Dâng Mẹ Gì Đây! và Thánh Giuse với đời sống cầu nguyện - Lm. Xuân Hy Vọng
Thứ sáu - 07/05/2021 22:29
962
Dâng Mẹ Gì Đây!
Tháng hoa về rồi mà con chẳng có chi
Có chăng bao nỗi u sầu đời khắc ghi!
Bôn ba, mê mãi kiếp phong trần nhung nhớ,
Bàn tay vướng bận bùn nhơ lạc bến mơ.
Tháng hoa đã về mà lòng mãi hững hờ
Phải chi buồn tủi hắt hiu niềm con thơ!
Trở về bên Mẹ thầm gửi chút vương vấn,
Bước chân đi hoài, nương tựa trong thánh ân.
Tháng hoa về rồi mà con vẫn tha hương
Trần gian huyền ảo sao sánh bằng quê hương
Trên thiên đường, Mẹ ghé mắt nhìn trông đến,
Dắt dìu con sau tháng ngày trôi lênh đênh.
Tháng hoa đã về, sao con vẫn long đong
Cơm áo gạo tiền làm con mất hy vọng,
Lạc xa bến bờ, rảo quanh chốn đam mê
Xin Mẹ giúp con mau quay bước trở về.
Tháng hoa lại về, con dâng Mẹ gì đây!
Tâm hồn bé nhỏ, tấm lòng thành thơ ngây
Dâng lên Mẹ đời con những ngày xa vắng
Tựa như nắng tắt, êm ả trong thánh ân…
Lm. Xuân Hy Vọng
20.04.2019 Okinawa
THÁNG HOA SẮC MÀU THÁNH ÂN
Ma-ri-a, tháng hoa lại về
Điểm sắc màu tràn trề phúc ân.
Con dâng Mẹ bông hoa ân cần
Lặng thầm với tay lần Mân Côi.
Ma-ri-a, chao ôi Mẹ ơi!
Ngào ngạt hương cuộc đời phó dâng
Bao buồn vui hoà cùng lời khấn:
Luôn đáp lời “xin vâng” cậy trông.
Ma-ri-a, hoa hồng sắc thắm
Đứng trong vườn say đắm yêu thương.
Toả hương thơm ngây ngất thiên đường,
Khiêm hạ mình náu nương tâm hồn.
Ma-ri-a, trường tồn thanh khiết
Hoa huệ nào tha thiết sánh vai!
Thời dĩ vãng, hiện tại, tương lai
Lòng suy ngắm, lắng tai nghe Lời.
Ma-ri-a, rạng ngời khôn ví
Lan, mận, đào nào ghé mắt trông.
Khao khát lòng đầy những ước mong
Dâng lên Mẹ cậy trông tháng ngày.
Lm. Xuân Hy Vọng
Xứ Sở Mặt Trời, 20.04.2021
DÂNG MẸ CHUỖI NGÀY ĐỜI CON
Từng ngày từng ngày,
Ngàn phút ngàn giây.
Vạn kinh, vạn khúc
Mọi giờ, mọi lúc,
‘Kính mừng’ câu chúc
Lời cầu hạnh phúc
Dâng Mẹ hồn thơ
Kết muôn ước mơ
Chân thành cung kính
Vòng hoa quang vinh
Thiết tha lời kinh
Mẹ hiền huyền linh.
Trọn đời ‘xin vâng’
Muôn lời ân cần
Chẳng chút ngại ngần
Sống theo thánh ân
Xin Mẹ dìu chân
Bước tới tha nhân
Đáp lời ‘xin vâng’.
Như Mẹ căn dặn
Sám hối ăn năn
Quay gót trở về
Bỏ hết đam mê
Đời lắm ê chề
Mẹ dắt con về
Tựa nương Con Mẹ
Giê-su chở che.
Lm. Xuân Hy Vọng
6.
THÁNH CẢ GIU-SE VỚI ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN
Khi nói đến đời sống đạo đức, chắc hẳn ai trong chúng ta đều nghe đến hai chữ ‘cầu nguyện’, và cũng đã biết làm gì mỗi lúc nguyện cầu. Tuy nhiên, nếu xét kỹ lưỡng, chúng ta sẽ nhận thấy khi cầu nguyện, chúng ta thường nài xin hơn cảm tạ Thiên Chúa, thường van xin hơn tâm sự chuyện trò và lắng nghe Chúa. Bởi thế, nhiều người trong chúng ta không biết thánh ý Chúa được thông truyền cho chúng ta. Dường như chúng ta chỉ nói-xin-van-nài Chúa, mà không dành thời gian tịnh tâm để lắng nghe tiếng Chúa, vì lẽ Ngài cũng muốn tâm sự, chuyện trò với chúng ta.
Cuộc sống thể lý cần khí trời, lương thực, nước uống, mối tương quan, v.v…thế nào, thì tinh thần và đời sống tâm linh chúng ta cần đến ân sủng, Lời Chúa, Thánh Thể, và tình thân qua việc cầu nguyện như vậy. Nếu chúng ta bất cẩn, không quan tâm đến thể lý, không giữ gìn sức khoẻ, thì cơ thể chúng ta sẽ trở nên gầy gò, ốm yếu, thậm chí ngã bệnh, thiếu hoặc suy dinh dưỡng. Hơn thế, chúng ta sẽ chẳng bao giờ thăng tiến, trưởng thành, nếu bê trễ, biếng nhác trong đời sống thiêng liêng, tu đức, mà nền tảng chính là lời cầu nguyện.
Thật ra, Kinh Thánh không nói chi tiết về đời sống hằng ngày của Thánh Giu-se, nhưng thiết nghĩ ngài là ‘người công chính’, là ‘đấng ngay chính tận trung’, ‘trọn tốt trọn lành’, ‘cực thanh cực tịnh’, ‘cực khôn cực ngoan’…(như chúng ta thường đọc trong Kinh cầu Thánh Giu-se), thì chắc chắn ngài hằng liên lỉ sống kết hiệp với Chúa qua đời sống cầu nguyện thường nhật. Là trụ cột gia đình Thánh Thất, ngài phải chăm lo, săn sóc, quan tâm đến Đức Mẹ và con trẻ Giê-su. Với trách nhiệm gánh vác kinh tế gia đình, ngài cũng hết lòng nỗ lực lao động dù hoàn cảnh Thánh Gia chẳng mấy khá giả gì, nói đúng hơn là nghèo khó. Tuy vậy, ngài chẳng bao giờ quên cầu nguyện từ khi ánh bình minh ló rạng cho đến khi hoàng hôn buông xuống, ngày tàn đêm qua. Chúng ta từng nghe Thánh sử Lu-ca mô tả Đức Mẹ ‘hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng’ (x. Lc 2, 19), nghĩa là: Mẹ hằng tâm niệm, chiêm ngắm công trình kỳ diệu mà Thiên Chúa thực hiện nơi Mẹ. Nói cách khác, có thể Mẹ không thấu hiểu hết những việc Thiên Chúa làm nơi mình, nhưng hoàn toàn tín thác, vâng phục và sống kết hiệp với Chúa. Tương tự, mặc dù Kinh Thánh không đề cập, nhưng Thánh Giu-se hẳn cũng luôn sống thân tình mật thiết với Chúa qua mọi sinh hoạt hằng ngày!
Ngoài ra, là người Do Thái thuần tuý, thuộc dòng dõi Vua Đa-vít, nên chắc chắn Thánh Giu-se hiểu rõ và trung thành giữ giới răn của Chúa được ghi trong sách Luật Mô-sê và các Ngôn sứ. Không chỉ am hiểu về mặt ngữ nghĩa, mà ngài còn sống trọn vẹn, tận tâm mỗi ngày giới răn yêu thương, vì ‘ngài là đấng kiên tâm, mạnh mẽ mọi đàng’, ‘hay vâng lời chịu luỵ cho trọn’, ‘gương nhân đức nhịn nhục’, và ‘đấng yêu chuộng sự khó khăn’, v.v…(trích trong Kinh cầu Thánh Giu-se). Vì thế, chúng ta nên từng bước học đòi, noi gương Thánh Giu-se biết bền bỉ, liên lỉ cầu nguyện, chứ không chỉ van nài, kêu xin!
Ở quốc đảo Sei-ron kia (thuộc Sri-lan-ka ngày nay), tại thành thị A-lak-ka, có một giáo phái dị giáo, toàn thờ lạy ma quỷ trong rừng sâu. 400 năm trước Công nguyên, A-lak-ka là thủ đô của quốc đảo này, vốn được mệnh danh là trung tâm văn hoá, còn giữ lại biết bao kiến trúc cổ xưa với nhiều đền thờ, nhà cửa cổ kính. Tuy nhiên, ngay giữa thành phố, lại có một đền thờ đặc biệt thờ ngẫu tượng, ở chính điện có khoảng ba ngàn tu viện nhỏ, và hơn hai vạn nam tu sĩ sụp lạy thờ phụng thần ngẫu tượng. Theo sử xưa ghi chép, trước đó rất lâu rồi, đã có hai nhà truyền giáo Công giáo đặt chân tới nơi này. Dĩ nhiên, thoạt đầu quá ư gian truân, muôn vàn khó nguy, nhưng hai vị đã trao phó nơi này cho Thánh Cả Giu-se, đồng thời thành lập một nơi gọi là trung tâm truyền giáo, và hằng ngày hăng say rao truyền Tin mừng cho người dân A-lak-ka. Giáo phái thờ ngẫu tượng ghét cay ghét đắng các ngài, bèn bày mưu tính kế bạo loạn hòng đuổi các ngài. Họ cướp phá, giật sập nhà cửa, thậm chí dùng vũ khí uy hiếp, la làng đổ tội. Lúc ấy, cha Âu-gus-ti-nô đang thinh lặng chầu Thánh Thể trong nguyện đường, họ xông vào lấy áo lễ, tượng ảnh Thánh và chén Thánh vứt ra ngoài mà dẫm đạp lên. Chưa hết, họ bắt và đưa ngài ra trước thánh đường, ném đá đánh đập ngài; họ nhuộm đỏ chiếc áo dòng đen, và nghĩ ngài đã chết nên tống ngài vào tu viện nữ của giáo phái họ. Tuy nhiên, dân vùng A-lak-ka thầm thì rỉ tai nhau truyền lại rằng: vài tuần sau đó, 50 người chủ mưu sát hại cha Âu-gus-ti-nô đã bị bắt và chịu mức án tử hình. Vào ngày hành quyết, tất cả bọn họ đều sửng sốt vì tận mắt thấy cha chưa chết, mà còn hiện diện ở đó. Quan toà liền hỏi ngài: “Thưa linh mục, ngài đến đây có gì chăng? Để lên án hay kết tội bọn họ?” Cha đáp lời: “Thật tiếc cho tôi vì đã không được diễm phúc nhận lãnh triều thiên tử vì đạo. Tuy nhiên, tôi không kết án kẻ bách hại mình, mà trái lại, tôi yêu mến họ, vì chưng, tôi muốn trở thành người tôi tớ trung tín của Chúa Giê-su Ki-tô. Noi gương Ngài, tôi yêu thương hết mọi người, và tôi cũng không mong muốn những người này phải bị tử hình hoặc chịu hình phạt thảm khốc nào!” Dân chúng xung quanh nghe thế, bèn thốt lên: “Ôi tuyệt vời, ông thầy tu Công giáo này thật phi thường. Ông đã xin tha thứ tội lỗi cho những kẻ giết hại mình”. Liền đó, 50 bị cáo phủ phục trước cha Âu-gus-ti-nô mà nài xin: “Lời dạy của Đức Ki-tô mà cha hằng tin tưởng thật là giáo huấn đích thật. Xin cha chỉ dạy cho chúng tôi!”
Thấy vậy, cha đỡ mọi người đứng dậy, thầm thĩ tạ ơn Thánh Cả Giu-se đã chẳng bỏ ngài, trái lại, luôn gìn giữ, chở che, nâng đỡ, và hằng cầu bầu cho ngài trước toà Chúa.
Giu-se Thánh Cả hiền nhân
Chằng hề quên lãng đỡ nâng con hèn.
Dòng đời dù lắm truân chuyên
Ngài luôn che chở, ân thiên tuôn tràn.
7.
TƯƠNG QUAN MẬT THIẾT GIỮA CÁC THÁNH VỚI THÁNH CẢ GIU-SE
Trong gia đình Thánh Gia Na-da-rét có muôn loài hoa nhân đức đua nhau hé nở khoe sắc tươi xinh tựa như chốn lạc viên Thiên đường.
Như bao ong bướm bay đi tìm mật trên những nhành hoa thắm, hút hương hoa từ nhuỵ bông thế nào, thì với ý nghĩa nào đó, các Thánh nhân cũng hằng chạy đến múc lấy mật ngọt từ vườn hoa nhân đức Thánh Gia. Còn tâm hồn các ngài chắc hẳn ở nơi lạc viên ấy!
Đối với chư Thánh nam nữ, trong gia đình Na-da-rét, Đức Giê-su chính là đích điểm, còn Mẹ Ma-ri-a là người trung gian gần nhất để các ngài chạy đến với Con Mẹ. Vì thế, không cần nói quá nhiều, chúng ta cũng biết được các Thánh hằng khao khát dâng cả con tim, tâm trí cho Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a.
Tuy nhiên, nếu như vậy thì thiếu đi một người trụ cột gia đình Na-da-rét, là bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, là dưỡng phụ của Đức Giê-su. Trong mọi biến cố cuộc đời gia đình Thánh gia, Thánh Cả Giu-se đã hết lòng quan tâm trìu mến, tận tâm nâng đỡ, hỗ trợ, chăm sóc hai mẹ con; đặc biệt đứng trước những tình cảnh khó khăn, lánh nạn sang xứ người Ai-cập trong đêm, ở nơi ấy vừa phải vất vả mưu sinh, lo toan cho gia đình, vừa đối diện với rào cản văn hoá, ngôn ngữ, đồ ăn thức uống, v.v…Rồi đến khi được báo tin trở về cố hương Na-da-rét, thay vì chọn đường ngắn nhất, nhưng vì ác vương Hê-rô-đê, đành phải tiến bước trên hành trình dài hơn, gian nan hơn. Đặt chân tới Na-da-rét, một làng quê khô cằn, nghèo khó, Thánh Cả Giu-se bắt đầu gầy dựng lại, ngõ hầu ổn định cuộc sống mưu sinh hằng ngày, chăm sóc, dạy bảo con trẻ Giê-su, đồng thời đỡ đần Mẹ Ma-ri-a vượt qua mọi gian nan, vất vả thường nhật, mà ba đấng luôn luôn sống trong sự bình an, yên hàn và hạnh phúc. Nói đến đây, chúng ta biết rằng: Chỉ sau Đức Mẹ, Thánh Giu-se vượt trổi hơn các Thánh nam nữ, và ngài được tôn kính đặc biệt trên trời cũng như dưới đất.
Tương tự như chúng ta, các Thánh cũng đã từng trải qua biết bao nhiêu nỗi yếu hèn, đam mê của cải vật chất, danh giá, tài sản, bị rơi vào cạm bẫy cám dỗ, và chắc hẳn các ngài đau đớn khôn tả, nhưng luôn nỗ lực, kiên vững vượt qua nhờ ơn Chúa và sự hoán cải tận căn. Còn Thánh Giu-se lại là trường hợp quá ư đặc biệt. Như Kinh Thánh thuật lại, ngài là người công chính, khiêm nhường vô song, và hết mực thanh khiết như đoá hoa huệ trắng tinh ban sơ. Có lẽ vì vậy, tâm hồn các Thánh và chúng ta tự khắc được lôi cuốn, tháp nhập vào chính con người của ngài.
Thánh Gio-an Kim Khẩu đã từng thốt lên rằng: “Thánh Giu-se là dưỡng phụ của Đức Giê-su. Trong thời gian dưới thế, Con Thiên Chúa hằng vâng nghe lời ngài thế nào, thì giờ đây trên thiên đàng, Con Thiên Chúa cũng luôn đáp ứng mọi lời khẩn cầu của Thánh Giu-se như vậy. Còn tất cả những ai yêu mến, tôn kính ngài chắc chắn sẽ được hạnh phúc viên mãn, tròn đầy”. Hơn thế, Thánh I-si-đô-rô với lòng sùng kính Thánh Cả, xác quyết trước mọi người: “Thưa anh chị em, hãy yêu mến Thánh Giu-se cách đặc biệt, vì lẽ ai tôn kính ngài, chắc chắn sẽ được nhận lãnh vô số ơn lành từ Thiên Chúa”. Đối với Thánh I-nha-xi-ô Lô-yo-la, Đấng sáng lập Dòng Tên, đã không ngần ngại khẳng định rằng: “Thánh Giu-se là gương mẫu bậc nhất cho mọi Ki-tô hữu”. Nhớ lại khi còn sống tại thế, mỗi lần gặp khó khăn, hoạn nạn, đau khổ, v.v…, ngài luôn viết lời khẩn cầu vào mảnh giấy nhỏ, rồi đặt dưới chân tượng Thánh Giu-se, và cầu nguyện đêm ngày. Hầu hết, các Thánh nhân có lòng tôn kính Thánh Cả, đều để lại lời lẽ vàng son cùng cảm nghiệm quý giá qua nhiều tác phẩm thiêng liêng, đạo đức như sách Tuần Cửu Nhật kính Thánh Giu-su của Đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế, Thánh Al-phong-xô đờ Ri-gô-ri-ô. Và sau đó, chẳng ai ngờ tới, việc đạo đức bình dân này đã lan toả khắp nơi trong các cộng đoàn giáo xứ, hội dòng, nơi thành thị cũng như làng quê xa xôi.
Nói sao cho hết lòng tôn kính vô song của các Thánh đối với Thánh Cả Giu-se! Lúc còn sinh thời, Thánh Phan-xi-cô Sa-lê-zi-ô đã xưng mình là ‘tôi tớ của Thánh Giu-se’. Một lần nọ, khi ngài dâng lễ tại Nhà thờ Chính Toà Ly-on, ngôi thánh đường được cung hiến cho Thánh Cả Giu-se, ngài trở nên chóng mặt đến nỗi muốn ngã quỵ dưới chân bàn thờ. Tình cờ cha phụ tá đi ngang qua nhà nguyện thấy, liền khấn xin Thánh Giu-se cứu giúp ngài. Khi được ơn khoẻ trở lại, Thánh Phan-xi-cô Sa-lê-zi-ô thầm thĩ rằng: “Từ nay, con sẽ trở thành tôi tớ dâng kính Thánh Cả mỗi ngày”. Về sau, ngài lập dòng các sơ Thăm viếng, mỗi khi hướng dẫn đời sống thiêng liêng cho các chị em, ngài luôn luôn nói về tính cần thiết đắc thủ lòng tôn kính Thánh Giu-se hằng ngày.
Các Thánh tỏ lộ sự yêu mến đối với Thánh Cả theo cách thức khác nhau và riêng biệt ở mỗi thời đại; tuy nhiên trong số ấy, Thánh Tê-rê-sa A-vi-la lại có lòng kính yêu Thánh Giu-se vượt trội, đến độ ngài gọi Thánh Cả là ‘cha’. Một câu nói mãi tới giờ vẫn còn vang vọng, phổ biến: “Cha Thánh không bao giờ để ai cầu khẩn ngài về tay không cả!” Trong cuộc đời của Thánh nữ, ngài chẳng quen biết nhiều người, nên mỗi lần gặp hoạn nạn, khó khăn, ngài đều chạy đến van xin Thánh Cả hướng dẫn, giúp đỡ giải quyết mọi chuyện. Tục ngữ Việt Nam có câu “mẹ nào con nấy”. Vì thế, noi gương mẹ thiêng liêng Tê-rê-sa A-vi-la, Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su đã hết lòng sùng kính Thánh Cả Giu-se. Trong cuốn sách thuật lại quá trình điều tra hồ sơ phong Thánh của Thánh Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, có đoạn viết như sau:
“Thánh nữ đã hết lòng kính mến và tôn sùng Thánh Cả Giu-se. Trước khi bước vào tu viện dòng Kín, ngài đã trang hoàng căn phòng nhỏ của mình với tượng Thánh Giu-se, và mỗi ngày hướng về tượng Thánh, đọc kinh khấn xin giữ trọn lòng khiết tịnh. Đến khi được chính thức vào tu viện, Thánh nữ noi gương mẹ thiêng liêng của mình là Thánh Tê-rê-sa A-vi-la, hằng đào sâu lòng tôn kính Cha Thánh Giu-se. Đặc biệt, mỗi lần rước lễ, ngài đều khấn xin Thánh Giu-se giúp mình trở nên xứng đáng rước Chúa Giê-su vào lòng cách cung kính nhất. Có lúc, một chị em hỏi ngài rằng: “Khi dùng bữa, Sơ thường suy nghĩ điều gì vậy? Sơ ấp ủ thực hiện điều gì chăng?” Thánh nữ liền đơn sơ trả lời: “Em luôn nghĩ như một trẻ thơ thôi. Khi dùng bữa, em thường tưởng tượng em đang ăn cùng với gia đình Thánh Gia. Giả như cá hôm ấy bị mặn chát, thức ăn không được ngon, thì em dâng cho Thánh Giu-se, còn đồ ngọt và hoa quả thì em dâng cho Mẹ Ma-ri-a, những lúc lễ mừng tiệc tùng thức ăn ngon thì em dâng cho Chúa Giê-su”. Hơn nữa, mỗi khi tĩnh tâm và trong giờ nguyện, ngài cầu nguyện sốt sắng với Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a thế nào, thì cũng hết lòng khẩn cầu với Thánh Cả Giu-se như vậy. Vài tuần trước khi ngài từ giã cõi đời, ngài cứ ngân nga, tự sáng tác: “Ôi, lạy Thánh Giu-se khiết trinh! Trước mắt con, hiện ra tỏ tường cuộc đời ngài nơi làng Na-da-rét thân thương. Ôi Thánh Cả Giu-se cao vời khôn ví!”. Rồi ngài quay sang nói với Sơ đang chăm sóc mình: “Chị ơi, tâm hồn em giờ đây được tăng thêm sức. Em được nghiệm thấy tường tận cuộc đời dương thế của Cha Thánh Giu-se, một cuộc sống hoàn toàn đơn sơ, giản dị đến lạ thường tại làng Na-da-rét”.
Lòng kính mến Thánh Giu-se cách lạ lùng của Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su là thế. Các Thánh nam nữ khi còn sống đã chiêm ngắm cuộc đời thầm lặng, mộc mạc, nhưng tín thác trọn vẹn vào Thiên Chúa của Thánh Giu-se là vậy. Còn chúng ta, không biết mau mau chạy đến lạc viên Thánh Gia, mà múc lấy mật ngọt nhân đức, đặc biệt, cây hoa huệ trắng tinh vẹn tuyền, hoa trái tốt lành là Thánh Cả Giu-se nữa?
8.
“TRÊN THIÊN QUỐC, THÁNH GIU-SE TỰA NHƯ
NGƯỜI RA LỆNH HƠN LÀ CẦU XIN”
Đấng sáng lập Hội dòng Xuân-Bích (viết tắt: pss - Prêtre de Saint-Sulpice), cha Gio-an Gia-cô-bê Ô-li-ê đã viết trong di khảo của ngài về Thánh Giu-se như sau:
“Thánh Giu-se tuyệt diệu được ban cho thế gian, để biểu dương cho ta thấy những toàn thiện, toàn mỹ đáng tôn thờ của Thiên Chúa Cha. Thánh nhân tích cực góp phần nguyên sơ nơi bản thân ngài những mỹ lệ, trong sáng, khôn ngoan và bác ái, nhân hậu, từ bi của Thiên Chúa Cha”.
Không cần bàn thảo, chúng ta cũng rõ: Đức Giê-su chính là người kính yêu Thánh Giu-se nhất, thứ đến là Mẹ Ma-ri-a với vai trò người Hiền thê của ngài. Ngược lại, người hết lòng yêu thương Đức Giê-su không ai khác là Mẹ Ma-ri-a. Mẹ đã chăm sóc, nuôi nấng trẻ Hài nhi thế nào, thì Thánh Cả Giu-se cũng tận tâm mến yêu Đức Giê-su như vậy.
Thông thường, những ai tôn kính đặc biệt Thánh Giu-se, chắc chắn được ngài yêu thương mến mộ. Một trong vô số các thánh nhân đã được lãnh nhận ân sủng này là Thánh nữ Tê-rê-sa A-vi-la (hay còn gọi: Thánh Tê-rê-sa Giê-su hoặc Tê-rê-sa Cả) sinh ra tại Xứ sở các vũ điệu tưng bừng, và ngôn ngữ tươi vui mang tính lễ hội, đất nước Tây Ban Nha, vào khoảng thế kỷ XVI. Ngài đã hết lòng tôn sùng và kính yêu Thánh Cả Giu-se, cũng như lãnh nhận muôn vàn ơn ích qua lời cầu bầu của Thánh Giu-se. Ngài đã nói về Cha Thánh Giu-se như sau:
“Nếu anh chị em muốn lãnh nhận ân sủng nơi Thiên Chúa, thì chắc chắn hãy xin Thánh Giu-se chuyển cầu cho. Còn khi cần đến ơn đặc biệt từ Thiên Chúa, hãy xin lễ, đồng thời tin tưởng cầu xin cùng Thánh Giu-se. Là Cha Thánh linh hướng đích thật của tôi, Thánh Giu-se chẳng bao giờ ngó lơ, hay bỏ mặc bất cứ lời khẩn khoản nài xin nào của tôi. Không những thế, ngài còn tuôn đổ muôn vàn ơn lành xuống cho tôi nữa. Vì vậy, khi càng nhiều tuổi, già nua, tôi càng phải ra sức mến yêu và tôn kính ngài hơn nữa. Thánh Cả không chỉ ban những ơn về vật chất, mà còn tinh thần, và biết bao nhiêu ân sủng khác. Để tỏ lòng tri ân cảm tạ ngài, tôi thường tổ chức các nghi lễ trang nghiêm và nhiều giờ cầu nguyện sốt sắng, đặc biệt vào dịp lễ kính trọng thể Thánh Cả Giu-se. Tôi luôn tâm niệm duy chỉ một điều là ước gì mọi người khắp nơi trên toàn thế giới biết đến quyền năng cao cả của Thánh Giu-se, ngõ hầu chạy đến cùng ngài, hết lòng cảm tạ tán dương vì được lãnh nhận vô vàn ân sủng qua lời cầu bầu đắc lực của ngài. Rồi đối với những ai có lòng đạo đức tôn kính Thánh Giu-se, biết mở lòng đón nhận ơn thiêng lạ lùng và luôn thăng tiến trên con đường nhân đức.
Nhiều năm trước, vào dịp lễ kính Thánh Giu-se, tôi đã có một thói quen kêu cầu xin ơn đặc biệt nơi ngài. Mãi cho đến nay, lời cầu nguyện này chưa bao giờ bị từ chối hay bị khước từ. Nếu như có khả năng hội hoạ, tôi sẽ chẳng ngần ngại vẽ hết tất cả những ơn lành mà tôi đã được lãnh nhận. Lí do vì sao Đức Giê-su luôn lắng nghe lời Thánh Giu-se khẩn cầu ư? Chẳng phải lúc còn tại thế, ngài không là dưỡng phụ của Đức Giê-su sao? Tương tự, giờ đây, trên thiên quốc, tất cả những gì Cha Thánh Giu-se kêu cầu, thậm chí ra lệnh, thì Chúa Giê-su cũng nhanh nhảu đáp lời. Chẳng phải chỉ riêng tôi, mà tất cả những ai có lòng sùng kính và yêu mến ngài, năng chạy đến cầu nguyện với ngài, thì chắc chắn cũng sẽ nhận lãnh muôn vàn ơn phúc. Cá nhân tôi muốn viết lại tất cả mọi ơn lành Cha Thánh Giu-se trao ban, nhưng điều này cần phải được mẹ bề trên cho phép, nên tôi không thể thực hiện được. Vì lòng vâng phục, tôi chỉ viết đơn giản về một số ơn mà đã lãnh nhận. Với tình yêu Thiên Chúa, anh chị em hãy tin vào những lời tôi nói đây. Giả như không tin tôi, thì anh chị em cũng nên hết lòng tôn kính, chạy đến với Cha Thánh Giu-se nhé! Được thế, một lúc nào đó, người ấy chắc chắn sẽ nghiệm thấy lời tôi nói chẳng chút sai đâu. Vì nếu thực hành việc đạo đức kính mến ngài, thì chắc chắn lòng đạo đức sẽ đâm chồi nẩy lộc, sinh hoa kết quả tốt tươi. Còn đối với ai nỗ lực sống đạo hạnh trong sạch, thì ắt hẳn cần đến niềm tin tưởng, lòng tín thác bừng cháy nơi Thánh Cả Giu-se. Hễ ai hết lòng tôn sùng Trái tim vẹn sạch Đức Nữ Đồng Trinh Ma-ri-a, thì cũng ra sức kính mến Cha Thánh Giu-se sâu sắc đến vậy. Nếu không, tôi sẽ nghi ngờ lòng tin của người ấy.
Giả sử ai trong chúng ta nhận ra mình còn thiếu cầu nguyện, chưa có lòng đạo đức, thì hãy chạy đến tín thác, nương tựa nơi Thánh Cả Giu-se. Để rồi, ngài sẽ chữa lành tâm hồn bất toàn của chúng ta. Nhờ Thánh danh Chúa Ki-tô, tôi xin truyền đạt với hết mọi người rằng: quyền năng của Thánh Cả Giu-se thật sự được biểu lộ cách lạ lùng!”.
Ngay ở dưới thế, vì lòng yêu mến Đức Giê-su, nên Thánh Giu-se đã đơn sơ, khiêm nhu, sống thầm lặng. Cho nên, giờ đây, ngài được hưởng hạnh phúc vinh quang trên Thiên đàng, mà nơi đây, Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a đang chờ lời chuyển cầu của ngài. Thánh Al-phong-sô Grê-gô-ri từng khẳng khái nói: “Trên thiên quốc, đối với Chúa Giê-su, lời cầu của Thánh Giu-se giống như mệnh lệnh, chứ không phải nài van”. Còn Thánh nữ Tê-rê-sa A-vi-la xác quyết hơn: “Trên thiên đàng, Thánh Giu-se như thể ra lệnh hơn là cầu xin”.
Sau hết, noi gương các Thánh, chúng ta sốt sắng chạy đến với Thánh Cả Giu-se, hết lòng yêu mến, tin tưởng và phó thác vào lời bầu cử, chở che của ngài.
9.
ĐÔI NÉT VỀ LÒNG TÔN KÍNH THÁNH CẢ GIU-SE
Tuy Kinh Thánh nhắc đến sự hiện diện của Đức Mẹ và Chúa Giê-su trong tiệc cưới Ca-na, mà nơi đây, phép lạ nước hoá thành rượu ngon hảo hạng được diễn ra. Nhưng điều ngạc nhiên là Thánh Giu-se dường như chẳng được nói tới. Phải chăng ngài không được mời dự tiệc cưới Ca-na?
Theo văn hoá Do Thái, tiệc cưới của một ai trong làng đều là niềm vui của cả làng, vì vậy chắc hẳn mọi người đều được mời tham dự. Trong số đó, dĩ nhiên cũng sẽ có Thánh Giu-se. Chứ chẳng lẽ, Đức Mẹ và Chúa Giê-su được mời, mà Thánh Giu-se không được mời sao? Nói về phép lạ tại tiệc cưới Ca-na, Đức Giám Mục Pi-e cho biết: Sự âm thầm, lui về phía sau, nhưng đầy nồng thắm, mặn mà của Thánh Cả Giu-se như thể rượu ngon được biến hoá trong niềm vui chia san tình làng nghĩa xóm thân quen vậy.
Thật sự, chúng ta không biết chính xác ngày Thánh Giu-se lìa đời, nhưng tương truyền trong khoảng thế kỷ V cho đến thế kỷ IX. Và cứ thế, người người truyền miệng cho nhau, cuối cùng ngày 19 tháng 3 trở thành ngày mừng kính đặc biệt Thánh Cả Giu-se. Tuy nhiên, mãi cho tới thế kỷ XII, việc tôn kính Thánh Giu-se mới bắt đầu được lan rộng; đặc biệt, các Thánh tiến sĩ Hội Thánh đều viết sách ca ngợi, tán dương về quyền thế bầu cử của ngài. Điển hình, từ khoảng thế kỷ XIV trở đi, Thánh I-si-đô đã nghĩ về việc tung hô Thánh Cả Giu-se là Quan thầy của Giáo hội hoàn vũ. Sau đó, làn sóng tôn sùng và giảng thuyết về ngài ngày càng được mở rộng, lan toả. Thậm chí, trong những câu chuyện của các Thánh, mà được thấy Chúa hiện ra, cũng nhắc đến Thánh Cả Giu-se, nhất là chuyện Thánh Ma-ga-ri-ta vùng Cor-tô-na (Ý) thuộc dòng ba Phan-xi-cô. Một lần nọ, Chúa hiện ra, thỏ thẻ với ngài: “Này con gái yêu dấu! Nếu con muốn làm đẹp lòng Ta, thì đừng quên dâng những hy sinh mỗi ngày cho dưỡng phụ của Ta, là Thánh Cả Giu-se nhé!” Hơn nữa, vào năm 1471, Đức Hồng y Phan-xi-cô đel-la Rô-vê-rê trở thành Giáo hoàng Sis-tô IV, đã công bố cho toàn thể tín hữu khắp nơi về việc đạo đức: tôn kính yêu mến Thánh Giu-se cách đặc biệt. Kể từ đó, người người, nhà nhà khi chịu phép Thanh tẩy, đều mong muốn nhận tên Thánh Giu-se làm bổn mạng.
Quay trở lại thế kỷ III, một bộ phận không nhỏ trong thành phần giáo dân đã có lòng tôn kính Thánh Giu-se rồi, nhất là khi được nghe các Thánh Âu-gus-ti-nô, Thánh Gio-an Kim khẩu giảng về nhân đức của ngài; riêng Thánh Bê-na-đô, Thánh Bê-na-đi-nô miền Si-ê-na còn viết sách đề cập đến lòng tôn kính Thánh Cả Giu-se.
Khi nói đến việc yêu mến Thánh Giu-se vừa thâm cung sâu thẳm, vừa rộng lớn bao la, chúng ta không thể nào quên chuyện đời và mối tương quan thân tình của Thánh nữ Tê-rê-sa A-vi-la. Đến nỗi Đức Giáo hoàng Lê-ô XIII còn thốt lên rằng: “Thiên Chúa ước mong việc đạo đức tôn kính Thánh Giu-se được lan toả khắp nơi, nên Ngài mời gọi Thánh nữ cách đặc biệt”. Nhờ sự hy sinh, nhiệt huyết, lòng tin cậy nơi Cha Thánh Giu-se, mà Thánh nữ đã thay đổi, cũng như cải cách tích cực lối sống, tu luật và mọi mặt liên quan đến dòng Kín. Sau khi ngài qua đời, các bề trên thượng cấp muốn đặt để ngài làm quan thầy thay cho Thánh Cả Giu-se (lúc ấy, Thánh Tê-rê-sa A-vi-la mới là Chân phước hoặc Á Thánh). Nhưng khi các mẹ bề trên thượng cấp dòng Kín họp lại bàn hỏi, thì một câu chuyện được kể lại: Thánh nữ hiện ra, khẳng khái nói với các mẹ bề trên như một mệnh lệnh: “Cha Thánh Giu-se mãi mãi là quan thầy của dòng Kín. Vì vậy, chị em đừng bao giờ thay thế Thánh bổn mạng hội dòng”.
Các phép lạ qua lời chuyển cầu của Thánh Giu-se âm thầm được diễn ra, lan rộng như cuộc đời trầm lặng nhưng sâu sắc của ngài vậy. Tại dòng U-su-la ở Ba-lan, một nữ tu tên là Gio-han-na, bị viêm màng phổi nghiêm trọng. Hằng ngày, sơ phải chịu cảnh đau đớn thể xác kinh hoàng, sốt cao, có khi mất cảm giác đau, nhưng tâm trí vẫn minh mẫn. Những lúc ấy, sơ hết lòng sốt sắng cầu nguyện với Thánh quan thầy của các Thánh, đó là Cha Thánh Giu-se, và mong ngài từ trời cao xuống viếng thăm mình. Liền ngay lúc ấy, căn phòng nhỏ tối tăm của sơ rực rỡ ánh sáng, hình dáng điềm tĩnh nhẹ nhàng của Thánh Giu-se hiện rõ dần, và ngài nói với giọng đầy trìu mến: “Ta được lãnh nhận sức mạnh, quyền năng nơi Thiên Chúa, vì thế, con đừng nghi ngờ, đừng đánh mất niềm tin tưởng nơi Ta. Chắc chắn, con sẽ được khoẻ mạnh trở lại”. Lời này được ứng nghiệm trong sự ngỡ ngàng, nhưng đầy lòng trông cậy, cảm tạ Cha Thánh Giu-se của sơ. Được chữa lành, sơ khoẻ trở lại và tiếp tục sống hăng say trong sứ vụ.
Có lẽ, chúng ta chưa có lòng kính mến Thánh Giu-se, xứng tầm với vị thế của ngài! Đôi lần chúng ta chạy đến cầu xin ngài bầu chữa, nhưng còn ngờ vực, đa nghi trong lòng! Có lẽ chúng ta cũng nghe theo người này người kia chịu khó làm Tuần cửu nhật kính Thánh Giu-se, nhưng thật sự chúng ta đã toàn tâm chạy đến với ngài, dâng mọi hy sinh hằng ngày cho ngài chưa? Đây là điều chúng ta cần tự hỏi bản thân và suy ngẫm!
10.
THÁNH GIU-SE VÀ CÔ BÉ TÊ-RÊ-ZI-A
Dưới ánh nắng hoàng hôn chợt tắt, một làng quê nghèo khó hiện ra. Những tia sáng dần dần lui về, nhường chỗ cho màn đêm buông xuống. Trong khung cảnh đó, người người vẫn nối đuôi nhau tiễn biệt một người phụ nữ đã lìa cõi thế, bỏ lại đứa con gái duy nhất của mình.
Ngay sau chiếc linh cữu, cô bé Tê-rê-zi-a trạc 12-13 tuổi, tay cầm di ảnh mẹ, vừa đi vừa khóc nức nở tiếc thương, khiến ai cũng phải sục sùi với hàng lệ rơi ròng ròng trên đôi má. Kể từ lúc thơ ấu, cô bé đã mồ côi cha. Có lẽ thời gian được sống với bố cũng chẳng là bao, nên hầu như không đọng lại nhiều trong tâm khảm. Sau đó, hai mẹ dựa vào nhau mà sống, và được mọi người trong làng đùm bọc chở che, tối lửa tắt đèn có nhau. Nhưng giờ đây, tia hy vọng, niềm an ủi, hạnh phúc gia đình của cô bé cũng tan biến, khi phải nói lời ly biệt với mẹ. Ai trong làng đều nghĩ rằng: mới ngần này, mà bé Tê-rê-zi-a đã phải vác lấy Thánh giá nặng. Sau này, không biết cuộc đời của cô thế nào đây!
Đoạn đường tiễn biệt, đưa mẹ ra nghĩa trang khá xa, nhưng thời gian nói lời vĩnh biệt cũng đã tới. Dĩ nhiên, cô bé muốn thời gian chậm lại, thậm chí ngừng trôi, để được sống cả đời với mẹ yêu dấu. Ước mong đơn sơ là thế! Ước mơ nhỏ bé là vậy! Tuy nhiên, mọi sự trong cuộc đời đều có thời điểm của nó. Sau khi lời kinh tiễn biệt kết thúc, linh cửu dần dần được hạ xuống huyệt, cô bé choàng tới, ôm lấy quan tài, như thể ôm trọn thân xác của mẹ lần cuối, thét lên: “Mẹ ơi!”. Tiếng gọi thất thanh nghẹn ngào, khiến ai trong làng đang hiện diện ở đấy cũng cảm thấy xót xa vô cùng. Ngày dài lê thê, buồn bã rồi cũng chấm dứt. Cuộc đời một mình tự bương chải mưu sinh mở ra, tuy đầy khó khăn, u sầu, tiếc thương, nhưng mọi người trong làng quê ấy hằng hết mực quan tâm, chăm sóc cô. Vì bố mẹ giờ đây vắng bóng, người thân có còn hay không, cô cũng chẳng biết, nên một người quảng đại trong làng đã thay mặt người giám hộ, gửi cô vào trường nội trú do các nữ tu điều hành gần đấy.
Khi được giới thiệu và biết rõ hoàn cảnh đau thương của cô bé Tê-rê-zi-a, sơ hiệu trưởng A-loy-zi-a không khỏi nghẹn ngào, rơi lệ. Vì thế, sơ hết lòng yêu thương cô bé, và chẳng những quan tâm, chăm sóc, sơ còn nghĩ cách vun vén tương lai cho Tê-rê-zi-a nữa, nên sơ cầu nguyện cùng Thánh Giu-se mỗi ngày. Sơ nghĩ đơn giản như một người mẹ đỡ đầu, luôn nhớ cầu nguyện cho đứa con gái bẻ bỏng của mình. Hơn nữa, Thánh Giu-se là trụ cột của gia đình Thánh Gia, nên ngài biết rõ tâm tư, nguyện vọng của người bố và mẹ. Không chỉ vậy, toàn trường nội trú đều chung lòng chạy đến với Thánh Cả Giu-se qua lời kinh cầu tha thiết cho Tê-rê-zi-a tìm thấy người thân của mình.
Mỗi khi lên lớp, ngoài giờ học chăm chú, cô thường ở một mình hoặc những lúc khác, cô giấu mình trong phòng tối, ngồi khóc thương nhớ mẹ, cứ đòi về nhà, chứ không muốn học, cũng không muốn ở trường nữa. Với lòng mến dạt dào, thêm sự tinh tế như một người mẹ, sơ A-loy-zi-a bèn nói chuyện riêng với cô bé, với niềm tin tưởng vào lời cầu bầu của Thánh Giu-se, mọi sự sẽ tốt đẹp hơn đối với Tê-rê-zi-a, sơ đề nghị làm tuần cửu nhật kính Thánh Giu-se. Đồng thời, trong khi đó, sơ xin mẹ bề trên cho phép đăng thông tin tìm người thân của Tê-rê-zi-a trên báo giấy (thời đó, chưa có báo điện tử!). Hy vọng, sau tuần cửu nhật, người thân sẽ tìm đến nhận cô bé. Tuy nhiên, sau 9 ngày cầu nguyện sốt sắng, liên lỉ, không có một lá thư hay điện tín gì được chuyển đến trường nội trú cả. Nhưng lạ lùng thay, tâm tư, tình cảm, con người của Tê-rê-zi-a trầm tĩnh hơn, điềm đạm và dễ mến hơn. Cô bé đến gặp nói chuyện với sơ A-loy-zi-a: “Thưa sơ, chúng ta đã làm tuần cửu nhật tôn kính Thánh Giu-se rồi, nhưng vẫn chưa thấy kết quả gì; hay là lời cầu nguyện của chúng ta chưa sốt sắng đủ?”. Nghe thế, sơ bèn an ủi, vỗ về, nói khẽ: “Tê-rê-zi-a, lời nguyện cầu của chúng ta chắc chắn không trở nên vô ích đâu con. Đôi khi Thiên Chúa thử thách chúng ta đấy. Cho nên, thay vì nhụt chí, bỏ cuộc, chúng ta càng năng nỗ, tín thác, cầu nguyện bền bỉ hơn, ngõ hầu Thánh Giu-se sẽ bầu chữa, và ban ơn lành cho chúng ta, con à!”
Cứ thế, nhiều năm trôi qua với lòng sốt mến, chạy đến nài xin Thánh Cả Giu-se hằng ngày, cô bé Tê-rê-zi-a đã trở thành thiếu nữ xinh xắn, và rồi thời gian tốt nghiệp cũng đến. Một đêm nọ, cô bé đánh liều gõ cửa phòng, xin phép được nói chuyện với sơ A-loy-zi-a. Vừa vào, cô liền khóc nức nở dưới chân sơ, và cố bộc bạch: “Thưa sơ, Thánh Giu-se đã biến đổi tâm hồn con. Trong suốt thời gian vừa qua, Ngài luôn ban muôn ơn lành cải hoá con. Nhiều lúc, con đã ngỗ nghịch, cứng đầu, không biết lắng nghe và vâng lời sơ, xin sơ tha thứ cho con! Rồi ngày tốt nghiệp đang đến dần, nhưng thật lòng, con chẳng muốn rời xa ngôi trường này! Xin sơ cho con ở lại, làm bất cứ việc gì cũng được ạ….”. Sơ A-loy-zi-a xúc động, nâng cô bé dậy, và dịu dàng nói khẽ: “Này con gái bé bỏng! Sơ vui và cảm tạ Thánh Cả Giu-se đã đoái thương đến con cách đặc biệt. Còn về việc ở lại trường sau khi tốt nghiệp thì sơ nghĩ: ai cũng cần ra trường, tự lập, kiên cường đứng trên đôi chân của mình con à. Nhưng dù gì đi nữa, con tiếp tục cầu nguyện với Thánh Giu-se trong khi chờ đợi thời gian tốt nghiệp nhé!”
Có thể nói, những ngày gần kề lễ tốt nghiệp là thời điểm không thể nào quên đối với Tê-rê-zi-a. Cô bé siêng năng tham dự Thánh lễ, chầu Thánh Thể với các sơ. Sau đó, trước khi về phòng, Tê-rê-zi-a luôn không quên quỳ trước bàn thờ Thánh Giu-se mà dâng lời nguyện thầm kín của mình. Một ngày nọ, như thường lệ, cô bé vẫn quỳ trước tượng Thánh Giu-se thầm thĩ cầu xin, nhưng lần này phía sau có sơ A-loy-zi-a cùng quỳ gối . Tức thì, một sơ khác đến nói nhỏ với sơ A-loy-zi-a rằng: “Có người đến thăm Tê-rê-zi-a!” Lúc ấy, vừa ngạc nhiên, nhưng không nằm ngoài mong đợi, sơ A-loy-zi-a mới gọi khẽ: “Tê-rê-zi-a ơi, có người nhà đến thăm con kìa!” Cô bé nghe thế, liền nghĩ: mình đâu có ai thân thiết, vả lại còn đến thăm mình cơ chứ!!! Tuy nhiên, cô tin tưởng, vâng phục sơ A-loy-zi-a và đứng dậy cùng sơ ra phòng khách. Sau khi nghe giới thiệu, sơ và cả Tê-rê-zi-a hết sức sung sướng, vui mừng ôm chầm lấy người bà con thân thuộc duy nhất ấy, đã đợi bao lâu nay. Khi tất cả bình tĩnh, ngồi xuống ghế, và người ấy tiếp tục kể lại: “Mới đây, bố của dì qua đời; trong lúc sửa soạn đồ đạc cho bố, thì thấy một tờ báo rất ư cũ kỹ. Vì hiếu kỳ, nên mở ra xem thì liền thấy thông tin về con. Trong lòng dì vừa mừng vừa lo, không biết con có còn ở địa chỉ mà báo đã đăng hay không, vì thời gian đăng tin cho đến lúc dì tìm thấy tờ báo cũng đã khá lâu rồi…” Cuộc nói chuyện cứ thế tiếp diễn trong nước mắt xúc động dâng trào, chẳng phải giọt lệ tan thương, nhưng những dòng lệ vui sướng không thể diễn tả bằng lời. Còn sơ A-loy-zi-a cứ ngồi nhìn âu yếm hai dì cháu, thầm lặng cảm tạ Thánh Cả Giu-se đã thương nhậm lời, và ban ơn cho cô bé Tê-rê-zi-a tìm lại người thân, cũng như Ngài đã chở che cho tất cả những ai tin tưởng chạy đến với Ngài.
Cô bé Tê-rê-zi-a ngày nào, giờ đây cùng với dì, người thân thiết sống vui sống tốt quảng đời còn lại bên nhau. Tuy cuộc sống gia đình gặp rất nhiều khó khăn, thử thách, nhưng cô và gia đình chẳng bao giờ quên chạy đến cùng Thánh Giu-se.
Lm. Xuân Hy Vọng