Lời Chúa: Is 49,3.5-6; 1Cr 1,1-3; Ga 1, 29-34
MỤC LỤC
Giữa một xã hội đang phát triển về mọi mặt, con người như bị cuốn hút vào vòng xoáy của cuộc sống. Thật khó để dừng lại, suy nghĩ và nhận định chính xác về một người hay một sự vật, mà lại dễ chỉ thấy, biết và mê những vẻ hào nhoáng bên ngoài. Vì vậy, ngành quảng cáo ngày càng thịnh hành cho tất cả mọi ngành nghề, đồ vật hay cả con người. Thế nhưng với đời sống tâm linh, vẻ bên ngoài lại chẳng có giá trị. Người ta có thể giả hình hoặc tô điểm cho dáng dấp bên ngoài, nhưng cái thâm sâu và giá trị của một người sẽ là bản chất bên trong trái tim và tâm hồn. Chính vì thế, Gioan Tiền Hô đã là mẫu gương cho hành trình đời người Kitô hữu của chúng ta khi ông Thấy Chúa, Biết Chúa và Làm Chứng cho Chúa bằng cả cuộc sống và mạng sống mình.
Thấy… “Khi Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, ông liền nói:” Trong cuộc sống, rất nhiều lần chúng ta đã không biết nhìn những anh chị em đang sống cùng và sống xung quanh ta. Chúng ta thường hay dừng lại ở những gì ta nhìn thấy bên ngoài như chị ấy không đẹp, chẳng giỏi cũng không giàu. Anh kia nói năng không lưu loát, tướng tá chẳng sang… mà quên đi hoặc chẳng nhìn thấu được vẻ đẹp và giá trị bên trong của anh chị em. Những người cùng thời Chúa Giêsu cũng thế, họ đã không thể nhìn thấy và biết Chúa Giêsu là ai! Chúng ta cần xin Chúa dạy chúng ta biết nhìn, biết vượt qua những dáng vẻ bề ngoài nơi con người và trong mọi sự việc. Để như Gioan, ta có thể thấy được giá trị thật nơi một con người mà ta gặp gỡ.
“Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.” Với những người Do thái, khi nghe từ Chiên Thiên Chúa, chắc chắn họ biết rõ và hiểu vì họ thường dâng hiến lễ lên Thiên Chúa bằng những con chiên theo luật Môisen, để tẩy xóa tội lỗi. Vì ngày lễ Vượt qua, họ thường sát tế nhiều chiên con để dâng hy lễ. Còn đối với chúng ta, có lẽ ta không cảm nhận và hiểu nhiều. Ở đây, Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu như một Đấng Cứu Độ, Đấng gánh mọi tội lỗi của nhân loại trên mình. Người đã hiến thân, đã đổ đến giọt máu cuối cùng để mang tất cả tội lỗi cho nhân loại và làm cho nhân loại được xóa khỏi trọn vẹn mọi tội lỗi.
Chắc hẳn Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta cộng tác với Chúa và giúp Người trong công trình lớn lao này. Người mong ta biết chiến đấu chống lại những điều xấu và tội lỗi ngay trong chính chúng ta, và ta cũng biết chống lại, diệt trừ những điều dữ khắp nơi chúng ta hiện diện. Dù cho ta vẫn cảm nhận sự yếu đuối và nghèo hèn, nhưng “Ơn Chúa đủ cho ta” nếu ta biết ý thức trách nhiệm cùng Chúa lo cho ơn cứu độ của anh chị em, của những người thân trong gia đình ta và của chính ta. Để rồi ta biết Chúa luôn đồng hành với ta, biết Người là Đấng Cứu Độ ta.
Biết… “Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi. Tôi đã không biết Người…” Gioan được thụ thai và sinh ra trước Chúa Giêsu. Ngay từ trong lòng mẹ, Gioan đã nhảy lên vui sướng vì được thân mẫu Chúa và chính Chúa viếng thăm. Thế nên chắc chắn Gioan biết Chúa Giêsu là em họ của mình. Nhưng ông không ngờ em họ ông lại cũng là Chúa của ông, bởi”Người cao trọng hơn tôi, vì vốn có trước tôi”. Cái biết của ông cũng vẫn còn bị hạn hẹp vì dáng vẻ bề ngoài và gia thế của Chúa. Thế nên, cần có sự mạc khải của Đấng đã sai ông đi làm phép rửa, ông mới nhận ra gốc gác và căn tính thần linh nơi Chúa Giêsu.
Sự sinh hạ của Chúa nơi máng cỏ Bêlem đã công bố cho chúng ta về Đấng Mêsia mà Kinh Thánh đã tiên báo và chúng ta tuyên xưng “Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời.” Như những mục đồng, ba nhà chiêm tinh và Gioan tiền hô, chúng ta hãy chiêm ngắm Con Người Chúa Giêsu, để biết Người là Thiên Chúa thật, có từ trước đời đời, là Ngôi Lời của Thiên Chúa, được sinh ra mà không phải được tạo thành.
Chúa Giêsu- Đấng Vĩnh Cửu từ nay đã nhập thể, nhập thế, ở cùng chúng ta. Bước chân Người rảo khắp nẻo đường Palestin để rao giảng, chữa lành. Người đã thiết lập Hội Thánh, để trong mọi thời đại và mọi nơi, Hội Thánh tiếp nối cuộc Nhập Thể của Người và giới thiệu về Người cho nhân loại. Chúng ta, mỗi Kitô hữu hãy làm mới lại tương quan của ta với Chúa. Chúng ta không chỉ Biết Người qua kiến thức, những gì là bên ngoài, nhưng cần sống thân mật với Chúa, gặp gỡ Chúa trong kinh nguyện, qua Lời Chúa và hiệp thông với Người nơi các Bí Tích, nhất là Bí tích Thánh Thể. Để rồi ta có thể sống trong Chúa và Chúa sống trong ta, chia sẻ chính cuộc sống và sứ mệnh với Chúa. Có như thế, chúng ta mới có thể làm chứng cho Chúa như Gioan.
Làm Chứng… “Tôi thấy Thần Khí từ trời xuống và ngự trên Người.” Gioan đã công bố cho dân chúng biết về Đấng mà họ đang mong đợi. Đấng được Thần Khí ngự xuống, bao phủ và đầy tràn ân sủng. Thế nhưng, đàng sau cái lý lịch bình thường của Chúa Giêsu là một người làng quê Nadarét, là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria, có một mầu nhiệm được ẩn giấu. Nhân tính của Người chìm sâu trong Thiên Chúa “Có một Đấng đang ở giữa các ông mà các ông không biết.”(Ga 1, 26b) Thế nên, để làm chứng cho Chúa, ta không chỉ nói về Chúa bằng những gì ta thấy và biết qua dáng vẻ bề ngoài, nhưng cần cảm nghiệm bằng chính cuộc sống của ta đã gặp gỡ, đụng chạm đến Chúa. Như thế, chân dung của Chúa Giêsu, Đấng xóa tội trần gian mà ta trình bày và sống mới có thể đáp ứng được những khát vọng sâu thẳm của anh chị em trong thế giới hôm nay.
Nhân vật chính trong Hội Thánh là Chúa Thánh Thần. Mọi sứ mệnh và tất cả những hoạt động của Hội Thánh cần phải được dìm sâu trong Thần Khí và được Người hướng dẫn. Vậy mỗi Kitô hữu qua Phép Rửa, ta cũng được chính “Đấng làm Phép Rửa trong Thánh Thần” dìm chúng ta vào trong Thần Khí của Người. Thế nên, ta đừng quên sứ mạng làm chứng về Chúa Kitô của chúng ta. Như Gioan, nhờ ân sủng, ta cũng nỗ lực để Thấy Chúa bằng cái nhìn chân thành, qua con mắt đức tin, để ta có thể Biết Chúa là Thiên Chúa của ta; là Đấng Cứu Độ Mình bị nộp, Máu đổ ra xóa tội cho ta và để giao hòa ta với Chúa Cha. Và rồi ta có thể nhiệt thành làm chứng cho Chúa bằng trọn cả đời sống Kitô hữu của ta. Hãy là chứng nhân của Tình Yêu Chúa qua đời sống yêu thương cụ thể, bác ái sẻ chia tình thương và cơm áo với anh em nghèo đói, thiên tai lũ lụt; an ủi anh chị em đau khổ bệnh tật, giúp đỡ những anh em nhỏ bé yếu đuối bị gạt ra lề xã hội; can đảm lên tiếng bảo vệ phẩm giá con người và chống lại những bất công. Như vậy, ta mới có thể thực thi sứ mệnh mà Người Tôi Trung của Đức Chúa đã làm là “Ánh sáng muôn dân, đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.” (x. Is 49,6)
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy dìm chúng con vào trong Ngài và hãy biến đổi chúng con trở nên Khí cụ của Chúa cho Hội Thánh và Thế Giới hôm nay. Amen.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Khi thấy Đức Giêsu đi ngang qua, Gioan đã cam đoan với những người chung quanh rằng: “Đây chiên Thiên Chúa chính Ngài là con Thiên Chúa”
1- “Đây chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” câu nói đó nhắc cho người Do Thái nhớ đến hy lễ con chiên được cử hành trong đền thờ Giêrusalem hằng ngày và nhất là trong đại lễ Vượt qua. Con chiên trong sạch được dẫn tới bàn thờ, mọi người giơ cao tay đổ hết mọi tội mình lên đầu con chiên, rồi nhổ lông, xé thịt nó. Nó không mở miệng kêu một tiếng. Người ta thiêu sinh nó làm lễ dâng lên Thiên Chúa, xin Thiên Chúa xóa hết tội mình (Lêvi 1, 4) Con chiên đó chính là chiên lễ Vượt qua, máu nó đã cứu sống con trai Do Thái, thịt nó làm của ăn cho toàn dân được mạnh sức vượt qua khỏi ách nô lệ Ai Cập (Xh. 12, 7)
Đối với dân Do Thái, Con chiên Vượt qua là hình bóng Đấng Cứu thế như ngôn sứ Isaia đã loan báo: “Chính các bệnh tật của chúng tôi, Ngài đã vác. Ngài đã bị đâm vì những phản nghịch của chúng tôi. Vì tội vạ của chúng tôi, Ngài đã bị nghiền tÿn Ngài đã chịu đựng, không mở miệng, như chiên con dẫn đến lò sát sinh à Thiên Chúa đã ái mộ Ngài, đã phục sinh Đấng đã làm lễ hy sinh tạ tội. Ngài đã được trường sinh bất tử” (Is. 53, 4-5. 7. 10). Đấng trường sinh bất tử đó, Gioan đã cam đoan thêm rằng: “Chính Ngài là Con Thiên Chúa”
2- “Chính Ngài là con Thiên Chúa vì Ngài có trước tôi từ đời đời, dù Ngài sinh ra ở trần gian sau tôi. Hơn nữa tôi đã thấy Thánh Linh ngự trên Ngài”, Gioan đã làm chứng những lời cam đoan đó, không chỉ bằng lời nói suông, mà còn bằng việc làm, bằng cuộc sống và bằng hy sinh cả mạng sống mình.
+ Bằng cuộc sống: Gioan đã sống ẩn dật khổ hạnh suốt đời trong sa mạc để chuẩn bị chu toàn nhiệm vụ dọn đường Đấng Cứu thế.
+ Bằng việc làm: Gioan đã rảo khắp miền sông Gióc-dan rao giảng kêu mọi người hối cải dọn đường đón Đấng Cứu thế. Nhiều hạng người đã đến xin ông chỉ dẫn. Đám đông hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?”. Ông trả lời: “Ai có thừa thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?”. Ông bảo họ: “đừng đòi gì quá mức ấn định cho mình”. Binh lính cũng hỏi ông: “còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?”. Ông bảo họ: “chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền ai, hãy an phận với số lương của mình”. (Lc. 3, 10-14). Tất cả đã được Gioan thanh tẩy để đón Đấng Cứu thế.
+ Bằng hy sinh mạng sống: Gioan đã hiến chiếc đầu mình cho Vua Hêrôđê đặt trên đĩa biếu nàng Hêrôdia độc ác. Ông đã trung thành với sứ mệnh làm chứng về Đấng Cứu thế.
Thánh Gioan tiền hô đã trả giá đắt nhất cho lời cam đoan của mình. Chúng ta nghĩ sao về bao nhiêu lời cam đoan, lời xin thề khác? Biết bao lời thề trước tổ quốc, trước nhân dân, trước hiến pháp để phục vụ đất nước và đồng bào đã bị phản bội chỉ vì vinh thân phì gia ! Biết bao lời thề cam kết hôn nhân long trọng trước bàn thờ, nhưng chẳng được mấy tháng, mấy năm đã quay mặt trở lòng, thật đau xót ! Biết bao nhiêu lời quyết tâm, cải thiện đời sống, dứt bỏ tính mê khi xưng tội, nhưng chẳng được mấy ngày đã quên luôn ! Biết bao nhiêu lời thề từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những việc ma quỷ, tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa, nhưng lại coi thường, bỏ bê vì chạy theo những đam mê của cải, ăn chơi, tội lỗi !
Nguyện xin thánh Gioan đến thanh tẩy tâm hồn chúng con, chúng con biết noi gương Ngài, làm chứng về Đấng Cứu thế bằng lời nói, việc làm dù phải trả giá bằng cả mạng sống, vẫn trung kiên với lời thề tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô.
Ngôn sứ Gioan Tẩy Giả được xem là nhân vật lớn cuối cùng của thời Cựu Ước và là nhân vật đầu tiên của Tân Ước. Ông là nhịp cầu nối giữa Giao ước cũ với Giao ước mới, ông có sứ mệnh rất quan trọng là giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng.
Lần thứ nhất, lúc còn là một bào thai trong lòng mẹ là bà Êlisabét, thế nhưng Gioan đã biết nhảy mừng khi Đức Maria đến viếng thăm. Cử động của thai nhi khiến bà Êlisabét nhận ra sự viếng thăm của Thiên Chúa, bà kêu lớn tiếng và nói với Đức Maria: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng” (Lc 1, 42-44).
Và lần hai, Gioan Tẩy Giả nói về Đức Giêsu là lời này. Ông xác nhận Đức Giêsu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian. Người là Đấng mà ông có sứ mệnh đi trước dọn đường. Gio-an nhận ra Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai nhờ dấu chỉ mà Thiên Chúa đã cho biết như sau: “Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần”. Ông đã thấy điều ấy nơi Đức Giêsu khi làm phép rửa cho Người tại sông Giođan, và ông đã làm chứng rằng: “Người thực là Con Thiên Chúa”.
Con Thiên Chúa đã làm người, Ngài đón nhận trọn vẹn thân phận con người tội lỗi. Đến với Gioan Tẩy Giả để chịu phép rửa là Chúa Giêsu đến gánh vác lấy tất cả tội lỗi của nhân loại làm tội lỗi của mình. Và Ngài lấy chính bản thân Ngài, gồm cả cuộc sống, cái chết trên thập giá và sự sống lại của Ngài để đền bù tất cả tội lỗi đó thay cho chúng ta. Là Con Chiên vô tì tích, Ngài chấp nhận trở thành “con chiên gánh tội trần gian.”
“Chiên Thiên Chúa” gợi lên trong tâm trí ta toàn bộ giáo lý đức tin của dân riêng Thiên Chúa. Ngay lập tức, ta có thể nghĩ rằng không phải là một con chiên nhỏ bé nhưng là sự lớn lao của quyền năng và lòng thương xót Chúa hướng đến dân Do Thái qua dấu máu của con chiên, nhờ đó dân Do Thái được cứu thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập và được mang đến sự tự do và đời sống mới nơi đất Hứa. Mỗi năm và dịp lễ Vượt Qua, dân Do Thái tưởng nhớ và mừng lễ Cứu Độ bằng việc tham dự vào bữa ăn tối Vượt Qua.
Con chiên vượt qua là hình bóng Đấng cứu thế như ngôn sứ Isaia đã loan báo: “…chính các bệnh tật của chúng tôi, Ngài đã vác. Ngài đã bị đâm vì những phản nghịch của chúng tôi. Vì tội vạ của chúng tôi, Ngài đã bị nghiền nát…Ngài đã chịu đựng, không mở miệng, như con chiên dẫn đến lò sát sinh…Thiên Chúa đã ái mộ Ngài, đã phục sinh Đấng đã làm lễ hy sinh tạ tội. Ngài đã được trường sinh bất tử” (Is 53, 4-5.7).
Tác giả sách Lêvi diễn tả rất chi tiết về cảnh sát tế chiên trong đền thờ Giêrusalem trong dịp lễ Vượt qua như sau: “con chiên trong sạch được dẫn tới bàn thờ, mọi người giơ cao tay đổ hết mọi tội mình lên đầu con chiên, rồi nhổ lông, xé thịt nó. Nó không mở miệng kêu một tiếng. Người ta thiêu sinh nó làm lễ dâng lên Thiên Chúa, xin Thiên Chúa xoá tội cho dân mình” (Lv 1,4).
Theo truyền thống Do Thái trong sách Xuất Hành (Xh 29,38-42), thì mỗi ngày, vào sáng sớm và chiều tối, các tư tế trong đền thờ phải sát tế mỗi buổi một con chiên nhỏ cỡ một tuổi làm của lễ toàn thiêu để đền tội thay cho dân chúng. Như vậy tội lỗi của cả dân chúng mỗi buổi đều đổ hết lên đầu con chiên, và con chiên gánh tội ấy phải chết để đền tội thay cho dân chúng, hầu dân chúng được khỏi tội trước Thiên Chúa. Tội lỗi của dân chúng đối với Thiên Chúa đáng lẽ phải trả giá bằng sinh mạng của chính con người, nhưng Thiên Chúa đã chấp nhận để con chiên chết thay con người. Đức Giêsu đã trở thành chiên hy sinh như thế: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (1Cr 5,7)
Người gánh lấy tội của ta để ta được tha thứ. Người hạ mình xuống để ta được nâng lên. Người trở nên nghèo hèn để ta được giàu có. Người làm con loài người để ta được làm con Thiên Chúa. Người trở nên yếu hèn để ta được nên mạnh mẽ. Người chịu nhục nhã để ta được vinh quang. Người nhận lấy thân phận nô lệ để ta được tự do. Người cam lòng chịu chết để trả lại cho ta sự sống.
Theo lời chứng của ông Gioan, Chiên Thiên Chúa là Đấng đầy Thần Khí, được Thiên Chúa tuyển chọn để thực hiện một sứ mạng cao cả, đến để gánh lấy mọi tội lỗi của trần gianvà ban ơn Cứu Độ cho muôn loài. Chiên Thiên Chúa không là một danh hiệu nhưng là một sứ mạng. Đó là Con Chiên hiền lành vô tì tích để cho người ta dẫn đi đánh đòn và chịu sát tế trong lễ Vượt Qua. Đó là vị tôi trung khiêm tốn cúi mình xuống phục vụ con người. Là Con Chiên vô tội, nhưng Chúa Giêsu đã hòa mình vào đám tội nhân. Con Chiên không đi tìm quyền bính hay sự giàu sang nhưng chịu hủy mình ra không để trở thành tất cả cho mọi người.
Chúa Giêsu chính là Đấng cứu thế dẫn đưa đoàn dân sống trong bóng tối lầm than đến với ánh sáng cứu độ. Hài Nhi Giêsu chính là Ánh Sáng xua tan bóng tối của đau khổ, đưa nhân loại thoát khỏi chốn u mê lầm lạc của tội lỗi và sự chết. Người cất đi cái ách nặng và gông cùm đang đè lên cổ loài người. Người chính là món quà tình yêu cao quý được Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta, tên Người là Cố vấn Kỳ Diệu, là Thần Linh dũng mãnh, là Người Cha muôn thưở và là vị Vua Thái Bình. Người đến khai mở một triều đại mới, đưa muôn dân nước trở về hưởng phần gia nghiệp của con cái Thiên Chúa.
Thánh Gioan làm chứng cho Chúa Kitô và muốn cho mọi người đến với Chúa: “Tôi đến làm phép rửa để mạc khải Người cho dân Israel”. Sứ mạng của người làm chứng có mục đích hướng dẫn người ta đến gặp Chúa, và khi người nghe đã gặp được Chúa rồi thì người làm chứng phải rút đi, vai trò của mình đã xong, hãy để cho Chúa Kitô trực tiếp hướng dẫn các linh hồn trên con đường mà Ngài muốn. Người làm chứng biết là Chúa Kitô trọng tự do lương tâm của người nghe. Hai người môn đệ của Gioan đã theo Chúa và ở lại với Chúa, họ đã quên đi Gioan để rồi đến phiên họ, họ cũng làm chứng cho Chúa: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”.
Trong thánh lễ, chúng ta cùng tuyên xưng niềm tin vào Đấng là Chiên Thiên Chúa “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Với tất cả lòng biết ơn Thiên Chúa về những gì đã lãnh nhận, chúng ta hãy thể hiện niềm tin ấy bằng đời sống bác ái yêu thương, bằng thái độ phục vụ quảng đại khiêm tốn.
Khi nhận ra những ân huệ cao quý của Thiên Chúa, chúng ta cũng được mời gọi chia sẻ cho tha nhân. Bởi lẽ chúng ta đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Chia sẻ không làm cho chúng ta nghèo đi nhưng là trở nên giàu có trong ân sủng và tình yêu.Thánh Gioan đã dành cả cuộc đời để giới thiệu và làm chứng cho Đấng là Chiên Thiên Chúa, chúng ta cũng được mời gọi can đảm đón nhận tất cả những khó khăn hy sinh vất vả vì danh Chúa Giêsu. Chúng ta hãy ý thức thân phận yếu đuối tội lỗi của mình mà vững lòng trông cậy vào ơn Chúa.
Ta cùng nguyện xin Chúa cho ta ở trong quyền năng của ơn thánh, để được lãnh nhận sức mạnh giải thoát từ Chiên Thiên Chúa, để chúng ta có thể sống xứng đáng phẩm giá con người như Thiên Chúa đã tạo dựng. Chúng ta cũng cầu xin Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại luôn tỏ quyền năng của Người, để giúp chúng ta luôn sống trong tình yêu Người.
Tin mừng Chúa Nhật hôm nay nói về sứ mạng của Thánh Gioan Tẩy Giả là giới thiệu và làm chứng cho Đấng Cứu Thế. Qua đó, mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta phải là những Gioan Tẩy Giả của thời đại, đó là luôn biết giới thiệu và làm chứng cho Đức Giêsu ở mọi nơi mọi lúc.
Thánh Gioan Tẩy Giả còn được gọi là Thánh Gioan Tiền Hô vì Ngài có sứ mạng đi trước để dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Ngài là con ông Gioakim và Bà Isave, có họ hàng với Đức Giêsu. Vì những liên hệ đó, nên trước khi Đức Giêsu chịu phép rửa, chắc chắn Gioan đã biết về Người nhưng có lẽ Ngài chỉ biết về con người của Đức Giêsu chứ chưa biết về Thần tính của Người, nghĩa là Ngài biết chưa đầy đủ. Vì thế, Ngài không dám nhận bừa là đã biết, cho nên Ngài mới nói rằng “Tôi không biết Người.”(x. Ga 1,31).
Nhưng sau khi Thánh Gioan làm phép rửa cho Đức Giêsu, thì Thánh Nhân đã biết Người một cách đầy đủ, tường tận: “Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Ðấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.”(x. Ga 1,33). Vì thế, Ngài đã khẳng định rằng: “Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa.” (x. Ga 1,34).
Với nhiệm vụ dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến, Thánh Gioan Tẩy Giả đã dùng lời nói và việc làm của mình để làm chứng cho Đức Kitô. Nhưng đáng kể nhất là những lời chứng sau đây:
Lời chứng thứ nhất: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.” (x. Ga 1,29).
Theo lẽ thường tình, ai phạm tội, kẻ đó cần phải trả giá bằng chính sinh mạng của mình, nhưng vì tình thương nên Thiên Chúa đã chấp nhận để cho con chiên đền tội thay cho con người. Vì thế, theo sách Xuất Hành, vào sáng sớm và chiều tối mỗi ngày, các tư tế trong đền thờ phải sát tế mỗi buổi một con chiên làm của lễ toàn thiêu để đền tội thay cho dân chúng. Như vậy, tội lỗi của cả dân chúng mỗi buổi đều đổ hết lên đầu con chiên, và con chiên gánh tội ấy phải chết để đền tội thay cho dân chúng, hầu dân chúng được khỏi tội trước mặt Thiên Chúa (x. Xh 29,38-42).
Khi Gioan giới thiệu Đức Giêsu “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian,” thì Ngài muốn nói rằng Đức Giêsu đã trở thành Chiên Hy Sinh để xóa bỏ tội trần gian. Sau này, chính Thánh Phaolô cũng khẳng định điều đó khi nói rằng: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (x. 1Cr 5,7)
Lời chứng thứ hai: “Một người đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi, vì Ngài cao trọng hơn tôi.” (x. Ga 1,30).
Uy tín của Gioan Tẩy Giả càng ngày càng nâng cao nhờ vào đời sống và lời giảng dạy của Ngài. Vì vậy, người đương thời tưởng Ngài là Đấng Cứu Thế. Nhưng Ngài phủ nhận điều đó và khiêm nhường nhận mình “chỉ là tiếng kêu trong hoang địa.” Rồi Ngài khẳng định: “Người đến sau tôi, cao trọng hơn tôi, tôi không đáng để cởi quai dép cho Người.” (x. Ga 1, 19-28).
Lời chứng thứ ba: “Tôi làm phép rửa trong nước còn Người đến sau tôi làm phép rửa trong Thánh Thần.” (x. Ga 1, 26.33).
Đây là sự khác nhau giữa Phép Rửa của Thánh Gioan và Phép Rửa của Đức Giêsu. Phép Rửa của Gioan bằng nước, còn Phép Rửa của Đức Giêsu bằng Thánh Thần. Phép Rửa của Thánh Gioan chỉ kêu gọi người ta thống hối ăn năn tội chứ không tha tội, còn Phép Rửa của Đức Giêsu tha thứ tội lỗi: tội Tổ Tông và tội riêng (nếu có). Phép Rửa của Gioan chỉ dừng lại ở lòng thống hối, Phép Rửa của Đức Giêsu là cửa ngõ để dẫn vào các Bí tích khác, nhất là cửa ngõ để dẫn con người vào Nước trời “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần”(x. Ga 3,5).
Lời Chứng thứ tư: “Chính Ngài là Con Thiên Chúa.” (x. Ga 1,34).
Chúng ta biết được Đức Giêsu là Thiên Chúa nhờ chính mạc khải của Kinh Thánh: Khi Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, chính sứ thần Chúa đã hiện ra báo tin cho các mục đồng biết rằng: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.” (x. Lc 2, 8-14); khi Hài Nhi được tiến dâng cho Thiên Chúa trong Đền Thờ, ông Simêon và bà Anna nhận ra Hài Nhi là Đấng Cứu Thế và cả hai nói tiên tri về Người (x. Lc 2,33-38); chính bà Isave cũng nhận ra Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế (x. Lc 1,43); và hôm nay Thánh Gioan nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhờ có tiếng Chúa Cha phán từ trời và nhờ Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu trên đầu Đức Giêsu: “Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Ðấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.” (Ga 1,33).
Cũng như Gioan, để làm chứng cho Đức Giêsu, chúng ta cũng phải biết về Người.
Trước hết, đó là cái biết vì tri thức. Thánh Giêrônimô nói: “Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Kitô.” Vì vậy, để biết Đức Kitô chúng ta cần phải đọc, học hỏi Kinh Thánh, học hỏi giáo lý của Người. Điều này, nhắc nhở sự quan tâm của những người có trách nhiệm trong việc dạy giáo lý: Cha xứ đối với giáo dân; thầy cô giáo lý viên đối với học sinh; cha mẹ đối với con cái; người có đạo đối với những người lương dân, nhất là những người có trách nhiệm dạy đạo cho các dự tòng và tân tòng.
Thứ đến, đó là cái biết về tương quan thần linh với Thiên Chúa. Hay nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống mà Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2,20) Điều này được thể hiện qua đời sống đạo. Người biết Thiên Chúa về điểm này thường có đời sống đạo tốt, siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các Bí tích. Lời nói và đời sống đạo của họ đi đôi với nhau. Nghĩa là họ đã xác tín điều họ nói. Cho nên, lời nói của họ rất có tính thuyết phục. Vì “con người thời đại thích chứng nhân hơn thầy dạy.” (Đức Phaolô VI). Đó là những con người “mang Tin Mừng, mang sức mạnh của Thiên Chúa.”
Cuối cùng, để làm chứng về Đức Giêsu, chúng ta phải “nên thánh”, trở nên Con Chiên của Ngài. Con chiên thì hiền lành. Con chiên thì khiêm nhường. Con chiên thì chấp nhận ghánh tội thay cho người khác. Tin mừng Thánh Mathêu cho chúng ta biết những ai thuộc thành phần Chiên, đó là những người: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm.” (x. Mt 25,35-36).
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết chăm chỉ học hỏi giáo lý và thực hành những gì giáo lý đòi hỏi để khi chúng con làm chứng cho Chúa thì lời chứng của chúng con có sức thuyết phục đối với mọi người. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Về mặt họ hàng máu mủ thì Gio-an phải biết rất rõ về người em họ Giêsu của mình, thậm chí có thể ngay từ khi còn trong bụng mẹ (Lc 1:44); còn nếu xét về vai trò tiền hô giới thiệu đấng Thiên Sai cho mọi người thì hơn ai hết ông lại càng phải biết rõ người ông giới thiệu là ai. Thế mà trong đoạn Phúc âm ngắn hôm nay, đã có tới hai lần Gio-an bộc bạch: “Tôi đã không biết Người” (Ga 1:31.33). Ông còn xác minh thêm rằng: ông tới kêu gọi dân chúng sám hối và nhận lãnh phép rửa trong nước là để “Người được tỏ cho dân Ít-ra-en”, chứ không chỉ nhằm mục đích muốn họ cải thiện đời sống; tại sao vậy?
Khi giới thiệu cho dân chúng và các môn đệ mình về Thầy Giêsu – vị Thiên Sai phải đến, Gio-an đã sử dụng một điển ngữ khá phổ thông của Cựu Ước, ‘Chiên Thiên Chúa’. Đối với người Do Thái, hầu như ai cũng hiểu nó ám chỉ ‘người tôi tớ Gia-vê’, mang nội dung tự hiến và phục vụ, đấng sẽ giải thoát hay cứu chuộc dân theo hình ảnh Chiên Vượt Qua (xem Xh 12:1-14 và Mc 14:12). Điển ngữ này rất phổ thông trong thời các ngôn sứ, nhưng dần bị lu mờ vào thời điểm La Mã thống trị do các khuynh hướng chính trị. Chắc hẳn Gioan đã muốn khơi lại truyền thống ngôn sứ, thay vì ngả theo quan điểm của giới lãnh đạo đương thời. Thế nhưng cái diện mạo Thiên Sai mà Gio-an mới phát hiện ra nơi nhân vật Giêsu thì lại chưa có gì là rõ ràng: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người”. Ông đã chứng kiến quang cảnh Thần Khí ngự xuống trên Giêsu sau khi lãnh phép rửa của ông, và vì đã được báo trước cho biết đó là dấu hiệu của đấng Thiên Sai, ông nhận ra Ngài. Thế nhưng bản chất thực của Thần Khí đó là gì thì ngay cả ông cũng chưa nắm bắt vững; quan niệm Cựu Ước về một thần khí như uy quyền thông trị của Đức Chúa vẫn chi phối ông cho tới giờ phút này, và ông không hề tìm thấy những nét đó nơi nhân vật Giêsu. Về điều này Gio-an sẽ còn tiếp tục khắc khoải tìm hiểu một thời gian dài: “Thầy có phải là đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Lc 7:19) Trong nội dung này ông hiểu ra rằng, giữa việc hối nhân dìm mình xuống dòng sông ông thực hiện và việc thanh rửa trong Thánh Thần do Đấng Thiên Chúa tuyển chọn sẽ thực hiện có khác biệt một trời một vực. Rửa trong nước do ông thực hiện để sám hội và hướng thiện (cụ thể hơn là để giữ trọn lề luật) thì đã rõ… nhưng còn rửa trong Thánh Thần để có sức mạnh thần khí thì chưa có gì là rõ ràng. Hiểu được điều này cũng có nghĩa là tiến từ Cựu ước qua Tân ước, hiểu được Đức Kitô và đã nắm được mấu chốt của niềm tin Kitô hữu.
Đức Giêsu, khi gặp lại các đồng hương Na-da-rét đã quá quen biết nhau, đã dùng lời ngôn sứ I-sai-a để tự giới thiệu mình: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi” (Lc 4:18), tuy nhiên, diện mạo của ‘Thần Khí’ Người áp dụng cho mình lại rất khác lạ với hình ảnh ‘thần khí’ đang phổ biến. Ngôn sứ I-sai-a đã phác họa một đấng Mê-si-a không quyền lực, không khổ hạnh nhưng chuyên phục vụ; hình ảnh này đã bị các Biệt Phái luật sĩ lãng quên từ lâu. Sau này cuộc sống và lời rao giảng của Người sẽ không nặng mùi luân lý khổ hạnh, nhưng hiện rõ nét tự do trong yêu thương, khác xa đời sống và lời giảng dạy của Gio-an – vị ngôn sứ tiền hô luôn đậm nét luân lý nghiêm khắc và cương trực (xem Mt 3,1-12). Nhưng cũng chính Gio-an tiền hô đã đưa ra những lời chứng quan trọng, đó là ‘Đấng Thiên Chủa tuyển chọn’ phải là con người của Thần Khí, và phép rửa do đấng ấy thực hiện phải là phép rửa trong Thánh Thần.
Vì đã lãnh nhận bí tích rửa tội của Đức Kitô chứ không phải của Gio-an (xem Cv 19:1-7), Kitô hữu chúng ta không thể tự cho phép mình xây dựng một cuộc sống đức tin nặng về luân lý đạo đức, nhưng phải triển khai sức sống mãnh liệt của Thần Khí yêu thương và phục vụ. Luân lý đạo đức là điều tốt và cần thiết chung cho hết mọi người, có đạo hay không có đạo, nhưng nó không bộc lộ được cái sức Tin Mừng của Thần Khí. Để cho cuộc sống đức tin được phong phú, ăn ngay ở lành hoặc sống lương thiện tự bản chất là chưa đủ. Bao lâu những người sống quanh ta còn chưa nhận ra ‘Thần Khí Chúa xuống trên tôi’ như đã xuống trên Đức Kitô, thì họ chưa thể nhận biết Kitô hữu là những ‘người được Thiên Chúa tuyển chọn’. Và họ vẫn có thể nói về niềm tin Kitô hữu của chúng ta: ‘chúng tôi không hề biết các người’. Vì hoặc là Kitô hữu sống mãnh liệt Thần Khí, hoặc tôi sẽ chẳng khác chi người thường, dầu có sống ngay chính và lương thiện tới mấy đi nữa!
Lạy Chúa, trong tư cách linh mục của Đức Kitô Giêsu, con có bổn phận giúp cho các tín hữu sống ơn bí tích rửa tội mà họ đã lãnh nhận. Xin cho con biết nhận thức rõ rằng, họ đã được rửa trong Thánh Thần của Đức Kitô, chứ không phải trong nước của Gio-an. Chỉ như thế việc mục vụ của con mới không chỉ giới hạn trong việc giữ họ sống lương thiện, nhưng là nỗ lực giúp họ triển khai sức sống phong phú của Thánh Thần tình yêu, nhờ thế họ được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật II thường niên A, thánh sử Gioan thuật lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ sinh động và đầy ấn tượng mà ông chứng kiến tận mắt giữa thầy mình là Gioan Tẩy Giả với Chúa Giêsu, ông viết: “Khi ấy, ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình” (Ga 1, 29). “Thấy Chúa Giêsu tiến về mình”, đây là một hành động tương lai, tiếng Hy bá còn diễn tả ‘ngày mai’. Nhưng tương lai này có sự liên tục với Giao Ước cũ, vì Gioan Tẩy Giả đã không nói về chính mình, lời của ông được rút ra từ Cựu Ước đan vào nhau để làm sáng tỏ các mầu nhiềm. Bằng từ ‘ngày mai’, chúng ta bắt đầu một ngày mới, Năm Phụng vụ mới khai mào. Gioan Tẩy Giả thấy sự huy hoàng rực rỡ của Giao Ước mới tiến lên thì nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.” (Ga 1, 29)
Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa
Gioan Tẩy Giả khẳng định, Chúa Giêsu đến trần gian với một sứ vụ đặc biệt là giải thoát con người khỏi tội lỗi. Nhưng người ta tự hỏi: Người giải thoát con người bằng cách nào? Thưa, bằng tình yêu. Bởi tình yêu là khí cụ duy nhất để chiến thắng sự dữ và sự tội. Chúa Giêsu yêu chúng ta bằng một tình yêu thế mạng. Người là Chiên duy nhất chết thay cho đoàn chiên là chúng ta. Không những thế, Người còn phục hồi tất cả những ai sống trên trần gian này và cứu chuộc mang về cho Thiên Chúa Cha. Một người chết thay cho toàn dân, để tất cả vâng phục Thiên Chúa; chỉ một mình Người đã chịu chết để cứu chuộc muôn người… Thật thế, con người đã trở nên hư hỏng, sống trong tội lỗi là lý do tại sao Chúa Cha đã cho Con mình tới làm giá chuộc muôn người (x. Ga 3,16; Mc 10, 45), Chúa Giêsu đã trở nên Con Chiên thật xóa bỏ tội trần gian.
Là Đấng xóa tội trần gian
Tội lỗi là nguồn gốc và là căn nguyên của sự chết, làm thế nào thoát khỏi cái chết đời đời? Chắc chắn phải hủy diệt sự chết. Chúa Giêsu là Đấng vô tội đã gánh chịu những đau khổ và mang lấy tật nguyền của chúng ta (x. Is 53,4) Người đã vui lòng chịu chết trên thập giá và hiến tế vì chúng ta, đúng thật Người là Con Chiên đã chịu chết và sống lại để tiêu diệt sự chết và tẩy xóa tội khiên. Khi cử hành lễ hy sinh của Con Chiên trong niềm vui, thánh Phaolô nói rằng: “Hỡi sự chết, chiến thắng của ngươi ở đâu? Hỡi sự chết, nọc đâu của người ở đâu? “(1 Cr 15,55; Os 13,14…) ” Ðức Kitô đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa vì Lề Luật ” (Gal 3, 13), để chúng ta có thể thoát khỏi lời nguyền của tội lỗi. Người đích thực là Con Chiên vượt qua, bị nhấn chìm trong dòng sống tội lỗi để thánh tẩy chúng ta.
Sống đời nhân chứng
Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho Chúa Giêsu không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả đời sống mình. Ngài đã chỉ vào Chúa và nói với dân chúng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh hết mọi tội trần gian”. Ngài bước đi trên con đường khổ giá và làm chứng cho Chúa Giêsu, Đấng hiến mình chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Ngày hôm nay chúng ta là những môn đệ của Chúa, chúng ta cũng cần phải noi gương thánh Gioan Tẩy Giả làm chứng cho Chúa để qua đời sống thánh thiện của mình khiến nhiều người nhận biết Chúa.
Có người đặt vấn nạn: Giữa một xã hội gian dối lọc lừa, ích kỷ, hưởng thụ, ghen ghét, hận thù và coi nhẹ sự thủy chung, chúng ta làm chứng cho Chúa thế nào được?
Ðức Thánh Cha Phanxicô gợi lên cho chúng ta câu trả lời: làm chứng cho Chúa có nghĩa là gì nếu không phải là lấy hiền từ đối lại cái ác, lấy tình yêu thay thế sức mạnh, lấy khiêm nhường bù lại kiêu hãnh, lấy phục vụ đối lại cao danh. Là những người môn đệ của Con Chiên có nghĩa là không sống như một “thành trì bị vây hãm”, nhưng như một thành phố đặt trên núi cao, mở ra, đón nhận và liên đới. Nó có nghĩa là không được có thái độ đóng lại, nhưng mang Tin Mừng đến cho tất cả, làm chứng bằng cuộc sống của chúng ta rằng bước theo Ðức Giêsu giúp chúng ta tự do hơn và hoan lạc hơn” (Kinh truyền tin Chúa nhật 19/01/2014).
Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con.
Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin giúp chúng con biết dùng lời nói và việc làm để loan báo Tin Mừng của Chúa cho anh chị em chúng con. Amen.
Một thủ tục đầu tiên, hay đúng hơn, một nghi thức đầu tiên mà trong bất cứ một buổi hội họp hay bữa tiệc lớn nhỏ nào, người ta vẫn thường làm, đó là giới thiệu những chức sắc, những nhân vật quan trọng. Trong cuộc sống xã giao hằng ngày cũng vậy, mỗi khi gặp những người mới lạ, người ta cũng thường giới thiệu nhau. Như vậy, giới thiệu nhau là một điều rất bình thường, và tất cả chúng ta đều biết mục đích của việc giới thiệu là để biết nhau.
Trong các sách Tin mừng, chúng ta thấy kể lại một số trường hợp giới thiệu. Chẳng hạn Chúa Cha giới thiệu Chúa Giêsu. Đó là trường hợp bên bờ sông Giocđan, khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, cũng như trên đỉnh Tabôrê, có tiếng nói từ trời:”Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”. Đó là Chúa Cha giới thiệu cho mọi người biết Chúa Giêsu chính là Chúa Con, rất đẹp lòng Chúa Cha, một lời giới thiệu ngắn gọn, nhưng rất đầy đủ.
Rồi chúng ta thấy Chúa Giêsu giới thiệu Chúa Cha. Đó là khi người Do thái thắc mắc muốn biết về Chúa Cha, họ đã hỏi Chúa: “Cha ông là ai?” Chúa đáp lại: “Nếu các ngươi biết Ta, là các ngươi biết Cha Ta”. Tông đồ Philípphê cũng hỏi Chúa tương tự như vậy: “Xin Thầy tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con”. Chúa trả lời: “Đã bao lâu rồi Thầy ở với các con, thế mà các con không biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Như vậy, Chúa Giêsu giới thiệu Chúa Cha bằng cách nói đến chính mình. Xác định mình là hình ảnh của Chúa Cha.
Trong đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy thánh Gioan Tẩy giả giới thiệu Chúa Giêsu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Lời giới thiệu này chứng tỏ thánh Gioan là một người ý thức sứ mệnh tiền hô của mình, ngài đã nói cho các môn đệ của mình và mọi người biết Chúa Giêsu là Đấng thiên sai, là Đấng cứu thế, là Con Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến để cứu chuộc mọi người và sau đó Ngài còn khẳng định: “Có Đấng đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi, tôi thấy và tôi làm chứng, chính Ngài là Con Thiên Chúa”.
Như chúng ta đã nói: mục đích của sự giới thiệu là để biết nhau. Muốn giới thiệu ai, thì phải biết người đó. Tùy theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết về nhau nhiều hay ít. Nếu không biết rõ về một người, thì có thể giới thiệu sai về người ấy. Chẳng ai muốn người khác giới thiệu sai về mình. Giới thiệu sai về một người là xúc phạm đến người đó, và cũng mắc lỗi với người mình giới thiệu. Vì thế, muốn giới thiệu ai thì phải biết rõ về người ấy, cũng vậy, để giới thiệu Chúa, chúng ta phải biết Chúa.
Vậy đâu là khuôn mặt đích thực của Chúa Giêsu để chúng ta giới thiệu? Tin mừng Gioan đã cho chúng ta biết: “Chúa là tình yêu”. Bởi vậy, bất cứ lời giới thiệu nào về Chúa Giêsu mà không diễn tả tình yêu thương của Người, đó là dấu chỉ cho chúng ta biết chúng ta đang giới thiệu sai khuôn mặt của Chúa. Vì thế, lời giới thiệu trung thực về Chúa Giêsu phải là lời ca ngợi về Chúa của tình thương. Để nói về tình thương, chúng ta phải có kinh nghiệm về tình thương, như chúng ta vẫn nói:”Không ai cho cái mình không có”. Không có thì làm sao cho được? Chúng ta không có tình yêu thương thì làm sao chúng ta chia sẻ tình yêu thương được? Do đó, cách chúng ta có thể làm được để giới thiệu tình thương của Chúa là chúng ta chuyển thông cho người khác kinh nghiệm tình thương của Chúa đối với chúng ta, và cách chuyển thông chính xác nhất, đó là chúng ta yêu thương người khác với lòng chân thành của mình.
Trên nóc một ngôi nhà thờ ở bên Đức, người ta nhìn thấy bức tượng hình con chiên được tạc bằng đá. Nguồn gốc bức tượng ấy như sau: Một anh công nhân đang làm việc trên mái nhà thờ này thì dây an toàn bị đứt, thế là anh ta bị rớt xuống sân. Mà sân thì lại đang chất toàn những đống đá lớn. Thế nhưng anh ta không bị thương nặng, chỉ vì lúc bấy giờ có một con chiên đang gặm cỏ giữa hai đống đá. Anh ta rớt xuống trên con chiên, đè nó chết nhưng anh ta thì lại được sống. Để nhớ ơn, anh ta đã chạm trổ một con chiên bằng đá và đặt ở trên nóc nhà thờ, anh nghĩ đó là một cách tốt nhất để bày tỏ lòng biết ơn đối với con vật đã cứu mạng cho anh mà nó lại chẳng hề biết.
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta phải biết ơn sâu xa đối với Đức Kitô, con Chiên Thiên Chúa đã cứu chúng ta khỏi cái chết đời đời. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã hy sinh mạng sống như lời thánh Gioan Tiền Hô đã xác quyết: Đây Con Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian.
Với người Do Thái thời bấy giờ, con chiên trong Cựu Ước thường được dùng làm hy tế. Khi Gioan giới thiệu Chúa Giêsu là Con Chiên, thì có nghĩa là Ngài sẽ trở thành lễ vật hiến tế để giao hoà con người với Thiên Chúa.
Hình bóng của Cựu Ước đã được nên trọn vẹn nơi Tân Ước. Không chỉ qua đoạn Tin Mừng hôm nay chúng ta mới thấy Đức Kitô được gọi là con chiên. Hơn thế nữa, thánh Gioan trong sách Khải Huyền đã gọi Đức Kitô là con chiên những 27 lần, ngoài ra thánh Gioan còn xác quyết: Đức Kitô đã chịu chết vì tội lỗi chúng ta.
Giáo Hội ngay từ thời sơ khai cũng đã nhiều lần dùng hình ảnh con chiên để nói về Đức Kitô trong những tác phẩm của mình. Đặc tính của con chiên là sự ngây thơ, hiền lành, nhẫn nhục, trong sạch. Đó là những đức tính quý báu của Đức Kitô, con chiên không tì vết.
Là người kitô hữu, chúng ta không ngừng cầu khẩn Ngài với danh hiệu con Chiên Thiên Chúa. Lát nữa đây, trước khi rước lễ, chúng ta sẽ hát lên: Lạy Chiên Thiên Chúa. Anh công nhân Đức đã tạc tượng kỷ niệm để nhớ ơn con chiên đã cứu mạng cho anh mà nó chẳng hề sẵn sàng. Còn Đức Kitô vì yêu thương chúng ta, đã sẵn sàng chịu chết vì chúng ta.
Thế nhưng chúng ta đã làm được những gì để biểu lộ lòng biết ơn và lòng yêu mến của chúng ta đối với Ngài?
Phụng vụ hôm nay giới thiệu cho chúng ta Đức Giêsu Đấng Cứu Thế. Ngài là Chiên Thiên Chúa, Đấng đã bị sát tế trên Thập giá, và cũng là đối tượng đức tin của mọi Kitô hữu. Cái chết của ‘Chiên Con khải hoàn’ đã khai mở cho chúng ta kỷ nguyên ơn cứu độ.
Hình ảnh Con Chiên trong Thánh kinh
Thánh Kinh nói khá nhiều về con chiên. Bên bờ sông Giordan, Thánh Gioan tiền hô đã giới thiệu Đức Giêsu cho đám đông: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Mỗi lần tham dự Thánh lễ, vị chủ tế cũng nhân danh Giáo hội đọc lại văn thức này trước lúc mọi người tiến lên hiệp lễ. Khi chúng ta rước Mình và Máu Thánh Chúa, chúng ta được ngồi vào bàn tiệc cưới Con Chiên, Đấng đã bị hiến tế, và máu của Ngài thanh tẩy mọi tội lỗi nơi chúng ta.
Trong xã hội Do Thái ngày xưa, hình ảnh con chiên đã trở nên rất quen thuộc trong sinh hoạt thường ngày của người dân, vốn sống đời du mục. Trong đêm xuất hành khỏi đất Ai Cập, người Do Thái cũng ăn bữa tiệc vượt qua với thịt chiên. Máu chiên được bôi lên cửa như dấu chỉ sự can thiệp nhiệm mầu của Thiên Chúa, Đấng cứu dân Ngài khỏi ách nô lệ. Bữa ăn vượt qua năm xưa là hình ảnh tiên báo bàn tiệc cánh chung mà sách Khải Hoàn gọi là ‘Tiệc Cưới Chiên Con’. Những ai tham dự bàn tiệc này, đều mặc áo trắng tinh, tấm áo đã được giặt trong máu con chiên vô tội, dấu chỉ của sự trinh trong và vinh thắng khải hoàn. Sách khải hoàn đã lập đi lập lại tất cả 27 lần hình ảnh con chiên sát tế này.
Bài học của Thánh Gioan Tiền Hô.
Gioan đã giới thiệu và làm chứng về Đức Giêsu cho mọi người. Ngài là một ngôn sứ lỗi lạc, nhưng đã ẩn mình để Đức Giêsu được lớn lên. Thánh Gioan công bố: “Có người đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cúi xuống xách dép cho Ngài”. Được Thần Khí thúc đẩy, vừa thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, Gioan đã giới thiệu Đấng Messia cho mọi người.”
Cũng như Gioan, chúng ta đã biết về Đức Giêsu và trở nên môn đệ Ngài. Nhưng sự hiểu biết về Đức Giêsu không phải chỉ dừng lại trên bình diện tri thức, song còn phải biến trở thành hành động, bằng một lối sống cụ thể. Mỗi lần chúng ta đến nhà thờ tham dự Thánh lễ, chúng ta có thực sự đến để tiếp cận Đức Giêsu – Chiên Thiên Chúa, hay chúng ta đi tham dự Thánh lễ chỉ vì bổn phận hoặc theo thói quen. Khi lên rước lễ, chúng ta có thực sự ý thức ‘đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa tội trần gian’, hay chúng ta chỉ tiến lên một cách máy móc như một cái xác vô hồn. Chúng ta cần phải đi sâu vào cảm thức đức tin để trong cuộc sống, chúng ta luôn sống xứng đáng là những môn đệ của Đức Giêsu một cách đích thực.
Thánh Gioan đã cảm nhận ra Đấng Cứu Thế nơi nhân vật đang tiến về phía mình. Ngài liền lên tiếng giới thiệu Chúa cho mọi người. Giáo hội mời gọi chúng ta cũng hãy học lấy thái độ của Thánh Gioan, không chỉ đào sâu niềm tin vào Đấng Cứu Thế, song còn phải giới thiệu Chúa cho những người khác, qua chính cuộc sống của chúng ta mỗi ngày.
Sứ điệp của Đức Giêsu, Chiên Thiên Chúa.
Trong bài đọc một, tiên tri Isaia cũng phác vẽ hình ảnh Đấng Messia, như một người tôi tớ của Giavê. Người tôi tớ đó đã được Đức Chúa đặt làm ‘Ánh sáng muôn dân’ để đem ơn cứu độ đến tận cùng thế giới. Cũng vậy, khi Gioan giới thiệu Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Ngài cũng gợi nhắc về hình ảnh con chiên bị sát tế rất hiền lành và khiêm tốn, một con chiên bị đem đi xén lông mà không kêu ca mở miệng. Chúa Giêsu cũng đã từng mời gọi các học trò: “Các con hãy học với Ta, vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Đây là bài học căn bản nơi Đức Giêsu, con chiên bị sát tế trên Thập giá, mà chúng ta phải học hỏi, phải học mãi, và học cho đến suốt đời.”
Đức Cha Roncali, khi còn làm Sứ thần Tòa thánh ở Bungari đã nhận được một bức thư mà một linh mục nọ đã viết để bêu xấu Ngài. Vị linh mục chỉ trích Ngài một cách thậm tệ, nhưng Đức Cha không hề buồn giận chút nào. Ngài vẫn cầu nguyện cho người anh em linh mục đó. Hai mươi năm sau, Ngài được bầu chọn làm Giáo hoàng với tước hiệu Gioan 23. Trong một lần về Rôma để yết kiến Đức Thánh Cha, vị linh mục kia cũng ghi danh vào trong phái đoàn để gặp gỡ vị chủ chăn đáng kính. Vị linh mục này hy vọng rằng thời gian đã lâu, vả lại với bao công việc bề bộn, có lẽ Đức Thánh Cha chẳng còn nhớđến bức thư năm xưa. Nhưng khi vào triều yết, vị linh mục này rất ngạc nhiên khi được Đức Thánh Cha chào đón niềm nở và hỏi thăm công việc mục vụ của Ngài rất chân tình. Sau đó vị chủ chăn tiến đến bàn làm việc lấy ra cuốn sách nguyện, trong đó có kẹp lá thư mà vị linh mục kia đã gửi cho Ngài trước đây. Đức Thánh Cha nói: “Con yên tâm, Cha cảm ơn con nhiều lắm. Cha vẫn giữ món quà quý giá này và để nó trong sách nguyện của Cha. Cha vẫn thường đọc lại bức thư đó để xét mình hằng ngày”. Sau đó, Đức Thánh Cha ôm hôn vị linh mục một cách thắm thiết”. Đây là hình ảnh rõ nét về một vị mục tử chân chính, luôn diễn bày sự khiêm tốn và hiền lành đối với hết mọi người, nhất là đối với các anh em linh mục.
Kết luận
Trên nóc nhà thờ Werden ở một ngôi làng nhỏ bên Đức, thay vì đặt một cây Thánh gía, người ta cho đúc tượng một con chiên. Truyền thuyết kể lại rằng khi xây dựng nhà thờ, một anh công nhân từ trên tháp chuông đã bị rơi xuống đất, ở dưới có mấy con chiên đang gặm cỏ. Người công nhân rơi trúng một con chiên ở dưới. Con chiên đã chết, còn anh công nhân vẫn không hề hấn gì. Truyền thuyết đó gợi nhắc về Đức Giêsu, là Con Chiên vượt qua, Đấng đã chết để cho chúng ta được sống và sống dồi dào.
Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta giặt chiếc áo linh hồn mình trắng tinh trong máu Con Chiên vô tội và được tham phần vào bàn tiệc Nước Trời. Đây là món quà lớn nhất mà Thiên Chúa ban trao. Chúng ta hãy tham đự Thánh lễ với cảm thức đức tin sâu xa này, để đến lượt mình, chúng ta cũng biết quảng diễn tình yêu cứu thế của Chúa Giêsu cho mọi người.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, Gioan Tiền Hô đã giới thiệu Chúa Giêsu: Đây Chiên Thiên Chúa. Thế nhưng hình ảnh con chiên có ý nghĩa gì trong Kinh Thánh?
Trong sách Samuel quyển thứ 2, tiên tri Nathan có kể cho vua Đavít nghe câu chuyện như sau: Có hai người trong một thành phố. Một người thì giàu sang và thế lực. Còn một người thì nghèo túng và hèn mọn. Gã giàu sang có một đàn chiên đông đảo, trong khi anh nhà nghèo chỉ có một con chiên nhỏ bé. Đứa con của anh nhà nghèo rất thương con chiên ấy và chơi đùa với nó suốt ngày. Thế rồi bữa kia, gã nhà giàu có khách, hắn truyền cho đám tôi tớ qua nhà anh nghèo, bắt con chiên mà giết thịt để đãi khách.
Câu chuyện trên rất thích hợp để áp dụng cho Chúa Giêsu. Ngài cũng được yêu mến, nhưng đồng thời cũng đã bị bọn người độc ác giết chết một cách tàn bạo. Tuy nhiên, trong tâm trí của Gioan Tiền Hô, còn có một hình ảnh khác khi giới thiệu Chúa Giêsu: Đây Chiên Thiên Chúa. Đó là hình ảnh những con chiên bị sát tế mỗi ngày trong đền thờ, làm lễ vật dâng tiến cho Thiên Chúa như Maisen đã quy định: Mỗi ngày các ngươi hãy hiến tế trên bàn thờ hai con chiên được một tuổi. Một con vào buổi sáng còn một con vào buổi chiều. Máu của chiên đổ ra có sức tẩy xoá tội lỗi cho dân chúng.
Trước Gioan Tiền Hô, các tiên tri cũng đã nói về người tôi tớ Thiên Chúa phải đau khổ và phải chết như một con chiên. Tiên tri Isaia đã mô tả: Ngài như con chiên bị đưa tới lò sát sinh, mà không hề thốt lên một lời. Ngài chết vì tội lỗi chúng ta. Còn tiên tri Giêrêmia thì nói: Tôi giống như con chiên bị đem đi giết và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều độc ác chống lại tôi. Và như thế hình ảnh con chiên gợi lên những hy sinh và đau khổ. Sau cùng thánh Gioan trong sách Khải Huyền, ngoài những đặc tính trên, còn thêm vào đó nét vinh quang và khải hoàn của Con Chiên Thiên Chúa. Chẳng hạn, nơi chương 5, thánh Gioan đã mô tả: Muôn dân vây quanh và ca ngợi Con Chiên bằng bài hát như sau: Ngài đã bị giết và nhờ cái chết hy tế của mình, Ngài đã mua chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi ngôn ngữ, mọi quốc gia và mọi chủng tộc. Ngài đã biến họ trở thành vương quốc của các tư tế để phụng sự Thiên Chúa chúng ta. Rồi các thiên thần tiến đến vây quanh Ngài và hát vang: Con Chiên bị giết đáng được lãnh nhận danh vự, vinh quang và tán tụng… Tóm lại, hình ảnh Con Chiên Thiên Chúa gợi lên 3 hình ảnh. Hình ảnh của sự yêu mến, hình ảnh của sự đau khổ và hình ảnh của sự vinh quang. Đây cũng là con đường mà mỗi người chúng ta cần phải đi qua trong cuộc sống, đó là để được Chúa yêu thương và chúc phúc, chúng ta cũng phải bước qua gian khổ, thử thách và thập giá, nhờ đó mà tiến tới vinh quang phục sinh.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong mỗi Thánh lễ, vị chủ tế nâng cao Mình Máu Thánh Chúa Giêsu và giới thiệu với cộng đoàn: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”, ngài lặp lại lời Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu với môn đệ: Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng mà thầy vẫn nói với các con đó (x.Ga 1,29-34).
Tại sao gọi Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”?
Người Do Thái có tục sát tế chiên trên bàn thờ để thờ phượng, cảm tạ Thiên Chúa, để xin ơn và để đền tội. Tục lệ này bắt nguồn từ thời Abel, con trai thứ của Ađam. “Aben làm nghề chăn chiên” (St 4,2) nên để thờ phượng và tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa, “Aben dâng những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng” lên Ngài (St 4,4).
Đến thời dân Do Thái vượt qua Biển Đỏ, Môsê ra lệnh cho mỗi nhà người Do Thái phải sát tế một con chiên, bôi máu lên khung cửa (x.Xh 12,2-7). Đêm ấy, tất cả những nhà trên đất nước Ai cập không có máu chiên nơi khung cửa đều bị chết đứa con trai đầu lòng (x.Xh12,29-30). Chỉ có người Do Thái nhờ máu chiên trên khung cửa mà không bị như thế. Từ đó, việc sát tế chiên mang thêm ý nghĩa: chiên chết thay người.
Về sau, tại đền thờ, các tư tế Do Thái đều sát tế mỗi ngày hai con chiên làm của lễ toàn thiêu: sáng sớm một con, chập tối một con, để dâng lên Thiên Chúa làm của lễ đền tội cho dân (Xh 29,38-46). Đúng ra ai phạm tội thì chính người ấy bị phạt, mà phạm đến Thiên Chúa thì chỉ có hình phạt chết mới xứng đáng. Nhưng Thiên Chúa nhân lành không muốn con người phải chết: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 18,23). Luật công bằng đòi hỏi tội phải đền; nên để con người còn được sống mà ăn năn hối cải, Thiên Chúa chấp nhận cho con người lấy chiên đền mạng. Như vậy chiên bị sát tế là để chết thay cho con người lẽ ra phải chết vì tội lỗi mình.
Các tiên tri trước Gioan đã nói về người tôi tớ kỳ diệu của Thiên Chúa một ngày kia sẽ chịu đau khổ và chết như một con chiên. Isaia mô tả: “Người đã bị đối xử tàn tệ, nhưng đã khiêm tốn chịu đựng, như một con chiên sắp bị đưa tới lò sát sinh. Người không hề thốt ra một lời. Người bị bắt, bị tuyên án, và vị dẫn tới chỗ chết… Người đã phải chết vì tội lỗi chúng ta”(Is 53,7-8); “Người đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi”(Is 53,6-7.12).Những lời của tiên tri Giêrêmia cũng rất phù hợp với con người Chúa Giêsu: “Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều độc ác chống lại tôi”(Gr 11,19).
Theo lẽ thường, gọi Đức Giêsu là chiên thì quả là xúc phạm. Nhưng để cứu chuộc nhân loại, theo kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa, Đức Giêsu phải bị giết chết để đền tội thay cho con người, tương tự như những con chiên bị sát tế trong đền thờ để chết thay cho người tội lỗi. Gioan đã thấy trước số phận tương lai của Đức Giêsu như thế nên giới thiệu cho mọi người: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian”. Đức Giêsu đã trở thành chiên hy sinh: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta”(1Cr 5,7). Sách Khải Huyền cũng dùng đến 27 lần từ “Con Chiên” để chỉ về Đức Giêsu, thánh Gioan còn xác quyết: Đức Kitô đã chịu chết vì tội lỗi chúng ta.
Thánh Phaolô viết: “Nếu máu các con dê, con bò còn thánh hóa được con người, làm cho họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy” (Dt 9,13-14). Hiệu lực đến nỗi Ngài chỉ cần chết một lần là đủ xóa được tội lỗi toàn nhân loại: “Chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ’ (Dt 10,10), vì Ngài là “Con Chiên vẹn toàn, không tỳ vết” (1Pr 1,19), nhất là vì Ngài cũng chính là Thiên Chúa, nên giá trị cứu chuộc của Ngài là vô cùng. “Máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu Aben” (Dt 12,24). “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20). Đặc tính của con chiên là sự ngây thơ, hiền lành, nhẫn nhục, trong sạch. Đó là những đức tính quý báu của Đức Giêsu Kitô, con chiên không tì vết.
Khi Đức Giêsu đang đến, Gioan Tẩy Giả đã chỉ vào Đức Giêsu và nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Giới thiệu như thế, Gioan đã cùng một lúc chỉ ra hai thực tại lớn lao về Đức Giêsu: Ngài là Chiên của Thiên Chúa, đồng thời Ngài cũng là Đấng xóa tội trần gian.
Khi gọi Đức Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa”, Gioan xác nhận Đức Giêsu là Đấng vô tội và thánh thiện. Khi nói Đức Giêsu là “Đấng xóa tội trần gian”, Gioan chỉ cho mọi người thấy Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, Đấng Messia, là “tôi tớ đau khổ của Giavê” như tiên tri Isaia đã từng nói đến trong Cựu ước.
Hai thực tại này gắn liền với nhau nơi con người và sứ mạng của Đức Giêsu. Chính vì là con chiên vô tội của Thiên Chúa nên Đức Giêsu mới có thể xóa tội của thế gian. Như con chiên được dùng làm của lễ đền tội trong Cựu ước phải chịu sát tế, Đức Giêsu cũng phải chịu đau khổ và chịu chết để trở nên của lễ hy sinh đền tội cho nhân lọai. Con chiên hiến tế của Cựu ước chỉ là hình bóng và dấu hiệu của Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”, Đấng duy nhất thực sự xóa tội cho con người, Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ cho hân loại.Chỉ có Con Chiên thanh sạch và hiền lành, Con Chiên bị sát tế mà không một lời thở than, mới đền thay được tội lỗi. Chỉ có Đấng vô tội, mới có thể chết thay cho các tội nhân.
Đức Giêsu xóa tội của thế gian bằng cách gánh vào mình Ngài tội lỗi của tất cả nhân lọai, từ tội của nguyên tổ Ađam cho đến tội của người sau hết của nhân lọai. Với cuộc khổ nạn và cái chết đau thương tủi nhục trên thập giá, Ngài đã đền thay tội lỗi của tất cả nhân loại. Từ nay nhân loại đã được giao hòa với Thiên Chúa, được sống trong ân tình của Ngài và cửa thiên đàng đã được mở lại cho tất cả mọi người.
Mặc dù chúng ta là người tội lỗi, nhưng đã được rửa bằng Máu của Con Chiên Thiên Chúa, và được tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể.
Người tín hữu thường được gọi là “con chiên của Chúa”. Danh hiệu đó ngầm chứa một lời cầu chúc: Mong cho người tín hữu được xếp vào loại “chiên” trong ngày phán xét. Được đứng bên hữu Vua Thẩm Phán. Được vào hưởng vinh quang trong nước Chúa. Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong. Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa. Uớc mong những chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn đi vào con đường hiền lành khiêm nhường. Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa. Và ước mong đoàn chiên gánh lấy số phận của người khác, để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.
Vào một buổi tối năm 1741, người ta thấy người nhạc sĩ già Hallmen lang thang trong một phố nghèo lênh đênh bên Anh Quốc. Người nhạc sĩ già như đang nuốt từng nỗi đắng cay mà triều đình đã dành cho ông. Từ hơn 40 năm qua, ông đã đem tất cả tài năng và sự hăng say của mình để phục vụ triều đình. Thế nhưng, giờ đây ông cảm thấy mình giống như một trái chanh đã vắt hết nước.
Bốn năm trước đó, ông đã bị chứng xuất huyết não làm cho ông bị bại hẳn một bên, khiến ông không còn đi đứng bình thường và sáng tác được. Nhưng dần dần nhờ ý chí sắt đá, ông đã thu hồi được khả năng đi lại và bắt đầu sáng tác lại. Nhưng giờ đây với cái tuổi 60 và với khí trời lạnh như cắt của nước Anh, ông cảm thấy mệt mỏi và chán nản. Tình cờ, khi đi qua một ngôi Thánh Đường, ông bỗng nghe vọng lên trong tâm hồn ông chính tiếng kêu của Chúa Giêsu: Lạy Chúa con, lạy Chúa trời con. Sao Chúa bỏ con”.
Như có một sự thôi thúc lạ lùng, người nhạc sĩ quay về nhà, trong đám giấy vứt ngổn ngang trên bàn làm việc, ông đọc được câu Kinh Thánh như sau: “Người đã bị khinh bỉ và bị mọi người phế bỏ”. Nguồn cảm hứng tưởng đã cạn nay lại trải cuộn trên từng trang giấy, hết trang này đến trang khác, những nốt nhạc cứ thế mà tuôn trào. Sau hai mươi bốn ngày làm việc liên lỉ, nhạc sĩ Hallmen đã hoàn thành tác phẩm để đời tựa đề là: “Đấng Cứu Thế”. Từ đó, cứ mỗi dạo Giáng Sinh và Phục Sinh người ta lại có dịp nghe được tác phẩm tuyệt trác để đời.
Anh chị em thân mến!
Người ta thường ví sự chào đời của một tác phẩm với sự cưu mang, cũng như một người mẹ mang nặng đẻ đau thì nhà nhạc sĩ cũng cưu mang ý tưởng để rồi với không biết bao nhiêu nhọc công và cố gắng, tác phẩm mới được chào đời. Hơn bất cứ ai trong trường hợp nào, tiếng khóc Đấng Cứu Thế đã được nhạc sĩ Hallmen cưu mang để rồi sinh ra với muôn nghìn đớn đau của ông. Hơn ai hết, chính khi cảm nghiệm được thế nào là sự bỏ rơi để có thể diễn tả được tâm tình ấy, đúng hơn ông đã để cho chính sự bỏ rơi của Chúa Giêsu được nhập thể trong tâm hồn ông, nên một với nỗi lòng của ông.
Tin Mừng hôm nay có lẽ cũng mời gọi chúng ta hãy cưu mang những tâm tình ấy. Thánh Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu với chúng ta hai tước hiệu tóm gọn với tước hiệu Nhập Thể: “Chúa Giêsu vừa là Chiên Thiên Chúa gánh tội trần gian vừa là Con Thiên Chúa”. Chúa Giêsu, Người là Đấng Cứu Thế bởi vì Ngài vừa là Con Người, vừa là Thiên Chúa. Đó là mầu nhiệm trọng đại mà chúng ta được mời gọi để chiêm ngắm trong suốt Mùa Giáng Sinh này. Thiên Chúa đã trở thành một con người, Thiên Chúa đã sống trọn vẹn kiếp sống của con người, Thiên Chúa đã từng cảm nghiệm được những niềm vui nỗi khổ của con người và cuối cùng Ngài đã chết như một con người.
Đó là tất cả những gì chúng ta có thể nói khi suy niệm về mầu nhiệm Nhập Thể. Mầu nhiệm Nhập Thể một cách nào đó cũng được hiểu qua cuộc sống của người tín hữu. Thánh Phaolô đã diễn tả tuyệt hảo chân lý đó khi Ngài nói: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Để cho Chúa Giêsu sống trong chúng ta, có nghĩa là kết hiệp với Ngài qua các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể. Để cho Ngài sống trong chúng ta có nghĩa là trong từng tâm hồn, từ những suy nghĩ và hành động, chúng ta luôn mặc lấy chính tâm tình của Ngài. Một cách cụ thể trong mỗi một phút giây, người tín hữu nên một với Đức Kitô đến độ luôn tự hỏi: Nếu Đức Kitô là tôi thì trong giây phút này đây Ngài sẽ làm gì, suy nghĩ gì và hành động như thế nào?
Nguyện cho Đấng đã sinh ra cách đây hơn 2.000 năm cũng sinh lại trong tâm hồn chúng ta để chúng ta cùng được lớn lên với Ngài và đạt được tầm mức viên mãn của Ngài. Amen.
(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)
Chủ đề của Chúa Nhật hôm nay, Chúa Nhật thứ II Mùa Thường Niên, có thể nói là: “Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi thánh ý Cha”. Đó là chủ đề về việc làm chứng cho Chúa.
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia làm chứng cho Người Tôi Tớ Thiên Chúa là Chúa Kitô, Đấng sẽ đến sau đó khi tới thời gian đã định trong lịch sử cứu rỗi.
Trong bài đọc thứ II, thánh Phaolô đã giới thiệu mình như là người tông đồ của Chúa Kitô, người làm chứng cho Chúa trước mặt mọi người.
Một cách đặc biệt trong bài Phúc âm thánh Gioan (x. Ga 1,29-34), nhắc lại cho chúng ta lời chứng của Gioan Tiền Hô về Chúa Giêsu: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Thiết tưởng chúng ta nên dành một vài phút để suy niệm về dung mạo của người làm chứng cho Chúa Kitô phải như thế nào? Qua mẫu gương của thánh Gioan Tiền Hô, một mẫu gương đã được diễn tả một cách ngắn ngủi nhưng thật đầy đủ những yếu tố căn bản sau đây:
Trước hết, sở dĩ thánh Gioan làm chứng cho Chúa Kitô là vì Ngài đã nhận được Lời chứng từ Thiên Chúa Cha: “Phần tôi, tôi đã không biết Ngài, nhưng Đấng đã sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi: ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai thì đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần, và tôi đã thấy và tôi làm chứng, chính Ngài là Con Thiên Chúa”.
Người làm chứng là kẻ vâng lời và vâng theo ơn soi sáng của Thiên Chúa. Không có Thiên Chúa sai đi trước, không có Thiên Chúa chỉ dạy cho ta trước thì chúng ta không thể làm chứng cho Chúa Kitô. Làm chứng cho Chúa Kitô là một hồng ân nhưng không từ Thiên Chúa Cha và đồng thời cũng là một bổn phận đáp lại lời chứng của Thiên Chúa Cha. Chúng ta có biết sống trong thái độ lắng nghe lời chứng của Thiên Chúa Cha về Chúa Giêsu Kitô hay không?
Từ đó sang điểm thứ hai, lời chứng của thánh Gioan: “Tôi đã thấy và tôi làm chứng, chính Ngài là Con Thiên Chúa”. Lời chứng này phù hợp với lời chứng của Thiên Chúa Cha về Chúa Giêsu trong biến cố phép rửa, trong biến cố Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa trước đó có tiếng từ trời phán: “Này là Con Ta yêu dấu”, mà Chúa Nhật vừa qua khi cử hành Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, chúng ta đã đọc lại đoạn Phúc Âm này.
Từ đó một kết luận cho chúng ta là, lời chứng của người làm chứng cho Chúa Kitô phải phù hợp với lời chứng của Thiên Chúa Cha về Chúa Kitô. Chỉ có một sự thật về Chúa, sự thật mà Thiên Chúa đã mạc khải, và người làm chứng cho Chúa Kitô nếu muốn thật sự lời chứng của mình có giá trị thì phải nói lên sự thật đó, không làm méo mó nó bằng những ý kiến riêng tư của mình. Chúng ta cần phải trình bày giáo lý tinh tuyền của Giáo Hội căn cứ trên lời chứng của Thiên Chúa Cha, chứ không phải là giáo lý do sáng kiến riêng của chúng ta chế ra. Thánh Gioan vâng lời Thiên Chúa Cha và trung thành với lời chứng của Thiên Chúa Cha, dù phải chấp nhận hy sinh trở nên bé nhỏ đi để Chúa Kitô lớn lên trong tâm hồn kẻ khác.
Điểm thứ ba, thái độ của người làm chứng đối với Chúa Kitô: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng cứu rỗi thế gian, hãy theo Người, còn tôi, tôi không phải là Đấng phải đến”. Người làm chứng không cho mình chiếm chỗ của Chúa Kitô, không che khuất Chúa Kitô, nhưng mà chỉ cho mọi người nhìn thấy Chúa Kitô: “Ngài đến sau tôi nhưng đã có trước tôi và cao trọng hơn tôi”. Thánh Gioan nhìn nhận sự thấp hèn của mình trước Chúa Kitô và đó cũng là thái độ nêu gương cho những ai muốn làm chứng cho Chúa Kitô.
Thánh Gioan làm chứng cho Chúa Kitô và muốn cho mọi người đến với Chúa: “Tôi đến làm phép rửa để mạc khải Người cho dân Israel”. Sứ mạng của người làm chứng có mục đích hướng dẫn người ta đến gặp Chúa, và khi người nghe đã gặp được Chúa rồi thì người làm chứng phải rút đi, vai trò của mình đã xong, hãy để cho Chúa Kitô trực tiếp hướng dẫn các linh hồn trên con đường mà Ngài muốn. Người làm chứng biết là Chúa Kitô trọng tự do lương tâm của người nghe. Hai người môn đệ của Gioan đã theo Chúa và ở lại với Chúa, họ đã quên đi Gioan để rồi đến phiên họ, họ cũng làm chứng cho Chúa: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”.
Gặp gỡ với Chúa Kitô luôn luôn mời gọi mọi người chúng ta làm chứng cho Ngài, và cuối cùng vai trò của Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất người làm chứng với Chúa Kitô, Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn cho người làm chứng được mỗi ngày một trở nên giống như Chúa Kitô hơn.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta được lòng nhiệt tâm, sốt sắng trong dịp cử hành Thánh Lễ này và từ đây trong suốt cuộc sống của mình luôn luôn là người làm chứng cho Chúa. Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta được mỗi ngày trở nên giống Chúa Kitô hơn để chúng ta trở nên xứng đáng là người làm chứng cho Chúa, người làm chứng biết lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa Cha, lắng nghe lời mạc khải của Thiên Chúa Cha và sống vâng phục ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, người làm chứng biết nhường chỗ cho Chúa Kitô trong tâm hồn anh chị em mình. Xin Chúa giúp chúng ta được trưởng thành trong đức tin. Amen.
(Trích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc’)
Thưa quý OBACE
Trong lịch sử chúng ta thấy có những con người, sự xuất hiện của họ đã làm thay đổi cục diện thế giới, có người đưa thế giới đến sự thay đổi tích cực, nhưng cũng có những con người lại hoàn toàn gây ảnh hưởng tiêu cực cho nhân loại. Ví dụ: Với sự xuất hiện của Napoleon hoặc Hitler đã đưa thế giới vào cảnh chiến tranh giết chóc tàn khốc, song cũng có những con người như Louis Pasteur và các nhà khoa học chân chính khác đã cứu nhân loại khỏi những căn bênh hiểm nghèo. Người ta cũng không thể phủ nhận được, với sự xuất hiện của những người như Bill Gate và Steve Jobs đã làm thay đổi hoàn toàn suy nghĩ và phương thức cũng như công nghệ thông tin ngày nay; Đức giáo Hoàng Fancis vừa mới được báo time bình chọn là nhân vật của năm 2013, mặc dù ngài mới chỉ xuất hiện với thế giới trong cương vị Giáo hoàng được 10 tháng, song Ngài đã và đang có một ảnh hưởng lới trên thế giới về lối sống và luồng gió mới Ngài đang đem vào Giáo Hội.
Cũng vậy với sự xuất hiện công khai của Chúa Giêsu ở vùng Galilea- sông Jodan quả thật là một sự kiện hết sức quan trọng và gây sự chú ý cho nhiều người. Tuy nhiên, cho đến ngày nay nhiều người vẫn chỉ nhìn Đức Giêsu như bao các ngôn sứ khác trong Cựu ước, mà không tin Ngài là Thiên Chúa.
Vì thế các tác giả tin Mừng đã muốn khẳng định cho chúng ta rằng Đức Giêsu Nazareth là chính Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, Đấng đã đến từ nơi Thiên Chúa Cha, Ngài chính là Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật. Biến cố xuất hiện công khai của Chúa Giêsu như mở đầu cho một thời đại mới và đã làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt nhân loại và cả thế giới này. Gioan Tẩy giả cho thấy, lúc đó mặc dù ông đang là tâm điểm thu hút nhiều người tuốn đến với ông, nhưng khi nhìn thấy Chúa Giêsu xuất hiện, thì Gioan nhận ra rằng nhiệm vụ của ông đã vào hồi kết. Ông nhường bước và long trọng giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người: Đây là chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa bỏ tội trần gian. Với lời giới thiệu này thì người Do Thái nào cũng nghĩ ngay đến hình ảnh ngày lễ xá tội hàng năm, vị Thượng tế phải đại diện cho dân chúng đặt tay trên đầu một con chiên trước đền thờ Chúa để xưng thú tất cả tội lỗi của dân, và con chiên ấy trở thành con chiên gánh tội cho dân.
Khác với các tiên tri khác là những người chỉ tiên báo về Đấng Cứu Thế, thì Gioan đã chỉ đích danh Đấng Cứu thế cho mọi người. Ông còn giải thích thêm: Chính Người là Đấng tôi đã nói đến: Người đến sau tôi nhưng trổi vượt hơn tôi và Ngài có trước tôi. Như thế có nghĩa là Gioan đã giới thiệu cho mọi người biết địa vị trổi vượt cua Đức Giêsu và thời đại của Đấng Mesia đã bắt đầu, thời đại của ánh sáng cứu độ đã đến. Gioan đã tuyên xưng niềm tin của mình khi tin nhận Ngài là Đấng có trước ông, là Đấng hiện hữu từ muôn đời, nay xuất hiện giữa loài người và mang lấy tất cả sự giới hạn của con người. Gioan đã nhớ lại mấy ngày trước đây Ngài đến xin ông làm phép rửa, và khi vừa ra khỏi nước thì trời mở ra và Thần Khí của Thiên Chúa như chim bồ câu đậu xuống trên Người. Gioan cũng cho biết chính Đấng sai ông làm phép rửa đã cho ông một dấu chỉ: Ngươi thấy Thần Khí ngự xuống trên ai thì đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần và Đức Giêsu chính là Đấng ấy và những ai tin và lãnh nhận phép rửa bởi Đức Giêsu cũng sẽ đón nhận được Thần Khí của Ngài.
Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa đã được sai sai đến trần gian với sứ vụ đem ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất. Lời của Isaia trong bài đọc một đã ứng nghiệm hoàn toàn nơi Đức Giêsu, Ngài trở thành Đấng quy tụ muôn dân nên một, đem nhà Jacop trở về, chiếu tòa vinh quang Thiên Chúa cho mọi người mọi dân. Thiên Chúa còn nói với Người rằng: Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đên tận cùng trái đất.
Do bởi tội lỗi và sư bất tuân của Adam Eva đã làm cho bóng tối của sự chết bao trùm nhân loại, với sự bắt tay thỏa hiệp với Satan, tổ tông loài người đã đưa cả nhân loại rơi vào sư trói buộc của ma quỷ và dục vọng, thế giới và con người như chìm ngập trong tăm tối không còn biết đường đi. Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài là ánh sáng đã xua tan bóng tối của tội lỗi và sự chết, Ngài đã chỉ cho nhân loại con đường ánh sáng và hy vọng con đường giải thoát.
Sứ mạng trở thành ánh sáng và đem ơn cứu độ đến cho muôn dân của Chúa Giêsu vẫn còn liên tục được thực hiện qua những con người mà Chúa đã tuyển chọn, trước hết đó là các tông đồ kế đến là mỗi người chúng ta. Thánh Phaolô rất ý thức điều đó khi nói với cộng đoàn Corintô rằng: Tôi là Phaolô, bởi ý của Thiên Chúa đã được gọi là tông đồ của Chúa Giêsu Kitô và ông Xôthênê là anh em của chúng tôi. Vì ý thúc mình là người được chọn để đem ánh sáng cứu độ đến với muôn dân, nên Phaolô và các tông đồ đã chấp nhận nên như ngọn đuốc đốt cháy cả cuộc đời mình để chiếu tỏa ánh sáng cho thế giới hôm nay. Từ những con người đầu tiên này, mà chúng ta hôm nay biết Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài.
Cũng thế, mỗi chúng ta trong ngày lãnh Bí tích rửa tội, qua cha mẹ đỡ đầu Giáo Hội đã trao cho ta ngọn nến sáng với lời căn dặn rằng: Các con hãy sống như con cái sự sáng và chiếu tỏa ánh sáng cho muôn người cho đến ngày được gia nhập đoàn rước nước trời. Như thế giữ cho ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng, và chiếu tỏa ánh sáng cho mọi người là trách nhiệm của mỗi chúng ta.
Thưa quý OBACE lời Chúa hôm nay cũng đang nói với chúng ta: Ta đặt ngươi làm ánh sáng cho muôn dân để ngươi đem ơn cứu độ của ta đến tận cùng trái đất. Trong năm Sống và Loan báo Tin Mừng này, trước hết để có thể trở thành ánh sáng muôn dân, thì mỗi người cần phải kiểm tra lại ngọn lửa đức tin của mình đang trong tình trạng nào? Nó còn cháy sáng bừng bừng hay đã bị tàn lụi và trở nên leo lét yếu ớt? Để cho ngọn lửa đức tin có thể cháy sáng, thì nó cần phải đốt bằng những thứ dầu nguyên chất đó là đời sống cầu nguyện, là việc lãnh nhận các bí tích thường xuyên, để nuôi dưỡng cho đức tin của mình. Kế đến ngọn đuốc này cần phải được che chắn bằng lời của Chúa qua việc đọc, lắng nghe và thực hành thì mới có thể chống chọi được với những cơn gió bão của các tư tưởng sai lạc, khuynh hướng, trào lưu chống phá đức tin ngày nay. Chúng ta không thể giữ riêng ánh sáng này cho mình mà phải soi chiếu cho anh em.
Để có thể chiếu tỏa ánh sánh cho mọi người, thì đòi chúng ta phải chấp nhận sự hy sinh và hao mòn cuộc đời của mình. Các bậc làm cha mẹ hãy chiếu tỏa cho gia đình mình ánh sáng ấm áp của mùa xuân, xua tan đi những bóng tối của gian dối quanh co, đẩy lui những nỏng nảy giận hờn cãi vã; hãy đem về cho gia đình mình nhiều hơi ấm và ánh sáng của niềm vui thay cho sự lạnh lùng băng giá. Nhất là cha mẹ hãy đem ánh sáng của Chúa và Tin Mừng của Ngài vào gia đình mình, qua đời sống đạo đức qua các giờ kinh tối sớm, qua những phút cầu nguyện trước và sau bữa ăn mỗi ngày.
Các gia đình Công Giáo hãy trở nên ánh sáng cho các gia đình chung quanh bằng cuộc sống chan hòa tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau, sống với nhau thuận hòa, chân tình, yêu thương giúp đỡ, biết quan tâm đến nhau và làm những điều tốt đẹp cho nhau. Mỗi gia đình cùng sống và làm như thế, thì ánh sáng của Chúa sẽ chạm đến tâm hồn các anh chị em khác bên cạnh.
Trở nên ánh sáng cho muôn dân cũng là sứ mạng được trao cho các bạn trẻ. Cuộc sống xã hội ngày nay, trong mọi lãnh vực từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, gia đình,… vẫn còn có quá nhiều mảng tối. Mỗi người trẻ sẽ phải là ngọn đuốc cho xã hội hôm nay. Hãy trở thành những con người ngay thẳng trong xã hội gian dối này, hãy có một trái tim nhân ái trong một xã hội bàng quan lạnh lùng, hãy đem ánh sáng và giới răn của Tin Mừng vào trong công ty xí nghiệp, trường học nơi chúng ta đang làm việc, học tập, hãy mang theo Đức Kitô vào trong mọi sinh hoạt, vui chơi, mọi lãnh vực, vào các cuộc tụ họp gặp gỡ. Khi mỗi người trẻ công giáo cùng thắp lên một ngọn lửa như thế, các bạn sẽ làm cho xã hội này bừng sáng Tin Mừng của Đức Kitô.
Cầu chúc cho mọi người luôn giữ cho ngọn lửa của Đức Kitô luôn cháy sáng trong cuộc đời của mình và trở nên ánh sáng giúp anh em mình khỏi vấp ngã. Amen.
(Suy niệm của Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh)
Trong thường nhật cuộc sống có khi chúng ta nhìn mà không thấy, biết mà không hiểu. Chúa Nhật thứ 2 mùa Thường Niên nêu cho chúng ta chứng cứ nầy, đây là kinh nghiệm của ông Gioan Tẩy Giả khi nói về Đức Giêsu, là người họ hàng của ông. Chắc hẳn cả hai đã có thời kỳ niên thiếu bên nhau, biết nhau trong sinh hoạt, thế mà ông Gioan đã hai lần phát biểu trong bài Tin mừng, làm chúng ta sửng sốt: “Tôi đã không biết Người” (Bài Tin Mừng Ga 1, 29-34). Nhất thiết phải có biến cố nào đó khiến ông Gioan Tẩy Giả thay đổi cái nhìn và sự phỏng đoán của ông về đấng Mêsia. Lời khẳng định: “Tôi đã không biết Người” khác hẳn với nội dung trước đây ông nói về đấng Mêsia, như Người cầm nia để sàng trấu lép bỏ vào lửa, như rìu đã đặt ở gốc sẵn sàng đốn ngã cây không sinh trái … Ông loan báo Đấng Mêsia như một quan toà nghiêm khắc, không khoan nhượng, quét sạch sân lúa là dân tộc mình!
Một thời gian sau, ông Gioan tỏ ra cẩn trọng hơn, nhất là khi ông ở trong tù, ông nghe ngóng những lời đồn thổi về đấng Mêsia cư xử nhân từ mà ông đã mường tượng là nghiêm khắc từ ban đầu. Để cân bằng chênh lệch giữa quan niệm và thực tế về đấng Mêsia, ông đã sai môn đệ tới phỏng vấn Đức Giêsu: “Ngài là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi một Đấng khác?” Đức Giêsu đã dùng lời sấm của tiên tri Isaia để trả lời cuộc phỏng vấn: “Hãy về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ điếc nghe được, người què đi được, bệnh nhân được chữa lành và người chết sống lại”. Những việc làm nầy chứng tỏ Người là đấng Mêsia phải đến, như Sách Thánh đã tiên báo, bởi vì việc làm định nghĩa con người.
Biến cố nơi sông Giođan, khi Đức Giêsu hoà mình vào dòng người sám hối xin chịu thanh tẩy, phản ứng của Gioan là nhận thấy mình bất xứng để ban phép rửa thống hối cho Đức Giêsu, ngay cả việc cởi quai dép cho Người, ông cũng không xứng đáng. Chính Đức Giêsu dấn tới, ông Gioan mới xối nước trên Người. Xảy ra khi Đức Giêsu lên khỏi nước, ông Gioan xác nhận: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.’” (câu 32-33). Cách sống của Đức Giêsu và sự việc xảy ra ở Giođan làm cho Gioan thay đổi định nghĩa về đấng Mêsia.
Từ đó, ông Gioan đã thay đổi quan niệm về đấng Mêsia, ông thoáng thấy Đức Giêsu là con chiên bị đem đi giết, là Người Tôi Tớ của Giavê, là đấng Mêsia mang thân phận con Chiên của Thiên Chúa gánh lấy tội trần gian để xoá bỏ tội lỗi. Những cảm nhận nầy nhắc nhớ con chiên vượt qua bị sát tế trong đêm Xuất Ai cập, máu chiên đổ ra, ghi trên cửa nhà đã cứu người con đầu lòng của mỗi gia đình Do thái. Ông Gioan Tẩy Giả đã không biết đến Đấng Mêsia nhân từ đó! “Tôi đã không biết Người”. Ông nhầm lẫn về sứ mệnh của Đấng Mêsia, ông cứ tưởng sẽ có một đấng Mêsia đầy quyền lực, để trừng phạt theo kiểu quan tòa nghiêm khắc bất bao dung không biết khoan nhượng, luôn có bộ mặt hình sự cáo tội hơn là bào chữa cho bị can.
Cho đến ngày hôm nay, người ta cũng còn nhầm lẫn về Thiên Chúa, người ta muốn biến Thiên Chúa thành thế lực chính trị, kéo lôi Người về phe mình để trị tội kẻ khác. Thiên Chúa không liên minh quân sự với phe nhóm nào cả, Người liên đới với con người cần được cứu độ khỏi vòng nô lệ tội lỗi. Thật ra trong cuộc sống, có lần Người đồng bàn với hạng tội lỗi cần được yêu thương và tha thứ, Người mang lấy tội lỗi nhân loại. Trong nhãn quan đó chúng ta hiểu được lời giới thiệu của Gioan: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian” (câu 29).
Gương mặt hiền hậu và nhân từ nầy phản ánh phần nào trong các diễn văn, trong các bài huấn đức, trong cử chỉ cúi xuống ôm hôn người khuyết tật, những hành động đầy cảm thông và yêu thương của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô đương nhiệm đối với người bất hạnh như muốn xóa đi một quan niệm Giáo Hội quyền bính, triều đại xa cách dân đen, như muốn xích lại gần với giới nghèo theo truyền thống tốt đẹp của Giáo Hội từ ban đầu, như muốn mặc lấy tâm tình của Đức Giêsu trong cách cứu thế.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hiến thân làm Con Chiên cứu chuộc trần gian. Nhờ đó chúng con đã được rửa sạch tội lỗi và được làm hoà với Thiên Chúa. Chúng con xin cảm tạ Chúa và cố gắng bắt chước sống thân phận của Con Chiên Thiên Chúa biết cảm thông và liên đới với tha nhân. Amen.
Hằng ngày, qua các phương tiện truyền thông hay qua người này người kia chúng ta nhận được nhiều sự giới thiệu khác nhau. Có khi chúng ta nhận được sự giới thiệu về con người. Cũng có khi chúng ta nhận được sự giới thiệu về đồ vật. Những lời giới thiệu ấy hầu như là những lời tốt đẹp. Dầu vậy, thực chất nhiều khi những con người hay những sự vật ấy lại làm cho chúng ta hoàn toàn thất vọng. Bởi lẽ, những lời giới thiệu ấy chỉ được truyền qua từ người này sang người nọ. Cho nên mức độ chính xác nhiều khi không còn được bảo đảm. Nói cách khác những lời giới thiệu ấy được truyền đi vì không bằng chính kinh nghiệm sống.
Đoạn Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh những lời giới thiệu của Thánh Gioan về Chúa Giêsu cho một số tư tế và mấy thầy Lêvi. Họ đến hỏi ông có phải là Đấng Kitô không. Ông xác nhận với họ ông không phải là Đấng Kitô mà chỉ là người dọn đường cho Ngài. Và mở đầu đoạn Tin mừng hôm nay chúng ta thấy: “Hôm sau, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1, 29)
Đây là lời giới thiệu đầy xác tín của Gioan Tẩy Giả về Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chính là Đấng đến đem ơn cứu rỗi đến cho toàn thể nhân loại. Người là “con chiên” vô tội đến gánh tội thay cho cả trần gian đầy tội lỗi. Tuần trước với lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, chúng ta đã được Chúa Cha giới thiệu cho biết Chúa Giêsu chính là Con yêu dấu của Ngài. Vì qua biến cố ấy Chúa Giêsu chính thức ra đi thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó. Sứ mạng ấy là loan báo Tin mừng và đem sự giải thoát đến cho nhân loại.
Người ta thường nói: Không ai cho cái mình không có. Đúng vậy, qua thời gian ăn chay nhiệm nhặt trong hoang địa Thánh Gian đã được Thiên Chúa soi sáng cho biết mình phải làm gì để dọn đường cho Đấng Cứu Thế Giêsu. Do đó, những lời giới thiệu của Thánh Gioan là sự thật vì phát xuất từ kinh nghiệm sống thiêng liêng quý báu của mình.
Một trong ba sứ mạng của những người đã được lãnh nhận Bí tích Rửa tội là tiên tri. Với sứ mạng này chúng ta được mời gọi giới thiệu về tình yêu của Chúa Giêsu cho những người xung quanh. Làm sao có thể giới thiệu về Chúa cho được nếu chúng ta không có hay chưa có kinh nghiệm sống thiêng liêng về Người. Muốn có được kinh nghiệm sống thiêng liêng về Chúa Giêsu không cách nào khác đòi hỏi chúng ta phải thật sự gắn bó với Người. Siêng năng lãnh nhận các Bí tích nhất là Bí Thánh Thể là phương thế tốt nhất để chúng ta có được kinh nghiệm sống thiêng liêng về Chúa Giêsu. Nhờ đó, qua cách sống của mình chúng ta mới thật sự có được những lời giới thiệu sống động về Người cho anh chị em xung quanh.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật II thường niên A, thánh sử Gioan thuật lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ sinh động và đầy ấn tượng mà ông chứng kiến tận mắt giữa thầy mình là Gioan Tẩy Giả với Chúa Giêsu, ông viết: “Khi ấy, ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình” (Ga 1, 29). “Thấy Chúa Giêsu tiến về mình”, đây là một hành động tương lai, tiếng Hy bá còn diễn tả ‘ngày mai’. Nhưng tương lai này có sự liên tục với Giao Ước cũ, vì Gioan Tẩy Giả đã không nói về chính mình, lời của ông được rút ra từ Cựu Ước đan vào nhau để làm sáng tỏ các mầu nhiềm. Bằng từ ‘ngày mai’, chúng ta bắt đầu một ngày mới, Năm Phụng vụ mới khai mào. Gioan Tẩy Giả thấy sự huy hoàng rực rỡ của Giao Ước mới tiến lên thì nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.” (Ga 1, 29)
Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa
Gioan Tẩy Giả khẳng định, Chúa Giêsu đến trần gian với một sứ vụ đặc biệt là giải thoát con người khỏi tội lỗi. Nhưng người ta tự hỏi: Người giải thoát con người bằng cách nào? Thưa, bằng tình yêu. Bởi tình yêu là khí cụ duy nhất để chiến thắng sự dữ và sự tội. Chúa Giêsu yêu chúng ta bằng một tình yêu thế mạng. Người là Chiên duy nhất chết thay cho đoàn chiên là chúng ta. Không những thế, Người còn phục hồi tất cả những ai sống trên trần gian này và cứu chuộc mang về cho Thiên Chúa Cha. Một người chết thay cho toàn dân, để tất cả vâng phục Thiên Chúa; chỉ một mình Người đã chịu chết để cứu chuộc muôn người… Thật thế, con người đã trở nên hư hỏng, sống trong tội lỗi là lý do tại sao Chúa Cha đã cho Con mình tới làm giá chuộc muôn người (x. Ga 3,16; Mc 10, 45), Chúa Giêsu đã trở nên Con Chiên thật xóa bỏ tội trần gian.
Là Đấng xóa tội trần gian
Tội lỗi là nguồn gốc và là căn nguyên của sự chết, làm thế nào thoát khỏi cái chết đời đời? Chắc chắn phải hủy diệt sự chết. Chúa Giêsu là Đấng vô tội đã gánh chịu những đau khổ và mang lấy tật nguyền của chúng ta (x. Is 53,4) Người đã vui lòng chịu chết trên thập giá và hiến tế vì chúng ta, đúng thật Người là Con Chiên đã chịu chết và sống lại để tiêu diệt sự chết và tẩy xóa tội khiên. Khi cử hành lễ hy sinh của Con Chiên trong niềm vui, thánh Phaolô nói rằng: “Hỡi sự chết, chiến thắng của ngươi ở đâu? Hỡi sự chết, nọc đâu của người ở đâu? “(1 Cr 15,55; Os 13,14…) ” Đức Kitô đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa vì Lề Luật ” (Gal 3, 13), để chúng ta có thể thoát khỏi lời nguyền của tội lỗi. Người đích thực là Con Chiên vượt qua, bị nhấn chìm trong dòng sống tội lỗi để thánh tẩy chúng ta.
Sống đời nhân chứng
Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho Chúa Giêsu không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả đời sống mình. Ngài đã chỉ vào Chúa và nói với dân chúng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh hết mọi tội trần gian”. Ngài bước đi trên con đường khổ giá và làm chứng cho Chúa Giêsu, Đấng hiến mình chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Ngày hôm nay chúng ta là những môn đệ của Chúa, chúng ta cũng cần phải noi gương thánh Gioan Tẩy Giả làm chứng cho Chúa để qua đời sống thánh thiện của mình khiến nhiều người nhận biết Chúa.
Có người đặt vấn nạn: Giữa một xã hội gian dối lọc lừa, ích kỷ, hưởng thụ, ghen ghét, hận thù và coi nhẹ sự thủy chung, chúng ta làm chứng cho Chúa thế nào được?
Đức Thánh Cha Phanxicô gợi lên cho chúng ta câu trả lời: làm chứng cho Chúa có nghĩa là gì nếu không phải là lấy hiền từ đối lại cái ác, lấy tình yêu thay thế sức mạnh, lấy khiêm nhường bù lại kiêu hãnh, lấy phục vụ đối lại cao danh. Là những người môn đệ của Con Chiên có nghĩa là không sống như một “thành trì bị vây hãm”, nhưng như một thành phố đặt trên núi cao, mở ra, đón nhận và liên đới. Nó có nghĩa là không được có thái độ đóng lại, nhưng mang Tin Mừng đến cho tất cả, làm chứng bằng cuộc sống của chúng ta rằng bước theo Đức Giêsu giúp chúng ta tự do hơn và hoan lạc hơn” (Kinh truyền tin Chúa nhật 19/01/2014).
Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con.
Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin giúp chúng con biết dùng lời nói và việc làm để loan báo Tin Mừng của Chúa cho anh chị em chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Minh Chánh)
Khi Gioan Tẩy Giả thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “ Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1.29). Qua lời giới thiệu trên, Thánh Gioan Tẩy Giả muốn giúp chúng ta khám phá hình ảnh con chiên trong Cựu ước. Và từ hình ảnh đó, mỗi người chúng ta sẽ dễ nhận ra Đức Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa như lời Thánh Gioan Tẩy Giả đã khẳng định. Nhờ đó chúng ta sẽ được khơi lên niềm hy vọng vào Đức Giêsu Kitô, Nguồn hạnh phúc của chúng ta.
1/ Chiên Vượt Qua:
Khi Thiên Chúa quyết định giải thoát dân Israel ra khỏi Ai Cập, Ngài truyền cho mỗi gia đình trong dân Do thái phải sát tế một con chiên đực. Con Chiên sát tế phải toàn ven, không quá một tuổi. Hơn nữa phải lấy máu chiên bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Trong đêm ấy, Đức Chúa sẽ rảo khắp đất Ai Cập, sẽ sát hại các con đầu lòng Ai Cập. Còn vết máu chiên được bôi lên khung cửa nhà của dân Do thái, đó là dấu hiệu dân Chúa đang ở đó, Đức Chúa sẽ vượt qua và con cái dân Do Thái sẽ không bi tiêu diệt (x Xh 12,1-4). Như vậy nhờ máu chiên trong tiệc vượt qua, dân Do Thái đã không bị tiệu diệt, nhưng nhờ đó mà họ đã được giải thoát khỏi đất nô lệ Ai Cập, được trở nên dân tộc được Chúa thánh hiến, được Chúa nhận làm dân sở hữu, được phụng thờ Thiên Chúa.
Từ hình ảnh con chiên vượt qua trong Cựu ước, sau này các vị chứng nhân trong Tân ước đã nhận thấy nơi Đức Giêsu Kitô chính là Con Chiên Vượt Qua đích thực.
2/ Đức Giêsu Là Chiên Vượt Qua:
Không phải vô tình hay do cảm hứng mà Thánh Gioan Tẩy Giả đã khẳng định với mọi người Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Chắc hẳn những lời từ miệng Gioan Tẩy Giả thốt ra, đó là kết quả của chuỗi ngày ngài đã cảm nghiệm về sứ mạng mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trong trần gian. Theo Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu sẽ hoàn tất sứ mạng của Ngài bằng việc phải đổ máu, phải chịu sát tế như chiên con. Và kết quả công trình cứu độ của Đức Giêsu là nhờ Máu Ngài mà nhân loại được cứu độ.
Về điểm này, chính Thánh Phêrô đã khẳng định cho chúng ta ơn cứu độ mà nhân loại được đón nhận là nhờ Máu của Đức Giêsu Kitô đổ ra, Ngài chính là Chiên Vượt Qua của Thiên Chúa. Thánh Phêrô đã nói: “ Anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích là Đức Kitô” (1 Pr 1,19). Hơn nữa bằng tất cả lòng xác tín ơn cứu độ được thực hiên nhờ Máu Đức Giêsu đổ ra, Tác giả thư Do thái đã tuyên xưng cho chúng ta biết: “ Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa Hằng Sống” (Dt 9,14). Như vậy, qua những dòng cảm nhận của các chứng nhân về Đức Giêsu là Chiên Vượt Qua của Thiên Chúa. Tất cả như muốn mở ra cho chúng ta niềm hy vọng vào Đức Giêsu Kitô. Nơi Ngài ơn cứu độ sẽ tuôn chảy đến mọi tâm hồn. Và những ai tin tưởng cũng như đón nhận Máu sự sống của Ngài, chắc chắn sẽ được tẩy xoá mọi vết nhơ, được giao hoà với Thiên Chúa, được đón nhận sự sống muôn đời. Vì trong khi lập Bí Tích Thánh Thể, Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về hiệu lực của việc Ngài tự đổ máu cho nhân loại, khi Chúa nói: “ Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là Máu Thầy, Máu giao ước đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28). Và nơi khác Chúa lại khẳng định dứt khoát bằng những lời rõ ràng này như sau: “ Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”(Ga 6,54). Đây cũng là lời hứa cứu độ mà Đức Giêsu đã khơi nên niềm hy vọng cho chúng ta.
3/ Niềm Hy Vọng Nơi Đức Giêsu Là Chiên Thiên Chúa:
Từ hình ảnh Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, giờ phút này đã khơi lên trong tâm hồn chúng ta niềm hy vọng vững chắc nơi Ngài. Nếu như dân Do thái bên đất Ai Cập khi xưa đã được cứu sống nhờ máu con chiên, thì Đức Kitô nhờ Máu Ngài đổ ra trên thập giá, Ngài đã đem lại sự sống toàn vẹn cho chúng ta. Kể từ giây phút tuyệt vời ấy, sự sống con người phải được bắt nguồn từ Đức Kitô. Con người sống là nhờ Đức Kitô, bởi Đức Kitô. Hay nói cách khác, Đức Kitô Chiên Thiên Chúa chính là sự sống của con người.
Khi nhìn ơn cứu độ khởi sự từ Đức Kitô, chúng ta rất an lòng và vững tâm. Vì thế chúng ta hãy tìm đến Đức Kitô là Chiên Thiên Chúa đển đón nhận Máu cứu độ của Ngài. Chắc chắn khi khao khát được hiệp thông trọn ven với Máu Đức Kitô là Nguồn suối mang lai sự đổi mới cho sự sống nhân loại, chúng ta bắt đầu một nguồn sống mới với niềm hy vọng tốt đẹp cho tương lai. Đời sống mới này sẽ do chính Chúa ban tặng cho chúng ta, nghĩa là: Từ con người trước đây là nạn nhân của những bất công, chúng ta sẽ tìm gặp công lý và sự thật. Từ con người bị nô lệ cho tội lỗi, chúng ta sẽ được giao hoà với Thiên Chúa và được tự do hoàn toàn trong Chúa. Từ con người mất tình nghĩa với Thiên Chúa, chúng ta sẽ được trở nên người thân tình với Thiên Chúa. Đặc biệt từ một con người thiếu vắng sự sống của Thiên Chúa, chúng ta sẽ được đón nhận tràn đầy sự sống từ Thiên Chúa, sự sống bất diệt và hạnh phúc muôn thuở.
Với những cảm nghiệm cùng với niềm hy vọng vững chắc vào Đức Giêsu Kitô Chiên Thiên Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ rất vững tâm và an lòng. Thế nhưng chúng ta cũng phải biết khiêm tốn xin Me Maria luôn nâng đỡ và hướng dẫn chúng ta mỗi ngày, luôn biết gắn bó với Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội trần gian. Amen.
Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội của trần gian
Phụng vụ Chúa nhật II thường niên A làm cho chúng ta nhớ lại chủ đề của tuần trước, Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Nhưng Isaia trình bày về người Tôi Tớ cách mới mẻ hơn (Bài đọc I) và Phúc Âm cũng thế, nói về phép rửa của Chúa Giêsu nhưng trong bản văn của Gioan. Tại sao có sự lặp lại này, khi chúng ta bước vào một mùa phụng vụ mới?
Có lúc chúng ta cần phải nghe một lần nữa, để bổ sung hay làm sáng tỏ các mầu nhiệm. Tuần trước, lời Chúa mời gọi chúng ta sống chức phận làm con. Đó là điều cần thiết. Tuần này, lời Chúa mời gọi chúng ta đặt mình vào vị trí của Gioan Tẩy Giả để thấy được kế hoạch của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Tin Mừng hôm nay trình bày nhân vật Gioan Tẩy Giả như sau: ” Khi ấy, ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình” (Ga 1, 29). “Thấy Chúa Giêsu tiến về mình”, đây là một hành động tương lai, tiếng Hy bá còn diễn tả ‘ngày mai’. Nhưng tương lai này có sự liên tục với Giao Ước cũ, vì Gioan Tẩy Giả đã không nói về chính mình, lời của ông được rút ra từ Cựu Ước đan vào nhau để làm sáng tỏ các mầu nhiềm. Bằng từ ‘ngày mai’, chúng ta cử hành một ngày mới bắt đầu, Năm Phụng vụ mới bắt đầu. Gioan Tẩy Giả thấy sự huy hoàng rực rỡ của Giao Ước mới tiến lên thì nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.”
Đây là Chiên Thiên Chúa
Gioan Tẩy Giả khẳng định, Chúa Giêsu là Chiên duy nhất chết thay cho đoàn chiên là nhân loại chúng ta. Không những thế, Ngài còn phục hồi tất cả những người sống trên trần gian này và cứ chuộc mang về cho Thiên Chúa Cha. Một người chết thay cho toàn dân, để tất cả vâng phục Thiên Chúa; chỉ một mình Người đã chịu chết để cứu chuộc muôn người… Thật thế, con người đã trở nên hư hỏng, sống trong tội lỗi và đây là lý do tại sao Chúa Cha đã cho Con của Ngài tới làm giá chuộc tội cho toàn dân ( Ga 3,16; Mc 10, 45), vì Người là đầu và tất cả mọi sự ở trong Người. Để tất cả chúng ta sống trong Người, Người đã vui lòng chịu chết và hiến tế vì chúng ta, Người đã chết thay cho chúng ta, và sống lại vì chúng ta. Ngài là Chiên thật xóa bỏ tội trần gian.
Đấng xóa tội trần gian
Tội lỗi là nguồn gốc và là căn nguyên của sự chết, làm thế nào thoát khỏi cái chết đời đời? Chắc chắn phải hủy diệt sự chết. Con Chiên đã chịu chết và sống lại, mầm mống sự chết bị tiêu tan, tội lỗi được tẩy xóa, còn tội nào khiền chúng ta phải chết nữa không? Khi cử hành lễ hy sinh của Con Chiên trong niềm vui, thánh Phaolô nói rằng: “Hỡi sự chết, chiến thắng của ngươi ở đâu? Hỡi sự chết, nọc đâu của người ở đâu? “(1 Cor 15,55; Os 13,14… ” Đức Kitô đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa vì Lề Luật ” (Gal 3, 13), để chúng ta có thể thoát khỏi lời nguyền của tội lỗi.
Gioan là mẫu người đi tìm Chúa
Gioan Tẩy Giả là một tiên tri, biết nhận ra Thiên Chúa giữa loài người. Nhưng làm thế nào ông biết Thiên Chúa ẩn tàng trong nhân loại? Ông thừa nhận là: “Tôi đã không biết Ngài”. Tuyên bố của ông thật là lạ, vì Chúa Giêsu và Gioan là anh em họ hàng với nhau, hai bà mẹ đã viếng thăm nhau, Chúa Giêsu và Gioan đã gặp nhau, ấy vậy mà ông vấn lặp đi lặp lại cách khẳng định điệp từ: “Tôi đã không biết Người.”
Có hai yếu tố: Gioan biết phân biệt ngày hoàn tất lời các ngôn và ngày Giêsu người anh em họ với mình tỏ mình là Chiên Thiên Chúa. Ông quan sát dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần. Gioan không phải là người lặp lại lời ngôn sứ Isaia. Ông đọc đi đọc lại Thánh Kinh và sách các ngôn sứ, nhưng ông đã làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần: “Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi”. Quả thật, Ngôi Lời Thiên Chúa lần đầu tiên mặc khải trong xác phàm, vậy là câu Gioan nói “Tôi đã không biết Người”, cho thấy, trước khi biết Đấng hoàn tất lời hứa, cần phải đón nhận lời các ngôn sứ và Thánh Kinh. Gioan đã thất bại khi tuyên xưng: “Tôi đã không biết Người”. Ông bối rối khi vẫn chưa chính thức công nhận người thực hiện lời hứa, ông xác định rõ ràng Chúa Giêsu là Ngôi Lời làm người, lời hứa của Thiên Chúa để cứu chuộc nhân loại. Thì ra, khi con người bất lực, ân sủng của Chúa Thánh Thần là ngọn đuốc chiếu sáng tâm linh. Gioan quả là mẫu người lý tưởng trong sự nhận biết và đi tìm Chúa. Ông đã trở thành “Tẩy Giả” thực hiện đầy đủ ơn gọi của mình, ông không nói như là tiếng vọng của tiên tri Isaia, Gioan đã viết lời tiên tri một lần nữa và tham gia trong việc thực hiện lời hứa. Có như vậy, ông mới thực sự biết Thiên Chúa và sống đến cùng ơn gọi của mình và làm chứng cho mọi người biết rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.
Gioan là người lồng tiếng truyền đi sứ điệp mà ông đã được ủy thác. Sứ điệp Gioan truyền thật là một công thức đẹp và độc đáo, được lặp đi lặp lại ở tất cả các Bí tích Thánh Thể, được thể hiện dưới ánh mắt thân mật và yêu thương nhất của Thiên Chúa. “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Đây sự tuyển chọn Abraham và giao ước với nhà Đavid, đây là người Tôi Tớ đau khổ và là Chiên Vượt Qua. Đây là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi. Đây là Con Thiên Chúa.
Gioan kết luận: “Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Người là Con Thiên Chúa”. Đó là lời chứng và cũng là lời giải thích của Gioan về sự nhận biết và tôn thờ cũng như đón nhận Lời Chúa để thông phần vinh quan với Người; hành động đức tin biến chúng ta thành người tôi tớ hợp nhất với người môn đệ dưới chân Thánh Giá: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.” Ngôi Lời bị ăn, vị linh mục dương cao Mình Thánh Chúa lên cho chúng ta thờ lạy, chúng ta sẵn sàng công bố: “Đây là mầu nhiệm đức tin.”…
Mỗi hình ảnh, mỗi cụm từ đều mang một ý nghĩa nào đó. Mỗi câu chuyện, mỗi dụ ngôn, mỗi huyền thoại cũng đều nói lên một sứ điệp nào đó. Cụm từ “Con Chiên” trong Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay là hiện thân của sự thật. Sự thật là Đấng cứu thế đã hiến thân vì nhân loại như lời Người đã tuyên bố: “không có tình yêu nào cao quý bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13). Đấng cứu thế là Đức Giêsu Kitô mà Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu với môn đệ ông: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1,29). Chiên Thiên Chúa gợi lên hình ảnh của chiên vuợt qua, chiên xoá tội, chiên hiền lành và khiêm nhường như Isaia đã nói về người tôi tớ đau khổ.
– Chiên Vượt qua: Biến cố Thiên Chúa sát hại các con đầu lòng người Aicập nhưng không sát hạt các con đầu lòng người Do thái nhờ dấu máu chiên bôi trên cửa.
– Chiên xoá tội: con chiên gánh tội của dân. Vị tư tế đặt tay trên đầu con chiên với ngụ ý đem hết tội lỗi của dân đặt trên mình con chiên và sau đó đánh đuổi nó vào sa mạc.
– Sau cùng, hình ảnh trung thực nhất về Đấng cứu thế là hình ảnh người tôi tớ đau khổ. “Đức Chúa đã đổ trên đầu Người tội lỗi của tất cả chúng ta. Bị ngược đãi, Người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca. Như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người không mở miệng kêu ca” (Is 53,6-7). Đây là điều mà Gioan tẩy Giả muốn giới thiệu và ám chỉ tới “người tôi tớ hiền lành và khiêm nhường”.
Nhiều người quan niệm rằng: Thiên Chúa đã cứu chuôc chúng ta nên chúng ta có phạm tội đến đâu Chúa cũng tha. Họ nghĩ Chúa đã tha thư rồi nên mình chẳng cần phải làm gì. Con thiên Chúa xuống thế làm người cứu chuộc chúng ta không phải bằng cách gánh tội thay cho chúng ta để rồi ta chỉ “ngồi chơi xơi nước”. Chúa không đối xử với ta như một đứa trẻ nhưng đối xử với ta như một người trường thánh có ý thức, tự do và ý chí. Ngài cứu chuộc chúng ta bằng cách mở cho chúng ta con đường dẫn tới Thiên đàng. Đó là con đường Giêsu, “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”. Bất cứ ai tin và theo lối ấy thì đạt tới Thiên đàng. Suy nghĩ và cầu nguyện, tôi thấy con đường này có hai đặc điểm, cũng là những gì Gioan tẩy giả đã giới thiệu cho chúng ta: con đường hiền lành và khiêm nhường; “các ngươi hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
– Hiền lành không có nghĩa là nhu nhược. Nhưng hiền lành là không lấy ác báo ác, không làm ngơ trước điều ác nhưng hãy lấy yêu thương mà đối xử với nhau. Ai hiền lành thì được Thiên Chúa và mọi người thương mến.
– Khiêm nhường là nhìn nhận sự thật về mình. Người khiêm nhường được Chúa thương, dễ dàng đến với Chúa và đón nhận ý Chúa. Câu chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện (người biệt phái và người thu thuế) cho ta thấy rõ điều đó. Người biệt phái kiêu ngạo đã không được tha; người thu thuế khiêm nhường được tha thứ. Hơn nữa, Người khiêm nhường dễ dàng chấp nhận mình, đón nhận anh em và vâng lời bề trên. Ngoài ra, khiêm nhường còn đem tới nhiều ích lợi khác nữa.
Câu chuyện thánh Clement: Thánh nhân thường đi xin để giúp các em mồ côi. Một hôm thánh nhân đi vào một quán ăn. Khi thánh nhân đến một bàn có nhiều thanh niên đang ngồi ăn để xin thì bị một thanh niên xỉ nhục và nhổ nước bọt vào mặt. Thánh nhân hết sức bình tĩnh trả lời: “cám ơn anh! đó là cái anh cho tôi. Vậy phần của các em mồ côi đâu?” Anh thanh niên nọ xấu hổ quá buộc phải móc hầu bao đưa cho. Hiền lành và khiêm nhường còn là những nhân đức cốt lõi nhất giúp ta sống các nhân đức khác. Có một vị linh mục lớn tưổi rất đạo đức tốt lành. Một giáo dân thấy cha đạo đức thánh thiện nên mới hỏi: Cha có bí quyết nào mà sống được như thế? Cha xứ ôn tồn trả lời: Bí quyết của tôi là sống hiền lành và khiêm nhường như Chúa Giêsu.
Để kết thúc, tôi xin mượn lời Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận để gởi đến quý ông bà anh chị em: “Thử thách cay đắng nhất là chấp nhận giới hạn của mình. Chịu đóng đinh vào một thánh giá hẹp, con càng đau đớn hơn. Nếu thánh giá rộng con còn được thoải mái hơn phần nào!”. Nghĩa là càng khiêm tốn thì càng hạnh phúc hơn. Cầu chúc quý ông bà anh chị em luôn biết sống hiền lành và khiêm nhường để luôn được an vui hạnh phúc trong cuộc sống mình và mai sau được hạnh phúc vĩnh cửu.
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Mùa hè năm nào vua Duy Tân cũng ra nghỉ mát ở cửa Tùng, một cửa biển đẹp, yên tĩnh, bãi tắm bằng phẳng, cát trắng mịn màng.
Một hôm nhà vua từ bãi tắm lên, hai tay còn dính cát, viên thị vệ bưng lại một thau nước ngọt mời vua rửa tay. Nhà vua vừa rửa vừa hỏi đùa:
– Tay bẩn lấy thì lấy nước mà rửa, còn ‘nước’ bẩn lấy gì mà rửa?
Viên thị vệ lúng túng chưa biết trả lời sao thì Vua hỏi tiếp:
– “Nước bẩn thì làm thế nào cho sạch?”.
Người thị vệ vẫn không trả lời được. Vua Duy Tân bèn nói:
– Nước bẩn thì lấy máu mà rửa!”
Nhà vua khéo chơi chữ, chuyển từ nước rửa tay sang một thứ nước khác ngàn lần đáng quý trọng là đất nước, là quê hương.
Khi đất nước bị làm nhục, làm bẩn bởi ngoại bang, không có thứ nước nào có thể rửa được, mà phải rửa bằng máu. Về sau, vua Duy Tân đã đứng lên hô hào toàn dân khởi nghĩa, lấy máu đào rửa cho sạch cái nhục vong quốc.
* * *
Nhìn theo góc độ thánh kinh, tội lỗi cũng là một vết nhơ trầm trọng không có thứ nước nào có thể tẩy xoá được mà phải cần đến… máu!
Chiên đền tội
Trong thời Cựu ước, người có tội cần nhờ đến một con bò, dê hay chiên đổ máu đền tội thay cho mình. Sách Lêvi chép: “Nếu một người vô ý phạm tội, làm một trong những điều mà Đức Chúa cấm làm… thì vì tội đã phạm, nó sẽ đưa đến một con dê (hoặc chiên) làm lễ tiến. Nó sẽ đặt tay trên đầu lễ vật tạ tội và sát tế lễ vật tạ tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy máu con vật và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống chân bàn thờ…. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy, và người ấy sẽ được tha. (Lê-vi 4, 27-32)
Nhưng thực ra, máu bò, máu chiên không thể trừ khử được tội lỗi của mọi thời, thế nên, Ngôi Hai Thiên Chúa chấp nhận đầu thai xuống thế làm người, trở nên một Con Chiên, Chiên của Thiên Chúa, đổ máu mình rửa sạch tội lỗi thế gian:
“Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con. (Dt 10, 4-7)
Ngay từ đầu, ông Gioan Tẩy giả đã nhận ra vai trò làm Chiên đền tội của Chúa Giêsu nên “khi thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” (Gioan 1, 29-30)
Thế là Chúa Giêsu cam phận làm Chiên mới để hiến thân chịu chết và đổ máu mình rửa sạch tội lỗi thế gian.
Chiên Vượt Qua
Để giải phóng dân Ít-ra-en thoát khỏi kiếp nô lệ bên Ai-cập, Mô-sê truyền cho dân Ít-ra-en, mỗi nhà giết một con chiên đực, lấy máu bôi lên khung cửa nhà mình. Đến nửa đêm, thiên thần sẽ rảo qua toàn cõi Ai-cập, sát hại mọi con đầu lòng người Ai-cập; còn dân Ít-ra-en, nhờ vết máu được bôi lên khung cửa làm dấu, thiên thần sẽ vượt qua và để cho họ được an toàn.
Thế là nhờ máu chiên vượt qua mà con đầu lòng dân Ít-ra-en được cứu sống và toàn dân thoát khỏi kiếp nô lệ Ai-cập. (Xuất hành, 12, 1-13)
Thánh Phao-lô nhận ra Chúa Giêsu chính là Chiên Vượt Qua mới, ngài viết: “Quả vậy, Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (I Corinto 5,7)
Mang thân phận chiên vượt qua, Chúa Giêsu chịu đổ máu để rửa chúng ta khỏi vết nhơ tội lỗi, chịu sát tế để mang lại ơn cứu độ cho chúng ta. Thế nên, vào đúng thời điểm dân Ít-ra-en thọc tiết chiên để mừng lễ vượt qua vào chiều thứ sáu, thì trên thập giá, Chiên Vượt Qua mới là Chúa Giêsu cũng bị tên lính đâm thủng cạnh sườn. (Gioan 19, 34)
* * *
Hôm nay, tội lỗi của riêng bản thân chúng ta cũng như của nhân loại còn đang chất ngất. Thế nên, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hiến mình làm chiên xoá tội trong hy tế thánh thể hằng ngày. Trong mỗi thánh lễ, khi nâng cao Mình thánh Chúa Giêsu cho tín hữu tôn thờ, linh mục dùng lại lời của thánh Gioan tẩy giả để giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Mới đang tiếp tục hiến tế cứu độ thế gian: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”.
Được trở thành chi thể của Chúa Giêsu nhờ bí tích rửa tội, được hiệp thông nên một với Chúa Giêsu qua hy tế thánh lễ mỗi ngày và nhất là được thông dự vào chức tư tế của Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta đều được mời gọi trở nên chiên Thiên Chúa với Chúa Giêsu, để cùng Ngài dâng hiến cuộc đời chúng ta làm hy tế cứu độ thế gian.
Trở nên chiên Thiên Chúa để cùng hiến tế với Chúa Giêsu không chỉ là một lời mời gọi mà là một sứ vụ không thể tách lìa của mỗi người kitô hữu.
Lạy Chiên Thiên Chúa, xin giúp chúng con thực hiện sứ mạng rất cao quý và cũng rất nặng nề nầy.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hiện nay, có một nghề rất dễ làm, rất dễ hái ra tiền mà chẳng cần qua trường lớp đó là “nghề MC”. Thế nhưng, nghề MC cũng lắm trái ngang. Cũng có những sự cố nghề nghiệp mà danh chẳng còn, hay phải ôm hận cả đời vì một lời nói lỡ lời. Như trường hợp của MC Lê Minh Ngọc đài HTV sau khi kết thúc bản tin về an toàn giao thông, nam MC này đã nói: “Và như quý vị cũng đã biết, ngày hôm nay là ngày Quốc tang của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chắc chắn rằng nhu cầu quý vị chúng ta đến viếng Đại tướng chắc cũng sẽ có rất nhiều. Vì vậy mà chúng ta cũng nên nhớ chấp hành đúng tín hiệu giao thông cũng như là sự điều tiết của lực lượng cảnh sát chức năng để chúng ta có được một ngày quốc tang thật nhiều niềm vui và thật an toàn”. Quốc tang mà tràn ngập niềm vui thì thật là ngớ ngẩn!
Rồi mới đây, MC Yumi Dương dẫn chương trình Giọng hát Việt (The Voice 2013) cũng khiến dư luận phẫn nộ. Sau một tràng dài giới thiệu về hoạt động từ thiện của các thí sinh Giọng hát Việt, Yumi Dương dẫn tiếp: “Xin khán giả một tràng pháo tay cho các thí sinh trong chương trình cũng như đồng bào miền Trung đang chịu bão lũ…”. Lỗi dẫn chương trình này lập tức trở thành “lỗi kinh điển” gây bão dư luận trong năm 2013.
MC viết tắt bởi chữ Master of Ceremonies. MC được hiểu là người có tính hoạt bát, tự tin trước công chúng, có kiến thức rộng, khôi hài, thanh lịch, duyên dáng, có uy tín với công chúng. MC có khả năng dẫn dắt chương trình như một cầu nối với khán giả, làm cho khán giả không chỉ say mê thích thú mà còn là một bộ phận không thể thiếu trong kết cấu chương trình. Chương trình có thành công hay không, phần nhiều là do tài năng của MC.
Như vậy, MC thật cần thiết cho một hoạt động tập thể. Nhờ MC mà tập thể gắn kết với nhau trong một niềm vui chung. MC được ví như một người lái đò đưa khách qua sông. MC dẫn khán giả đến với niềm vui còn mình thì chỉ vui vì niềm vui của người khác. MC hoàn toàn quên mình để làm cho người khác được nổi bật lên còn mình thì như người lái đò tiếp tục lặng lẽ đưa khách qua sông.
Gioan là một MC. Ông giới thiệu Chúa cho người khác. Ông là người dẫn chương trình cho Đấng Thiên Sai thực hiện lời hứa. Ông đã hoàn thành xuất sắc bổn phận của mình là dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Ông đã làm cho Chúa được lớn lên còn mình nhỏ bé lại.
Nét đẹp của Gioan không phải ở sự duyên dáng bên ngoài hay ăn nói văn chương mà nét đẹp của Gioan hệ tại ở đời sống giản dị, khiêm nhường. Ông không dùng từ hoa mỹ. Ông nói rất dõng dạc “cái rìu đã liền gốc cây, nếu không sinh trái sẽ đốn đi”. Ông mời gọi mọi người hãy làm một việc gì đó để làm đẹp lòng Đấng Cứu Thế. Việc mà ông Gioan mời mọi người cùng tham gia chính là “hãy sám hối để dọn đường Chúa đến”. Ông không sống xa hoa ở đô hội. Ông vào hoang địa sống nghèo khó ăn trâu trấu và mật ong. Ông dành thời giờ sống cho Chúa và với Chúa để nhờ đó mà ông có thể giới thiệu Chúa cho thế gian.
Người ky-tô hữu cũng được mời gọi trở thành MC của Nước Trời. Một MC dẫn người ta đến với Chúa. Một MC dẫn dắt người ta cùng sống lời Chúa. Một MC để Chúa lớn lên còn mình luôn nhỏ bé lại. Một người MC tài năng không chỉ giỏi chuyên môn, kiến thức rộng mà biết linh động sáng tạo trong những trường hợp cụ thể. Một MC ky-tô cũng không chỉ dừng lại ở việc giỏi Kinh Thánh mà còn biết áp dụng từng lời Kinh Thánh trong những biến cố cụ thể hằng ngày.
Cuộc sống tốt đẹp biết bao nếu có những con người biết làm cho môi trường được phúc âm hóa. Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao nếu có những người biết dẫn người khác cùng sống lời Chúa, cùng thực thi Lời Chúa. Xin cho chúng ta biết sống lời Chúa trong chính cuộc sống của mình, dám làm chứng cho Tin mừng bằng cả cuộc sống là những trang tin mừng được mở ra. Ước gì chúng ta mãi mãi là những MC dẫn người khác đến với niềm vui của Phúc âm, của Nước Trời. Amen.
(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Người đời thường ham danh, hám lợi. Địa vị và bổng lộc luôn là cơn cám dỗ của con người qua mọi thời đại. Đời nào cũng có những Thạch Sanh và Lý Thông. Đời nào cũng có những tranh giành ảnh hưởng dẫn đến loại trừ lẫn nhau. Vì ham danh, hám lợi nên người ta thường tìm vinh quang cho bản thân của mình, người ta thường đề cao chính mình một cách kiêu hãnh, đôi khi ảo tưởng về bản thân của mình. Nhất là trong những thành công là dịp để kẻ ham danh hám lợi tự dương tự đắc về mình. Đôi khi lại còn cướp công trạng người khác. Khi thành công người ta đua nhau báo cáo công trạng. Ai cũng muốn dành lấy công trạng về mình, ai cũng cho rằng mình có công, có sức để đem lại thành công. Ngược lại, khi thất bại hay khi công việc không êm xuôi, người ta thường đổ lỗi lên nhau và thoái thác trách nhiệm. Ở Việt Nam trong năm vừa qua rất nhiều công trình đang làm dở dang đã bị đổ xập hoặc chưa nghiệm thu đã xuống cấp thê lương, thế nhưng có mấy ai dám nhận lấy lấy trách nhiệm để sửa sai, có mấy đoàn thể hay cơ quan nào đã dám đấm ngực thú nhận vì lỗi của mình mà hàng tỷ đồng cùng với bao nhiêu nhân mạng phải chôn vùi dưới cát bụi cuộc đời? Thảm hoạ lớn nhất của Việt Nam chính là tai nạn giao thông. Theo thống kê nằm 2010 có hơn 11,000 người chết và hơn 10,000 người tàn phế suốt đời. Gọi là thảm hoạ vì trung bình 1 tháng có hơn 2,000 người chết và tàn tật. Nhưng đáng tiếc là không ai dám nhận trách nhiệm về thảm hoạ này? Phải chăng xã hội mà chúng ta đang sống đã không còn những con người can đảm nhận lãnh trách nhiệm trước cái sai về mình? Phải chăng chỉ có những con người bé mọn mới phải gánh chịu những phận số hẩm hiu và những cay nghiệt của dòng đời?
Lời Chúa hôm nay, gợi lên cho chúng ta hai hình ảnh thật đẹp về hai lối sống mà xem ra xã hội hôm nay đã không còn. Đó chính là lối sống khiêm nhường của thánh Gioan và hình ảnh Chiên gánh tội của Chúa Giêsu. Thánh Gioan Baotixita tượng trưng cho sự khiêm tốn còn Chúa Giêsu tượng trưng cho lòng quảng đại hy sinh. Thánh Gioan đã biết chỗ đứng của mình chỉ là kẻ dọn đường. Ngài không tìm vinh quang cho mình. Ngài đã chấp nhận mình cần nhỏ bé để Chúa được lớn lên trong Ngài. Ngay chính lúc ngài được nhiều người ngưỡng mộ, ngài vẫn can đảm quên đi cái tôi của mình để nói về Chúa cho anh em: “Có người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi”. Còn Chúa Giêsu đã được Gioan giới thiệu như là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian. Ngài là Thiên Chúa nhưng đã từ bỏ địa vị Thiên Chúa để mặc lấy thân phận con người. Ngài mang lấy thân phận con người nên cũng đồng hoá mình với các tội nhân. Ngài không có tội nhưng lại mang tội vì chúng ta. Ngài đã đi vào kiếp người để gánh chịu những đau khổ thể xác và tinh thần như là hậu quả của tội tổ tông. Ngài đã thực sự sống một kiếp người truân chuyên để nên đồng hình đồng dạng với chúng ta, qua đó Ngài chuyển giao ơn thánh đến cho con người, để từ nay con người nhờ sự kết hợp với Ngài cũng được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong tư cách là con Thiên Chúa. Vì Ngài là Thiên Chúa đã mang lấy thân phận con người để con người trở thành con cái Thiên Chúa (I-rê-nê).
Cuộc đời của Thánh Gioan là một cuộc đời đẹp vì Ngài sống để tìm vinh quang cho Thiên Chúa. Cuộc đời ngài càng rạng rỡ hơn khi ngài khiêm tốn quên mình để Chúa tỏ hiện ra trong cuộc sống của ngài.
Cuộc đời Chúa Giêsu là cuộc đời đẹp vì ngài đã dám mang lấy tội nhân gian. Ngài có thể đứng ngoài cuộc. Ngài không nhất thiết phải là người mới có thể cứu độ con người. Thế nhưng, Ngài đã mang lấy thân phận con người để đền tội nhân gian. Ngài đi vào kiếp người để chia sẻ những đắng cay ngọt bùi cũng chỉ vì yêu thương nên muốn nên một với chúng ta.
Đó cũng là cách sống mà Chúa đang mời gọi chúng ta hãy sống cho thế giới hôm nay. Một thế giới có quá nhiều kẻ ham danh, ham lợi mà lại quá ít kẻ dám gánh lấy trách nhiệm. Một thế giới có quá nhiều kẻ kiêu hãnh, thích ăn trên ngồi chốc thiên hạ nhưng lại quá ít người khiêm tốn để phục vụ tận tụy và hy sinh. Một thế giới có quá nhiều kẻ tham lam ích kỷ, chỉ lo vun quén cho bản thân mà lại quá ít người rộng lượng đế cứu nhân độ thế. Xem ra người tốt chỉ là những ánh sao lẻ loi trên bầu trời đêm tối mà mây đen che kín khung trời. Dầu vậy, một ánh sao vẫn đủ để xoá tan bóng đêm của sợ hãi lo âu và khơi lên một niềm hy vọng, vì “sau cơn mưa trời lại sáng”.
Thế giới hôm nay không cần kẻ kiêu hãnh, vì người kiêu hãnh chỉ làm hại người hại đời. Thế giới hôm nay rất cần những con người khiêm tốn mới có thể dễ dàng cúi mình phục vụ anh em trong mọi nơi, mọi lúc và mọi công việc. Thế giới hôm nay rất cần những con người dám sống liên đới trách nhiệm với nhau để xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương. Ước gì là người kytô hữu chúng ta dám sống như Gioan luôn khiêm tốn sống với anh em và như một Giêsu, dám hy sinh cả mạng sống mình vì hạnh phúc của anh em. Ước gì lời mời gọi của Thầy Giêsu “hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” luôn là kim chỉ nam cho đời kytô hữu sẵn lòng hiến dâng để phục vụ tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)
Trong những ngày này, ngang qua Lời Chúa trong các bài Tin Mừng, Giáo Hội tiếp tục trình bày cho chúng ta chân dung của thánh Gioan Tẩy Giả, như là chứng nhân của Đức Kitô, Đấng là Sự Sống và Ánh Sáng.
Xin Chúa cũng khơi dậy nơi chúng ta lòng ước ao trở thành chứng nhân của Đức Kitô, bằng cách đón nhận sự sống mỗi ngày của chúng ta từ Ngôi Lời, và sống sự sống của chúng ta như là ánh sáng, thay vì như là bóng tối. Bởi vì Ngôi Lời là Sự Sống và ở nơi Người Sự Sống là Ánh Sáng.
* * *
Trả lời cho câu hỏi về căn tính “ông là ai?”, thánh Gioan tuyên bố thẳng thắn, mình không phải là Đấng Kitô. Nhưng điều phải làm cho chúng ta ngạc nhiên, đó là ông cũng không tự cho mình là Elia hay là một ngôn sứ:
Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không? ” Ông nói: “Không phải.” – “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng? ” Ông đáp: “Không”.
Trong khi đó, Đức Giêsu sẽ nói về ông như là vị ngôn sứ lớn nhất và như chính ngôn sứ Elia trở lại: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả… Và nếu anh em chịu tin lời tôi, thì ông Gioan chính là Êlia, người phải đến (Mt 11, 11-15 và 17, 10-13). Nhưng về phần thánh Gioan, ngài chỉ tự nhận mình như là tiếng hô hoàn toàn hướng về Đức Chúa: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói”. Xin cho chúng ta có lòng ước ao có được tâm tình khiêm tốn này của thánh Gioan:
Như thánh Gioan đã trở thành điều mà lời ngôn sứ Isaia đã loan báo. Cũng vậy, chúng ta được mời gọi để cho lời Kinh Thánh được ứng nghiệm nơi cuộc đời của mình. Xin cho Lời Chúa mà chúng ta đọc, lời nguyện Thánh Vịnh mà chúng ta hát dâng lên Chúa hàng ngày cũng được ứng nghiệm, được thực hiện nơi cuộc đời và trong mỗi ngày sống của chúng ta.
Như thánh Gioan, chúng ta được mời gọi sống sự sống của mình, sống thời gian Chúa ban, sống đời mình và ơn gọi của mình như một lời mời gọi, không phải mời gọi qui về mình, nhưng là qui về Đức Kitô.
Như thánh Gioan, chúng ta cũng tự mình không thể biết Đức Kitô, nhưng đó là ơn huệ của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thực vậy, thánh nhân nhấn mạnh:
Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước”,“Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”.
Như thế, sự hiểu biết Đức Kitô của thánh Gioan hoàn toàn là ơn huệ: của chính Thiên Chúa Chúa Cha, vì Người đã thúc đẩy thánh Gioan đi tìm kiếm Đức Kitô; của Chúa Thánh Thần, vì dấu chỉ để nhận biết Đức Kitô, là sự hiện diện của Thần Khí; và cuối cùng là của chính Đức Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa đến tỏ mình ra cho thánh Gioan:
Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.
Cũng vậy, lời chứng của chúng ta về Đức Kitô, cũng hoàn toàn đến từ kinh nghiệm được đích thân gặp gỡ Đức Kitô và giới thiệu Người cho mọi người, như thánh Gioan sẽ giới thiệu Đức Kitô cho hai môn đệ của mình: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.
* * *
“Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Lời tuyên xưng này chất chứa cả một mầu nhiệm cứu độ và vì thế, trở thành bất hủ, vì được tuyên xưng tới bốn lần trong mỗi Thánh Lễ: sau khi chúng bình an, cộng đoàn phụng vụ đọc hay hát: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian…” (3 lần); tiếp đến, linh mục chủ tế dâng cao Mình Thánh trên chén (hoặc dĩa) thánh, long trọng công bố: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…”.
Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên vô tội, nhưng lại mang vào mình mọi tội lỗi của từng người và loài người chúng ta, như Người Tôi Tớ Đau Khổ, để ban cho chúng ta sự vô tội của Ngài.
Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên vô tội bị sát tế, để bày tỏ sự tín thác tuyệt đối vào đức công chính và sự sống mạnh hơn sự chết nơi Thiên Chúa, và để trở thành đường đi và sự sống cho chúng ta.
Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên hiền lành, diễn tả khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa: Thiên Chúa là tình yêu và chỉ là tình yêu mà thôi.
Như thánh Gioan, xin cho chúng ta cũng khao khát gặp gỡ, hiểu biết và yêu mến Đức Kitô, để có thể nói cho mọi người, ngang qua chính đời sống hằng ngày của chúng ta: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”.
(Suy niệm của Trịnh Ngọc Danh)
Khi thấy ông Gioan làm phép rửa và kêu gọi ăn năn sám hối, người Do thái từ Giêrusalem đã cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông là ai?” Ông tuyên bố thẳng thắn: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Họ lại hỏi: “Vậy ông có phải là Êlia hay là một vị ngôn sứ nào chăng?” Ông cũng từ chối. Và họ hỏi tiếp: “Thế ông là ai?” Ông trả lời: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi.” Họ lại hỏi: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay một vị ngôn sứ?” Ông Gioan trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”.
Hôm sau, thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, ông Gioan liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian…Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: ” Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”.(xem Ga. 1: 19-34)
Trước khi bước vào cuộc sống công khai, Đức Giêsu không muốn tự mình giới thiệu về mình, nhưng Ngài muốn nhờ một người khác làm thay công việc ấy.Người ấy chính là ông Gioan.Ông có đủ uy tín, thánh thiện để làm việc ấy. Việc Đức Giêsu chịu phép rửa của ông Gioan trước khi đi vào cuộc sống công khai là để qua ông, Thiên Chúa mặc khải cho con người biết Thiên Chúa là Đấng nào và Đấng Mêsia là ai. Ông là người được tiên báo cho biết dấu hiệu nào để nhận ra Đấng Thiên Chúa tuyển chọn, và ông đã giới thiệu với dân chúng Đấng ấy là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian. Đấng ấy đến sau ông, nhưng có trước ông và cao trọng hơn ông; phần ông, ông tự nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa.Dù ông được nhiều người biết đến và ca tụng, nhưng ông một mực từ chối tất cả những danh hiệu nào người ta gán cho ông.Ông chỉ có một mục đích là làm chứng và giới thiệu Đấng Thiên Chúa tuyển chọn, kêu gọi người ta ăn năn sám hối, dọn đường cho Đấng ấy đến.
Trong cuộc sống công khai, Đức Giêsu đã tự giới thiệu mình với dân chúng.Và sau khi chịu chết, phục sinh và lên trời, Ngài lại muốn chúng ta, những người Kitô hữu, những môn đệ của Ngài tiếp tục công việc làm chứng và giới thiệu Ngài với muôn dân để tất cả cũng được đón nhận ơn cứu độ.Nhưng chúng ta đã làm chứng và giới thiệu Ngài với người khác như thế nào qua hai câu chuyện sau đây?
Có một câu chuyện kể rằng:
Một Rabbi già nằm trên giường bệnh. Bên giường ông, các môn đệ đang xầm xì với nhau.
Một người trong họ nói:
– Từ thời Salomon đến giờ, chưa có ai khôn ngoan như thầy.
Một người khác nói:
– Và cả đức tin của thầy nữa, nó mạnh mẽ không kém đức tin của tổ phụ chúng ta là Abraham.
Người thứ ba nói:
– Sự kiên nhẫn của thầy cũng không thua gì của ông Gióp.
Người thứ tư tiếp lời:
– Chỉ có ông Môisê mới có thể so sánh với thầy về mức độ hoán cải sâu xa với Chúa như vậy.
Vị Rabbi có vẻ trằn trọc. Khi những môn đệ đi rồi, vợ ông hỏi:
Anh có nghe họ ca tụng anh không?
Rabbi trả lời:
– Có chứ!
Người vợ thắc mắc:
– Vậy sao trông anh có vẻ khó chịu thế?
Người chồng trả lời:
– Vì chẳng ai đề cập đến tính khiêm nhường của anh cả!
Lại một cậu chuyện khác:
Một người nọ sống đạo đức đến nỗi các thiên thần phải nhảy mừng khi trông thấy anh.Nhưng anh thì lại chẳng bao giờ nghĩ mình là người thánh thiện.Anh sống vô tư, làm những công việc thường ngày, tỏa hương đạo đức cách tự nhiên.Anh không bao giờ nghĩ đến quá khứ của người khác.Anh nhìn người khác bằng chính thực tại của họ.Anh nhìn vào tận vẻ đẹp thâm sâu của người khác như hồn nhiên, đơn sơ, chất phát không biết gì về điều họ đang làm.Vì thế, anh yêu thương tha thứ cho tất cả những ai anh gặp, và anh chẳng cảm thấy gì là phi thường trong những chuyện ấy. Đó là cách anh nhìn con người.
Ngày nọ, một thiên thần đến nói với anh:
– Tôi được Thiên Chúa sai đến với anh. Anh hãy xin bất cứ điều gì anh muốn, anh sẽ được toại nguyện.Anh có muốn xin được ơn chữa bệnh không?
Anh trả lời:
– Không. Việc ấy để Thiên Chúa làm.
Thiên thần lại hỏi:
– Thế anh có muốn được ơn đưa các tội nhân trở về đường ngay chính không?
Anh trả lời:
– Không. Đánh động con tim của người ta không phải là việc của tôi. Đó là việc của các thiên thần.
– Có phải anh muốn trở thành một tấm gương nhân đức để mọi người bắt chước anh không?
– Không. Làm như thế, tôi sẽ trở thành tiêu điểm chú ý của người khác.
-Vậy anh muốn gì? Thiên thần hỏi.
– Tôi muốn ân sủng của Thiên Chúa. Có ân sủng là tôi có tất cả.
Thiên Thần bảo anh:
– Không được. Anh phải xin một phép lạ nào đó cơ! Nếu anh không xin, anh sẽ bị ép phải nhận đấy.
– Vậy thì tôi xin điều này: Xin cho tất cả những điều tốt lành được thực hiện qua tôi sao cho tôi không hề biết về những điều ấy.
Thế là Thiên Chúa quyết định rằng chiếc bóng thánh thiện của con người này sẽ có năng lực chữa bệnh bất cứ khi nào nó đổ về phía sau lưng anh. Từ đó, bất cứ nơi nào bóng anh đổ xuống, miễn là lưng anh quay về phía đó, thì những bệnh nhân được chữa lành, đất trở nên màu mỡ, các dòng suối làm nảy sinh sự sống, và vẻ sinh động trở về với những nét mặt vốn rầu rĩ do những gánh nặng cuộc đời.
Nhưng con người thánh thiện ấy không hề biết gì về điều này, bởi vì người ta quá tập trung chú ý đến chiếc bóng của anh đến nỗi họ không chú ý gì đến anh.
Thế là ước mơ của anh đã trở thành hiện thực: những điều tốt lành được làm qua anh, còn chính anh thì được lãng quên.
Mang danh Kitô hữu, chúng ta được đồng hóa với Đức Kitô trong cùng một thân thể, cùng đồng hành với Ngài trong suốt cuộc sống. Chúng ta được kêu gọi trở thành ánh sáng và muối ướp thế gian, được kêu gọi trở thành môn đệ của Ngài, được giao nhiệm vụ đi rao giảng tin vui cứu độ cho hết mọi người trong yêu thương và phục vụ.Thế nhưng trong thực tế, đôi khi chúng ta lại quên nhiệm vụ làm chứng và giới thiệu Đấng đang đồng hành với chúng ta. Chúng ta tự mãn mang danh Kitô hữu so với người khác, tìm vinh danh mình hơn là làm chứng và giới thiệu Đấng đang đồng hành với chúng ta.Sống kép kín và tự mãn với ơn cứu độ đã được đón nhận là sống thiếu yêu thương và phục vụ.Chúng ta làm cho mình lớn lên bằng tự phụ tự mãn với chính mình hơn là làm cho Đức Kitô vượt lên trên chúng ta.Chúng ta giới thiệu cái tôi của mình, cái nhãn Kitô hữu của mình thay vì giới thiệu, làm chứng cho Đức Giêsu Kitô. Bài học khiêm nhu của thánh Gioan: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài” cũng là tinh thần, thái độ chúng ta phải có khi giới thiệu và làm chứng về Đức Kitô vậy!
(Trích từ http://vi.radiovaticana.va – Suy niệm của Hà Thanh Bình)
Trong thời buổi mà người ta ngóng trông Đấng Cứu Thế, Gioan đã xuất hiện, rao giảng và làm phép rửa. Mọi người đều ngỡ rằng ông Gioan là đấng phải đến, đấng Mê-si-a họ hằng mong đợi. Tuy nhiên, Gioan đã không dùng uy tín đó để nâng cao chính mình, ngược lại, ông đã dùng uy tín của ông để làm chứng và giới thiệu Đức Giêsu cho người khác.
Chúa Giêsu không cần lời chứng từ một con người, nhưng vì lợi ích của con người, Ngài cần có một người làm chứng. Ngài nói: Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ (Ga 5,34). Dưới mắt con người, uy tín của những người danh giá vẫn giá trị hơn nhiều lời của những con người chưa có một tiếng tăm nào.
Khi Đức Giêsu mới ra mắt dân chúng thì Gioan đã có một uy tín khá lớn. Vì thế, lời chứng của Gioan hết sức giá trị. Uy tín của Gioan đã được chứng thực bởi chính đời sống của ông. Đời sống đó đã làm chứng cho ông về những công việc ông làm và những lời ông rao giảng. Khi đã có được uy tín đối với dân chúng, ông dùng chính uy tín đó để thi hành sứ mạng. Thay vì ngày càng tích lũy uy tín và vụ lợi cho riêng mình, Gioan đã dùng nó để lót đường chuẩn bị cho Đấng thật sự phải đến.
Gioan làm chứng với uy tín của ông, nhưng ông đã không làm chứng cho Đức Giêsu nhân danh con người, nhưng nhân danh Thiên Chúa. “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”. Ông đang rao giảng về Thiên Chúa và giờ đây ông nhân danh Thiên Chúa để giới thiệu và làm chứng về một Con Người được Thiên Chúa tuyển chọn.
Gioan đã giới thiệu ai và giới thiệu gì để ông phải tuyên bố long trọng đến thế? Quả thật, Gioan đã giới thiệu một người với một nội dung chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Ông nói về Đức Giêsu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Hình ảnh con chiên gợi lên cho người ta nhiều điều.
Trước hết, lùi lại thời Thiên Chúa giải phóng dân Israel ra khỏi Ai Cập, nhờ máu chiên bôi trên cửa mà các con trai đầu lòng của Israel được bảo vệ. Trong đêm họ thoát khỏi Ai Cập, thiên sứ đã đi sát hại các con đầu lòng người Ai Cập, và máu của con chiên bôi trên cửa nhà là dấu chỉ để biết là có người Israel ở đó, và thiên sứ sẽ vượt qua; nhờ đó họ thoát được cơn hủy diệt (Xh 12, 11-13). Đức Giêsu được ví như Chiên Thiên Chúa, và chỉ một mình Ngài mới có thể giải thoát cho chúng ta.
Kế đến, hình ảnh con chiên gợi nên hy lễ mỗi ngày được hiến tế trong Đền Thờ. Dù đời sống có bao nhiêu thiếu thốn, người ta vẫn hiến tế chiên con trong Đền Thờ mỗi ngày để làm lễ chuộc tội. Con chiên được đem đi hiến tế để đền tội thay cho dân. Vì thế, Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, hiến tế chính mình để trở nên lễ đền tội thay mọi người.
Thêm vào đó, nét đặc trưng của con chiên là sự hiền lành. Ngôn sứ Isaia đã loan báo về Đấng Mê-si-a hiền lành: Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng (Is 53, 7). Điều này sẽ được ứng nghiệm cách hoàn hảo trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Ngài trở thành một con Chiên hiền lành bị đem đi làm thịt mà không một tiếng kêu ca. Ngài lại còn xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm (Lc 23,34).
Đức Giêsu quả thật là Chiên Thiên Chúa, Ngài còn là Đấng xóa bỏ tội trần gian. Ngài đã gánh vào mình tội lỗi của tất cả nhân loại, để qua cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài, Ngài đã xóa đi gánh nặng tội lỗi đè nặng lên con người.
Có một câu chuyện thương tâm rằng: Một cô gái đang có người yêu bị một kẻ lạ mặt hãm hiếp và đã có thai. Cô khổ tâm vô cùng vì bị người yêu khước từ và gia đình ngờ vực. Cô đã đến gặp Đức Cha Fulton Sheen than thở với ngài và hỏi ngài: “Tại sao con phải ra nông nỗi này?” Sau khi lắng nghe với tất cả sự cảm thông, Đức Cha ôn tồn trả lời cô gái: “Vì chị đã phải gánh tội của một người”. Rồi Đức Cha Sheen kết luận: Nếu chỉ vì phải gánh tội của một người mà cô gái kia phải đau khổ buồn sầu như thế, thì khi phải gánh chịu tội của cả nhân loại Chúa Giêsu đã phải chịu đau khổ buồn sầu biết chừng nào!
Gánh lấy hết tội lỗi con người mà mang vào thân mình, đó là cái giá mà Con Thiên Chúa đã phải trả cho tình yêu đối với con người. Chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, Đấng đã trở nên Chiên Thiên Chúa để xóa bỏ tội trần gian, chúng ta cũng được mời gọi tháp nhập vào Con Chiên Giêsu để trở nên những con chiên của Thiên Chúa, và sống xứng đáng với ơn gọi của mình là một con chiên của Thiên Chúa.
Tin mừng Chúa Nhật hôm nay nói về sứ mạng của Thánh Gioan Tẩy Giả là giới thiệu và làm chứng cho Đấng Cứu Thế. Qua đó, mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta phải là những Gioan Tẩy Giả của thời đại, đó là luôn biết giới thiệu và làm chứng cho Đức Giêsu ở mọi nơi mọi lúc.
Thánh Gioan Tẩy Giả còn được gọi là Thánh Gioan Tiền Hô vì Ngài có sứ mạng đi trước để dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Ngài là con ông Gioakim và Bà Isave, có họ hàng với Đức Giêsu. Vì những liên hệ đó, nên trước khi Đức Giêsu chịu phép rửa, chắc chắn Gioan đã biết về Người nhưng có lẽ Ngài chỉ biết về con người của Đức Giêsu chứ chưa biết về Thần tính của Người, nghĩa là Ngài biết chưa đầy đủ. Vì thế, Ngài không dám nhận bừa là đã biết, cho nên Ngài mới nói rằng “Tôi không biết Người.”(x. Ga 1,31).
Nhưng sau khi Thánh Gioan làm phép rửa cho Đức Giêsu, thì Thánh Nhân đã biết Người một cách đầy đủ, tường tận: “Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.”(x. Ga 1,33). Vì thế, Ngài đã khẳng định rằng: “Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa.” (x. Ga 1,34).
Với nhiệm vụ dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến, Thánh Gioan Tẩy Giả đã dùng lời nói và việc làm của mình để làm chứng cho Đức Kitô. Nhưng đáng kể nhất là những lời chứng sau đây:
Lời chứng thứ nhất: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.” (x. Ga 1,29).
Theo lẽ thường tình, ai phạm tội, kẻ đó cần phải trả giá bằng chính sinh mạng của mình, nhưng vì tình thương nên Thiên Chúa đã chấp nhận để cho con chiên đền tội thay cho con người. Vì thế, theo sách Xuất Hành, vào sáng sớm và chiều tối mỗi ngày, các tư tế trong đền thờ phải sát tế mỗi buổi một con chiên làm của lễ toàn thiêu để đền tội thay cho dân chúng. Như vậy, tội lỗi của cả dân chúng mỗi buổi đều đổ hết lên đầu con chiên, và con chiên gánh tội ấy phải chết để đền tội thay cho dân chúng, hầu dân chúng được khỏi tội trước mặt Thiên Chúa (x. Xh 29,38-42).
Khi Gioan giới thiệu Đức Giêsu “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian,” thì Ngài muốn nói rằng Đức Giêsu đã trở thành Chiên Hy Sinh để xóa bỏ tội trần gian. Sau này, chính Thánh Phaolô cũng khẳng định điều đó khi nói rằng: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (x. 1Cr 5,7)
Lời chứng thứ hai: “Một người đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi, vì Ngài cao trọng hơn tôi.” (x. Ga 1,30).
Uy tín của Gioan Tẩy Giả càng ngày càng nâng cao nhờ vào đời sống và lời giảng dạy của Ngài. Vì vậy, người đương thời tưởng Ngài là Đấng Cứu Thế. Nhưng Ngài phủ nhận điều đó và khiêm nhường nhận mình “chỉ là tiếng kêu trong hoang địa.” Rồi Ngài khẳng định: “Người đến sau tôi, cao trọng hơn tôi, tôi không đáng để cởi quai dép cho Người.” (x. Ga 1, 19-28).
Lời chứng thứ ba: “Tôi làm phép rửa trong nước còn Người đến sau tôi làm phép rửa trong Thánh Thần.” (x. Ga 1, 26.33).
Đây là sự khác nhau giữa Phép Rửa của Thánh Gioan và Phép Rửa của Đức Giêsu. Phép Rửa của Gioan bằng nước, còn Phép Rửa của Đức Giêsu bằng Thánh Thần. Phép Rửa của Thánh Gioan chỉ kêu gọi người ta thống hối ăn năn tội chứ không tha tội, còn Phép Rửa của Đức Giêsu tha thứ tội lỗi: tội Tổ Tông và tội riêng (nếu có). Phép Rửa của Gioan chỉ dừng lại ở lòng thống hối, Phép Rửa của Đức Giêsu là cửa ngõ để dẫn vào các Bí tích khác, nhất là cửa ngõ để dẫn con người vào Nước trời “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần”(x. Ga 3,5).
Lời Chứng thứ tư: “Chính Ngài là Con Thiên Chúa.” (x. Ga 1,34).
Chúng ta biết được Đức Giêsu là Thiên Chúa nhờ chính mạc khải của Kinh Thánh: Khi Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, chính sứ thần Chúa đã hiện ra báo tin cho các mục đồng biết rằng: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa.” (x. Lc 2, 8-14); khi Hài Nhi được tiến dâng cho Thiên Chúa trong Đền Thờ, ông Simêon và bà Anna nhận ra Hài Nhi là Đấng Cứu Thế và cả hai nói tiên tri về Người (x. Lc 2,33-38); chính bà Isave cũng nhận ra Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế (x. Lc 1,43); và hôm nay Thánh Gioan nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhờ có tiếng Chúa Cha phán từ trời và nhờ Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu trên đầu Đức Giêsu: “Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.” (Ga 1,33).
Cũng như Gioan, để làm chứng cho Đức Giêsu, chúng ta cũng phải biết về Người.
Trước hết, đó là cái biết vì tri thức. Thánh Giêrônimô nói: “Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Kitô.” Vì vậy, để biết Đức Kitô chúng ta cần phải đọc, học hỏi Kinh Thánh, học hỏi giáo lý của Người. Điều này, nhắc nhở sự quan tâm của những người có trách nhiệm trong việc dạy giáo lý: Cha xứ đối với giáo dân; thầy cô giáo lý viên đối với học sinh; cha mẹ đối với con cái; người có đạo đối với những người lương dân, nhất là những người có trách nhiệm dạy đạo cho các dự tòng và tân tòng.
Thứ đến, đó là cái biết về tương quan thần linh với Thiên Chúa. Hay nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống mà Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2,20) Điều này được thể hiện qua đời sống đạo. Người biết Thiên Chúa về điểm này thường có đời sống đạo tốt, siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các Bí tích. Lời nói và đời sống đạo của họ đi đôi với nhau. Nghĩa là họ đã xác tín điều họ nói. Cho nên, lời nói của họ rất có tính thuyết phục. Vì “con người thời đại thích chứng nhân hơn thầy dạy.” (Đức Phaolô VI). Đó là những con người “mang Tin Mừng, mang sức mạnh của Thiên Chúa.”
Cuối cùng, để làm chứng về Đức Giêsu, chúng ta phải “nên thánh”, trở nên Con Chiên của Ngài. Con chiên thì hiền lành. Con chiên thì khiêm nhường. Con chiên thì chấp nhận ghánh tội thay cho người khác. Tin mừng Thánh Mathêu cho chúng ta biết những ai thuộc thành phần Chiên, đó là những người: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm.” (x. Mt 25,35-36).
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết chăm chỉ học hỏi giáo lý và thực hành những gì giáo lý đòi hỏi để khi chúng con làm chứng cho Chúa thì lời chứng của chúng con có sức thuyết phục đối với mọi người. Amen.
(Suy niệm của Lm. Duy Khang)
Thánh Gioan tẩy giả là vị ngôn sứ cuối cùng của thời Cựu Ước, và ông rất vinh dự được làm người dọn đường cho Đấng Cứu Thế sắp đến. Hôm nay, khi thấy Đức Giêsu đến với ông, ông đã mạnh mẽ công bố với mọi người Do Thái rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”.
Ông Gioan tẩy giả làm chứng về Đức Giêsu đích thực là Con Thiên Chúa, được Chúa Cha tuyển chọn, thánh hiến bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần để thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại, trong tư cách là Đấng Messia.
Ông Gioan tẩy giả đã sử dụng đến hai biểu tượng tuyệt đẹp, đó là con chiên: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Con chiên là một con vật quen thuộc đối với dân Do Thái ngày xưa, được nhắc nhiều lần trong Kinh Thánh. Hình ảnh con chiên rất có ý nghĩa, nhằm mô tả Đức Giêsu là con chiên chiến thắng, con chiên như người tôi trung, và con chiên như con chiên trong Lễ Vượt Qua.
Đức Giêsu là con chiên chiến thắng. Theo sách Khải Huyền thánh Gioan tông đồ, con chiên đã chiến thắng quyền lực sự dữ trên trái đất (x. Kh 17,14). Thánh Gioan còn khẳng định: “Bây giờ anh em biết Đức Giêsu đã xuất hiện để xóa bỏ tội lỗi” (1Ga 3,5); và “Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện là để phá hủy công việc của ma quỷ đã làm” (1Ga 3,8). Như vậy, quả không sai khi ông Gioan tẩy giả mô tả Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa là Đấng phá bỏ tội lỗi của thế gian.
Đức Giêsu là con chiên như người tôi trung, như sách ngôn sứ Isaia mô tả trong chương 42 và 53. Người Tôi Trung đã gánh hoặc chuộc những tội lỗi của nhiều người (x.Is 53,4-12). Cũng vậy, bằng cái chết của Người, Chúa Giêsu đã xóa tội hoặc đã gánh tội cho thế gian. Nhờ những vết thương của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn và sự chết của Người, đã chữa lành tội lỗi của chúng ta (1Pr 2,25; Is 53,5).
Đức Giêsu là con chiên như con chiên trong Lễ Vượt Qua. Đức Giêsu bị kết án tử vào ngày lễ Vượt Qua (Ga 19,14). Người là con chiên mà dân Do Thái bôi lên cửa, làm dấu để được cứu thoát, nói đến trong sách Xuất Hành (12,46), con chiên đã hy sinh (Kh 5,9), con Chiên đổ máu mình trên thập giá tẩy rửa tội lỗi nhân loại và giải thoát khỏi sự chết.
Tóm lại, con chiên được ông Gioan tẩy giả mô tả, như một lời giới thiệu về Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại. Mặc dầu Người vô tội, nhưng lại chấp nhận gánh lấy tội lỗi của nhân loại vào thân thể của Người, đến độ, Người đã dùng chính cái chết của mình để giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết. Hôm nay, Gioan tẩy giả đã làm chứng và lời chứng của ông đã thành hiện thực trong công trình cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô.
Hôm nay, trong mỗi Thánh lễ, chủ tế đều nhắc lại lời của thánh Gioan tẩy giả: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”, và mời gọi người Kitô hữu đón nhận Mình Máu Thánh Chúa. Chúng ta có Chúa Kitô ngự trong lòng, và sự sống của Người ở trong chúng ta.
Chúng ta hãy chiêm ngắm tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã dành cho chúng ta đến độ chết vì chúng ta. Chúng ta hãy làm chứng về tình yêu cứu độ của Người cho nhân loại. Chúng ta hãy sẵn sàng cộng tác với Giáo Hội bằng cách giúp đỡ cho người ta được thoát khỏi sự dữ và tội lỗi đang lan tràn trong gia đình, trong xã hội. Chúng ta hãy giúp cho những người xung quanh chúng ta sống niềm tin và hy vọng vào Chúa Giêsu là Đấng giải thoát và cứu chuộc của mọi người.
Anh chị em thân mến.
Trong cuộc sống đời thường, thỉnh thoảng chúng ta nhìn thấy những chiếc xe cứu thương chở những bệnh nhân từ nơi nầy đến nơi khác. Bệnh nhân được chở đi vì nơi đó không đủ điều kiện, nên cần đưa đến một nơi khác có đủ điều kiện hơn để cho bệnh nhân được phục hồi nhanh chóng. Nếu nơi không đủ điều kiện mà nhà điều trị không cho bệnh nhân được chở đi, không giới thiệu nơi khác, mà cố trì hoãn để giữ bệnh nhân cho mình thì sẽ nguy hiểm cho cả hai: nguy hiểm cho người điều trị, vì không đủ khả năng, nhưng vì ích kỷ, sợ mất uy tín, mất quyền lợi nên không muốn cho bệnh nhân đi nơi khác. Ngoài ra còn nguy hiểm cho bệnh nhân, vì không được điều trị đúng cách. Cả hai đều phải lãnh hậu quả mà thực ra không ai muốn như thế. Nếu nhà điều trị biết được khả năng của mình, để biết giới thiệu cho bệnh nhân đến đúng nơi, thì mọi việc sẽ có kết quả hết sức tốt đẹp.
Gioan tẩy giả nhìn thấy được sứ mạng mà mình được trao phó như thế nào. Ông cũng nhận ra được giới hạn của sứ mạng. Đồng thời Ông cũng nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa trong sứ mạng của ông. Lúc đó uy tín của ông đã đầy tràn, mọi người rất ngưỡng mộ ông, nhưng ông không màn đến. Ông biết bỏ đi những gì không thích hợp, để nhận thức cách đúng đắn sự việc hiện tại. Sứ mạng của ông chỉ là loan báo để mọi người đến với Chúa, đem mọi người về với Chúa và giới thiệu Đấng Cứu Thế cho mọi người. Ông không ngần ngại, chuyển tất cả những gì mình có đến nơi an toàn hơn, thích hợp hơn, vì nó không hợp với khả năng của ông nữa. Ông giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người. Ông rút lui vì đã hoàn thành sứ mạng, rút lui cách khiêm nhường trong vâng phục.
Mỗi người có một tài năng riêng biệt. Tất cả mọi người đều cố gắng để tài năng của mình được phát triển tối đa. Nhưng cho dù con người có tài giỏi đến đâu chăng nữa, thì cũng có giới hạn. Mỗi người chỉ làm được một số công việc nào đó trong phạm vi hiểu biết và khả năng của mình. Ngoài ra, con người phải biết chấp nhận giới hạn của mình, có như thế, con người mới chấp nhận được khả năng của người khác và cuộc sống mới được phong phú và có ý nghĩa hơn. Nếu không nhìn thấy người khác, không biết chấp nhận người khác, và nếu càng không nhìn thấy được giới hạn của chính mình thì thật là nguy hiểm, vì như thế sẽ có một ngày mình không còn gì hết, mất tất cả và mất luôn chính mình.
Mỗi người trong chúng ta, Thiên Chúa đã trao ban cho một sứ mạng, đồng thời Ngài cũng ban cho tài năng để thi hành sứ mạng cho tốt đẹp. Mỗi người được ở trong một hoàn cảnh mà chúng ta ngỡ rằng đó là việc tự nhiên. Chúng ta được những điều may mắn, có lúc dường như bất ngờ. Chúng ta được ưu đãi hơn những người chung quanh. Mỗi người cũng có chút tài năng, chút địa vị. Mỗi người cũng đang có một công việc ổn định, và có lẽ trong việc làm, trong giao tiếp, chúng ta cũng được nhiều người mến mộ. Tất cả những điều đó chúng ta cho là rất bình thường, rất tự nhiên, nên chúng ta cứ sống cách bình thản. Nhưng có khi nào, chợt thoáng qua trong cuộc đời, chúng ta nhìn thấy tất cả những gì mình đang có và đang sống: đó là sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó và chúng ta phải có trách nhiệm chu toàn. Nếu nghĩ được như thế, chúng ta sẽ thấy được sự bình an trong tâm hồn cho dù những thất bại có xảy đến, chúng sẽ được nhẹ nhàng cho dù có những mất mát về vật chất cũng như tinh thần, chúng ta sẽ được vui mừng khi người khác được hạnh phúc. Khi đó chúng ta đang thi hành sứ mạng giống như Gioan Tẩy Giả. Ông biết nhìn thấy chính mình, biết giới thiệu nguồn sống đích thực cho mọi người, và điều quan trọng là ông ta biết trở về đúng vị trí mà sứ mạng được trao phó cho ông.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết nhìn thấy chính mình, chấp nhận những giới hạn, nhận ra sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó để biết bằng lòng với những gì hiện tại và hoàn thành tốt đẹp.
Có một câu chuyện đời xưa, mang tên “cây kiếm gỗ”, nội dung thế này:
Ngày xưa, có một vị vua ngày đêm lo lắng về sự an nguy cho vương quốc của mình, về kho báu của mình, và đặc biệt về ngai vàng của mình. Ông không tìm thấy bình an trong cuộc sống; các vị quan trở nên mối nghi ngờ, và tương lai trở nên nỗi ám ảnh sợ hãi cho ông.
Từ chốn cung điện nhìn xuống đám dân nghèo, ông cảm thấy như thèm muốn được như họ, vì ông thấy họ toát lên nỗi đơn sơ, chất phát và không lo lắng cho tương lai. Quá tò mò lối sống của dân nghèo, vị vua quyết định hóa trang thành người ăn mày để tìm hiểu nguyên nhân nào đã làm cho những dân nghèo được bình an và không lo lắng.
Ngày kia, vị vua giả dạng người ăn mày gõ cửa một người nghèo để xin ăn. Người nghèo mời người ăn mày vào và cùng chia sẻ một ổ bánh mì với thái độ hạnh phúc và yêu đời.
Vị vua giả dạng hỏi:
– “Điều gì đã làm ông hạnh phúc như vậy?”
Người nghèo đáp:
– “Tôi có một ngày rất tốt. Tôi sửa giày và kiếm đủ tiền để mua ổ bánh cho buổi tối nay.”
Vị vua giả dạng hỏi tiếp:
– “Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu ngày mai ông không kiếm đủ tiền mua bánh mì?”
– “Tôi có niềm tin vào mỗi ngày. Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.” Người nghèo đáp.
Sau khi ra về, vị vua muốn thử niềm tin người thợ giày. Ông ra lệnh cấm những người sửa giày dép hành nghề. Khi biết mình bị cấm hành nghề sửa giày dép, người thợ giày nhủ thầm: “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.” Ngay lập tức ông thấy một vài phụ nữ đang gánh nước ra chợ bán rau, ông xin được gánh nước thuê cho họ. Và hôm đó, ông kiếm đủ tiền để mua bánh mì cho buổi tối.
Tối đến, vị vua dưới dạng người ăn mày thăm người nghèo. Người nghèo vẫn thái độ ung dung, hạnh phúc với ổ bánh mì của mình. Hôm sau, vua ra lệnh cấm không cho phép hành nghề gánh nước thuê. Và cứ như thế, người nghèo đã thay đổi nhiều nghề khác nhau, nhưng nơi ông vẫn luôn có sự bình an và tin tưởng vào triết lý sống từng ngày cùa mình. Còn vị vua vẫn không thể nào hiểu nổi sự bình an và niềm tin của người nghèo kia. Mỗi lần bị cấm hành nghề, người nghèo vẫn thản nhiên tin rằng, “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.”
Vì quá tò mò trước triết lý sống của người nghèo này, vị vua ra lệnh và dàn xếp để người nghèo làm lính cho cung điện. Thật đáng thương, người nghèo không được phát lương hằng ngày, nhưng hằng tháng. Dầu vậy, ông đã bán lưỡi gươm và có đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Tối đến, ông vẫn có bánh mì và vẫn hạnh phúc.
Vị vua giả dạng thăm ông và hỏi:
– “Hôm nay ông làm nghề gì mà kiếm tiến mua bánh mì?”
– “Tôi được làm lính cho vua.” Người nghèo đáp. Ông cũng đơn sơ kể rằng: “Làm lính nhận lương mỗi tháng, nên tôi đã bán lưỡi gươm thật và đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Sau khi có lương, tôi sẽ chuộc lại lưỡi gươm và như thế tôi sẽ có cuộc sống tốt hơn. Hiện nay tôi đang dùng lưỡi gươm bằng gỗ.”
Nhà vua giả dạng hỏi tiếp:
– “Nhưng nếu ông phải rút gươm ra vào ngày mai thì sao?” Người nghèo vẫn thản nhiên, “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.”
Quả thật, hôm sau người ta bắt được một tên trộm và bị kết án xử chém. Vua yêu cầu người nghèo trong trang phục lính thực hiện việc này. Vì nhà vua biết rằng, với lưỡi kiếm gỗ, người nghèo này sẽ không thể thực hiện được việc này, và như thế để xem thử niềm tin vào triết lý sống từng ngày của ông có thể giúp ông hay không.
Tên tử tội quì mọp xuống chân anh lính và thống thiết van xin được tha mạng vì còn vợ và con nhỏ. Anh nhà nghèo trong tranh phục lính nhìn đám đông xung quanh và hô lớn tiếng:
– “Lạy Đấng Tối Cao, nếu người sắp bị hành quyết này là người có tội, thì xin cho con được phép thi hành lệnh của vua. Nếu người này vô tội, xin hãy biến lưỡi gươm này thành gươm gỗ.”
Ngay tức khắc, anh rút lưỡi gươm và lưỡi gươm anh cầm trên tay là lưỡi gươm gỗ. Đám đông đồng thanh la lên:
– “Đây là phép lạ,” và người bị kết án được tha.
Vị Vua truyền lệnh tha tên ăn trộm đồng thời tiến đến người lính nghèo thú nhận rằng:
– “Trẫm chính là người ăn mày mỗi tối tại nhà ngươi. Từ nay trở đi, trẫm muốn ngươi là bạn và là quân sư cho trẫm”.
Dòng đời bất an.
Trong cuộc sống, thế nào cũng có lúc ta cảm thấy bơ vơ, lạc lỏng giữa dòng đời. Điều đó khó có thể tránh được, nhất là những lúc ta đau khổ. “Trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì’. Người ta cố gắng đi tìm ý nghĩa đích thực của kiếp người ngắn ngủi, nhưng xem ra, tiếng than thở thì nhiều, niềm vui không có bao nhiêu. “Ngày vui ngắn chẳng tày gang” (ND), thế nên, triết lý sống hiện tại là “hưởng thụ”. Hưởng thụ để bù lại những thiệt thòi mất mát vì sự hữu hạn của kiếp người, để tự tạo cho mình thứ hạnh phúc tạm bợ chóng qua thay vào hạnh phúc khát vọng mà con người không thể nào với tới được.
Nhưng càng chạy theo hưởng thụ, con người càng hụt hẫng, chới với. Tham vọng thì vô bờ, và cuối cùng, đời người là tiếc nuối.
Tìm hạnh phúc chỉ với hưởng thụ, chỉ với sở hữu vật chất, con người không thể nào có hạnh phúc. Dấu hiệu của sự vắng bóng hạnh phúc là sự bất an. Sự bất an ở trong lòng mỗi người đi đến bất an của nhân loại, bất an của thế giới.
Ai cho ta sự bình an?
Trong thế giới đã từng có những vĩ nhân góp phần thay đổi thế giới. Thay đổi bằng nhân sinh quan mới mẽ hay bằng chiến tranh chinh phục. Thay đổi bằng những phát minh khoa học, những khám phá phát triển kinh tế, những sáng kiến thành lập những tổ chức toàn cầu để cuộc sống con người được tốt đẹp hơn.
Rõ ràng, thế giới đã có nhiều thay đổi: giàu có hơn, văn minh hơn, gần gũi nhau hơn… Nhưng, thật đáng tiếc, thế giới cũng bất an hơn: vũ khí tân tiến hơn, phương tiện chiến tranh hiện đại hơn, tốc độ phát triển vũ khí giết người hàng loạt nhanh hơn, tranh chấp, phân tán, chia rẻ nhiều hơn, khủng bố, giết người… Bất an đáng sợ nhất đó là đạo đức sa đọa ngày một cao hơn: thứ bình an trong tội lỗi!
Thế nên, điều cần làm ngay, đó là con người cần thay đổi chính mình.
Thay đổi theo đường hướng nào? Theo chỉ nam nào? Theo mẫu mực nào? Con người cần có một vị Thầy dạy dỗ và dìu dắt.
Người đó chính là Ngài – Giêsu.
Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian.”(Ga.1,29).
Chỉ với một lời giới thiệu ngắn gọn, chứa đựng trọn vẹn chân lý cuộc sống và niềm hy vọng của con người.
Ở nơi Giêsu – Con Người là “Chiên Thiên Chúa” – nhân loại nhận ra bài học của Thầy chí Thánh Giêsu bài học Tình Yêu. Đấng dạy cho nhân loại Tình yêu Thiên Chúa, giá trị nhân phẩm của con người là Con Thiên Chúa, và bình an của con người là tình huynh đệ cùng là con Thiên Chúa.
Ở nơi Giêsu, nhân loại nhận biết và tin vững con người từ đâu đến, sống để làm gì, và rồi, con người sẽ đi về đâu.
Ở nơi Giêsu, con người thấu hiểu được vì sao nhân loại bất an, và hạnh phúc phù phiếm chóng qua. Con người biết mình phải làm gì để thoát khỏi tuyệt vọng.
Ở nơi Giêsu, con người mới thấy đâu là chân giá trị kiếp nhân sinh, vì con người bước đi trong ánh sáng.
Ở nơi Giêsu, con người tìm thấy tất cả những câu giải đáp cho thân phận của mình.
Và, con người vững tin nơi Giêsu, vì bài học của Giêsu không phải là bài học lý thuyết suông được viết bằng giấy mực, mà được viết bằng chính cuộc đời của Ngài. Một cuộc đời yêu thương con người, và chết cho con người. Đó là một cuộc đời Hiến Tế vì nhân loại và cho nhân loại. Ngài là Đấng Cứu Thế. Giêsu, “Đây là Chiên Thiên Chúa”.
Người đó chính là Ngài – Chúng ta bước theo Ngài. “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu” (Ga.1,25).
Người đó chính là Ngài – Ta an tâm phó thác. “Đức Giêsu xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người, và kìa biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền. Nhưng Người vẫn ngủ. Các ông lại gần đánh thức Người và nói: “Thưa Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất!”. Đức Giêsu nói: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!” Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ” (Mt.8,23-26).
Người đó chính là Ngài – Ta vững lòng cậy trông. “Khi đến Đồi Sọ, họ đóng đinh Người vào Thập Giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. (Lc.23,33-34).
Người đó chính là Ngài – Ta về đến bến bờ hy vọng. “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang với con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian đã tạo thành” (Ga.17,24).
Người đó chính là Ngài – Giêsu, Hạnh phúc đời ta. Không có ai khác, hay bất cứ điều gì khác có thể thay thế được Ngài. “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga.6,68).
Và, bên Giêsu, ta bình an thanh thản tâm hồn xiết bao!
Lạy Chúa Giêsu, Chiên Thiên Chúa!
Lòng con bình an trong Chúa.
Con tin vào Ngài. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Quan Trung)
Trong thời buổi mà nhiều người còn có tâm hồn trung nghĩa hôm nay, ngày ngày vẫn phải rên than là “vàng thau” đang quá trời “lẫn lộn” này, thì với một người có đủ điều kiện và thừa sức mạo xưng danh tánh của người khác! Mạo phạm sự nhân nghĩa của người khác! Mạo nhận những thành công của người để vơ vào làm của mình, thì cách minh định của thánh Gioan Tẩy giả trước sự xuất hiện của Chúa Giêsu khi khởi đầu sứ vụ của Người, quả thật vẫn mang tính thời sự cần thiết cho tới hôm nay: xác định đúng vị trí, vai trò và nhiệm vụ của mình: “không đánh lận con đen”. Không nhập nhằng để người khác ngộ nhận. Không dùng những quỷ kế để bảo vệ uy tín của mình. Không nuôi tham vọng để triệt hạ người khác. Và cũng sẵn sàng lùi bước, chấp nhận cuộc sống ẩn dật mà không hề tiếc nuối, kể công: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Chính Người là Đấng mà tôi đã nói: có người đến sau tôi, nhưng có trước tôi, vì Người cao trọng hơn tôi. Phần tôi, tôi đã không biết Người, nhưng để Người tỏ mình ra cho dân Israel nên tôi đã đến làm phép rửa trong nước” (Ga 1, 25-31). Một gương khiêm tốn lạ lùng! Hiếm có! Không chỉ cần trong thời gian xa xưa đó, mà ngay chính trong cuộc sống hôm nay, bài học ấy lại còn rất cần, rất thiết thực hơn bao giờ hết! Tôi chợt nghĩ cho mình:
I/ Để biết khiêm tốn: phải hiểu chính mình:
Gần năm năm sống với cha sở An Long, giáo hạt Cao Lãnh, giáo phận Mỹ Tho, tôi luôn tâm đắc một điều mà với tình anh em đồng hướng, ngài đã từng tâm sự với tôi: “Trung ơi! Anh nói thiệt với em, điều đáng sợ nhất trong cuộc sống hôm nay, không chỉ cho riêng hai anh em mình, mà còn cho bất cứ ai trong bất cứ cương vị, chức vụ, tuổi tác, giới tính nào đi nữa, anh vẫn thấy không gì nguy hiểm cho bằng mình không hiểu được vị trí của mình! Không biết khả năng thật sự đang có của mình! Không ý thức được vai trò trách nhiệm bổn phận và tầm ảnh hưởng của mình trong phong cách, trong ngôn từ, trong ứng xử đối với người trên mình, người ngang mình, người dưới mình mà mình quan hệ, giao tiếp, ứng xử hàng ngày… sơ hở một chút là dễ dàng bị sụp đổ lắm em! Đành rằng ước muốn thì ai cũng muốn tốt, nhưng cá tính nếu không được nhìn lại, được rèn giũa, được tự nguyện uốn nắn thường xuyên, nhiều khi tự ái nổi lên, mình trở tay không kịp vì không lường trước tác hại của nó đâu em!”- Một kinh nghiệm xương máu mà đời tôi cũng đã không ít lần nếm trải! Giờ được một linh mục đàn anh chia sẻ, tôi càng hiểu chính tôi hơn!
II/ Để sống khiêm tốn: phải biết ứng dụng:
Rất nhiều người thích nghe kinh nghiệm của người khác, nhưng lại quá tự tin, tự tôn, tự cao, tự đại, để rồi có lúc phải ngã bật ngửa! Phải vấp ngã mang thương tích. Phải sụp hố sâu đến lút đầu lút cổ chính từ những kinh nghiệm mà mình đã từng được tâm sự, từng được nhủ khuyên, từng được ngăn ngừa! Nghe nhiều, đọc nhiều, mà không hiểu đúng, hiểu sâu, nên không biết đường ứng dụng! Rồi thêm sự kiêu căng bởi tự phụ cho là những khó khăn mà thiên hạ vướng vấp chỉ là chuyện nhỏ! Mình đủ sức đối đầu! Dư sức khắc phục! Thừa bản lĩnh vượt qua! Bởi “sóng sau cao hơn sóng trước” mà! Tại họ khoái “lớn thuyền” nên mới bị “lớn sóng” vậy thôi! Ai biểu họ “thuyền đua, bè sậy cũng đua; thấy rau muống vượt, rau dừa vượt theo” làm chi cho khổ? Mình cứ tà tà “liệu cơm gắp mắm” là khỏe re! Nhưng họ quên một điều: “lỗ nhỏ đắm thuyền”! không gì nguy hiểm bằng mình tự phụ mà mình không hay! Mình tự kiêu mà mình không biết! Mình đang tự đào lỗ chôn mình mà mình không ngờ! Sống khiêm tốn không dễ chút nào nếu chỉ biết nghe, biết nhìn, biết đọc mà không biết ứng dụng kịp thời, đúng lúc, hợp tình! Kiến thức vững phải khởi đi từ chiều sâu kinh nghiệm, từ nền tảng ban sơ, từ vấp váp khiếm khuyết, lỡ lầm của người đi trước để lại. Bản lĩnh là ở chỗ đó! Trưởng thành là ở chỗ đó! Thành công cũng là ở chỗ đó. Khiêm tốn là nét đẹp! Nhưng cũng mang lại những kết quả vượt sức ta mong chờ, hy vọng.
Thánh Gioan Tẩy giả đã giúp tôi ý thức thân phận của mình hơn: không mặc cảm! Không trục lợi! Không sang đoạt! Không oán trách! Không chà đạp! Mình sống và làm việc bằng chính nén bạc Chúa trao và phấn đấu để đạt được đồng lời Chúa muốn phát sinh tương xứng với đồng vốn ấy! Không ganh tỵ! Không cản đãng! Không chỉ trích! Không mạo danh mạo nhận mạo phạm tới bất cứ ai! Thợ làm vườn nho cho Chúa: sáng- trưa- chiều, đồng lương vẫn như nhau. Chúa không đòi tôi chạy theo chỉ tiêu để rồi “dụng mưu vận kế” để lấy của người khác làm thành quả của mình, rồi lên mặt dạy đời thiên hạ. Những người mà họ thừa khả năng dạy cho tôi những bài học nhớ đời mà tôi cứ tưởng họ dở, họ khùng, họ đui, họ điếc! Họ không hề hay biết sự háo danh, háo thắng của tôi. Bởi tôi dẽo miệng, tôn vinh, ca ngợi cấp trên và sẵn sàng “bán bụi tre, đè bụi hóp” để “diễu võ dương oai”, mắng mỏ, chụp mũ, đâm thọc cho người ngang, kẻ dưới phải bị dập vùi hầu tôi dễ tiến thân mà quên “đời không cho không ai bất cứ điều gì không xứng tầm với họ”. Giá phải trả vô lường!
Thấm thía hơn cho tôi là ở một lần khác trước đó, vị Tiền Hô đã nói: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người” (Mt 3, 13). Đến bao giờ, tôi mới đủ khiêm tốn để hiểu được chính tôi? Để sống đúng cương vị Chúa định cho tôi? Để bài ca yêu thương sẽ xóa tan mọi đảo phách bất hợp lý vẫn đang luân chuyển trong Tâm Khúc đời tôi?
Anh chị em thân mến,
Người Việt Nam chúng ta dễ tin lắm, nhất là nông dân mộc mạc chất phát. Mỗi khi đau bệnh, nghe ai bày thuốc này thuốc nọ, ta hay tin, hay nghe theo. Ta tin cả những ông thầy lang vườn, rất nhiều khi chẳng có kinh nghiệm y học, thuốc men chi cả… Mấy năm gần đây, ở An Điền có Ông thầy Ba Phú, cả xóm, cả làng ở đây không ai biết ông làm thầy, vậy mà ở Sài Gòn, Bến Nghé đi xe hơi cứ xuống tìm ông ấy ào ào, để xin chữa bệnh, để xin coi quẻ… Cách đây ba năm, có một Cô ở Tân Xuân, còn rất trẻ, nghe nói có bà con với Ông Chín Qưới, có bệnh thần kinh, tự dưng ứng lên làm thầy, chữa bệnh cho người ta bằng cách vô nước biển. Thực ra Cô đâu có vô nước biển, chỉ biểu người ta nằm dài đó một hồi, rồi nói, vô nước biển nghe…một lát sau nói rồi, là rồi đó. Mấy ông mấy bà trong đạo mình ở An Điền và Ba Tri, đi tới Cô này nhiều lắm….Bất nhơn, bệnh gì cũng cho vô nước biển…hết hay không…. không biết!!!!!!!… mà nhiều người về nhà rồi chết cũng ào ào…
Có một người giới thiệu cho chúng ta một vị Thầy có tài chữa bệnh thể xác, và cả bệnh linh hồn nữa: đó là thánh Gioan Tẩy giả, ông là người sẵn sàng giới thiệu và làm chứng cho chúng ta biết, để không lầm lẫn. Đó chính là chủ đề suy niệm của ngày Chúa Nhật hôm nay.
a/. Chúng ta thử đọc lại bài Tin mừng này và rút ra từng lời chứng của Gioan:
Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, (Gioan nói khi thấy Chúa Giêsu đi đến…) chính Người là Đấng tôi đã nói: có Đấng đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì Người có trước tôi.
Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Chính Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước bảo tôi: ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, Người đó sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.
Trước hết chúng ta đã thấy thánh Gioan tuyên xưng Chúa Giêsu là Chiên của Thiên Chúa , ám chỉ Đấng Cứu thế, Đấng đã được Thiên Chúa hứa trong Cựu Ước, và dân chúng đang mong đợi… Kế đến Gioan nhìn nhận tuy Chúa Giêsu đến sau, nhưng Người trổi vượt hơn, và vì Người có trước Gioan nữa. Ở đây, Gioan không hề nói thêm cho mình; ngược lại Gioan còn tự hạ mình nữa. Rồi thánh Gioan kể lại dấu chứng: Chúa Giêsu được Thánh Thần từ trời xuống và ngự trên mình; cũng chính Thánh Thần nói cho Gioan biết: Thánh thần ngự xuống trên ai, kẻ ấy sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần…
b/. Thánh Gioan sau khi ra rao giảng và làm phép rửa bên bờ sông Giodan, không bao lâu, danh ông đã nổi như cồn. Chính vì thế, có nhiều người, nhiều phái sai người đến hỏi Gioan: Ông có phải là Đấng Cứu thế không? Tuy hỏi như vậy, họ vẫn muốn ông trả lời là phải, vì họ rất kính nể ông. Nhưng Gioan lại trả lời: không phải… làm mọi người thất vọng. Họ hỏi vặn mãi, Gioan mới trả lời: “tôi chỉ là tiếng người hô trong sa mạc: hãy dọn đường cho Chúa…” Gioan đã phủ nhận: mình không phải là Đấng Cứu thế, và cũng không đáng xách dép cho Người… theo thói đời, người ta lạm dụng danh nghĩa người khác, để lấy uy tín cho mình; ở đây Gioan không làm điều đó, và càng cảm nhận mình không xứng đáng nữa là khác. Gioan rất chân thật và cũng quá khiêm tốn…
Kế đến, như trong bài Tin mừng hôm nay thuật lại, Gioan sẵn sàng làm nhân chứng cho mọi người tin nơi Chúa Giêsu, dù phải trả giá như thế nào. Chúng ta biết, vì công chính và tôn trọng sự thật, mà Gioan đã kích tội của vua Hêrođê, là cướp vợ của anh mình, nên Gioan đã bị giết cách đau thương. Chính vì thế Gioan mới nói, tôi chỉ là tiếng hô trong sa mạc… tôi sẵn sàng làm chứng để cho anh em tin vào Chúa Giêsu, là Chiên Thiên Chúa…
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Thánh Gioan Tẩy Giả dùng cả con người, cả cuộc đời của mình để làm chứng cho chúng ta, rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế. Ta có tin không? Hay ta còn đợi người nào khác? Ước gì câu hỏi này mỗi người chúng ta phải tự trả lời thành thật trước mặt Chúa…
Trong cuộc sống, chúng ta quen nhiều người, nhưng biết thì ít hơn.
Gioan cũng thế, trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, hai lần ông khẳng định: “Tôi đã không biết Người” (Ga.1,31-33). Cho đến khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, Gioan thú nhận mình vẫn chưa “biết” Ngài.
Dù Đức Giêsu là bà con họ hàng của ông (Lc.1,36), dù ông đã có một số thông tin về Ngài, và dù ông biết Ngài cao trọng hơn mình (Mt.3,14), nhưng cái biết ấy, ông vẫn chưa coi là biết thật sự.
Được Thiên Chúa mách bảo, ông kiên nhẫn đợi chờ. Làm phép rửa trong nước là cách giúp ông khám phá ra Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần. Ai được Thần Khí ngự xuống và ở lại, Người ấy là “Đấng Thiên Chúa Tuyển Chọn”. Gioan đã thấy Thần Khí ở lại trên Đức Giêsu lúc Ngài được ông làm phép rửa. Bây giờ ông mới có thể nói: ông đã biết Đức Giêsu. Ông đã “biết” sau khi ông đã “thấy”.
Nếu biết là đi vào một mầu nhiệm, thì mầu nhiệm ấy cứ vẫy gọi người ta tiến sâu hơn. Càng tiến sâu, cái biết càng được thanh luyện. Gioan đã thấy, đã biết, đã làm chứng cho Đức Giêsu. Làm chứng cho Đức Giêsu khiến ông trở nên tay trắng. Ông vui khi giới thiệu Đức Giêsu cho môn đệ của mình. Ông mừng khi thấy dân chúng tuốn đến với Ngài (Ga.3,26). Ông sung sướng khi trở nên lu mờ đi để Ngài được nổi bật lên (Ga.3,30).
Từ cái biết nhờ thấy, Gioan đã trở nên người làm chứng cho Đức Giêsu. Hành trình chứng nhân của Gioan cũng là của bạn và tôi hôm nay: “thấy, biết rồi làm chứng”.
Biết một người là chuyện khó. Biết Đức Giêsu còn khó hơn. Tôi chẳng thể nào múc cạn được con người Giêsu, Đấng đã là đích điểm giao hòa giữa trời và đất; Đấng là tạo hóa nhưng lại hòa đồng với tạo vật, và cũng là Đấng đã liên kết giữa thần linh thánh thiện và con người tội lỗi.
Để biết Đức Giêsu, ta cần thấy Ngài tỏ mình ra. Nhưng không phải ta sẽ thấy một thị kiến huy hoàng long trọng. Không hẳn Ngài sẽ xuất hiện trong sức mạnh quyền năng. Ngài vẫn tỏ mình xuyên qua những việc xảy ra trong cuộc sống hằng ngày, qua những con người đơn sơ ta vẫn gặp. Ta cần tập nhìn thấy Ngài tiềm ẩn sau lớp vỏ bọc xù xì của thực tế đời thường.
Cần thường xuyên làm mới lại “cái biết” về Đức Giêsu để mối tương quan của ta với Ngài mỗi ngày trở nên thâm trầm hơn, thân mật hơn. Nếu biết là thấy, là có kinh nghiệm riêng tư, là hiệp thông, là gặp gỡ, là chia sẻ chính cuộc đời của Ngài, là để “ta sống trong Ngài và Ngài sống trong ta”, thì cái biết đó phải là nỗ lực của cả một đời người Kitô.
Và lúc này đây, mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy dành ra đôi ba phút ngắn ngủi để đi vào lòng mình; để tìm gặp khuôn mặt Giêsu: Ngài đang ở đâu, ở chỗ nào trong cuộc sống của tôi? Tôi phải làm gì để nhận ra Ngài, bắt gặp Ngài đang sống bên tôi trong cuộc đời tạm bợ này?
Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian.”(Ga.1,29). Còn bạn và tôi, chúng ta sẽ giới thiệu Đức Giêsu như thế nào cho những người xung quanh ta hôm nay?
***
Lạy Chúa Giêsu!
Xin cho con thấy Chúa thật lớn lao, để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ vô nghĩa.
Xin cho con cảm nhận tình Chúa thật bao la sâu thẳm, để con luôn được sống trong tình yêu thương sâu thẳm bao la ấy.
Xin cho con biết Chúa thật nhân từ và bao dung, để mỗi khi con vấp ngã trên đường đời, con luôn biết chỗi dậy và trở về cùng Chúa.
Giêsu ơi! Xin Ngài hãy đến và cư ngụ trong lòng con luôn mãi, để không còn là con nữa, mà là chính Ngài đang sống trong con. Amen
Môn chơi chữ có thể rất vui. Một số người nói một từ và bạn có thể trả lời theo những gì đến trong tâm trí bạn. Thí dụ, tôi nói “nhỏ” và bạn nói “lớn”. Tôi nói “bóng đá”, bạn nói “bóng chày”. Gioan Tẩy Giả nói Đây Chiên Thiên Chúa” và chúng ta có thể nói “cái gì?”.
Để trình bày Chúa Giêsu. Thánh Gioan tẩy Giả đã có thể làm tốt hơn khi tuyên bố: “Hãy chiêm ngắm, đó là Chúa của các ngươi” hoặc”Đó là Đấng Cứu Độ” hay “đấy là Đức Kitô” không hay hơn sao? Tất cả những tước hiệu này xem ra diễn tả rõ ràng hơn: “Chiên của Thiên Chúa”.
Thật ra, đối với người Do thái, tước hiệu mà Gioan Tẩy Giả rao giảng thì từ: “Chiên Thiên Chúa” gợi lên trong tâm trí họ toàn bộ giáo lý đức tin của dân riêng Thiên Chúa. Ngay lập tức, họ nghĩ rằng không phải là một con chiên nhỏ bé nhưng là sự lớn lao của quyền năng và lòng thương xót Chúa hướng đến họ qua dấu máu của con chiên, nhờ đó họ được cứu thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập và được mang đến sự tự do và đời sống mới nơi đất Hứa. Mỗi năm và dịp lễ Vượt Qua, họ lại tưởng nhớ và mừng lễ Cứu Độ bằng việc tham dự vào bữa ăn tối Vượt Qua.
Trong Thánh Lễ, việc mừng sự cứu độ của chúng ta trong Đức Kitô, chúng ta nhìn lên Mình và Máu Chúa, chúng ta nhận biết Người bởi chúng ta hiểu những lời của vị linh mục: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”. Khi chúng ta nghe những lời này trước khi rước lễ, chúng ta được mời gọi nhớ lại những gì mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta, Người như Chiên Vượt Qua. Chúng ta diễn tả niềm tin của chúng ta trong những lời tuyên xưng Thánh Thể. Khi nhớ chiên Vượt Qua đã bị hy sinh sát tế như thế nào, chúng ta được mời gọi suy niệm về chung kết là việc Chúa ngự đến như là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ thế gian này: “Đức Kitô đã chết, Đức Kitô đã sống lại, và Chúa Giêsu Kitô sẽ đến trong vinh quang”.
Khi suy niệm về sự giải thoát đã ban cho các tổ phụ chúng ta, trong đức tin, chúng ta được mời gọi suy niệm về việc được giải thoát khỏi tội lỗi của chúng ta: “Lạy Chúa, bằng thánh giá và sự Phục Sinh của Người, Người đã cho chúng con được tự do. Chúa là Đấng Cứu Độ thế gian”. Khi suy nghĩ về đời sống mới của các tổ phụ tinh thần của chúng ta nơi đất Hứa, chúng ta được mời gọi suy niệm đời sống mới của chúng ta trong Đức Kitô: “Bằng cái chết, Người đã tiêu diệt sự chết nơi chúng ta, bằng việc sống lại, Người đã phục hồi sự sống cho chúng ta”. Khi suy niệm về các tổ phụ đã kỷ niệm sự giải thoát của mình bằng việc dự phần vào bữa tối Vượt Qua, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm việc chúng ta cử hành ơn cứu độ của chúng ta nơi bữa tiệc Thánh Thể: “Lạy Chúa Giêsu Kitô khi chúng con ăn bánh và uống chén này, chúng con tuyên xưng việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến”.
Khi mời gọi mọi người lên hiệp lễ, vị linh mục nói: “Phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa” hay là câu “Hạnh phúc thay những người được gọi đến dự bữa tối với Người”. Bữa tối hoặc tiệc đây không phải ám chỉ bữa tối sau hết nhưng là tiệc cưới của Con Chiên Thiên Chúa trên thiên đàng nơi mà các tín hữu của Chúa mừng Giao Ước tình yêu và trung tín (Kh 19,9). Bữa tiệc huy hoàng và đời đời là số phận của chúng ta bởi vì chúng ta nên một với Chiên Thiên Chúa ở trên trời.
Không có từ đơn giản nào mà thích hợp như một câu trả lời khi chúng ta nghe xướng: “Đây Chiên Thiên Chúa”, nhưng một cuộc suy niệm sâu xa về sự phong phú của tước hiệu này sẽ giúp chúng ta hiểu biết Chúa Giêsu tốt hơn và dẫn chúng ta tới dự phần đầy đủ hơn nơi bữa tiệc Thánh Thể của Chiên Thiên Chúa.
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Tính cách của Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên
Chúng ta đều biết Mùa Phụng Vụ Thường Niên được chia làm hai giai đoạn, giai đoạn sau Mùa Giáng Sinh và giai đoạn sau Mùa Phục Sinh. Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh bao giờ cũng ngắn hơn Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh. Cách đây hơn ba tuần lễ, Giáo Hội mới cử hành biến cố Chúa Kitô Giáng Sinh, nay cử hành việc Người đã xuất thân loan báo Tin Mừng Nước Trời. Phải nói là Chúa Giêsu lớn quá mau theo tiến trình phụng niên. Tuy nhiên, nếu hiểu ý nghĩa Phụng Vụ Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh và Hậu Phục Sinh khác nhau thế nào, chúng ta cũng sẽ hiểu được về thời gian dài ngắn của Mùa Thường Niên được chia làm hai giai đoạn này.
Theo tôi, nếu Phụng Vụ là việc Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, thì trong Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh, Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô Thừa Tác, tức Mầu Nhiệm Chúa Kitô tỏ mình ra cho thế gian biết Người thực sự là Đấng Thiên Sai, Đấng đến không phải để làm theo ý mình song ý Đấng đã sai (x Jn 6:38). Và nếu Chúa Kitô “đến để làm chứng cho chân lý” (Jn 18:37), làm chứng về mình là Đấng Thiên Sai như thế, thì Mầu Nhiệm Chúa Kitô Thừa Tác này đã thực sự được kết thúc ở Mầu Nhiệm Vượt Qua, một Mầu Nhiệm Chúa Kitô được Giáo Hội long trọng cử hành trong Mùa Chay, Tam Nhật Thánh, Đại Lễ Phục Sinh và Mùa Phục Sinh. Vậy nếu giai đoạn thứ hai của Mùa Thường Niên được Giáo Hội sắp xếp sau Mùa Phục Sinh thì chắc chắn phải có một liên hệ mật thiết về ý nghĩa với Mùa Phục Sinh, như liên hệ ý nghĩa của giai đoạn Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh với Mùa Giáng Sinh vậy. Theo tôi, nếu ý nghĩa hay chủ đề của cả Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh là việc Chúa Kitô tự chứng về mình, thì ý nghĩa và chủ đề của cả Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh là việc Chúa Kitô được Thánh Thần làm chứng về Người qua Giáo Hội, cho đến khi Người lại đến trong vinh quang, thời điểm kết Mùa Thường Niên nói riêng và Phụng Niên nói chung ở Lễ Chúa Kitô Vua. Như thế, chúng ta có thể suy ra, sở dĩ Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh ngắn, là vì Mầu Nhiệm Chúa Kitô Thừa Tác hay Tự Chứng chỉ xẩy ra có 3 năm, trong khi Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh dài, là vì Mầu Nhiệm Chúa Kitô ở cùng Giáo Hội bằng Thần Linh của Người kéo dài “cho đến tận thế” (Mt 28:20).
Tuy nhiên, Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh được mở màn chẳng những với Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, như chúng ta đã cử hành tuần trước, mà còn được tiếp nối bằng một Chúa Nhật chuyển tiếp nữa là Chúa Nhật Thứ Hai hôm nay đây. Tại sao lại nói Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên hôm nay đây là Chúa Nhật chuyển tiếp?
Thưa, là vì Giáo Hội đã xen kẽ ba bài Phúc Âm theo Thánh Gioan vào cả ba chu kỳ phụng vụ A, B, C thay cho Phúc Âm riêng của mỗi chu kỳ, Phúc Âm Mathêu cho Năm A, Marcô cho Năm B và Luca cho Năm C. Mà nội dung của ba bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho Chúa Nhật Thứ Hai của cả ba chu kỳ A, B, C là gì, nếu không phải là những bài mang ý nghĩa chuyển tiếp từ Cựu Ước sang Tân Ước, chuyển tiếp liên tục nhau một cách rất khít khao từ năm A tới năm C. Thật vậy, bài Phúc Âm Thánh Gioan của Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên Năm A hôm nay cho thấy Gioan Tiền Hô, tiêu biểu cho các tiên tri thời Cựu Ước, đã xác nhận Chúa Giêsu “là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”. Mà “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” này, trong bài Phúc Âm cũng theo Thánh Gioan ở Năm B, sau khi hai người môn đệ của Gioan Tiền Hô đến ở với Người, đã được họ cảm nhận là “Đấng Thiên Sai”. Và “Đấng Thiên Sai” như họ cảm nhận đây, trong bài Phúc Âm cũng theo Thánh Gioan ở Năm C, đã “tỏ vinh quang của Người ra để các môn đệ tin vào Người”. Từ đó, từ việc bắt đầu tỏ mình ra trước hết cho các môn đệ tiên khởi của mình này, Chúa Giêsu mới chính thức công khai tỏ mình ra, như được các Thánh Ký Nhất Lãm đề cập đến ở ba bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Thường Niên tuần tới.
Đề tài của Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên
Chủ đề của bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên Năm A hôm nay thực sự là lời của Thánh Gioan Tiền Hô chứng nhận về Đấng đến sau mình, “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”. Thật ra, Chúa Giêsu cũng có thể tự làm chứng về mình. Tuy nhiên, trước mắt thế gian, nhất là vì thiện ích thiêng liêng cho dân Do Thái, Người cũng cần đến cả chứng của loài người nữa, như chính Người đã minh định với người Do Thái trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 5 câu 34 như thế này: “Quí vị đã sai người đến với Gioan, vị đã làm chứng cho sự thật. (Bản thân Tôi không cần đến một thứ chứng từ như thế, song chỉ vì phần rỗi của quí vị mà Tôi nhắc đến những điều này mà thôi)”. Đúng thế, “để danh chính ngôn thuận”, nhân vật Giêsu Nazarét vô danh tiểu tốt (x Jn 7:52) trước mắt dân Do Thái mới xuất đầu lộ diện bấy giờ cần phải có một người đỡ đầu cho, một người có thế giá lớn, được dân chúng kính phục như một vị tiên tri, chẳng hạn Gioan Tẩy Giả, giới thiệu cho thì mới được công nhận và đáng tin. Và, một khi đã được Gioan Tiền Hô giới thiệu thế nào, Chúa Giêsu phải đóng đúng vai trò của mình như thế. Bằng không, một là chứng của Gioan là chứng dối, hai là Chúa Giêsu chỉ là một kitô giả. Tuy nhiên, nếu Gioan Tẩy Giả làm chứng Chúa Giêsu “là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” thì ngài phải có bằng cớ khiến cho ai cũng phải công nhận.
Vậy bằng cớ của vị tiền hô để ngài có thể làm chứng về Chúa Giêsu thực sự “là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, tức là Đấng Thiên Sai, Đấng dân Do Thái mong đợi đây là gì, nếu không phải, như ngài thành thực cho biết trong bài Phúc Âm hôm nay: “Như tôi nói là Tôi không hề biết Người. Đấng sai tôi làm phép rửa bằng nước bảo tôi biết rằng ‘Khi nào ngươi thấy Thần Linh xuống đậu trên ai thì vị ấy chính là Đấng rửa trong Thánh Thần’”.
Đúng thế, “là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, theo Mạc Khải Cựu Ước, trước hết phải là Đấng được tràn đầy Thần Linh, qua sự kiện được “Thần Linh đậu xuống” trên mình, và sau nữa, nhờ đó, nhờ Thần Linh và bởi Thần Linh, vị này có cả tư cách lẫn khả năng “rửa trong Thánh Linh”, tức có thể thực hiện những việc Thần Linh sai khiến. Đó là lý do, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Thường Niên Năm C tuần tới, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã tuyên bố ứng nghiệm nơi trường hợp của mình lời tiên tri Isaia nói về vị được Thần Linh Chúa chẳng những “đậu xuống”, ở chỗ ngự trị và xức dầu, mà còn có khả năng “rửa trong Thánh Thần”, ở chỗ được sai đi rao giảng và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa. Trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, nếu Tiên Tri Isaia trong bài đọc một nói đến ý định của Đấng tuyển chọn là: “Ta sẽ làm cho ngươi trở thành ánh sáng soi các dân nước, để ơn cứu độ của Ta chiếu đến tận cùng trái đất”, thì Thánh Vịnh 40 trong bài Đáp Ca cũng cho thấy phản ứng tương hợp của một vị thực sự là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, ở chỗ: “Lạy Chúa, này tôi xin đến để thực thi ý Chúa”, bằng việc “tôi đã loan truyền đức công minh của Ngài nơi đại hội; Ôi Chúa, Chúa biết rồi, tôi chẳng hề ngậm môi”.
Vấn đề thực hành sống đạo:
Bài đọc Thứ Hai hôm nay, Thánh Phaolô nhắc nhở Kitô hữu giáo đoàn Corintô qua bức thư thứ nhất của ngài về ơn gọi và vai trò cao quí của họ là: “những người được thánh hiến trong Chúa Giêsu Kitô và được kêu gọi là một dân thánh”. Tuy nhiên, được “Thiên Chúa tuyển chọn” “trong Chúa Giêsu Kitô” như thế, Kitô hữu chúng ta đã có một tâm hồn như câu Đáp Ca thứ ba của bài Thánh Vịnh 40 tuyên tụng hay chưa: “Ôi Chúa Trời ơi, tôi hân hoan thực thi ý Chúa, luật pháp của Chúa ghi tận đáy lòng tôi!”? Nghĩa là chúng ta đã hết sức nỗ lực để sống như Chúa Giêsu Đấng Thiên Sai hay chưa, ở chỗ, có luôn sẵn sàng làm theo ý Đấng đã tuyển chọn để sai phái mình đi sinh hoa trái (x Jn 15:16) hay chưa? Hoa trái của chúng ta là những gì? Vì chỉ có sinh hoa kết trái Thần Linh, chúng ta mới thực sự chứng tỏ chúng ta chẳng những đã được “rửa trong Thần Linh” (Jn 3:5) khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, mà còn như Chúa Kitô thực hiện được cả việc “rửa trong Thánh Thần” nữa.
Nhiều người đã thắc mắc phải hiểu như thế nào về câu nói của Gioan khi nhìn thấy Đức Giêsu tiến về phía mình: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”. Thông thường người ta chỉ hiểu lời giới thiệu đó như một tiếng ám chỉ chiên vượt qua hoặc chiên hy tế của đền thờ, hay “Tôi tớ Giavê” Trong sấm ngôn Is 53,7 kẻ được hình dung như con chiên bị đem đi giết, như con cừu được thợ xén lông, và mang lấy nỗi khổ cùng các hành vi bất công của chúng ta “Người đã bị sát tế vì chúng ta” (1Cr 5,7) , và như vậy, Người đã trở nên Chiên Vượt Qua, Đấng xoá tội trần gian cho tất cả những ai tin vào Người (Ga, 1,29) (Từ điển Công Giáo Phổ thông)
Hai thành ngữ “Tôi Tớ” và “Chiên Thiên Chúa” dù trông khác nhau, đều nói lên rằng Chúa Giêsu là Đấng vô tội mà lại bị con người trừng phạt như một tội nhân, khi gọi người như vây, Isaia và Gioan Tẩy giả muốn công bố sự công chính đức vâng phục vâng lệnh Thiên Chúa và hy lễ cứu chuộc của Người. Trong thư của Phêrô nói: “Máu của người châu báu như con chiên vô tật vô tì” (1Pr 1,19). Từ “Chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội trần gian”, chúng ta thật khó hiểu hết ý nghĩa của từ “xoá” Vì “xoá” mới có nghĩa như đứng bên ngoài, ở ngoài tham gia vào, nên chưa thấy được thâm sâu tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Tiếng Latinh dùng từ “tollit” có nghĩa là nhận lấy vào mình gánh lấy, vác lấy. Có lẽ nên dịch là Chiên Thiên Chúa Đấng “gánh” lấy tội nhân loại thì chính xác hơn. Đức Giêsu đã tự hiến thân hoà mình với nhân loại và cuối cùng đã chết thay cho nhân loại, đã gáng lấy tội lỗi của con người. Chính vì con người đáng lẽ phải chịu phạt mà Thiên Chúa lại gánh lấy để con người được thứ tha, Người hạ mình xuống để ta được nâng lên, Người trở nên nghèo hèn để ta được giàu có, Người làm con loài người để ta được làm con Thiên Chúa, Người trở nên yếu hèn để ta được nên mạnh mẽ, Người chịu nhục nhã để ta được vinh quang, Người nhận lấy thân phận nô lệ để ta được tự do, Người cam lòng chịu chết để trả lại cho ta sự sống.
Chỉ có tình yêu cao cả và sự vâng phục tuyệt đối đã làm cho Đức Giêsu trở thành con chiên, thành của lễ hy sinh tuyệt vời Người là Con Thiên Chúa, Người sống cho mọi người. Nhất là qua những cử chỉ hành động lời nói của Đức Giêsu như động lực thúc đẩy con người cũng hãy biết hy sinh cho nhau. Để sống với và sống trong Chúa một cách cụ thể, đòi ta phải biết sống với người khác, phải tha thiết với sự sống còn và sự phát triển tươi đẹp của anh em mình, và như Đức Kitô, tôi phải dám chia sẻ bằng chính sự sống của mình, để có thể dám hy sinh cho tha nhân, ta phải sống cho tình yêu như chính Chúa đã sống cho nhân loại, chỉ khi nào cảm nhận được tình yêu thì chúng ta mới dám hiến thân và cho đi tất cả vì tình yêu. Con người không thể sống mà không có tình yêu thương người khác. Chính vì thế, ta tìm thấy tình yêu không phải nhờ được yêu mà biết sống cho tình yêu. Càng quên mình để sống cho tình yêu thì chúng ta lại càng được tình yêu, vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh (kinh Hoà Bình).
Lời giới thiệu của Gioan cho ta thấy và cảm nhận được hồng ân bao la mà Thiên chúa đã ban cho mình. Vì “không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13), để từ đó con người biết tạ ơn Thiên Chúa vì kế hoạch đầy tình thương của Người. Người đã ban Đức Giêsu Kitô cho ta để làm người Tôi Tớ để thực hiện kế hoạch ấy, và Đức Giêsu Kitô lại tha thiết mời gọi chúng ta quy tụ vào thân thể mầu nhiệm của Người, để Người sai ta đem ân sủng và bình an đi, tiếp nối sứ mang của Người Tôi Tớ. Dĩ nhiên muốn thực hiện sứ mạng này, chúng ta phải chấp nhận hy sinh, vì chính sự hy sinh mới nói lên được một tình yêu chân thành, sâu thẳm đối với Chúa và tha nhân. Tình yêu không hy sinh là tình yêu trá hình. Tình yêu không dựa vào lời nói hay những cử chỉ trìu mến, nhưng phải được chúng tỏ qua sự hy sinh sống động để làm bằng chứng. Sự hy sinh càng cao độ thì càng diễn tả được chiều kích sâu xa của tình yêu, càng mang lại bầu khí an vui cho mình và những người xung quanh.
Lạy Chúa, xin cho con dám hy sinh cho tha nhân cũng như Chúa đã từng hy sinh cho chúng con. Amen.
Một hành trình sống đạo
Tôi muốn nói gì? Thưa: sẽ là chán ngấy, nếu chỉ như một kịch bản diễn đi diễn lại hằng năm. Chúa Giêsu giáng sinh với hình hài bé thơ trong ánh đèn màu. Một thoáng mây trắng bay trên bầu trời trong xanh của dòng Jordan thơ mộng, đã là một người lớn “trạc độ 30 tuổi”. Không phải thế, mùa Phụng vụ là hành trình sống đạo của Hội thánh và của mổi người Kitô hữu chúng ta. Bằng vào sự biến chuyển của thời tiết, loài người trên hành tinh nầy gọi bốn mùa: Xuân Hạ Thu Đông, cứ tưởng chẳng ảnh hưởng gì, nào ngờ….” Một phen xuân đến một phen già”. Không nghi ngờ gì, tạo Hóa đã an bài trong mỗi mùa những chất dinh dưỡng thiết yếu cho sự sinh tồn và phát triển của muôn loài. Mùa Phụng Vụ, Thiên Chúa toàn năng giàu lòng yêu thương đã tiên liệu những hồng ân đầy đủ để mổi người chúng ta theo đuổi sự nghiệp thánh hóa đời mình. Mùa Giáng Sinh chúng ta đem tất cả niềm tin đón mừng Con Thiên Chúa làm người ,giành cho Ngài một miền đất sống trong tâm hồn chúng ta. Mùa Quanh năm chúng ta đón nhận hồng ân củng cố sự lựa chọn mang tính hiện sinh ấy, và triển nở đến đỉnh cao trưởng thành và viên mãn của Thân Thể nhiệm mầu Chúa Giêsu Kitô.
Lời chứng của Gioan Tẩy Giả
Trong tầm nhìn vỹ mô ấy, Lời Chúa hôm nay muốn xây dựng niềm tin vào Con Thiên Chúa trên chứng từ của thánh Gioan Tẩy Giả ,một cửa sổ đặc biệt có thể mở ra đón ánh sáng Thần Khí ngay từ trong lòng mẹ. Không một con cái người nữ nào trên mặt đất nầy có thể nói như trong mơ rằng: “Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Ngài. Về phần tôi, tôi đã không biết Ngài, nhưng Đấng sai tôi làm Phép Rửa trong nước phán bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng làm Phép Rửa trong Chúa Thánh Thần. Tôi đã thấy và tôi làm chứng: Chính Ngài là Con Thiên Chúa.” Chuyện kể rằng hồi kết của Lời chứng ấy thấm nhuộm máu đào. “ Các môn đệ đem xác Ngài về an táng trong phần mộ”. Tôi không nghi ngờ gì, nhưng quả thật Ngài làm tôi choáng váng vì
Một điều kỳ diệu quá lớn lao!
Đấng Mê-xi-a, cũng gọi là Đấng Kitô, người muôn dân trông đợi,chính là Con Thiên Chúa sao?
Suốt dòng Kinh thánh cựu ước, ngay cả cụm từ Con Thiên Chúa cũng như ngọn đèn khi tỏ khi mờ.Không phải ánh sáng Thần Khí không đủ sáng, nhưng vì tầm trí năng của các ngôn sứ không đủ kích cở để có thể đón nhận và phản chiếu ánh sáng chói chan của Thần Khí. “Cho đến thời Ông Gioan” Tẩy giả, Thiên Chúa toàn năng sáng tạo một cửa sổ đặc biệt ngay từ trong lòng mẹ. Lần gặp gở đầu tiên Đấng Mê-xi-a, Gioan đã nhảy mừng. Bằng một tác động bình thường của thai nhi, em bé thông truyền ánh sáng Thần Khí cho mẹ mình khiến “bà đầy Thánh Thần và thốt lên ôi Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”. Còn hơn một ngôn sứ nữa, ông Gioan là người cao cả, Chúa Giêsu đã nói về thánh Gioan tẩy giả như thế. Trong Phúc Âm của mình thánh Gioan tông đồ cho biết “Gioan không phải là Sự Sáng nhưng Ông đến để chứng minh Sự Sáng”
Lời Chứng của Đức Maria
Thánh Am-brô-xi-ô tập chú vào sự kiện Đức Maria thăm viếng bà Ê-li-za-bết nơi Tin mừng thánh Luca: “Bà mẹ đón nhận Đức Maria đến thăm,còn người con lại cảm thấy Chúa ngự đến…Con trẻ nhảy mừng, bà mẹ đầy tràn ơn thánh. Không phải bà mẹ được đầy ơn trước, nhưng vì con được đầy tràn Thánh Thần nên cũng làm cho mẹ được đầy tràn”. Được thúc đẩy bởi Thánh Thần Đức Maria vội vã ra đi lên miền rừng núi xứ Giu-đê-a viếng thăm bà chị họ Ê-li-za-bết. Vì lòng bác ái chăng? Đúng vậy, nhưng trước hết để chu toàn sứ mệnh cao cả Thiên Chúa ủy thác. Đức Maria phải có mặt trong biến cố nầy để xác nhận Lời loan báo của Thánh Thần qua vị ngôn sứ của Ngài:”Mẹ Thiên Chúa” đến viếng thăm. Đúng vậy, Thiên Chúa đã ký gởi cho Mẹ Điều kỳ diệu quá lớn lao ấy.
Lời chứng cho chính mình
“Ta có chứng cao trọng hơn chứng của Gioan: đó là những việc Cha Ta đã giao cho Ta thực hiện, chính các việc mà Ta đang làm minh chứng rằng Cha đã sai Ta”. Thánh Gioan tông đồ đã cẩn thận ghi lại những lời vàng ngọc ấy là vì “để anh em tin mà được sống đời đời”. Con chim Phượng hoàng bay vút thinh không ấy thật diểm phúc: vì “Không ai biết Cha trừ ra Con, cũng không ai biết Con trừ ra Cha, và kẻ Con muốn mạc khải cho”. Lần khởi đi từ Lời Chứng nầy, hồi nhớ về biến cố năm 12 tuổi: Người ở lại trong đền thờ Giê-ru-sa-lem(nơi mà sau nầy Người gọi là Nhà Cha Ta) giữa các nhà thông thái đang nghiên cứu Thánh Kinh, sẵn sàng giải đáp những thắc mắc mang tính hàn lâm cao khiến các ông vô cùng kinh ngạc – Là vì Lời đã làm người mà các ông không hay biết – Điểm sáng bỏ qua cảnh ấy, hội tụ đến một nơi rất quan trọng. Trước sự hiện diện của Đức Maria và Thánh Giuse (chính xác là dựa vào tình phụ tử trần gian) Lời chính thức loan báo về chính mình:
– “Thầy Mẹ tìm con làm gì? Thầy Mẹ không biết rằng CON phải thu xếp các công việc cho CHA con ư?”(lời dịch của Đức Hồng y Trịnh văn Căn từ Bản Phổ Thông)
– “Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là CON phải ở nơi nhà CHA con sao?”
(Lời dịch của cha Nguyễn thế Thuấn từ bản văn Hy Lạp)
Cơ hồ là một huyền nhiệm ẩn dấu từ muôn thuở. Phải chính Lời tỏ ra khi đến thời gian viên mãn.
Thiên Chúa Cha đích thân Xác nhận
Bước lên từ dòng sông Jordan lửng lờ trôi như dòng lệ sám hối của sứ điệp thánh Gioan tẩy giả, Chúa Giêsu đang cầu nguyện. Bỏ qua lời thoại giải thích của thánh Matthêô, thánh Luca đi ngay vào quang cảnh Thần hiện:”Trời mở ra và Thánh Thần lấy hình dáng thể xác như chim câu, đáp xuống trên Ngài, và từ trời một tiếng phát ra:
Con là Con chí ái Ta, Kẻ Ta đã sủng mộ
Một nơi khác, Chính Chúa Giêsu xác nhận, Lời ấy phán ra vì anh em có nghĩa là vì sự cứu độ của muôn người, hay diển tả như thánh Gioan tông đồ “Là để anh em tin mà được sống muôn đời”.
Lời Chứng của Hội Thánh
Chính Chúa Giêsu đã tiên liệu Lời chứng mang tính pháp lý nầy,khi dẫn Phê-rô, Giacôbê, và Gioan lên núi Taborê cầu nguyện. Nơi quang cảnh Thần hiện ấy, từ trong đám mây có tiếng phán ra: “Nầy là CON rất yêu dấu của TA, các ngươi hãy nghe lời Người”. Lời Chứng nầy mang tính pháp lý, vì khi thánh Phê-rô làm chứng điều nầy Ngài đã cố ý dùng từ chúng tôi có nghĩa là Lời chứng có giá trị trước tòa án theo như luật pháp lúc bấy giờ quy định. Lời chứng của ba nhân chứng.
Niềm tin vào CON THIÊN CHÚA
Những Lời chứng trên đây rốt cuộc cũng chỉ là dấu chỉ của đức tin,là lời mời gọi Hãy tin vào Con Thiên Chúa. Thật vậy,có lẽ ai đó còn có nhiều Lời chứng sâu sắc rộng rãi hơn, nhưng khi đối diện với lòng mình tôi vẫn cảm thấy bàng hoàng sợ hãi. Một sự sợ hãi kinh hoàng bao phủ tôi giống như sự sợ hãi của dân Do-thái khi đứng trước ngỏ cụt, trước là biển cả,phía sau quân thù đuổi bắt!
Trước mặt tôi là vực thẳm tăm tối,nhưng trong tôi vang lên lời thôi thúc: hay tín thác vào bàn tay uy quyền toàn năng như một bàn tay nhiệm mầu đủ sức đưa tôi từ nơi tối tăm kinh hoàng đến nơi ánh sáng kỳ diệu. Tôi đã nhảy vào vực thẳm ấy: Niềm tin vào CON THIÊN CHÚA.
Có một đứa bé sống ở một vùng xa xôi hẻo lánh nọ. Một hôm, cậu bé thấy có một chiếc phi cơ khá lớn bay qua ngôi làng của cậu. Cậu bé say sưa nhìn ngắm chiếc máy bay cho đến khi nó khuất dạng trên bầu trời. Cậu bé liền chạy vào nhà và hỏi ngay ông bố rằng: “Bố ơi, làm sao người ta có thể bay lên trời để vào chiếc máy bay được hả bố?” Ông bố trả lời với cậu rằng: “Không phải người ta bay lên trời để bước vào máy bay đâu con, nhưng chiếc máy bay phải đáp xuống thì người ta mới có thể bước vào đó được.” Và cậu bé đã hiểu!
Câu chuyện đó cũng phần nào cho ta hiểu được Mầu nhiệm nhập thể làm người của Con Thiên Chúa. Con người không thể nào có thể bay lên trời để gặp được Thiên Chúa hay bước vào cung lòng của Thiên Chúa được. Nhưng Thiên Chúa phải bước vào thế gian để cho con người có thể bước vào cung lòng của Thiên Chúa được. Đó cũng chính là mầu nhiệm sâu xa mà chúng ta cần để tâm suy gẫm. Vì yêu con người, Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm, trở nên hoàn toàn giống như con người ngoại trừ tội lỗi để con người được gặp gỡ Thiên Chúa, được bước vào cung lòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa từ trời cao bước xuống gian trần để con người gian trần được bước lên trời cao. Đây quả là một mầu nhiệm tình yêu quá lớn lao!
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy rằng: Thiên Chúa bước vào lịch sử của con người để cho con người được đón nhận sự thật về Thiên Chúa. Gioan Tẩy Giả là người được Thiên Chúa sai đến để làm chứng về sự thật: Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa đã đến trần gian để xoá tội cho con người và cứu chuộc con người. Ông thừa nhận là ông đã không biết Đức Giêsu trong căn tính thật của Ngài: “Tôi đã không biết Ngài”. Cách nói “không biết” ở đây không có ý nói rằng Đức Giêsu của Gioan Tẩy giả đối với Đức Giêsu cũng giống như việc “không biết” Đức Giêsu của người Do thái: “ở giữa các ông có một Đấng mà các ông “không biết”. Như vậy, muốn nhận biết Đức Giêsu, chúng ta cần phải có ánh sáng của đức tin soi dẫn, cần được giới thiệu và nhất là cần có tấm lòng sẵn sàng mở ra để đón nhận sự thật.
Gioan Tẩy Giả không phải là sự thật, nhưng ông được sai đến để làm chứng cho sự thật. Chính Đức Giêsu Kitô mới là sự thật, là ánh sáng và là sự sống. Khi Gioan Tẩy giả nói về Chúa Giêsu rằng: “Đây là chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” thì ông đã nói lên sự thật về sứ mạng của Đức Giêsu. Đó là sứ mạng cứu chuộc con người tội lỗi và mở đường sự sống cho họ. Tiên tri Isaia đã tiên báo về Đấng Messia chính là người tôi tớ được Thiên Chúa tuyển chọn. Sứ mạng của Ngài là mang những tội nhân trở về với Thiên Chúa, về quê hương đích thực của mình.
Đức Giêsu đã khẳng định rằng: “sự thật sẽ giải thoát các ngươi”, mà sự thật là chính Đức Giêsu. Nói cách khác, chỉ có Đức Giêsu mới có thể giải thoát con người khỏi tội lỗi, khỏi sự nô lệ của tử thần. Vì thế, con người phải tìm đến với Đức Giêsu, phải khiêm tốn nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình để được Ngài là Sự Thật xuất phát từ Sự thật giải thoát và cứu chuộc chúng ta.
Sự thật đã đến trần gian này hơn 2000 năm, nhưng ta phải nhìn nhận rằng, con người chưa tin vào Đức Giêsu còn quá nhiều. Con người vẫn còn sống trong tội lỗi, trong nô lệ của tội lỗi quá nhiều; sự gian trá hình như càng ngày càng lớn mạnh và lan rộng khắp nơi.
Tin mừng hôm nay là một nhắc nhở cho chúng ta phải siêng năng tiếp cận với Sự Thật, năng tìm đến với Sự Thật để được Sự Thật giải thoát chúng ta mỗi ngày. Và một khi đã được tìm thấy Sự Thật, chúng ta cũng hãy biết noi gương thánh Gioan Tẩy Giả tận tình giới thiệu cho người khác biết và tìm đến với Sự Thật, để họ cũng được hưởng những ân ban do chính Thiên Chúa ban tặng.
ĐÂY CHIÊN THIÊN CHÚA
Trong Thánh Lễ, ta đọc Chiên Thiên Chúa nhiều lần. Có lẽ ít người hiểu được ý nghĩa của cụm từ “Chiên Thiên Chúa”. Nhưng khi Gioan Baotixita giới thiệu Chúa Giêsu cho dân Do Thái: “Đây là Chiên Thiên Chúa” thì người Do Thái hiểu rõ ý nghĩa của từ ngữ.
Trong Kinh Thánh, chiên được dùng làm biểu tượng cho những người hiền lành, đạo đức. Trong dụ ngôn về ngày phán xét, Chúa đã tách chiên ra khỏi dê. Chiên ở bên phải, dê ở bên trái.
Thế nhưng chiên còn có một ý nghĩa sâu xa hơn. Hằng năm, vào Lễ Vượt Qua của người Do Thái, mỗi gia đình có tục lệ ăn thịt một con chiên. Phải lựa con chiên non dưới một năm tuổi, tốt đẹp, không tì vết. Người Do Thái ăn thịt Chiên Vượt Qua, không phải để mừng mùa đông đã qua và mùa xuân vừa mới khởi đầu. Nhưng là để kỷ niệm ngày Chúa giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Lễ Vượt Qua được cử hành vào đầu mùa xuân. Người Do Thái nhớ đến con chiên. Con chiên đã chết cho họ được sống. Máu chiên đã đưa họ ra khỏi mùa đông tăm tối, tiến vào mùa xuân tươi sáng. Máu chiên đã giúp giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, đưa họ về miền Đất Hứa, sống trong tự do.
Chúa Giêsu đã chịu tử hình vào dịp Lễ Vượt Qua của người Do Thái. Bữa tiệc ly chính là tiệc Lễ Vượt Qua mà Chúa Giêsu ăn với các môn đệ. Chịu chết vào dịp Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu chính là con chiên của Thiên Chúa bị sát tế để cứu nhân loại.
Chúa Giêsu là con chiên hiền lành, không hé môi khi bị đem đi xén lông. Người khiêm nhường gánh lấy tội lỗi nhân loại.
Bản tiếng Việt dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Từ ngữ “xóa” là một cách nói văn hoa nhẹ nhàng, nhưng không lột hết ý nghĩa của nguyên ngữ. Tiếng Hy Lạp dùng từ ‘airein’, tiếng La tinh dùng từ ‘tollit’ có nghĩa là nhận lấy vào mình, gánh lấy, vác lấy. Có lẽ nên dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng ‘gánh’ lấy tội nhân loại thì đúng hơn. Xóa là đứng ngoài cuộc. Đức Giêsu không đứng ngoài cuộc. Người đã nhập cuộc, gánh lấy thân phận con người, và nhất là gánh lấy tội lỗi của con người. Chính vì gánh lấy tội lỗi mà Người, Đấng hoàn toàn trong sạch, vô tội đã chịu hạ mình xếp hàng giữa những người tội lỗi xin Gioan rửa tội. Chính vì gánh lấy tội lỗi nhân loại mà Người lui tới với những người tội lỗi, chuyện trò với họ, ăn uống đồng bàn với họ. Nhưng nhất là chính vì gánh lấy tội nhân loại mà Người phải chịu chết giữa hai tội phạm, đồng số phận với họ, đồng bản án với họ, như những người trộm cướp.
Người gánh lấy tội của ta để ta được tha thứ. Người hạ mình xuống để ta được nâng lên. Người trở nên nghèo hèn để ta được giàu có. Người làm con loài người để ta được làm con Thiên Chúa. Người trở nên yếu hèn để ta được nên mạnh mẽ. Người chịu nhục nhã để ta được vinh quang. Người nhận lấy thân phận nô lệ để ta được tự do. Người cam lòng chịu chết để trả lại cho ta sự sống.
Người tín hữu thường được gọi là “Con chiên của Chúa”. Danh hiệu đó ngầm chứa một lời cầu chúc: Mong cho người tín hữu được xếp vào loại ‘chiên’ trong ngày phán xét. Được đứng bên hữu Vua Thẩm Phán. Được vào hưởng vinh quang trong nước Chúa.
Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong. Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa. Ước mong những con chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn đi vào con đường hiền lành khiêm nhường. Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa. Và ước mong đoàn chiên gánh lấy số phận của người khác, để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.
Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội con, xin thương xót con.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) “Chiên Thiên Chúa” gợi lên những ý tưởng nào nơi bạn?
2) Là ‘con chiên của Chúa’ bạn phải sống thế nào cho xứng đáng danh hiệu ấy?
3) Thánh Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu với tất cả ý nghĩa sâu xa của danh hiệu “Chiên Thiên Chúa”. Hôm nay, nếu phải giới thiệu Chúa Giêsu cho người chung quanh, bạn sẽ dùng danh hiệu nào?
Nếu khởi đầu Mùa Quanh Năm là sự nhận diện thiên tính của Chúa Giêsu khi Người chịu phép Rửa nơi sông Giođan và cũng là nhận diện phẩm giá Kitô hữu khởi đi từ ngày họ lãnh phép Rửa Tội, thì Chúa Nhật thứ hai Thường Niên được xem như một khai triển phẩm giá ấy về mặt sứ vụ. Thật vậy, đảm nhận cuộc sống làm người và đón nhận cuộc đời làm con Chúa, tín hữu không chỉ sống đơn lẻ mà còn sống giữa những người khác, thế nên nét tươi tắn nhất trong sứ vụ của họ là giới thiệu Chúa Kitô cho những kẻ xung quanh mình. Nhưng vấn đề là phải làm sao để giới thiệu Chúa Kitô cho có hiệu quả.
Dựa trên trang Tin Mừng hôm nay về việc Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Kitô cho những kẻ đương thời, ta gặp thấy những tiêu chuẩn xác định hiệu quả cho việc giới thiệu ấy.
1) Giới thiệu Chúa Kitô bằng kinh nghiệm bản thân
Đây là tiêu chuẩn quan trọng có khả năng đi vào lòng người, bởi lẽ “con người hôm nay ít thích nghe những lời dạy cho bằng nghe những chứng tá” (Gioan Phaolô II). Nếu chỉ giới thiệu Đức Kitô như một học thuyết, thì dẫu chủ quan mình có nắm vững và say mê, Đức Kitô ấy vẫn chỉ là một lý tưởng còn xa lạ chưa đụng chạm thiết thực với đời người. Nếu chỉ giới thiệu Đức Kitô như một hệ thống tín điều, thì dù cho có xác tín đến đâu, Đức Kitô ấy vẫn còn xa vời, chưa phải là điểm quy chiếu thiết thân cho cuộc sống.
Thế nên, tiêu chuẩn hàng đầu là cần giới thiệu Đức Kitô như một Đấng mà mình đã tiếp cận, gặp gỡ và kết thân. Hiện nay mình đang sống trong Người như kiểu nói của thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”, và do thúc bách bởi sự sống ấy mà mình giới thiệu Người cho người khác. Người là khởi điểm đồng thời cũng là đích điểm cho việc giới thiệu này.
Với kinh nghiệm bản thân, ta giới thiệu sự xác tín của ta vào Đức Kitô và đó cũng chính là sự khả tín của điều ta giới thiệu.
Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng đã không làm điều gì khác ngoài việc giới thiệu qua chứng từ về một kinh nghiệm ở ngôi thứ nhất số ít: “Tôi đã thấy và tôi xin làm chứng”.
2) Giới thiệu Đức Kitô là Đấng Cứu Độ
Có một thực tế không thể phủ nhận là khi giới thiệu Đức Kitô, thường ta hay rơi vào một trong hai thái cực:
Hoặc quá chủ quan: giới thiệu một Chúa Kitô không như Người là mà như mình tưởng, mình nghĩ. Coi chừng! Thiên Chúa tạo dựng con người “giống hình ảnh Thiên Chúa”, nhưng xem ra con người lại có khuynh hướng nắn đúc một Thiên Chúa theo như mình nghĩ, “giống hình ảnh con người”. Có lẽ chuyện dân Do Thái ở Ai Cập năm xưa lấy hình ảnh bò vàng làm tượng thờ phải được xem như một kinh nghiệm đau lòng.
Hoặc quá chung chung: giới thiệu một Chúa Kitô không minh bạch xác đáng, có nguy cơ giản lược đánh đồng coi Kitô giáo cũng chỉ là một trong nhiều tôn giáo ngang hàng và Đức Kitô không còn là Đấng Cứu Độ duy nhất nữa. Có lần đến thăm nhà một tân tòng, tôi gặp thấy cảnh tổng hợp nhiêu khê: truyền thống gia đình ông bà cha mẹ theo Phật Giáo, con trai theo Tin Lành, cô gái vào Công Giáo, còn cậu em là đối tượng một đảng nên không theo tôn giáo nào. Bà mẹ gia đình nói trổng như muốn phân bua về việc tự do chọn lựa niềm tin của con cái: “Ôi! Đạo nào cũng tốt, đều dạy ăn ngay ở lành cả ấy mà”. Trong suy nghĩ của người mẹ này, Đức Kitô cũng ngồi chung chiếu với những vị cổ võ đạo đức nhân sinh. Thế thôi.
Thiết nghĩ, giới thiệu Đức Kitô là phải trình bày cho thấy Người là Thiên Chúa cứu rỗi nhân loại, là Đấng Cứu Độ trần gian, là Đấng từ trời xuống để đem ơn giải thoát đến tất cả mọi người và đạt tới từng người. Nét độc sáng của Kitô giáo chính là đây. Và Đức Kitô sở dĩ thiết thân đối với người đời bởi Người chính là Đấng Cứu Thế.
Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng đã dứt khoát giới thiệu Đức Kitô cho dân chúng bằng một hình ảnh đặc biệt cho thấy Người là Đấng Cứu Độ: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.
3) Giới thiệu Đức Kitô nhờ Thánh Thần
Giới thiệu Đức Kitô là công cuộc dài hơi, thậm chí là công việc một đời, vì thế đòi hỏi người giới thiệu không chỉ như kẻ chào hàng tiếp thị, mà phải đầu tư để học biết và học hiểu, học tập và học hành, học ngang và học dọc, học tới và học lui; nghĩa là phải nỗ lực hợp tác với ơn thánh bằng vận dụng hết công suất những khả năng Chúa ban mà chu toàn nghĩa vụ cũng là ý nghĩa cuộc đời mình. Ngày nào còn là Kitô hữu, ngày đó còn phải gắn bó và giới thiệu Đức Kitô cho người khác. Đó là yếu tố thuộc về căn tính.
Giới thiệu Đức Kitô cũng là một công trình thuộc về sứ vụ truyền giáo của mọi thành viên trong Giáo Hội, nghĩa là thuộc về lẽ công bình. Ai đã nhận được lẽ sống Đức Kitô thì cũng canh cánh bên lòng một đòi buộc phải tiếp nối sứ mạng giới thiệu sự sống ấy cho những người mình gặp gỡ trong mọi cảnh ngộ cuộc đời. Chả thế mà sứ vụ cũng đồng nghĩa với sự lên đường. Đồng quà tấm bánh có thể giữ lại chứ sự sống mà giữ lại thì cũng đồng nghĩa với sự thui chột ngột ngạt ngay trong vòng tay ôm chặt của người sở hữu.
Giới thiệu Đức Kitô như thế cũng là cuộc hiến thân làm chứng, đón nhận hy sinh, chấp nhận thiệt thòi, quên mình xóa mình, thao thức miệt mài, “làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm”. Không dễ dàng, không dễ dãi và không dễ chịu. Thế nên đó là một công trình sức người tự mình không làm nổi ngoài ơn của Thánh Thần. Vả chăng chính Thánh Thần mới giữ vai trò chủ động trong công trình lớn lao này, còn con người dẫu hết lòng hết sức cũng chỉ là dụng cụ góp phần.
Nếu hôm qua Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng đã dựa vào dấu chỉ Thánh Thần để nhận biết Đấng Cứu Thế: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép Rửa trong Thánh Thần”, thì hôm nay tín hữu cũng dựa vào Thánh Thần để chu toàn sứ mạng giới thiệu Đức Kitô cho người đồng thời với mình.
Tóm lại, giới thiệu Chúa Kitô bằng kinh nghiệm bản thân, giới thiệu Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế và giới thiệu Chúa Kitô nhờ Thánh Thần. Đó là những tiêu chuẩn giúp cho việc giới thiệu này mang lại hiệu quả mong muốn.
Vì thế, Kitô hữu không chỉ là người mang Chúa Kitô trong mình, không chỉ thuộc về Chúa Kitô mà còn là người phải giới thiệu Chúa Kitô cũng như biết cách giới thiệu Chúa Kitô làm sao cho có hiệu quả nữa. Như một người chào hàng không mệt mỏi, như một chứng nhân luôn trung thành, và như một lẽ sống hạnh phúc, ta quyết chí lên đường.
Trong buổi chia sẻ của những tân tòng lớp trước dành cho lớp sau, một cô gái mười sáu tuổi đã chân thành cho biết lý do mình gia nhập đạo Công Giáo: “Tôi theo đạo vì lúc nhỏ học chung với một người bạn Công Giáo. Bạn ấy rủ tôi đi lễ, tôi đi theo dẫu chẳng hiểu gì. Nhưng vì bạn ấy đối xử tốt với tôi, nhất là trong những lúc ngặt nghèo, nên qua gương sống đức tin của bạn ấy, dần dà tôi hiểu ra lẽ đạo và cuối cùng tôi tìm đến với lớp giáo lý khai tâm, và hôm nay được nhận Bí tích Thanh Tẩy”.
Mong rằng đây không chỉ là chuyện cá biệt mà là chuyện điển hình đã được nhân lên trong mọi cộng đoàn tín hữu.
Hình ảnh con chiên trở nên rất gần gũi với người Do thái. Người ta nuôi chiên thành từng đàn lớn, mục đích đầu tiên vẫn là kinh tế. Chiên cho lông, cho sữa, cho thịt. Thế rồi con chiên đã đi vào sinh hoạt tôn giáo, nó lại mặc lấy nhiều ý nghĩa khác nhau. Chiên được dùng làm lễ vật trong dịp lễ Tạ ơn. Chiên mang tội lỗi con người để chết thay cho người. Máu chiên đã trở nên dấu hiệu cần thiết để con cái Israel không bị sát hại trong ngày dân Do thái xuất hành khỏi Ai Cập.
Gioan tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian. Lời giới thiệu có vẻ quá vắn tắt cho một con người đặc biệt, nhưng chắc hẳn ai cũng hiểu Gioan Tẩy Giả muốn nói gì về Chúa Giêsu: Người đang đến với các ngươi đây, chính Đấng ấy sẽ gánh lấy tội lỗi của trần gian, chết thay cho moị người. Thân xác Người sẽ trở thành lễ vật hy sinh dâng lên Thiên Chúa đền thay tội lỗi chúng ta.
Lông chiên đem đến cho con người những bộ áo ấm, giúp con người thoát khỏi cái rét lạnh của những ngày đông thì Chiên Thiên Chúa đến cũng mang cho con người sự ấm áp, ấm áp trong tình thương. Những người ngheò khổ đã tìm được chỗ tựa nương, người đau buồn đã tìm được nguồn an ủi, người đau bệnh đã được quan tâm, chữa khỏi. Những kẻ bị xã hội gạt bên lề giờ đã được đoái nhìn. Vai trò Chiên Thiên Chúa có sức mạnh nối kết những xa cách trở thành gần gũi. Những phân cách chia ly giờ được nối lại gần. Sự quan tâm đúng lúc, việc chữa bệnh kịp thời của Chúa Giêsu làm cho những thành phần yếu thế đã trở nên mạnh mẽ và có thể gần gũi mọi người cách tự nhiên không còn phân biệt đối xử.
Sữa và thịt chiên đem cho người ta sự no thỏa trong cuộc đời. Chúa Giêsu đến cũng xoa dịu bao khao khát của nhân loại. Người đã hoá bánh để nuôi dân chúng được ăn no. Người đã cho nước lã thành rượu ngon để thực khách hưởng dùng. Và rồi, chính Chúa Giêsu muốn tất cả những ai ăn thịt và uống máu Người thì không hề đói khát bao giờ. Đây là một sáng kiến diệu kỳ của Chúa Giêsu khi Người lập Bí tích Thánh Thể.
Máu chiên ngày xưa dùng bôi lên cửa nhà như là dấu hiệu để khỏi phải chết, thì máu Chiên Thiên Chúa đã đỗ ra để xoá tội bao người, mang đến cho con người sự sống vĩnh cửu. Máu Chúa Giêsu đã đổ ra mang lại cho cho người một sự tái sinh trong Bí Tích Hoà Giải. Tội lỗi con người đã được tẩy xoá nhờ máu của Chúa Giêsu. Điều đáng nói ở đây, Đấng xoá tội không dùng quyền bính của mình để tha tội nhưng lại dùng máu của mình, nghĩa là phải qua cái chết để tha tội con người.
Chúa Giêsu đã đóng trọn vai trò của con chiên chịu sát tế để cứu độ con người. Ta không thể phủ nhận những gì mà Con Chiên Thiên Chúa đã chết thay cho chúng ta. Chính Ngài đã tự huỷ đi niềm vui, niềm hanh phúc, sự an lành của bản thân mình để mưu cầu sự sống cho kẻ khác. Ai bước trên con đường Đức Chúa Giêsu đã đi đó là con đường dẫn tới đồng thoại thực sự. Hạnh phúc, niềm vui nào cũng phải trả giá bằng vất vả hy sinh. Quả thật, hạnh phúc và niềm vui không đến với ta qua con đường bùa chú. Nó đòi hỏi một sự hy sinh hết mình, một sự dấn thân không ngại ngần để phục vụ người khác.
Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta. Ngài luôn đóng vai trò con chiên để cứu độ chúng ta, giúp chúng luôn sống trong bình an và hạnh phúc. Vì thế chúng ta cũng hãy đến với anh em đồng loại trong sự hy sinh, dấn thân phục vụ, mang đến niềm vui, tình thương mến cho mọi người.
(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Biết một người là đi vào một mầu nhiệm.
Chúng ta quen nhiều người, nhưng biết thì ít hơn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, hai lần Gioan khẳng định: “Tôi đã không biết Người” (cc 31-33). Cho đến khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, Gioan thú nhận mình vẫn chưa biết Ngài là Mêsia. Dù Đức Giêsu là bà con họ hàng của ông (x.Lc 1,36), dù hẳn ông đã có một số thông tin về Ngài.
Và dù ông biết Ngài cao trọng hơn mình (x.Mt 3,14), nhưng cái biết ấy, ông vẫn chưa coi là biết thật sự.
Được Thiên Chúa mách bảo, ông kiên nhẫn đợi chờ.
Làm phép rửa trong nước là cách giúp ông khám phá Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.
Ai được Thần Khí ngự xuống và ở lại, Người ấy là Mêsia.
Gioan đã thấy Thần Khí ở lại trên Đức Giêsu lúc Ngài được ông ban phép rửa.
Bây giờ có thể nói ông đã biết Đức Giêsu. Ông đã biết sau khi ông đã thấy.
Từ cái biết nhờ thấy, do ơn Thiên Chúa ban, Gioan đã trở nên người làm chứng trung tín.
Ông vui lòng giới thiệu Đức Giêsu cho môn đệ mình. Ông mừng khi thấy dân chúng tuốn đến với Ngài (Ga 3,26). Ông vui khi trở nên lu mờ đi để Ngài được nổi bật (Ga 3,30).
Làm chứng cho Đức Giêsu khiến ông trở nên tay trắng. Gioan đã thấy, đã biết, đã làm chứng cho Đức Giêsu.
Nếu biết là đi vào một mầu nhiệm, thì mầu nhiệm ấy cứ vẫy gọi người ta tiến sâu hơn. Càng tiến sâu, cái biết càng được thanh lọc.
Hành trình của Gioan cũng là của tôi: thấy, biết, làm chứng.
Biết một người là chuyện khó.
Biết Đức Giêsu Kitô còn khó hơn nhiều.
Tôi chẳng thể nào múc cạn được con người độc đáo này, nơi giao nhau giữa trời và đất, giữa Tạo Hóa và thụ tạo.
Để biết Đức Giêsu, tôi cần thấy Ngài tỏ mình. Không hẳn tôi sẽ thấy một thị kiến huy hoàng long trọng. Không hẳn Ngài sẽ xuất hiện trong sức mạnh quyền năng. Ngài vẫn tỏ mình xuyên qua những chuyện đời thường, qua những con người đơn sơ tôi vẫn gặp.
Tôi cần tập thấy Ngài ẩn sau lớp vỏ xù xì của thực tế. Cần thường xuyên làm mới lại cái biết về Đức Kitô, để có tương quan thâm trầm hơn, thân mật hơn với Ngài.
Nếu biết là thấy, là có kinh nghiệm riêng tư, là hiệp thông, gặp gỡ, chia sẻ chính cuộc đời Ngài, là để mình sống trong Ngài và Ngài sống trong mình, thì biết là nỗ lực của cả một đời Kitô hữu.
Gioan đã làm chứng cho dân về Đấng họ đang đợi.
Con người hôm nay đang đợi ai?
Đức Giêsu do chúng ta trình bày và sống có đáp ứng những khát vọng sâu thẳm của họ không?
Tôi cần thấy và biết Ngài hơn, để làm chứng tốt hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, thế nào là biết một người? Có bao nhiêu mức độ khác nhau trong việc biết một người? Bạn biết Đức Giêsu ở mức độ nào?
Gioan giới thiệu Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian.” Còn bạn sẽ giới thiệu Đức Giêsu như thế nào cho con người hôm nay?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy Chúa thật lớn lao, để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.
Xin cho con thấy Chúa thật bao la, để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.
Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu, để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.
Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho con thật mạnh mẽ, để không nỗi thất vọng nào còn chạm được tới con.
Xin làm cho con thật đầy ắp, để ngay cả một ước muốn nhỏ cũng không còn có chỗ trong con.
Xin làm cho con thật lặng lẽ, để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.
Xin Chúa ngự trong con thật sống động, để không phải là con, mà là chính Ngài đang sống.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Bài Phúc Âm nói đến ‘ngày hôm sau’, tức là ngày sau khi Gioan Tẩy Giả trả lời cho người Do Thái đến hỏi về sứ mệnh của ngài, và tuyên bố rằng ngài không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng là kẻ dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Ngài nói: “Ở giữa các ông có một người mà các ông không biết. Đấng ấy đến sau tôi” (1,26). Danh từ ‘Con Chiên Thiên Chúa’ rất thông thường trong ngôn ngữ thánh sử Gioan, nhất là trong sách Khải Huyền của tác giả. Nó chỉ Đấng Cứu Thế, Đức Giêsu Kitô hiến tế mình để giải phóng và hồi sinh nhân loại. Cách gọi này rất nhiều ý nghĩa đối với môn đệ Gioan là những người biết rõ nghi thức ăn tiệc chiên Vượt Qua và việc sát tế hằng ngày một con chiên trong Đền thờ, làm của lễ đền tội cho dân chúng. Con Chiên gánh tội trần gian là con chiên tự hiến làm lễ giải phóng dân chúng, theo như các bài ca của ngôn sứ Isaia về Người Tôi Tớ Giavê. Điều này không có nghĩa là các môn đệ hiểu rõ ngay. Nhưng Gioan Tẩy Giả dùng cách nói trên chuẩn bị cho họ hiểu rõ sau này.
Trong đời ta, có khi ta nghe một lời nói, hay trải qua một biến cố mà ngay lúc đó ta chưa thấy rõ tất cả ý nghĩa; chỉ về sau Chúa mới cho ta khám phá ra tất cả tầm mức của nó. Ở đây ta lưu ý tới hai điểm:
1) Tội trần gian.
Trần gian có nghĩa là nhân loại. Tác giả Phúc Âm dùng tiếng ‘tội’ ở số ít (không phải ‘các’ tội lỗi). Như thế ông làm nổi rõ sự liên đới của mọi người trong tai họa sự ác. Nhưng tình liên đới đó trở nên yếu tố thuận lợi cho sự cứu rỗi. Tất cả mọi người đều đồng hưởng ơn cứu độ do Đức Kitô mang lại. Ơn cứu độ rộng mở đón nhận bất cứ ai. Điều tiên quyết đòi hỏi nơi họ là không từ chối lòng tin vào Đức Giêsu Kitô, ít ra không từ chối một cách tội lỗi. Không được tẩy xóa khỏi tội lỗi, thì nhân loại sẽ bị kết án. Nhờ Đức Kitô, nhân loại được cứu thoát.
Một khi đã ý thức về tình liên đới của ta trong tai họa tội lỗi, chúng ta hãy cố gắng lật ngược ý nghĩa của tình liên đới ấy bằng cách đi sâu vào con đường hiệp nhất với Đức Giêsu Kitô Cứu Chúa.
2) Phần tôi, tôi đã không biết Người.
Thế ra trong thời gian lâu dài, Gioan đã làm việc, giảng thuyết với ý thức đơn giản là để tuân theo một sứ mệnh mà không biết rõ Đấng mà ngài loan báo. Phải chăng đó là một trong những nét của một ơn gọi chân chính? Người có sứ mệnh chuẩn bị cho Đức Kitô đến trong một linh hồn, một môi trường, trong thế gian phải chấp nhận trường hợp có thể xảy ra là chính mình lại không thấy hiển nhiên rằng Đức Kitô đang ngự đến đó. Phải kiên nhẫn làm việc trong đức tin. Hãy để cho Chúa tự do chọn lựa thời giờ mà một dấu hiệu xảy tới, nếu có, báo tin Đức Thánh Linh ngự xuống.
Một trong bốn cái ngu mà dân gian thường ví von: nghề mai mối (làm mai, lãnh nợ, gát cu, cầm chầu). Bởi vì cặp uyên ương nào hạnh phúc thì ông mai bà mối được tiếng thơm, nhưng nếu cặp nào cơm không lành canh không ngọt thì mọi lỗi lầm trút lên họ. Ngày xưa, cô dâu chú rể ít khi được biết mặt nhau thì ông mai bà mối phải thật dẻo mồm, nói sao để vừa lòng cả hai họ. Ngày nay thì đỡ vất vả hơn do đôi trai gái đã có thời gian tìm hiểu nhau. Tuy vậy, người mai mối vào thời nào cũng không thể thiếu trong chuyện cưới xin. Bởi đây là người trung gian giúp hai bên thông gia dễ dàng đến với nhau hơn.
Với Lời Chúa hôm nay, ta cũng gặp thấy hình ảnh nhân vật trung gian. Ngoài Đức Giêsu là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người trong công trình cứu rỗi, ta cũng thấy nhiều gương mặt được Đức Kitô mời gọi tham dự vào sứ vụ của Ngài, trong đó có Gioan Tiền Hô, một người được nói đến nhiều trong các Chúa Nhật mùa Vọng trong tư cách là một người dọn đường và giới thiệu Đức Kitô cho muôn dân.
Khi Gioan làm phép rửa cho dân chúng thì Đức Giêsu xuất hiện, Gioan ngại ngùng không dám “rửa” cho Đức Giêsu vì ông biết chính Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng vì vâng ý Chúa mà ông làm theo, và chính trong hoàn cảnh này mà ông đã giới thiệu Đức Giêsu cho mọi người: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian…” (Gn 1,29-30).
Trái với thái độ ngại ngùng khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, Gioan đã mạnh dạn tuyên bố sau đó: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Bởi vì ông đã được Thần Khí mách bảo: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần” (Gn 1,34). Gioan đã thấy, đã tin và đã làm chứng. Đó không chỉ là sứ vụ mà còn là một ân ban cho Gioan. Gioan trở thành ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước và nên như một bản lề mở ra thế giới Tân Ước. Gioan là chứng nhân đầu tiên cho Đức Giêsu. Ông chấp nhận vai trò tiền hô bằng tất cả lời nói và hành động. Gioan không chỉ giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng, cho các môn đệ của ông mà còn chấp nhận để môn đệ mình theo Đức Giêsu (x. Gn 1,35-42). Cuối cùng, Gioan đã chết để giữ trọn đức công chính, cái chết dưới con mắt người đời xem ra quá oan ức, nhưng đó là cái chết anh hùng: anh hùng vì dám chết cho sự thật. Gioan hoàn toàn thanh thản chấp nhận cái chết vì đến đây sứ vụ của ông đã hoàn tất. Ông ra đi để Đức Giêsu “lớn lên”. Thiên Chúa, qua cái chết của ông, đã tôn vinh ông.
Ca ngợi Gioan như thế không hẳn quá lời. Tuy nhiên, không phải duy nhất thánh Gioan được Chúa mời gọi làm người “mai mối” cho Ngài đến với nhân loại, mà tất cả chúng ta cũng được mời gọi. Không chỉ Gioan mới có khả năng làm chứng cho Thiên Chúa, mà tất cả chúng ta đều được trao ban khả năng đó. Tuy nhiên, có bao giờ bạn thấy bận tâm hay ít ra là thoáng nghĩ đến vấn đến này chưa? Sống giữa một thời đại mà con người đang muốn loại trừ Thiên Chúa, đang cố gắng quên đi những giá trị Kitô giáo, bạn có thấy đức tin của mình cũng đang lung lạc không? Bạn có cảm thấy đau lòng khi nghe ai đó nói rằng: “Nó có đạo mà cũng như không”? Bạn đang cố tâm để duy trì, bảo vệ hình ảnh thiện mỹ của Đấng bạn đang tôn thờ hay chính bạn cũng đang chẳng biết, chẳng nghe, chẳng hiểu gì về Đấng ấy?
Còn nhiều, nhiều lắm những vấn nạn mà cả bạn và tôi đều cần phải định tâm lại để suy cho thông, cho sáng. Tôi biết bạn chẳng bao giờ muốn bỏ Chúa của bạn nhưng có lẽ bạn chưa đủ tự tin, chưa bạo dạn dấn thân đó thôi. Bạn đang được mời gọi để làm sáng lên hình ảnh Thiên Chúa trong chính bạn, để ơn cứu độ của Người đến được với mọi người. Vậy bạn hãy làm ông mai bà mối cho Thiên Chúa với những ai chưa biết Người bằng chính cuộc sống tốt lành của bạn.
Qua việc Chúa gọi Samuel, Gioan, Andrê và Simon, chúng ta nhận thấy, mỗi người có một trường hợp riêng, nhưng tất cả lại qui về một mối duy nhất.
Thực vậy, trong cả bốn trường hợp trên thì sáng kiến kêu gọi luôn luôn là sáng kiến của Chúa, chứ không bao giờ là sáng kiến của chính cá nhân, của chính bản thân các ông.
Samuel thì được Chúa kêu gọi trong đền thờ, giữa đêm khuya thanh vắng. Còn Gioan, Andrê và Phêrô thì lại được kêu gọi giữa thanh thiên bạch nhật trên bờ biển. Tất cả các ông đều chứng thực lời Chúa đã phán với các ông sau này:
– Không phải các con đã chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con và sai các con đi để các con sinh nhiều hoa trái.
Tiếp đến, tất cả các ông, một khi đã nghe biết tiếng gọi của Chúa, đã mau mắn bước theo Chúa, không một chút do dự. Thế nhưng, mỗi người một cách khác nhau tùy theo hoàn cảnh của mình và cách thế mình được kêu gọi, cũng như theo nhiệm vụ mình được trao phó.
Đúng thế, Samuel được gọi trực tiếp từ thuở nhỏ, nhưng phải nhờ thày cả Heli thì mới hiểu được sứ mệnh Chúa ủy thác. Gioan và Andrê hoàn toàn bị thúc đẩy bởi tính tò mò tự nhiên, nhưng cũng đã phải nhờ tới thầy mình là Gioan Tiền hô mới nhận biết Đức Kitô chính là Thiên Chúa, chính là Đấng Cứu thế muôn dân mong đợi. Còn Simon Phêrô, được anh là Andrê tiến cử và sau đó Chúa Giêsu mới chính thức kêu gọi ông bằng cách đặt cho ông một tên mới. Nếu Gioan, Andrê và Phêrô đều là những tông đồ của Chúa, thì vai trò của mỗi ông trong lòng Giáo hội lại rất khác biệt nhau.
Còn chúng ta thì sao? Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy tất cả chúng ta đều đã được Chúa kêu gọi nhưng theo những cách thức khác nhau. Đúng thế, người thì nhận ra tiếng Chúa gọi ngay từ thuở nhỏ, nhưng đến sau mới nhận được ơn soi sáng. Người thì trung thành tiến tới từng bước một, kẻ thì sốt sắng lúc ban đầu, nhưng rồi dần dần trở nên nguội lạnh.
Đồng thời chúng ta cũng được Chúa trao phó cho những nhiệm vụ khác nhau, tùy theo hoàn cảnh gia đình và xã hội, cũng như tùy theo khả năng riêng của mỗi người. Nhưng tất cả chúng ta đều phải hợp nhất trong một thái độ căn bản, là muốn trao về cho Đấng chúng ta tin, tất cả những gì thuộc về chúng ta như lời thánh Phaolô đã diễn tả:
– Thân xác chúng ta thuộc về Đức Kitô, nó sẽ được phục sinh.
Hay nói một cách khác:
– Thân xác của chúng ta là chi thể của Đức Kitô và là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Thân xác chúng ta.
Hay nói đúng hơn, tất cả con người chúng ta ngày càng phải thuộc về Chúa hơn. Và chúng ta chỉ thuộc về Chúa một cách dứt khoát và trọn hảo khi đã đi hết đoạn đường đời của chúng ta.
Mỗi người chúng ta có một hoàn cảnh, một sứ mạng riêng biệt. Thế nhưng, chúng ta cùng theo đuổi một mục đích là làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Cũng như trong một cơ thể, nhiệm vụ của tay khác với chân, nhiệm vụ của mắt khác với răng. Tuy nhiên, tất cả cùng theo đuổi một mục đích chung đó là sự sống còn và phát triển của cơ thể. Mặc dù chúng ta có những khác biệt, nhưng liệu tất cả chúng ta đã mau mắn đáp trả tiếng Chúa gọi hay chưa?
Huyền thoại Ấn Độ kể rằng: Thuở trái đất này còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không bao giờ từ chối người nào.
Ngày kia, một lão ông lom khom chống gậy tới than thở với thỏ Pôlixa:
– Suốt mùa nước lũ vừa qua, lão không có gì để ăn, đói lả người, chắc lão sẽ chết nay mai thôi. Trước khi chết, lão chỉ xin một miếng thịt thỏ mà lão rất thèm thuồng bấy lâu. Vậy thỏ Pôlixa có cho lão được không?
Thỏ Pôlixa nhìn ông lão hom hem yếu đuối, tội nghiệp, liền nói:
– Được rồi, ông chờ cháu một lát.
Thế là Pôlixa vội đi kiếm củi, xếp thành đống, mồi lửa và nói:
– Ông chờ thịt cháu chín, rồi ông lấy àm ăn nhé!
Nói xong, thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên, lửa tắt, ông lão biến mất. Thì ra đó là một vị thần được sai tới để thử lòng thỏ. Về sau để thưởng công, Thượng Đế đã cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi mãi bên mặt trăng.
Huyền thoại nào cũng mang một sứ điệp cho con người. Nếu thỏ Pôlixa là hình ảnh của những ai biết hy sinh thân mình cho kẻ khác, thì “Con Chiên” trong Tin Mừng hôm nay chính là hiện thân của Đấng đã hiến thân vì nhân loại. Đó là Đức Giêsu Kitô mà Gioan đã giới thiệu với các môn đệ của ông: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1, 29).
Chỉ có Con Chiên thanh sạch, hiền lành, bị sát tế không một lời thở than, mới đền thay được tội lỗi.
Chỉ có Đấng vô tội mới có thể chết thay cho các tội nhân.
Chỉ có Phép rửa trong Thánh Thần, chính là Máu Đức Giêsu mới có thể tẩy xóa tội lỗi và ban ơn thánh hóa.
Qua lời chứng của Goan Tẩy giả, Giáo hội mời gọi chúng ta yêu mến và đền đáp công ơn cứu chuộc của Đức Giêsu. Đồng thời, cũng kêu gọi chúng ta hãy đi làm nhân chứng cho Người.
Tình yêu đáp lại tình yêu, ân tình đền đáp ân tình, đó là qui luật cơ bản nhất của con người. Niềm tin của người tín hữu Kitô thiết yếu là sự đáp trả ân tình của Chúa.
Đáp trả ân tình của Chúa không chỉ là thiết tha yêu mến Người, mà còn là quyết tâm sống hiến thân như Người đã sống.
Đáp trả ân tình của Chúa không chỉ là nhìn nhận những ân huệ Người ban, mà còn luôn biết mở rộng lòng ra để sống quảng đại với anh em.
Đáp trả ân tình của Chúa không chỉ là biết yêu thương con người, mà còn là yêu thương không mong đền đáp, là cho đi không tính toán thiệt hơn.
Những người quảng đại đáp trả ân tình của Chúa cũng là những chứng nhân. Làm chứng cho Đức Giêsu là để cho Người nói năng và hành động qua chúng ta. Làm chứng cho Đức Giêsu là để cho Người dùng cuộc sống chúng ta để tha thứ và yêu thương. Làm chứng cho Đức Giêsu là để cho Người mượn con người của chúng ta để tiếp tục hiến thân cho nhân loại.
Ngày kia, tôi được một người bà con giới thiệu để làm quen với một người bạn. Không ngờ sau khi tìm hiểu và trao đổi với nhau, cả hai chúng tôi cảm thấy rất hợp nhau. Dần dần chúng tôi đã trở nên tri kỉ với nhau. Gặp bất cứ chuyện vui buồn gì chúng tôi đều chia sẻ với nhau. Nhất là khi gặp khó khăn thì bên này sẽ tìm cách giúp đỡ bên kia. Sau mỗi lần giúp nhau vượt qua khó khăn, chúng tôi đều thầm cám ơn người bà con đã giới thiệu cho chúng tôi quen biết nhau.
Tuần trước với lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa chúng ta đã được Chúa Cha giới thiệu Chúa Giêsu cho chúng ta: “Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”. (Mt 3, 17b). Bởi vì, Chúa Giêsu đã đón nhận Thánh ý Chúa Cha một cách vui vẻ. Hôm nay, chúng ta được Thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu cho chúng ta một nét quan trọng của Người nữa: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”. (Ga 1, 29).
Con Chiên là một con vật rất hiền từ. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Chúa Giêsu đã nói: “Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói”. (Mt 10, 16). Trước nhất Thánh Gioan cho ta biết Chúa Giêsu là Ðấng hiền từ và nhân ái. Người đến thế gian để đem ơn cứu độ đến cho con người. Hơn nữa, hình ảnh Con Chiên này nhắc ta nhớ đến con chiên của người Do thái trong Cựu ước. Chính nhờ máu chiên bôi trước cửa mà người Do thái đã được cứu. Do đó, hằng năm họ đã mừng lễ Vượt Qua rất lớn. Và ngày nay chúng ta cũng nhờ chính máu của Chúa Giêsu mà được cứu khỏi chết đời đời. Chúa Giêsu đã chấp nhận trở nên con người yếu đuối để chúng ta lấy lại quyền làm con Thiên Chúa. Quyền mà chính tổ tông chúng ta đã từ chối.
Ông bà ta có nói: “Vô tri bất mộ”. Ðược Chúa Cha và Thánh Gioan giới thiệu cho chúng ta biết thật về Chúa Giêsu. Như thế, có lẽ gì mà chúng ta không tin vào Người.
Hình ảnh con chiên này cũng được ví cho mỗi người tín hữu chúng ta. Là con chiên của Mục Tử Giêsu, thử hỏi chúng ta đã có biết sống ngoan hiền chưa. Hay là còn nhiều lần chúng ta phải làm cho Chúa và Giáo Hội phải đau khổ và mỏi mệt vì ta. Xin cho chúng ta nhớ rằng khi chúng ta biết sống ngoan hiền như Chúa Giêsu là chúng ta đang giới thiệu Chúa cho anh chị em xung quanh. Vì lẽ còn rất nhiều anh chị em xung quanh chúng ta còn chưa được may mắn biết Chúa như chúng ta.
Có một người là Giêsu người Nagiarét đi về phía chúng ta. Và Gioan Tẩy Giả lôi kéo sự tò mò của chúng ta.
– Người này đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi.
Làm sao không nghĩ đến đoạn mở đầu? “Ban đầu đã có Ngôi Lời”. Thật là mầu nhiệm! Một người nói về một người khác: Ngài đến sau tôi nhưng đã có trước tôi. Gioan Tẩy Giả thú nhận dứt khoát: “Tôi không biết Ngài”. Và mặc dầu Chúa Giêsu là em họ ông.
Chúng ta cũng thế, cho đến cuối đời chúng ta sẽ phải nói: tôi không biết Ngài. Đây là một điều gì đó của mầu nhiệm Nhập Thể, tức Ngôi Lời làm người, sẽ luôn luôn thoát khỏi chúng ta. Nhưng Tin Mừng được trao ban cho chúng ta để chúng ta nhận biết Chúa Giêsu Kitô để nhờ đó chúng ta được sống cuộc sống vĩnh cửu, nghĩa là cuộc sống thật sự, chính là nhận biết Thiên Chúa trong khi nhận biết Chúa Giêsu Kitô (Ga 17,3).
Gioan Tẩy Giả giúp chúng ta tiếp xúc lần đầu tiên bằng mệnh từ khá làm cho chúng ta bối rối: “Đây là Chiên của Thiên Chúa”. Đây không phải là ngôn ngữ của chúng ta và chúng ta có nguy cơ lặp lại điều này một cách máy móc: thế thì chúng ta nói gì về Chúa Giêsu? Vô tội, hiền lành chăng? Phải, nhưng máu và vinh quang nữa. Vô tội, Ngài đã gánh lấy tội lỗi của muôn người và giải thoát chúng ta khỏi sức nặng đè bẹp các cuộc đời. “Chiên Thiên Chúa Đấng xóa tội trần gian”.
Thật là một xác thực kỳ lạ! Một trong những sự xác thực làm chúng ta bừng lên niềm vui nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Ngài. Nhờ chiên này mà người ta có thể tránh được tội lỗi. Tội lỗi sẽ luôn luôn tồn tại, đó là bóng tối của tự do của chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu có thể luôn luôn nâng đỡ chúng ta, sự cứu độ hiện diện ở trong cái luôn luôn này. Tội lỗi là một mối nguy, một sự cố trên đường đi, chứ không bao giờ là sự chết chóc, không bao giờ là ngục tù, chúng ta không thể phạm tội mà không được tha thứ bao lâu chúng ta tin tưởng rằng Chúa Giêsu, Chiên vô tội và quyền năng, xóa bỏ tội lỗi.
Quyền năng sao? Đây là tiếng nhiệm mầu biết bao nói lên đều đó: “Ngài có trước tôi”. Ngài có trước Gioan Tẩy Giả, Ngài có trước mọi người. Ngài là Đấng đang có, đã có và đang đến. Đây là nhũng tiếng dùng để giới hạn Đấng vô cùng: “Tôi đã thấy Thánh Thần ngự xuống trên Ngài và tôi làm chứng: Đây là Con Thiên Chúa”.
Một ngày kia, đã có một người tiến về phía những người khác và con người đó là Thiên Chúa.
Đứng trước một điều khẳng định này đi qua mà không đốt cháy trái tim và cuộc đời của họ. Họ tiếp tục sống bên ngoài Chúa Giêsu. Họ đã đọc Tin Mừng, nhưng họ đã không gặp được Chúa Giêsu.
Có những người đã thực sự găp Ngài và họ mong ước sống trong tình yêu mãnh liệt với Ngài. Họ đọc nhiều, họ tìm kiếm sự gặp gỡ Chúa trong việc suy niệm Tin Mừng và trong bài giảng, họ nói “Lạy Chúa! Lạy Chúa!”. Nhưng họ vẫn mù loà và bất động trước sự dấn thân của anh em, ít ý thức về nhiệm vụ của con người, không can đảm lắm trong những bất trắc. Khi họ tuyên bố Chúa Giêsu là Thiên Chúa thì họ chỉ làm trò cười mà thôi: ‘Nhìn vào cuộc sống của ngươi, người ta thấy Chúa Giêsu của ngươi là Thiên Chúa ở đâu?’.
Cũng có những người vĩ đại. Họ nói tương tự như trên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”, nhưng họ sống với Chúa Kitô một cuộc đời đầy việc kỳ diệu. Họ rất thân tình, vững mạnh và khiêm hạ khi gánh nặng quá sức họ. Cuộc sống của họ là một kinh nghiệm về Chúa Giêsu. Đối với họ, Ngài mới thật là Con Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý:
Suy niệm
Đức Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức sám hối thay cho cả nhân loại qua phép rửa của Gioan, và kết thúc cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức đền tội thay cho cả nhân loại qua cái chết thê thảm trên thập giá. Và hôm nay, ít ngày sau khi Gioan rửa tội cho Đức Giêsu, ông liền giới thiệu cho dân chúng biết Ngài là ai, và một phần nào báo trước cái chết của Ngài: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian!”. Muốn hiểu hết ý nghĩa lời giới thiệu ấy, ta cần biết tập tục sau đây của người Do Thái:
Theo truyền thống Do Thái trong sách Xuất Hành (Xh 29,38-42), thì mỗi ngày, vào sáng sớm và chiều tối, các tư tế trong đền thờ phải sát tế mỗi buổi một con chiên nhỏ cỡ một tuổi làm của lễ toàn thiêu để đền tội thay cho dân chúng. Như vậy tội lỗi của cả dân chúng mỗi buổi đều đổ hết lên đầu con chiên, và con chiên gánh tội ấy phải chết để đền tội thay cho dân chúng, hầu dân chúng được khỏi tội trước Thiên Chúa. Tội lỗi của dân chúng đối với Thiên Chúa đáng lẽ phải trả giá bằng sinh mạng của chính con người, nhưng Thiên Chúa đã chấp nhận để con chiên chết thay con người. Đức Giêsu đã trở thành chiên hy sinh như thế: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (1Cr 5,7)
Lời giới thiệu của Gioan còn ngầm nói lên bản tính Thiên Chúa của Đức Giêsu: “Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”. Theo lời thiên thần nói khi truyền tin cho Đức Ma-ri-a, ta biết khi Đức Ma-ri-a thụ thai thì bà Ê-li-sa-bét, đã có thai Gioan được 6 tháng (x. Lc 1,36b). Nghĩa là xét về mặt thể chất, Gioan đã ra đời trước Đức Giêsu nửa năm. Nhưng Gioan lại giới thiệu Đức Giêsu là Đấng “có trước” mình. Như vậy từ ngữ “có trước” ở đây không thể hiểu theo nghĩa thể chất, mà phải theo nghĩa tâm linh, nghĩa là ông ám chỉ nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu.
Để chuẩn bị xa cho việc Đức Giêsu đến với nhân loại, Thiên Chúa đã nhờ các ngôn sứ tiên báo biến cố ấy hàng mấy trăm năm trước, bằng cách này hay cách khác. Để chuẩn bị gần, Ngài dùng một người tiền hô, có nhiệm vụ dọn đường và giới thiệu. Người đó là Gioan Tẩy Giả.
Gioan là bà con với Đức Giêsu, vì mẹ của ông Gioan là chị họ của Đức Giêsu (x. Lc 1,35a). Vì thế, chắc chắn ông Gioan và Đức Giêsu đã quen biết nhau, nhưng Gioan không biết hoặc biết không chắc chắn Giêsu là Đấng Thiên Sai. Chỉ khi Đức Giêsu đến với ông xin chịu phép rửa và sau đó có những dấu chứng từ trời cao, ông mới biết điều đó cách chính xác. Vì chính Thiên Chúa đã báo trước cho ông điều ấy: “Chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”“. Khi đã biết đích xác Đức Giêsu là ai, Gioan bắt đầu làm chứng về Ngài.
Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho ta thấy: những người làm ngôn sứ trong các thời đại, luôn luôn có sự giao tiếp với Thiên Chúa, và được chính Thiên Chúa kêu gọi, sai phái, không nhất thiết phải qua một trung gian người nào (xem Is 6,1-12; Gr 1,5-19). Lời kêu gọi đó có những trường hợp khó có thể chối từ như trường hợp của ngôn sứ Gio-na (x. Gn 1,1-2,11). Các ngôn sứ cũng được Ngài soi sáng, cho biết hết kế hoạch của Ngài (x. Am 3,7), được Ngài hướng dẫn cụ thể những việc phải làm (rất nhiều câu bàng bạc trong các sách ngôn sứ chứng tỏ điều ấy). Nhờ sự rõ ràng đó, các ngôn sứ mới tin tưởng vào sứ mệnh và lời chứng của mình, và lời chứng của họ mới có sức mạnh thuyết phục. Nếu không, lời chứng của họ chỉ là những xác quyết thiếu căn cứ, dựa trên những tin tưởng rất chủ quan, hoặc chỉ là những lời tuyên xưng xuông (không thực tín). Nếu chỉ dựa trên những tin tưởng chủ quan, không dựa trên những nền tảng chắc chắn mà lại dám lấy cả mạng sống mình để làm chứng thì thật là ngu dại, thậm chí có thể khiến những kẻ nghe mình đi vào sai lầm trầm trọng.
Tương tự như Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả, các ngôn sứ thường không thuộc hàng chức sắc trong tôn giáo. Nhiều trường hợp, các ngôn sứ còn lên tiếng quở trách, kết án, chỉ dẫn và sửa sai chẳng những hàng chức sắc này (x. Is 56,10-12; Gr 23,1-4; Ed 34,1-31; 44,15-31; Hs 4,4-10; 5,1; đặc biệt Mt 23,13-32), mà cả vua chúa quan quyền nữa (x. Is 10,1-3; 10,5.12; 14,24-27, đặc biệt Mt 14,4). Điều này chứng tỏ không phải cứ thuộc hàng chức sắc trong tôn giáo thì ngoại trừ bề trên mình là chức sắc cao cấp hơn, không còn ai có quyền chỉ dạy hay sửa sai mình.
Và đã là ngôn sứ thật, thì phải dám nói lên tiếng nói của chân lý, công lý và tình thương, đồng thời dám chịu đau khổ và dám chết vì lời chứng của mình giống như Gioan. Đó là đặc điểm không thể thiếu của những ngôn sứ thật đến từ Thiên Chúa. Người vì sợ liên lụy đến bản thân nên không dám bênh vực cho Thiên Chúa và tha nhân, cho chân lý, công lý và tình thương, thì chắc chắn không phải là ngôn sứ thật, dù họ có mang danh là đại ngôn sứ đi chăng nữa! Đó là dấu chứng chắc chắn để phân biệt thật giả. Và cũng chính vì yếu tố đặc trưng này mà luôn luôn số phận của các ngôn sứ thật là bị “ném đá” và bạc đãi, còn ngôn sứ giả thì được ưu đãi, trọng vọng, được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi do những thế lực phản công lý dành cho để thưởng công cho sự im lặng rất lợi hại của họ (xem Lc 6,22.26).
Trong cách giới thiệu của Gioan về Đức Giêsu, ta thấy ông luôn luôn làm cho Đức Giêsu nổi bật lên, đồng thời tự làm cho mình lu mờ đi: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30). Chẳng hạn: “Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”, “Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người” (Ga 3,28), “Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1,27). “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi” (Mt 3,11), “Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,8). Khi đã hoàn thành nhiệm vụ, Gioan rút lui vào bóng tối, để Đức Giêsu đóng trọn vẹn vai trò của Ngài.
Đây cũng là một dấu chứng của ngôn sứ thật. Người ngôn sứ thật phải từ bỏ được chính “cái tôi” của mình, và thể hiện được tinh thần quên mình, tự hủy như Đức Giêsu (Pl 2,6-8). “Không làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình; không tìm lợi ích cho riêng mình, mà tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,3-4). Một người coi cái tôi của mình quá lớn chắc chắn không phải là ngôn sứ thật. Họ không thể sống vì Chúa, vì tha nhân được, mặc dù họ có thể tạo được cái vẻ như vậy: “có vẻ yêu Chúa, có vẻ yêu người”.
Rất nhiều người làm ngôn sứ, làm tông đồ, rao giảng Tin Mừng, làm nhiều việc lành phúc đức, bố thí một cách rộng rãi… nhưng không do lòng yêu mến Chúa hay tình thương đối với tha nhân thúc đẩy, mà do tính ham được tiếng khen, lời ca tụng, muốn nổi danh là đạo đức, là có lòng thương người, v.v… Họ đã dùng danh nghĩa Thiên Chúa để tạo nên danh thơm tiếng tốt cho mình, để có những cấp bậc cao sang trong Giáo Hội và xã hội. Tâm lý này đã được Đức Giêsu vạch mặt: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen” (Mt 6,1), Và thánh Phao-lô cho biết sự vô giá trị của những hành động như vậy: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3). Tính chất khoa trương, thích “phình to bản ngã” này, Đức Giêsu gọi là “men Pha-ri-siêu”: “Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả” (Lc 12,1, x. Mt 16,6.11; Mc 8,15). Là người Kitô hữu, là ngôn sứ, chúng ta cần phải tránh loại “men” rất khó tránh này.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu đã đến để thiết lập Giáo Hội, tức một dân tộc ngôn sứ cho Cha ở trần gian. Giáo Hội không chỉ có sứ mạng “tư tế” (thờ phượng Thiên Chúa), mà còn có sứ mạng “vương đế” (làm chủ bản thân, tập thể, ngoại cảnh, lịch sử), và sứ mạng “ngôn sứ” (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương) nữa. Nhưng Giáo Hội đã làm tròn sứ mạng “ngôn sứ” ấy trước mặt các dân tộc chưa? Xin cho chính bản thân con, cũng như mọi Kitô hữu khác ý thức được sứ mạng “ngôn sứ” tức “làm chứng” của mình trong môi trường mình sống, trong xã hội và Giáo Hội, nhất là khi chân lý, công lý và tình thương bị coi thường, bị chà đạp. Xin cho con đức can đảm phải có của một ngôn sứ như Gioan Tẩy Giả, để con thực hiện tốt sứ mạng ngôn sứ của mình. Amen.
Như chúng ta đã biết: ngay từ thời niên thiếu, Gioan tiền hô đã vào hoang địa, sống một cuộc sống khắc khổ, ăn châu chấu với mật ong rừng. Ông xuất hiện bên bờ sông Giócđan. Ông tiếp nhận mọi người, không phân biệt, không loại trừ, không sợ hãi.
Ông trao ban phép rửa sám hối. Đây không phải là một bí tích, nhưng chỉ là một nghi thức chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Đấng Cứu Thế.
Với tất cả sự khiêm tốn, ông đã trả lời cho những kẻ đến hỏi ông là ai:
– Tôi chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc: hãy dọn đường Chúa đến.
Khi được hỏi về vai trò và chỗ đứng của mình, ông đã xác quyết:
– Phần tôi, tôi rửa trong nước, nhưng giữa các ông có một Đấng mà các ông không biết…Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài.
Được chọn giữa muôn người để là sứ giả, làm tiền hô, kêu gọi mọi người dọn đường, tức là chuẩn bị tâm hồn đón nhận Đấng Cứu Thế, ông đã không huênh hoang tự đắc, trái lại luôn khiêm tốn ý thức vai trò và địa vị nhỏ bé của mình. Ông không bao giờ muốn giữ người khác lại cho riêng mình. Trái lại, ông đã thẳng thắn tuyên bố:
– Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Và rồi khi thấy Chúa Giêsu tiến đến với mình, ông đã long trọng giới thiệu Ngài với đám đông dân chúng:
– Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.
Khi long trọng giới thiệu như thế, ông làm cho chúng ta liên tưởng tới lời tiên báo của Isaia về một Đấng Cứu Thế đau khổ, Ngài giống như một con chiên bị dẫn tới lò sát sinh, hay như một con chiên không mở miệng kêu la khi bị xen lông.
Ba chữ “tội trần gian” có ý muốn nói tới tội chung của nhân loại, cũng như tội riêng của mỗi người chúng. Từ đó, vị tiền hô đã chỉ cho chúng ta thấy rõ khía cạnh đau khổ của Chúa Giêsu, và đó cũng là khía cạnh cao cả nhất của Ngài trong cuộc sống nơi dương thế.
Đúng vậy, Chúa Giêsu đến trong thế gian, không phải để chiếu tỏa vinh quang của Ngài, cũng không phải để nắm giữ một vai trò đầy quyền uy hầu chuộc lại tội lỗi chúng ta. Trái lại, Ngài đã cứu độ chúng ta, đã gỉa thoát chúng ta khỏi án phạt của tội lỗi bằng việc đổ máu, bằng hy lễ của thập giá.
Lời giới thiệu của Gioan tiền hô phải chăng đã gồm tóm toàn bộ sứ mạng của Chúa Giêsu nơi trần gian. Vì thế, Giáo hội cũng đã muốn lặp lại lời giới thiệu trang trọng này trên môi miện các linh mục, trước khi chúng ta lên rước lễ.
Bấy giờ, vị linh mục cầm lấy Mình Thánh, giơ lên trước cộng đoàn và nói:
– Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc chiên Thiên Chúa.
Trở lại với Gioan tiền hô, chúng ta thấy chính lúc cử hành nghi thức sám hối, ông đã được mạc khải và đã nhận ra Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi.
Noi gương Gioan tiền hô, chúng ta cũng hãy dành cho Chúa Giêsu chỗ nhất trong trái tim cũng như trong cuộc sống của chúng ta.
Rồi sau đó, bằng lời rao giảng và nhất là bằng chứng tá của một cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương, chúng ta hãy giới thiệu khuôn mặt đích thực của Đức Kitô cho những người chung quanh, nhờ đó bản thân chúng ta sẽ trở nên những tiền hô, dọn đường Chúa đến, cũng như sẽ trở nên những chứng nhân cho Chúa giữa lòng cuộc đời.
Ngọn núi Mount Rushmore, tọa lạc trên những rặng đồi Black Hills của tiểu bang South Dakota, nổi tiếng vì có những bức điêu khắc khổng lồ khuôn mặt của bốn vị tổng thống Hoa Kỳ: George Washington, Thomas Jeffrson, Abraham Lincoln và Theodore Roosevelt. Mỗi bức tượng đầu người có chiều cao khoảng 18 mét, và toàn thể cấu trúc cao tới 1945 mét, trên mặt đất. Phải mất 14 năm để thực hiện công trình này. Khi được hỏi ông đã thực hiện công trình này như thế nào, điêu khắc gia Gutzon Borglum trả lời với một ánh mắt sáng ngời: “Ôi, những bức hình đó đã ở đấy 40 triệu năm nay rồi. Tất cả những điều tôi phải làm là cho nổ mìn 400.000 tấn đá để mọi người nhìn thấy chúng mà thôi”.
Chúng ta, là những người con cái của Thiên Chúa cũng đã hiện diện trong tâm trí Ngài từ ngàn đời. Từ đời đời, Ngài đã tạo nên chúng ta và cứu chuộc chúng ta qua Đức Giêsu Kitô.
William Barlay, nhà chú giải Thánh Kinh rất được ưa thích hiện nay, có lần đã nói rằng có hai ngày quan trọng nhất trong đời người: “Ngày chúng ta được sinh ra và ngày chúng ta khám phá ra tại sao chúng ta đã được sinh ra”.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Gioan Tẩy Giả nói về ngày ông đã biết tại sao mình được sinh ra. Đó là khi: “Tôi đã nhìn thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Người… Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Lý do Gioan được sinh ra là để loan báo và sửa soạn cho dân chúng đón nhận “Chiên con của Thiên Chúa xóa tội lỗi trần gian”.
“Như thế Gioan tỏ cho thấy Chúa Giêsu vừa là người Đầy Tớ Đau Khổ, im lặng, để người ta dẫn tới lò sát sinh gánh tội lỗi của nhiều người, vừa là chiên con của lễ Vượt Qua, biểu tượng của sự cứu chuộc của Israel… Tất cả cuộc đời của Chúa Kitô nói lên sứ mạng của Ngài: “Phục vụ và thí mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.
Con chiên là một con vật hiền lành được nuôi ở nông trại để xén lông làm áo len. Thịt nó rất thơm ngon. Con trừu khi còn nhỏ gọi là con chiên (lamb), lớn lên gọi là trừu hay cừu (sheep).
Con chiên, ngoài đặc tính cụ thể là cho len và thịt, nó còn tượng trưng cho sự hiền lành, thanh khiết và vô tội. Có lẽ vì những đặc tính này, qua một hình thức có tính cách biểu tượng, người ta đã đặt tội lỗi lên con chiên để hiến dâng cho Thiên Chúa như một lễ vật. Vào ngày lễ Vượt Qua, người Do Thái đã chọn một con chiên đực mang đi giết, ăn thịt chiên quay để tưởng nhớ cuộc giải phóng khỏi tình trạng nô lệ bên Ai Cập xưa kia.
Tại Werden nước Đức, có một con chiên bằng đá được đặt ngay trên nóc nhà thờ. Câu chuyện kể lại rằng, xưa kia có một ông thợ đang sửa lại mái nhà thờ. Thình lình sợi dây đai an toàn bị đứt, ông bị rơi ngã xuống đất. Khu vực phía dưới xung quanh nhà thờ chất đầy gạch đá. Nhưng may mắn cho ông, có một con chiên đi ăn cỏ, lạc vào khu vực nhà thờ. Ông đã rơi xuống ngay trên mình con chiên. Con chiên bị chết ngay tại chỗ, nhưng ông thợ đã sống sót. Sau đó người thợ này đã tạc một con chiên bằng đá, đặt trên mái nhà thờ để nhớ ơn con chiên đã cứu mạng sống của mình.
Giống như con chiên không những hiền lành, lại còn cung cấp món ăn ngon, Chúa Giêsu đã mang lấy tội lỗi của nhân loại, Ngài còn trở nên lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta qua bàn tiệc Thánh Thể.
Trích lại lời của Công đồng Vatican, sách Giáo lý Công giáo số 1323 nói rằng: “Trong bữa tiệc sau hết, đêm bị nộp, Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập Hy Tế Tạ Ơn bằng Mình Máu Người, để nhờ đó Hy Tế Khổ Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi Người lại đến, và cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu quý của Người là Giáo Hội việc tưởng nhớ cái chết và sự sống lại của Người: đây là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc Vượt qua “trong đó khi lãnh nhận Chúa Kitô, tinh thần ta được tràn đầy ân sủng, và bảo chứng cho ta, một vinh quang tương lai”.
Sách Khải Huyền của thánh Gioan còn diễn tả sự cử hành phụng vụ ở trên trời với một vị ngự trên ngai. Đó là Đức Chúa Trời. Rồi người ta thấy Chiên Con bị sát tế đứng đó: Đó là Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá và đã phục sinh. Ngài vừa là Đấng tế lễ, và bị hiến tế, là Đấng ban và được ban phát.
Mang hình ảnh của con chiên hiến tế, Chúa Giêsu Đấng được chỉ định phải đến để xóa tội trần gian và mang lại sự sống cho chúng ta trong Bí tích Thánh Thể. Vậy thái độ đáp trả của chúng ta là gì?
Con Chiên Thiên Chúa mang tội lỗi của chúng ta đi, với điều kiện chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ tội lỗi của mình ra để cho Ngài mang đi. Chiếc xe hốt rác sẽ không giúp ích gì được cho dân chúng nếu họ không chịu đem rác ra để ở nơi đã chỉ định. Đôi khi lấy tội lỗi ra khỏi chúng ta cũng giống như lấy đồ chơi ra khỏi trẻ con. Trẻ em thường không muốn vứt bỏ đồ chơi đi, nếu chưa chán. Nếu chúng ta đã quen vui vẻ thoải mái với tội lỗi đến nỗi nghĩ rằng mình không thể sống mà không có nó, cũng như trẻ con không thể sống mà không có đồ chơi, thì Đức Giêsu cũng không thể nào lấy tội lỗi đi cho chúng ta được! Chính chúng ta phải từ bỏ trước.
Các nhà đạo đức thường ví tình trạng tội lỗi như một vũng bùn sình lầy đen đũi, thối tha và dơ bẩn. Nhưng những con trâu lại thích đằm mình vào đó trong những buổi trưa hè nóng nực. Bởi nó mang lại sự mát mẻ và thoải mái. Sống trong tình trạng tội lỗi cũng như thế, chúng ta không muốn đứng lên từ bỏ vũng bùn tội lỗi mà cất bước ra đi, chỉ vì sợ mất khoái cảm thoải mái, cho dù biết rằng nó xấu xa tội lỗi. Bước khởi sự cho việc từ bỏ đàng tội lỗi là lòng ăn năn sám hối với sự hoán cải và đổi mới đời sống.
Câu hỏi gợi ý:
Suy tư gợi ý:
Đức Giêsu nói: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,16). Sự cần thiết và quan trọng của Đức tin được Kinh Thánh nói đến rất nhiều (xem thêm: Lc 8,12b; Cv 16,31; Rm 10,9; Ep 2,8; 1Pr 1,9; v. v…). Nhưng tin không phải chuyện ai cũng làm được: ta thấy hiện nay trên thế giới, cứ 10 người thì mới có 3 người mang danh là tin Đức Giêsu. Và rất có thể trong 3 người – hay hơn nữa – mang danh là tin ấy mới có một người thật sự tin vào Ngài (vì tin thật sự là tin phải được chứng tỏ bằng việc làm, bằng đời sống và sự dấn thân thật sự). Việc có đức tin tùy thuộc nhiều điều kiện: một cách khách quan vào cơ hội hay “nhân duyên” (nói theo từ nhà Phật), và một cách chủ quan vào tâm trạng của mỗi người. Về điều này thánh Phao-lô cũng viết: “Kinh Thánh nói: Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát. Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng” (Rm 10,11.13-15a).
Để người ta tin vào Đức Giêsu, cần có người giới thiệu Ngài cho họ. Người giới thiệu hết sức cần thiết. Trong thương trường, để bán được hàng hóa, người ta phải tìm mọi cách, bằng quảng cáo, tiếp thị, để giới thiệu cho mọi người biết trên thị trường có loại hàng hóa ấy, chất lượng nó ra sao, nó cần thiết cho đời sống thế nào. Thời nay, hàng hóa mà không nhờ quảng cáo và tiếp thị thì dễ có nguy cơ bị ế. Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ của mình để họ theo Ngài: hai môn đệ này một người là An-rê, và người kia chắc hẳn là Gioan (nhỏ), tác giả bài Tin Mừng này (tác giả thường không muốn nói đến bản thân mình). Nhờ Gioan Tẩy Giả giới thiệu, hai môn đệ của ông đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu và dấn thân trọn vẹn cho Ngài suốt cuộc đời.
Hiện nay, chung quanh ta có biết bao người không tin thật sự vào Đức Giêsu, vào chân lý cứu độ. Trong số đó, có biết bao người mang danh là tin Ngài, nhưng thật sự chỉ là tin trên danh nghĩa, vì trong thực tế họ chỉ biết về Ngài rất mơ hồ, sự biết ấy không đủ sức mạnh để thúc đẩy họ sống và hành động như sự hiểu biết ấy đòi hỏi. Ngay trong số chúng ta, những người tự xưng là Kitô hữu, chúng ta có thể tuyên xưng rất mạnh niềm tin của mình, thậm chí kết án những ai tin khác với mình, nhưng giữa niềm tin ấy và cuộc sống của ta là cả một sự xa cách. Tin trên lý thuyết và sống trong thực tế không trùng hợp với nhau, lý và sự, chủ trương và hành động, nói và làm khác xa nhau. Điều đó chứng tỏ chúng ta chưa thật sự tin.
Thánh Gia-cô-bê nói: “Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26; x.2,17). Nhiều khi chúng ta tưởng mình có đức tin, nhưng đức tin ấy xét cho nghiêm túc lại là thứ “đức tin chết”, những đức tin giả hiệu, là “hàng giả”, loại rẻ tiền (vì được mua với giá rẻ). Chính vì thế, Giáo Hội ngày nay mới nói đến vấn đề “phúc âm hóa mới”, hay “tái phúc âm hóa”, nghĩa là giới thiệu lại Đức Giêsu cho những người đã biết Ngài, đã mang danh là tin Ngài, để họ tin Ngài một cách đích thực hơn.
Cứ nhìn vào thực trạng của Giáo Hội, của xã hội và thế giới hiện nay, ta có thể thấy được tỷ lệ người tin thật sự vào Đức Giêsu là bao nhiêu. Người thật sự tin tất nhiên phải trở thành “muối” (x. Mt 5,13; Mc 9,49; Lc 14,34), thành “men” (Mt 13,33; Lc 13,21) chất lượng. Nếu thức ăn được ướp muối mà vẫn bị hư, bột được trộn men mà không dậy lên được, là vì: hoặc muối hay men quá ít, hoặc muối hay men đã bị mất chất lượng. Vì nếu men tốt thì chỉ cần “một chút men (là đủ) làm cả khối bột dậy men” (Gl 5,9).
Tệ hơn nữa, nếu men bị biến chất thành men thối thì thật là nguy hiểm cho đống bột. Đức Giêsu đã cảnh cáo chúng ta chuyện này: “Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pha-ri-sêu và men Hê-rô-đê” (Mc 8,15; x. Mt 16,6). Ngài giải thích: “Men Pha-ri-sêu tức là thói đạo đức giả” (Lc 12,1b), là thói giữ đạo một cách hình thức, với những nghi lễ trang trọng bề ngoài, mục đích để được ca tụng, được khen, nhưng trong tâm hồn thì chẳng có tình thương, chẳng muốn hy sinh chịu thiệt cho ai (x. Mt 23). Còn “men Hê-rô-đê” có thể là thói ham thích quyền bính, thích ép buộc người khác phải làm theo ý mình, đồng thời sẵn sàng làm tất cả mọi sự – kể cả những chuyện bỉ ổi, đê hèn, tội lỗi – để đạt được hay duy trì quyền bính của mình (x. Mt 2,16). Hai loại “men” này thực chất thì như nhau, nhưng một đằng áp dụng trong tôn giáo, một đằng áp dụng ở ngoài đời. Chính những loại “men” này đã làm Giáo Hội, xã hội và thế giới thoái hóa về đạo đức và tâm linh.
Vậy, ai sẽ là người làm công việc “tái phúc âm hóa” này, nghĩa là làm cho muối mặn trở lại, men nồng trở lại? Bạn nhận định thế nào về thực trạng của Giáo Hội, xã hội và thế giới hiện nay? Bạn có ý thức được nhu cầu khẩn thiết phải tái phúc âm hóa trong Giáo Hội không? Bạn có nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi bạn làm công việc này không? Nếu nghe thấy, bạn có đáp lại tiếng Chúa như Sa-mu-en trong bài đọc I không? Bạn có sẵn sàng đi theo và rủ người khác theo Ngài như hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả trong bài Tin Mừng không? Bạn thử lắng nghe Chúa nói trong lòng mình và nghe cả lòng mình nói nữa!
Thái độ của Gioan Tẩy Giả cũng là một gương mẫu và là một bài học tốt cho chúng ta. An-rê và Gioan (nhỏ) đều đang là môn đệ của Gioan Tẩy Giả. Chắc chắn ông đã từng nói với các môn đệ mình cũng như đã từng nói với dân chúng: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Tôi làm phép rửa trong nước để giục lòng sám hối, còn Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3,11). Khi nói những lời ấy, Gioan Tẩy Giả xác định mình không phải là Đấng ấy, đồng thời muốn giới thiệu Đấng ấy để mọi người – kể cả các môn đệ của ông – tin và hướng về Đấng ấy. Chính vì thế, khi Gioan Tẩy Giả “thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”“ thì có “hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu”. Khi hai môn đệ rất ưu tú của mình bỏ mình để làm môn đệ Đức Giêsu, chắc chắn Gioan Tẩy Giả cảm thấy một niềm vui buồn lẫn lộn. Vui vì thấy Đức Giêsu có được hai môn đệ, vui vì hai môn đệ của mình có được một người thầy cao cả và xứng đáng hơn mình. Nhưng cũng buồn vì mình đã bị mất mát một cái gì rất thân quí. Giữa vui và buồn ấy, đối với một người thật sự quan tâm tới công việc chung, thì cái vui ấy sẽ lấn át cái buồn, và nỗi buồn chỉ là thoáng qua.
Khi ta giới thiệu Đức Giêsu cho mọi người, rao giảng, dạy dỗ về Ngài, chắc chắn vì sự giới thiệu, dạy dỗ ấy, nhiều người sẽ nhận ta là thầy, và theo làm môn đệ ta. Ngoài ra, ta còn được biết bao người kính trọng, nể phục, khen ngợi, đồng thời dành cho ta nhiều ưu tiên, đặc quyền đặc lợi nào đó. Ban đầu có thể ta không hề nhắm tới những điều phụ thuộc này, nhưng khi đã hưởng được những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy, lòng ta bắt đầu cảm thấy gắn bó với chúng, đến nỗi nếu không có những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy, ta cảm thấy thiếu thốn, bực bội. Từ đó, như một phản xạ có điều kiện, khi ta giới thiệu hay rao giảng về Đức Giêsu, phản ứng tự nhiên của ta là đòi hỏi những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy. Và cuộc đời tông đồ của ta dần dần bị biến chất. Ta không còn quan tâm chính yếu tới Đức Giêsu mà ta đang giới thiệu, rao giảng, nhưng ta lại tìm chính ta, tìm danh vọng, địa vị, ưu đãi trong chính công việc tưởng chừng rất thánh thiện ấy. Và khi bổn phận tông đồ buộc ta phải từ bỏ chúng, ta không thể chấp nhận được. Ta cố níu lại cho bằng được những thứ ấy. Đó chính là một trong những cám dỗ rất thường gặp nơi những người làm tông đồ, những người giới thiệu Đức Giêsu như Gioan Tẩy Giả. Thiết tưởng chúng ta luôn luôn tỉnh táo kẻo sa vào chước cám dỗ ấy, vì có biết bao người đã chìm đắm trong đó rồi!
Cầu nguyện
Lạy Cha, con biết Cha là nhờ Đức Giêsu giới thiệu, và biết Đức Giêsu là nhờ Giáo Hội, nhờ một ai đó giới thiệu. Nhờ đó, con được diễm phúc biết và yêu mến Cha, biết và tin theo Đức Giêsu để được cứu độ. Vì thế, con cảm thấy mình thật ích kỷ nếu không tiếp tục giới thiệu cho những người khác nữa biết về Cha, về Đức Giêsu. Nhưng xin hãy cho con biết và tin đích thực, đồng thời sống thật sự niềm tin ấy trước khi giới thiệu niềm tin ấy cho người khác. Amen.
Giới thiệu là một nghệ thuật đã được các nhà thương mại tận dụng tối đa, qua các phương tiện truyền thông như báo chương, truyền thanh, truyền hình, các bảng quảng cáo khắp đó đây. Nghệ thuật giới thiệu trình bày đó đã trở thành một phân khoa dạy trong các trường đại học, giúp cho các nhà chuyên môn biết cách giới thiệu trình bày thế nào cho hấp dẫn, để dễ lôi kéo thu hút được sự chú ý và hâm mộ của khách mộ điệu và giới tiêu thụ.
Do đó, phải giới thiệu thế nào cho đúng với tư cách xã hội, tùy theo cách thế, hoặc thông thường hoặc trang trọng, sao cho hợp tình hợp cảnh, đúng nơi đúng lúc, đúng với địa vị chức vụ của mỗi người, lại phải hợp với phong tục tập quán của mỗi miền, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, và nếu cần còn phải theo đúng nghi lễ xã giao quốc tế… Hội đủ các điều kiện đó, việc giới thiệu mới đạt được thành quả tốt đẹp.
Thánh Gioan là một tiên tri đã được Thiên Chúa tuyển chọn và thánh hóa ngay từ khi còn trong lòng mẹ, được ủy thác một sứ mạng cao cả và quan trong vô cùng là làm vị Tiền Hô giới thiệu Chúa Kitô, là Đấng Thiên Chúa sai đến trần gian, cứu độ nhân loại, bằng việc rao giảng phép rửa sám hối, kêu gọi mọi người bỏ đàng tội lỗi bất chính, giúp nhân loại đón nhận Chúa Cứu Thế, hầu xứng đáng lãnh nhận Ơn Cứu Độ của Người.
Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Sử Gioan tường thuật: Khi ông Gioan thấy Chúa Giêsu đang tiến lại với mình, liền giới thiệu với mọi người: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Jn 1:29).
Để thực thi sứ mạng cao cả này, Thánh Linh đã mạc khải cho Gioan nhận biết Đấng mà thánh nhân được chọn làm sứ giả giới thiệu Ngài, như lời thánh nhân đã tuyên xưng: “Một Đấng đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi, vì Người cao trọng hơn tôi. Và tôi vốn không biết Người”. Thánh nhân còn xác quyết: “Tôi đã thấy Thánh Thần Chúa như chiên bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Người. Về phần tôi, tôi vốn chưa biết Người, nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần Chúa ngự trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Tôi đã thấy, đã nhận biết và tôi xin làm chứng: Chính Người là Con Thiên Chúa” (Jn 1:29-34).
Thánh Gioan đã chu toàn sứ mạng làm Tiền Hô giới thiệu Chúa Kitô cho nhân loại, với tất cả sự hiểu biết, niềm xác tín vững mạnh và thâm sâu, mà ngài đã công khai tuyên xưng như một chân lý bất hủ. Hơn nữa, ngài còn sống niềm tin, tận tình phụng sự, và hết tình yêu mến Đấng mà ngài có sứ mạng giới thiệu. Thánh nhân đã tự thú nhận mình: “Không đáng quỳ xuống cởi giây giầy cho Người” và cố gắng tìm mọi cách tự xóa nhòa mình đi, để Chúa được tôn vinh như lời ngài quả quyết: “Người cần phải trổi lên, còn tôi cần phải hạ xuống”. Sau cùng, Thánh nhân còn lấy làm sung sướng được hy hiến chính mạng sống mình, để làm chứng cho Đấng ngài giới thiệu và rao giảng.
Là con cái Chúa, như Thánh Gioan tất cả chúng ta đều được Chúa tuyển chọn, tùy theo ơn gọi, chức phận và địa vị của mỗi người, Chúa cũng ủy thác cho chúng ta sứ mạng làm chứng nhân, làm sứ giả giới thiệu Chúa Cứu Thế cho nhân loại, cho những người chúng ta có nhiệm vụ, cho hết mọi người chúng ta có liên hệ và giao tiếp trong đời sống hằng ngày. Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia cần được áp dụng cho mỗi người chúng ta, cũng như cho toàn thể Giáo Hội, Dân Riêng của Chúa: “Đây Ta đặt con như ánh sáng các dân tộc, để con đem Ơn Cứu Độ của Ta tràn lan khắp địa cầu” (Is 49:6).
Để được giới thiệu trong phương diện trần thế đạt được hiệu quả tốt, còn cần phải được áp dụng đúng nghệ thuật, đúng khoa học, hợp tình hợp cảnh, hợp thời hợp lúc; thì để thi hành sứ mạng cao cả giới thiệu Chúa Kitô cho tha nhân, còn cần phải hội đủ các điều kiện, các tư cách và đức tính khẩn thiết hơn muôn phần.
Do đó, vị sứ giả giới thiệu Chúa Kitô cho người khác, đòi buộc phải hiểu biết thâm sâu về Chúa, phải đồng hóa nên một với Chúa, phải sống bằng sự sống của Chúa; và hơn nữa, phải chiếm hữu được Chúa. Có như thế, tha nhân mới dễ dàng chấp nhận được chân lý chúng ta rao giảng; cảm nhận được sức sống thần linh và sự hiện diện đích thực và sống động của Chúa nơi chính bản thân của vị sứ giả, khiến người ta khát mong chiếm hữu Chúa là hạnh phúc, là cùng đích của họ.
Chính Chúa đã phán với chúng ta: “Các con là ánh sáng trần gian”, và Chúa truyền dạy: “Ánh sáng của các con phải chiếu giãi trước mọi người, để mọi người nhận biết Cha các con trên trời”, Đấng các con có nhiệm vụ giới thiệu Người, làm chứng nhân cho Người.
Kết Luận
Mẹ Maria là Vị Tôn Sư, là Nhà Giáo Dục huấn luyện đào tạo nên các vị Tông Đồ, thừa sai, sứ giả giới thiệu Đấng Thiên Sai là Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Mẹ.
Tại hang Belem xưa, Mẹ đã giới thiệu Chúa Hài Nhi cho các mục tử là những tâm hồn đơn sơ chất phác; Mẹ cũng đã giới thiệu Chúa Hài Nhi cho các nhà đạo sĩ thông thái từ Đông Phương đến triều bái Chúa; Mẹ cũng đã giới thiệu Chúa cho cụ già tiên tri Simêon và bà tiên tri Anna trong Đền Thờ, và Mẹ cũng đã giới thiệu Chúa cho toàn thể nhân loại.
Hiền Mẫu Maria là Mẹ các Tông Đồ, Mẹ là mẫu gương phản chiếu chân dung đích thực của Chúa Giêsu Con Mẹ; Mẹ đã chiếm hữu được Chúa cách sung mãn tràn đầy, để chính Mẹ trở nên nguồn thác thông ban Chúa cho các tâm hồn.
Xin Mẹ dạy cho chúng con học biết khoa học cao cả này, để chúng được xứng đáng cùng với Mẹ giới thiệu Chúa, rao giảng Chúa, trao ban Chúa cho nhân loại và cho mỗi tâm hồn.
Đây Con Chiên Thiên Chúa,
Đấng xóa tội trần gian (Ga.1:29-34)
Đã hơn một tháng nay Giáo Hội cũng như thế giới đón mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Hôm nay (những ngày đã qua) thánh Gioan lại có dịp tuyên xưng “Đức Giêsu ngôi Lời Nhập Thể la Đấng xoá tội trần gian”. Gioan nghĩ gì khi tuyên bố lời đó? Khi tuyên xưng Chúa Kitô đã xóa tội trần gian?
Nhìn lại lịch sử các dân tộc, vào thời tiền sử đều nhận có những vị thần hộ thủ quốc gia. Để nguôi cơn giận của thần, vua phải hiến tế cho thần những lễ vật thật cao giá như: Cổ Hy Lạp đã dùng người trinh nữ để tế thần. Việt Nam đã dùng súc vật như bò để tế ở đàn Nam Giao. Các tổ phụ lại dùng con chiên một năm như tổ phụ Abraham….
Dùng của lễ là trút hết lòng thành vào đó để dâng, để mọi bất chính, mọi tắc loạn vào con vật để đốt cho con vật chết.
Trên nóc nhà thờ Verden nước Đức còn thấy một tảng đá khắc hình con chiên do chuyện: anh thợ đá đang làm việc trên mái, bị đứt sợi dây an toàn, anh té nhào xuống đất. May thay anh rớt trúng một con chiên, con chiên bị chết, còn anh không hề bị thương. Để nhớ ơn con chiên đã cứu mạng, anh khắc hình con chiên và gắn lên nóc nhà thờ.
Con chiên Thiên Chúa cũng đã chết để cứu độ chúng ta và làm cho chúng ta được sống trong ân sủng của Chúa. “Ngài đã thí mạng để cứu chuộc chúng ta”.
Sách Khải Huyền đã có tới 27 lần nhắc đến con chiên Thiên Chúa. Ngài gọi là chiên đã chết cho mọi người, mọi thời, mọi nơi.
Hình ảnh con chiên Thiên Chúa còn thấy nơi hang Toại Đạo, nơi thánh địa, đại thánh đường Rôma….
Bài sách thánh thứ hai có nói đến đặc ân Thiên Chúa vô cùng thương loài người là Ngài lấy máu chính mình và cái chết trên thập giá để đền tội và cho chúng ta khỏi chết.
Nhiều người đã quên ơn Thiên Chúa, cố tình quên ơn Chúa, chạy theo sự vật ở đời, cố tình gạt bỏ lương tâm mình, để sống theo lạc thú.
Lời Thánh Kinh: ”Người mẹ có bao giờ quên con mình được. Nếu họ có quên nữa thì ta cũng không quên được”.
Anh chị em chính là con chiên, xin đừng lãng quên Chúa, đừng khước từ Chúa, nhưng hãy luôn thưa: “Lạy Chúa, này con xin đến đẻ thực thi ý Chúa”.
Gioan Tẩy Giả là vị tiên tri duy nhứt đã tận mắt thấy Đấng Cứu thế và ông đã tuyên xưng: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Lời tuyên xưng nầy, chúng ta đã thường xuyên nghe lại trước khi rước lễ.
Thử hỏi “tội trần gian là gì?” Chúng ta thường hiểu tội là một lỗi lầm, vấp phạm, thiếu sót về luân lý, nhưng “tội trần gian” nói đến trong Tin mừng là một quyền lực lớn lao đáng sợ, đè bẹp làm con người có tự do hay không? Nơi tội như một thiếu sót luân lý, con người có tự do để quyết định lam lành hay làm dữ. Trái lại, tội trần gian được xem như là một quyền lực trói buộc con người, cướp mất tự do của con người, làm họ không thể sống xứng đáng là người nữa. Tương tự như người nghiện xì ke hay nghiện rượu, họ không còn làm chủ được ý chí của họ, họ không còn tự do để vươn ra khỏi bệnh trạng của họ. Dưới ách của tội trần gian, con người như sống trong mây mù đen tối. Biểu tượng của tội trần gian là con bò vàng và người thờ bò vàng muốn nói lên là họ không cần đến Thiên Chúa, tự sức mình họ lớn mạnh đủ để lèo lái cuộc đời và thế giới theo ý họ.
Đức Giêsu được tuyên xưng là Chiên Thiên Chúa. Chiên là loài thú vật quen thuộc đối với dân chúng ở bờ sông Giođan. Chiên cũng nhắc nhớ đến bữa ăn trước cuộc Xuất hành ra khỏi ách nô lệ Ai Cập. Chiên do đó là dấu chỉ sự cứu độ và việc lớn lao Thiên Chúa đã làm cho dân Do Thái. Đấng Cứu thế được loan báo trong lời tiên tri như là con chiên. Vì thế dân chúng hiểu ngay ý nghĩa lời tuyên xưng của Gioan Tẩy Giả: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”. Chúa Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa, Người gánh tội của nhân loại và mang lên thập giá, Người đã hiến mình để cứu độ trần gian, giải thoát con người ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi. Tình yêu của Người là sức mạnh giải thoát con người và giúp con người có khả năng sống xứng đáng là người.
Mỗi lần dâng Thánh lễ, chúng ta cầu xin cùng Đức Kitô, Chiên Thiên Chúa, giải thoát chúng ta khỏi tội trần gian. Chúng ta cảm nghiệm ảnh hưởng của tội trần gian quá mạnh, mạnh hơn thiện chí của chúng ta. Tự mình chúng ta không thoát ra nổi, chỉ có Chúa mới có thể giải thoát chúng ta ra khỏi vòng ảnh hưởng tội trần gian, để chúng ta được cứu chữa và hòa giải với Thiên Chúa. Những Kitô hữu đầu tiên đón nhận đức tin đã cảm nghiệm phép Rửa như một cuộc thay đổi chế độ: họ ra khỏi thế lực của tội lỗi để bước vào quyền năng giải thoát của Thiên Chúa. Chúng ta cũng cảm nghiệm cả hai trong cuộc sống: thế lực tội lỗi và quyền năng của ơn thánh, của sức mạnh của Chúa Thánh Linh. Chúng ta vẫn còn bị thế lực tội lỗi tấn công. Chúng ta không chỉ lãnh nhận Chúa Thánh Linh một lần cho tất cả. Vì thế, chúng ta thường xuyên họp nhau cầu nguyện, để được ở trong quyền năng của ơn thánh, để được lãnh nhận sức mạnh giải thoát từ Chiên Thiên Chúa, để chúng ta có thể sống xứng đáng phẩm giá con người như Thiên Chúa đã tạo dựng. Chúng ta cũng cầu xin Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại luôn tỏ quyền năng của Người, để giúp chúng ta luôn sống trong tình yêu Người.
“Này là Chiên của Thiên Chúa, Đấng khử trừ tội của thế gian”.
Trong Tin mừng hôm nay, Gioan Tiền Hô đã công khai giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người: “Này là Chiên của Thiên Chúa, Đấng khử trử tội của thế gian” (Ga 1:29). Với câu nói này, Gioan đã cùng một lúc chỉ ra hai thực tại lớn lao về Chúa Giêsu: Ngài là Chiên của Thiên Chúa và Ngài là Đấng khử trừ tội của thế gian.
Khi gọi Chúa Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa”, Gioan xác nhận sự vô tội và tinh tuyền thánh thiện của Chúa Giêsu.
Khi nói Chúa Giêsu là “Đấng khử trừ tội của thế gian”, Gioan chỉ cho mọi người thấy Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế, Đấng Messia, là “tôi tớ đau khổ của Giavê” như tiên tri Isaia từng nói đến trong Cựu ước.
Hai thực tại này gắn liền với nhau nơi con người và sứ mạng của Chúa Giêsu. Chính vì là Con Chiên vô tội của Thiên Chúa Chúa Giêsu mới có thể khử trừ tội của thế gian. Như con chiên được dùng làm của lễ đền tội trong Cựu ước phải chịu sát tế, Chúa Giêsu cũng phải chịu đau khổ và chịu chết để trở nên của lễ hy sinh đền tội cho nhân loại. Con chiên hiến tế của Cựu ước chỉ là hình bóng và dấu hiệu của Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”, Đấng duy nhất thực sự khử trừ tội của con người, Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ, nghĩa là sự tha thứ tội lỗi.
Chúa Giêsu khử trừ tội của thế gian bằng cách gánh vào mình Người tội lỗi của tất cả nhân loại, từ tội của nguyên tổ Adong cho đến tội của người sau hết trong nhân loại. Với cuộc khổ nạn và cái chết đau thương tủi nhục trên thập giá, Người đã đền thay tội lỗi của tất cả nhân loại.
Nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, Thiên Chúa đã chỉ cho ta thấy ác quả kinh hoàng của tội lỗi vì nó dẫn đến sự đau khổ tột cùng và cái chết đau thương của Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, và tình yêu vô biên của Thiên Chúa khi chính Người đã chấp nhận chịu đau khổ để giải thoát ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi và khỏi chết đời đời.
Câu chuyện sau sẽ giúp chúng ta hiểu biết sâu xa hơn về sự đau khổ kinh hoàng mà Chúa Giêsu phải chịu để chuộc tội cho chúng ta. Từ đó, chúng ta cảm nhận cách thấm thía hơn tình yêu vô biên của Người dành cho ta.
Một cô gái đang có người yêu bị một kẻ lạ mặt hãm hiếp và đã có thai. Cô khổ tâm vô cùng vì bị người yêu khước từ và gia đình ngờ vực. Cô đã đến gặp Đức Cha Fulton Sheen than thở với ngài và hỏi ngài: “Tại sao con phải ra nông nỗi này?” Sau khi lắng nghe với tất cả sự cảm thông, Đức Cha ôn tồn trả lời cô gái: “Vì chị đã phải gánh tội của một người”.
Rồi Đức Cha Sheen kết luận: Nếu chỉ vì phải gánh tội của một người mà cô giái kia phải đau khổ buồn sầu như thế, thì khi phải gánh chịu tội của cả nhân loại Chúa Giêsu đã phải chịu đau khổ buồn sầu biết chừng nào!
Là những người Kitô hữu, chúng ta chẳng những được mời gọi để hưởng ơn cứu độ của Chúa Cứu thế nhưng còn được kêu mời để trở nên những “Chúa Cứu thế khác”. Đức Cha Fulton Sheen nói rằng chúng ta được cứu chuộc bằng cách trở nên những con người cứu chuộc. Điều này như một sự lập lại lời Chúa Giêsu khi Người dạy chúng ta đọc kinh Lạy Cha “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Thế giới hôm nay phải đau khổ trăm chiều vì con người càng sa đoạ, càng lún sâu vào vũng bùn tội lỗi. Làm thế nào để khử trừ hay ít ra là làm giảm bớt tội lỗi trên thế giới hôm nay?
Chắc chắn không có cách nào tốt hơn, hoàn hảo hơn đường lối Chúa Giêsu đã thực hiện để trở nên “Đấng khử trừ tội của thế gian.”
Để đi theo đường lối của Chúa Giêsu, trước hết chúng ta phải noi gương Chúa Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa” qua việc cố gắng sống thánh thiện và xa lánh mọi tội lỗi. Kế đến, chúng ta phải nổ lực trở nên giống Ngài là “Đấng khữ trừ tội lỗi của thế gian” bằng cách vui nhận những khó khăn, đau khổ, thử thách trong cuộc sống để kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu và cầu nguyện xin Chúa tha thứ tội lỗi cho tha nhân, nhất là những người đang làm ta đau khổ cách này hay cách khác.
Bao lâu chúng ta chưa biết xa lánh tội lỗi, chưa biết nhìn nhận trách nhiệm về tội lỗi của chính mình, chưa biết noi gương Chúa Giêsu quảng đại tha thứ cho những người xúc phạm đến mình, chưa dấn thân lãnh lấy trách nhiệm đền tội thay cho tha nhân, bấy lâu chúng ta chưa phải là những người tín hữu đích thực của Chúa Kitô.
Trong mỗi Thánh lễ, trước khi hiệp lễ, chúng ta cầu xin với Chúa Giêsu bằng lời nguyện “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con.” Liền sau lời nguyện đó, linh mục chủ tế cũng giới thiệu Chúa Giêsu Thánh thể cho chúng ta bằng những lời như Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu với dân chúng năm xưa: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian…” Lúc ấy, chúng ta hãy sốt sắng hiệp cùng Mẹ Maria nài xin Chúa Giêsu Thánh Thể mà ta sẽ rước vào lòng cho ta biết kết hợp mật thiết với Người, để nhờ Người và trong Người ta sẽ sống như những con chiên đích thực của Chúa, những con người biết sống yêu thương tha thứ và hiệp nhất trọn vẹn với tha nhân.
Chủ đề của bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên Năm A hôm nay thực sự là lời của Thánh Gioan Tiền Hô chứng nhận về Đấng đến sau mình là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”. Khi gọi Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” Gioan xác nhận sự vô tội và tinh tuyền thánh thiện của Chúa Giêsu. Khi nói Chúa Giêsu là “Đấng xóa tội trần gian” Gioan chỉ cho mọi người thấy Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế, Đấng Messia, là “tôi tớ đau khổ của Giavê” như tiên tri Isaia từng nói đến trong Cựu ước.
Vào thời trước khi Chúa Cứu thế Giáng sinh, người Do Thái mong đợi Đấng Cứu thế đến để giải thoát họ khỏi kiếp lưu đày, khỏi cảnh nô lệ lầm than khốn khổ của người ngoại bang. Họ mong đợi Đấng Cứu thế đến như một tướng tài giỏi, bách chiến, bách thắng. Họ nuôi hy vọng Đấng Cứu thế sẽ thiết lập một vương quốc trần gian, giàu có và hùng mạnh, để đưa dân tộc họ lên làm bá chủ hoàn cầu. Và đó là những quan niệm sai lầm của họ về Đấng Cứu thế, cũng như về bản chất của đạo giáo. Vì thế, Phúc âm hôm nay thuật lại Gioan Tiền hô sửa sai quan niệm của họ về Đấng Cứu thế. Gioan Tẩy Giả làm chứng rằng Đấng Kitô là Chiên Thiên Chúa, được sai đến để xóa tội trần gian (Ga 1, 29). Chiên là hình ảnh nói về tôn giáo hơn. Trong thời Cựu ước, chiên được dùng để làm lễ vật hy sinh dâng lên Thiên Chúa. Bằng việc gọi Chúa Kitô là Chiên Thiên Chúa, Gioan chỉ cho thấy đời sống của Chúa Kitô được dâng cho Thiên Chúa như là lễ vật hy sinh đền tội thay cho nhân loại. Khi Gioan Tiền hô xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, ông được dân chúng tôn sùng, coi Gioan như là chính Đấng Cứu Thế phải đến. Ông có sức lôi cuốn mãnh liệt. Tuy nhiên Gioan Tiền hô ý thức được căn tính của mình, và thể hiện đúng vai trò của mình. Gioan chỉ nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa, đi dọn đường cho Đấng Cứu thế đến mà thôi, và không xứng đáng cởi giây giày cho Người.
Mặc dù chúng ta là những người tội lỗi, nhưng đã được rửa bằng máu của Con Chiên Thiên Chúa để được tham dự vào bàn tiệc của Nước Trời. Bởi chính Chúa Giêsu đã đến trần gian để mời những tội nhân ngồi vào bàn tiệc với Ngài. “Tôi không đến kêu gọi những người công chính, nhưng kêu gọi những người tội lỗi”.
Với tình yêu vô biên Đức Giêsu đã đóng vai trò Con Chiên Thiên Chúa, hy sinh mạng sống Ngài “để tha thứ tội lỗi” (Mt 26, 28) cho nhân loại. Vì thế khi một người tội lỗi trở về, đã trở về bằng giá máu của Con Chiên Thiên Chúa, nên cả triều đình trên trời đều vui mừng (Lc 15, 7). Chúng ta cũng phải có thái độ khoan dung đối với người tội lỗi như Thiên Chúa là Cha Nhân lành đã có. Càng yêu thương tội nhân bao nhiêu, chúng ta càng phải ghét tội lỗi bấy nhiêu (2Tx 3, 6-15; 1Cr 5, 5-13).
Người tín hữu thường được gọi là “con chiên của Chúa”. Danh hiệu đó ngầm chứa ý nghĩa: người tín hữu được xếp vào loại “chiên” trong ngày phán xét. Được đứng bên hữu Vua Thẩm Phán. Được vào hưởng vinh quang trong nước Chúa. Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong. Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa. Uớc mong những chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn là chính Chúa Giêsu đi vào con đường hiền lành khiêm nhường. Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa. Và ước mong đoàn chiên sống để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.
Để đi theo đường lối của Chúa Giêsu, là chiên con của Ngài, trước hết, chúng ta phải noi gương Chúa Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa” qua việc cố gắng sống thánh thiện và xa lánh mọi tội lỗi. Kế đến, chúng ta phải nổ lực trở nên giống Ngài bằng cách vui nhận khó khăn, đau khổ, thử thách trong cuộc sống để kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu và cầu nguyện xin Chúa tha thứ tội lỗi cho tha nhân, nhất là những người đang làm ta đau khổ cách này hay cách khác. Sau cùng, chúng ta quảng đại tha thứ cho những người xúc phạm đến mình, dấn thân hơn trong việc bác ái, biết chấp nhận thực chất về mình, ưu và khuyết điểm, không giả tạo, không khoe khoang tự phụ mà biết sống ngay thẳng đi theo đường lối của Thiên Chúa.
Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội con, xin thương xót chúng con. Amen.
(Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long)
1/ Ngữ cảnh
Trong Tin Mừng IV, bài tường thuât ơn gọi các môn đệ được ghép vào bên trong cái khung gọi là “Tuần lễ khai mạc sứ vụ của Đức Giêsu”.
– hai ngày đầu: Gioan làm chứng (phủ định – khẳng định);
– ngày thứ ba (“hôm sau”, Ga 1,35): lần này Gioan giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (cc. 35-36);
– đoạn văn của chúng ta (1,35-42) nằm ở vị trí này;
– ngày thứ tư (“hôm sau”, 1,43): Đức Giêsu gọi Philípphê và Nathanaen;
– “ngày thứ ba” (2,1): Đức Giêsu “bày tỏ vinh quang” (2,11) tại Cana miền Galilê.
Các mốc về thời gian này có một ý nghĩa mà chúng ta cần nắm vững, để hiểu được bản văn. Chúng ta sẽ phân tích các nghĩa này trong truyện Tiệc cưới Cana (2,1-12).
2/ Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1/ Hai môn đệ đầu tiên (1,35-39);
2/ Anrê (1,40-42a);
3/ Simôn (1,42b).
3/ Vài ghi chú về chú giải
– Ông Gioan đang đứng… (35): Có một nhóm môn đệ thường xuyên ở quanh Vị Tiền Hô (x. Mc2,18t; Mt 11,2; 14,12; Lc 11,1; Ga 3,25). Bản văn xác định tiếp rằng một trong hai môn đệ là Anrê, em của Simôn (c. 41); còn người thứ hai thì vô danh.
Tìm cách dung hòa bài tường thuật của TM IV với bài của các TMNL nói về ơn gọi của các môn đệ (x. Mc 1,16-20) là chuyện vô ích. Chỉ có một điểm gặp nhau: hai anh em Simôn và Anrê ở trong số những người được gọi đầu tiên. Còn các khác biệt quá lớn:
* Theo Mc 1,29: Simôn ở Caphácnaum; theo Ga 1,44: hai anh em gốc Bétxaiđa.
* TM IV không nói gì tới các con ông Dêbêđê, trong khi theo Mc 1,18-20, họ là cặp môn đệ thứ hai; Mc lại không hề nói đến Philípphê và Nathanaen.
* Bối cảnh cũng khác nhau: theo TM IV, các môn đệ đầu tiên thuộc nhóm của Vị Tiền Hô, đã được ông hướng dẫn tới với Đức Giêsu; theo Mc, Đức Giêsu chỉ kêu gọi các môn đệ sau khi Gioan bị bắt, và kêu gọi tại bờ hồ Ghennêsarét, chứ không tại bờ sông Giođan, lúc đó họ đang làm nghề chài lưới.
* Ý hướng tổng quát khác nhau: Theo Mc, đây là một biến cố bất ngờ lôi kéo người ta ra khỏi cuộc sống hằng ngày để thi hành sứ mạng tông đồ; thật ra bản văn Mc là một bản tóm về thần học ơn gọi. Dường như bản văn Ga còn ghi giữ lại kỷ niệm lịch sử, đó là các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu, và có thể chính tác giả, đã có lúc thuộc về nhóm Gioan Tiền Hô.
– thấy Đức Giêsu đi ngang qua (36): Hôm sau ngày làm chứng (cc. 29-34), trong khi Gioan còn đứng đó, Đức Giêsu đã bắt đầu tiến đi: thái độ của Gioan tượng trưng rằng sự nghiệp của ông đã đến lúc chấm dứt; thái độ của Đức Giêsu đánh dấu khởi đầu cuộc đời của Người là một cuộc tiến bước thiêng liêng, sẽ đưa Người về với Chúa Cha (x. Ga 14,28). Còn Gioan thì tức khắc nói với hai người trong nhóm môn đệ đã đến để tìm ơn cứu độ nơi ông, rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”.
– Các anh tìm gì thế? (38): “Tìm” (zeteô: 34 lần trong TM IV) có nghĩa là “tìm cách có lại những đồ vật đã bị mất hoặc để lạc”. Trong ngôn ngữ Hy Lạp của Bản LXX, đây là từ ngữ chuyên môn để nói về việc đi tìm Thiên Chúa, đặc biệt tìm sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa (x. Kn 1,1-2a; 8,2.18 …). Trong tiếng Hípri, “tìm” là darash; darash hattorah, “tìm Torah”, có nghĩa là giải thích Kinh Thánh.
– Thưa Rabbi, Thầy ở đâu? (38): Rabbi là danh xưng tôn kính để gọi các kinh sư.
– Thầy ở đâu? (38): Trên môi các môn đệ, câu hỏi chỉ nhắm nơi Đức Giêsu đang sống, để họ đến gặp, nhưng tác giả là người đã quen sử dụng các từ ngữ theo hai ý, có lẽ cũng hiểu câu hỏi theo một nghĩa sâu hơn: “Thầy ở đâu về phương diện thiêng liêng?”. Đối với ông, các môn đệ đã mặc nhiên thưa với Đức Giêsu lời thỉnh cầu của Philípphê và của bất cứ người nào: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha (nơi Chúa Cha, Thầy đang cư ngụ), như thế là chúng con mãn nguyện” (14,8).
– Đến mà xem (39): Dịch sát là “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe. Mệnh lệnh cách erchesthe có thể hiểu theo nghĩa điều kiện là “nếu như, với điều kiện”. Còn opsesthe là thì tương lai của động từ horaô, có thể hiểu như một lời hứa của Đức Giêsu: TM IV có bốn động từ để diễn tả cái nhìn, từ cái nhìn thể lý nhất đến cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc nhất, đó là:blepein, theasthai, theôrein, horan [idein]. Động từ sau cùng thuộc về lãnh vực đức tin. TrongGa 1,39, Đức Giêsu mời các ông di chuyển về phía Người và có cái nhìn đức tin.
Câu trả lời của Đức Giêsu ở đây cũng có một mức độ sâu hơn: việc khám phá ra nơi ở trần thế của Người tượng trưng và chuẩn bị cho việc khám phá ra nơi ở thiêng liêng của Người. Bước đi theo Người theo cách thể lý, các môn đệ thấy nơi trú ngụ của Người; hơn nữa, đã bước đi theo Người cách thiêng liêng bằng lòng tin, họ cũng bắt đầu thấy được nơi ở thiêng liêng của Người, tức Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9).
– Họ ở lại với Người (39): Đây là chặng đầu của một cuộc chung sống đưa tới sự hiệp thông sâu xa nhất (x. 15,4). Trọn buổi chiều, kể từ 4g, họ xem và ở lại với Đức Giêsu, về thiêng liêng cũng như về thể lý. Buổi chiều hoặc đêm đáng ghi nhớ ấy mở đầu cho đời sống đức tin tròn đầy, đã đưa Anrê và người môn đệ vô danh kia vào trong mầu nhiệm của đời sống Đức Kitô và làm cho họ rất phấn khởi: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”, Anrê reo lên như thế khi gặp Simôn. Một niềm vui thiêng liêng bùng ra: theo các TMNL, đây là niềm vui được ban cho những tâm hồn khám phá ra viên ngọc quý và kho tàng trên trời (x. Mt 13,44).
– Khoảng giờ thứ mười (39): tức khoảng 4g chiều. TM IV quen ghi chú về thời gian chính xác (x. 4,52; 18,28; 19,14; 20,19), nhưng hẳn là có một ý hướng biểu tượng. Trong một số bản văn củaCựu Ước hoặc của Do Thái giáo đương thời, số 10 là con số hoàn hảo; vậy “giờ thứ 10” hẳn là giờ hoàn tất và đánh dấu khởi đầu công trình của Đức Giêsu. Quả thế, ở 11,9, “ngày” là một hình ảnh được dùng để gọi thời gian Đức Giêsu hoạt động ở trần gian (x. thêm 9,4-5; 12,35). “Mười” là một con số hoàn hảo đối với các triết gia phái Pythagore và triết gia Philô khiến Bultmann gợi ý rằng đây là giờ của sự hoàn tất. Cũng có những tác giả cho rằng ngay hôm sau, bắt đầu vào lúc mặt trời lặn, là một ngày sa-bát; do đó hai môn đệ đã phải ở lại với Đức Giêsu để tránh di chuyển vào ngày ấy.
– Trước hết (prôton) (41): Cuộc trò chuyện đã kéo dài trong đêm. Do đó, chúng ta hiểu là sáng hôm sau, Anrê trước hết vội vã đi tìm anh trước khi làm bất cứ việc gì.
– Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia (41): Dịch sát là “Chúng tôi đã tìm thấy/tìm ra Đấng Mêsia”Heuriskein, tìm thấy, được dùng thường xuyên trong phân đoạn này và phân đoạn sau. Anrê “tìm thấy/ra” Simôn, báo rằng họ đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia. Sau được Đức Giêsu “tìm thấy/ra”, Philípphê “tìm thấy/ra” Nathanaen và bảo rằng đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia.
– Anh sẽ được gọi là Kêpha, tức là Phêrô (42): Kêphas là từ Aram kêpha được hy-hóa, có nghĩa là “tảng đá”. Cũng như từ rabbi (c. 38) và Mêsia (c. 41), kêpha là từ Aram; điều này khiến chúng ta lưu ý là có ba từ Aram trong cùng một đoạn văn. Hẳn là tác giả suy tư trong ngôn ngữ này, hay ít ra ngài cũng rất quen thuộc các thuật ngữ Aram. Bản RSVdịch thành một câu hỏi: “So you are Simon the son of John? Vậy anh là Simôn con ông Gioan à?”. Thật ra, bản văn không gợi ý một câu hỏi. Còn việc Đức Giêsu đặt tên cho Simôn thì chúng ta hiểu: Người ta đặt tên cho những người hoặc những vật thuộc quyền kiểm soát của mình (x. St 2,20; Dn 1,7); các người cha đặt tên cho con cái (Mt 1,25; Lc1,63).
4/ Ý nghĩa của bản văn
* Hai môn đệ đầu tiên (35-39)
Truyện hai môn đệ này chắc chắn có dấu vết những hoài niệm về một vài môn đệ. Nhưng dưới ngòi bút của tác giả, truyện mang tính điển hình để chia sẻ với độc giả cái nhìn về đời môn đệ. Các biến cố xảy ra rất nhanh, trong cái khung giả tạo bảy ngày: các môn đệ đầu tiên đến gặp Đức Giêsu, rồi Đức Giêsu gọi Phêrô, Philípphê, Nathanaen. Cuối cùng toàn chương kết thúc với lời Đức Giêsu long trọng mạc khải về chính mình: “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên sứ của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51).
Trước khi truyện đạt tới đỉnh cao này, tác giả ghi lại lời chứng của Gioan. “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: ‘Đây là Chiên Thiên Chúa’” (Ga 1,36). Lời này nhắc lại lời nói trong hoạt cảnh ở c. 29, chỉ khác là thuộc về ngày hôm sau. Đây là “cấu trúc trôn ốc” quen thuộc của tác giả. Người thường xuyên trở lại với những đề tài cũ, cứu xét chúng từ những viễn tượng khác, thăm dò, và chia sẻ với các độc giả sự phong phú đặc biệt của những thực tại Người đề cập đến (x. Ga 20,19-23).
Lúc đó Gioan [và hai môn đệ] được mô tả là “đang đứng” (heistêkei). Có vẻ như thể ông đang chờ chuyện gì đó xảy ra. Trong TM IV, hành động duy nhất có ý nghĩa mà Gioan làm, đó là làm chứng. Vì lúc này Đức Giêsu chưa xuất hiện, hành động đó chưa xảy ra được. Như ngày hôm trước, Gioan thấy Đức Giêsu bước đi và đã giới thiệu Người (Ga1,29), sang ngày hôm sau, một lần nữa, Gioan lại công bố Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Hoạt cảnh của ngày hôm qua cho biết ý nghĩa của tên gọi bí ẩn này; hoạt cảnh hôm nay cho thấy hậu quả của lời loan báo ấy. Ông mời họ rời xa ông để gắn bó với Đấng Cứu thế duy nhất chân thật.
Do được thầy giới thiệu, hai môn đệ đã quyết định đi theo Đức Giêsu. Ơn gọi của họ, cũng như của Samuen, được đánh thức bởi một người khác, không phải bởi “ánh sáng” nhưng bởi “chứng nhân của ánh sáng” (1,8; 3,3). Tác giả không nói gì đến hoàn cảnh thời gian, không gian, tâm lý của các nhân vật: đây cũng là một lược đồ. Ý thức về sự khác biệt giữa tiếng nói và Đấng được tiếng nói làm chứng cho, hai môn đệ bước theo Đức Giêsu.
Hẳn là vì nghe tiếng bước chân, Đức Giêsu quay lại, và thấy các ông đi theo mình. Người hỏi thẳng: “Các anh tìm gì thế?” (Ga 1,38). Những người đi theo thưa với Người làrabbi, không trả lời câu hỏi của Người, mà lại hỏi Người ở đâu. Thay vì cung cấp một câu trả lời trực tiếp, Đức Giêsu mời hai người đến và xem nơi Người ở. Hai ông đã nhận lời mời và đi với Người đến nơi Người ở, nơi này là nơi nào chúng ta không biết. Lúc đó vào khoảng giờ thứ 10 (= 4g chiều, hay là 5/6 ngày đã trôi qua), tức đã muộn. Có lẽ họ đã qua đêm với Người. Chi tiết về thời gian này có ý nghĩa gì với tác giả không? Rất có thể chi tiết này gợi ý rằng đây là giờ của sự hoàn tất. Điều đánh động trong mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên của Gioan, đó là họ xưng hô với Đức Giêsu là rabbi. “Thưa rabbi”. Rabbi là từ ngữ thường được dùng để bày tỏ lòng tôn kính; TM IV thường dùng từ ngữ này vào những dịp tường thuật các cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người khác. Những người được hưởng nhờ quyền lực siêu phàm của Đức Giêsu cũng gọi Người là Rabbi.Rabbi có nghĩa chữ là “thầy tôi” (didaskalos), thường được các môn sinh dùng để gọi vị thầy họ trân trọng, nhưng sau này chỉ còn nghĩa là “thầy”.
Trong TM IV từ đầu cho đến đây, không chi tiết nào cho thấy Đức Giêsu là một thầy giáo. Không một điều gì gợi ý là dân chúng mong ước Đấng đang đến là một thầy dạy. Trong TM này, từ ngữrabbi cũng không được sử dụng nhiều: 7 trên 8 lần được các môn đệ Đức Giêsu sử dụng (1,38.49; 3,2; 4,31; 6,25; 9,2; 11,8); lần còn lại được đặt trên môi của các môn đệ nhìn nhận Gioan là thầy họ (3,26).
Hai môn đệ vô danh “bước theo” Đức Giêsu. Trong hy-ngữ, “bước theo” (akoloutheô) có nghĩa là “đi đàng sau một người”; “trở thành môn đệ” (nghĩa ẩn dụ). Thay vì theo Gioan, bây giờ họ bước theo Đức Giêsu. Họ đã học với Gioan; nay họ phải học với Đức Giêsu. Chính vì thế, họ gọi Người là rabbi. Đây là cách tác giả diễn tả đòi hỏi từ bỏ tận căn được nói đến trong các TMNL(x. Mt 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22): hoặc họ là môn đệ của Đức Giêsu hoặc họ là môn đệ của Gioan. Không thể có thỏa hiệp. Đây không còn phải là quyết định triệt để trở thành môn đệ bằng cách từ bỏ những của cải vật chất nữa để đi theo một vị thầy du thuyết; đúng hơn, đây là từ bỏ một dấn thân đầu tiên trong đức tin của mình.
Nhưng ở đây không chỉ có vấn đề một dấn thân tận căn. Tác giả diễn tả xác tín của mình là những ai đã thật sự học nơi Gioan, những ai đã thật sự hiểu ý nghĩa của lời chứng của Gioan, thì trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Các môn đệ của Gioan tìm được vị trí đúng đắn của họ trong cuộc đời khi họ trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Những ai đã chú ý thật sự đến lời chứng của Gioan thì phải đi vào nhóm môn đệ của Đức Giêsu. Đây là ý nghĩa biểu tượng và cũng là ý nghĩa đích thật của bài tường thuật.
Câu hỏi mở đầu của Đức Giêsu cũng lạ: “Các anh tìm gì thế?”, một câu hỏi trên bình diện tường thuật thuần túy chỉ có nghĩa là “Các anh muốn gì?”. Họ không đáp lại bằng một câu trả lời, nhưng bằng một câu hỏi: “Thầy ở đâu?”. Nếu so sánh với ba TMNL, ta thấy những lời đầu tiên Đức Giêsu nói công khai được các TM ấy ghi lại đều có chất chứa một chương trình cho toàn thể TM(Mt 3,15; Mc 1,15; Lc 4,21), còn TM IV thì thế nào?
Có thể cho rằng tác giả trình bày các môn đệ đầu tiên của Gioan như là những cá nhân đang theo đuổi sự Khôn Ngoan thần linh. Tuy nhiên, Đức Giêsu chính là hiện thân của sự Khôn Ngoan thần linh. Thật khôi hài, những người đi tìm sự Khôn Ngoan thần linh lại tìm thấy sự Khôn Ngoan hiện thân khi họ bước theo Đức Giêsu. Rồi tác giả cũng cho thấy Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh, và thường quy chiếu về bản thân Người. Chẳng hạn, Người thực hiện một midrash[1] về Tv 78,24 trong Diễn từ về bánh ban sự sống (Ga 6,26-51). Từ cách hiểu tổng quát về Đức Giêsu như thế, rất có thể tác giả mô tả hai môn đệ đi đến với Đức Giêsu như đến với người có thể giải thích Kinh Thánh. Nếu vậy, hẳn là họ đã có lý khi thưa rabbi (Ga 1,38), nhưng danh hiệu này cũng phản ánh cách các thành viên của cộng đoàn tác giả hiểu về Đức Giêsu. Do đó, câu hỏi của hai ông “Thầy ở đâu?” đã được Đức Giêsu nâng lên một bình diện ý nghĩa khác (x. phản ứng của Đức Giêsu đối với câu nói của Đức Maria tại tiệc cưới Cana: Ga 2,3-4), khi Người bảo các ông bằng một câu nặng chất đức tin: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy”.
Hai môn đệ hỏi: “Thầy ở đâu?”. Câu hỏi này không đơn giản như thoạt nhìn. “Ở/ở lại”, menô, là một động từ tác giả rất ưa chuộng (Ga: 40 lần; truyền thống Gioan 28 lần (1 Ga: 24x; 2 Ga: 3x;Kh: 1x)[2].
Động từ này được TM Ga dùng theo các nghĩa sau[3]: (1) Nghĩa thông thường: “Ở lại” hoặc “sống” tại một nơi nào đó (1,39; 2,12; 4,40; 12,24). Thường, ý nghĩa địa dư này chuyển sang nghĩa thần học; (2) Nghĩa thần học: “Ở lại” thường gợi lên một khoảnh khắc đặc biệt quan trọng trong lịch sử cứu độ. Đức Giêsu “ở lại” với các môn đệ đang tin vào Người (Ga 2,12; 4,40; 7,9; 10,40; 11,6.54; 14,25). Đám đông nói rằng Đấng Kitô “ở lại” (tồn tại) mãi mãi (Ga 12,34), nhưng tác giả gợi ý rằng Đức Giêsu ở lại Nhà của Cha Người (Ga 8,35). Trong các bài diễn từ cáo biệt (Ga ch. 13–17), tác giả trình bày rộng rãi ý nghĩa đích thực của “ở lại”. Đức Giêsu trở về với Chúa Cha để chuẩn bị một chỗ cho các môn đệ để họ được ở với Người (Ga 14,2-3). Chúa Cha ở lại trong Đức Giêsu (Ga 14,10) và Thánh Thần ở lại trong các môn đệ của Đức Giêsu (Ga14,17). “Ở lại” không chỉ là “ở với”, mà còn có nghĩa là “ở trong”. Trong thực tế, có một sự “ở lại trong nhau” giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Họ ở lại trong Người và Người ở lại trong họ (Ga15,4.5.7). Ý nghĩa tối hậu của bí tích Thánh Thể là: đây là một phương tiện để ở trong nhau và hiến mạng sống cho nhau (Ga 6,56). Đây là một tình trạng cánh chung mà mọi tín hữu có thể sống ngay lúc này, nếu tuân giữ giới răn yêu thương (Ga 15,10; x. 1 Ga 4,12.16).
Tất cả những điều này đã được tiên báo khi Đức Giêsu mời hai môn đệ vô danh đến và xem Người ở đâu. Không phải là Người muốn họ đến mà thăm cái lều người Ả Rập du cư (bedouin) hoặc một nhà trọ nào bên đường. Người mời họ đến mà nhận thấy rằng Người đang ở với Chúa Cha và Chúa Cha đang ở với Người. Họ đến mà trải nghiệm rằng sống chung với Người chính là điều duy nhất quan trọng của đời sống Kitô hữu.
Cũng như Gioan đã thấy (horaô) Thần Khí ở lại (menơ) trên Đức Giêsu, các môn đệ được mời xem/thấy (horaô) nơi Đức Giêsu ở (menô). Đây không phải là một vấn đề nhìn xem bằng cặp mắt thể lý, mà là một nhận thức nhờ đức tin. Như Gioan đã trải nghiệm cái nhìn mà Thiên Chúa đã hứa (cc. 32.34), các môn đệ cũng chấp nhận lời mời của Đức Giêsu: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe” (1,39). Một lời mời gọi (các anh hãy đến) và một lời hứa (các anh sẽ thấy). Họ đã đến, tức là rời bỏ vị trí, quan điểm, lập trường của họ, để đi vào vị trí, quan điểm, lập trường của Đức Giêsu, và họ đã “xem thấy”. Họ đã nhận ra nơi Đức Giêsu đang ở thật sự.
* Anrê (40-42a)
Đến đây, tác giả cho biết một trong hai môn đệ ấy là Anrê, em của Simôn Phêrô. Truyền thống và nhiều nhà chú giải hiện đại nghĩ rằng người môn đệ vô danh kia chính là người môn đệ Chúa thương mến. Truyền thống cũng đã đồng hóa tác giả TM IV với người môn đệ Chúa thương mến và đồng hóa người môn đệ Chúa thương mến với Gioan, con ông Dêbêđê. Các học giả Kinh Thánh hiện đại khá dè dặt đối với các kiểu đồng hóa này. Dù sao, không có gì chắc chắn để chúng ta có thể đồng hóa người môn đệ vô danh trongGa 1,35-39 với con ông Dêbêđê (Giáo sư Boismard nghĩ là Philípphê). Quả thế, nếu con ông Dêbêđê là bạn của Anrê vào dịp họ được gọi làm môn đệ, thì đây hẳn là lần duy nhất trong toàn bộ Tân Ước, Gioan con ông Dêbêđê đi đôi với Anrê. Thông thường Gioan đi đôi với anh là Giacôbê (x. chẳng hạn Mt 4,21; Mc 3,17; Lc5,10…), còn Anrê thì đi đôi với anh là Phêrô (x. Ga 1,40-42). Simôn Phêrô chưa xuất hiện, nhưng vì ông được biết nhiều, nên chỉ cần nêu tên ông ra là có thể xác định được Anrê. Trong truyền thống của Hội Thánh sơ khai, Anrê chỉ là em của Phêrô thôi (Mt 4,18; 10,2; Mc 1,16 (29);Lc 6,14). Tuy nhiên tác giả TM IV có cách phác họa riêng Anrê.
Trong các TMNL, tên Anrê luôn xuất hiện trong một danh sách. Danh sách này có khi chỉ có hai tên (Mt 4,18; Mc 1,16.29), có khi bốn tên (Mc 3,18; Cv 1,13), có khi mười hai tên (Mt 10,2;Mc 3,13; Lc 6,14), nhưng không cho thấy Anrê có phận vụ gì cả. Anrê chỉ là em và bạn đồng hành của Phêrô hoặc là một trong Nhóm Mười Hai. Nhưng với TM IV, Anrê được phác họa ra như một người môn đệ đích thực của Đức Giêsu. Thậm chí ông còn là một môn đệ có điều gì đó mà nói ra. Ông nói với anh mình (Ga 1,41), và ông nói với Đức Giêsu (Ga 6,9; x. 12,22). Rõ ràng là tác giả có một “luận đề về đời môn đệ” (Ga 1,35-39) và ngài tìm cách minh họa luận đề này bằng “ví dụ Anrê”.
Đối với ngài, Anrê là một con người bằng xương bằng thịt, xuất thân từ một thành phố có thật: Bétxaiđa (Ga 1,44), một thành của miền Galilê (Ga 12,21). Anrê là một môn đệ đã đi theo trọn chương trình về đời môn đệ. Ông đã nghe lời chứng về Đức Giêsu. Ông đã bước theo Đức Giêsu. Ông đã nêu chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác. Nhận lời chứng về Đức Giêsu, trở thành một môn đệ, và cống hiến chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác như một cách diễn tả đời môn đệ của mình, đây là cái mô hình đơn giản (pattern) thông thường về đời môn đệ theo cái nhìn của TM IV. Cũng như Anrê có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho anh mình (Ga 1,41), Philípphê cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho Nathanaen (1,45), và người phụ nữ Samari cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho các dân trong thành của bà (4,29.39). Trong cái chuỗi phản ứng từ chứng từ đến chứng từ này, Tin Mừng tiếp tục được loan báo và người ta có thể tin.
Tác giả ghi nhận là “trước hết (prôton), ông đi tìm gặp (heuriskei) anh mình” (Ga 1,41). Điều đầu tiên mà người môn đệ mới này đã làm là đi tìm anh mình và nói về Đức Giêsu cho anh. Đã được đưa vào trong “phong trào” của các môn đệ Đức Giêsu, Anrê phải kể cho ai đó về Đức Giêsu, và anh ông là Simôn là người may mắn hưởng nhờ chứng từ của ông đầu tiên. “Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mêsia (messian)”. Một lần nữa, tác giả dịch một công thức Hípri (mashiah) ra tiếng Hy Lạp: “nghĩa là Đấng Kitô (christos)”. Vì tác giả cho thấy Anrê làm chứng cho Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Kitô), ta có một sự xác nhận là lời chứng của Gioan nói rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (Ga 1,34) là chứng từ về tư cách Mêsia của Người. Qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, Anrê đã nhận ra sự thật của lời chứng của Gioan. Trước đây, Anrê đã được mô tả như là một người đang đi tìm (1,38); bây giờ ông được giới thiệu như là người đã tìm thấy. Kẻ đi tìm đã tìm thấy nơi Đức Giêsu điều ông vẫn đang đi tìm lâu nay.
Lúc đầu Anrê đã gọi Đức Giêsu là Rabbi, “thầy của con”, bây giờ ông gọi Người là Mêsia, “Đấng được xức dầu”. Khi tác giả phác họa các môn đệ thưa với Đức Giêsu như mộtrabbi, thường ngài mô tả cho thấy các môn đệ này đến với Đức Giêsu và đặt một câu hỏi (Ga 1,38; 6,25; 9,2;11,8) để được chỉ giáo thêm. Đấy là thói quen của các học trò Do Thái. Các môn đệ ra khỏi cuộc gặp gỡ, đã học thêm được điều gì từ nơi thầy. Đây là trường hợp của Anrê, cũng như sau này là trong của Nathanaen (1,49) và Maria Mácđala (20,16.18).
Nói rằng tác giả coi Anrê là một môn đệ đích thực của Đức Giêsu, điều này được nêu rõ qua lời tuyên xưng đức tin của ông vào Đức Giêsu. Ông công bố: “Chúng tôi đã đã tìm thấy (heurêkamen) Đấng Mêsia” (Ga 1,41). Ở bình diện tường thuật, “chúng tôi” đây là Anrê và người môn đệ vô danh. Ở một bình diện sâu hơn, “chúng tôi” đây, theo truyền thống Gioan, là toàn thể nhóm của tác giả đang tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Mêsia qua môi miệng Anrê.
Như thế, trong bài tường thuật rất ngắn về vai trò của Anrê (Ga 1,[35-39].40-41), tác giả phác họa Anrê như là người môn đệ đích thật. Điều đáng lưu ý, đó là Anrê được thúc đẩy mạnh mẽ bởi lý tưởng dấn thân làm môn đệ đến nỗi ông đi tìm anh để kể về Đức Giêsu và đưa anh tới với Đức Giêsu. Nếu có một nét căn bản, không thay đổi, mà TM IVrút ra được từ dung mạo Anrê, đó là Anrê đưa người ta đến với Đức Giêsu.
* Simôn (42b)
Simôn Phêrô là một dung mạo quen thuộc với độc giả, vì ông được nêu tên như thế (Ga 1,40), dù sau đó hai câu, tác giả xác định là tên thật của ông là Simôn (1,42), còn Phêrô là biệt danh Đức Giêsu ban cho ông.
Simôn được em là Anrê giới thiệu về Đức Giêsu là Đấng Mêsia rồi cũng được em giới thiệu với Đức Giêsu. Như thế, con đường Simôn Phêrô theo để đến với Đức Giêsu là con đường thông thường: ông được một người đã tin làm chứng và đưa đến với Đức Giêsu; ông chấp nhận chứng từ đó và đích thân đến gặp Đức Giêsu và khám phá ra quan hệ duy nhất giữa ông với Người.
Vậy Simôn Phêrô là một môn đệ khác của Đức Giêsu. Nhưng có điều gì đó chỉ có nơi người môn đệ này. Được đưa đến với Đức Giêsu nhờ lời tuyên xưng của em vào Đấng Mêsia, Phêrô được Đức Giêsu ngỏ lời với theo cách huyền bí: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (Ga 1,42). Công thức này, được Đức Giêsu nói ra trong khi Người nhìn ông, tương tự công thức mạc khải có ở Ga 1,29.36.47; 19,26-27.
Đức Giêsu đặt cho Simôn một tên mới, tác giả ghi nhận điểm này để nêu bật quan hệ có một không hai giữa Simôn Phêrô và Đức Giêsu, nhưng cũng để cho thấy Đức Giêsu có một uy quyền. Khi đặt tên cho Phêrô, Đức Giêsu cũng còn muốn xác định cho ông một căn tính mới, một vai trò mới trong cuộc sống, thậm chí một định mệnh mới (x. Abram và Giacóp: St 32,38; 35,10). Nói đến tầm quan trọng của tên mới của Simôn, chúng ta đều nhớ đến đoạn văn Mt 16,15-19. So với hoạt cảnh tương đối dài đó được Mt mô tả, bản văn của TM IV thật quá ngắn; nó chỉ tương tự với những câu ngắn nói về việc đổi tên ở Mt 10,2; Mc 3,16 và Lc 6,14, chứ không sánh được với bản văn Mt 16. Có thể nói kịch bản này là do tác giả TM IV sáng tác ra cho phù hợp với phần tường thuật của chương 1 của TM. Tuy nhiên, tác giả không suy diễn gì về việc đổi tên hay về ý nghĩa của tên mới cả. Ngài chỉ dịch tên Aram mới Kepha’ thành một tên Hy Lạp mới tương đương là “Phêrô” (Petros) thôi. Ngài cũng chẳng nói gì đến tảng đá, và càng không nói đến Hội Thánh xây trên một tảng đá. Ngài cũng không có một suy tư gì về vai trò của Phêrô như người giữ cửa với quyền chìa khóa. Dù sao, đối với tác giả, tên mới này quan trọng, bởi vì ngài thường xuyên gắn nó vào tên Simôn (trừ hai lần chỉ có tên Simôn, tất nhiên: Ga 1,41.42, và vài lần chỉ có tên Phêrô: 1,44; 13,37; 18,11.16.17.18.26.27; 20,3.4; 21,7.17.20.21). Chúng ta sẽ có một dung mạo Simôn rõ ràng hơn khi đọc trọn TM IV.
+ Kết luận
Trong bài tường thuật này, có những yếu tố chính của một ơn gọi làm môn đệ: 1) gặp gỡ đích thân Đức Giêsu; 2) khám phá ra Đức Giêsu là một con người siêu phàm; 3) cuối cùng, thay đổi định mệnh. Cuộc đời mỗi người là một chuyến “đi tìm” Đức Giêsu, được Người dẫn dắt, rồi sau khi đã thực sự “tìm ra, tìm thấy” Người, thì đi giới thiệu cho người khác. Đấy là một chu kỳ giúp mọi người tin Đức Giêsu và được cứu độ.
5/ Gợi ý suy niệm
1/ Chúng ta nghĩ đến sự thẳng thắn và cương trực của Gioan Tiền Hô. Ông đã làm chứng về Đức Giêsu, đã giới thiệu Người là Đấng Mêsia. Sau đó, ông đã chứng kiến các môn đệ rời bỏ ông mà đi theo Đức Giêsu: điều ông nói đang được thể hiện, “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30). Báo trước những thất thế của mình đã là khó, nhưng vẫn còn dễ hơn là bình thản sống những thất thế đó khi chúng xảy đến. Gioan biết mình là ai và đã can đảm sống sứ mạng cho đến cùng.
2/ Lời mời gọi và lời hứa của Đức Giêsu hết sức quan trọng: “Hãy đến và các anh sẽ thấy!”. Tất cả mọi chuyện đều nhắm đến cuộc gặp gỡ sống động và riêng tư. Đức Giêsu không giao cho những kẻ đi theo Người một quyển sách chứa đựng các giáo thuyết và điều luật phải học và phải tuân giữ, nhưng Người kêu gọi họ đi vào một tương quan riêng tư với Người, đi vào hiệp thông với Người. Phần họ, họ không được giữ một khoảng cách an toàn với Người để mà chỉ việc quan sát, nhưng phải dấn thân vào, phải đi với Người, phải đưa bước trên nẻo đường Người đi.
3/ Có những thành kiến nào có thể ngăn cản người ta nhận biết Đức Giêsu? Có điều gì đang ngăn cản tôi, về phương diện trí thức hoặc tình cảm, khiến tôi không nhận ra Người là Con Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa? Lâu nay tôi tự hào là mình đi theo Đức Giêsu, mình là môn đệ của Người, thật ra quan hệ của tôi với Người có thật sự sống động không? Nếu không, vì sao? Dường như tôi chưa thật sự “đến” với Người, nên cũng chưa thật sự “thấy” được điều Người muốn mạc khải cho?
4/ Anrê không gặp Simôn Phêrô tình cờ, nhưng đã chủ ý đi tìm ông này, để đưa ông tham dự vào kinh nghiệm mới mẻ và lạ lùng của ông: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”. Anrê không chỉ giới hạn vào việc làm chứng, ông còn dẫn Simôn đến gặp Đức Giêsu. Có vô số nẻo đường cụ thể đưa người ta đến với Đức Giêsu: tôi nghĩ đến những nẻo đường đã đưa tôi đến với Người. Trên các nẻo đường này, có lời chứng và gương sáng của những người khác góp vào. Nhưng chắc chắn phần quan trọng vẫn là kinh nghiệm thiết thân tôi có về Đức Giêsu. Hôm nay, phải chăng tôi là một Anrê đưa được người khác đến với Đức Giêsu, không phải chỉ bằng lời nói suông, mà bằng chính kinh nghiệm sống tôi đã và vẫn đang có?
[1] Midrash: Một cách chú giải Kinh Thánh theo kiểu các kinh sư. Thường các kinh sư lấy các câu văn Cựu Ước rồi diễn dịch, và ghép vào bản dịch của mình những chi tiết mang tính huyền thoại hoặc tưởng tượng, để giáo dục dân chúng.
[2] X. MORGENTHALER, Statistik, 119, và R. E. BROWN, John I, 510. Các tác phẩm Tân Ước khác: TMNL: 12x [Mt 3x; Mc 2x; Lc 7x]; Cv: 13x; Phaolô: 17x (Rm 1x; 1 Cr 8x; 2 Cr 3x;Pl 1x; 1 Tm 1x; 2 Tm 3x); Dt: 6x; 1 Pr: 2x.
[3] Có thể đọc những gợi ý phong phú về ý nghĩa của menô trong LÊ MINH THÔNG, Tình yêu và tình bạn, 65-78.
Ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình…
Như ba Tin Mừng nhất lãm, Tin Mừng của Gioan mở đầu sứ vụ của Đức Giêsu bằng sứ vụ của Gioan Tẩy Giả trên bờ sông Giođan. Những, như những Thánh sử khác, và còn hơn thế, Gioan khởi đi từ sự kiện lịch sử này (xảy ra khoảng năm 27) để cho chúng ta một suy tư thần học (mà ngài có thời gian nghiền ngẫm đến chín muồi đến khoảng năm 95 lúc biên soạn).
Gioan không mô tả “phép rửa” của Đức Giêsu, ngài chỉ dùng một từ để gợi ra ý đó.” Gioan không nói rộng việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả kêu gọi hoán cải. Sau phần lời tựa (Ga 1,1-18) là một thứ thi ca về Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa, Gioan “xây dựng” một thứ “tuần lễ đầu tiên” của Đức Giêsu, nhắc lại tuần lễ cao trọng đầu tiên của việc Sáng Thế: ngày đầu tiên (Ga 1,19): chứng từ tiêu cực của Gioan Tẩy Giả: tôi không Phải là Đấng Kitô… nhưng kìa người đến ở giữa các ông”. ngày thứ hai (Ga 1,29): chứng từ tích cực của Gioan Tẩy Giả đây là một đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay. Ngày thứ ba (Ga 1,35): theo sự chỉ dần của Gioan Tẩy Giả, bốn môn đệ của ông đi theo Đức Giêsu. Ngày thứ tư (Ga 1,43): ơn gọi của Philípphê. Và của Na-tha-na-en. Ngày thứ bảy (Ga 2,1): “Ba ngày sau những cảnh diễn ra ở bờ ông Giođan gần với Gioan Tẩy Giả, có tiệc cưới ở Cana miền Galilê và Mẹ Đức Giêsu cũng ở đó, và Đức Giêsu cũng được mời các môn đệ” “Dấu chỉ” đầu tiên!
Trong suốt tuần lễ khai mạc này, và chắc chắn không phải bởi sự ngẫu nhiên, Gioan tích lũy những “tước hiệu” thần học mà những Tin Mừng khác tiết lộ tuần tự sau này.
Qua lởi tựa, Gioan đã tức khắc kéo chúng ta lên đỉnh cao. Đức Giêsu là “Ngôi Lời đã trở thành người phàm” (Ga 1,1-2-14) “Ánh sáng của thế gian” (Ga 1,4-9) “Con Một của Thiên Chúa Cha mà không một ai đã thấy bao giờ” (Ga 1,14-18) “Chiên Thiên Chúa” (Ga 1,29-36) “Đấng có trước” (Ga 1,15-30) “Con của Thiên Chúa có Thần Khí từ trời xuống và ngự trên Người” (Ga 1, 32.33.34) “Thầy hay Rápbi” (Gioan 1,38-49) “Đấng Mêsia hay Kitô” (Ga 1,41) “Đức Giêsu Nagiarét con ông Giuse” (Ga 1,45) “Đấng mà Luật pháp vàcác Ngôn sứ đã nói” (Ga 1,45) “Con Thiên Chúa và Vua Israel” (Ga 1,49); và sau hết là Con Người (Ga 1,51). Bản văn rữc rỡ này, hoàn toàn đốt mọi giai đoạn mà các môn đệ phải từ từ khám phá ra căn tính của Đức Giêsu; nó báo cho chúng ta biết rằng chúng ta không thể giữ mãi một cách đọc và lý giải nông cạn và có tính giai thoại.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con vượt qua những vẻ bề ngoài. Biết bao lần, chúng ta không biết nhìn những người sống với chúng ta, và khư khư với những sự đánh giá mặt ngoài.
Rất nhiều người vào thời Đức Giêsu. đã không hiểu Người là ai. Vậy chúng ta hãy lắng nghe những chứng từ của Gioan Tẩy Giả kèm theo một loại “phát xạ” bổ sung mà Gioan nhà thần học và là chứng nhân đã đưa vào bằng sự suy niệm lâu dài của ngài. Bởi vì lúc đó, Gioan Thánh sử cũng có mặt trên bờ sông Giođan ấy.
Ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”.
“Đây là” không chỉ là môt tiếng bình thường, một từ dùng để chỉ. Từ gốc Do Thái ” in neh” hoặc “zeh” là một từ ngữ Kinh Thánh rất thường gặp để chỉ “một mặc khải”, bắt người ta phải tin: Chúng ta không trông mong gì, nhưng rồi đây là “Này (Đây là) trinh nữ sẽ thụ thai” (Is 7,14). “Đây là Môsê, chúng ta không biết điều đã xảy đến với ông” (Xh 32,1). “Đây là người sẽ nắm quyền trên dân Ta” (1 Sm 9,17).
“Chiên Thiên Chúa” “Đấng xóa bỏ tội trần gian”
“Chiên”! “Tội”! Hai tiếng ấy không đi vào trong những phạm trù trí tuệ của con người hiện đại hậu công nghiệp. Những từ mà chúng ta lặp lại và ca hát nhiều lần ở mỗi thánh lễ. Tuy nhiên, đó là những từ “phát xạ” nếu như chúng ta biết nhận ra sự tỏa sáng của chúng. Những từ dùng để tuyên xưng đức tin của các cộng đoàn đầu tiên.
Những từ chứa đựng cả một nền thần học cả một quan điểm về lịch sử và về con người. Những từ mà người ta không thể chỉ lấy ý nghĩa ngây thơ của chúng: sự hiền lành, yếu đuối và âu yếm của con chiên nhỏ. Những từ ấy chỉ có thể hiểu được trong sự sâu sắc của Kinh Thánh, bằng việc chấp nhận nền văn hóa mà những từ ấy chuyển chở. Chúng ta hãy thử để cho mình được “chiếu xạ” bởi sức chứa nóng bỏng của chúng, nhưng vẫn luôn ở trong hiện tại.
Đối với các thính giả Do Thái, sự ám chỉ về “chiên” xuất hiện rõ ràng ở đền thờ Giêrusalem, mỗi ngày, người ta hiến sinh một con chiên để thanh tẩy tội lỗi của dân. Với máu của một con chiên vượt qua bị cắt cổ vào mùa xuân khi sự sống hồi sinh sau mùa đông, người ta bôi máu đó lên cửa nhà; để nhớ lại kỷ niệm bồn chồn của ngày giải phóng khỏi sự áp bức của Ai Cập (Xh 12). Theo sau Giêrêmi, các ngôn sứ đã so sánh Israel bị lưu đầy với chiên con vô tội để người ta đem đi sát tế mà không mở miệng nói một lời nào (Is 53,7; Gr 11,19). Các giáo trưởng đã giới thiệu Đấng Mêsia sẽ đến như một con cừu đực vinh quang, với cặp sừng mạnh mẽ, sẽ quật ngã những kẻ thù của Thiên Chúa. Phải chăng chúng ta không còn có những chuồng chiên dịu dàng. Chúng ta bị chìm ngập trong tính thời sự khắp nơi. Bạo lực, đàn áp đủ loại. Mọi thời đại và thời đại của chúng ta cũng thế, niềm hy vọng giải phóng luôn chỗi dậy: NGÀY HÔM NAY. Khoa học tiến bộ kỹ thuật, những cuộc đấu tranh xã hội và chính trị được đẩy tới mức huyền thoại hóa những lãnh tụ đấu tranh thành những người cứu độ. Than ôi! Những cuộc cách mạng, khi đã hoàn thành thường chỉ là đổi chỗ những bất công và những sự chuyên chế áp bức. Và con người vẫn còn mãi đói khát một sự giải phóng, một sự cứu độ triệt để.
“Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Cơ cấu áp bức bên ngoài chỉ là sự biểu hiện một sức mạnh khác ở nội tâm: cái xấu, ác ở bên trong; trong tôi, trong bạn, trong họ. Tôi ở đây là danh từ dùng ở số ít, không phải là chuyện nhỏ mà phải hiểu là toàn thể! Đức Giêsu sẽ gánh lấy, và làm biến mất toàn thể tội lỗi của thế gian trong một cuộc chiến đấu đẫm máu, Người sẽ đổ hết máu mình làm vật hiến tế trước những tay đao phủ. Đức Giêsu, Cứu Chúa của chúng ta! Đấng cất bỏ tội lỗi. Ơ đây Thánh Gioan dùng một từ ngữ Hy Lạp có nghĩa kép mà thánh sử thích dùng cả hai: “airein”, vừa có nghĩa “gánh vác, lãnh nhận” vừa có nghĩa “cất đi, lấy đi làm biến mất” Đức Giêsu không phát triển công cuộc giải phóng bằng cuộc chiến đấu bên ngoài theo kiểu “đội đặc công” trả đũa áp bức bằng bạo lực; nhưng bằng cách lãnh nhận trên chính người, bằng cách chịu đựng trong sự liên đới với mọi người bị áp bức của thế giới.
Bạn hỡi! khi bạn hát đến những lời này trong thánh lễ, bạn hãy để cho những lời ấy làm bạn tỏa sáng, mà chớ dừng lại ở bề mặt các từ ngữ và cử chỉ. Đồng thời, nếu bạn làm một cử chỉ chúc bình an hãy nghĩ đến sự súc tích của cử chỉ ấy: Sự hòa giải chân thật, tình huynh đệ chân thật tình yêu thương chân thật với người đối diện. Mọi nỗ lực hiểu biết người khác không ở trong tầm tay của bạn, dù khi bạn luôn giơ tay mình ra. Đó là một ơn mà bạn phải nhận từ Thiên Chúa và mọi nỗ lực của bạn tuy cần thiết cũng không thể kiến tạo sự hiểu biết ấy. Bạn hãy mở bàn tay bạn ra. Bạn hãy nhận lấy Mình Chúa bi nộp vì bạn. Bạn hãy tiếp nhận Golgotha vào lòng bạn.
Chính Người là Đấng mà tôi đã nói tới khi bảo rằng: “Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi. Tôi đã không biết Người. Nhưng để Người được tỏ ra cho dân Israel. tôi đến để làm phép rửa trong nước”.
Về mặt lịch sử và con người, Gioan Tẩy Giả đã được thụ thai và sinh ra trước Đức Giêsu. Nhưng phải vượt qua những vẻ bề ngoài, những sự hiển nhiên duy lý. Đức Giêsu đến từ nơi khác. Nếu Người có thể “cứu chúng ta một cách triệt để, bởi vì Người hơn một con người. Lấy lại sự suy niệm của lời tựa, Gioan nói lại với chúng ta sự có trước của Ngôi Lời. “Nhờ Người, vạn vật được tạo thành”, được Chúa Cha sinh ra từ thuở đời đời. Đức Giêsu thực hiện lại hành động Sáng Thế. Vũ trụ, bị tội lỗi làm hư hỏng, bị bao lực làm tổn thương, bị sự không có tình yêu làm cho nhiễm độc; sẽ được “tái tạo” toàn bộ, từ đầu đến cuối: Đó là “tuần lễ đầu tiên” của sự canh tân. “Tôi đã không biết Người” Gioan Tẩy Giả nói. Tuy nhiên đó là em họ của ông. Chúng ta không biết Đức Giêsu chừng nào chúng ta vẫn còn ở lại trên bình diện con người.
Ông Gioan còn làm chứng: tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuồng và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”.
Đàng sau vẻ bề ngoài tầm thường của con người Nagiarét, Cả một mầu nhiệm được che giấu. Người được xức dầu, thánh hiến, được thấm nhuần. Thần Khí của Thiên Chúa xuống trên Người và ở lại trong Người! Sự hiện diện không ai biết. được che giấu. Tôi đã không biết Người. “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng đón nhận” (Ga 1,5-10). Đôi khi chúng ta thường nghĩ rằng mình biết Đức Giêsu, thật ra chúng ta không bao giờ hết chấm phá ra Người. Chúng ta phải hoàn toàn nhỏ bé, nghèo khó, hoàn toàn mở ra cho sự mạc khải.
Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.
Một vài thủ bản cho bản văn mà các nhà chú giải thấy đúng hơn và bản dịch tiếng Việt theo bản văn đó: “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” thay vì “Con Thiên Chúa”. Cách diễn tả này tương đương với “Người yêu dấu” “Con yêu dấu” “Con Một”; ám chỉ đến các bài thơ của Người Tôi Tớ mà chúng ta đọc hôm nay và Chúa nhật vừa qua trong bài đọc một (Is 42,1 – 49,5).
Bạn hỡi, vào lúc mà con yêu dấu bắt tay thực hiện một sự sáng thế mới, giải thoát mọi người khỏi tội lỗi đã bắt sự sáng thế đầu tiên phải hàng phục, lúc ấy bạn sẽ để cho mình được tái tạo. Phải chăng bạn sẽ chấp nhận Đức Kitô tái tạo bạn. Bạn sẽ chấp nhận phép rửa và sự nhúng chìm mình trong Chúa Thánh Thần, bạn sẽ để mình đổi mới từ bên trong; bạn sẽ để mình được nhân bản hóa đến cùng trong sự “tham dự vào bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). Ngày nay, hai thanh niên gặp nhau đó là Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu. Một thế giới mới bắt đầu; một thế giới của tình yêu thương.
ĐÂY LÀ CHIÊN THIÊN CHÚA
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Gioan giới thiệu Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa.
Trong một bối cảnh thù nghịch cuộc vận động của các thầy cả, thầy lêvi yêu cầu Gioan tự xác định vai trò trong cuộc chờ đợi Đấng Cứu Thế: “ông là ai”. Gioan Tẩy Giả đã trả lời trước hết bằng ba phủ định: ông không phải là Đấng Cứu Thế, không phải là Êlia, cũng không là một đại tiên tri. Rồi ông tuyên bố. “ở giữa anh”, “một người mà anh em không biết; chính Ngài đến sau tôi nhưng tôi không xứng đáng cởi dây giày cho người” (l,2-27).
Bây giờ, Gioan Phúc âm xác định là ngày hôm sau, đối diện với các môn đệ, sau khi nhóm người điều tra bỏ đi.
+ Gioan Tẩy Giả thấy Chúa Giêsu “tiến về phía Ngài”. Không phải là để xin rửa tội như ta tự nhiên nghĩ tới vì phép rửa đã xảy ra, nhưng để làm ứng nghiệm lời sấm của Isaia 40,10 “Chúa đến”.
+ Cũng trong chiều hướng làm ứng nghiệm lời tiên tri Isaia 40,2 đã loan báo cho Israel biết rằng “tội lỗi họ đã được tha thứ”, Gioan tuyên bố: “Đây là hiểu ngầm một lời mời hãy nhận xem chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội tràn gian. Một nhận dạng mà ta sẽ gặp lại ở chương 1,36.
Sự đối chiếu với Chiên Thiên Chúa có thể có 3 nền tảng trong Cựu ước. Hoặc con chiên của Israel 53,7: “Như con chiên bị đưa đến lò bát tế, như cừu đến trước mặt kẻ xén lông… Trong trường hợp này, thánh sử Gioan đã thấy nơi Đức Giêsu khuôn mặt của Người Tôi Tớ đau khổ gánh lấy tội lỗi thế giới. Nhưng cũng nên biết rằng cùng một từ ngữ Aram ấy có thể có 3 nghĩa: “trẻ em”, “tôi tớ” hoặc “con chiên”. Hoặc con chiên bị sát tế và đứng trong sách Khải Huyền, có thể thắng vượt tội lỗi và sự chết, là Đức Kitô phục sinh (Kh 5,6; 14,10; l.7,14). Hoặc con chiên vượt qua. Thực vậy, theo Gioan 19,14, Đức Giêsu bị kết án vào giờ mà các thầy cả bắt đầu sát tế chiên để mừng lễ Vượt qua. A. Marchadour nhận định: “Một tước hiệu như thế có thể có 3 ý nghĩa. Một độc giả không am hiểu bối cảnh Kinh Thánh của từ ngữ sẽ ghi nhận rằng có 2 so sánh vay mượn. Ở thế gian động vât: con chiên Thiên Chúa và chim bồ câu từ trời xuống. Hai hình ảnh của sự bất bạo động này rất thích hợp với bản chất của Đức Giêsu và với công cuộc nối kết với thế giới của Thiên Chúa”. Và làm chứng: “Chính Ngài là Con Thiên Chúa”. Rồi, khi gợi lại phép rửa ở sông Giođan, Gioan Baotixita, người đã loan báo trước về Đấng Messia mà không biết (“Tôi không biết Ngài câu 31 và 33), đã làm chứng: “người đã thấy Ngài quả quyết 2 lần như vậy (câu 32 và 34): “Mọi người sẽ nhìn thấy vinh quang của Chúa và ơn cứu độ Nơi Đức Giêsu, trên Ngài Gioan đã nhìn thấy “Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống từ trời và đậu lại”, Thiên Chúa đã mạc khải cho ông biết đó là Con Thiên Chúa…X lon Dufour nhận xét: “Sự chứng nhận này hiển nhiên phù hợp với lời tuyên bố của Thiên Chúa khi Đức Giêsu chịu phép rữa: Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người (Mt 3,17). Nhưng đây không phải là tiếng nói từ trời cao. Đó là tiếng nói của người phàm, Gioan Tiền hô đã nói.
Trong tước hiệu “Con Thiên Chúa” độc giả Kitô hữu tìm ra ý nghĩa vượt quá lời tuyên xưng về Đấng Messia, tước hiệu ấy nối kết với tước hiệu “Con duy nhất” đã được nhấn mạnh ở phần nhập đề. Đó chính là ý nghĩa mà bản văn này nhẩm tới, vì Phúc âm đã viết “để anh em tin rằng Đức Giêsu, Đấng Messia là con Thiên Chúa (20,31).
BÀI ĐỌC THÊM:
(Mgr. L. Daloz, “Nous avons vu ta gloire”, DDB).
Nơi ngọn nguồn của việc tỏ mình ra của Đức Giêsu, chứng từ của Chúa Cha: “Đấng mà trên Người ngươi sẽ thấy. Thần Linh xuống và ở lại, chính người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần”. Ta chỉ nhận biết Đức Giêsu sau lời mạc khải của Chúa Cha. Đức Giêsu thường nhắc lại: “Ai nghe lời Cha và đón nhận thì đến với Ta” (6,45). Và chính Thánh Thần do Chúa Cha sai đến đã chỉ cho Gioan Tẩy Giả biết Đức Giêsu. Nhờ ông, ta đi vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Ta chỉ nhận biết Đức Giêsu khi Thánh Thần Thiên Chúa đến mở mắt và chỉ cho ta thấy. Nếu không có Thánh Thần, không có lời chứng của các chứng nhân, ta sẽ không nhận biết Người. Người đâu phải là đối tượng của khoa học nhân văn mà ta có thể nhận dạng nhờ việc nghiên cứu và suy gẫm. Người là ngôi vị Con Thiên Chúa mà ta chỉ nhận biết được khi chính Thiên Chúa tỏ ra cho ta. Người là đối tượng của một chứng từ, không ai có thể nhận biết Người nếu họ không có trái tim rộng mở đón nhạn những dấu chỉ của Chúa Thánh Thần.
(H. Denis, 100 mots pour dire la foi. DDB).
Hằng bao lần ta đã chẳng đọc và nghe: Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian sao? Thư thánh Phêrô sử dụng một đề tài Kinh Thánh cổ xưa như chuyện phiêu lưu của Môsê bên Ai Cập, tôi muốn cùng các bạn đi lại con đường của Con Chiên Thiên Chúa, Người đi từ sự báo oán giải phóng đến sự bất bạo động hoà bình.
Con đường ấy khởi đi từ một lịch sử đẫm máu. Dân Thiên Chúa được cứu khỏi Ai Cập nhờ máu Con Chiên. Con Chiên sẽ trở nên biểu tượng của công cuộc giải phóng Israel. Vì, ta đừng quên điều này, cuộc gặp gỡ của Môsê ở bụi gai cháy đỏ không, phải là một câu chuyện thần bí phóng đại hoặc truyện trẻ em ham thấy Chúa Mẹ hiện ra. Không, Môsê đã giết ngọt một tên Ai-cập đáng ngờ và Thiên Chúa của ông, dù chưa rõ tên Ngài, đã hứa nghe thấy dân Ngài đang bị nô lệ kêu xin. Như thế Con Chiên thuộc về phía cánh tay báo oán của Thiên Chúa, cùng với tất cả sức mạnh của Người. Nhưng chẳng bao lâu, đặc biệt với các ngôn sứ (Is 53, Gr 11…) Con Chiên này sẽ trở nên kiểu mẫu của những ai chết cho dân Người, như con cừu câm rùn bị dẫn tới lò sát sinh…
Thiên Chúa rời bỏ ngai Đấng toàn Năng. Ta nói rằng Người đứng về phía Con Chiên chịu đau khổ. Như thể thời gian dần dần chín mùi để đón nhận một Đức Giêsu nào đó, được Gioan tuyên xưng là Đấng xoá tội trần gian, còn thư Phêrô thì nhận là Con Chiên không khiếm khuyết, không tì vết, giải thoát ta khỏi cuộc sống không mục đích như là chiên vất vưởng lầm lạc. Nhưng sự đảo ngược hình ảnh chưa hoàn toàn. Cuộc giải phóng bằng việc báo oán của Thiên Chúa chưa chuyển hoá thành lễ dâng của một vát hy sinh tự nguyện và tự hạ. Thật vậy, Con Chiên phải mặc lấy những màu sắc và những hình thức của Sự Sống thực sự và của Vương triều thiên quốc. Đó chính là Con Chiên của sách Khải Huyền, hiện diện trong biết bao trang sách khi thời gian viên mãn. Điều đó nhắc tôi nhớ tới một bức bích hoạ rất đẹp và rất cổ xưa ở vùng ngoại ô Lyon, trong đó ta thấy Đức Kitô vinh hiển dưới hình Con Chiên mặt người. Đó là cuộc khải hoàn của niềm bình an, sức mạnh của sự bất bao động của Thiên Chúa. Vâng, chỉ Con Chiên mới có thể ban sự Bình An của lễ Phục Sinh, niềm bình an được hứa ban cho thế giới đã được giải phóng. Xin ban bình an cho chúng con.
CHIÊN THIÊN CHÚA
CÂU HỎI GỢI Ý
1) Đâu là cơ cấu của đoạn văn này?
2) Gioan Tẩy Giả “đã không biết” (cc. 31-33) Chúa Giêsu theo nghĩa nào? Ông chẳng phải là anh họ của Người sao?
3) Đâu là mối liên lạc giữa thị kiến khả giác và chứng từ của Gioan Tẩy Giả?
4) Về việc thị kiến Thần khí, có sự khác biệt nào giữa Tin Mừng thứ tư và Tin Mừng Nhất Lãm?
5) Trong thị kiến ấy, con chim câu có nghĩa gì?
6) Trong quan điểm của Gioan, đâu là ý nghĩa của phép thanh tẩy bằng Thánh Thần, vốn là phép phân biệt và xác định nhân vật lịch sử Giêsu?
7) Trong câu 34, giữa hai dị bản “Con Thiên Chúa” và “Tuyển nhân của Thiên Chúa”, nên chọn dị bản nào hơn?
8) Thành ngữ “Chiên Thiên Chúa” (c. 29) quy chiếu về cái gì?
9) Đâu là ý nghĩa của biến cố này?
*******
1) Đoạn văn ta đang nghiên cứu là thành phần của một bản văn dài (1, 19-51) phân chia chứng từ của Gioan Tẩy Giả về Chúa Giêsu ra làm hai ngày:
– 1, 19-28: chứng từ gián tiếp và có tính cách tiêu cực.
– 1, 29-34: chứng từ trực tiếp và tích cực.
Hai ngày ấy được tiếp nối bằng hai ngày khác, tường thuật việc các môn đồ đầu tiên đến cùng Chúa Giêsu:
– 1, 35-42: Anrê, người môn đồ vô danh, Simon con Gioan.
– 1, 43-51: Philipphê, Nathanael.
Trong cơ cấu của toàn bộ này, C.H.Dodd (Historical Tradition in the Fourth Gospel, Cambridge, 1963, tr. 248tt) tìm ra được một lược đồ tam phần (schéma tripartite) chung cho 4 đoạn nói về Gioan Tẩy Giả trong Tin mừng thứ tư (1, 6-8; 1, 19-34; 3, 22-30; 10, 41-42). Mỗi lần như vậy, người ta nói:
1/ Gioan không phải là: ánh sáng (1,8), Messia (1,20; 3,28); ông không làm “dấu chỉ” nào (10,41).
2/ Ông là: chứng nhân của ánh sáng (1,7), của Đấng Messia (1, 29-34 và 3, 27-30), của Chúa Giêsu (10, 41).
3/ Ông làm công việc: dẫn thiên hạ tin vào Chúa Kitô và theo Người (1, 7.33-42, (3, 31-36); 10,42).
Chứng từ tích cực, đúng nghĩa của Gioan Tẩy Giả về Chúa Kitô chiếm vị trí chủ yếu trong cả bốn trường hợp. Đó là vì đối với thánh sử, Gioan tự bản chất là chứng nhân của Chúa Kitô: ông đã đến để làm chứng… để làm chứng cho sự sáng… (1,7). Ông đã làm chứng cho Sự thật… (5, 33). Đây đúng là nét chính yếu và riêng biệt của Tin Mừng thứ tư.
Chứng từ dài nhất của Gioan Tẩy Giả nằm ở 1,19-34. Đoạn này làm thành một khối biệt lập, được phân định rõ ràng bằng một kiểu đóng khung: công thức “Và đây là chứng của Gioan” (1,19) đối lại với công thức “Vì đã được xem thấy nên tôi xin đoan chứng: chính Người là Tuyển nhân của Thiên Chúa (hoặc Con Thiên Chúa)” (1,34). Như vậy chủ đề căn bản là chứng từ của Gioan Tẩy Giả về Chúa Giêsu.
Nhưng như ta đã thấy lúc nãy, đoạn chứng từ này phân thành hai ngày:
– Ngày đầu (1,19-28) được dành cho việc Gioan làm chứng (với tính cách chuẩn bị) trước mặt các sứ giả của Biệt phái về Đấng “xứng đáng hơn”, đã đến đây rồi, đang có mặt “giữa họ”, nhưng còn “ẩn danh” và “tới sau Gioan”. Chứng từ có vẻ tiêu cực theo nghĩa là Gioan tuyên bố mình không phải là: Messia, Con, Ngôn sứ; ông xóa mình trước “Đấng đến sau ông”.
– Ngày thứ hai (1, 29-34) dành cho chứng từ đích thực của Gioan Tẩy Giả về Chúa Giêsu và nhắm một đám đông vô giới hạn, tức là Israel và “thế gian” (1, 29-31), vì điều Thiên Chúa hoàn tất trong Israel thì nhắm tới toàn thể nhân loại.
2) Cơ cấu của 1, 29-34. Đoạn văn này, hình như thu thập và sắp xếp lại nhiều yếu tố có nguồn gốc khác nhau, được kết cấu theo lối nhị cú chuyển hoán (chiasme).
Tính cách nhất thống của toàn bộ được chỉ rõ qua kiểu đóng khung: “Chiên Thiên Chúa” (1, 29 – “Tuyển nhân của Thiên Chúa” (Con Thiên Chúa) (c.34). chóp đỉnh hay khúc ngoặt của bản văn nằm ở câu 32: “tôi đã trông thấy Thần khí đáp xuống và đã lưu lại trên Người”. Như vậy đoạn văn, qua cơ cấu của nó, đặt trọng tâm vào việc nhìn thấy Thần khí đáp xuống từ trời và lưu lại trên Chúa Giêsu, nền tảng và đối tượng đoan chứng của Gioan Tẩy Giả.
3) Việc Gioan hai lần quả quyết (cc. 31.33) mình không biết Chúa Giêsu đã đóng khung cho câu 32. Sự nhấn mạnh này rất có ý nghĩa: vị Tẩy giả không biết Đấng mà phép rửa bằng nước của ông đang, chuẩn bị, dọn đường cho. Để diễn đạt sự vô tri đó, thánh sử dùng động từ “oida”. I. de la Potterie đã xác định ý nghĩa của nó như sau: Động từ “oida” chỉ sự hiểu biết xét như đã thủ đắc, có tính cách chắc chắn tuyệt đối, trong lúc động từ “ginôskô ” chỉ quá trình thủ đắc tri thức.
Lúc thánh sử bảo rằng Gioan Tẩy Giả không biết Đấng đến sau ông, điều ấy chẳng có nghĩa: Chúa Giêsu đối với ông chỉ là một kẻ xa lạ, nhưng có nghĩa: ông không biết Người như là Messia, ông chưa có đầy đủ ánh sáng đức tin, chưa thấy trong Người vị Tuyển nhân của Thiên Chúa. Cha De la Potterie đã có lý khi nhấn mạnh đến mối tương quan giữa sự vô tri này của Gioan Tẩy Giả và sự vô tri của người Do thái ở 1,26. Trên điểm này, Gioan Tẩy Giả còn giống với người Do thái là những kẻ đã chẳng hề có ý niệm nào về lai lịch của Đấng đang ở giữa họ: chính cảnh mặc khải ở sông Giođan sẽ cho Gioan Tẩy Giả cái nhìn đức tin ấy.
Thành ra việc nhìn thấy Thần khí có hai mục đích: kéo Gioan Tẩy Giả ra khỏi sự vô tri của ông, đồng thời đặt ông vào trong ơn gọi thực sự; khi mặc khải cho ông thấy. Tuyển nhân của Thiên Chúa, thị kiến đó biến đổi ông từ kẻ làm phép rửa bằng nước thành chứng nhân của Thần khí, hay đúng hơn thành chứng nhân của Đấng có Thần khí lưu lại bên trên. Chính vì lý do đó mà ông, đã “đến” (c. 31). Phép rửa bằng nước chỉ là một giai đoạn chuẩn bị cho vai trò quan yếu đó vậy.
Về vấn đề này, ta có thể so sánh 1,31: ‘Tôi đã đến thanh tẩy trong nước” (thanh tẩy: hiện tại phân từ, chỉ một sự kiện đơn giản) với 1,7: “ông đã đến để làm chứng:… để làm chứng cho sự sáng” (mệnh đề chỉ mục đích) và với 1,31: tôi đã đến thanh tẩy bằng nước để Người được tỏ mình ra cho Israel”. Cái thị kiến kéo Gioan Tẩy Giả ra khỏi sự vô tri của ông chẳng những đã mặc khải cho ông sứ mệnh đích thật, mà còn cho ông đủ khả năng chu toàn nó.
4) Chứng từ của Gioan Tẩy Giả mở đầu bằng lời tuyên bố. “Tôi đã chiêm ngắm Thần khí (tetheamai)” nơi câu 32, và kết thúc với câu 34: “tôi đã xem thấy và tôi xin đoan chứng…” hay dịch cách khác: Vì đã xem thấy, nên tôi xin đoan chứng. Chứng từ như thể dựa trên một thị kiến vậy.
Mối liên hệ giữa chứng từ và thị kiến xuất hiện nhiều lần trong Tin mừng thứ tư: x. 3, 11.32; cũng xin xem 1 Ga 1,2 và 4, 14. Tuy nhiên phải phân biệt hai hành động. Chứng tá không giản lược thành một thị kiến khả giác, hoàn toàn có tính cách vật chất, ngoại trừ trường hợp Chúa Giêsu, Đấng mà chứng tá là mặc khải trực tiếp về những thực tại thiên giới. Trong trường hợp chứng nhân loài người, có một sự phân cách giữa đối tượng của thị kiến và đối tượng của chứng tá: biến cố người ta đã thấy cho biết một điều khác không trông thấy được, và chính thực tại dấu ẩn này là cái người ta sẽ làm chứng cho. Dầu sao, việc nhìn thấy bên ngoài vẫn quan trọng: vai trò của chứng nhân tận mắt không thể bị xem nhẹ. Tại sông Giođan, Gioan Tẩy Giả đã nhìn thấy một sự kiện bên ngoài: Thần khí đáp xuống và lưu lại trên Chúa Giêsu (1, 32); nhưng cái ông làm chứng, chính là thiên sai tính của Người.
Thiết tưởng nên nhấn mạnh đến vai trò, tầm quan trọng và bản chất của thị kiến khả giác. Việc nhìn thấy bên ngoài, điều kiện của chứng tá, tượng trưng cho một trong nhiều trường hợp mà một hạn từ của Gioan phải được hiểu vừa trên bình diện kinh nghiệm khả giác, vừa trên bình diện thực tại thiêng liêng. Thị kiến không còn là một cái nhìn nào đó, nhưng là cái nhìn dẫn đến đức tin, nhìn biến cố như là dấu chỉ. Kẻ đã thấy thì làm chứng cho ý nghĩa của biến cố mình mục kích. Có thể nói ông làm chứng cho ý nghĩa ấy xét như nó đã được ông nhìn thấy trong biến cố.
Ta nên chú ý đến việc nghiên cứu các động từ được thánh sử dùng trong đoạn văn này đây để chỉ cái nhìn. Nơi 1,29, ông sử dụng tiếng blepein: Gioan thấy (nhận thấy) Chúa Giêsu đang đến với mình. Động từ rõ ràng diễn tả tri giác bằng mắt.
Nơi câu 32 Gioan Tẩy Giả đoan chứng cho việc ông đã nhìn thấy “Thần khí đáp xuống trên Chúa Giêsu và lưu lại trên Người”. Động từ được dùng là theasthai ở thì quá khứ (“tetheamai”): nó mô tả thị kiến như một việc chiêm ngưỡng, theo dõi diễn tiến của biến cố để đi sâu vào ý nghĩa. Thành thử nó cho thấy có sự tiến triển trong tri giác. Bởi thế người ta đã dịch: “Tôi đã chiêm ngưỡng (đã trông thấy) Thần khí đáp xuống… và Ngài đã lưu lại trên Người”. Việc chuyển từ phân từ (“đáp xuống”) qua trực thuyết cách aoriste (indicatif aoriste) (“và Ngài đã lưu lại”) có tác dụng làm cho ta chứng kiến và như thể chiêm ngưỡng được chính diễn tiến của biến cố vậy.
Trong các câu 33-34 (có lẽ thuộc về một truyền thống khác) xuất hiện động từ horân. Trước tiên nó được dùng ở thì aoriste c.33) để chỉ việc loan báo cho Gioan Tẩy Giả hay rằng ông sẽ được nhìn thấy (tận mắt) cái dấu chỉ sẽ đưa ông đến chỗ nắm được một thực tại siêu việt nhờ sự soi sáng của Thiên Chúa: “Ai mà ngươi thấy Thần khí đáp xuống và lưu lại bên trên…”. Động từ cũng trở lại với trực thuyết cách quá khứ (indicatif parfait) (c.34) để chỉ chính tri giác ấy, cái tri giác mà lần này được thủ đắc và đào sâu đến độ nắm được thực tại trên. Trong thị kiến và nhờ thị kiến, Gioan Tẩy Giả được mặc khải cho biết tư cách thiên sai của Chúa Giêsu. Ông đã “thấy” và ông đoan chứng rằng “chính Người là Tuyển nhân của Thiên Chúa (Con Thiên Chúa)”. Động từ horân ở thì quá khứ (parfait) diễn tả cái nhìn đã hoàn toàn được đào sâu và làm cơ sở cho một chứng từ ‘bảo đảm và trường tồn từ nay (nghĩa của thì parfait trong Hy ngữ: heôraka hai memarturêka).
5) Đối tượng chủ yếu của thị kiến là Thần khí, như trong Nhất Lãm. Nơi Mt (3,16), Ngài được gọi là Thần khí Thiên Chúa (theo, không có mạo từ); nơi Lc (3,22), Thánh Thần; nơi Ga (1,32tt) như nơi Mc (1,10), Thần khí; nhưng nơi Gioan, nguồn gốc thiên giới (ex ouranou “từ trời” không có. mạo từ) cho thấy Ngài là Thần khí Thiên Chúa hay Thánh Thần.
Như Mt và Lc, Gioan nói rằng Thần khí xuống “trên Chúa Giêsu (epi; Mc dùng chữ “phía”, eis). Điểm đặc biệt của Gioan là sự kiện Thần khí “lưu lại” trên Người. Chi tiết này được đề cập hai lần (cc. 32.33) và được coi như thuộc thành phần dấu chỉ phân biệt Đấng mà Thần khí ngự lên trên.
Các nhà chú giải hầu hết đều cho đó là một quy chiếu mặc nhiên về sấm ngôn Is 11,2: “Một chồi sẽ xuất từ gốc Giessê và từ rễ nó, lộc sẽ mọc lên: trên Người Thần khí Giavê sẽ đậu xuống…”. Vẫn biết bản Hy lạp (LXX) của Isaia không sử dụng động từ menein lưu lại) nhưng dịch là anapausetai, Gioan vẫn chọn động từ menein vì đó là một tiếng thần học chuyên môn của ông. Như việc Thần khí đậu trên chồi nhà Đavít trong Is 11,2 việc Thần khí lưu lại trên Chúa Giêsu trong Ga 1,32-33 là một dấu chỉ, ban cho Gioan Tẩy Giả, nói lên mối tương quan thường xuyên, thân thiết và hoàn hảo giữa Thần khí Thiên Chúa và Chúa Giêsu. Cùng với Y.Godet, ta có thể coi việc sử dụng chữ “epi” với accusatif sau động từ “lưu lại “, một động từ tự bản chất ở thể tĩnh, như là thành ngữ diễn tả tính cách sống động của mối tương quan ấy.
6) Thần khí đáp xuống “… như một chim câu (đến) từ trời” (1,32). Chi tiết này cũng gặp thấy trong Tin mừng Nhất Lãm. Nó được mở đầu bằng chữ hôi (hôsei, nơi một, nhấn mạnh sự so sánh). Lc nói rõ là Thần khí ngự xuống dưới hình dạng thể xác, (somatikô eidei).
Về ý nghĩa chim câu, có nhiều lập trường khác biệt. Theo J.Jeremias the Theology of the New Testament, London, SCM Press, 1971, t.I. tr. 52), lối so sánh Thần khí với chim câu hoàn toàn vắng bóng trong Do thái giáo cổ. Và ông bảo, điều đó giải thích tại sao người ta đã đi tìm những điểm song song – có lúc thật kỳ lạ – trong lịch sử các tôn giáo. Nhưng, vẫn theo Jeremias, tất cả mọi dự tính đó đều phát xuất từ một thiên kiến sai lầm cho rằng trong trình thuật Tin Mừng nguyên thủy, Thần khí thực sự được tượng trưng bằng một con chim câu. Theo ý ông, đầu tiên (Mc 1,10) chỉ có vấn đề so sánh, tương tự như lối so sánh mồ hôi của Chúa Kitô trong cơn hấp hối với “những giọt máu nặng hạt” (Lc 22,44). Ông bảo điều này không có nghĩa là mồ hôi của Chúa Kitô đã biến thành máu, nhưng có nghĩa là cơn phiền não của Người dữ dội đến nỗi mồ hôi từ thân Người toát ra nhiều như máu chảy. Cũng vậy, Jeremias còn viết, kiểu nói “như một chim câu” chẳng có ý bảo rằng Thần khí hiện ra dưới hình dáng một con chim câu, nhưng là Ngài đáp xuống trên Chúa Giêsu với tiếng rung nhẹ của con chim đó. Jeremias nghĩ rằng hình ảnh đã dần dần bị vật chất hóa khi người ta biên soạn các Tin Mừng; và quá trình vật chất hóa hình ảnh này xuất hiện trong bản văn Lc (22, 44), do ảnh hưởng của môi trường Hy Lạp.
Lập luận của Jeremias bảo rằng trong truyền thống Do thái hoàn toàn vắng bóng lối biểu tượng chim câu-Thần khí xem ra khó bác bỏ. Và đấy chính là cái giảm giá trị lối giải thích dựa trên St 1,2 cho rằng chim câu trong phép rửa của Chúa Giêsu tượng trưng Thánh Thần – vì trong bản văn này quả có hình ảnh ‘Thần khí bay là đà’ (trên nước) như một con chim, ít là theo một lối giải thích tàm tạm, nhưng không gì cho thấy con vật đó là một chim câu (chỉ có một bản văn của các giáo sĩ hiểu theo nghĩa ấy – x.strack-billebeck, I, 312) – hoặc dựa trên St 8,8 là bản văn thường được viện dẫn để bênh vực cho lập trường. Bản văn này quả có nói tới một con chim câu, nhưng chẳng có gì cho thấy chim câu ấy chỉ Thần khí. Tuy nhiên lối giải thích do Jeremias đề ra không nhất thiết bó buộc phải theo.
Thực vậy trong truyền thống Do thái có biểu tượng về chim câu. Nó không liên hệ tới Thần khí nhưng tới Israel, đặc biệt là Israel bị lưu đày đang khao khát hồi hương và cầu xin Thiên Chúa trợ giúp. Biểu tượng ấy thường gặp trong Cựu ước (Hs 7, 11; 11,11; Is 60,8; Tv 55,7-8; 68,13; 74,19; Dc 1,15; 2,14; 5,2; 6, 8) và trở lại trong các ngụy thư hay văn chương giáo sĩ (Strack-bill. I, 123tt).
Trong Thánh vịnh 56,1, bản Massorètes viết: “theo cung điệu chim câu của các thần xa lạ” (BJ). Thế nhưng bản Hy lạp lại dịch là: “Theo cung điệu dân lưu đày của các thánh nhân Ngài” (huper tou la ou apo tôn agiôn memakrummenou) và bản Targum: “Ad laudandum pro ecclecia quan similatur columbae silentii, in tempore queo elongati suos a civitatibus sui…”
Trong sách Êdơra thứ tư (5,23-27), ta đọc đọc bài thơ nhỏ sau đây:
“Giữa muôn chim trong tạo vật Ngài đã gọi một chim câu,
Giữa muôn thú trong tạo thành Ngài đã yêu một cừu cái,
Giữa muôn dân thuộc mọi chủng tộc Ngài đã chọn một dân
riêng,
Giữa muôn nước trong vũ hoàn Ngài đã giữ lấy một gia sản”.
Theo E.R. Goodenough (Jewish Symbols in the Grece-Roman Penod, t.8, New-haven, 1956, tr.42tt), trong truyền thống Do thái, Israel thường được tượng trưng bằng một con chim câu. Tác giả này tham chiếu sách Edơra thứ 4, Pseudo-Philon, Targum Esther v.v… Nhưng ông thêm: chim câu chỉ Israel mà đôi cánh là việc thực thi Lề luật, thế nên hình các con chim câu khắc trên tráp đựng Ngũ kinh có lẽ vừa biểu hiệu đặc tính đồ vật được cất giữ, vừa tượng trưng Israel trên tráp Lề luật”. Xa hơn, ông còn viết: “Theo giả thuyết tự nhiên nhất, chúng tôi có khuynh hướng nghĩ rằng hình chim câu khắc trên mộ và trong các hội đường Do thái tượng trưng cho Israel, dân ưu ái của Thiên Chúa, hay cá nhân người Israel, hoặc tượng trưng cho ơn cứu rỗi vì tình yêu và sự bất tử mà Thiên Chúa ban cho người tín hữu, kẻ trung thành”.
7) Đi từ sự kiện đó, A.Feuiliet ngh rằng chim câu đáp xuống và lưu lại trên Chúa Giêsu tượng trưng và tiên trưng kết quả chính yếu của việc tuôn đổ Thần khí, tức là việc thiết lập Israel mới, thiết lập cộng đoàn hoàn hảo của thời ân sủng. Thành ra cái được biểu hiệu không trực tiếp là Thần khí, nhưng là hậu quả của việc Ngài hiện diện trong Chúa Giêsu, hậu quả cho dân Thiên Chúa. Như vào ngày Hiện xuống, các lưỡi lửa không trực tiếp tượng trưng Thần khí, nhưng tượng trưng các ngôn ngữ mà 12 sứ đồ sắp bắt đầu nói ra dưới ơn linh ứng của Ngài, và, sâu xa hơn, tượng trưng việc Phúc âm hóa vũ trụ; thì cũng vậy, chim câu trong phép rửa có ý chỉ điều này là dân thiên sai phải xuất phát từ trong con người Chúa Giêsu Messia, vua và tôi tớ của Giavê.
Kiểu nói: “Chính Người là Đấng thanh tẩy trong Thánh Thần” (c. 33b) giúp chú giải thị kiến; nó giải thích cho Israel hiểu con người Chúa Giêsu, con người mà trên đó Thần khí đã đáp xuống và dừng lại.
Công thức “thanh tẩy trong Thánh Thần” của Gioan có nhiều tiếng song song trong Nhất Lãm và trong Công Vụ, nhưng vẫn rất khác biệt. Nơi Mt (3,11) và Lc (3,16), việc loan báo phép rửa trong Thánh Thần được nối kết với hình ảnh lửa, và cả hai đều liên hệ với lời loan báo việc giá lâm gần kề của “kẻ mạnh hơn”, tức là của Đức Messia, Đấng đến thực thi cuộc phán xét sau cùng. Trong viễn tượng ấy, Thần khí, được liên kết chặt chẽ với lửa, chỉ sức mạnh thần linh, hơi thở vũ bão sẽ hoàn thành cuộc xét xử đó (x.Ts 4,4tt; Hênoc 62,2). Trong nghĩa này, không phải Thánh Thần, mà Gioan Tẩy Giả loan báo là sẽ được Đấng Messia tuôn đổ, nhưng chính là hơi thở mạnh mẽ sẽ tiêu diệt ác nhân Is 11 đã đề cập tới (Is 11,4).
Tuy nhiên, công cuộc ấy cũng là công cuộc ân sủng. Nó nhằm mục đích thiết lập dân cánh chung, tinh tuyền và thánh thiện của Thiên Chúa. Chính khía cạnh này đã được giữ lại có lẽ bởi Mc (1,8) là người không đề cập tới lửa, và bởi Luca (Cv 15) là người dời câu nói (“thanh tẩy bằng Thánh Thần”) vào lễ Ngũ Tuần.
Tin Mừng thứ tư nằm trong cùng chiều hướng ấy. Nhưng điểm đặc biệt của nó vẫn luôn là việc làm nổi bật con người Chúa Giêsu, bằng hai cách:
1) Cắt ngang câu nói: “Phần tôi, tôi thanh tẩy bằng nước” đặt ở 1,26, nhưng phản đề chỉ được đưa ra ở 1,31.33, nơi không còn đối nghịch giữa hai phép rửa cho bằng hai nhân vật: Gioan-Giêsu;
2) Dùng hiện tại phân từ với định quán từ, để chỉ một chúc vụ kéo dài và đặc trưng hơn là một hành động chốc lát: chính Người là Đấng thanh tẩy (sát chữ: “là Tẩy giả”) trong Thánh Thần” (1, 33b).
Thành ra có sự đối lập giữa hai nhân vật trong vai trò lịch sử hơn là đối lập giữa hai phép rửa: Gioan Tẩy Giả với vai trò chứng nhân và Chúa Giêsu với vai trò thanh tẩy trong Thánh Thần.
Trong viễn tượng Gioan, phép rửa trong Thánh Thần, phép rửa phân biệt và xác định nhân vật lịch sử Giêsu, ám chỉ cái gì? Trước tiên nên để ý rằng không có mạo từ trước chữ “Thánh Thần”. Điều đó nhắm mục đích quy hướng sự chú ý chẳng phải trên bản thân của Thánh Thần, nhưng là trên hành động, trên luồng sinh khí của Ngài. Nên có lẽ phải dịch: “trong quyền năng của Thánh Thần”. Chúa Giêsu sẽ thanh tẩy trong quyền năng của Thánh Thần vậy.
Đúng ra danh xưng ấy liên hệ đến điều gì? Khó mà xác định ngay được. Nhưng phần tiếp theo của Tin Mừng, với các hình ảnh và công thức khác nhau, sẽ dần dần cho thấy điều đó. Tuy nhiên ta có thể nói:
1) Trong viễn tượng Tin Mừng thứ tư, phép rửa bằng Thánh Thần không có ý nghĩa phán xét cánh chung như trong truyền thống Mt-Lc;
2) Nó cũng không nhắm tới phép rửa được đề cập ở 3,22 và 4,1 vì phép rửa này chẳng phải là phép rửa trong Thánh Thần. Vậy phải chăng nó chỉ phép rửa Kitô giáo? Có lẽ một cách gián tiếp, nhưng viễn tượng chắc hẳn rộng hơn. Phép rửa trong Thánh Thần nhắm tới và xác định toàn thể hoạt động, công trình của Chúa Giêsu. Sứ mệnh của Người, đối với nhân loại, chủ yếu sẽ là một phép rửa trong Thánh Thần”.
Các nhà chú giải hầu như nhất trí quy chiếu thành ngữ “trong Thánh Thần” về các bản văn Cựu ước loan báo việc tuôn tràn Thần khí Thiên Chúa trên cộng đoàn: Is 32,15tt; 44,3tt; Ed 36, 25-29; Ge 3,1. Ta cũng có thể nhắc lới, như là bằng chứng của niềm chờ mong ấy, nhiều bản văn Qumrân như LQS IV, 19-23; và Chúc thư tổ phụ Lêvi 18, 6-9; Tv Salomon 17, 29-42. Trong các bản văn này, biểu lộ niềm tin tường vào chương trình của Thiên Chúa, tin tưởng rằng vào thời cánh chung, qua việc tuôn đổ Thần khí, Ngài sẽ tạo cho mình một dân tộc thánh, tuân phục Lề luật, một dân ‘biết’ Ngài. Qua việc Thần khí ngự xuống và đậu lại, Chúa Giêsu được chỉ định như là tác nhân của cuộc tuôn tràn thời cánh chung ấy. Chính Người là Đấng thực hiện công việc. Trước đó, nơi câu 32-33, lời ám chỉ mặc nhiên về Is 11,2 đã quy hướng theo nghĩa này.
Tính cách mới mẻ hoàn toàn, làm nên mặc khải chủ yếu của Tân Ước, hệ tại chỗ gán cho Chúa Giêsu một hành vi được coi như thuộc về Thiên Chúa. Thật vậy, trong Do thái giáo, không bao giờ việc tuôn tràn Thần khí được gán cho Đấng Messia: chỉ có Kitô giáo mới dám làm việc ấy. Đó cũng là chủ đề trong diễn từ của Phêrô ngày lễ Ngũ tuần: “Chúa Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống lại; chúng tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy… Và bây giờ, Người đã lĩnh nơi Cha ơn đã hứa là Thánh Thần mà đổ xuống” (Cv 2, 32 tt).
8) Lời tuyên bố sau cùng của Gioan Tẩy Giả (c. 34) xác nhận và củng cố lối giải thích trên. Gioan Tẩy Giả tổng lược và tổng hợp chứng từ của ông trong công thức: “Vì đã thấy, nên tôi xin đoan chứng chính Người là Tuyển nhân của Thiên Chúa”.
Có một vấn đề phê bình văn bản được đặt ra cho câu này. Phần lớn các bản văn đọc là “Con Thiên Chúa” (“huios”). Một vài bản văn (như P 5, Sin., nhiều thủ sao của bản La-tinh cổ và Syri cổ, thánh Ambrôsiô) lại đọc: “Tuyển nhân của Thiên Chúa” (“eklektos”). Vài bản khác phối hợp cả hai cách: “Con được chọn” (electus Tilius).
Dầu cách đọc “Tuyển nhân của Thiên Chúa” ít được theo trong truyền thống thủ sao, nó cũng vẫn được một số lớn nhà chú giải giữ lại: Harnack, Loisy, Lagrange, Windisch, Cullmann, Van den Bussche, de la Potterie, Schnackenburg, Boismard, Brown, Barrett, Mollat… Theo Jeremias mục Pais (tou theo)”, TWNT), cách đọc “Con Thiên Chúa” hình như đã thay thế cách đọc nguyên thủy “Tuyển nhân của Thiên Chúa” vào thế kỷ 4, để chống lại dưỡng tử thuyết trong Kitô học. Mặt khác, dựa trên nhiều khuynh hướng thần học, khó mà tưởng tượng rằng các sao lục viên Kitô giáo đã đổi tiếng “Con Thiên Chúa” thành “Tuyển nhân của Thiên Chúa”, trong lúc một sự thay đổi theo chiều ngược lại xem ra khả dĩ hơn. Thành thử cách đọc “Tuyển nhân của Thiên Chúa” có thể nên giữ lại vì danh nghĩa là cách đọc khó hơn”. Cách đọc “Con Thiên Chúa” có thể là do ảnh hưởng của các trình thuật Nhất lãm về phép rửa Chúa Giêsu.
Cách đọc “Tuyển nhân của Thiên Chúa” xem ra quy chiếu về Is 42,1: nầy là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ Tuyển nhân của Ta mà hồn Ta sủng mộ. Ta đã đặt Thần khí Ta trên Người”. Do đó Chúa Giêsu được chỉ định như là “Tôi tớ Giavê” mà nét phân biệt, như trong sấm ngôn Is 11,2 và trong trường hợp của ngôn sứ ở 61,1, là sự hiện diện của Thần khí Thiên Chúa “trên Người”, hiện diện để giúp thi hành sứ mệnh canh tân dân Thiên Chúa bằng cách dạy họ biết Lề luật Ngài. Việc ám chỉ Is 11,2, hàm chứa trong tiếng menein (lưu lại) của cc. 32.33, nhấn mạnh tính cách trường tồn và tràn đầy của việc Thần khí hiện diện trong Chúa Giêsu; còn việc ám chỉ Is 42,1 có lẽ nhắm mục đích nhấn mạnh trực tiếp hơn tính cách riêng biệt của sứ mệnh người là thanh tẩy “trong Thánh Thần” nghĩa là vãn hồi pháp luật, công bình và chân lý.
Nếu chấp nhận cách đọc “Tuyển nhân của Thiên Chúa”, ta được một lối đóng khung rất đặc biệt cho cả phần 1, 29-34. Quả vậy, hình như công thức “Chiên Thiên Chúa” có thể được giải thích, ít ra một cách nào đó, khi đem quy chiếu về kiểu nói “Tôi tớ Thiên Chúa” của Is 42.9
Hãy giải thích đôi chút lời quả quyết vừa nêu. Nhiều tác giả tự hỏi phải hiểu chữ “Chiên Thiên Chúa” thế nào. Thông thường, người ta coi đó như một tiếng ám chỉ chiên Vượt Qua hoặc chiên hy tế của Đền thờ, hay “Tôi tớ Giavê” trong sấm ngôn Is 53,7, kẻ được hình dung như con chiên bị đem đi giết, như con cừu trước thợ xén lông, và mang lấy nỗi khổ cùng các hành vi bất công của chúng ta. Về chiên Vượt Qua hay chiên hy tế thường ngày, thật sự không có vấn đề liên hệ vì chẳng có chỗ nào gán việc đền tội cho chúng (Str-bill, II, 368).
Ngược lại, về phía bản văn Isaia, sự tương tự giữa nó với đoạn Gioan dựa trên hai nền tảng: trong cả hai bản văn hy vật được tượng trưng bằng một con chiên, mang lấy trên mình tội của thế gian (lập luận thường được dùng để bênh vực việc đồng hóa Chúa Giêsu với con chiên Vượt Qua). Dầu sao đó chỉ là tương tự trên ngoài mà thôi. Trong sấm ngôn Isaia, hình ảnh con chiên, con cừu không có mục đích nói lên tính cách hy vật, nhưng là nói lên sự dịu dàng tính chịu đựng, đức phục tùng của người Tôi tớ. Còn về việc đền bù thay thế tội lỗi, chắc chắn không dược thánh Gioan diễn tả ở đây. Động từ airoin (cất đi, cất lấy) của Gioan không tương đương với động từ pherein (mang lấy, gánh lấy trên mình) của Is 53,4. Và cũng nên ghi nhận là ý tưởng về một Đấng Messia đau khổ rất xa lạ với thiên sai chủ nghĩa đương thời. Chắc hẳn khó khăn này có thể vượt qua. Vì vị Tiền Hô có thể đã biết được trước mầu nhiệm cứu chuộc, hoặc nhờ suy niệm về sấm ngôn Isaia, hoặc nhờ một ân sủng đặc biệt, thích hợp với sứ mệnh. của ông. Nhưng quả là khó khi muốn làm cho một lời tuyên bố về sứ mệnh đền bù và cứu chuộc của Chúa Giêsu ăn khớp với các chứng từ khác của Gioan Tẩy Giả. Gioan Tẩy Giả thường coi Đấng Messia như là vị thẩm phán chuyên việc quét sạch sân lúa của Người với một cái rê trong tay và phân biệt nghiêm nhặt người công chính với kẻ tội lỗi (Mt 3,12; Lc 24,17). Cho đến cuối đời, ông vẫn nóng lòng chờ đợi Người đảm nhận vai trò đó (Mt 11,2-3; Lc 7,18-19). Hơn nữa, nếu sự hy sinh cứu chuộc của Đấng Messia đã được công bố rõ ràng như thế ngay từ đầu, thì làm sao giải thích nỗi kinh ngạc của các sứ đồ khi nghe loan bác cuộc Tử nạn (Mc 9,32; Lc 24,21 v.v…)?
10) Khoa chú giải đã tự hỏi đâu là ý nghĩa riêng của biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa trong các trình thuật Nhất Lãm. Thường người ta trả lời như sau: Chúa Giêsu, khi chịu rửa, đã để Thần khí chiếm đoạt. Thiên Chúa đã sử dụng Người, trang bị và ban cho Người- khả năng làm sứ giả của Ngài, làm kẻ xây dựng thời cứu độ. Chúa Giêsu, khi chịu rửa, đã học biết ơn gọi của Người vậy.
Còn trình thuật Gioan không đề cập tới phép rửa của Chúa Giêsu, đối với ông, việc gặp gỡ giữa Gioan Tẩy Giả với Chúa Giêsu trước hết là cơ hội của một cuộc thần hiện, nghĩa là của một cuộc mặc khải cho Gioan Tẩy Giả biết thiên sai tính thiêng liêng của Chúa Giêsu. Cuộc thần hiện này được vị Tẩy giả giải thích dưới ánh sáng của một lời thần linh (1,33); lời này, được thị kiến củng cố, đặt nền tảng cho chứng tá của ông về Chúa Giêsu và về công việc của Người. Trong viễn tượng của Tin mừng thứ tư, cảnh này có một tầm quan trọng căn bản, vì Gioan chỉ “đến” là để “làm chứng điều ấy” (1,7): “để Người được tỏ mình ra cho Israel” (1,31).
Israel ở đây chỉ Israel cánh chung, đích thực, nghĩa là các thành phần trong dân được xác nhận là đã sẵn sàng đón nhận ánh sáng. Chính họ, qua chứng từ của Gioan Tẩy Giả, là đối tượng của mặc khải về Đấng được Thần khí “lưu lại” bên trên. Họ biết rằng từ nay Thần khí hiện diện, một cách thường xuyên và tràn đầy, trên Đấng Ngài đã “đáp xuống” và lưu lại: chính Người là Đấng rửa trong Thánh Thần. Với Người, thời đại mới đã được khai mạc.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Này là Chiên của Thiên Chúa”: Người ta bảo rằng cái lập luận vững vàng bênh vực lập trường “Con chiên Vượt Qua tiên trưng con Chiên mà Gioan Tẩy Giả làm chứng ở đây” phát xuất từ chính thánh sử, từ chính trình thuật Tử nạn (19, 36-37). Vì theo thời biểu của Gioan, Chúa Giêsu chết vào chính lúc hoàn tất nghi thức sát tế chiên dành cho bữa ăn Vượt qua trong Đền Thờ. Người ta lại còn phỏng đoán Gioan đã thay đổi thời biểu với chủ ý ngầm bảo độc giả rằng Chúa Kitô chịu sát tế thay thế chiên Vượt Qua của Cựu Ước.
Từ ngày khám phá các thủ bản ở Biển Chết, vấn đề thời biểu trên lại được tranh luận hơn nữa. Nhưng hình như có thể bỏ qua. Thật vậy, lời giải thích mà chính thánh sử đưa ra về các hoàn cảnh của cái chết Chúa Giêsu tự nó đã dứt khoát. Đặc biệt ông thấy việc không bẻ gẫy xương (Ga 19,36b) và nhát lưỡi đòng (Ga 19, 37b) là dấu hoàn thành một sấm ngôn Cựu Ước. Người ta bảo bản văn đầu đưa ta về lại một chi tiết đặc biệt trong pháp chế liên hệ đến chiên Vượt Qua trong Xh 12, 46 và Ds 9, 12. Nhưng ta cũng có thể thấy đó là một câu trích dẫn Thánh Vịnh 34, 2. Thật vậy, bản văn Gioan tương hợp với bản văn Thánh vịnh hơn nhiều. Lại nữa, ngoại trừ câu 19,37 (= Dcr 12, 10), 6 câu trích dẫn khác trong phần 2 của Gioan đều xuất phát từ sách Thánh Vịnh. Nhận xét này cho ta một dấu hiệu đáng lưu tâm. Ngoài ra, ý tưởng được trình bày trong Thánh Vịnh đặc biệt ăn khớp với bản văn ta đang nghiên cứu và với toàn thể thần học Gioan. Thật vậy, Thánh Vịnh quả quyết Giavê sẽ bảo vệ người công chính bị bách hại, đến nỗi chẳng một xương nào của ông bị dập gãy. Trong Ga 19, Chúa Cha không để cho thân xác Chúa Giêsu ra hư hoại do việc đánh gãy xương, vì nó cần phải nguyên vẹn để được phục sinh. Vào giờ chết, trong lúc Chúa Giêsu xem ra hoàn toàn bị ruồng rẫy, thì Chúa Cha không bỏ rơi Người: Gioan thích diễn đạt tư tưởng ấy (8,29; 16,32). Cái ý tưởng sự chết dẫn đến chiến thắng đó cũng nằm trong câu trích dẫn Dcr 12,10. Bản văn Hy Bá nguyên thủy kém sáng sủa, nhưng câu trích dẫn trong Gioan không có gì mơ hồ. Các kẻ đâm Chúa Giêsu sẽ phải nhìn lên Người, như nhìn một vị chiến thắng, để đón nhận từ Người, từ cạnh sườn họ đã đâm thâu, ơn cứu độ nhờ nước và máu, biểu tượng của phép Thanh Tẩy và Thánh Thể.
Thành thử hai câu trích dẫn của Ga 19, 36-37, điều hợp với nhau, hình như không đưa ta đến sự song đối kiểu mẫu với con chiên Vượt Qua; trái lại chúng ám chỉ tới khuôn mặt người Tôi tớ đau khổ và được tôn vinh nhờ nỗi khổ đau của mình.
“Đấng khử trừ”: Động từ Hy Lạp airoin có nghĩa là nâng lên và do đó có nghĩa là mang lấy, gánh lấy trên mình hoặc mang đi, cất đi, làm biến đi. Ga thường sử dụng động từ theo nghĩa sau cùng (x. 2, 16; 5, 8- 12; 10, 18; 1 Ga 3, 5).
“Tội thế gian”: Kiểu nói số ít này nhắm toàn thể các tội lỗi của thế gian trong trương độ và hàm súc của chúng.
KẾT LUẬN
Cho đám đông tội lỗi mà ông đã dẫn đến chỗ ý thức các tội phạm của mình cùng ao ước một sự thanh tẩy đích thực mà phép rửa bằng nước của ông không thực hiện được, Gioan giới thiệu Chúa Giêsu như kẻ được chỉ định để ban ơn cứu độ thiêng liêng đích thực bằng cách thực hiện các sấm ngôn về người Tôi tớ khổ đau: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng khử trừ tội thế gian” hay nói cách khác: đây là người Tôi tớ thời danh của Thiên Chúa, Đấng sẽ chấp nhận từ bàn tay Thiên Chúa, cách ngoan ngoãn và vô tội như một con chiên, mọi thử thách cần thiết để cứu rỗi các tội nhân.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Chúa Kitô sắp tái tạo con người bằng cách dìm nó trong Thần khí Thiên Chúa, bằng cách làm cho nó thấm nhuần Thánh Thần của Ngài. Nhờ vậy, con người sẽ được biến đổi một cách sâu xa; ta có thể bảo rằng sở dĩ nó được cứu, là vì nó đã bị hủy tiêu và thay thế bằng một kẻ khác dầu sao vẫn tốt hơn chính nó.
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Có một câu chuyện kể về bản di chúc của một người sắp quá cố, trong đó có đoạn viết: “Khi tôi chết, xin đừng ghi tên tuổi, chức nghiệp của tôi qua tấm bia nơi phần mộ, nhưng hãy ghi rằng: ‘Những gì tôi đang có, xin trả lại cho đời. Những gì thuộc về tôi nay không còn nữa. Những gì tôi cho đi, từ nay thuộc về tôi’”. Thật tuyệt vời khi không nghĩ gì cho mình, mà chỉ còn nghĩ đến người khác, ngay cả lúc chết!
Hôm nay, thánh Gioan Tẩy Giả sau khi đã trả lời cho các Tư tế và thầy Lêvi về thân thế, vai trò của mình, ông đã lợi dụng cơ hội này để giới thiệu cho họ biết về Đấng Kitô mà muôn dân đang mong đợi.
Thật vậy, Gioan Tẩy Giả đã không ham hố quyền lợi, uy tín, công danh, vì thế, khi ông thấy Đức Giêsu tiến về phía mình thì đã hô lên và chỉ cho mọi người biết về con người và sứ vụ của Đức Giêsu, ông nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1, 29).
Khi nói như thế, Gioan đã thực sự khiêm nhường khi nhận mình chỉ là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế, nay Đấng ấy đến, ông không ngần ngại reo lên để mọi người biết và tin theo Ngài! Đồng thời ông cũng trao lại cho Đức Giêsu tất cả mọi sự từ uy tín, đến sứ vụ…
Chính sự khiêm tốn đó, Gioan đã để lại cho muôn thế hệ tấm gương sáng ngời về sự khiêm tốn.
Noi gương thánh Gioan, mỗi người chúng ta hãy sống chân thành, khiêm tốn, không quá coi trọng những lời khen ngợi, không nên tự mãn lúc thành công khi được người đời ca tụng, lại càng loại trừ thói kiêu ngạo, tính bề trên kẻ cả ra khỏi đời sống đạo của mình.
Mặt khác, hãy biết trả lại cho anh chị em chúng ta những nét đẹp mà họ đang có, tránh sự hiềm khích mà trù dập uy tín, danh dự của họ.
Nhưng có lẽ, điều quan trọng nhất chính là quy chiếu về Thiên Chúa mọi sự thành công của chúng ta và không ngừng tri ân, cảm tạ Ngài.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, sự khiêm nhường, đơn sơ của Chúa mời gọi chúng con thay đổi nếp sống cũ là nếp sống kiêu ngạo, khoe khoang, để thay vào đó là một nếp sống Tin Mừng mà chính thánh Gioan là người đã sống và loan báo.
Ước gì Lời Chúa hôm nay đem lại cho chúng con hạnh phúc khi mỗi người luôn tìm vinh danh Chúa trong mọi sự. Amen.
(Suy niệm của Lm. Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong một dịp ghé thăm điểm truyền giáo của các cha dòng Chúa Cứu Thế tại Chư Sê – Gia Lai, tôi được gặp một linh mục đáng kính cả về tuổi đời lẫn tuổi truyền giáo tại khu vực này. Trong buổi chia sẻ, ngài nói: “Tôi nhớ những năm đầu tiên đến điểm truyền giáo này, tôi gặp phải không ít khó khăn ở đây. Có những khó khăn rất tế nhị. Nhưng có lẽ khó khăn hơn cả là lòng dân ở đây sẵn có tục lệ và tín ngưỡng lâu đời, nên họ khó chấp nhận một tôn giáo mới. Tuy nhiên, dần dần, một phần vì tò mò, một phần vì cảm nghiệm được lối sống của các vị thừa sai, nên có một người anh em dân tộc đến hỏi về đạo”. Họ hỏi: “Tại sao ông lại sống như thế?” Vị linh mục trả lời: “Tao sống như vậy là vì Chúa của tao dậy tao sống thế!” Họ hỏi tiếp: “Vậy Chúa của mày là ai? Có thương bọn tao không?” Ngài trả lời: “Có chứ!” Anh bạn đó tiếp: “Vậy Chúa của mày là ai?” Không chần trừ, vị thừa sai trên Miền Thượng này đã đưa cho họ hình ảnh cây Thánh Giá có tượng Chúa chịu đóng đinh và nói: “Chúa của tao đây. Vì yêu thương, Ngài luôn bênh vực những người nghèo, chống lại những kẻ áp bức, bóc lột, nên bị chết như thế này đấy”. Anh bạn người dân tộc đó gật gù và nói: “Nếu Chúa của mày tốt như thế và yêu thương bọn tao thì tao sẽ về và nói cho bản của tao, nó đến và mày giới thiệu về Chúa của mày cho chúng nó nghe nhé”. Vị linh mục đó nói “Sẵn sàng”, và một ngày gần đó, ngài đã rửa tội cho hàng ngàn người. Tính đến thời điểm này, mỗi vị thừa sai trên Miền Thượng từ những giai đoạn đầu đến nay đã rửa tội được khoảng trên dưới 40.000 người.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một vị ngôn sứ mà có lẽ không ai mà không biết đến, ông đã giới thiệu cho dân chúng về Đấng luôn yêu thương họ, Đấng ấy đã được tiên báo từ lâu, Ngài là: “Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Vị ngôn sứ đó là chính Gioan.
Chiên Thiên Chúa mà Gioan hôm nay loan báo chính là vị Tôi Tớ, hiền lành, khiêm nhường và chịu đau khổ mà trong Cựu Ước, tiên tri Isaia đã tiên báo. Ngài được ví như: “Con chiên bị đem đi giết mà không một lời oán trách thở than”.
Còn tiên tri Giêrêmia thì dùng chính hình ảnh của mình để tiên trưng về một Đấng Mêsia, là Cứu Chúa của nhân loại khi nói: “Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều ác chống lại tôi”.
Hình ảnh con chiên gợi lên sự hiền lành, dễ dạy, thậm chí có vẻ quá yếu đuối và dễ bị đàn áp.
Những lời loan báo và hình ảnh đó hôm nay được Gioan vén mở cho dân thấy khi nói: “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”(Ga 1,29). Ngài quả là Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Đau Khổ của Giavê.
Gioan mạnh dạn và giới thiệu cho dân chúng về sứ vụ của Đấng Mêsia như vậy là vì ông đã được mặc khải cho biết: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người ấy chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Ngài đến để cứu chuộc con người và là Đấng xóa tội trần gian.
Tuy nhiên, để hiểu được Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa bỏ tội trần gian, thì trước tiên phải hiểu được hình ảnh con chiên trong Cựu Ước.
Con chiên trong Cựu Ước được biết đến như là một lễ vật để đền tội thay cho dân. Trong sách Xuất Hành, con chiên được nói đến nhiều hơn cả. Theo truyền thống Tư tế, thì hằng ngày, người ta sát tế hai con chiên, một con buổi sáng và một con ban chiều. Khi sát tế như thế, họ dâng nó lên Giavê để cầu xin ơn tha tội cho mình và đồng loại (x. Xh 29,38-42). Hình ảnh con chiên mang tội của dân được diễn tả khi kẻ có tội tiến đến bên cạnh con chiên chuẩn bị để làm của lễ, úp hai tay mình lại và đặt lên đầu chúng. Sau đó, vị Tư tế đại diện cho người có tội sẽ sát tế con chiên đó hoặc thả chúng vào rừng. Trong truyền thống của người Do Thái thì đây là hình thức xóa tội cho mình và anh em: “Suốt thời gian sắp tới, mỗi ngày các ngươi hãy hiến tế trên bàn thờ hai con chiên tuổi được một năm, một con hiến tế vào buổi sáng , con kia vào buổi chiều”(Xh 29,38-39).
Khi giới thiệu Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”, một mặt Gioan muốn nói đến sứ vụ của Đức Giêsu là Đấng đền tội cho dân, mặt khác, ngài muốn nói đến vai trò cứu chuộc của Đức Giêsu nữa. Dưới tước hiệu “Chiên của Thiên Chúa”, Đức Giêsu chính là Đấng vô tội và thánh thiện, dưới tước hiệu “Đấng xóa tội trần gian”, Ngài chính là Đấng đã được Cựu ước loan báo như là Vị Tôi Tớ đau khổ, trung thành và chết thay và đền tội cho dân.
Nếu Đức Giêsu không phải là Chiên vô tội thì không thể cứu chuộc được nhân loại. Ngài là Đấng thánh thiện, tinh tuyền, khiêm tốn và tự hủy cho nên Ngài đã trở thành Vị Tôi Tớ của Giavê mà tiên tri Isaia đã loan báo, là Đấng xóa bỏ tội trần gian.
Chính nhờ Đấng Trung Gian đã giao hòa thế gian với Thiên Chúa bằng chính cái chết của mình nên Ngài đã trở thành Ađam mới, đã hoàn tất sứ mạng của mình bằng con đường hy sinh, gánh lấy tội lỗi của cả nhân loại để rồi đem lên trên cây thập giá và cùng với của lễ là chính bản thân để đền tội và tẩy xóa cho nhân loại.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Gioan được hiện lên như là một nhân chứng vĩ đại của Đức Giêsu, bởi vì ông đã thấy và ông xin làm chứng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng được đón nhận sứ mạng ngôn sứ này ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Vì thế, chúng ta cũng phải giới thiệu Chúa cho người khác.
Thật vậy, mỗi người mỗi hoàn cảnh, chẳng ai giống ai, nhưng chúng ta đều chung một sứ mạng là làm chứng cho Chúa. Lời chứng ấy cũng có thể bằng gương sáng, là men là muối trong đời sống thường ngày.
Thật vậy, nếu là ông chủ, hãy cư xử với nhân viên cách công bằng; nếu là công nhân, hãy làm việc vì bổn phận và tránh sự bất cẩn để thiệt hại cho người khác; nếu là bác sĩ, hãy sống đúng với lương tâm một vị: “Lương y như từ mẫu”. Đừng vì tiền, vì chiếc ghế chức quyền mà đi ngược lại với bản chất để đang tâm giết chết những thai nhi vô tội; nếu là thầy cô giáo, hãy dạy cho con em sự thật thà, thay vì nói dối, dạy cho con em: “Tiên học lễ – hậu học văn”; nếu là quan trường thì hãy yêu thương dân, không đàn áp, bóc lột và tham nhũng để dân phải đói khổ và ân hận…
Tuy nhiên, hãy học cách giới thiệu của Gioan, ông đã luôn sống sự khiêm nhường thẳm sâu để cho Đức Kitô được nổi bật lên. Chúng ta cũng vậy, muốn chu toàn sứ vụ tốt đẹp, chúng ta cũng không còn cách nào khác bằng cách khiêm tốn, hiền hậu để khuôn mặt của Đức Giêsu được lộ hiện lên trên khuôn mặt, qua những công việc của chính chúng ta. Amen.
(Suy niệm của Lm Giacôbê Tạ Chúc)
Trong các phiên tòa luôn có những nhân chứng, người ta cần nhân chứng để làm chứng nhân cho các cuộc điều tra xét xử. Thế nhưng, độ đáng tin của những người làm chứng ở mức độ nào mới là điều cần quan tâm. Có nhiều chứng giả dối, có những người làm chứng vì lợi ích của mình hoặc phe nhóm mình. Có những người không dám làm chứng dù biết đó là sự thật. Chứng của Gioan hoàn toàn khác với con người. Ông là người chính trực, uy tín, không luồn cúi, không xu nịnh. Thế nên dân Do Thái kính phục ông, họ tin ông và ông đã minh chứng cho họ: Đức Giê-su mới là Đấng Thiên sai muôn dân hằng mong đợi.
Đây chiên Thiên Chúa…
Hình ảnh con chiên bị sát tế mà Isaia đã nói đến trong cựu ước: “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53,7). Tiên tri Giê-rê-mi-a cũng nói về Đấng cứu thế như sau: “Phần con, con khác nào con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt, con đâu biết chúng đang mưu tính hại con. Chúng bảo nhau: “Cây đương sức, nào ta chặt nó đi, loại nó ra khỏi đất dành cho kẻ sống, để không còn ai nhớ đến tên tuổi nó nữa!” (Gr 11,19). Máu chiên bò đổ ra để chuộc tội thay cho con người. Người ta bắt chiên sát tế rồi rảy máu lên mình để rửa sạch tội lỗi. Con chiên chết thay cho con người. Con vật vô tội đã gánh tội cho toàn dân. Hình bóng của con chiên mà dọc dài trong cựu ước đã được các tác giả kinh thánh ghi nhận thì đây, trong giáo ước mới là Tân ước, Thánh Gioan đã chỉ cho dân Do Thái, con chiên bị sát tế chính là Đức Giê-su Ki-tô: “ Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1, 29). Ngài là chiên vô tội đã bị hiến tế vì anh em, Ngài là Đấng mà Gioan Tẩy giả đã chỉ cho thấy khi xuất hiện, và dù có được làm phép rửa cho Chúa Giê-su thì Gioan cũng đã khẳng định: Ngài đến sau tôi, nhưng trỗi hơn tôi, vì có trước tôi. Chiên Thiên Chúa, một cụm từ nối kết giữa hai quan niệm của: Cựu ước và Tân ước, những gì trong Giao ước củ chưa thành toàn thì nay Giao ước mới đã kiện toàn trong Ngôi Hai Thiên Chúa: Đấng Messia mà muôn dân đợi mong.
Đấng xóa tội trần gian…
Con người bất tuân, tội lỗi xâm vào và đã làm cho con người vấp ngã. Trước mỗi tòa án, những tội nhân đều có luật sư bầu chữa. Con người lấy ai đây để làm trạng sư trước tòa phán xét của Đấng ngàn trùng chí Thánh. Máu chiên bò là không thể, một ai đó trong dân đứng lên để biện hộ, cũng không xong. Chỉ có Đấng từ trời, và Đấng ấy không ai xa lạ mà chính là từ cung lòng của Cha là Đức Giê-su Ki-tô. Ngài đền thay tội lỗi cho muôn dân. Đấng mà Cai-pha đã nói tiên tri: “ Thà một người phải chết cho toàn dân được nhờ” (Ga 18, 14). Hình ảnh con chiên hiền lành đã được cô đọng lại trong cái chết của Chúa Giê-su, Ngài vô tội mà đã gánh tội lỗi nhân gian.
Cùng với Gioan, mỗi người cũng được mời gọi tham dự vào ba chức vụ: tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giê-su trong ơn gọi của của mình. Như là một điều kiện ắt phải có khi giới thiệu Chúa cho anh chị em xung quanh, thánh Gioan Tẩy giả làm chứng và giới thiệu Chúa cho hết thảy mọi người. Người Ki-tô hữu cũng can đảm làm chứng và chỉ Chúa Giê-su đang đi đến với nhân loại trong từng ngõ ngách của đời mình.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn