánh sử đã từng là môn đệ của các Tông đồ, bạn đồng hành và cộng sự viên của thánh Phaolô. Vì là người ngoài Do Thái giáo theo Kitô giáo, thánh Luca chú ý viết Tin Mừng cho anh chị em không Do Thái giáo, nên hay cắt nghĩa các tập tục Do Thái để giúp họ hiểu dễ dàng hơn. Thánh sử không chủ ý viết lịch sử cuộc đời Chúa Giêsu mà chỉ kể lại chứng tích lịch sử. Chứng tích lịch sử của Thánh sử Luca nhấn mạnh đến mấy mấu điểm thần học chính yếu sau đây:
Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu soi cho những người ngoài Do Thái thấy con đường ơn cứu độ. Ngài thuyết giáo lưu động nhưng là hiện thân tình yêu thương Thiên Chúa có đối với loài người, đặc biệt đối với những người tội lỗi, yếu đau, bé nhỏ, bị bỏ rơi, bị khinh miệt ngoài lề xã hội, không tiếng nói, không quyền lợi, bị áp bức, chèn ép, bóc lột và đối xử tàn tệ nhất. Vì thế, ở đâu có bước chân và sự hiện diện của Ngài là ở đó bừng lên ánh sáng cứu độ, niềm an vui và tình yêu thương hòa hợp.
Chúa Giêsu cống hiến ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người, không trừ một ai và ngay trong thời điểm của hiện tại, ngày hôm nay trong lúc này và ở đây. Qua Ngài, Thiên Chúa đến thăm và cứu rỗi con người, thế nên mọi người cần phải biết tỉnh thức, chăm chú lắng nghe, nhìn xem và nhận ra sự hiện diện cứu độ của Chúa Giêsu, đón nhận Ngài và sống theo Ngài, vượt qua cái chết để đạt đến cuộc sống Phục Sinh vĩnh cửu mà Thiên Chúa muốn trao ban và dành để cho con người.
Nơi phần hai của bài Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa thường niên chúng ta thấy thánh sử Luca nhấn mạnh đến sự hiện diện của Thánh Thần Thiên Chúa trong cuộc đời hoạt động của Chúa Giêsu. Ngài chịu phép thanh tẩy của thánh Gioan Tiền Hô tại sông Giócđan và Thánh Thần Thiên Chúa đã hiện diện trên Chúa Giêsu trong những lúc bị cám dỗ. Thánh Thần Thiên Chúa đã hướng dẫn Chúa Giêsu và giờ đây trong bài giảng đầu tiên tại thành Nagiaréth, Chúa Giêsu cũng được tràn đầy sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Đây là ngày Chúa Giêsu tỏ mình ra cho những người đồng hương của Ngài khi Ngài nói: “Đoạn Sách Thánh hôm nay đã được ứng nghiệm”. Chúa Giêsu muốn nói rằng, ơn cứu độc được Thiên Chúa hứa ban ngày xưa, hôm nay hiện diện trong con người của Ngài. Sự hiện diện của ơn cứu rỗi đó không theo quan niệm và tiêu chuẩn của loài người, nhưng là theo chương trình của Thiên Chúa. Ơn cứu rỗi đó nằm trên một bình diện cao cả hơn, rộng lớn hơn và sâu xa hơn. Nó không chỉ hạn hẹp trong một số người hay một dân tộc, lại càng không phải là sự giải phóng về chính trị, kinh tế, văn hóa cấp thời trần thế. Ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu đem lại cho con người được dành để cho tất cả mọi người tin và chấp nhận Tin Mừng của Ngài, không phân biệt giai cấp, màu da và chủng tộc.
Trong những tuần lễ đầu của mùa thường niên. Giáo Hội mời gọi chúng ta đi vào những sự kiện khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Kitô. Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca tường thuật lại sứ vụ rao giảng của Đức Kitô tại hội đường Nagiaréth, chính Đức Kitô đã công bố cho mọi người biết “niềm vui cứu độ” đã khởi sự. Vì “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh em vừa nghe”.
Với lời khẳng định này, Đức Kitô chứng tỏ cho thấy Ngài chính là “niềm vui cứu độ”., mà chúng ta là những Kitô hữu đã thực sự tin và đón nhận niềm vui đó chưa? Chúng ta đã làm gì cho niềm vui ấy được triển nở trong thế giới hôm nay?
Câu chuyện tư tế Esdras đã nỗ lực canh tân đời sống dân Chúa và củng cố giao ước cũ. Cũng như việc ông đứng đọc Luật Môsê trước mặt con cái Israel, trong bài đọc 1. Đó chỉ là hình ảnh báo trước việc Đức Kitô sẽ rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Chính Đức Kitô mới là Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong, Ngài đến để hoàn tất và kiện toàn Lề luật, bằng chính cuộc khổ nạn và phục sinh, Ngài thiết lập giao ước mới, giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và loài người.
Hôm nay tại hội đường, Đức Kitô đã khẳng định Ngài chính là Đấng Cứu Thế mà tiên tri Isaia đã loan báo.
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo luật ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”.
Đức Kitô đã tự giới thiệu mình là vị ngôn sứ phải đến loan báo “niềm vui cứu độ”. Sự hiện diện của Ngài đã khai mở một giai đoạn mới, giai đoạn của năm hồng ấn cứu độ.
Hôm nay, Chúa Thánh Thần đã được ban xuống ngay trong lời của Đức Kitô, nhờ Thánh Thần mà Lời đã trở thành hiện thực. Người nghèo được ưu ái, kẻ tù đầy được giải phóng, người mù được xem thấy. Những điều này rõ ràng nói lên tình yêu thương của Chúa dành cho những kẻ biết đón nhận Đức Kitô bằng một lòng tin. Đức Kitô đến tái lập trật tự và mặc cho thế giới này một khuôn mặt mới của công bình tình thương và an vui. Cho nên, việc tuyên xưng niềm tin nơi Đức Kitô là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng cứu độ, là chúng ta đón nhận chính niềm vui cứu độ ngay giữa những gì là tang thương và bi đát.
Trong Tông thư “Khởi đầu thiên niên kỷ mới”, Đức Gioan Phaolô II mở ra cho chúng ta một hướng đi tiến vào thiên niên kỷ mới. Đó là “Gặp gỡ Đức Kitô, chiêm ngắm Đức Kitô, bước theo Đức Kitô và làm chứng cho tình yêu của Đức Kitô”.
Đức Kitô đã đem “niềm vui cứu độ” đến thế gian. Ngài biến những đau buồn thành niêm vui nội giới cho chúng ta… Một niềm vui trọn hảo không gì có thể làm lu mờ đi được. Niềm vui đó không chỉ ấp ủ trong lòng mà phải được tuôn trào ra bên ngoài bằng cuộc sống đan kết bởi những việc làm lành thánh.
Như Thánh Phaolô luôn miệng nhắn nhủ tín hữu Philipphê rằng “hãy vui lên”, mặc dù chính ông đang bị cầm tù và Giáo Hội đang rơi vào cảnh bị bách hại.
Để được niềm vui đích thực như Thánh Phaolô đã lãnh nhận nơi Đức Kitô. Chúng ta phải biết thay đổi cách sống bằng tình yêu thương, công bằng bác ái. Khi đó chúng ta mới thực sự cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Kitô, chiêm ngắm Ngài và bước theo Ngài bằng chính những việc làm tốt đẹp của chúng ta. Bằng không, bóng tối của tội lỗi của ích kỷ sẽ bao phủ cõi lòng, cho dù bên ngoài chúng ta vẫn tỏ ra vui cười, nhưng bên trong sẽ không có được niềm vui bình an. Vì chỉ có Chúa mới là tình yêu và là “niềm vui cứu độ” cho chúng ta, “Đức Kitô là đường là sự thật và là sự sống”… Khi chúng ta có Chúa trong lòng rồi, chính niềm vui sẽ thúc đẩy và biến đổi chúng ta trở thành những chứng nhân cho tình yêu của Đức Kitô bằng việc đem Tin Mừng Cứu độ đến với những người anh em vẫn chưa biết Chúa. Đó chính là cách chúng ta trao ban “niềm vui cứu độ” là chính Đức Kitô…
Vì chỉ có một Tin Mừng Cứu độ duy nhất cho mọi người mọi thời. Đó là Đức Kitô, trong Ngài Thiên Chúa đã, đang và sẽ còn biểu lộ “niềm vui cứu độ” cho nhân loại. Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần mà công cuộc cứu độ của Chúa vẫn đang sinh hoa trái trong Giáo Hội và qua Giáo Hội từ bây giờ cho đến muôn đời.
Khi chúng ta lãnh nhận các bí tích là chúng ta lãnh nhận chính Đức Kitô trong ân sủng của Chúa Thánh Thần. Đó là hệ quả của “niềm vui cứu độ” mà chính Đức Kitô đã đem đến để giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi và nuôi dưỡng chúng ta bằng Thánh Thể. Nhờ lời rao giảng và giáo huấn của Giáo hội, Đức Kitô tiếp tục thông truyền ánh sáng của Ngài cho những ai đang ngồi trong tối tăm.
Một trong những mẫu gương mà chúng ta có thể noi theo chính là Mẹ Maria, khi vừa có trong lòng, Mẹ đã vội vã lên đường đem Chúa đến cho gia đình bà Isave. Chúng ta là những kitô hữu đã được lãnh nhận hồng ân Cứu độ trong ngày chịu phép Rửa tội, chúng ta cũng phải tiếp tục đem “niềm vui cứu độ” đến cho những anh chị em vẫn chưa biết Chúa, bằng việc rao giảng Tim Mừng và qua chính đời sống thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Ước chi sứ điệp Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta chân nhận và xá tín rằng “Đức Kitô chính là niềm vui cứu độ” duy nhất, hôm qua, hôm nay và mãi mãi…Nhờ Ngài mà tâm hồn mọi người được hoan lạc va bình an, nếu biết mở lòng ra đón nhận thần lương nuôi hồn và mở đôi tay ra để trao ban niềm vui cứu độc cho những ai còn ngồi trong bóng đêm của tội lôi.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết mở lòng đón nhận “niềm vui cứu độ”, để rồi niềm vui đó không ngừng triển nở trong tâm hồn chúng con. Amen.
Sau khi để lại những sự kiện thời thơ ấu của Chúa Giêsu, thánh Luca nói đến hoạt động của Chúa ở Galilê. Tại đây, Chúa bắt đầu bằng một biến cố bất ngờ ở hội đường Nadarét. Vào ngày hưu lễ, người ta phải đến hội đường để nghe đọc Sách Thánh và hát thánh vịnh. Nhân dịp Chúa Giêsu trở về quê nhà, Ngài cũng vào hội đường với mọi người. Đây là lần đầu tiên Chúa về Nadarét trong quãng đời công khai.
Theo luật lệ Do thái, bất cứ ai cũng có thể lên diễn đàn đọc và giải thích Kinh Thánh. Nhưng thường người có trách nhiệm coi sóc hội đường trao công việc đó cho những người đã am tường Kinh Thánh. Vì Chúa Giêsu đã giảng dạy ở nhiều nơi trước khi về Nadarét, nên việc người ta mời Ngài lên diễn đàn là chuyện bình thường. Theo thông lệ, vị diễn giảng đứng dậy đọc Sách Thánh, rồi ngồi xuống giải thích bài đọc đó. Hômnay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa cuốn sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn ngôn sứ Isaia nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Người sẽ làm. Đọc xong, Chúa gấp sách lại và ngồi xuống. Mọi người đều chăm chú nhìn Ngài và chờ đọi những lời giải thích của Ngài.
Ngài dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vụi vừa nghe”. Tất cả bài giảng hôm ấy thế nào chúng ta không được b iết, thánh Luca chỉ ghi lại có một câu mở đầu ấy, nhưng thật đầy đủ ý nghĩa. Lịch sử cứu chuộc là quá trình giữa lời hứa của Thiên Chúa và sự thực hiện lời hứa ấy. Các vị ngôn sứ được sai đến để công bố lời hứa và loan báo sự thực hiện. Isaia công bố về một người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ đem ơn lành của Thiên Chúa đến cho mọi người. Chúa muốn nói cho những người đang nghe Ngài biết: hôm nay họ đang được nghe chính người tôi tớ mà người đang nói với quý vị, tôi chính là Đấng Cứu Thế, và sứ mạng của tôi là thực hiện những điều Isaia đã nói.
Quả thực, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện từng chi tiết đoạn sách Thánh này.Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Ngài đã cảm thông, an ủi những tấm lòng sầu muộn. Ngài đã giải phóng những người bị tà ma ám ảnh, chữa lành tất cả những bệnh tật. Ngài đã khích lệ, tha thứ cho những người tội lội. Ngài đã hòa đồng với những người hèn hạ nghèo khó. Ngài không hề xua đuổi bất cứ ai. Ngài dạy phải quảng đại, bác ái, yêu thương đối với mọi người, kể cả kẻ thù, và không bao giờ được xét đoán bất công. Ngài muốn mọi giao tế giữa loài người với nhau phải được thể hiện trong yêu thương. những dẫn chứng trên cho chúng ta thấy những lời ngôn sứ Isaia đã loan báo trước được ứng nghiệm đầy đủ nơi Chúa Giêsu. Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng Thiên Sai, đã thi hành trọn vẹn sứ mạng Thiên Chúa trao phó cho Ngài.
Sứ mạng của Chúa Giêsu, ngày hôm nay, vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo hội và trong Giáo hội. Thực vậy, khi Chúa Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gởi Thánh tần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin Mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ Tuần phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách Isaia thâu tóm sứ mạng của Chúa Giêsu cũng là lời theu tóm sứ mạng của Giáo hội mọi thời đại. Hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
Từ Công đồng Vaticanô II, Giáo hội đã ý thức sâu xa hơn về sứ mạng của mình. Điều này không có nghĩa là trước đây Giáo hội đã quên con người mà chỉ nghĩ đến “linh hồn”. Thử hỏi: ai đã khai sinh ra các bệnh viện, các cô nhi viện,m các trại phong, trai tế bần, trại dưỡng lãi…Ai đã khai hóa cho thế giới “Man di” của Âu Châu thời hậu đế quốc Rô-ma? Chính là Giáo hội. Cái mới của Va-ti-ca-nô II là quan niệm lại cho phù hợp với thời đại mà thôi.
Bài học cho chúng ta: Chúa Giêsu đã thực hiện đầy đủ, trọn vẹn những lời Kinh Thánh nói về Ngài. Chúng ta cũng vậy, chúng ta có bộn phận thực hiện những lời Chúa đã giảng dạy. Nghĩa là chúng ta phải sống những lời Chúa đã giảng dạy. Bởi vì đời sống của người tín hứu rất hệ trọng trong việc mời gọi mọi người đến với Chúa. Đời sống của chúng ta có thể hoạc xua đuổi hoặc giũ người khác lại cho Chúa Kitô.
Đối với óc thực nghiệm và đời sống thực dụng ngày nay, cái gì người ta cũng đòi phải có bằng chứng. Chúng ta là Ki-ti hữu, chúng ta đi lễ đi nhà thờ, chúng ta làm các việc đạo đức đầy đủ. Nhưng tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Ki-tô đích thực không? Đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Nhìn vào đời sống chúng ta, người ta có nhận ra chúng ta là người Ki-tô hữu không? Vì vậy, để truyền giáo, để làm chứng cho Chúa, cho đạo, cách hay nhất là chúng ta hãy sống tốt trong gia đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với người chung quanh, bất cứ là lương hay giáo, mà sống tốt cụ thể nhất là hãy sống bác ái.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức mình là Kitô hữu, và xin cho chúng ta hiểu rằng làm Ki-tô hữu có nghĩa là sống trọn vẹn ơn gọi làm người bằng một cuộc sống quảng đại, yêu thương và đầy tình yêu.
Có một câu truyện cổ tích kể về một tên cướp khét tiếng tại vùng Viễn Đông bị trọng thương và được chở đến một nhà thương của các nhà truyền giáo. Sau một vài tuần tịnh dưỡng và được săn sóc đầy đủ, tên cướp đã được phục hồi hoàn toàn. Tên cướp rất biết ơn các nhà truyền giáo và tự hứa là sẽ không bao giờ ăn cướp của bất cứ Kitô hữu nào. Lời hứa của tên cướp đã được đồn ra và hễ ai gặp tên cướp ấy đều thú rằng, “Tôi là Kitô hữu.” Như thế, tên cướp đã gặp vấn đề và hắn thắc mắc làm sao biết được ai là Kitô hữu và ai không phải là Kitô hữu. Hắn đã trở lại nhà thương và hỏi các nhà truyền giáo. Các nhà truyền giáo đã nói với hắn rằng nếu ai là Kitô hữu thì tất nhiên phải biết Kinh Lạy Cha và 10 Giới Răn. Từ hôm đó, ai tự xưng với hắn là Kitô hữu thì đều phải đọc Kinh Lạy Cha và Thập Giới.
Nếu mọi người đang hiện diện nơi đây được hỏi để chứng minh đức tin của mình bằng Kinh Lạy Cha và Thập Giới, tôi không biết có bao nhiêu người sẽ thi đậu, tuy nhiên tôi cho rằng đó không hẳn là bài thi của đức tin.
Bạn có thể đọc Kinh Lạy Cha, Thập Giới, và Kinh Tin Kính, và những bài Thánh Vịnh, thậm chí cả Tám Mối Phúc Thật. Tuy nhiên, tất cả những lời kinh này không đủ để trả lời cho câu hỏi, “Bạn có phải là Kitô hữu không?” Nói như vậy có nghĩa là “Bạn có biết khuôn đúc hóa chính mình theo cuộc sống của Chúa Kitô không? Bạn có cố gắng để sống đời Kitô hữu không? Bạn có trở nên một với Thiên Chúa trong Chúa Giêsu hay bạn là người xa lạ đối với Thiên Chúa?
Qua bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Luca kể lại cho chúng ta về cuộc cấm phòng của Chúa Giêsu trong hoang địa và bị cám dỗ do ma quỉ, Ngài “được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh” (Lc 4:14-15). Chúa Giêsu bắt đầu thu hút dân chúng đến với Ngài để nghe giảng dạy. Sứ mệnh công khai của Chúa Giêsu được bắt đầu bằng một cách tốt đẹp. “Rồi Đức Giêsu đến Nagiarét”, Thánh Luca tiếp, “là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabát” (Lc 4:16). Ngài đứng trước dân chúng và đọc một đoạn sách trong sách Isaiah: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4:18).
Tất cả những con mắt trong hội đường đều tập trung vào Chúa Giêsu, như Thánh Luca đã kể lại. Thêm một lần nữa, Chúa Giêsu lại gây thêm một ấn tượng mạnh mẽ trên dân chúng. Sau đó Ngài bắt đầu nói với dân chúng, “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe.” Nói một cách khác, “Đoạn văn vừa rồi trích từ trong sách Isia thật ra là nói về tôi. Thần Khí Chúa ngự trên tôi, và tôi là người được xức dầu để rao giảng cho người nghèo khổ, mùa lòa, và trả tự do cho người bị áp bức. Đi xa hơn một chút nữa trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy rằng “mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người” (Lc 4:19). Nhưng những người vừa mới khen Chúa Giêsu họ đã trở thành một đám côn đồ muốn giết chết Ngài.
Thánh Phaolô đã nhắn nhủ chúng ta rằng chúng ta phải có thái độ giống như của Chúa Kitô. Nói một cách khác, hiểu biết Chúa Kitô đem Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa đến và giải thoát cho nhân loại vẫn chưa đủ. Chúng ta còn phải biết đem Tin Mừng đó thấm nhập vào con người của mình và để cho nó sinh hoa kết quả. Qua đó, chúng ta biết cử xử làm sao với chính mình và với người khác giống như Chúa Kitô.
Thái độ này được diễn tả cách sống động qua một câu truyện nhỏ “Bàn Tay” của tác giả Sylvia Sunderlin.
Vào ngày mừng sinh nhật thứ 100 của người bố chồng, tôi quì bên bố và nắm lấy bàn tay nhợt nhạt và yếu ớt của ông. Bố chồng tôi nghiêng mình về phía tai tôi và nói nhẹ, “Con có một đôi bàn tay tuyệt vời.” Những lời khen đó xem như là quá đáng. Tôi vẫn thường cảm thấy xấu hổ với bàn tay của tôi bởi vì nó xấu quá. Các khớp đốt ngón tay thì không còn xinh xắn, ngón tay cái thì bị cong sang một bên, còn ngón trỏ thì bị một cái lồi lên nữa. Nghe bố chồng tôi khen như vậy, tôi thật cảm động và chỉ còn biết thì thào, “Cám ơn bố!”
Những giây phút đó còn vang vọng trong tôi. Thỉnh thoảng, tôi nhìn bàn tay mình, và suy nghĩ rằng bố chồng mình thật hiền lành. Nhưng có lẽ ông đã nói sai… Tuy nhiên, dần dần, tôi bắt đầu quan sát bàn tay của tôi kỹ lưỡng hơn. Tôi bắt đầu khám phá ra những việc nó đang làm.
Nó đang cầm cây bút chì và kim chỉ, cái chổi và cái xẻng, cuốn sách và cây vợt tenis. Trộn bột pha bánh và đốt lên những ngọn nến sinh nhật. Các ngón tay ấn lên ấn xuống trên phím đàn dương cầm và bàn chữ, sử dụng cây cọ để vẽ và chiếc bàn ủi. Bàn tay này đã dùng để chải tóc cho con cái, gạt đi những dòng nước mắt, băng bó vết thương, và vỗ vễ những ai sầu khổ…
Rồi một ngày nọ, tôi nhìn bày tay của tôi và nhận ra chúng thật đẹp đẽ. Bố chồng tôi đã giúp cho tôi nhìn ra cái đẹp mà Thiên Chúa đã muốn tôi phải nhìn: các món quà quí giá từ Ngài, đã được ban cho tôi để phục vụ!
Thái độ của các bạn phải là thái độ của Chúa Kitô để người khác có thể nhìn thấy bàn tay của các bạn đẹp đẽ, là những bàn tay Kitô giáo, được ban tặng để phục vụ.
“Đức Giêsu trở về Galilê trong quyền năng của Thánh Thần” (Lc 4:14a).
Đang khi quân Pháp đánh nhau dữ dội với quân Nga, Napôlêon được mật báo sắp có một cuộc đảo chánh tại Pháp nhằm truất phế ông ta. Tức khắc, vị tướng lừng danh khắp cõi Châu Âu vội cải trang, lén lút đem theo vài cận vệ rời khỏi cuộc chiến đang hồi ác liệt để trở về Pháp, nhằm trừng phạt bọn phản loạn và để bảo tồn ngai triều hoàng đế của mình.
Đến một con sông, đoàn người phải thuê một bác chèo đò đưa qua bờ bên kia. Đang lúc sang sông, Napôlêon buộc miệng hỏi lão chèo đò: “Ông có thấy người lính Pháp nào trốn qua khúc sông này không?” Người lái đò, một công dân Pháp, không biết trước mắt mình là hoàng đế Napôlêon đang cải trang, nên vô tình mỉa mai đáp lại: “Tôi chỉ thấy ông và những kẻ theo ông là những người lính Pháp hèn nhát trốn về ngang đây đầu tiên.”
Người kể truyện không nói rõ Napôlêon, vị tướng hùng của dân tộc Pháp, kẻ chưa từng nếm mùi chiến bại đã phản ứng thế nào với lão chèo đò dám có những lời khinh thị kia, người viết chỉ kết bằng một câu chua chát: “Đây là một cuộc trở về ê chề nhất trong đời Hoàng đế.”
Trước đây, mỗi khi Napôlêon với đoàn quân viễn chinh trở về là những lúc kinh thành Balê tưng bừng náo nhiệt và ngập tràn ánh sáng. Người ta tung hô, múa nhảy, ăn mừng, bởi vì hoàng đế của họ đang mang lại chiến thắng, danh dự, an bình, vinh quang cho đất nước và dân tộc. Thế nhưng, hôm nay Napôlêon đã trở về không phải cho dân hay cho nước, song là cho chính mình-cho chính ngai vàng và quyền bính của mình, mà nghe đâu đang có kẻ đe doạ lật đổ. Hậu quả, vị tướng tài đã phải nhục nhã vô cùng khi nghe câu nói châm biếm của lão chèo đò.
Biến cố trở về của Napôlêon nhắc người ta nhớ đến hình ảnh nổi loạn của dân Do thái ngày xưa trong sa mạc: giữa một cuộc chiến đang hồi ác liệt với đói khát, thiếu thốn, nắng nôi trên con đường tiến về miền đất Chúa hứa, dân Do thái đã trở lòng. Họ muốn quay lui. Họ mơ tưởng đến những nồi súp, miếng thịt, củ hành, tép tỏi bên vùng đất Ai cập, nơi họ từng phải làm nô lệ, tôi đòi. Mơ chưa đủ, họ còn nổi loạn bắt Môisen phải cho phép quay về vùng đất đó. Không tha thiết gì với vùng đất “chảy sữa và mật ong” nữa.
Thế đấy, cả Napôlêon lẫn dân Do thái xưa, tuy khác nhau ở chỗ một bên đang trên đường trở về, một bên mong mỏi và nổi loạn đòi trở về, nhưng cả hai đều có cùng một mục tiêu trần tục và phù vân như nhau. Họ điên cuồng tức giận, bỏ mặc quân lính giữa cuộc chiến đang hồi nóng bỏng để trở về với nồi khoai, nồi thịt nay đầy mai hết, với những thứ mà Thánh Phaolô cho là “việc vàn của xác thịt.”
Hôm nay, Phúc Âm Luca cũng nhắc đến việc Đức Giêsu trở về (Lc 4:14). Cuộc trở về này xảy ra ngay sau một cuộc chiến ác liệt: cuộc chiến chống lại cám dỗ của quỉ ma trong sa mạc, suốt 40 ngày đêm liên tiếp.
Nhưng ngay từ khởi đầu, bài Phúc âm đã không nhắc đến việc Chúa Giêsu trở về với những gì liên quan đến xác thịt, nhưng lại nhấn mạnh: “Ngài trở về trong quyền năng của Thần khí.” Chúa Giêsu đã trở về trong quyền năng của Thánh Thần vì Ngài đã chiến thắng, vượt qua cuộc cám dỗ gay go về cơm bánh, vinh quang, và uy quyền thế gian. Ngài đã trở về không cho chính mình, song là cho mọi người, những ai cần đến ơn cứu độ.
Con người gồm có xác hồn, một tổng thể của vật chất và linh thiêng, của xác thịt và thần khí. Nhưng theo lời Thánh Phaolô trong thư Galata thì xác thịt và Thần khí luôn chống lại nhau. Nếu phần xác thịt-những đam mê, ham muốn, dục vọng, vật chất-thắng thế thì phần thiêng liêng tất sẽ bị suy yếu. Song nếu phần thiêng liêng hay Thần khí trong ta thắng thế thì sẽ chế ngự được những đòi hỏi của xác thịt.
Đức Giêsu trở về trong Thần khí. Ngài không để cho phần xác thịt là những đam mê vượt thắng. Ngài không quì gối bái lạy Satan để có được một chút vinh quang, danh dự, uy quyền. Ngài không để cho cái bao tử hay đồng tiền vật chất khuất phục mình, khi cương quyết không làm đá hoá bánh, không làm điều trái nghịch với tự nhiên để thoả mãn những tham muốn hay dục vọng riêng tư.
Trái lại, đối với Đức Giêsu, mọi vinh quang, danh dự, hay sự sống đều phải qui hướng về Thiên Chúa, chứ không phải Satan hay cá nhân mình. Đây chính là tinh thần của Đức Kitô. Đây cũng chính là Thần khí mà Ngài đã có khi trở về đất Galilê để khởi đầu sứ mạng rao giảng.
Có trở về trong Thánh Thần, tức có hướng lòng lên Thiên Chúa để vươn mình thắng vượt những tham lam, tiền bạc, bất công, và chế ngự những khát vọng uy quyền, xác thịt, danh lợi, thì mới có thể đem Tin Mừng cho người nghèo khó, mới giải phóng cho kẻ tù đày, và mới mở mắt cho người đui mù được. Còn nếu tôi cứ tự cột trói và giam hãm trong đau khổ và lo lắng thái quá về đồng tiền, của ăn, thế giá thì làm sao ta đem được Tin Mừng hay niềm vui cho người khác; có chăng chỉ là tranh chấp, gian dối, và u buồn thôi!
Người ta hay nói “đời là một cuộc trở về.” Đúng lắm! Và dưới cái nhìn của con mắt đức tin, mọi người đang trở về quê trời. Đây là một cuộc trở về vinh quang cuối cùng này, tôi vẫn cần luôn những cuộc trở về nho nhỏ, hằng ngày. Rất bình thường, nhưng không kém quan trọng.
Thử hỏi có hôm nào trong cuộc sống mà tôi lại không có một chuyến trở về nào đó: trở về từ sở làm, trở về sau khi đi nhà thờ, trở về sau lúc đi chợ, đi chơi, đi học, đi nhậu, trở về sau những cuộc hẹn hò, tiệc tùng v.v.. Nhưng thử hỏi với lần trở về như vậy, tôi mang theo được điều gì? Tôi mang về bực bội, khó chịu, cay chua, nóng nảy, giận hờn, ghen tuông hay đưa về Thần khí của Đức Kitô, thứ Thần khí hoa trái là mến yêu, vui mừng, bình an, quảng đại, hiền từ, tiết độ.
Chợt giật mình tự vấn: “Không biết mỗi ngày khi về nhà, tôi có đem về niềm vui, sự sống, an bình và thoải mái cho tâm hồn tha nhân, hay vợ chồng con cái của mình chăng?”
Cách nay không lâu, trên tờ báo Catholic Register người ta học thấy có câu chuyện “Trở Về” rất đáng suy tư. Số là anh Jim O’Donnell, một công dân Hoa kỳ 36 tuổi đang làm việc tại Luân Đôn, Anh quốc, cho một nhóm các ngân hàng của Hồng Kông và Shangai. Jim O’Donnell đã gây sửng sốt cho giới doanh thương Hồng Kông, Luân Đôn và cả New York khi tuyên bố rằng anh sẽ về nước, nghỉ việc, mặc dầu khi ấy các ngân hàng vừa tăng lương cho anh với số tiền là 1.650.000 đôla một năm.
Nhiều người thắc mắc tại sao anh Jim không tiếp tục công việc để hưởng số lương bổng mà không ít kẻ nằm mơ cũng chưa thấy được số lẻ của nó. Bạn có biết lý do anh trở về nước không?
Rất lạ! Anh về nước là để cho kịp niên học tại một chủng viện vào mùa Thu 98. Anh muốn đi học để trở thành linh mục. Đúng là anh trở về với tâm hồn của Đức Kitô, với Thần khí của Thiên Chúa, với tinh thần hy sinh những gì thuộc về xác thịt, quyền lợi, sở thích riêng tư, để thực hiện một ước vọng mới là mang Tin mừng, niềm vui và sự sống chân lý cho muôn người.
Xin Chúa cũng ban cho bạn trong những lần trở về với gia đình, cộng đoàn, có được chính Thần khí của Đức Kitô tác động và dẫn lối.
Câu hỏi gợi ý:
Suy tư gợi ý:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đọc sách của Isaia nói về sứ mạng ngôn sứ của ông. Đức Giêsu cũng áp dụng sứ mạng ấy cho chính Ngài qua câu: «Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe». Đức Giêsu hay các ngôn sứ được «Thiên Chúa xức dầu tấn phong» và được Thần Khí Chúa ở cùng, để làm gì? Chắc chắn không phải chỉ để tế lễ hay đọc kinh cầu nguyện, cũng không phải chỉ để lo những chuyện thuần túy tôn giáo như «loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn», mà còn để làm cả những công việc xã hội, việc ngoài đời, như «cho người mù được sáng mắt», cho «kẻ bị giam cầm được tha», «trả lại tự do cho người bị áp bức». Sách Châm ngôn cũng nói lên một trong những công việc quan trọng mang tính xã hội của người ngôn sứ: «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng phán xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9).
Thật vậy, cuộc đời của Đức Giêsu và của các tông đồ đầy dẫy những công việc như: chữa lành đủ mọi chứng bệnh, trừ khử đủ mọi thứ quỉ, hóa bánh ra nhiều để lo cho người đói… Sách Công Vụ Tông đồ nói về Đức Giêsu: «Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó» (Cv 10,38). Việc thi ân giáng phúc của Ngài không phân biệt lãnh vực nào là đạo, lãnh vực nào là đời. Gioan Tẩy Giả – cũng là một ngôn sứ – ngoài việc dọn đường cho Đức Giêsu, rao giảng sự hối cải, ông còn làm những công việc mang tính xã hội như lên tiếng cảnh cáo vua Hêrốt không được lấy vợ của anh ruột mình, bất chấp việc cảnh cáo ấy có thể dẫn ông vào tù hay mất mạng (x. Mt 14,3-12). Các ngôn sứ thời trước, ngoài những công việc mang tính tâm linh và tôn giáo, cũng đã từng dấn thân vào những việc xã hội như lên tiếng cảnh cáo vua cũng như toàn dân chúng về những tội ác của họ.
Ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu là đến để giải phóng con người một cách toàn diện, cả tâm linh lẫn thể xác, cả cá nhân lẫn xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo là: chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23). Về tâm linh, Ngài giải phóng con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, của lề luật, của thói hư tật xấu, khỏi tính yếu đuối của bản tính con người. Thánh Phaolô viết: «Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta» (Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13). Ngài cũng đến để giải phóng con người về mặt thể chất: «Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta» (Rm 7,24-25); «Anh em đã chết cùng Đức Kitô và được giải thoát khỏi các yếu tố của vũ trụ» (Cl 2,20). Về mặt xã hội, Ngài đến để thực hiện một xã hội lý tưởng là Nước Trời, không chỉ tại thiên mà còn tại thế, trong đó mọi người đối xử với nhau bằng chân lý, công lý và tình thương.
Vì thế, từ khi thành lập đến nay, Giáo Hội vẫn tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu là cứu độ con người một cách toàn diện. Chủ trương đó phần nào được diễn tả trong kinh «Thương người có 14 mối», trong đó không chỉ có 7 mối về linh hồn mà còn có 7 mối về thể xác.7 mối về thể xác rất cụ thể là: cứu giúp những kẻ thiếu thốn vật chất (thiếu ăn, thiếu uống, thiếu mặc, thiếu chỗ ở…); an ủi, giúp đỡ và chữa lành những kẻ ốm đau bệnh tật; thăm viếng và tìm cách giải phóng những kẻ bị giam cầm một cách oan ức hoặc bị làm nô lệ; giúp kẻ chết trong cảnh nghèo khổ được chôn cất tử tế. Tất cả đều nhằm giúp cho mọi người – đặc biệt những kẻ nghèo khổ – được sống và chết xứng với phẩm giá cao trọng của con người, là con cái và là hình ảnh của Thiên Chúa.
Theo gương Đức Giêsu, tiếp tục thực hiện sứ mạng toàn diện của Ngài, nhiều Kitô hữu đã tranh đấu rất mạnh, rất hăng hái để bảo vệ sự sống, chẳng hạn chống phá thai, chống ngừa thai theo những phương pháp trái tự nhiên. Điều đó thật đáng khích lệ! Nhưng phần còn lại cũng rất quan trọng – là làm cho sự sống mà mình đã bảo vệ được sống cho xứng với phẩm giá con người – thì rất nhiều Kitô hữu lại coi nhẹ hoặc không đặt nặng. Như thế có khác nào «đánh trống bỏ dùi», «đem con bỏ chợ», «đầu voi đuôi chuột»? Thử hỏi: bảo vệ cho các thai nhi được quyền sống trên đời, nhưng lại không bảo vệ cho chúng quyền được sống hạnh phúc, sống đúng với phẩm giá con người, thì việc bảo vệ sự sống cho chúng có ích lợi gì? Ngoài việc bảo vệ sự sống, ta còn có bổn phận phát triển sự sống, để sống có chất lượng. Đừng để những thai nhi mà chúng ta cứu sống phải sống bất hạnh đến nỗi chúng phải than trách ta, những kẻ cứu sống chúng: «Thà để chúng tôi đừng sinh ra thì hơn!», «Tranh đấu cho chúng tôi sinh ra làm gì nếu sau đó lại để chúng tôi lâm vào cảnh lầm than khổ sở thế này?»
Muốn mọi người được sống đúng phẩm giá của con người, xứng với địa vị của con cái Thiên Chúa, chúng ta phải loại trừ mọi hình thức bất công trong xã hội. Hiện nay, trong xã hội, sự xuất hiện hay sự thịnh vượng của người này có thể gây khó khăn hay làm giảm bớt quyền lợi của người kia. Vì thế, người ta tìm đủ mọi cách để tước đoạt hoặc giảm thiểu quyền sống và quyền sống cho ra người của nhau. Vì thế, muốn mọi người được sống đúng với phẩm giá của con người, phải có những người tranh đấu cho quyền ấy. Những kẻ đang tước đoạt quyền làm người của kẻ khác hầu như không bao giờ tự động trả lại quyền ấy cho người bị tước đoạt cả. Họ chỉ trả lại quyền đó khi chúng ta hoặc chính người bị tước đoạt tranh đấu đòi buộc họ phải trả lại. Hy vọng dùng cầu nguyện hoặc lời năn nỉ van xin để kẻ ác tự động trả lại sự công bằng cho mọi người quả là một ảo vọng.
Muốn cho mọi người đang sống được sống đúng với phẩm giá của mình, thiết tưởng chúng ta phải tranh đấu mới được, dù là tranh đấu trong ôn hòa, trật tự. Và chúng ta cần tranh đấu cho quyền sống cho ra người một cách cũng hăng hái và hữu hiệu như chúng ta đã từng tranh đấu để bảo vệ sự sống vậy! Là người Kitô hữu, được thúc đẩy bởi đức ái Kitô giáo, chúng ta có bổn phận phải tranh đấu cho mọi người có quyền sống và quyền sống cho ra người. Muốn thế, phải lên tiếng bảo vệ công lý, chống lại những cơ chế phát sinh bất công, nghèo khổ, đồng thời cổ võ mọi người – mà trước hết là chúng ta – sống yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
Việc tranh đấu cho quyền làm người và sống cho ra người như thế tất nhiên ít nhiều phải liên quan tới chính trị. Các ngôn sứ của Thiên Chúa không hề chủ trương làm chính trị. Nhưng khi thực hiện sứ mạng của mình, là làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương, các ông không ngại ngùng khi việc làm chứng ấy có vẻ như dính líu đến những vấn đề chính trị, hay mang tính cách chính trị. Việc lên tiếng hay làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương trong xã hội, làm sao tránh được chuyện liên can đến chính trị? cũng như làm sao tránh được chuyện liên can đến văn hóa, xã hội, kinh tế…? Tất cả mọi vấn đề trong xã hội con người đều liên quan đến nhau một cách chặt chẽ. Không thể làm một việc gì trong xã hội mà không bị liên can đến những vấn đề ấy! Không muốn liên can đến những vấn đề ấy thì làm sao lên tiếng hay làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương trong xã hội được? Muốn vô can thì chỉ có nước là im lặng, bất động, không nói không làm gì cả, và cũng hãy từ bỏ ý muốn làm ngôn sứ!
Cũng tương tự như các ngôn sứ không chủ trương làm mất lòng ai, hay làm ai ghét mình, nhưng nếu vì sứ mạng mà phải làm mất lòng, phải nên cớ cho người ta ghét, thì cũng đành phải chấp nhận. Chẳng lẽ vì sợ làm mất lòng, sợ bị người ta ghét mà mình đành lỗi sứ mạng của mình?! Phải chăng người ngôn sứ được miễn thi hành sứ mạng của mình khi việc thi hành sứ mạng ấy có liên can đến chính trị?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, nhiều khi chúng con coi những gì liên quan đến chính trị như những điều kỵ húy, như thể chúng phản lại tinh thần Kitô hữu. Thực ra chúng con không thể tránh được sự liên quan ấy khi chúng con làm theo tiếng lương tâm, khi chúng con bảo vệ chân lý, công lý và tình thương. Chúng con đã coi chuyện tránh né những vấn đề chính trị còn quan trọng hơn cả việc tuân giữ lề luật của Thiên Chúa là luật yêu thương: chúng con sẵn sàng bỏ thi hành luật Chúa khi việc thi hành này có liên quan đến chính trị! Xin cho chúng con ý thức được quan niệm sai lầm của mình.
Theo truyền thống tại giáo đường Do thái, thì trong việc thờ phượng, người ta thường cho đọc một bài Sách Luật, một bài sách tiên tri, theo sau là bài giảng. Trong Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu được mời vừa làm người đọc sách thánh, vừa là người diễn giảng. Chúa chọn bài trích sách tiên tri Isaia: “Thánh thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4:18). Rồi Người ban lời huấn dụ, những lời đơn giản, nhưng quan hệ, những lời vượt trí hiểu của người nghe. Phúc âm thuật lại: Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người (Lc 4:20). Rồi Người gấp sách lại nói: Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh qúi vị vừa nghe (Lc 4:21).
Thực ra thì không phải chỉ có đoạn Kinh Thánh này mới được ứng nghiệm, mà tất cả toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Người đã hoàn tất mọi điều viết trong Kinh Thánh Cựu Ước. Bằng việc tỏ ra là Người ứng nghiệm lời Kinh Thánh Cựu Ước, Chúa Giêsu biểu lộ cái căn tính thực sự của Người. Người biết rõ Người là AI, và tại sao Người đến trong thế gian.
Cho tới lúc này, người Do thái tự vinh quang hoá cái dĩ vãng của họ. Họ được nhắc nhở họ là dòng dõi được lựa chọn, hàng tư tế vương giả, chủng tộc thánh thiện và dân riêng của Chúa. Họ được dạy bảo về Apraham mà họ coi là tổ phụ. Họ lắng nghe những câu chuyện về Môisê, người đã đưa họ thoát khỏi vòng nô lệ bên Ai-cập, vượt qua biển đỏ. Họ học biết về vua Solomon đã xây dựng đền thờ Giêrusalem đồ sộ và nguy nga, và làm sao Nơ-khe-mi-a đi tiên phong trong việc tái thiết đền thờ sau cuộc lưu đầy bên xứ Babylon.
Cũng vào thời kỳ đó, người Do thái mơ tưởng về tương lai của họ. Điều họ chú tâm và tầm quan trọng của họ trong lịch sử xem ra nằm trong tương lai. Họ hướng về cái ngày tái thiết vương quốc của họ. Vì thế chính Đấng cứu thế đang ở giữa họ, nhưng họ không nhìn thấy, hay không chấp nhận. Cho nên họ vẫn mong đợi vị cứu tinh khác.
Những cái tự hào của người Do thái cổ xưa một phần nào cũng giống những cái tự hào riêng của mỗi người chúng ta. Ta có thể tự hào là gia đình tôi theo đạo gốc, gia đình tôi có người làm linh mục, làm giám mục, làm bà sơ. Tôi đã được chụp hình và bắt tay với hồng y nọ kia, ngay cả với đức giáo hoàng. Tổ tiên tôi là thánh tử đạo nọ, thánh tử đạo kia. Quê tôi có nhà thờ lớn được kiến trúc theo kiểu này kiểu nọ. Những cái tự hào đó cũng là tốt bao lâu giúp cho mình sống theo mẫu gương đạo hạnh của tiền nhân. Tuy nhiên những cái tự hào đó có thể khiến cho mình trở nên tự mãn và dựa thế, không muốn tiến thân trên cuộc hành trình đức tin và sống đạo. Ta để cho mình sống như cây tầm gửi. Cái việc tổ tiên ta là người thế nọ thế kia, hay làm được chuyện nọ việc kia là một chuyện. Còn cái việc chính ta có sống đạo và thực thi đức tin hay không lại là chuyện khác.
Trong khi ta đang sống trong thời gian ở giữa, giữa cái thời gian Chúa Cứu Thế đã đến trong lịch sử loài người và cái thời gian Người sẽ đến để kết thúc lịch sử loài ngưòi, ta không được ngồi đó với thái độ tự mãn hoặc thờ ơ lãnh đạm. Ta phải sống cái đức tin hiện tại ở đây và bây giờ với khả năng và phưong tiện có thể. Nếu ta coi việc Đấng Cứu Thế đã đến như một biến cố thuộc dĩ vãng, không ăn nhập gì tới nếp sống hiện tại, là ta để cho đức tin dựa vào quá vãng. Đức tin của ta không phải là đức tin dựa trên quá vãng hay hướng về tương lai. Nhiều người trong chúng ta cũng đặt đức tin vào tương lai. Họ tự nhủ mình: Ngày nào đó họ sẽ đi xưng tội để làm hoà với Chúa, họ sẽ sống đạo hạnh hơn; họ sẽ làm lại cuộc đời, sẽ sống đạo hạnh hơn. Và cái ngày đó không bao giờ đến, hay đến quá trễ vì bất thình lình họ đã trở thành người thiên cổ.
1.- Ngữ cảnh
Tác giả Lc đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn giáo của đế quốc Rôma và của Israel. Qua cái cổng này, ngài lấy lại các chặng của TM Mc.
Lc đặt phần 1 của Tin Mừng dưới dấu chỉ là việc mạc khải của Đức Giêsu tại Nadarét; các hoạt động đầu tiên của Người tại Caphácnaum và Galilê đến tiếp vào (Lc 4,14-5,16). Bên trong đoạn này, tác giả bố trí các hoạt cảnh theo nhiều cách: ngài cố tình nêu bật Galilê. Hơn các tác giả Nhất Lãm khác, ngài nhấn mạnh việc Đức Giêsu trở về miền Galilê “trong quyền năng Thánh Thần” (4,14). Ở 4,44, ngài thay thế Galilê bằng Giuđê, nhưng để nói về toàn lãnh thổ của người Do Thái; đứng đầu các thành phố và làng mạc được loan báo Tin Mừng, ngài đặt Nadarét (4,16); tại Galilê, nơi có vai trò quan trọng là Caphácnaum (4,31; 7,1).
Vậy, chỉ có miền Galilê nằm trong nhãn quan của Lc ở đoạn này. Chuyển động không nằm trong việc thay đổi nơi chốn, nhưng trong việc rao giảng về Nước Trời: Bằng việc hoán chuyển vị trí của câu truyện Nadarét, Lc cho thấy rằng con người và sứ mạng của Đức Giêsu mới là ưu tiên (Lc 4,13-30 = Mc 6,1-10; Mt 13,53-58).
2.- Bố cục
Sách Bài đọc gộp vào đây hai bản văn xa nhau ba chương trong TM Lc. Khó mà thấy được ý hướng của sự ghép nối này; có lẽ các chuyên viên Phụng vụ chỉ muốn nối với nhau hai bản văn “mở đầu”: mở đầu Tin Mừng theo Lc (1,1-4) và khởi đầu việc rao giảng của Đức Giêsu tại Nadarét (4,14tt).
Bản văn Phụng vụ có thể chia thành ba phần:
1) Mở đầu Tin Mừng (1,1-4);
2) Tóm: Bắt đầu sứ vụ (4,14-15);
3) Thăm viếng Nadarét (4,16-21):
3.- Vài điểm chú giải
– Nadarét (16): chính xác là Nadara. Đây là lần duy nhất tác giả Lc gọi quê hương Đức Giêsu bằng cái tên A-ram Nadara (tương tự Mt 4,13), nhưng lại không gọi là “quê hương/quê quán” của Đức Giêsu (khác với Mc 6,1 và Mt 13,54): có lẽ bởi vì Đức Giêsu không sinh ra tại đó (2,4-7), nhất là bởi vì đối với Lc, “quê hương” của Đức Giêsu là toàn thể đất Israel (x. cc. 24-27).
– đứng lên đọc Sách Thánh (16): Tác giả Lc cho thấy Đức Giêsu giảng dạy dựa trên Kinh Thánh. Ta có thể hiểu ngầm rằng ở đây Đức Giêsu đã được ông trưởng hội đường (archisynagôgos) mời đọc và trình bày mộtbản văn Kinh Thánh (như Phaolô và Banaba ở Antiôkhia miền Pisiđia; x. Cv 13,15). Tại Paléttina vào thế kỷ đầu tiên, việc cử hành ngày sabát tại hội đường dường như gồm có việc hát một thánh vịnh, đọc kinh Shema (Đnl 6,4-9; 11,13-21; Ds 15,37-41) và tơphillâh [lời cầu khẩn] (hoặc shơmôneh esrêh = “Mười Tám [lời chúc lành]” và đọc một seder (quyển nghi thức) hay một pârâshâh trích từ tôrah (Lề Luật = Ngũ Thư) và mộtđoạn các Ngôn sứ (haptârâh; x. Cv 13,15). Sau đó là bài diễn giải các bản văn Kinh Thánh đã đọc. Cuộc cử hành chấm dứt bằng lời chúc lành của ông trưởng hội đường và lời chúc lành tư tế (x. Ds 6,24-26).
Tác giả Lc không nhắc đến bài đọc Tôrah, nhưng phải hiểu là có. Ngài chỉ quan tâm hơn đến việc ứng nghiệm các lời sấm Đệ II Isaia và cách sử dụng Cựu Ước theo quan điểm Kitô học.
– cuốn sách ngôn sứ Isaia (17): Người ta yêu cầu Đức Giêsu đọc mộtđoạn Ngôn sứ bằng tiếng Hípri. Tác giả không nói đến Targum, tức dịch bản Hípri ra tiếng Aram, nhưng có thể giả thiết là có, vì vào lúc ấy, người Do Thái dùng tiếng Aram chứ không còn hiểu tiếng Hípri nữa. Sự kiện người ta “trao cho” Đức Giêsu cuốn sách Isaia cho hiểu rằng người ta quy định phải đọc một đoạn văn Isaia, tức là có mộtchu kỳ các bài đọc Ngôn sứ cũng như các bài đọc Lề Luật. Nhưng dường như người đọc có thể chọn (x. câu 17b).
– Thần Khí Chúa ngự trên tôi (18): Bản văn trích Đệ II Isaia trong Lc là mộtđoạn tổng hợp Is 61,1a.b.d; 58,6d; 61,2a. Hai câu bị bỏ là Is 61,1c ở cuối Lc 4,18 (“băng bó những tấm lòng tan nát”) và Is 61,2b ở cuối Lc 4,19 (“một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta”). Bỏ Is 61,1c thì không có hậu quả gì đáng kể, nhưng bỏ Is 61,2b là cố tình bỏ đi mộtphương diện tiêu cực của sứ điệp II Is.
– vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi (18): Bản văn cho thấy là chính Thiên Chúa đã cử Thánh Thần xuống trên Đấng Mêsia như mộtchất dầu xức cho Đấng Mêsia, hầu Người lên đường thi hành sứ mạng cứu thế.
– để tôi loan báo Tin Mừng (18): Bản văn Is Hy Lạp không rõ là “để loan báo Tin Mừng” là mục tiêu của “Chúa đã xức dầu” hay là mục tiêu của “Người đã sai tôi”. Giáo sư Fitzmyer dịch theo bản gốc Hípri, “he has sent me to preach good news to the poor” (dịch sát là “to announce good news to the poor he sent me”).
– người giúp việc hội đường (20): Ngoài ông trưởng hội đường (archisynagôgos), còn có các nhân viên là “các kỳ mục” (prebyteroi, Lc 7,3) và “các người giúp việc” (“người cán sự”, NTT) (hypêretês, Cv 13,5) giống như “ông từ nhà thờ, người phụ trách phòng thánh”.
– ngồi xuống (20): Khi đọc Kinh Thánh, người ta đứng; còn khi trình bày ý nghĩa bản văn (logos paraklêseôs, Cv 13,15), người ta ngồi.
– chăm chú nhìn Người (20): Động từ atenizein là động từ Lc ưa chuộng (x. Lc 22,56; Cv 1,10; 3,4.12; 6,15; 7,55; 10,4; 11,6; 13,9; 14,9; 23,1). Thường động từ này diễn tả sự trân trọng và tin tưởng (là điểm của bản văn này).
– Hôm nay (21; HL. sêmeron, x. 2,11 [Giáng sinh]; 3,22 [phép Rửa]; 4,21; 5,26 [người bại liệt]; 13,32-33; 19,5.9 [Dakêu]; 23,43 [người trộm lành]): Đây là từ ngữ quan trọng của Lc, có nghĩa là: Sau một thời gian dài chờ đợi và hy vọng, lịch sử cứu độ đã tới đỉnh cao hoàn tất. Tất cả những gì các ngôn sứ nói đã thành sự trong các hành động và các lời nói của Đức Giêsu (x. 4,18.19; 5,26; 19,9).
– đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh (21): Kiểu nói này tương ứng với kiểu nói “thời kỳ đã mãn của Mc 1,15. Hôm nay, niềm an ủi cho Sion lại được gửi đến cho dân Thiên Chúa (x. Lc 2,25; 7,22).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở đầu Tin Mừng (1,1-4)
Lời mở này phù hợp với quy tắc viết thời tác giả Lc. Qua đoạn văn ngắn ngủi này, chúng ta biết về phương pháp làm việc của tác giả. Hôm nay chúng ta thừa kế vốn hiểu biết về Đức Giêsu từ bao thế hệ. Các thông tin được những con người có lương tâm đánh giá, cân nhắc rồi viết ra. Như thế, đức tin chúng ta không dựa trên những chuyện hoang đường hoặc những chuyện ngụ ngôn do tưởng tượng, nhưng chủ yếu dựa trên các sự kiện lịch sử được đảm bảo bởi các chứng nhân thà đổ máu ra chứ không chịu phủ nhận các sự kiện ấy.
* Tóm: Bắt đầu sứ vụ (4,14-15)
Trong khi các TMNL liên kết khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu với việc Gioan Tẩy Giả bị tù (Mc 1,14; Mt 4,12), Lc lại bắt đầu Tin Mừng của ngài bằng mộttóm tắt; còn chuyện Gioan bị tù đã được ngài đưa lên phía trước (3,19-20). Đoạn tóm tắt này cho mộtcái nhìn tổng quát trên sứ vụ của Đức Giêsu tại Galilê (những tóm tắt: 4,31-32.40-41; 6,17-19; 8,1-3; 19,47-48; 21,37-38). Tuy đoạn tóm này không nhắc tới nội dung lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa hay lời lêu gọi hoán cải, bản văn vẫn chứa ba nét đặc trưng của Lc: (a) Một leitmotiv là “quyền năng Thần Khí” (c. 14). (b) Hoạt động của Đức Giêsu được mô tả trước tiên như mộtviệc “giảng dạy” (c. 15); ta hiểu Đức Giêsu “giảng dạy” dưới quyền năng Thần Khí. (c) Tính phổ quát vẫn được Lc nhấn mạnh nơi câu “được mọi người tôn vinh”.
* Thăm viếng Nadarét (4,16-21)
Sau đó, Đức Giêsu “đến Nadara, là nơi Người sinh trưởng”. Theo thói quen, Người đi vào hội đường ngày sabát. Qua vài câu đó, Lc nhắc lại những gì ngài đã kể thuộc thời thơ ấu của Đức Giêsu (x. 2,39-40.51-52). Thành này được ngài gọi mộtlần duy nhất ở đây là Nadara, nhưng không được gọi là “quê hương” của Đức Giêsu, có thể vì Đức Giêsu không chào đời tại đây, hoặc đúng hơn, bởi vì ngài coi cả đất Israel là “quê hương” Đức Giêsu (x. cc. 24-27). Trong cuộc cử hành, Người đứng lên để đọc Sách Thánh (c. 16). Theo tập tục, Người đứng lên sau bài đọc Lề Luật (Ngũ Thư) để đọc mộtđoạn sách các Ngôn sứ. Dường như vào thời Đức Giêsu, người ta không quy định rõ mộtchương trình đọc các bản văn Ngôn sứ. Do đó, Đức Giêsu đã chọn đọc Is 61. Bản văn được Lc ghi lại là Is 61,1-2 theo Bản LXX, với một vài sửa đổi.
Đối với các thính giả của Đức Giêsu, bản văn này là lời của mộtngôn sứ, mà họ có thể nói là Người Tôi tớ Đức Chúa với bốn Bài ca trứ danh (Is 42,1-7 có những gặp gỡ rất gần với Is 61,1). Ngài loan báo mộtnăm hồng ân có thể so sánh với năm đại xá theo luật Môsê (Lv 25,8-17), nhưng ở đây không phải là con người nhưng chính Thiên Chúa sẽ can thiệp với ân sủng của Ngài. Còn tự do mà Ngài loan báo không phải là việc tha hoàn toàn các món nợ giữa người Do Thái với nhau, mà là mộtơn cứu độ tuyệt vời thuộc về thời cánh chung, cũng có thể gọi là Nước Thiên Chúa, mộtthời đại được nồng nhiệt chờ mong.
Nghe đọc đoạn sách ấy, niềm hy vọng bùng lên trong các con tim, và tất cả các thính giả của Đức Giêsu chờ đợi bài giảng minh giải bản văn đầy hứa hẹn ấy.
“Người bắt đầu nói với họ: «Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe»” (4,21). Qua câu này, Đức Giêsu cho thấy chiều hướng của bài giảng của Người. Người sẽ hiện tại hóa nơi bản thân Người nội dung của lời sấm Người vừa đọc. Khi làm như thế, Người đã xử sự như ngôn sứ.
Từ ngữ đầu tiên rất hệ trọng: sự hiện diện của Đức Giêsu chính là mộtgiai đoạn độc đáo trong thời gian cứu độ, được diễn tả bằng “hôm nay”. Đức Giêsu áp dụng sấm ngôn Is cho chính mình. Khi chịu phép rửa, Người đã nhận lấy Thánh Thần như mộtviệc xức dầu đã đưa lại cho Người phận vụ thánh thiêng là làm Đấng Mêsia. Nhưng Người không phải là mộtMêsia như mộtvị vua trần thế; để tránh hiểu lầm, Đức Giêsu không xác định công khai Người là Đấng Mêsia (x. 4,41) và chỉ mạc khải như thế cho riêng các môn đệ (9,18-21). Tại Nadarét, vào lúc bắt đầu sức mạng, Người chỉ nhận mình là như vị ngôn sứ mang Tin Mừng cứu độ. Bản văn Is có lẽ đã cung cấp cho Người dung mạo Người Tôi Tớ của Đức Chúa (Yhwh), và chắc chắn các đề tài cốt yếu của Tin Mừng của Người: ưu tiên cho người nghèo, giải phóng những kẻ bị giam cầm và những người bị áp bức, cho người mù được thấy. Những từ ngữ này cho thấy Đức Giêsu chiếu cố đến những người thấp hèn. Nhưng các từ ngữ này còn cho thấy rõ hơn nữa các đòi hỏi và các ân huệ của Người: kêu gọi làm tâm hồn nghèo hèn, hứa ban sự giải phóng cho những người tội lỗi đang bị sự dữ khống chế, ban khả năng nhìn cho những ai sẽ đi đến với với đức tin (trong cách giải thích cái nhìn theo nghĩa “thiêng liêng” này, Đức Giêsu trung thành với tư tưởng của Is 29,18-19 và 35,5-6).
Trong Is 61,2, vị ngôn sứ vừa công bố mộtnăm hồng ân, vừa loan báo ngày báo phục; đây là đề tài truyền thống của các ngôn sứ liên quan đến Ngày của Đức Chúa, mộtngày vừa là ngày phán xét vừa là ngày cứu độ. Đức Giêsu không nói đến phán xét. Thật ra sau này Người có ám chỉ nhiều đến phán xét (x. Lc 6,20-26; 9,26; 10,12-15; 11,30-32; 12,8-9; 12,35-48.49-59; 13,23-30; 16,1-8; 17,1-2; 17,22-37; 18,8; 19,11-27), còn ở đây Người chỉ nhìn đến đến sứ mạng trần thế của Người, là “thời gian” ơn cứu độ được ban cho Israel; chính thời gian này được Người gọi là “năm hồng ân của Đức Chúa”, thời gian Thiên Chúa chiếu cố đến dân. Nói tóm, tư tưởng của Đức Giêsu ở đây trong Tin Mừng Lc giống với lời Đức Giêsu loan báo trong Mc 1,15 và Mt 4,17, “Nước Trời đã đến gần”, người ta có thể đi vào Nước Thiên Chúa nhờ sứ mạng của Đức Giêsu. Tuy nhiên, công thức của Lc chính xác hơn: nó phân biệt thời gian hoạt động của Đức Giêsu và thời gian hoàn tất cánh chung; nó xác định chính xác hơn vai trò của Đức Giêsu, các ân huệ và các đòi hỏi của Người.
Tác giả Lc biết rõ là trước sự cố Nadarét này, Đức Giêsu đã hoạt động ở Caphácnaum và ngài cũng cho biết như thế (4,14-15; 4,23; x. Cv 1,8). Nhưng ngài vẫn muốn đặt truyện này vào ngày khai mạc công việc rao giảng của Đức Giêsu và cho thấy chính Đức Giêsu xác định sứ mạng của Người ngay đầu Tin Mừng. Câu truyện đã xảy ra trong mộthội đường: đó là phương pháp của Đức Giêsu (4,15.33.44; 6,6; 13,10); đó cũng là cách thực hành của các nhà truyền giáo trong các xứ sở ngoại giáo (Cv 9,20; 13,3.14.44; 14,1; 17,1.10.17; 18,4.7.19; 19,8). Tác giả muốn cho thấy rằng sứ điệp cứu độ được bao giờ cũng được ngỏ với người Do Thái trước khởi đi từ Kinh Thánh và trong hành vi phụng tự: Tân Ước hoàn tất Cựu Ước.
+ Kết luận
Qua bản văn Lc, ta thấy Đức Giêsu giới thiệu chương trình hoạt động của Người: Người là Đấng Mêsia được giới thiệu ở phép rửa nay xuất hiện trước công chúng như là vị ngôn sứ có quyền năng Thánh Thần; Người sẽ ưu tiên ngỏ lời với những người nghèo, những người chịu đau khổ, những người bị áp bức; Người mang đến cho họ sự giải phóng thiêng liêng, cho họ thấy chương trình của Thiên Chúa. Đối với Israel, sứ mạng trần thế của Người là thời gian ân sủng, mà họ phải tận dụng “hôm nay”. Nay không còn phải là những con người được tha các món nợ và tìm lại được tự do dân sự. Nay chính là Đức Chúa (Yhwh), thân hành đến nơi bản thân Đấng được xức dầu của Ngài, để tha nợ cho nhân loại và giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ sự dữ.
5.- Gợi ý suy niệm
TIỀN NGÔN (1,1-4)
Trong phần Tiền ngôn này Luca sử dụng một thể loại văn xuôi tuyệt hảo trong Hy ngữ – toàn bộ, chẳng hạn chỉ là một câu chuyện nguyên bản – và một từ vựng rất giống với các bản khảo luận Hy Lạp thời đó về nhiều vấn đề khác nhau. Từ đó, Luca muốn nói rõ rằng sách của ông là một tác phẩm có tính cách thời sự dành cho những người cùng thời ông không phải là người Do Thái và dùng những cấu trúc riêng. Do đó, truyền thống Tin Mừng được nâng lên như một tác phẩm văn chương.
Trước hết, Luca tự định vị mình trong tương quan với những người đi trước đã viết trình thuật; những phẩm chất mà ông hy vọng làm sáng tỏ (một thông tin cẩn thận về những gì đã xảy ra từ lúc khởi đầu để viết một trình thuật liên tục) mà theo ông nghĩ là họ còn thiếu – điều đó giải thích công việc của ông. Ít nhất việc này nhằm đến hai nguồn mà Luca sẽ dùng; Tin Mừng của Maccô, chẳng hạn, không ghi lại cuộc sinh hạ của Chúa Giêsu cũng như những lần hiện ra sau Phục Sinh, và một tập hợp những lời của Thầy (nguồn “Q”), dường như trong đó không có một trình thuật nào.
Những người đi trước ông đã kín múc từ truyền thống một thuật ngữ có gốc gác Kinh sư, để chỉ việc lưu truyền bằng miệng các Tin Mừng do các chứng nhân chính thức. Những người này đã thay đổi nếp sống: lúc đầu – Lc 3,23 sẽ chỉ cho thấy từ ngữ chỉ lúc khởi đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu chứ không phải là lúc Ngài sinh ra – họ đã là những chứng nhân mắt thấy tai nghe những hành động và giáo huấn của Chúa Giêsu (đó là nội dung qnt), rồi họ đã trở thành những tôi tớ phục vụ Lời (quyển thứ hai: Công vụ Tông đồ). Luca cho thấy hai mức độ sống này khi kể lại chuyện Matthêu giữa nhóm Mười Hai: nhân chứng mới này được chọn từ những kẻ đã theo Chúa Kitô từ khi Ngài chịu Gioan làm phép rửa cho đến ngày Ngài được nâng lên (Cv 1,21-22). Nhưng ở đây Luca không nhắc đến tên Giêsu, ông thích đặt mình trong một bối cảnh lớn hơn, đó là những biến cố đã được Thiên Chúa thực hiện, qua sứ vụ của Chúa Giêsu nơi chứng tá của các tông đồ.
Như thế Luca tường thuật nhờ bốn đặc tính đã được nên ở trên (một thông tin cẩn thận về tất cả những gì từ lúc khởi đầu để viết một trình thuật liên tục), đó là phong cách riêng của ông. Ông đã có ý cẩn thận lắng nghe truyền thống Giáo Hội và viết một trình thuật liên tục. Liên tục ở đây trước hết không có nghĩa là theo trật tự thời gian đúng hơn phải cho thấy rằng tác phẩm của ông soi sáng cách thức mà Thiên Chúa thể hiện từ biến cố này đến biến cố khác, ý định cứu độ của Người trong lịch sử. Không thể chối cãi rằng Luca có quan tâm đến lịch sử, nhưng khi đã biết các tác phẩm của những sử gia Hy Lạp và Latinh đồng thời với ông, chúng ta đừng đánh giá dự phóng của Luca theo quan niệm ngày nay về việc nghiên cứu lịch sử.
Tất cả các tác phẩm được đề tặng ông Thêôphilê rất đáng kính, một người mới trở lại, gốc ngoại giáo, có lẽ giữ một địa vị quan trọng trong hành chánh La Mã. Mục đích Luca theo đuổi là thuyết phục Thêôphilê về sự vững chắc của giáo lý mà ông đã nhận – bày tỏ một phong cách làm việc rõ ràng có tính cách Giáo Hội.
Tiền ngôn được viết bằng một ngôn ngữ Hy Lạp rất hay. Điều đó cho thấy sự tương phản lớn lao với “Tin Mừng thời thơ ấu”. Để nói lên rằng những biến cố đương thời mà ông kể vẫn tiếp tục lịch sử thánh, Luca đã sử dụng một ngòi bút khác và bắt chước thể văn của bản dịch Thánh Kinh sang tiếng Hy Lạp, tức bản Bảy Mươi. Chúng ta thử tưởng tượng Jean Laconture mô phỏng Bossuet để tả lại thời thơ ấu của De Gaulle… Có những lối mô phỏng thể văn đầy ý nghĩa. Để hiểu Luca, ta cũng phải biết rằng, trong thế giới Hy Lạp thời ông, chỉ có những gì “cổ điển” mới có thế giá, còn những gì “mới mẻ” thì đáng ngờ vực. Hơn nữa, bản Bảy Mươi cung cấp cho Luca từ vựng và những kiểu mẫu tư tưởng để nói về biến cố Giêsu Kitô.
RAO GIẢNG TẠI NAGIARÉT
Gần như được sáng tác hoàn toàn bởi Luca, cảnh rao giảng của Chúa Giêsu trong một thành nơi Người đã được nuôi dưỡng có một tính cách chương trình hóa rất rõ nét; thực vậy, nó loan báo những chủ đề sẽ chiếm một chỗ trung tâm trong toàn bộ Luca-Công vụ.
Phần tóm tắt dẫn nhập (14,15) nói lại một lần nữa việc Chúa Giêsu được trang bị bằng Thần Khí tiên tri, Đấng, sau thời gian ở sa mạc, sẽ dẫn dắt Người trên các nẻo đường của sứ vụ. Nội dung giáo huấn của Chúa Giêsu không được nhắc đến – trong khi ở Mc 1,15 Người rao giảng một cách rõ ràng về Vương Quốc của Thiên Chúa, như vậy lời giảng đại khái đầu tiên của Chúa Kitô sẽ là giải thích lời tiên tri Isaia. Luca sẽ rất thường ghi chú rằng Chúa Giêsu giảng dạy mà không nói nội dung; đó là vì nói lên lời là một hành động, không lệ thuộc vào nội dung. Trái ngược với vị Tẩy Giả, Chúa Giêsu thường giảng dạy trong những nơi chốn và những thời gian đặc biệt gắn liền với công việc này: Chúa Giêsu có thói quen vào một hội đường trong ngày Sabat. Hãy chú ý sự phân biệt khi Luca nói về những hội đường của họ (c. 15); bởi vì vào quãng năm 85-90 khi Luca viết Tin Mừng, thì việc đoạn tuyệt với đối tượng đã tới cao điểm, thẩm quyền Do Thái giáo cấm các Kitô hữu từ nay không được rao giảng khi cử hành nghi thức tại hội đường. Cuối cùng, lần thứ nhất ta gặp chủ đề về danh tiếng của Chúa Giêsu và phát sinh từ lời giảng có quyền uy của Ngài.
Phần thứ nhất của trình thuật (cc. 16-22) diễn tả một phần phụng tự hội đường. Phần này bỏ lời kinh khai mạc và bài đọc thứ nhất trích từ Luật Môsê, để chỉ giữ lại trích dẫn dài của phần hai: sấm ngôn Is 61,1-2, Luca chỉ bỏ một lời đe dọa: “Công bố ngày báo oán của Thiên Chúa chúng ta”… Theo sấm ngôn trên đây, vai trò của sứ giả là loan báo một cách có hiệu quả việc chấm dứt những gì làm cho người nghèo phải đau khổ và những kẻ tàn phế trong cuộc sống, công bố khai mạc một thời kỳ trong đó con người sẽ được Thiên Chúa tiếp nhận. Cấu trúc của các câu 16-20 rất kỹ lưỡng:
(Người) đứng lên
họ trao cho Người cuốn sách
Người mở ra
Gặp đoạn chép rằng (Is 61,1-2)
(Người) cuộn sách lại
trả cho người giúp việc
rồi ngồi xuống.
Như vậy độc giả của Luca, vừa được soi sáng bởi cuộc hiển linh dịp Chúa Giêsu chịu phép rửa, hiểu rất rõ rằng người hùng của Thiên Chúa, được xức dầu bằng Thần Khí, chính là Đức Giêsu và sứ vụ được diễn tả đó là sứ vụ Người sẽ thi hành như được kể trong phần tiếp theo của Tin Mừng Luca.
Tuy nhiên, ngay khi ngồi xuống –ở Palestin khi giảng thì ngồi, nhưng trong các hội đường ở hải ngoại thì lại đứng (Cv 13,16)- Chúa Giêsu giải thích cho người Nagiarét: “Hôm nay, đoạn đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Người không nói rõ ra: “bởi vì Kinh Thánh nói về tôi và các ông có thể thấy điều đó” –cũng như Người không bao giờ nói mình là Đức Kitô hay vị tiên tri. Người cung cấp cho các thính giả các dấu chỉ, nhưng để họ tự do dùng trí thông minh mà đón nhận hay từ chối dấu chỉ được trao ban: Người mời họ nhận cái mới mẻ đã xảy đến giữa họ. Nhưng, tuy tỏ ra tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Chúa Giêsu, những người Nagiarét chỉ nhìn thấy một phương diện của Chúa Giêsu (con ông Giuse); họ không thể nhận ra nơi Người vị Ngôn Sứ cuối cùng mà Is 61 đã ám chỉ.
LỜI TỰA CỦA THÁNH KÝ.
Lời mở đầu Tin mừng của Thánh Luca đưa ra ánh sáng hai ý niệm quan trọng:
Thiên Chúa là nguyên nhân đầu tiên, và việc Ngài đến trong thế gian này là một việc lớn lao nhất, chính yếu nhất trong các chân lý. Ở đây phát sinh một sự kiện hiển nhiên, có thể sờ thấy đuợc, nhờ đó mà tất cả mọi hoạt động của nhân loại và tất cả các sự vật khác có được một giá trị và một ý nghĩa mới mẻ. Đó là những sự kiện cụ thể mà Tin mừng kể lại.
Tiếp đến là chủ ý nói tới những biến cố xảy ra giữa chúng ta, ‘trong môi trường của chúng ta’. Thánh Luca không phải như là một sử gia cố gắng tái lập những biến cố cổ xưa từ nhiều thế kỷ nhờ vào các nguồn mạch. Ngài viết trong chính miền mà những sự việc đã xẩy ra và thuộc về thế hệ chứng nhân của những việc đó.
Những nguồn mạch Ngài múc ra bảo đảm được sự đích thực. Ngài không trực tiếp là Tông đồ hay môn đệ của Đức Giêsu. Ngài cũng chẳng hề được diện kiến Thày hay nghe chính lời Thày. Nhưng những cái Ngài biết, dựa vào những chứng nhân tận mặt, họ làm chứng về những cái họ đã chứng kiến, mà không phải chỉ là đứng ngoài nhìn, nhưng còn được tham gia việc phục vụ Lời Chúa nữa. Nhiệm vụ chính của họ là truyền đạt Tin mừng và tất cả hoạt động của họ đều nhằm vào viễn tượng này. Họ không nói lại lời nào khác mà trao lại ‘lời’, trao lại ‘những lời của Ngôi Lời’, những ngôn từ thần linh nhân loại của Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể.
Thánh Luca đã dùng đến nhiều nguồn khác nhau. Ngoài những bản văn chính lục của Matthêu và Máccô, Ngài còn sử dụng những nguồn khác và hơn thế, Ngài đã dùng một số lớn những bằng chứng khẩu truyền. Một khi biết được sự chính xác của trí nhớ người Phương đông cổ xưa, người ta sẽ hiểu được những chuyện kể truyền khẩu được quy định nhanh chóng trong một hình thức cố định được truyền lại hết sức là chính xác.
Cuối cùng, chính Thánh Luca là con người được coi là chắc chắn. Ngài chú trọng đến tất cả những gì được cung cấp từ nguồn ngọn, Ngài không phải là con người dễ tin và nhẹ dạ: là người Hy lạp và là thày thuốc, Ngài là một quan sát viên biết cân nhắc, có tài đánh giá thực tại, không ưa những chuyện mơ mộng và huyền hoặc. Ngài không hài lòng với việc chỉ nhắc lại cái chính yếu thôi, nhưng nhấn mạnh tới các nguồn mạch. Tin mừng của Thánh Luca không bắt đầu như Thánh Máccô bằng cuộc đời công khai của của Chúa Giêsu. Nhưng hơn ai hết, Ngài thuật lại với nhiều chi tiết, những khởi đầu của một sứ điệp lạ lùng: truyền tin, giáng sinh và hơn thế nữa sự mong đợi và sinh nhật của Vị Tiền hô.
Cuối cùng, Ngài quyết định ‘cứ tuần tự’ kể lại các biến cố, không phải kéo dài từ đầu chí cuối mà sắp xếp theo một lược đồ rõ rệt, một tổng hợp gồm nhiều yếu tố được thích ứng một cách rành mạch, hợp lý.
Như vậy, dưới cái nhìn thế trần, Tin mừng theo Thánh Luca đã làm thành một văn phẩm chính xác. Còn với các tín hữu, chúng ta chỉ biết dưới những lời này Thần Khí Thiên Chúa, Đấng linh ứng cho tác giả Tin mừng, tuy dấu mình, chính Thần khí này là tác giả thực sự của Tin mừng, Đấng ban cho chúng ta niềm chính xác hoàn toàn do sự thật bất-khả-ngộ.
Vậy hình ảnh Đức Kitô đây mới là dung mạo của Đấng Cứu đời đích thực. Đức Giêsu chữa cả xác lẫn hồn. Qua các cuộc tranh luận, chiến đấu hay qua đau khổ, tử nạn và sống lại hoặc qua sự thảm bại hay chiến thắng, tất cả đều được biến đổi dưới sự từ tâm sáng ngời đầy nhân đạo và lòng bác aí của Ngài.
Thánh Luca không phải là một dân thường như Thánh Máccô hay một nhà tranh luận học thức như Thánh Matthêu, hoặc một thần học gia và một nhà thần bí như Thánh Gioan, nhưng là một y sĩ, hiểu được nỗi thống khổ của con người và sự trợ giúp của Thiên Chúa, hiểu được bệnh tật và việc chữa trị được tội lỗi và ơn tha thứ.
Thánh Luca là người Hy lạp, là dân ngoại chứ không phải là Do thái. Vì thế sứ điệp của Ngài đã làm nổ tung những khuôn khổ chật hẹp của người Do thái. Cái nhìn của Ngài bao gồm cả nhân loại, chân trời của Ngài rộng như vũ trụ. Ngài nhấn mạnh tới yếu tố mới mà Chúa Giêsu đem đến, đó là Tân ước và việc tạo dựng một dân mới của Thiên Chúa; Lời mời gọi được trao đến tất cả mọi người như đã âm vang tới cả hoàn vũ, đến nỗi Giáo Hội phổ quát trở thành công việc của Đấng cứu độ toàn cầu.
Lời tựa ngắn gọn và trọng yếu này thực sự sửa soạn cho yếu tố cấu thành nên mục đích và nguồn gốc của Tin mừng theo Thánh Luca. Vì thế nó cho thấy nơi tác giả thái độ trí thức xứng hợp và việc chuẩn bị nội tâm.
Chúa Giêsu tới, đòi hỏi một sự thay đổi toàn bộ cả bên ngoài lẫn bên trong.. Con người sẵn sàng đáp ứng đòi hỏi đó nếu nó dựa trên sự chính xác và mở rộng ra được những viễn tượng lớn lao và rộng rãi. Mục đích, đặc tính của Tin mừng Luca đã bảo đảm được cả hai điểm đó.
TRỞ VỀ GALILÊ
Trước khi thuật lại một giai đoạn quan trọng trong việc giảng Tin mừng ở Galilêa, Thánh Luca đã viết một dấu nhập nhắn làm nổi bật tất cả hành năng của Chúa Giêsu trong giai đoạn này.
‘Chúa Giêsu trở về Galilêa’. Điều này tự nó không hiển nhiên. Hoạt động có tính cách chờ mong Đấng Messia đã được Gioan Tẩy giả mở đầu ở xứ Giuđêa; như vậy, khởi đầu công cuộc giảng Tin mừng ở đó hợp lý biết bao.
Hơn nữa, Chúa Giêsu còn được chuẩn bị để đi vào xứ này bằng bao biến cố xảy ra bên bờ sông Giođan, vì xứ Giuđêa với thủ phủ là Giêrusalem, quê hương riêng của dân Thiên Chúa. Chính ở đây có đền thờ, ở đây các lễ hy sinh được dâng tiến và muôn dân tuôn về đó, ở đây người ta thấy có giai cấp tư tế, các trường phaí bác học và rồi truyền thống các tiên tri cũng được lưu giữ ở đây.
Thế nhưng, trái với sự mong chờ, Chúa Giêsu lại trở về Galilêa. Sau này, Ngài mới lên Giuđêa, ở đó Ngài sẽ đương đầu với các thù địch, sẽ hiến mạng sống mình làm lễ hy sinh và kết thúc công trình cứu độ của Ngài. Nhưng giờ ấy chưa đến.
Trước hết, Ngài muốn thư thả để tiếp tục loan báo Nước Thiên Chúa, đặt nền móng cho Giáo Hội, thu họp những người tin. Ngài thấy xứ Galilêa có số dân chúng sẵn sàng hơn. Nước Thiên Chúa là một hồng ân: vì thế, những người quyền cao chức trọng, những người giàu có, những đầu óc kiêu căng không thể chấp nhận được. Họ ngỡ rằng mình có thể giúp mình được rồi; kẻ tự tin ở sức riêng mình đâu có hy vọng nơi Đấng Cứu Chuộc. Kẻ câỵ dựa vào sức lực riêng mình, thì không biết chuẩn bị để đón nhận ơn sủng.
Từ đây, những nét chính trong bố cục Tin mừng của Thánh Luca đã lộ ra. Xứ Galilêa là điểm khởi hành. Những phân chia chính yếu trong cuốn sách Thánh này được sắp xếp theo những nơi chốn địa dư: phần thứ nhất diễn biến trong xứ Galilêa, phần thứ hai trên đường từ Galilêa đến Giuđêa, phần thứ ba ở ngay trong xứ Giuđêa.
Bên trong hai miền trên, Thánh Luca xen lẫn và phối trí theo một mức độ nào đó, một loạt các biến cố theo thứ tự niên biểu, nhưng chỉ phác hoạ những nét chính, vì đó bao giờ cũng là sự liên tục có tính cách luân lý hơn là vấn đề niên biểu.
‘Trong quyền năng của Thánh Thần. Cũng một Thần trí đã đưa dẫn Chúa vào chốn cô tịch, bây giờ lại đưa dẫn Ngài đến giữa loài người. Điều này có ý nói Chúa Giêsu hoàn toàn để cho Thần trí hướng dẫn.
Ai muốn hướng dẫn đời mình chỉ bằng những ý tưởng của riêng mình, và tin tưởng ở cảm hứng của mình thì sẽ không tìm được vị thế đúng đắn của mình trong trật tự cao sang và thánh thiện của Thiên Chúa. Còn người nào biết cầu nguyện, mở cửa lòng mình đón nhận những sự trên cao, hẳn được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn, dầu trong cảnh tĩnh mịch hay giữa lòng đại chúng. Chúng ta đã đánh mất tâm tình sẵn sàng để được dẫn dắt như thế, đó là căn cớ của mọi hỗn độn, vô trật tự.
Thánh Thần Thiên Chúa đồng thời cũng tượng trưng cho mầu nhiệm riêng tư thâm tình nhất của Chúa Giêsu. Ngài hoàn toàn thấu suốt bí nhiệm đó, hành động và quyết định của Ngài.
Tin mừng nói về sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Những lời giảng mạnh mẽ của Chúa Giêsu, sức mạnh của các phép lạ Ngài làm hết thảy đều phát xuất từ nguồn phong phú mãnh liệt là Thánh Thần Thiên Chúa. Từ ngữ Hy lạp ‘dunamis’ gồm có ý tưởng chuyển động. Ở đâu Thần trí Chúa hoạt động, ở đó hẳn sẽ có chuyện lạ. Đây không phải là sự yên nghỉ suông, mà là một hoạt động đang trên đường đi đến hiện thực.
Những khả năng thực hiện việc lớn, khả năng sáng tạo của Thánh nhân không thể đem đồng hoá với hoạt động bên ngoài; đó là một năng động, một năng động tính thực sự, kín múc từ trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Nhiều vị thánh nhân xác yếu đuối, dễ bị bệnh tật, thế nhưng sức làm việc của các Ngài chưa chắc người khoẻ mạnh cường tráng có thể theo đuợc. Sức mạnh của các Ngài là sức mạnh của Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng muốn làm những việc vĩ đại bằng những công cụ mỏng dòn.
‘Tiếng tăm Ngài lan ra khắp miền xung quanh’. Vẻ tĩnh mịch của làng Nagiarét, sự cô tịch của vùng hoang địa từ nay thuộc về quá khứ. Chúa Giêsu đã xuất hiện giữa con người. Sứ điệp của Ngài không còn chi bí mật cả: tiên vàn lời kêu gọi được chuyển từ làng này qua làng kia, sau được truyền từ xứ này qua xứ nọ và rồi từ dân này tới dân khác.
Viên đá được ném xuống mặt hồ: những gợn sóng, những vòng đồng tâm cứ lan rộng cho đến khi đụng vào ngưỡng cửa của vĩnh cửu. Một âm điệu mới đã vang lên và sẽ chẳng bao giờ ngưng đọng nữa dù là trong thời gian, dù là trong thế giới bên kia.
Sự lan tràn của Tin mừng này ngay từ khởi đầu, công cuộc giảng phúc âm ở Galilêa đã mang lại cho lần xuất hiện đầu tiên của Chúa Giêsu trước quần chúng một tính chất mạnh mẽ vô địch, một vẻ tươi mát của mùa xuân, của giọt sương mai và niềm vui khi hừng đông xuất đầu lộ diện. Một đàng người ta cảm thấy có sự trao ban, một đàng là sự đón tiếp đầy nhiệt tình hoan hỷ. Những dân cư khiêm tốn, quê mùa, những ngư phủ mộc mạc tỏ ra rất sung sướng vì có một vị tiên tri xuất hiện giữa họ, xuất thân từ giai cấp họ; một người hiểu được họ, biết được nếp sinh hoạt của họ, chia sẻ số phận của họ, đồng thời lại cao cả hơn họ, nói năng rõ ràng, hướng dẫn sáng suốt và hành động vì lòng thương yêu.
‘Ngài giảng dạy trong các hội đường của họ’. Chúa Giêsu còn dạy dỗ ở nhiều nơi khác nữa: ở bờ hồ, trên triền núi, trong tư gia; nhưng tiên vàn Ngài năng dạy dỗ trong các hôị đường, bởi chính ở nơi đây, dân chúng tụ tập lại để nghe đọc lề luật và các tiên tri.
Đối vời giáo lý của Thày, lề luật và các tiên tri tượng trưng cho điểm gặp gỡ bề ngoài lẫn bề trong. Nhưng trước hết nhấn mạnh đến giáo huấn. Đấy không phải là điểm quan trọng nhất trong cuộc đời Chúa Giêsu. Cái chết và Phục sinh của Ngài còn vĩ đại hơn nhiều. Nhưng dầu sao, nếu giáo huấn có được đặt lên hàng đầu thì cũng là để chứng tỏ giá trị của Lời giảng.
Ngài tỏ mình ra như một tiến sĩ luật, bởi vì Ngài công bố quan niệm đúng đắn về luật cũ và về luật mới của Tin mừng.
Chúng ta luôn phải lắng nghe Lời Thiên Chúa để khỏi bị những lời của nhân loại dẫn vào mê lộ. Chính Lời của Thiên Chúa, giáo lý của Chúa Giêsu, chứ không phải khoa học, sẽ giúp giải quyết những bí ẩn tối hậu, và giải đáp những vấn đề thâm sâu nhất.
‘Ai nấy đều ca tụng Người”. Con người của Ngài, cách Ngài nói, cách Ngài tỏ mình, thái độ, hành năng của Ngài có một cái gì hấp dẫn khó cưỡng lại được. Ai lắng nghe Ngài mà lòng không thành kiến và nội tâm không chai đá thì hẳn phải thán phục và mến yêu Ngài. Vì Ngài có sức bắt buộc phải chọn lựa. Quần chúng xôn xao, nọi người và mỗi người phải chọn lựa cho mình một thái độ theo hay không theo, không ai được kính nhi viễn chi, dửng dưng, trung lập… Một sự hồ hởi nổ tung. Đây là phản ứng đầu tiên. Từ từ sự chống đối manh nha và rồi lớn mạnh thành cả một mặt trận phản kháng. Nhưng ở khởi đầu, thì chỉ có một đám đông dân cư vui mừng hoan hỉ. Mọi người đều vang tiếng hát bài ca mới; Người ta nói đến cuộc khởi hành mới… Thần khí của Chúa Giêsu Kitô làm phát sinh nhiệt tình phấn khởi.
Bằng vài lời đó, công cuộc rao giảng Tin mừng ở Galilêa được phác hoạ như là một giáo lý và hành năng có sức mạnh lớn lao, một khơi động niềm vui và là công trình của Chúa Thánh Thần.
NAGIARÉT
Theo Thánh Luca, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ chính thức ở Nagiarét. Thánh ký không muốn nói rằng Chúa Giêsu giảng ở đó lần đầu, vì Ngài có nói đến bản văn viết về Chúa đã giảng dạy ở Caphanaum. Nhất là vì Thánh Luca muốn chứng tỏ bằng một thí dụ, và ngay từ đầu cuộc sống công khai của Chúa Giêsu cho thấy lý do hành năng của Ngài đã gây ra sự phân cách, người chấp nhận, kẻ từ bỏ.
Vì thế, quang cảnh tả ở đây cấu thành một thứ lời tựa và mở đầu cho hoạt động của Chúa ở Galilêa, nhờ việc khai triển trình thuật đó cùng với bầu khí của nó.
NHIỆT TÌNH ĐÓN NHẬN.
Trong hội đưỡng, khi hai bài đọc về lề luật và tiên tri chấm dứt, thì một cử toạ có thể đứng lên chú giải bản văn, hoặc là giải thích, hoặc là đưa ra bài giáo huấn xây dựng. Chúa Giêsu cũng làm như thế. Ngài bảo người ta đưa cho Ngài cuốn sách tiên tri Isaia, Ngài đọc bản văn Ngài đã chọn rồi ngồi xuống để giáo huấn. Mọi người chờ đợi với sự kinh ngạc khôn tả. Chúa Giêsu chưa làm gì ở Nagiarét khiến người ta chú tâm đến Ngài. Ngài cũng chẳng là một Ra-bi đã từng tra cứu sách này sách nọ… Bỗng dưng người ta nghe đồn Ngài đã khởi sự giảng dạy trong những thành khác ở xứ Galilêa.
Đây là lần đầu tiên Ngài trở về ngôi làng nơi Ngài sinh trưởng, nơi mà ai nấy đều biết Ngài tỏ tường. Ngài sắp nói gì đây?. Trong bản văn Ngài vừa đọc, tiên tri Isaia mô tả thời cuối cùng kết thúc cuộc lưu đày và mở đầu cho một thời kỳ huy hoàng tương lai, thời kỳ Đấng Cứu Thế xuất hiện. Với một vẻ đơn sơ nhưng trang trọng, Chúa Giêsu đã áp dụng những lời tiên tri vào chính bản thân Ngài cách rất tự nhiên: ‘Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh thánh mà tai các ngươi vừa nghe’.
‘Thánh Thần Chúa ngự trên tôi’. Nếu ai có thể nói được điều đó thì hẳn phải là Chúa Giêsu. Không phải Ngài chỉ xem thấy Thần khí ngự xuống trên mình dưới hình thức mắt trần xem thấy được khi chịu phép rửa ở sông Giođan, đến độ nói theo loài người thì hiển nhiên Ngài đã được tràn đầy Thần Linh Chúa. Nhưng nhờ sự kết hợp bản tính Thiên Chúa với bản tính nhân loại nơi một chủ vị, Ngài còn tràn đầy Thần Linh Thiên Chúa đến độ Thần Linh đồng hoá với Thần Trí của Ngài tự nhiên và ngự lại ở trên Ngài không phải trong chốc lát nhưng là cách chủ yếu và thường tồn. Hơn ai hết, Ngài tỏ ra là một người của Thiên Chúa và một người thiêng liêng.
‘Người đã xức dầu cho tôi’. Chúa Kitô là dầu tuyệt hảo bởi vì Ngài trổi vượt hơn hết thảy mọi tiên tri, và tỏ mình ra cả về phần Thiên Chúa lẫn phần riêng của Ngài, như chưa từng có vị nào trong số các tiên tri đã làm. Ngài là Lơì của Thiên Chúa đã nhập thể; vì là Dầu, nên Ngài là Vua trên hết các vua, là Đấng Thống trị tối cao, bởi vì Nước của Ngài là Nước Thiên Chúa, Đấng không hề biết giới hạn là gì cả về không gian lẫn thời gian. Ngài là vị Tư Tế đã được hiến thánh bởi vì xét như là Người-Chúa, là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, một hiến lễ của Ngài đã có giá trị mang lại hiệu quả và ý nghĩa cho mọi hiến lễ khác. Ngài là Đấng Messia dân Israel mong đợi, nay đã đến rồi.
‘Người đã sai tôi’. Một ơn gọi trong Tôn giáo bao giờ cũng kèm theoi một sứ mạng Xức dầu không phải để cho riêng ngươì-được-xức-dầu, nhưng là cho những người mà vị này được phái tới. Tự căn bản, Chúa Giêsu là Đấng được sai đi. Sứ vụ của Ngài là một sự kéo dài việc Ngài sinh ra từ Thiên Chúa: Đấng xuất phát từ Cha qua việc nghĩa tử nay đi vào trần gian để đưa dẫn thế gian về với Cha. Cốt tuỷ của sứ vụ Ngài là như thế đó.
‘Đem Tin mừng cho người nghèo khó’. Đây là những người nghèo khó về vật chất, nhưng trước hết là những người nghèo về phần thiêng liêng. Chỉ có ai ý thức được sự khốn khổ của mình mới biết chuẩn bị đón nhận ‘Tin mừng’ ban phát ân sủng. Chúa Giêsu biết không được sai đến với những kẻ ngỡ rằng mình đã đầy đủ rồi, nhưng là đến với những người đau khổ vì hoàn cảnh của bản thân mình và hoàn cảnh của trần gian. Đối với những người này sứ điệp của Ngài thực là một Tin mừng.
‘Loan truyền sự giải thoát cho kẻ tù đày’. Tù đày bề ngoài ở Babilon, rồi được trở về tự do chỉ là một dấu chỉ phớt qua của ý định lớn lao này: ‘giải phóng con người khỏi ách tù đày bề trong do tội lỗi và quỷ ma trói buộc. Nói theo nghĩa chặt, đây mới chính là tù đày và giải phóng. Chúa Giêsu là một chiến sĩ giải phóng vĩ đại nhất của loài người. Vì thế tự do là một trong những chân lý chủ yếu, là một trong những yếu tố căn cơ của sứ điệp Kitô giáo. Ở đâu người ta không còn cảm thấy hơi hướng của tự do này, ở đó câu nệ hình thức, lo âu, sợ hãi một lần nữa lại làm cho mọi sự tê liệt, Tin mừng bị bóp méo ngay từ trong bản chất của nó.
‘Cho người mù được thấy’. Ở đây cũng lại có ý chí sự mù loà nội tâm, sự tối tăm nghi hoặc đối với những vấn đề trọng đại, đêm đen của tâm hồn vì xa cách ánh sáng Thần Linh. Chúa Kitô soi chiếu trần gian. Nhờ Ngài ánh sáng bừng lên trong tâm trí người đi tìm kiếm; soi sáng tâm hồn bị áp bức, soi sáng đêm đen tội lỗi. ‘Người mù loà được xem thấy’. Đức Kitô chỉ cần đụng tay là ánh sáng trở lại với người mù: đây là dấu chỉ mãi mãi mới mẻ về sự soi sáng thật mà Chúa Kitô đã mang đến cho những ai bị mù loà phần linh hồn.
Nhờ ánh sáng mạc khải, ánh sáng của lý trí sẽ trở nên ánh sáng có bản chất đặc biệt cho đến khi nó rạng soi trong ánh sáng vinh quang, không còn pha lẫn chút tăm tối nào nữa. ‘ánh sáng của lý trí’, ‘ánh sáng của mạc khải’ và ‘ánh sáng của vinh quang’ rốt cuộc đều là hoa trái của ‘Ánh Sáng Chúa Kitô’.
‘Trả tự do cho kẻ bị áp bức’. Đức Kitô đứng về phía những người yếu, phía kẻ cô thế, bị bóc lột, áp bức. Sứ điệp của Ngài có tính cách xã hội. Nhưng, ở đây còn có một cái gì thâm thuý hơn. Quyền lực ma quỷ, Satan, áp bức và đe doạ tâm hồn. Một sự áp bức đè nặng con người và làm cho cuộc sống bị bất ổn. Satan là thủ lĩnh thế gian: đó là lý do tại sao Kitô giáo là một cuộc cách mạng tôn giáo, vì nó lật nhào kẻ muốn chiếm đoạt địa vị không thuộc về mình; thay vào đó là quyền năng tối cao của Thiên Chúa, không áp bức nhưng giải phóng.
‘Loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa’. Hừng đông của thời kỳ vĩ đại của ơn cứu độ mở đầu với việc Đức Messia đến. Tất cả mọi năm hoan hỷ của Israel chỉ là điềm báo cho thời tương lai này, thời mà sự vui mừng vô tận phát sinh từ âm hưởng của Tin mừng.
Như thế, khi áp dụng những lời tiên tri vào bản thân mình, Chúa Kitô mô tả con người và sứ vụ của Ngài bằng những từ ngữ đơn sơ nhưng uy nghiêm đến độ dân chúng nín thở, hồi hộp lắng nghe và cảm kích. Họ ngạc nhiên về sự kiện Ngài dạy dỗ, con người chưa bao giờ học hành ở đâu cả; họ kinh ngạc về cách Ngài dạy dỗ, hoàn toàn khác với lề thói của các thày dạy lề luật họ đã quen; và họ bị những điều Ngài giảng dạy hấp dẫn, vì đây là sứ điệp ban ơn cứu độ, ánh sáng, sự trợ giúp và tự do.
Theo sau Lời Chúa Giêsu giải thích là một hồi thinh lặng. Cử toạ nói với nhau, trao đổi cảm tưởng. Trước hết đây là một sự lôi cuốn pha lẫn vui mừng, rồi lần lần có nhiều tiếng nói khác nổi lên, trước tiên là tiếng của các luật sĩ có mặt trong buổi họp ấy. Bầu khí từ từ đổi thay, rồi biến đổi hẳn. Phần thứ hai trong hoạt cảnh này diễn biến theo một chiều hướng hoàn toàn ngược hẳn.
Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta
Luca khi viết Tin Mừng đã có những người đi trước ngoài. Lúc đó Máccô đã viết Tin Mừng của mình và Luca đã có biết bởi vì ngài đã sử dụng và đôi khi theo khá sát Tin Mừng của Máccô.
Nhưng rõ ràng là có nhiều cách để soạn thảo về cùng một đề tài. Vả lại, không phê phán những người đã viết trước mình, Luca đề ra cho mình cách viết khác, theo phương thức và với những điểm nhấn mạnh của riêng ngài.
Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta
Do đó, như chúng ta, Luca thú nhận mình là một người đã không “thấy” Đức Giêsu: Ngài là một Kitô hữu thuộc “thế hệ thứ hai”. Nhưng vì sống rất gần với các biến cố của Đức Giêsu nên ngài đã điều tra… và nhận trách nhiệm truyền đạt lại (đó là Truyền thống) những gì chính ngài đã nhận được. Phần tôi, có phải tôi cũng là một mắt xích truyền đạt Đức Giêsu từ thời này qua thời khác không?
Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc
Luca thừa nhận ý định dạy giáo lý của mình một cách rõ ràng: Người muốn làm cho đức tin của người đọc được vững chắc. Tin Mừng không phải là một điều hư cấu, một huyền thoại. Tin Mừng rất nghiêm túc. Theo gương của Thánh Phaolô, thầy mình, và nhắm đến dân ngoại cải giáo (không phải là người Do Thái), Luca sẽ đề cao một số khía cạnh và giảm nhẹ một số khía cạnh đặc thù của người Do Thái. Tác phẩm của ngài được linh hứng. Nhưng sự Linh hứng của Thiên Chúa không loại trừ vai trò bình thường của các khả năng con người, của các tài năng, của việc tìm tòi của tác giả. Tin Mừng của Thánh Luca là một Tin Mừng độc đáo. Chúng ta hãy tiếp nhận nó như thế.
Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận
Suối nguồn nội tâm của Đức Giêsu chính là Chúa Thánh Thần. Luca sẽ không ngừng lặp lại điều đó: Được thụ thai bởi Chúa Thánh ‘Thần (Lc 1,35)… mặc lấy Thần Khí của phép rửa tội (Lc 3,22)… được Thần khí dẫn đưa (Lc 4,l-4,14-4,18)… Nói theo cách của con người, người ta có thể tưởng tượng Đức Giêsu trong sự kết hiệp không ngừng với Đấng vô hình bằng một thứ cầu nguyện liên tục: Người không làm điều gì bởi chính Người. Người sẽ nói như thế (Ga 8,28). Trong Người, về một Hơi Thở là hơi thở của chính Chúa Cha. Trong Người, có một “người nhắc” nói với Người mọi việc Người làm trong sự tự do tuyệt đối. Tôi cũng thế, tôi hãy để cho Thần Khí dần đưa tôi.
Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh
Hơn các thánh sử khác, Luca thường cho biết rằng Đức Giêsu “giảng dạy trong các hội đường” (Lc 4,15; 16,31; 6,6; 13,10) hoặc trong Đền thờ (Lc 19,47; 20,l; 2l,37). Giảng dạy trong hội trường trước hết có nghĩa là chú giải Cựu Ước. Đôi khi chúng ta tự hỏi nội dung các bài giảng của Đức Giêsu là gì. Người mở rộng, đi vào chi tiết, chú giải Kinh Thánh. Tin Mừng của Đức Giêsu, trong sự mới mẻ của Người, dựa vào các lời hứa: của Kinh Thánh một cách sâu xa. Việc Công Đồng đưa Cựu ước vào bài đọc thứ nhất mỗi chủ nhật là một sự đổi mới tìm về một truyền thống cổ xưa! Nhờ có Công Đồng, chúng ta thực hiện lại điều Đức Giêsu đã làm.
Rồi Đức Giêsu đến Nagiarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi
Là Đấng Mêsia của những người nghèo khó, Đức Giêsu không lập dị. Người đến rao giảng không phải ở Giêrusalem, thành phố của các vua và các Thượng Tế; nhưng trong một tỉnh xa xôi và bị coi thường “vùng Galilê của dân ngoại” (Mt 4,15), vùng đất của những người phận nhỏ và nghèo khó. Là Đấng Mêsia và là tư tế, Đức Giêsu không lên Đền Thánh để cử hành các nghi thức thờ phượng, các hy tế, nhưng Người vào trong một Hội đường ở làng quê, nơi khiêm tốn để cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa, mà tất cả lời Chúa đều tập trung trên sách thánh. Như thế, Người biểu lộ chức tư tế của Người trước hết thuộc bình diện ngôn sứ. Ngày nay cũng thế, trước tiên chúng ta hiệp thông với Đức Giêsu trong phần đầu tiên này của thánh lễ mà người ta gọi là “phụng vụ Lời Chúa”. Đó không phải là một phần nhập đề phụ thuộc và tùy thích. Thánh lễ đã bắt đầu. Đức Giêsu đã “thánh hiến” một lần duy nhất trong cuộc đời Người vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Nhưng Người đã dùng lời” nhiều lần: “Đó là chức tư tế của Người. Thánh Phaolô đã hiểu rõ điều ấy khi ngài được Đức Giêsu Kitô ban ân sủng làm người phục vụ Đức Giêsu Kitô lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa (Rm 15,16). Cuốn sách mà Đức Giêsu, ngày hôm đó mang theo, mở ra và đọc luôn trường tồn. Tôi có cuốn sách ấy trong nhà tôi không? Tôi có dành thời gian để đọc không? Kinh Thánh có là một phẩm đặc biệt trong việc đọc sách của tôi không? Gặp đoạn chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”. Vì thế Đức Giêsu đã xác định sứ mạng của Người là một sứ mạng của ngôn sứ. Trong ngôn ngữ của Israel, những lời ấy có nghĩa: Tôi là ngôn sứ, tôi được Thiên Chúa gọi đến để nói nhân danh Người, để nói sứ điệp của Người. Và Đức Giêsu đặt mình dưới sự bảo trợ của ngôn sứ lớn nhất Isaia. Qua thủ bản Qumram, người ta biết được rằng ngôn sứ Isaia là một ngôn sứ được sử dụng nhiều nhất vào thời. Đức Giêsu: Thủ bản cổ thất thế giới rõ ràng là các cuộn da, đã được tìm thấy trong một: hang động cách nay vài năm và được bảo quản trong Viện Bảo Tàng Kinh Thánh, ở Gìêrusalem, và trên đó là toàn bộ bản viết tay sách Isaia. Như một sự tình cờ, một tài liệu duy nhất thuộc loại này trong toàn bộ văn chương thế giới đến được với chúng ta vào giữa thời kỳ hiện đại. Phải chăng chỉ do sự tình cờ? Chúng ta xúc động nhận rằng Đức Giêsu đọc sách Isaia đó.
Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi
Chúng ta hãy nhận xét thêm một lần nữa từ “xức dầu” được gọi là “chrisma” trong tiếng Hy Lạp, và Đấng được xức dầu được gọi là “christos” do đó mới có danh hiệu Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là Đấng được Thần Khí: Thiên Chúa xức dầu, thâm nhập và thấm nhuần như dầu thấm vào cơ thể. Nơi người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện một cách cụ thể (Côlôsê 2,9).
Để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Những từ “loan báo Tin Mừng” dịch từ một động từ Hy Lạp: euaggehsasthai có nghĩa là “truyền bá phúc âm”. Isaia đã viết ra từ ấy, mang đến niềm hy – vọng bao la gởi cho những. người bị lưu đầy ở Babylon để loan báo Tin Mừng họ được giải phóng (Is 52,7-61,1). Tin Mừng chính là sự’ “giải phóng”… và sự “phục hưng” Giêrusalem. Nhưng một thất vọng to lớn sẽ tiếp nối những loan báo mang tính ngôn sứ của Isaia. Những người “nghèo hèn” tiếp tục bị đàn áp, và bất hạnh. Dần dần, từ “nghèo hèn” trong Kinh Thánh bắt đầu gợi ra không chỉ một điều kiện khó khăn về kinh tế hoặc xã hội, những còn là thái độ nội tâm của người nào còn tìm được chỗ dựa nơi con người khi đối diện với những kẻ quyền thế của thế gian nên phải quay về Thiên Chúa. Luca đặc biệt thích nhấn mạnh đến chủ đề này: Thiên Chúa đã đặc biệt thi ái “những kẻ nghèo hèn “…
Còn bạn là anh chị em tôi, bạn cảm thấy mình bị loại khỏi hạnh phúc theo kiểu của thế gian, bạn là người mà Lời Đức Giêsu nhắm đến trước tiên. Có một hạnh phúc khả dĩ dành cho bạn: Bạn hãy tìm hạnh phúc đó bên cạnh Thiên Chúa.
Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa
Tùy theo tính khí, người ta sẽ còn tiếp tục giải thích bản văn này theo hai hướng trái ngược nhau, nếu như người ta không chịu chấp nhận cả hai: Vấn đề là sự giải phóng vật chất, chính trị và nhân bản… kẻ bị giậm cầm, người mù và người bị áp bức?… hay vấn đề là một sự giải phóng tâm linh hơn?
Chắc chắn rằng Đức Giêsu đã không mở cửa tất cả các nhà tù, không chữa lành mọi người mù và bệnh tật, đã không từ bỏ mọi áp bức khỏi hành tinh chúng ta. Hỡi ôi như thế chẳng hóa ra là một lời hứa vô ích, lừa phỉnh sao? Tuy nhiên trước hết người nghèo hèn động ở hàng đầu tiên để chờ đợi sự giải phóng về vật chất cho họ. Có lẽ chính chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu sẽ có tội nếu chúng ta không “thực hiện” lời tiên tri ấy. Chúng ta phải làm gì để giải phóng anh em chúng ta? Để làm giảm nhẹ những người bệnh tật? Nhưng cũng chắc chắn rằng sự áp bức tệ hại nhất là sự nô lệ nội tâm mà tội lỗi tạo ra trong chúng ta. Từ được dịch ra ở đây bằng từ “giải phóng” hay trả lại tự do chính là từ “aphésis” cũng có nghĩa là “tha thứ” (Lc 1,77-3,3-24,47; Cv 2,38,5,31 v.v…) Vâng, lạy Chúa, xin giải phóng chúng con xin tha thứ chúng con! ôi! trong tầm hồn con, có sự nô lệ khủng khiếp đó, khi con trở nên tù nhân của xác thịt con, của thù hận, tiền bạc, tiện nghi, khoái cảm! Sự giải phóng mà Đức Giêsu đã hứa cũng dành cho chính con.
Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”
Ngày nay ở thế kỷ 21, điều đó có liên quan gì với tôi? Thánh Luca sử dụng mười hai lần tiếng “hôm nay” mầu nhiệm và trang nghiêm ấy, trong Tin Mừng của Ngài; từ “Hôm nay” đã sinh ra cho anh em một “Cứu Chúa” cho đến “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” lúc Người bị treo trên thập giá. (Lc 2,11; 3,22; 4,21; 5,26; 12,28; 13,32; 13,33; 19,5; 19,9; 22,34; 22,61; 23,43).
“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Vì là người ngoại đến với đức tin Kitô giáo, Luca đã không được biết Đức Giêsu nhiều. Bởi vậy, trước khi viết về Đức Giêsu, Luca đã muốn “cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự” và cố gắng căn cứ vào những nguồn tài liệu có giá trị, để cho tác phẩm của mình hữu ích và có nét độc đáo đối với phần đông độc giả là những người cũng từ ngoại giáo trở lại như ngài, mà điển hình là “ngài Thêôphilê đáng kính “.
Nếu Luca có ý “tuần tự viết ra câu chuyện” thì không phải là viết theo cách thức những nhà nghiên cứu lịch sử ngày nay vốn quan niệm, mà chỉ là để phục vụ và hỗ trợ cho một suy tư thần học mà thôi, như ngài sẽ nói lên điều đó trong các phẩm thứ hai của mình. Dự tính của Luca là chỉ muốn kể lại việc Thiên Chúa mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin như thế nào” (Cv. 14,27). Vì thế tác phầm của Luca gồm hai cuốn sách trình bày chương trình cứu độ về mặt lịch sử và cũng cả về mặt địa lý nữa.
– Chương trình cứu độ xét về mặt lịch sử:
+ Sau thời kỳ LỜI HỨA
+ thì đến thời kỳ THỰC HIỆN
Với thời Chúa Giêsu, Thần Khí xưa đã tác động các ngôn sứ, thì nay càng tỏ hiện tràn đầy trông ngôn ngữ và hành động của Đức Giêsu.
Với thời của Giáo hội, thời của Thần Khí được thông ban tràn đầy qua Đức Kitô phục sinh.
– Chương trình cứu độ về mặt địa lý được diễn ra chung quanh Giêrusalem.
+ Giêrusalem, nơi mọi sự bắt đầu với lời Sứ thần báo tin cho ông Dacaria ở trong Đền thờ, sẽ là thành đô cho Đức Giêsu lên đó để sống trang sử “xuất Hành ” của Người và cũng là nơi, như cuối Phúc âm Luca có ghi, để các Tông đồ ngày ngày sẽ lên Đền thờ mà chúc tụng Đức Giêsu như là Đức Chúa phục sinh (Phúc âm theo thánh Luca). Sách Tin Mừng của Luca mở đầu từ trong Đền thờ thì cũng kết thúc ở đây.
+ Giêrusalem, nơi mọi sự bắt đầu với biến cố Thăng thiên, cũng sẽ là thành đô để từ đó các người phục vụ Lời Chúa sẽ bung ra trên mọi nẻo đường nhân loại để mang Tin Mừng “cho đến tận cùng trái đất ” (Sách Công vụ Tông đồ).
“Được đầy Thánh Thần” khi chịu phép rửa ở sông Giođan, và được Thánh Thần dẫn vào hoang địa để đối đầu quyết liệt với ma quỷ và Người đã chiến thắng, giờ đây Đức Giêsu đã trở về Galilê và đến Nadarét là “nơi Người mới sinh trưởng”. Như một người Do thái đạo đức, Người vào hội đường “như Người vẫn quen làm trong ngày sabát”.
Khác với Matthêu và Maccô đặt biến cố này – thiết tưởng có vẻ đúng hơn vào cuối thời kỳ thi hành sứ vụ ở Galilê, còn Luca thì đã đặt vào đầu thời kỳ, để phục vụ tốt hơn cho dự tính của mình và đã kết cấu bài tường thuật của mình như một “biến cố điển hình” khai mở và tóm tắt trước những gì sắp xảy ra, tức là việc Đức Giêsu bị dân Người chối bỏ và công cuộc loan báo Tin Mừng cho các dân ngoại.
– Hôm đó là “ngày Sabát” là ngày để nghe đọc Sách Thánh, ngày kỷ niệm cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, ngày mà người có lòng tin trong khi chúc tụng Thiên Chúa giải thoát dân Người thì cũng phải nghĩ đến việc giải thoát chính mình và người khác khỏi ách nô lệ.
– Chúng ta đang “trong hội đường” và Luca đưa ra cho chúng ta một bức tranh quý giá về phụng vụ diễn ra vào mỗi ngày thứ bảy. Nếu như Luca bỏ qua phần nghi thức mở đầu (lời khái quát, kinh cầu nguyện lời chúc lành), cũng như không gợi lại bài đọc thứ nhất, thì ngài lại mô tả cách rất tỉ mỉ và gần như khoan thai, mọi cử chỉ và nghi thức mà Chúa Giêsu đã làm.
3…. lúc ấy Chúa Giêsu loan báo “Tin Mừng”
Theo tập tục để lại từ bao đời (cf. Công vụ Tông đồ 13,15 và tiếp theo: Phaolô và Banaba viếng thăm hội đường ở An-ti-ô-khi-a miền Pixidia), Đức Giêsu được cộng đồng tôn giáo Do thái tiếp đón, mời đứng lên đọc một đoạn sách thánh; sau đó Người ngồi xuống để giải thích đoạn sách Tiên tri vừa đọc.
Đoạn sách của buổi phụng vụ hôm đó đúng là Isaia 61, 1-2: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”. Đây là một trong những lời sấm lớn, vốn nuôi dưỡng niềm hy vọng của dân tộc Do thái. Truyền thống của họ coi đây là lời loan báo về Đấng thiên sai đến; Người đầy tràn Thần Khí, Người đem đến “Tin Mừng”, là loan báo về thời đại mới bắt đầu khai mở, dân tộc Israel được giải phóng và khởi đầu triều đại của Thiên Chúa.
Bây giờ là lúc Chúa Giêsu đã cuộn sách lại và trả cho người giúp việc hội đường Người ngồi xuống và bắt đầu giải thích những lời vừa đọc. Một bài giải thích mà Luca đã tóm tắt lại bằng một câu tuyệt vời: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. R. Meynet chú giải: “Kinh thánh tuy là những lời nằm chết trong sách, lại có được sức sống nhờ được đọc lên lúc này. Được nói lại từ một cửa miệng, Kinh Thánh lại trở thành lời mang ân sủng cho những ai nghe. Phép lạ của việc đọc sách thánh là làm cho những lời xưa của vị tiên tri đã chết rồi, trở thành lời sống động của Đấng được sai đến hôm nay. (“Phúc âm theo thánh Luca. Phân tích tu từ”, Cerf, tr. 62).
Cùng với Đức Giêsu và trong Đức Giêsu, tất cả những lời tiên tri loan báo đều ứng nghiệm: Người là Đấng Mêsia được sai đến (Is. 61) tràn đầy Thần Khí của Đức Chúa; bản thân và sứ điệp của Người là “Tin Mừng được loan báo cho kẻ nghèo hèn”. Cùng với Người và trong người, thời đại mới của ân sủng, thời đại “công bố một năm hồng ân của Chúa” được khai trương. Cùng với Người và trong Người, Thiên Chúa ra tay hành động để giải thoát mọi người, “người bị giam cầm, người mù, người bị áp bức”, tất cả đều được Người ban ơn cứu độ và tha thứ. Cùng với Người và trong Người, “Hôm nay” hồng ân của Chúa ùa tràn vào dòng lịch sử của loài người.
Trong hội đồng Nagiarét, Đức Giêsu khởi đầu sứ mệnh của Người “với quyền năng Thánh Thần” của phép rửa Người chịu. Sứ mệnh đó, Người sẽ theo đuổi xuyên suốt dòng lịch sử trong Giáo hội của Người, “với quyền năng Thánh Thần” của ngày Hiện Xuống.
Chúa nhật tuần tới, chúng ta sẽ chăm chú đọc nốt phần cuối của đoạn Phúc âm này.
BÀI ĐỌC THÊM
(H. Villliez, trong “Dieu si proche. Năm C”, DDB, trg 86)
“Hành động mở màn cho sứ vụ của Đức Giêsu đã diễn ra ở Nadarét… Trong hội đường, vào ngày sabát. Vì là một người ngoại giáo trở lại, nên Thánh sử Luca chủ tâm nêu bật hai điều này: sứ điệp trước tiên đã được gởi đến cho người Do thái, sau đó nhờ một khúc quanh lịch sử nhiệm mầu, sứ điệp ấy sẽ được loan báo cho dân ngoại. Câu chuyện này giống như một việc làm trước thời hạn, diễn tả những gì sẽ sảy ra. Đúng là một bản tóm lược về sứ mệnh của. Đức Giêsu. Câu chuyện vay mượn quá khứ tôn giáo của dân tộc Do thái và sách tiên tri Isaia thứ ba được viết từ năm thế kỷ trước, như để nhấn mạnh rằng cội nguồn không bị đứt đoạn và truyền thống cũng không bị mai một, có nghĩa là cội nguồn và truyền thống vẫn được tiếp nối và duy trì.
Ba từ ngữ mang âm thanh vang dội và làm đảo lộn trật tự sẵn có là: kẻ nghèo, giải phóng, năm hồng ân. Ngươi ta ngờ vực, cũng là điều dễ hiểu thôi. Các đồng bào và đồng hương Nadarét của Đức Giêsu sẽ chống đối quyết liệt. Làm sao mà chấp nhận được một Đấng Mêsia cổ vũ việc giải phóng người nghèo và tuyên bố: “Năm hồng ân là chính hôm nay”. Nếu “theo sách Isaia thứ ba”, Tin Mừng là lời loan báo cho những người lưu đầy được hồi cư, thì với Đức Giêsu, Tin Mừng lại chính là lời loan báo cho những người nghèo biết rằng họ là “những người được Thiên Chúa yêu thương đặc biệt”, rằng họ được giải phóng. Với Đức Giêsu, hôm nay chấm dứt mọi kiếp nô lệ lầm than. Tóm lại, nhờ Thần Khí và Tình yêu, hôm nay là cuộc giải phóng toàn diện, giải phóng mọi hình thức bất công và tội lỗi.
Sau cùng, loan báo Tin Mừng còn là loan báo “năm hồng ân”. Năm nay phải là năm đại xá, năm nợ nần sẽ được tha hết, nô lệ sẽ được giải phóng, là năm mà con người nhờ tuân theo luật Chúa sẽ lập lại được một trật tự trần gian ngày càng nên giống Nước Trời hơn.
(J Thunus. “Dans vol ascemblées” tập 2. DDB. trg 395)
“Hôm nay, bạn có nghe tiếng Người chăng?” Câu nói trong Thánh vịnh 94 này đã là khởi điểm để bức thư gởi tín hữu Do thái triển khai rộng rãi về tính hôm nay của Lời Chúa (Dt. 3,7- 4,11). Bài giảng của Đức Giêsu ở hội đường Nagiarét càng làm cho tính cách “hôm nay” này mang ý nghĩa đặc biệt.
“Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Rồi người bắt đầu nói với họ: Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe” (Lc. 4,20-21).
Mầu nhiệm sâu xa rõ ràng là nằm trong lời nói đó. Lời Chúa đã được ghi chép lại ở một thời điểm của lịch sử là Lời nói cho mọi thời và là lời hằng sống và thực tế cho người biết lắng nghe trong tâm tình thờ phượng. Sự sống của lời Chúa là sự sống của Thần Khí, Đấng sẽ “dẫn tới sự thật toàn vẹn” (Ga. 16,13)
(M. Dcgraeve, trong “Unité des chrétiens”. Tháng 10-l994) số 96, trg 23 và 24)
“Hiệp thông huynh đệ, sống trong cùng một mái nhà là một thực tại phải xây dựng không ngừng. Sự hiệp thông phải được thể hiện dần dần. Thực sự, sự hiệp thông đã có đó rồi. Rất nhiều khi chúng ta chỉ thấy được những mối chia rẽ giữa các tín hữu, giữa các Giáo hội cùng tin Đức Kitô, nhưng cũng thấy ngay trong nội bộ của mọi Giáo hội, cả trong nội bộ của các cộng đoàn của chúng ta nữa. Nhìn kỹ vào những mối bất hoà kia, ta có thể nghiệm thấy rằng nếu biết dùng những phương tiện của sự hiệp thông, chúng ta sẽ xây dựng được cuộc sống huynh đệ. Để được như vậy, chúng ta phải biết nhìn nhận nhau là những con người khác nhau, nhưng đã được quy tụ lại bởi cùng một Lời và cùng tự nhủ là phải ráo riết thể hiện nước Chúa bằng việc rao giảng Tin Mừng.
Ý muốn chối bỏ những khác biệt thường dẫn tới sự từ chối người khác. Dẫu sao, giữa các cộng đoàn và các Giáo hội của ta cũng như giữa các Giáo hội cùng tin Đức Kitô, tính khác biệt là một quy luật chung, không ai chối cãi được.. Phải tôn trọng tập thể khác đã đành, mà bản thân mỗi người cũng cần biết tôn trọng nhau nữa. Như thế, chúng ta mới có thể chia sẻ những đau khổ của nhau, giống như những phần mình của một thân thể cùng chung phần đau đớn với phần khác trong thân thể vậy: đó chính là giáo huấn bản của thánh Phaolô. Nhận biết điều này và tôn trọng nhau như vậy không gì phù hợp với lẽ phải hơn, bởi lẽ chỉ một Thánh Thần sống trong ta và một Đức Kitô là đầu mới có thể cho phép ta thực hiện được điều này mà thôi. Chính Đức Kitô, Lời nhập thể là sự thiện chung mà mọi người cùng hưởng. Lời Chúa quy tụ chúng ta lại, cách riêng vào mỗi ngày Chúa nhật, ngày mà chúng ta cùng nhau chúc tụng tôn vinh Đức Kitô phục sinh, nên các Giáo hội Kitô của chúng ta, dù khác biệt nhau thế nào, thì Lời này vẫn phải được chia sẻ, hiểu biết, để Lời mang lại hoa trái và hoa trái tồn tại.
Nếu chúng ta thực sự ý thức một cách đầy đủ tầm quan trọng của Lời này, thì ta sẽ càng có khả năng hơn để thực hiện được việc rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khổ, việc giải thoát cho những kẻ bị giam cầm, bị áp bức và đem ánh sáng đến cho kẻ mù lòa. Đây là trách vụ chung mọi người cùng phải gánh vác, dù các Giáo hội và cộng đoàn của ta có là gì chăng nữa. Nếu chúng ta muốn sống tình bác ái huynh đệ giữa các Kitô hữu với nhau, ta phải bắt lay xây dựng một thế giới chan hòa tình huynh đệ.
CHÚA GIÊSU TẠI NAGIARÉT
Theo Mc 1,15 và Mt 4,17, Ngài rao giảng nước Thiên Chúa đã gần đến và cần phải thống hối ăn năn để thông dự vào nước ấy (Macco xác định đó là Tin mừng và phải lãnh nhận Tin mừng ấy bằng đức tin). Luca không phải là không biết đến những đề tài này trong lần rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu (4,43; 5,32). Nhưng thay vì tóm lược lời rao giảng ấy trong một câu thì tác giả lại trình bày nó trong một khung cảnh rộng rãi, khung cảnh ấy phác họa những đường hướng hướng căn bản khai mào cho sứ mệnh trần thế của Chúa Giêsu. Đó là một khai mào trọng thể được Thánh Thần hướng dẫn (4,14.18), là Đấng đã tuôn tràn trên Chúa Giêsu từ ngày thanh tẩy (3,22; 4,1).
Phúc âm của ông đã cho thấy cha mẹ Chúa Giêsu nhiệt thành tuân giữ lề luật (2,21.22-34.39.41-42), tác giả sẽ còn kể nhiều lần Chúa Giêsu vào trong các hội đường ngày hưu lễ (4,31-33; 6,6; 13,10). Nhưng đây là ngày hưu lễ đầu tiên mà Chúa Giêsu lên tiếng công khai trong buổi cầu nguyện ở hội đường. Do đó, theo phong tục thời bấy giờ, Ngài đứng dậy sau khi nghe sách luật và ra mắt quần chúng bằng một bài đọc sách các tiên tri.
Bản văn Chúa Giêsu đọc là Is 61,1-2. Luca trích dẫn theo bản văn LXX với một vài thay đổi: nơi câu một của tiên tri, tác giả bỏ sót câu “chữa lành những tâm hồn tan nát” và ngắt câu hai trước những chữ “và ngày báo thù”; tác giả thêm vào câu 1: “trả tự do cho những kẻ bị áp bức”, chắc hẳn là do Is 58,6; từ đầu câu 2, tác giả thay tiếng: “rao” (appeler) bằng “công bố” (proclamer) đã có sẵn ở câu trước.
Đối với thính giả Chúa Giêsu, bản văn này là lời của một tiên tri và họ có thể đồng hóa vị tiên tri ấy với người tôi-tớ-Giavê mà những lời sấm của người tôi tớ ấy được tìm thấy ngay trong chính sách này (nhất là 42,1-7 có những tương quan chặt chẽ với 61,1). Bản văn loan báo một năm hồng ân tương đương với định chế của năm toàn xá theo luật Môisen (Lv 25,8-17). Nhưng mọi người đều hiểu rõ rằng, đối với Isai, điều quan hệ ở đây không phải chỉ đơn giản nói đến những tính toán giữa con người với nhau: chính Thiên Chúa sắp can thiệp bằng ân sủng của Ngài, và sự tự do mà Ngài loan báo hoàn toàn vượt lên trên sự tha nợ giữa những Do thái; đó là sự cứu độ lạ lùng của thời cánh chung và có thể đồng hóa với nước Thiên Chúa, mà người ta sẽ sôi nổi chờ đợi.
Tiếng đầu tiên của Chúa Giêsu thật quyết liệt. “Hôm nay” xuất hiện nhiều lần nơi Luca, và chỉ Luca mà thôi, trong những đoạn khác nhau nói đến ơn cứu độ được thực hiện trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu: ngày sinh nhật (2,11), chịu thanh tẩy (3,22), chữa lành người bất toại (5,26), những phép lạ và cuộc tiến lên Giêrusalem (13,32-33), tha thứ cho ông Giakêu (19,5-9), lời hứa tha tội người trộm lành (23,43). Tiếng này ám chỉ sự hiện diện của Chúa Giêsu tạo nên một giai thoại thoại đặc sắc trong thời cứu độ. Luca không xem đây là thời thế mạt, vì ông biết Giáo hội đang nối tiếp cuộc đời Chúa Giêsu và ông trông đợi ngày Chúa trở lại (12,40; 17.22-37; 18,8; 21,27). Nhưng ông cũng nhìn thấy trong sứ điệp của Chúa Giêsu, một thời kỳ đặc biệt của lịch sử, một thời đại ân sủng giữa những sửa soạn của Cựu Ước và thời bành trướng của Giáo hội, “trung tâm thời gian”, thành ngữ danh tiếng của Conzelmann.
Chúa Giêsu áp dụng cho chính Ngài sấm ngôn của Is 61. Khi chịu phép rửa Ngài đã nhận lãnh Thánh Thần như một xức dầu ban cho Ngài một phận vụ thánh mà Luca diễn tả như là phận vụ của Messia (hoặc do việc trông đợi Đức Kitô trong 3,15 hoặc do lời Chúa Cha trong 3,22 lấy lại lời sấm phong vương cổ xưa của thánh vịnh 2,7). Nhưng Chúa Giêsu là Đấng Messia khác xa các vua trần gian mà các người đương thời mong đợi. Để tránh hiểu lầm Ngài không công khai minh định mình là Đấng Messia (x.4,11) và chỉ mạc khải điều đó cho nhóm tông đồ này, sau này khi họ đủ khả năng lãnh hội mạc khải đó (9,18-21). Còn bây giờ, lúc mới bắt đầu sứ vụ Ngài thích tự xưng là tiên tri mang tin mừng cứu độ. Có lẽ bản văn Isaia cho thấy Ngài là chân dung người tôi tớ Giavê, và nói lên các đề mục chính yếu của Tin mừng Ngài rao giảng là: người nghèo được ưu đãi, kẻ tù đày bị áp bức được giải phóng tự do, người mù được xem thấy. Những điều đó rõ ràng nói lên lòng ưu ái Ngài dành cho những kẻ khiêm nhu và các phép lạ Ngài sắp làm để thắng bệnh tật thể xác. Đồng thời các lời đó còn đưa ra các yêu sách và ân huệ của Ngài: lời mời gọi có tâm hồn nghèo khó, lời hứa giải phóng tội nhân đắm chìm trong giận dữ, cho người tin được xem thấy (khi chú giải “xem thấy” này, Chúa Giêsu theo sát tư tưởng của Is 29,18-19 và 35,5-6).
Trong Is 61,2 tiên tri vừa loan báo một năm hồng phúc vừa loan báo một ngày báo oán; như thế ông trình bày đề tài cựu truyền về ngày của Giavê, vừa là ngày phán xét vừa là ngày cứu độ. Ở đây Chúa Giêsu không nói đến việc phán xét: không phải là Ngài loại bỏ chủ đề Ngài thường đề cập trong Tin mừng (Lc 6,20-26; 10,12-15; 11,30-32; 12,8-9; 12,35-48.49-59; 13,23-30; 16,1-8; 17,22-37; 18,8; 19,11-27), nhưng trong diễn từ này Ngài chỉ nhắm đến “trung tâm thời gian” là lúc mà ơn cứu độ được ban cho Israel; chính là thời gian mà Ngài gọi là năm hồng phúc của Chúa, là dịp thuận tiện mà dân Ngài phải lợi dụng (thật bạo gan khi muốn tìm ở đây một chỉ dẫn về thời hạn sứ vụ của Chúa Giêsu; bản văn Isaia nói là rao giảng trong một năm, nhưng Chúa Giêsu ở đây không nói chi đến thời gian hoạt động của Ngài).
Tóm lại, theo Luca, tư tưởng Chúa Giêsu ở đây giống như tư tưởng trong lời loan báo: Nước Thiên Chúa đã gần đến, mà Lc 1,15 và Mt 4,17 đã ghi lại vì lời loan báo này cho thấy bây giờ người ta có thể vào nước Thiên Chúa nhờ sứ mệnh của Chúa Giêsu. Nhưng cách diễn tả của Luca chính xác hơn: phân biệt thời gian Chúa Giêsu hoạt động với thời gian hoàn tất có ý nghĩa cánh chung Luca cũng xác định đúng vai trò, hồng ân và các yêu sách của Chúa Giêsu.
Cũng như trong Macco và Matthêu, khung cảnh câu chuyện là hội đường. Đây là một trong những phương pháp của Chúa Giêsu (4,15.33-34; 6,6; 13,10). Đây cũng là cách các nhà truyền giáo (mà Lc được tháp tùng) thường làm; tại mỗi thành, các Ngài bắt đầu rao giảng tại hội đường (Cvsđ 9,20; 13,5.14.44; 14,1; 17,1.10; 18,4.7.19; 19,8). Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh sứ điệp cứu rỗi được ban cho Israel trước hết bắt đầu từ thánh kinh và phụng tự; giao ước mới hoàn tất giao ước cũ.
Mc 1,15 và Mt 4,17 tóm tắt sứ điệp đầu tiên của Chúa Giêsu là: công bố nước Thiên Chúa gần đến. Luca làm sáng tỏ điều đó hơn nữa khi trích Is 61 là đoạn mà chắc chắn Chúa Giêsu đã tự áp dụng cho mình. Trong cảnh ở Nagiarét, bản văn cho thấy đấng Messia, được giới thiệu khi chịu phép rửa, đã ra mắt công chúng như là vị tiên tri được Thánh Thần tấn phong; Ngài sắp đặc biệt lưu tâm đến các người nghèo khó, đau khổ, bị áp bức (đây là tư tưởng của riêng Luca); Ngài đến giải thoát họ và cho họ nhìn thấy chương trình của Thiên Chúa. Sứ mệnh tại thế của Chúa Giêsu tạo nên thời đại ân sủng cho Israel, mà họ phải biết lợi dụng ngay từ hôm nay.
KẾT LUẬN
Màn khai diễn là một điểm rất quan trọng để hiểu những chương phúc âm kế tiếp. Một cách nào đó Chúa Giêsu trình bày giáo huấn của Ngài. Trước hết Ngài đem đến ơn cứu độ, giải phóng, ánh sáng, ủi an: tất cả những thứ đó đều dành cho những người nghèo khó và bị áp bức. Thực sự đã bắt đầu một năm mới toàn xá. Nhưng lần này không phải chỉ có con người mới tha nợ và trao trả quyền công dân, tự do. Trong ngôi vị được xức dầu, chính Giavê đến tha nợ cho con người và giải thoát con người khỏi nô lệ sự dữ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
LỜI GIỚI THIỆU CỦA MỘT SỬ GIA
Lời mở đầu của Luca rất độc đáo vì trong cả ba sách Phúc Âm đầu tiên, đây là chỗ duy nhất có chính tác giả bước lên sân khấu và dùng đại từ “Tôi”. Trong đoạn Kinh Thánh này có ba điều cần chú ý:
Dường như ông đã tự nhủ: “Mình đang tường thuật một truyện vĩ đại nhất thế giới, nên chỉ những gì tuyệt hảo mới xứng hợp với chuyện này”. Có một số bản cổ đã thực là những sản phẩm tuyệt vời, viết bằng mực bạc trên nền vải điều, và người ký lục, khi viết đến danh Thiên Chúa hay Chúa Giêsu thì viết bằng chữ vàng. Tiến sĩ Boreham kể về một người thợ già, mỗi đêm thứ sáu, chọn sẵn những đồng tiền mới nhất, sáng nhất để dâng ở nhà thờ vào ngày Chúa nhật. Sứ giả, viên ký lục và người thợ nói trên đều chung một ý tưởng là chỉ có những gì tốt nhất mới xứng đáng cho Chúa Giêsu. Bao giờ họ cũng muốn dâng điều tốt nhất của mình cho Đấng Tối Cao.
MÙA XUÂN XỨ GALILÊ
Chúa Giêsu vừa rời khỏi hoang địa, Ngài liền phải đối diện với một quyết định khác. Ngài biết giờ hành động của Ngài đã đến, Ngài đã xác định phương cách rồi, bây giờ Ngài phải bắt đầu tại đâu?
Galilê là một vùng đất phía Bắc xứ Palestine, rộng chừng 80km từ Bắc xuống Nam và 40km từ Đông sang Tây. Galilê có nghĩa là vòng tròn, phát xuất từ chữ Galil trong tiếng Do Thái. Người ta gọi thế bởi vì vùng đất ấy được vây bọc bởi các nước ngoại bang. Chính vì thế mà Galilê luôn bị các thứ ảnh hưởng thâm nhập và đã trở thành phần đất tân tiến, ít bảo thủ. Đó là một vùng đông dân cư nhất của xứ Do Thái. Sử gia Josephus, người đã có lần làm thống đốc tại vùng này cho biết rằng miền đó có 204 làng hoặc thành, làng nào cũng có số dân không dưới 15.000. Hầu như khó tin rằng Galilê có thể lên tới ba triệu dân. Đó là vùng đất phì nhiêu lạ thường. Một tục ngữ đã phản ánh điều này: “nuôi một vạn cây ôliu ở Galilê còn dễ hơn nuôi một đứa con ở xứ Giuđê”. Khí hậu rất tốt và nước uống dư dật khiến Galilê trở thành một vườn cây của xứ Palestine. Danh mục các loại cây mọc ở đó chứng tỏ đất rất tốt: cây nho, ôliu, vả, giẻ, hồ đào, thông, cọ, bá hương, trắc, dầu thơm, thông các loại, sung, dương, sim, anh đào, thạch lựu, chanh, trúc đào… Chính người Galilê là những người vùng cao của xứ Palestine. Josephus nói về những người Galilê rằng: “họ chuộng sự mới mẻ, bản tính họ thích đổi thay, và chỉ thích nổi loạn. Nếu có lãnh tụ nào đứng ra khởi xướng một cuộc nổi dậy là họ sẵn sàng theo ngay. Họ dễ nóng giận và ưa tranh cãi”. Người ta thường nói: “Người Galilê không bao giờ thiếu can đảm”, “người Galilê mê tìm danh tiếng hơn là tìm lợi lộc”. Chúa Giêsu đã bắt đầu sự vụ tại một nơi như vậy. Đó là đất của Ngài, nơi đó đem đến cho Ngài –ít ra lúc ban đầu- một số thính giả biết đón nhận và say sưa với sứ điệp của Ngài.
Hội đường là trung tâm đời sống tôn giáo ở xứ Palestine. Trong nước chỉ có một Đền Thờ, nhưng luật quy định rằng hễ ở đâu có mười gia đình Do Thái thì ở đấy phải có một hội đường, và như thế ở trong mỗi thành, mỗi làng, dân chúng nhóm họp thờ phượng trong hội đường. Không có tế lễ trong hội đường. Đền Thờ mới là nơi để dâng của lễ, hội đường chỉ để giảng dạy. Làm thế nào Chúa Giêsu có thể vào hội đường và làm sao khi Ngài chỉ là thường dân, một thợ mộc ở Nagiarét, có thể giảng dạy tại đó? Nghi thức thờ phượng ở hội đường có ba phần:
Giai đoạn Chúa Giêsu đang thi hành sứ vụ đây được gọi là Mùa Xuân xứ Galilê. Ngài đã đến đó như một luồng gió từ Thiên Chúa. Phe đối lập chưa xuất đầu lộ diện, lòng người còn đang khao khát lời hằng sống và dân chúng chưa nhận thức được Ngài sẽ đụng chạm mạnh mẽ như thế nào tới niềm tin chính thống đương thời. Rao giảng một sứ điệp đã được thai nghén kỹ càng bao giờ cũng thu hút được thính giả.
Một trong những nơi thăm viếng đầu tiên của Chúa Giêsu là Nagiarét, quê nhà của Ngài. Nagiarét không phải là một làng, nó được gọi là một polis, nghĩa là một thành hay một thị trấn, và có thể có tới 20.000 dân. Nagiarét toạ lạc trong một vùng đất của sườn đồi núi Galilê gần cánh đồng Gitrien. Chỉ cần leo lên đỉnh đồi vượt cao trên mặt thành là có thể thấy toàn cảnh bao la hàng dặm chung quanh đó. George Adm Simth diễn tả phong cảnh từ trên đỉnh đồi như sau: Lịch sử của dân Israel mở ra trước mắt chúng ta. Kia là cánh đồng Esdraelon, nơi Đêhôra và Barac đã chiến đấu, nơi Ghêđêon đã thắng trận vẻ vang, nơi Saulê đã thảm bại và chính nơi này Giôsia đã bị giết trong chiến trận. Kìa là vườn nho của Nabôt, chỗ Giêhu giết Giêsabên, kìa nữa là đất Sunem, nơi ngôn sứ Elia đã sống, kìa là núi Cácmen, nơi Êlia đã đánh trận oanh liệt với các tiên tri Baan, và xanh xanh ở đằng xa là Đia Trung Hải và các hải đảo! Nhưng không phải chỉ có lịch sử Israel ở đó mà lịch sử thế giới cũng mở ra trên đỉnh đồi Nagiarét. Có ba đường lớn vây quanh Nagiarét. Có con đường từ phía Nam đưa các khách hành hương lên Giêrusalem. Có con đường lớn dọc bờ biển để đưa những đoàn thương gia chở nặng hàng hoá từ Ai Cập lên tới Đamas. Có con đường lớn đi về Phương Đông, cho những đoàn doanh thương từ Ai Cập đến, và cũng có những đoàn quân viễn chinh Rôma tiến về các biên giới miền Đông của đế quốc. Thật sai lầm nếu nghĩ rằng Chúa Giêsu lớn lên tại một nơi hẻo lánh; Ngài lớn lên trong một thành có tầm cỡ lịch sử và có các trục lộ giao thông của thế giới chạy qua ngay trước ngõ.
Chúng tôi đã phác hoạ giờ thờ phượng tại hội đường và đoạn sách này cho ta thấy cả một bức tranh sống động về hoạt động phụng vụ ở đó. Không phải Chúa Giêsu cầm một quyển sách, vì thời đó mọi sự được viết trên những cuộn da. Ngài đã đọc Is 61. Trong câu 20, bản dịch King James đã nói sai về “kẻ giúp việc”. Thực ra vị này là một viên Chazzan đảm nhiệm nhiều thứ công tác. Ông có bổn phận lấy ra và cất vào những cuộn Kinh Thánh, có bổn phận giữ cho hội đường sạch sẽ, có bổn phận thổi ba hồi kèn bạc từ trên nóc hội đường loan báo ngày Sabat, ông cũng là giáo viên trong trường học của vùng ấy nữa. Câu 20 nói rằng Chúa Giêsu ngồi xuống, khiến ta có cảm tưởng Ngài đã làm xong công việc. Thực ra, Ngài sắp sửa bắt đầu, vì diễn giả ngồi mà giảng và các rabi cũng ngồi khi giảng dạy (do tục lệ này mà chúng ta thường nói ghế của giáo sư).
Chúng ta cần để ý tới hai điều:
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
Ý CHÍNH: Đức Giêsu công bố về năm hồng ân của Chúa
Tin Mừng hôm nay gồm có bài tựa mở đầu sách Tin Mừng thứ ba, nêu ra lý do khiến Lu-ca viết Tin Mừng dựa vào truyền thống và có tính khoa học, và việc Đức Giê-su khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng với một chương trình hành động cụ thể, đã được ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm trước đó khá lâu.
CHÚ THÍCH:
– C 1-2: + Ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính: Thê-ô-phi-lô là một người giàu có và đáng kính thời bấy giờ. Ong này đã được tác giả Lu-ca gửi tặng cuốn Tin Mừng để nhờ ông làm người bảo trợ cho việc sao chép ra nhiều cuốn sách trên các tấm da thuộc, hầu có thể phổ biến đi nhiều nơi.
– C 3-4: + Cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự: Vì Lu-ca không thuộc Nhóm 12 Tông đồ theo Đức Giê-su ngay từ đầu, nên ông phải tra cứu đầu mối căn nguyên về cuộc đời và Tin Mừng của Người rồi viết lại. +Tuần tự viết ra: Ông viết Tin mừng theo thứ tự văn chương và các đề tài giảng huấn, chứ không theo đúng thứ tự thời gian trước sau.
– C 14-15: + Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy: Đức Giê-su được Thần Khí dẫn vào hoang địa để ăn chay và chịu ma quỷ thử thách. Giờ đây Thần Khí lại thúc đẩy Người trở về Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng. +Người giảng dạy trong các hội đường của họ: Hội đường là nơi người Do thái đến hội họp, cầu nguyện và nghe giảng Kinh thánh vào các ngày Sa-bát. Ở mỗi làng khắp xứ Pa-lét-tin cũng như tại những nơi có người Do thái cư ngụ đều có hội đường.
– C 17b-19: + Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Chữ gặp ở đây cho thấy Đức Giê-su đã không chọn hay sửa soạn trước, nhưng mở ra đã gặp ngay một đoạn sách phù hợp cho thấy có sự can thiệp của Thiên Chúa,. +Thần Khí Chúa ngự trên tôi…: Đoạn văn được trích dẫn trong sách I-sai-a (x. Is 61,1-2) nói về việc xức dầu tấn phong của một ngôn sứ (x. 1 V 19,16). Nhưng Đức Giê-su đã ứng dụng vào sứ mệnh của Người: Người mới được lãnh nhận Thần Khí khi chịu phép rửa của Gio-an, và coi đó là nguồn gốc phát sinh các hoạt động cứu độ của Người. +Công bố một năm hồng ân của Chúa: Năm Hồng Ân hay năm Toàn Xá của Thiên Chúa. Theo Luật Mô-sê, cứ năm mươi năm lại cử hành một lần (x Lv 25,10-13). Năm Toàn Xá là hình thức mở rộng của Năm Sa-bát được cử hành cứ bảy năm một lần (Đnl 15: 1-11). Năm này tiêu biểu lý tưởng công bình xã hội một cách thiết thực cụ thể. Đây là tin mừng giải thoát cho những người nghèo, những kẻ cô thân cố thế bị chèn ép áp bức, dưới bất kỳ hình thức nào, đến nỗi phải mất nhà cửa đất đai, trở nên nghèo khổ và đem thân làm nô lệ cho những kẻ giàu có quyền thế. Đó cũng là năm mời gọi hết mọi người hãy ăn năn sám hối, vì đã góp phần vào sự bất công hay đã nhắm mắt làm ngơ trước những đau khổ của đồng loại.
– C 20-21: + Hôm nay: Chữ này xuất hiện nhiều lần trong Tin Mừng Lu-ca, để nhấn mạnh tính cách hiện tại của ơn cứu độ. Chẳng hạn: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2,11); “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22); “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21); “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19,5b); “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (Lc 19,9); “Hôm nay gà chưa kịp gáy, thì ba lần anh đã chối không biết Thầy” (Lc 22,34.61); “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43).
CÂU HỎI:
1) Lu-ca đã viết lời tựa sách Tin Mừng gửi cho ông Thê-ô-phi-lô nhằm mục đích gì? 2) Lu-ca không thuộc Nhóm 12 Tông đồ. Vậy ông đã làm gì để có thể viết về cuộc đời và lời rao giảng của Đức Giê-su cách chính xác được? 3) Hội đường Do thái là gì và dùng để làm gì? 4) Câu trích trong sách ngôn sứ I-sai-a được Đức Giê-su đọc tại hội đường Na-da-rét đã ứng nghiệm vào sứ mệnh cứu thế của Người như thế nào? 5) Bạn hãy kể ra 5 câu Kinh thánh có chữ “hôm nay” trong Tin mừng Lu-ca.
1) Nên thân nhân của Chúa nhờ sống giới răn yêu thương của Người:
Dan Clack kể lại một câu chuyện như sau: Vào một buổi tối trời tuyết lạnh, một bé trai khoảng sáu, bảy tuổi đang đứng tần ngần nhìn vào gian hàng trưng bày quần áo trước một cửa hàng sang trọng. Em đi chân đất, khoác trên người bộ quần áo cũ kỹ tơi tả, trông như một mảnh giẻ rách. Một bà sang trọng đi ngang qua trông thấy và đọc được ước muốn trong đôi mắt của em. Bà liền đến cầm tay em dẫn vào tiệm và mua cho em một đôi giầy mới và bộ quần áo ấm.
Sau đó, khi cả hai bước ra ngoài phố, người đàn bà tốt bụng liền nói với cậu bé:
– Chúc cháu vui vẻ và một đêm ngủ ngon.
Cậu bé trố mắt nhìn người vừa cho quà và hỏi:
– Thưa bà, bà có phải là Chúa không?
Bà cúi xuống mỉm cười vỗ nhẹ vào vai cậu và trả lời:
– Con ơi, không phải đâu, ta chỉ là một trong những đứa con của Chúa thôi!
Cậu bé như khám phá được điều gì mới lạ:
– Cháu đã sớm biết ngay là bà có họ hàng với Chúa mà.
Câu nói của cậu bé trong câu chuyện trên cho thấy: Chính lối sống yêu thương vị tha là dấu chỉ giúp tha nhân nhận biết chúng ta là môn đệ thực sự của Chúa Giêsu (x. Ga 13,35), và việc thực hành yêu thương cũng làm cho chúng ta trở nên con cái trong đại gia đình của Chúa như Người đã nói: ”Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 6,21). Quả thật, người phụ nữ trong câu chuyện trên đã thực hành lời dạy quảng đại yêu thương của Chúa: ”Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em bằng cái đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Vậy mỗi người chúng ta trong những ngày này sẽ làm gì cụ thể giúp đỡ tha nhân để nên con cái Thiên Chúa và nên môn đệ thực sự của Đức Giêsu?
2) Chúa nói với chúng ta bằng những cách nào?
Cách đây khá lâu, một vở kịch mang tựa đề là “Hoàng Gia đi săn mặt trời” kể lại cuộc chinh phục của người Tây ban nha đối với dân da đỏ ở Pê-ru. Trong đó có một màn kịch kể lại câu chuyện về một người Tây ban nha đã tặng cho viên tù trưởng của bộ lạc da đỏ một cuốn Thánh Kinh và nói với viên tù trưởng rằng: “Đây là Lời Chúa. Ngài nói với chúng ta trong cuốn sách này”. Viên tù trưởng cầm lấy cuốn Thánh Kinh, xem xét thật kỹ và sau đó áp cuốn sách vào một bên tai nghe ngóng. Nhưng dù đã cố gắng hết sức mà ông ta cũng chẳng nghe thấy có tiếng nói nào phát ra từ cuốn sách. Cử chỉ ngây thơ của viên tù trưởng khiến những người Tây ban nha có mặt cười ồ lên. Viên tù trưởng nghĩ mình bị mấy người ngoại quốc kia chơi khăm, liền nổi giận và ném mạnh cuốn Kinh Thánh xuống mặt bàn trước mặt!
1) Đức Giêsu công bố Tin Mừng về sứ vụ Thiên Sai:
Sau một thời gian đi rao giảng Tin mừng và làm phép lạ khắp miền Ga-li-lê, danh tiếng Đức Giêsu đã lan truyền khắp nơi, Người trở về thăm quê hương Na-da-rét. Vào ngày sa-bat, Người đến hội đường cầu nguyện theo thông lệ, viên trưởng hội đường đưa cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở trúng ngay đọan nói về sứ vụ của Đấng Thiên Sai như sau: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Sau đó gấp sách lại, Người ngồi xuống và tuyên bố: ”Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,18-19).
2) Hội Thánh có bổn phận tiếp tục thi hành sứ vụ Thiên Sai:
Trong Tin Mừng Luca, từ “Hôm nay” xuất hiện tại một số đoạn: Trong ngày Giáng Sinh, chúng ta đã nghe các thiên thần loan báo “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra” (Lc 2,11). Khi Chúa Giêsu đến nhà ông Giakêu, Người nói với ông “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (Lc 19,9). Chúa Giêsu cũng hứa với kẻ trộm cướp bị đóng đinh bên phải rằng “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Ý nghĩa của từ “Hôm nay” mà Chúa Giêsu công bố không những là “hôm nay” khi Người còn đang sống, mà còn là “hôm nay”, khi Người tiếp tục sứ vụ Thiên Sai trong và nhờ Hội Thánh là các tín hữu chúng ta.
3) Thi hành sứ vụ Thiên Sai hôm nay là đem Tin Mừng cho người nghèo hèn:
Là loan báo cho những kẻ đang bị giam trong lao tù ngục thất được tha hay đang bị giam hãm trong thói ích kỷ tham lam biết họ được Chúa đến cứu thoát.
Là góp phần chữa lành những kẻ đang bị mù tối thể xác được nhìn thấy, hoặc đang lầm lạc được thoát vòng u mê tối tăm.
Là khai mở một năm Toàn Xá ban Hồng Ân cứu độ.
Mỗi Kitô hữu có sứ vụ tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ cả về thể xác cũng như tinh thần, an ủi những người cô thế cô thân, xoa dịu các vết thương, loại trừ những sự sợ hãi, giải thoát những người đang bị áp bức… Mỗi tín hữu chúng ta cần trung thành thi hành sứ vụ đã được Đức Kitô trao phó, là góp phần làm cho sấm ngôn của ngôn sứ Isaia sớm trở thành hiện thực, công bố năm hồng ân của Chúa và Nước Trời an lành hạnh phúc sớm được thực hiện trong cuộc sống xã hội Việt Nam hôm nay.
4) Làm tông đồ là sống bác ái để làm chứng cho Chúa:
Là ki-tô hữu, chúng ta phải trở thành cánh tay nối dài của Đức Giê-su. Mỗi người chúng ta đều được Chúa mời gọi cộng tác để làm bùng lên ngọn lửa tin yêu mà Người đem xuống trần gian, bằng việc thực thi giới luật yêu thương từ trong gia đình ra đến khu xóm, giáo xứ và ngòai xã hội. Đó chính là đường nên thánh, là chìa khoá mở cửa thiên đàng cho mọi người chúng ta.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn