TÌNH YÊU CHÚA THÚC BÁCH CON
Tình Chúa lớn lao muôn trùng
Dìu con vượt qua bão giông.
Tình Chúa hy sinh tận cùng
Cho con sự sống tái sinh.
Tình Chúa dẫn đưa mở lối
Đời con tiến bước Ngài ơi!
Tình Chúa hiệp thông kết nối
Xua tan rẽ chia muôn nơi.
Tình Chúa mãi hằng nâng đỡ
Dẫu thân phận hèn con thơ.
Tình Chúa êm ả gió đưa
Ru con mỗi buổi hè trưa.
Tình Chúa thúc bách con hiền
Đôi tay trìu mến mãi liên.
Tình Chúa tựa đầu mong mỏi
Đón con trở về an vui.
Lm. Xuân Hy Vọng
THUYỀN ĐỜI CON
Thuyền đời con mãi trôi
Giữa tăm tối gian trần
Bao chông chênh bất cần
Sóng đánh gần tơi tả.
Giữa bão táp phong ba
Chân quỵ ngã té nhào
Chúa đỡ nâng hôm nao
Ôi đời bao yêu thương.
Thuyền đời con lạc hướng
Muôn nẻo đường xa xăm
Duy chỉ với âm thầm
Để tối tăm đưa lối.
Chúa ra tay kết nối
Giải thoát nỗi u sầu
Trở về lòng nhân hậu
Bao lo âu biến tan.
Thuyền đời con lênh đênh
Giữa thác ghềnh gian khó
Trăm ngàn nỗi lắng lo
Nào đói no túng thiếu
Nhiều phen con chẳng hiểu
Điều chính yếu là chi
Nhưng có Chúa sợ gì
Lòng kiên trì tiến bước.
Lm. Xuân Hy Vọng
1.
“HÃY ĐẾN CÙNG GIU-SE”
Thông thường, Chúa Giê-su dùng đôi tay của vị linh mục mà truyền phép, cử hành Bí tích Thánh Thể. Cũng chính đôi tay này được thánh hiến trong ngày lễ thụ phong, hầu được cầm lấy chính Nhiệm Thể (Mình và Máu Thánh) Chúa Giê-su Ki-tô, và trao ban sự sống này cho dân Chúa.
Tuy nhiên, chúng ta có thể thắc mắc tự hỏi rằng: vậy lúc sinh thời, tại làng Na-da-rét, và đặc biệt khi Đức Mẹ sinh Chúa Giê-su nơi hang đá miền Bê-lem, Thánh Giu-se đã dùng đôi tay của ngài ẵm bồng Hài nhi thế nào? Ngài đã dùng đôi tay mình để chăm sóc Mẹ Chúa Cứu Thế và bồng bế, dỗ dành Chúa Hài Đồng ra sao? Kinh Thánh ghi chép rất ít về Thánh Cả Giu-se, một con người công chính, sống thầm lặng, kín tiếng, kiệm lời mà hết mực yêu thương trìu mến, bao dung vị tha. Cả cuộc đời trên dương thế ngắn ngủi, ngài đã toàn tâm vâng phục theo Thánh ý Chúa, thi hành, nâng đỡ Mẹ Ma-ri-a và Đức Giê-su.
Nhân dịp Đức Thánh Cha công bố Năm đặc biệt kính Thánh Giu-se (8/12/2020 - 8/12/2021), cũng là kỷ niệm 150 năm Giáo hội tuyên phong Thánh nhân làm quan thầy cả Giáo hội, chúng ta cùng trở về Bê-lem nơi hang đá, cùng bôn ba lánh nạn sang Ai-cập, cùng hồi hương Na-da-rét, ngõ hầu chiêm ngắm, học biết, noi gương Thánh Cả Giu-se sống thiện lành trọn vẹn. Cụ thể, trong mỗi ngày, đặc biệt ngày thứ tư trong tuần, chúng ta cùng cầu nguyện với Thánh Giu-se, cùng suy niệm về cuộc đời, tính cách của ngài, và cùng dâng lên ngài những hy sinh nhỏ bé thường ngày của mình.
Trong tâm tình “đến cùng Giu-se”, qua loạt bài viết ngắn này, xin mạn phép chia sẻ một số câu chuyện về Thánh Giu-se với mọi thành phần phẩm trật trong Giáo hội, bao gồm dân Chúa.
Đầu tiên, chuyện kể về một điều kỳ lạ của vị Hồng y dòng Phan-xi-cô 80 tuổi chẳng bao giờ dùng kính (đọc) trước khi ngài qua đời. Tuy đã bước qua tuổi ‘cây cao bóng cả’, nhưng mỗi lần đọc sách hay viết lách, ngài đều không dùng kính, dù chỉ một lần. Hỏi một luật sư tại vùng Nê-a-pô-li, thì được biết thị lực của Đức Hồng y rất tốt; và khi bàn về lí do vì sao được như vậy, thì ngài đã bật mí bí mật bấy lâu nay.
Ngài kể: “Ở tuổi này rồi, mà tôi vẫn không dùng kính (đọc) là chuyện lạ; nhưng lạ lùng hơn khi được biết vì sao như thế đúng không nào!…Vào năm 1869, trước khi tôi được sai đến xứ sở truyền giáo A-bi-shi-ni-a, đột nhiên mắt tôi bị đau, cố gắng đọc-viết ít lại nhưng vẫn cảm thấy nhói xót trong mắt, và đến một lúc không thể làm bất cứ việc gì. Tôi trở nên bất lực. Tuy nhiên, tự nhủ lòng mình rằng mọi chuyện sẽ qua, rồi xin phép bề trên đi cắt kính: một cặp mắt kính độ nhẹ, và một cặp mắt kính độ cao. Sau đó, mang theo lên đường đến xứ truyền giáo ấy. Vừa đặt chân lên vùng đất truyền giáo, tôi vui sướng tột cùng, mặc dù vẫn còn canh cánh trong lòng vì thị lực của đôi mắt tôi ngày càng yếu dần, yếu dần, và đến một lúc nào đó, đôi mắt mất đi tia sáng, tôi chẳng còn nhìn thấy sự vật gì xung quanh nữa. Mọi tạo vật tươi tốt, xinh đẹp mà Chúa dựng nên, giờ đây chỉ còn lại bóng tối trước con người yếu hèn, mỏng dòn này. Ngày qua ngày, bóng tối bao trùm tôi. Nhưng lạ lùng thay, khi tôi bị mất thị lực ngẫu nhiên lại là ngày thứ tư!”
Nước mắt giàn dụa vì xúc động khi hồi tưởng lại, ngài tiếp lời: “Tôi tự tìm đến và bước vào một ngôi nhà thờ đã được thánh hiến cho Thánh Cả Giu-se ở đó, dâng toàn bộ đôi kính của mình trước bàn thờ ngài, khóc lóc lớn tiếng, sụp lạy sát đất, nguyện cầu: ‘Lạy Thánh Giu-se, nhờ ơn Chúa, con được sai đến vùng đất truyền giáo này hầu làm rạng danh Thiên Chúa, nhưng giờ đây, đôi mắt con như thế này. Ngài biết rõ hơn con, đôi mắt này quan trọng ra sao trong hoàn cảnh này mà. Xin ngài chữa lành con! Xin ngài chữa lành con! Con xin dâng đôi mắt và toàn thân này cho Thánh Cả với tất cả tâm tình cảm tạ tán dương’. Vừa dứt lời nguyện, tức thì nước mắt tôi ngừng rơi, mặc dù còn vài giọt lệ đang lăn dở trên hai gò má gầy còm. Tôi nhìn thấy mờ mờ tượng Thánh Cả Giu-se, và đến khi nhìn thấy tỏ tường tượng ngài, thì những giọt nước mắt không ngừng tuôn. Giọt nước mắt đầy cảm tạ tri ân! Giọt lệ của niềm vui hoan lạc! Thánh Giu-se đã thực hiện điều phi thường này, ngài đã chữa lành đôi mắt tôi ngay lúc tôi nài van. Chính vì vậy, ở tuổi ‘gần đất xa trời’, mà tôi không cần dùng bất cứ chiếc kính nào như mọi người khác cùng thời với tôi. Và đây chính là biến cố kỳ lạ mà Thánh Cả Giu-se đã tỏ lộ quyền năng của ngài nơi tôi”.
Lạy Thánh Cả Giu-se
Con xin dâng hiện tại
Phó thác cả tương lai
Ghé mắt trông thương xem.
Lạy Thánh Cả Giu-se
Nguyện xin ngài chở che
Cuộc sống con tứ bề
Luôn an ủi đỡ nâng.
Lạy Thánh Cả Giu-se
Xin cầu thay nguyện giúp
Đoàn con đây nheo nhút
Hằng cậy trông vào Ngài.
Lạy Thánh Cả Giu-se
Thương trao ban hôm nay
Ôi cao đẹp quý thay
Sống khiêm nhường đơn sơ.
2.
THÁNH GIU-SE - ĐẤNG BẦU CỬ QUYỀN THẾ
Thánh Bri-git-ta, Thuỵ Điển có lòng tôn kính Thánh Cả Giu-se khôn tả. Ngài nói: “Bất cứ ai tôn kính đặc biệt Thánh Cả, đều nhận được các ơn sủng: (1) khiết tịnh trọn vẹn và chiến thắng cám dỗ; (2) ăn năn sám hối và xưng tội cách trọn; (3) thêm lòng kính mến Đức Mẹ; (4) ơn nhận biết đường hướng tương lai của bản thân; (5) chẳng những đạt ơn phúc trọn lành về mặt thiêng liêng, mà còn được trở nên phong phú về mặt vật chất, ngày càng thăng tiến trong đời sống đạo đức, ngõ hầu hoàn tất trách vụ, năng lãnh nhận và tôn sùng Bí tích Thánh Thể.
Vào năm 1891 tại Insbrook, nước Úc, nơi ngôi làng nọ, chỉ có hai mẹ con nương tựa sống với nhau. Hồi còn bé, đứa con trai bà rất đạo đức, tốt lành. Nhưng khi lớn lên, ‘đủ lông đủ cánh’, cậu tự lập ra đời làm việc, chẳng may đã rơi vào tình trạng sống bê tha, bỏ đạo, thậm chí phạm sự thánh, xúc phạm đến Chúa. Mẹ cậu hết sức phiền não, buồn bã và tìm mọi cách giúp đứa con trai duy nhất của mình quay trở về với Chúa. Tuy nhiên, cậu ta vẫn muốn ra ngoài, bỏ mẹ thui thủi cô đơn ở nhà. Trong hoàn cảnh này, không một người mẹ nào lại nhẹ lòng đồng ý cả! Do đó, bà đã kịch liệt phản đối, nhưng đứa con trai lại hăm doạ kết liễu cuộc đời nó, nên cuối cùng, vì mất hết niềm hy vọng, bà để cậu làm theo ý riêng, nhưng yêu cầu một điều, đó là: muốn nó làm tuần cửu nhật kính Đức Mẹ Lộ Đức. Trước khi thực hiện, cậu ta nhớ lại lời mẹ đã từng nói: “Nếu con làm tuần cửu nhật kính Đức Mẹ, thì chắc hẳn con sẽ tìm được việc làm tốt đẹp”. Thế nhưng, sự việc không diễn ra như vậy, mà biến cố kỳ lạ khác đã xảy ra.
Thật trùng hợp lạ lùng, thánh bổn mạng của cậu là Giu-se. Lúc chuẩn bị bắt đầu tuần cửu nhật kính Đức Mẹ, thì có tiếng nói thầm thỉ vang vọng trong tâm trí anh: Nếu con tôn kính Thánh Giu-se trong chín ngày (tuần cửu nhật), chắc chắn con sẽ tìm được công ăn việc làm…Sau đó, anh nhanh nhẹn làm theo, thực hiện mọi việc như đã hứa với mẹ ngay từ ngày đầu tiên trong tuần cửu nhật. Sang ngày thứ hai, cách anh nhìn sự việc thay đổi, và đến ngày thứ ba, anh đã tìm được việc làm. Cứ thế cầu nguyện đến ngày thứ chín, anh tự nguyện đến cha xứ xin chịu phép Hoà giải cách trọn vẹn. Rồi anh trở về với đời sống đạo như ngày còn thơ bé, rước lễ và làm mọi sự khiến mẹ cậu hạnh phúc, phấn khởi, vui tươi trở lại.
Quả thật, sau đó trở đi, anh ta sống thánh thiện tốt lành, và chẳng bao giờ quên lời cầu bầu đắc lực, cũng như biến cố lạ lùng mà Thánh Cả Giu-se đã thực hiện nơi anh.
Lạy Thánh Giu-se Đấng bầu chữa con
Xin giữ gìn con thoát cơn nguy biến
Giữa chốn gian trần, giúp con thăng tiến
Về chốn an bình, vinh hiển nhường bao.
3.
GIU-SE: THÁNH CẢ THẦM LẶNG
Hôm nọ, một thanh thiếu niên ghé thăm nhà dòng Cát-minh nam, và muốn gặp cha Gu-chi-nô. Trong khi đợi ngoài phòng khách, ngó quanh phòng, em thấy hình Thánh Gio-an Thánh Giá và Thánh Tê-rê-sa Giê-su (thường được gọi là Tê-rê-sa Cả). Ít phút sau, cha Gu-chi-nô bước ra, chợt nhìn khuôn mặt buồn rầu của em, ngài liền chào và hỏi:
Em ấp úng trả lời:
- Dạ…, thưa cha, con đến xin cha cho con một lời khuyên ạ!
- Thế à, cha sẵn sàng, miễn giúp con vui trở lại.
Em liền tâm sự, tỏ bày hết mọi nỗi lòng, rằng:
- Thưa cha, con muốn đi tu và loan truyền Lời Chúa, nhưng bố mẹ con đang bị bệnh nặng…Con phải làm gì đây ạ?
Cha Gu-chi-nô vẫn lặng im, nhìn em âu yếm với niềm cảm thông sâu sắc. Và vì vậy, em tiếp tục chuyện trò:
- Như con đọc sách hạnh các Thánh, hầu như các Thánh đều làm những việc đặc biệt lạ thường. Chẳng phải điều này là ơn sủng từ Thiên Chúa sao ạ?
- Đúng vậy con à. Tuy nhiên, cha biết có một vị Thánh rất cao cả trong hàng ngũ các Thánh, nhưng Ngài sống thầm lặng, dung dị và giản đơn. Hầu như ít người chạy đến kêu cầu ngài. Con muốn biết vị Thánh này không?
- Dạ, con đang rất hào hứng muốn biết ạ!
Nhìn nét mặt đổi sắc vui tươi của cậu bé, cha Gu-chi-nô cũng hoan hỉ, liền kể về cuộc đời thầm lặng của Thánh Cả Giu-se cho em nghe: Trước mặt mọi người, ngài không làm việc gì kỳ lạ lớn lao cả. Suốt thời gian sống trên dương thế, Thánh Giu-su luôn âm thầm chăm sóc Con Chúa và Mẹ Ma-ri-a. Tuy nghèo, nhưng ngài chẳng bao giờ quên bảo vệ gia đình Thánh Gia Thất. Bề ngoài là một người trầm lặng, kiệm lời, nhưng nội tâm lại tràn đầy ơn sủng Chúa, khiến ngài được gần kề bên Chúa, và có vị thế cao cả trong Nước Trời. Lúc sinh thời, Thánh Giu-se luôn nâng đỡ, dìu dắt Đức Giê-su. Ngài cùng với Mẹ Ma-ri-a, đồng hành và kết hiệp mật thiết với Con Chúa trong mọi sinh hoạt thường nhật…
Câu chuyện cứ tiếp diễn, và cũng đến lúc cậu bé nói lời cám ơn cha Gu-chi-nô mà ra về. Thời gian sau đó, bố mẹ của cậu từ giã cõi đời, để lại tài sản kếch xù khi cậu bé chỉ bước sang tuổi 21. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, vì không biết quản lý, sinh lợi từ gia sản mà bố mẹ để lại, số tiền lớn đã ‘đội nón ra đi’, lạc mất vào những việc vô bổ. Cứ thế, cậu dần dần rơi vào tình trạng ăn chơi phóng đãng, sa lầy vào mê cung bói toán, mê tín, ma thuật. Nhiệt huyết năm xưa khao khát trở thành người hiến dâng cho Chúa, và muốn rao truyền Lời Chúa dần phai mờ, chết mòn. Thay vào đó, đời sống truỵ lạc, vô đạo đức và trở nên bất tín!
Vào một ngày kia, trong lúc cảm thấy mình cô độc và bất hạnh, thì cậu gặp được người phụ nữ đạo hạnh và bà ấy cho cậu sợi dây chuyền có tượng Thánh Giu-se. Khi trao cho cậu, bà dặn đi dặn lại: “Hãy đeo vào cổ, và đừng bao giờ vứt bỏ, vì Thánh Cả sẽ âm thầm gìn giữ cậu!”. Tuy được căn dặn kỹ càng, nhưng tâm trí còn hồ nghi, và chẳng để ý gì đến lời của bà ấy, nên cậu không đeo vào, vẫn cứ giữ chặt trong tay. Hai tuần sau, anh đột ngột ngã bệnh. Suốt đêm ấy, một mình đau đớn nằm trên giường bệnh miên man. Trong cơn mơ, anh thấy ma quỷ giơ cánh tay đen đủi gớm ghiết, kéo linh hồn mình xuống hoả ngục. Vì hoảng hốt, sợ hãi, anh bừng tỉnh dậy, nhưng cảm nhận và thấy dây chuyền tượng Thánh Giu-se nằm trên ngực mình. Anh liền nắm chặt vào lòng bàn tay, ấn mạnh vào lồng ngực và đôi vai, thầm khấn với Thánh Cả cầu bầu cùng Chúa tha thứ cho mình, và hứa sẽ sớm trở về với Chúa, xưng thú mọi tội lỗi đã trót phạm. Vừa dứt lời nguyện, anh cảm thấy an tâm và đi vào giấc ngủ. Sáng hôm sau, khi thức dậy, điều đầu tiên anh cảm thấy là chiếc dây chuyền tượng Thánh Giu-se nằm nguyên trên ngực. Chẳng bao lâu sau, anh khoẻ trở lại, xuất viện, thay vì trở về nhà, anh liền tìm ngay đến một vị linh mục gần nhất để xưng hết tội lỗi như đã hứa với Thánh Cả. Từ đó, anh bỏ đàng ma thuật, mê tín, mà trở về với Chúa, bắt đầu làm việc lành phúc đức, ra tay giúp đỡ mọi người bất hạnh, khổ đau, và sống đạo thánh thiện giữa đời.
Lạy Thánh Cả Giu-se
Tuy âm thầm lặng lẽ
Nhưng hằng luôn chuyển cầu
Bầu cử và chở che.
Dẫu cả đời trầm lặng
Chăm sóc cùng đỡ nâng
Gia đình Thánh Gia Thất
Trọn đời sống thánh ân.
Nguyện xin Ngài thương đến
Đoàn con thơ trìu mến
Một lòng hướng về Ngài
Giữa bao nỗi lênh đênh.
Đưa thuyền con về bến
Nơi sóng khơi chông chênh
Luôn giữ vững tay chèo
Bên Thánh Cả ấm êm.
4.
BẢY SỰ THƯƠNG KHÓ - BẢY SỰ MỪNG VUI TRONG ĐỜI THÁNH GIU-SE
Là những người tôn kính Thánh Cả Giu-se đặc biệt, chúng ta luôn tìm hiểu cách thức làm việc đạo đức mỗi ngày để dâng lên Ngài như: Tuần Cửu Nhật kính nhớ Thánh Giu-se, đọc sách thiêng liêng học hỏi nhân đức Thánh Cả, hy sinh hãm mình, sống bái ái yêu thương, v.v…Tuy nhiên một truyền thống lâu đời xuất phát từ dòng Phan-xi-cô hèn mọn, đặc biệt trong số những việc làm đạo đức bình dân ấy, chúng ta không thể không nhớ đến Bảy sự thương khó và Bảy sự vui mừng của Thánh Giu-se. Khi gẫm xong mỗi sự thương khó hay sự vui mừng này, chúng ta đọc kinh Lạy Cha 7 lần, và kinh Kính Mừng 7 lần.
Sau đây là nội dung của Bảy sự thương khó và Bảy sự vui mừng của Thánh Giu-se:
Bảy sự thương khó, thứ nhất thì ngắm: Thánh Cả lo lắng vì biết tin Mẹ Ma-ri-a mang thai, tuy chưa về chung sống với nhau.
Bảy sự vui mừng, thứ nhất thì ngắm: Thiên sứ báo tin trong giấc mộng, giải thích cho Ngài về hài nhi trong dạ Mẹ Ma-ri-a chính là Con Thiên Chúa, và truyền cho Ngài đặt tên con trẻ là Giê-su.
Bảy sự thương khó, thứ hai thì ngắm: Lên đường đi về làng Bê-lem, trong khi Mẹ Ma-ri-a đã đến thời ‘mãn nguyệt khai hoa’, và chứng kiến Đức Mẹ sinh Hài nhi Giê-su nơi hang lừa đơn nghèo.
Bảy sự vui mừng, thứ hai thì ngắm: Hân hoan cùng với các thiên thần đồng thanh hát mừng ngày Con Chúa giáng trần, sinh hạ nơi hang đá chiên lừa.
Bảy sự thương khó, thứ ba thì ngắm: Thánh Giu-se lo lắng cùng với Mẹ Ma-ri-a mang con trẻ lên đền Thánh Giê-ru-sa-lem chịu cắt bì.
Bảy sự vui mừng, thứ ba thì ngắm: Theo lời sứ thần truyền, Thánh Cả hân hoan đặt tên cho Hài nhi là Giê-su.
Bảy sự thương khó, thứ tư thì ngắm: Thánh Giu-se không khỏi lo âu khi nghe lời tiên tri của cụ Si-mê-on nói về cuộc thương khó của Đức Giê-su và vết dao đâm thâu tâm hồn Mẹ Ma-ri-a.
Bảy sự vui mừng, thứ tư thì ngắm: Nhờ ơn Thánh của Chúa Giê-su và lời chuyển cầu của Mẹ Ma-ri-a, Thánh Cả biết được nhân loại được cứu rỗi.
Bảy sự thương khó, thứ năm thì ngắm: Thánh Giu-se không chút bồn chồn, lo lắng khi đưa Mẹ Ma-ri-a cùng Hài Nhi trốn sang Ai-Cập trong đêm.
Bảy sự vui mừng, thứ năm thì ngắm: Tại Ai-Cập, khi Hài Nhi Giê-su vừa tới, Thánh Cả trông thấy các tượng thần ngẫu tượng ngã đổ xuống đất.
Bảy sự thương khó, thứ sáu thì ngắm: Thánh Giu-se gian nan trên hành trình đưa Mẹ Ma-ri-a và Con trẻ về lại cố hương, về quê Na-da-rét.
Bảy sự vui mừng, thứ sáu thì ngắm: Thiên sứ hiện ra an ủi và truyền cho Thánh Cả dẫn dắt Mẹ Ma-ri-a và Hài Nhi Giê-su về quê hương xứ sở Ga-li-lê-a.
Bảy sự thương khó, thứ bảy thì ngắm: Thánh Giu-se lo lắng khi lạc mất trẻ Giê-su 3 ngày đàng tại Giê-ru-sa-lem.
Bảy sự vui mừng, thứ bảy thì ngắm: Thánh Cả sung sướng khôn tả khi tìm thấy trẻ Giê-su tại đền thờ.
Việc làm đạo đức này, ít nhiều liên quan đến câu chuyện thời xa xưa như sau: Trên chuyến tàu đến đất nước Hà Lan, trong số 300 người có 2 thầy dòng tu nọ. Thuyền vẫn băng băng lướt trên sóng đại dương, buồm giương cao trong gió, thẳng tiến về hướng đã ấn định của chuyến hành trình. Tuy nhiên, vài ngày sau đó, một trận cuồng phong, mưa to bão táp ập đến. Thuyền trưởng và các thuyền viên cố gắng hết sức chống trọi để cứu thuyền, nhưng lực bất tòng tâm, và thuyền cứ thế chìm dần xuống biển khơi. Theo lẽ thường, mọi người đã bỏ mạng ngoài đại dương, làm mồi cho cá biển rồi, nhưng hai thầy dòng kia vẫn còn sống sót, cố gắng gượng sức suốt ba ngày lênh đênh trên biển, không ăn không uống gì. Sức lực nhiều đến bao nhiêu cũng sẽ đến lúc cạn kiệt, và phó mặc cho sóng khơi đại dương bát ngát chôn vùi. Tuy nhiên, cả hai đều tin tưởng mạnh mẽ vào Thánh Cả Giu-se và không chút nhụt chí, vẫn một niềm phó thác vào Ngài. Dĩ nhiên, mọi nguy biến càng ngày càng hiện rõ trước mắt hai thầy dòng, thì lúc ấy một người đàn ông trai tráng trẻ trung hiện ra. Không thể tin vào đôi mắt mình, tuy vậy khi nhìn khuôn mặt phúc hậu và nụ cười tươi của người đàn ông ấy, cả hai đều an lòng, vui sướng, dù chẳng hề biết danh tính. Thế rồi, cơ thể của hai thầy dòng dường cứ như được tiếp sức, nổi lên trên mặt biển và tiến dần vào bờ. Một sự thể không phải trong mơ, cũng chẳng phải ma thuật huyền bí gì, nhưng việc lạ lùng này xảy ra chính là nhờ người đàn ông trai tráng trẻ trung ấy. Khi vào đến bờ, người này mới thổ lộ: “Tôi là Giu-se đây. Nếu muốn cám ơn tôi, xin hai vị đừng quên suy gẫm Bảy sự thương khó và Bảy sự vui mừng của tôi. Và mỗi lần ngắm xong, nguyện 7 lần kinh Lạy Cha và 7 lần kinh Kính Mừng. Hãy giới thiệu rộng rãi việc làm đạo đức này, vì hễ ai trung thành thực hiện điều này, tôi sẽ trao ban ân sủng lạ lùng cho họ”.
Nói xong, diện mạo người đàn ông trẻ trung ấy dần dần biến mất trong ánh nhìn hút hồn của hai thầy dòng. Và rồi, biến cố lạ lùng này chẳng bao giờ phai mờ trong tâm trí của hai thầy dòng ấy. Họ vui mừng thực thi mỗi ngày và cũng không quên giới thiệu việc làm đạo đức bình dân này cho mọi người khác.
Chúng con nguyện ngắm trung thành
Cuộc đời Thánh Cả đồng hành với con.
Bảy sự thương khó héo hon
Mãi luôn nhường bước ôn tồn mừng vui.
Giu-se, Cha Thánh chẳng lùi
Hằng trông cậy Chúa khôn nguôi trọn đời.
Thương-mừng nối tiếp không ngơi
Tin tưởng phó thác rạng khơi tâm hồn.
Noi gương Thánh Cả chí tôn
Toàn tâm mến Chúa, vẹn tròn thương yêu.
5.
THÁNH CẢ GIU-SE VỚI LỜI KHẨN NGUYỆN CỦA CHÚNG TA
Trong chúng ta, khi được hỏi về lí do tại sao bản thân lại sùng kính Thánh Giu-se như vậy, thì chắc hẳn mỗi người đều có lời giải đáp riêng, nhưng có lẽ vẫn tựu chung vì Thánh Cả đầy nhân đức, thánh thiện, chung thuỷ, trung thành, quan tâm, chăm sóc gia đình Thánh Gia, bảo bọc, che chở Đức Mẹ và Hài Nhi Giê-su, luôn đồng hành, dạy dỗ, hướng dẫn trẻ Giê-su khi còn sống ở dương thế, v.v…Rất rất nhiều lí do khác nữa.
Tuy nhiên, đối với cá nhân tôi, ngoài những lí do trên, tôi còn cảm nhận sâu sắc lời bầu cử chở che của Thánh Cả Giu-se. Như Thánh Bri-git-ta Thuỵ Điển đã từng xác quyết: “Suốt cả đời dương thế, Đức Giê-su luôn luôn vâng phục và làm theo những gì Thánh Giu-se dạy bảo”. Chắc hẳn mọi sinh hoạt thường nhật như quét dọn nhà cửa, lau chùi, dọn dẹp, xách nước, phụ giúp công việc thợ mộc, v.v…đều được Đức Giê-su vui vẻ thực hiện, hỗ trợ Thánh Cả và Mẹ Người.
Trong tiểu sử của Thánh Ma-ga-rít-ta có đoạn kể về chuyện: một lần nọ, Chúa Giê-su đã hiện ra với Ngài và căn dặn rằng: “Này con, hãy hết lòng kính mến cha Thánh Giu-se!” Ngôn từ tuy ngắn ngủi, nhưng mỗi lần nghe lại lời chỉ dạy này, chúng ta không khỏi bồi hồi, và nhủ lòng cố gắng sống yêu mến, tôn kinh Thánh Cả cách đặc biệt. Vậy, mọi lời khẩn nguyện thành tâm của chúng ta, qua lời bầu chữa của Ngài, sẽ chẳng bao giờ trở lại với chúng ta một cách vô ích. Khi xưa, Thánh Cả đã từng bảo vệ đức trong sạch vẹn tuyền của Mẹ Ma-ri-a thế nào, thì giờ đây và cho đến mai sau, Ngài cũng hằng gìn giữ, đỡ nâng ơn gọi sống đức khiết tịnh như vậy.
Vào dịp chuyện trò cùng với các bạn trẻ, cha Bê-na-đô dòng Car-mê-lô đã chia sẻ kinh nguyện mà ngài trung thành đọc hằng ngày, xin Thánh Cả Giu-su giúp sức, giữ trọn đức khiết tịnh vẹn tuyền:
- Này các con, các bạn trẻ đang sống trong thế giới sung túc, tiện lợi, nên việc giữ tâm hồn luôn trong sạch chẳng phải là điều dễ dàng. Ma quỷ, mọi thứ cám dỗ sẽ khiến các bạn vướng vào bợn nhơ, tội lỗi phạm đến đức khiết tịnh. Vì thế, các bạn phải luôn tỉnh thức và chiến đấu với nó. Tuy nhiên, hễ ai chạy đến nài xin Thánh Cả Giu-se chở che, nâng đỡ, thì sẽ chiến thắng bất cứ cơn cám dỗ, hoặc sự xúi giục xấu xa nào. Nếu các bạn cầu nguyện với Thánh Giu-se, thì Ngài hằng hướng dẫn từng người một cách đặc biệt. Hỡi các bạn trẻ, mỗi ngày, hãy chạy đến cầu xin Thánh Cả gìn giữ lòng thanh sạch, đức khiết tịnh của mình. Vì trên tay Ngài luôn cầm nhành hoa huệ trắng xinh, tượng trưng cho tình yêu tinh tuyền, chẳng vướng tội nhơ, và lòng thanh sạch. Đức khiết tịnh chính là sức mạnh tâm hồn, là đoá hoa thiêng liêng tươi thắm. Nhờ lời bầu cử của Thánh Cả Giu-se, nó sẽ được nở rộ như nhành huệ trắng xinh. Nếu mất đi lòng khiết trinh, tâm hồn chúng ta sẽ vướng bận những gì trần tục, thấp hèn, và lòng chúng ta sẽ chẳng thể nào hướng về quê hương đích thật trên trời. Đừng xin những gì chóng qua dưới thế, nhưng xin những sự vĩnh hằng, không hề hư nát trên thiên đường! Để được như thế, trước hết, các bạn phải có lòng vẹn sạch, nhân đức khiết tịnh.
Ngoài ra, dù trong tháng mười, tháng Mân côi, nhưng vào ngày 15 tháng 8 năm 1889, Đức Giáo hoàng Lê-ô XIII đã thêm kinh ông Thánh Giu-se bầu cử (“Lạy ơn ông thánh Giuse, chúng tôi chạy đến cùng người…”), kinh do Ngài soạn và đăng ở cuối Thông điệp Quamquam pluries, trong đó có đoạn Ngài mong muốn các bạn trẻ phổ biến rộng rãi lòng tôn kính Thánh Cả Giu-se, nhất là trong thời đại nhiễu nhương, vô luân thường đạo lý. Đáp lời mời gọi ấy, chúng ta cũng noi gương Đức Giê-su, luôn biết kính mến, chạy đến cầu xin Thánh Giu-se cứu giúp, đặc biệt trong những lúc gian nan khốn khó, khi bị cám dỗ phạm đến đời sống khiết tịnh. Chúng ta tin chắc rằng Ngài sẽ chẳng bỏ mặc, mà ngược lại, Ngài hằng để mắt đoái trông và nhậm lời chúng ta cầu khẩn.
Trên thực tế, về cảm nghiệm này, Thánh Cả Giu-se đã thực hiện biết bao chuyện kỳ lạ, phi thường. Trong số đó, có câu chuyện sau: Ở thành thị nọ, một bé gái suốt ngày chỉ thích sưu tập những cuốn chuyện về ma quỷ, xấu xa, và cứ chăm bẳm vào chúng, không biết nghe lời bố mẹ chỉ bảo. Tuy thế, bố mẹ em hết lòng yêu thương, sẵn sàng tha thứ, sẵn sàng đồng hành với con dù cả thế giới này đổi thay, thậm chí tiền tài danh phận có thể bị tan tành chăng nữa, miễn sao cô bé bỏ thói quen không tốt kia, mà biết nghe lời bố mẹ chỉ dẫn. Bao năm tháng cứ trôi qua, hai người cứ cố gắng hết sức, khóc hết nước mắt dạy bảo, mong cô con gái dừng lại, nhưng cô vẫn bất tuân, chẳng chịu hối lỗi. Một hôm, nhân cơ hội cô bé đi đến nhà bạn bè chơi, hai ông bà thử vào phòng cô, bất chợt thấy cuốn sách nói về ma thuật đang được mở ra trên bàn. Ngay lúc ấy, hai người với lòng đạo đức, liền đọc kinh khấn Thánh Giu-su, xin tha thứ và trợ giúp đứa con gái bé bỏng của mình. Đặc biệt, hai ông bà không quên bỏ vào cuốn sách ấy tấm hình Thánh Cả, cũng mong Ngài tha thứ về chuyện này, và tin tưởng, nhờ lời chuyển cầu của Thánh nhân, cô con gái sẽ được cải hối. Hồi sau, lúc cô về nhà, bước vào phòng, không hề biết chuyện gì xảy ra trước đó, nhưng khi thấy bên trong cuốn sách ma thuật có tấm hình Thánh Giu-se, và phía sau là kinh cầu Thánh nhân. Tuy rất đỗi ngạc nhiên, cô bé vẫn cứ chăm chú đọc từng lời kinh nguyện ấy. Và càng đọc thì tâm hồn được biến đổi, được cảm thấy nhẹ nhỏm như thể trút đi tảng đá to bấy lâu đè nặng trên con người bé nhỏ của mình. Dần dần mỗi ngày nhờ lời khấn nguyện Thánh Giu-se chân thành, cô bé được ơn trở lại, ăn năn sám hối, biết vâng phục bố mẹ, sống đạo đức thánh thiện; và dĩ nhiên, cô bé đã đốt hết tất cả những cuốn sách ma quỷ, ma thuật…bỏ thói quen sưu tập chúng.
Lạy ơn ông Thánh Giu-se
Tuy thầm lặng nhưng lắng nghe con cầu
Lời bào chữa luôn đi đầu
Chẳng để con đợi, âu sầu tháng năm.
Xưa Ngài chăm sóc tận tâm
Gia đình Thánh Thất âm thầm hân hoan.
Nay xin ghé mắt chứa chan
Giữ gìn dân nước, bình an muôn nhà.
Sẵn sàng yêu mến thiết tha
Cậy trông, tín thác bao la đời đời.
6.
THÁNH CẢ GIU-SE VỚI ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN
Khi nói đến đời sống đạo đức, chắc hẳn ai trong chúng ta đều nghe đến hai chữ ‘cầu nguyện’, và cũng đã biết làm gì mỗi lúc nguyện cầu. Tuy nhiên, nếu xét kỹ lưỡng, chúng ta sẽ nhận thấy khi cầu nguyện, chúng ta thường nài xin hơn cảm tạ Thiên Chúa, thường van xin hơn tâm sự chuyện trò và lắng nghe Chúa. Bởi thế, nhiều người trong chúng ta không biết thánh ý Chúa được thông truyền cho chúng ta. Dường như chúng ta chỉ nói-xin-van-nài Chúa, mà không dành thời gian tịnh tâm để lắng nghe tiếng Chúa, vì lẽ Ngài cũng muốn tâm sự, chuyện trò với chúng ta.
Cuộc sống thể lý cần khí trời, lương thực, nước uống, mối tương quan, v.v…thế nào, thì tinh thần và đời sống tâm linh chúng ta cần đến ân sủng, Lời Chúa, Thánh Thể, và tình thân qua việc cầu nguyện như vậy. Nếu chúng ta bất cẩn, không quan tâm đến thể lý, không giữ gìn sức khoẻ, thì cơ thể chúng ta sẽ trở nên gầy gò, ốm yếu, thậm chí ngã bệnh, thiếu hoặc suy dinh dưỡng. Hơn thế, chúng ta sẽ chẳng bao giờ thăng tiến, trưởng thành, nếu bê trễ, biếng nhác trong đời sống thiêng liêng, tu đức, mà nền tảng chính là lời cầu nguyện.
Thật ra, Kinh Thánh không nói chi tiết về đời sống hằng ngày của Thánh Giu-se, nhưng thiết nghĩ ngài là ‘người công chính’, là ‘đấng ngay chính tận trung’, ‘trọn tốt trọn lành’, ‘cực thanh cực tịnh’, ‘cực khôn cực ngoan’…(như chúng ta thường đọc trong Kinh cầu Thánh Giu-se), thì chắc chắn ngài hằng liên lỉ sống kết hiệp với Chúa qua đời sống cầu nguyện thường nhật. Là trụ cột gia đình Thánh Thất, ngài phải chăm lo, săn sóc, quan tâm đến Đức Mẹ và con trẻ Giê-su. Với trách nhiệm gánh vác kinh tế gia đình, ngài cũng hết lòng nỗ lực lao động dù hoàn cảnh Thánh Gia chẳng mấy khá giả gì, nói đúng hơn là nghèo khó. Tuy vậy, ngài chẳng bao giờ quên cầu nguyện từ khi ánh bình minh ló rạng cho đến khi hoàng hôn buông xuống, ngày tàn đêm qua. Chúng ta từng nghe Thánh sử Lu-ca mô tả Đức Mẹ ‘hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng’ (x. Lc 2, 19), nghĩa là: Mẹ hằng tâm niệm, chiêm ngắm công trình kỳ diệu mà Thiên Chúa thực hiện nơi Mẹ. Nói cách khác, có thể Mẹ không thấu hiểu hết những việc Thiên Chúa làm nơi mình, nhưng hoàn toàn tín thác, vâng phục và sống kết hiệp với Chúa. Tương tự, mặc dù Kinh Thánh không đề cập, nhưng Thánh Giu-se hẳn cũng luôn sống thân tình mật thiết với Chúa qua mọi sinh hoạt hằng ngày!
Ngoài ra, là người Do Thái thuần tuý, thuộc dòng dõi Vua Đa-vít, nên chắc chắn Thánh Giu-se hiểu rõ và trung thành giữ giới răn của Chúa được ghi trong sách Luật Mô-sê và các Ngôn sứ. Không chỉ am hiểu về mặt ngữ nghĩa, mà ngài còn sống trọn vẹn, tận tâm mỗi ngày giới răn yêu thương, vì ‘ngài là đấng kiên tâm, mạnh mẽ mọi đàng’, ‘hay vâng lời chịu luỵ cho trọn’, ‘gương nhân đức nhịn nhục’, và ‘đấng yêu chuộng sự khó khăn’, v.v…(trích trong Kinh cầu Thánh Giu-se). Vì thế, chúng ta nên từng bước học đòi, noi gương Thánh Giu-se biết bền bỉ, liên lỉ cầu nguyện, chứ không chỉ van nài, kêu xin!
Ở quốc đảo Sei-ron kia (thuộc Sri-lan-ka ngày nay), tại thành thị A-lak-ka, có một giáo phái dị giáo, toàn thờ lạy ma quỷ trong rừng sâu. 400 năm trước Công nguyên, A-lak-ka là thủ đô của quốc đảo này, vốn được mệnh danh là trung tâm văn hoá, còn giữ lại biết bao kiến trúc cổ xưa với nhiều đền thờ, nhà cửa cổ kính. Tuy nhiên, ngay giữa thành phố, lại có một đền thờ đặc biệt thờ ngẫu tượng, ở chính điện có khoảng ba ngàn tu viện nhỏ, và hơn hai vạn nam tu sĩ sụp lạy thờ phụng thần ngẫu tượng. Theo sử xưa ghi chép, trước đó rất lâu rồi, đã có hai nhà truyền giáo Công giáo đặt chân tới nơi này. Dĩ nhiên, thoạt đầu quá ư gian truân, muôn vàn khó nguy, nhưng hai vị đã trao phó nơi này cho Thánh Cả Giu-se, đồng thời thành lập một nơi gọi là trung tâm truyền giáo, và hằng ngày hăng say rao truyền Tin mừng cho người dân A-lak-ka. Giáo phái thờ ngẫu tượng ghét cay ghét đắng các ngài, bèn bày mưu tính kế bạo loạn hòng đuổi các ngài. Họ cướp phá, giật sập nhà cửa, thậm chí dùng vũ khí uy hiếp, la làng đổ tội. Lúc ấy, cha Âu-gus-ti-nô đang thinh lặng chầu Thánh Thể trong nguyện đường, họ xông vào lấy áo lễ, tượng ảnh Thánh và chén Thánh vứt ra ngoài mà dẫm đạp lên. Chưa hết, họ bắt và đưa ngài ra trước thánh đường, ném đá đánh đập ngài; họ nhuộm đỏ chiếc áo dòng đen, và nghĩ ngài đã chết nên tống ngài vào tu viện nữ của giáo phái họ. Tuy nhiên, dân vùng A-lak-ka thầm thì rỉ tai nhau truyền lại rằng: vài tuần sau đó, 50 người chủ mưu sát hại cha Âu-gus-ti-nô đã bị bắt và chịu mức án tử hình. Vào ngày hành quyết, tất cả bọn họ đều sửng sốt vì tận mắt thấy cha chưa chết, mà còn hiện diện ở đó. Quan toà liền hỏi ngài: “Thưa linh mục, ngài đến đây có gì chăng? Để lên án hay kết tội bọn họ?” Cha đáp lời: “Thật tiếc cho tôi vì đã không được diễm phúc nhận lãnh triều thiên tử vì đạo. Tuy nhiên, tôi không kết án kẻ bách hại mình, mà trái lại, tôi yêu mến họ, vì chưng, tôi muốn trở thành người tôi tớ trung tín của Chúa Giê-su Ki-tô. Noi gương Ngài, tôi yêu thương hết mọi người, và tôi cũng không mong muốn những người này phải bị tử hình hoặc chịu hình phạt thảm khốc nào!” Dân chúng xung quanh nghe thế, bèn thốt lên: “Ôi tuyệt vời, ông thầy tu Công giáo này thật phi thường. Ông đã xin tha thứ tội lỗi cho những kẻ giết hại mình”. Liền đó, 50 bị cáo phủ phục trước cha Âu-gus-ti-nô mà nài xin: “Lời dạy của Đức Ki-tô mà cha hằng tin tưởng thật là giáo huấn đích thật. Xin cha chỉ dạy cho chúng tôi!”
Thấy vậy, cha đỡ mọi người đứng dậy, thầm thĩ tạ ơn Thánh Cả Giu-se đã chẳng bỏ ngài, trái lại, luôn gìn giữ, chở che, nâng đỡ, và hằng cầu bầu cho ngài trước toà Chúa.
Giu-se Thánh Cả hiền nhân
Chằng hề quên lãng đỡ nâng con hèn.
Dòng đời dù lắm truân chuyên
Ngài luôn che chở, ân thiên tuôn tràn.
7.
TƯƠNG QUAN MẬT THIẾT GIỮA CÁC THÁNH VỚI THÁNH CẢ GIU-SE
Trong gia đình Thánh Gia Na-da-rét có muôn loài hoa nhân đức đua nhau hé nở khoe sắc tươi xinh tựa như chốn lạc viên Thiên đường.
Như bao ong bướm bay đi tìm mật trên những nhành hoa thắm, hút hương hoa từ nhuỵ bông thế nào, thì với ý nghĩa nào đó, các Thánh nhân cũng hằng chạy đến múc lấy mật ngọt từ vườn hoa nhân đức Thánh Gia. Còn tâm hồn các ngài chắc hẳn ở nơi lạc viên ấy!
Đối với chư Thánh nam nữ, trong gia đình Na-da-rét, Đức Giê-su chính là đích điểm, còn Mẹ Ma-ri-a là người trung gian gần nhất để các ngài chạy đến với Con Mẹ. Vì thế, không cần nói quá nhiều, chúng ta cũng biết được các Thánh hằng khao khát dâng cả con tim, tâm trí cho Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a.
Tuy nhiên, nếu như vậy thì thiếu đi một người trụ cột gia đình Na-da-rét, là bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, là dưỡng phụ của Đức Giê-su. Trong mọi biến cố cuộc đời gia đình Thánh gia, Thánh Cả Giu-se đã hết lòng quan tâm trìu mến, tận tâm nâng đỡ, hỗ trợ, chăm sóc hai mẹ con; đặc biệt đứng trước những tình cảnh khó khăn, lánh nạn sang xứ người Ai-cập trong đêm, ở nơi ấy vừa phải vất vả mưu sinh, lo toan cho gia đình, vừa đối diện với rào cản văn hoá, ngôn ngữ, đồ ăn thức uống, v.v…Rồi đến khi được báo tin trở về cố hương Na-da-rét, thay vì chọn đường ngắn nhất, nhưng vì ác vương Hê-rô-đê, đành phải tiến bước trên hành trình dài hơn, gian nan hơn. Đặt chân tới Na-da-rét, một làng quê khô cằn, nghèo khó, Thánh Cả Giu-se bắt đầu gầy dựng lại, ngõ hầu ổn định cuộc sống mưu sinh hằng ngày, chăm sóc, dạy bảo con trẻ Giê-su, đồng thời đỡ đần Mẹ Ma-ri-a vượt qua mọi gian nan, vất vả thường nhật, mà ba đấng luôn luôn sống trong sự bình an, yên hàn và hạnh phúc. Nói đến đây, chúng ta biết rằng: Chỉ sau Đức Mẹ, Thánh Giu-se vượt trổi hơn các Thánh nam nữ, và ngài được tôn kính đặc biệt trên trời cũng như dưới đất.
Tương tự như chúng ta, các Thánh cũng đã từng trải qua biết bao nhiêu nỗi yếu hèn, đam mê của cải vật chất, danh giá, tài sản, bị rơi vào cạm bẫy cám dỗ, và chắc hẳn các ngài đau đớn khôn tả, nhưng luôn nỗ lực, kiên vững vượt qua nhờ ơn Chúa và sự hoán cải tận căn. Còn Thánh Giu-se lại là trường hợp quá ư đặc biệt. Như Kinh Thánh thuật lại, ngài là người công chính, khiêm nhường vô song, và hết mực thanh khiết như đoá hoa huệ trắng tinh ban sơ. Có lẽ vì vậy, tâm hồn các Thánh và chúng ta tự khắc được lôi cuốn, tháp nhập vào chính con người của ngài.
Thánh Gio-an Kim Khẩu đã từng thốt lên rằng: “Thánh Giu-se là dưỡng phụ của Đức Giê-su. Trong thời gian dưới thế, Con Thiên Chúa hằng vâng nghe lời ngài thế nào, thì giờ đây trên thiên đàng, Con Thiên Chúa cũng luôn đáp ứng mọi lời khẩn cầu của Thánh Giu-se như vậy. Còn tất cả những ai yêu mến, tôn kính ngài chắc chắn sẽ được hạnh phúc viên mãn, tròn đầy”. Hơn thế, Thánh I-si-đô-rô với lòng sùng kính Thánh Cả, xác quyết trước mọi người: “Thưa anh chị em, hãy yêu mến Thánh Giu-se cách đặc biệt, vì lẽ ai tôn kính ngài, chắc chắn sẽ được nhận lãnh vô số ơn lành từ Thiên Chúa”. Đối với Thánh I-nha-xi-ô Lô-yo-la, Đấng sáng lập Dòng Tên, đã không ngần ngại khẳng định rằng: “Thánh Giu-se là gương mẫu bậc nhất cho mọi Ki-tô hữu”. Nhớ lại khi còn sống tại thế, mỗi lần gặp khó khăn, hoạn nạn, đau khổ, v.v…, ngài luôn viết lời khẩn cầu vào mảnh giấy nhỏ, rồi đặt dưới chân tượng Thánh Giu-se, và cầu nguyện đêm ngày. Hầu hết, các Thánh nhân có lòng tôn kính Thánh Cả, đều để lại lời lẽ vàng son cùng cảm nghiệm quý giá qua nhiều tác phẩm thiêng liêng, đạo đức như sách Tuần Cửu Nhật kính Thánh Giu-su của Đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế, Thánh Al-phong-xô đờ Ri-gô-ri-ô. Và sau đó, chẳng ai ngờ tới, việc đạo đức bình dân này đã lan toả khắp nơi trong các cộng đoàn giáo xứ, hội dòng, nơi thành thị cũng như làng quê xa xôi.
Nói sao cho hết lòng tôn kính vô song của các Thánh đối với Thánh Cả Giu-se! Lúc còn sinh thời, Thánh Phan-xi-cô Sa-lê-zi-ô đã xưng mình là ‘tôi tớ của Thánh Giu-se’. Một lần nọ, khi ngài dâng lễ tại Nhà thờ Chính Toà Ly-on, ngôi thánh đường được cung hiến cho Thánh Cả Giu-se, ngài trở nên chóng mặt đến nỗi muốn ngã quỵ dưới chân bàn thờ. Tình cờ cha phụ tá đi ngang qua nhà nguyện thấy, liền khấn xin Thánh Giu-se cứu giúp ngài. Khi được ơn khoẻ trở lại, Thánh Phan-xi-cô Sa-lê-zi-ô thầm thĩ rằng: “Từ nay, con sẽ trở thành tôi tớ dâng kính Thánh Cả mỗi ngày”. Về sau, ngài lập dòng các sơ Thăm viếng, mỗi khi hướng dẫn đời sống thiêng liêng cho các chị em, ngài luôn luôn nói về tính cần thiết đắc thủ lòng tôn kính Thánh Giu-se hằng ngày.
Các Thánh tỏ lộ sự yêu mến đối với Thánh Cả theo cách thức khác nhau và riêng biệt ở mỗi thời đại; tuy nhiên trong số ấy, Thánh Tê-rê-sa A-vi-la lại có lòng kính yêu Thánh Giu-se vượt trội, đến độ ngài gọi Thánh Cả là ‘cha’. Một câu nói mãi tới giờ vẫn còn vang vọng, phổ biến: “Cha Thánh không bao giờ để ai cầu khẩn ngài về tay không cả!” Trong cuộc đời của Thánh nữ, ngài chẳng quen biết nhiều người, nên mỗi lần gặp hoạn nạn, khó khăn, ngài đều chạy đến van xin Thánh Cả hướng dẫn, giúp đỡ giải quyết mọi chuyện. Tục ngữ Việt Nam có câu “mẹ nào con nấy”. Vì thế, noi gương mẹ thiêng liêng Tê-rê-sa A-vi-la, Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su đã hết lòng sùng kính Thánh Cả Giu-se. Trong cuốn sách thuật lại quá trình điều tra hồ sơ phong Thánh của Thánh Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, có đoạn viết như sau:
“Thánh nữ đã hết lòng kính mến và tôn sùng Thánh Cả Giu-se. Trước khi bước vào tu viện dòng Kín, ngài đã trang hoàng căn phòng nhỏ của mình với tượng Thánh Giu-se, và mỗi ngày hướng về tượng Thánh, đọc kinh khấn xin giữ trọn lòng khiết tịnh. Đến khi được chính thức vào tu viện, Thánh nữ noi gương mẹ thiêng liêng của mình là Thánh Tê-rê-sa A-vi-la, hằng đào sâu lòng tôn kính Cha Thánh Giu-se. Đặc biệt, mỗi lần rước lễ, ngài đều khấn xin Thánh Giu-se giúp mình trở nên xứng đáng rước Chúa Giê-su vào lòng cách cung kính nhất. Có lúc, một chị em hỏi ngài rằng: “Khi dùng bữa, Sơ thường suy nghĩ điều gì vậy? Sơ ấp ủ thực hiện điều gì chăng?” Thánh nữ liền đơn sơ trả lời: “Em luôn nghĩ như một trẻ thơ thôi. Khi dùng bữa, em thường tưởng tượng em đang ăn cùng với gia đình Thánh Gia. Giả như cá hôm ấy bị mặn chát, thức ăn không được ngon, thì em dâng cho Thánh Giu-se, còn đồ ngọt và hoa quả thì em dâng cho Mẹ Ma-ri-a, những lúc lễ mừng tiệc tùng thức ăn ngon thì em dâng cho Chúa Giê-su”. Hơn nữa, mỗi khi tĩnh tâm và trong giờ nguyện, ngài cầu nguyện sốt sắng với Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a thế nào, thì cũng hết lòng khẩn cầu với Thánh Cả Giu-se như vậy. Vài tuần trước khi ngài từ giã cõi đời, ngài cứ ngân nga, tự sáng tác: “Ôi, lạy Thánh Giu-se khiết trinh! Trước mắt con, hiện ra tỏ tường cuộc đời ngài nơi làng Na-da-rét thân thương. Ôi Thánh Cả Giu-se cao vời khôn ví!”. Rồi ngài quay sang nói với Sơ đang chăm sóc mình: “Chị ơi, tâm hồn em giờ đây được tăng thêm sức. Em được nghiệm thấy tường tận cuộc đời dương thế của Cha Thánh Giu-se, một cuộc sống hoàn toàn đơn sơ, giản dị đến lạ thường tại làng Na-da-rét”.
Lòng kính mến Thánh Giu-se cách lạ lùng của Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su là thế. Các Thánh nam nữ khi còn sống đã chiêm ngắm cuộc đời thầm lặng, mộc mạc, nhưng tín thác trọn vẹn vào Thiên Chúa của Thánh Giu-se là vậy. Còn chúng ta, không biết mau mau chạy đến lạc viên Thánh Gia, mà múc lấy mật ngọt nhân đức, đặc biệt, cây hoa huệ trắng tinh vẹn tuyền, hoa trái tốt lành là Thánh Cả Giu-se nữa?
8.
“TRÊN THIÊN QUỐC, THÁNH GIU-SE TỰA NHƯ
NGƯỜI RA LỆNH HƠN LÀ CẦU XIN”
Đấng sáng lập Hội dòng Xuân-Bích (viết tắt: pss - Prêtre de Saint-Sulpice), cha Gio-an Gia-cô-bê Ô-li-ê đã viết trong di khảo của ngài về Thánh Giu-se như sau:
“Thánh Giu-se tuyệt diệu được ban cho thế gian, để biểu dương cho ta thấy những toàn thiện, toàn mỹ đáng tôn thờ của Thiên Chúa Cha. Thánh nhân tích cực góp phần nguyên sơ nơi bản thân ngài những mỹ lệ, trong sáng, khôn ngoan và bác ái, nhân hậu, từ bi của Thiên Chúa Cha”.
Không cần bàn thảo, chúng ta cũng rõ: Đức Giê-su chính là người kính yêu Thánh Giu-se nhất, thứ đến là Mẹ Ma-ri-a với vai trò người Hiền thê của ngài. Ngược lại, người hết lòng yêu thương Đức Giê-su không ai khác là Mẹ Ma-ri-a. Mẹ đã chăm sóc, nuôi nấng trẻ Hài nhi thế nào, thì Thánh Cả Giu-se cũng tận tâm mến yêu Đức Giê-su như vậy.
Thông thường, những ai tôn kính đặc biệt Thánh Giu-se, chắc chắn được ngài yêu thương mến mộ. Một trong vô số các thánh nhân đã được lãnh nhận ân sủng này là Thánh nữ Tê-rê-sa A-vi-la (hay còn gọi: Thánh Tê-rê-sa Giê-su hoặc Tê-rê-sa Cả) sinh ra tại Xứ sở các vũ điệu tưng bừng, và ngôn ngữ tươi vui mang tính lễ hội, đất nước Tây Ban Nha, vào khoảng thế kỷ XVI. Ngài đã hết lòng tôn sùng và kính yêu Thánh Cả Giu-se, cũng như lãnh nhận muôn vàn ơn ích qua lời cầu bầu của Thánh Giu-se. Ngài đã nói về Cha Thánh Giu-se như sau:
“Nếu anh chị em muốn lãnh nhận ân sủng nơi Thiên Chúa, thì chắc chắn hãy xin Thánh Giu-se chuyển cầu cho. Còn khi cần đến ơn đặc biệt từ Thiên Chúa, hãy xin lễ, đồng thời tin tưởng cầu xin cùng Thánh Giu-se. Là Cha Thánh linh hướng đích thật của tôi, Thánh Giu-se chẳng bao giờ ngó lơ, hay bỏ mặc bất cứ lời khẩn khoản nài xin nào của tôi. Không những thế, ngài còn tuôn đổ muôn vàn ơn lành xuống cho tôi nữa. Vì vậy, khi càng nhiều tuổi, già nua, tôi càng phải ra sức mến yêu và tôn kính ngài hơn nữa. Thánh Cả không chỉ ban những ơn về vật chất, mà còn tinh thần, và biết bao nhiêu ân sủng khác. Để tỏ lòng tri ân cảm tạ ngài, tôi thường tổ chức các nghi lễ trang nghiêm và nhiều giờ cầu nguyện sốt sắng, đặc biệt vào dịp lễ kính trọng thể Thánh Cả Giu-se. Tôi luôn tâm niệm duy chỉ một điều là ước gì mọi người khắp nơi trên toàn thế giới biết đến quyền năng cao cả của Thánh Giu-se, ngõ hầu chạy đến cùng ngài, hết lòng cảm tạ tán dương vì được lãnh nhận vô vàn ân sủng qua lời cầu bầu đắc lực của ngài. Rồi đối với những ai có lòng đạo đức tôn kính Thánh Giu-se, biết mở lòng đón nhận ơn thiêng lạ lùng và luôn thăng tiến trên con đường nhân đức.
Nhiều năm trước, vào dịp lễ kính Thánh Giu-se, tôi đã có một thói quen kêu cầu xin ơn đặc biệt nơi ngài. Mãi cho đến nay, lời cầu nguyện này chưa bao giờ bị từ chối hay bị khước từ. Nếu như có khả năng hội hoạ, tôi sẽ chẳng ngần ngại vẽ hết tất cả những ơn lành mà tôi đã được lãnh nhận. Lí do vì sao Đức Giê-su luôn lắng nghe lời Thánh Giu-se khẩn cầu ư? Chẳng phải lúc còn tại thế, ngài không là dưỡng phụ của Đức Giê-su sao? Tương tự, giờ đây, trên thiên quốc, tất cả những gì Cha Thánh Giu-se kêu cầu, thậm chí ra lệnh, thì Chúa Giê-su cũng nhanh nhảu đáp lời. Chẳng phải chỉ riêng tôi, mà tất cả những ai có lòng sùng kính và yêu mến ngài, năng chạy đến cầu nguyện với ngài, thì chắc chắn cũng sẽ nhận lãnh muôn vàn ơn phúc. Cá nhân tôi muốn viết lại tất cả mọi ơn lành Cha Thánh Giu-se trao ban, nhưng điều này cần phải được mẹ bề trên cho phép, nên tôi không thể thực hiện được. Vì lòng vâng phục, tôi chỉ viết đơn giản về một số ơn mà đã lãnh nhận. Với tình yêu Thiên Chúa, anh chị em hãy tin vào những lời tôi nói đây. Giả như không tin tôi, thì anh chị em cũng nên hết lòng tôn kính, chạy đến với Cha Thánh Giu-se nhé! Được thế, một lúc nào đó, người ấy chắc chắn sẽ nghiệm thấy lời tôi nói chẳng chút sai đâu. Vì nếu thực hành việc đạo đức kính mến ngài, thì chắc chắn lòng đạo đức sẽ đâm chồi nẩy lộc, sinh hoa kết quả tốt tươi. Còn đối với ai nỗ lực sống đạo hạnh trong sạch, thì ắt hẳn cần đến niềm tin tưởng, lòng tín thác bừng cháy nơi Thánh Cả Giu-se. Hễ ai hết lòng tôn sùng Trái tim vẹn sạch Đức Nữ Đồng Trinh Ma-ri-a, thì cũng ra sức kính mến Cha Thánh Giu-se sâu sắc đến vậy. Nếu không, tôi sẽ nghi ngờ lòng tin của người ấy.
Giả sử ai trong chúng ta nhận ra mình còn thiếu cầu nguyện, chưa có lòng đạo đức, thì hãy chạy đến tín thác, nương tựa nơi Thánh Cả Giu-se. Để rồi, ngài sẽ chữa lành tâm hồn bất toàn của chúng ta. Nhờ Thánh danh Chúa Ki-tô, tôi xin truyền đạt với hết mọi người rằng: quyền năng của Thánh Cả Giu-se thật sự được biểu lộ cách lạ lùng!”.
Ngay ở dưới thế, vì lòng yêu mến Đức Giê-su, nên Thánh Giu-se đã đơn sơ, khiêm nhu, sống thầm lặng. Cho nên, giờ đây, ngài được hưởng hạnh phúc vinh quang trên Thiên đàng, mà nơi đây, Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a đang chờ lời chuyển cầu của ngài. Thánh Al-phong-sô Grê-gô-ri từng khẳng khái nói: “Trên thiên quốc, đối với Chúa Giê-su, lời cầu của Thánh Giu-se giống như mệnh lệnh, chứ không phải nài van”. Còn Thánh nữ Tê-rê-sa A-vi-la xác quyết hơn: “Trên thiên đàng, Thánh Giu-se như thể ra lệnh hơn là cầu xin”.
Sau hết, noi gương các Thánh, chúng ta sốt sắng chạy đến với Thánh Cả Giu-se, hết lòng yêu mến, tin tưởng và phó thác vào lời bầu cử, chở che của ngài.
9.
ĐÔI NÉT VỀ LÒNG TÔN KÍNH THÁNH CẢ GIU-SE
Tuy Kinh Thánh nhắc đến sự hiện diện của Đức Mẹ và Chúa Giê-su trong tiệc cưới Ca-na, mà nơi đây, phép lạ nước hoá thành rượu ngon hảo hạng được diễn ra. Nhưng điều ngạc nhiên là Thánh Giu-se dường như chẳng được nói tới. Phải chăng ngài không được mời dự tiệc cưới Ca-na?
Theo văn hoá Do Thái, tiệc cưới của một ai trong làng đều là niềm vui của cả làng, vì vậy chắc hẳn mọi người đều được mời tham dự. Trong số đó, dĩ nhiên cũng sẽ có Thánh Giu-se. Chứ chẳng lẽ, Đức Mẹ và Chúa Giê-su được mời, mà Thánh Giu-se không được mời sao? Nói về phép lạ tại tiệc cưới Ca-na, Đức Giám Mục Pi-e cho biết: Sự âm thầm, lui về phía sau, nhưng đầy nồng thắm, mặn mà của Thánh Cả Giu-se như thể rượu ngon được biến hoá trong niềm vui chia san tình làng nghĩa xóm thân quen vậy.
Thật sự, chúng ta không biết chính xác ngày Thánh Giu-se lìa đời, nhưng lễ mừng kính Ngài được nhắc đến lần đầu tiên trong Phụng vụ vào khoảng thế kỷ V cho đến thế kỷ IX. Và cứ thế, người người truyền miệng cho nhau, cuối cùng ngày 19 tháng 3 trở thành ngày mừng kính đặc biệt Thánh Cả Giu-se. Tuy nhiên, mãi cho tới thế kỷ XII, việc tôn kính Thánh Giu-se mới bắt đầu được lan rộng; đặc biệt, các Thánh tiến sĩ Hội Thánh đều viết sách ca ngợi, tán dương về quyền thế bầu cử của ngài. Điển hình, từ khoảng thế kỷ XIV trở đi, Thánh I-si-đô đã nghĩ về việc tung hô Thánh Cả Giu-se là Quan thầy của Giáo hội hoàn vũ. Sau đó, làn sóng tôn sùng và giảng thuyết về ngài ngày càng được mở rộng, lan toả. Thậm chí, trong những câu chuyện của các Thánh, mà được thấy Chúa hiện ra, cũng nhắc đến Thánh Cả Giu-se, nhất là chuyện Thánh Ma-ga-ri-ta vùng Cor-tô-na (Ý) thuộc dòng ba Phan-xi-cô. Một lần nọ, Chúa hiện ra, thỏ thẻ với ngài: “Này con gái yêu dấu! Nếu con muốn làm đẹp lòng Ta, thì đừng quên dâng những hy sinh mỗi ngày cho dưỡng phụ của Ta, là Thánh Cả Giu-se nhé!” Hơn nữa, vào năm 1471, Đức Hồng y Phan-xi-cô đel-la Rô-vê-rê trở thành Giáo hoàng Sis-tô IV, đã công bố cho toàn thể tín hữu khắp nơi về việc đạo đức: tôn kính yêu mến Thánh Giu-se cách đặc biệt. Kể từ đó, người người, nhà nhà khi chịu phép Thanh tẩy, đều mong muốn nhận tên Thánh Giu-se làm bổn mạng.
Quay trở lại thế kỷ III, một bộ phận không nhỏ trong thành phần giáo dân đã có lòng tôn kính Thánh Giu-se rồi, nhất là khi được nghe các Thánh Âu-gus-ti-nô, Thánh Gio-an Kim khẩu giảng về nhân đức của ngài; riêng Thánh Bê-na-đô, Thánh Bê-na-đi-nô miền Si-ê-na còn viết sách đề cập đến lòng tôn kính Thánh Cả Giu-se.
Khi nói đến việc yêu mến Thánh Giu-se vừa thâm cung sâu thẳm, vừa rộng lớn bao la, chúng ta không thể nào quên chuyện đời và mối tương quan thân tình của Thánh nữ Tê-rê-sa A-vi-la. Đến nỗi Đức Giáo hoàng Lê-ô XIII còn thốt lên rằng: “Thiên Chúa ước mong việc đạo đức tôn kính Thánh Giu-se được lan toả khắp nơi, nên Ngài mời gọi Thánh nữ cách đặc biệt”. Nhờ sự hy sinh, nhiệt huyết, lòng tin cậy nơi Cha Thánh Giu-se, mà Thánh nữ đã thay đổi, cũng như cải cách tích cực lối sống, tu luật và mọi mặt liên quan đến dòng Kín. Sau khi ngài qua đời, các bề trên thượng cấp muốn đặt để ngài làm quan thầy thay cho Thánh Cả Giu-se (lúc ấy, Thánh Tê-rê-sa A-vi-la mới là Chân phước hoặc Á Thánh). Nhưng khi các mẹ bề trên thượng cấp dòng Kín họp lại bàn hỏi, thì một câu chuyện được kể lại: Thánh nữ hiện ra, khẳng khái nói với các mẹ bề trên như một mệnh lệnh: “Cha Thánh Giu-se mãi mãi là quan thầy của dòng Kín. Vì vậy, chị em đừng bao giờ thay thế Thánh bổn mạng hội dòng”.
Các phép lạ qua lời chuyển cầu của Thánh Giu-se âm thầm được diễn ra, lan rộng như cuộc đời trầm lặng nhưng sâu sắc của ngài vậy. Tại dòng U-su-la ở Ba-lan, một nữ tu tên là Gio-han-na, bị viêm màng phổi nghiêm trọng. Hằng ngày, sơ phải chịu cảnh đau đớn thể xác kinh hoàng, sốt cao, có khi mất cảm giác đau, nhưng tâm trí vẫn minh mẫn. Những lúc ấy, sơ hết lòng sốt sắng cầu nguyện với Thánh quan thầy của các Thánh, đó là Cha Thánh Giu-se, và mong ngài từ trời cao xuống viếng thăm mình. Liền ngay lúc ấy, căn phòng nhỏ tối tăm của sơ rực rỡ ánh sáng, hình dáng điềm tĩnh nhẹ nhàng của Thánh Giu-se hiện rõ dần, và ngài nói với giọng đầy trìu mến: “Ta được lãnh nhận sức mạnh, quyền năng nơi Thiên Chúa, vì thế, con đừng nghi ngờ, đừng đánh mất niềm tin tưởng nơi Ta. Chắc chắn, con sẽ được khoẻ mạnh trở lại”. Lời này được ứng nghiệm trong sự ngỡ ngàng, nhưng đầy lòng trông cậy, cảm tạ Cha Thánh Giu-se của sơ. Được chữa lành, sơ khoẻ trở lại và tiếp tục sống hăng say trong sứ vụ.
Có lẽ, chúng ta chưa có lòng kính mến Thánh Giu-se, xứng tầm với vị thế của ngài! Đôi lần chúng ta chạy đến cầu xin ngài bầu chữa, nhưng còn ngờ vực, đa nghi trong lòng! Có lẽ chúng ta cũng nghe theo người này người kia chịu khó làm Tuần cửu nhật kính Thánh Giu-se, nhưng thật sự chúng ta đã toàn tâm chạy đến với ngài, dâng mọi hy sinh hằng ngày cho ngài chưa? Đây là điều chúng ta cần tự hỏi bản thân và suy ngẫm!
10.
THÁNH GIU-SE VÀ CÔ BÉ TÊ-RÊ-ZI-A
Dưới ánh nắng hoàng hôn chợt tắt, một làng quê nghèo khó hiện ra. Những tia sáng dần dần lui về, nhường chỗ cho màn đêm buông xuống. Trong khung cảnh đó, người người vẫn nối đuôi nhau tiễn biệt một người phụ nữ đã lìa cõi thế, bỏ lại đứa con gái duy nhất của mình.
Ngay sau chiếc linh cữu, cô bé Tê-rê-zi-a trạc 12-13 tuổi, tay cầm di ảnh mẹ, vừa đi vừa khóc nức nở tiếc thương, khiến ai cũng phải sục sùi với hàng lệ rơi ròng ròng trên đôi má. Kể từ lúc thơ ấu, cô bé đã mồ côi cha. Có lẽ thời gian được sống với bố cũng chẳng là bao, nên hầu như không đọng lại nhiều trong tâm khảm. Sau đó, hai mẹ con dựa vào nhau mà sống, và được mọi người trong làng đùm bọc chở che, tối lửa tắt đèn có nhau. Nhưng giờ đây, tia hy vọng, niềm an ủi, hạnh phúc gia đình của cô bé cũng tan biến, khi phải nói lời ly biệt với mẹ. Ai trong làng đều nghĩ rằng: mới ngần này, mà bé Tê-rê-zi-a đã phải vác lấy Thánh giá nặng. Sau này, không biết cuộc đời của cô thế nào đây!
Đoạn đường tiễn biệt, đưa mẹ ra nghĩa trang khá xa, nhưng thời gian nói lời vĩnh biệt cũng đã tới. Dĩ nhiên, cô bé muốn thời gian chậm lại, thậm chí ngừng trôi, để được sống cả đời với mẹ yêu dấu. Ước mong đơn sơ là thế! Ước mơ nhỏ bé là vậy! Tuy nhiên, mọi sự trong cuộc đời đều có thời điểm của nó. Sau khi lời kinh tiễn biệt kết thúc, linh cửu dần dần được hạ xuống huyệt, cô bé choàng tới, ôm lấy quan tài, như thể ôm trọn thân xác của mẹ lần cuối, thét lên: “Mẹ ơi!”. Tiếng gọi thất thanh nghẹn ngào, khiến ai trong làng đang hiện diện ở đấy cũng cảm thấy xót xa vô cùng. Ngày dài lê thê, buồn bã rồi cũng chấm dứt. Cuộc đời một mình tự bương chải mưu sinh mở ra, tuy đầy khó khăn, u sầu, tiếc thương, nhưng mọi người trong làng quê ấy hằng hết mực quan tâm, chăm sóc cô. Vì bố mẹ giờ đây vắng bóng, người thân có còn hay không, cô cũng chẳng biết, nên một người quảng đại trong làng đã thay mặt người giám hộ, gửi cô vào trường nội trú do các nữ tu điều hành gần đấy.
Khi được giới thiệu và biết rõ hoàn cảnh đau thương của cô bé Tê-rê-zi-a, sơ hiệu trưởng A-loy-zi-a không khỏi nghẹn ngào, rơi lệ. Vì thế, sơ hết lòng yêu thương cô bé, và chẳng những quan tâm, chăm sóc, sơ còn nghĩ cách vun vén tương lai cho Tê-rê-zi-a nữa, nên sơ cầu nguyện cùng Thánh Giu-se mỗi ngày. Sơ nghĩ đơn giản như một người mẹ đỡ đầu, luôn nhớ cầu nguyện cho đứa con gái bẻ bỏng của mình. Hơn nữa, Thánh Giu-se là trụ cột của gia đình Thánh Gia, nên ngài biết rõ tâm tư, nguyện vọng của người bố và mẹ. Không chỉ vậy, toàn trường nội trú đều chung lòng chạy đến với Thánh Cả Giu-se qua lời kinh cầu tha thiết cho Tê-rê-zi-a tìm thấy người thân của mình.
Mỗi khi lên lớp, ngoài giờ học chăm chú, cô thường ở một mình hoặc những lúc khác, cô giấu mình trong phòng tối, ngồi khóc thương nhớ mẹ, cứ đòi về nhà, chứ không muốn học, cũng không muốn ở trường nữa. Với lòng mến dạt dào, thêm sự tinh tế như một người mẹ, sơ A-loy-zi-a bèn nói chuyện riêng với cô bé, với niềm tin tưởng vào lời cầu bầu của Thánh Giu-se, mọi sự sẽ tốt đẹp hơn đối với Tê-rê-zi-a, sơ đề nghị làm tuần cửu nhật kính Thánh Giu-se. Đồng thời, trong khi đó, sơ xin mẹ bề trên cho phép đăng thông tin tìm người thân của Tê-rê-zi-a trên báo giấy (thời đó, chưa có báo điện tử!). Hy vọng, sau tuần cửu nhật, người thân sẽ tìm đến nhận cô bé. Tuy nhiên, sau 9 ngày cầu nguyện sốt sắng, liên lỉ, không có một lá thư hay điện tín gì được chuyển đến trường nội trú cả. Nhưng lạ lùng thay, tâm tư, tình cảm, con người của Tê-rê-zi-a trầm tĩnh hơn, điềm đạm và dễ mến hơn. Cô bé đến gặp nói chuyện với sơ A-loy-zi-a: “Thưa sơ, chúng ta đã làm tuần cửu nhật tôn kính Thánh Giu-se rồi, nhưng vẫn chưa thấy kết quả gì; hay là lời cầu nguyện của chúng ta chưa sốt sắng đủ?”. Nghe thế, sơ bèn an ủi, vỗ về, nói khẽ: “Tê-rê-zi-a, lời nguyện cầu của chúng ta chắc chắn không trở nên vô ích đâu con. Đôi khi Thiên Chúa thử thách chúng ta đấy. Cho nên, thay vì nhụt chí, bỏ cuộc, chúng ta càng năng nỗ, tín thác, cầu nguyện bền bỉ hơn, ngõ hầu Thánh Giu-se sẽ bầu chữa, và ban ơn lành cho chúng ta, con à!”
Cứ thế, nhiều năm trôi qua với lòng sốt mến, chạy đến nài xin Thánh Cả Giu-se hằng ngày, cô bé Tê-rê-zi-a đã trở thành thiếu nữ xinh xắn, và rồi thời gian tốt nghiệp cũng đến. Một đêm nọ, cô bé đánh liều gõ cửa phòng, xin phép được nói chuyện với sơ A-loy-zi-a. Vừa vào, cô liền khóc nức nở dưới chân sơ, và cố bộc bạch: “Thưa sơ, Thánh Giu-se đã biến đổi tâm hồn con. Trong suốt thời gian vừa qua, Ngài luôn ban muôn ơn lành cải hoá con. Nhiều lúc, con đã ngỗ nghịch, cứng đầu, không biết lắng nghe và vâng lời sơ, xin sơ tha thứ cho con! Rồi ngày tốt nghiệp đang đến dần, nhưng thật lòng, con chẳng muốn rời xa ngôi trường này! Xin sơ cho con ở lại, làm bất cứ việc gì cũng được ạ….”. Sơ A-loy-zi-a xúc động, nâng cô bé dậy, và dịu dàng nói khẽ: “Này con gái bé bỏng! Sơ vui và cảm tạ Thánh Cả Giu-se đã đoái thương đến con cách đặc biệt. Còn về việc ở lại trường sau khi tốt nghiệp thì sơ nghĩ: ai cũng cần ra trường, tự lập, kiên cường đứng trên đôi chân của mình con à. Nhưng dù gì đi nữa, con tiếp tục cầu nguyện với Thánh Giu-se trong khi chờ đợi thời gian tốt nghiệp nhé!”
Có thể nói, những ngày gần kề lễ tốt nghiệp là thời điểm không thể nào quên đối với Tê-rê-zi-a. Cô bé siêng năng tham dự Thánh lễ, chầu Thánh Thể với các sơ. Sau đó, trước khi về phòng, Tê-rê-zi-a luôn không quên quỳ trước bàn thờ Thánh Giu-se mà dâng lời nguyện thầm kín của mình. Một ngày nọ, như thường lệ, cô bé vẫn quỳ trước tượng Thánh Giu-se thầm thĩ cầu xin, nhưng lần này phía sau có sơ A-loy-zi-a cùng quỳ gối . Tức thì, một sơ khác đến nói nhỏ với sơ A-loy-zi-a rằng: “Có người đến thăm Tê-rê-zi-a!” Lúc ấy, vừa ngạc nhiên, nhưng không nằm ngoài mong đợi, sơ A-loy-zi-a mới gọi khẽ: “Tê-rê-zi-a ơi, có người nhà đến thăm con kìa!” Cô bé nghe thế, liền nghĩ: mình đâu có ai thân thiết, vả lại còn đến thăm mình cơ chứ!!! Tuy nhiên, cô tin tưởng, vâng phục sơ A-loy-zi-a và đứng dậy cùng sơ ra phòng khách. Sau khi nghe giới thiệu, sơ và cả Tê-rê-zi-a hết sức sung sướng, vui mừng ôm chầm lấy người bà con thân thuộc duy nhất ấy, đã đợi bao lâu nay. Khi tất cả bình tĩnh, ngồi xuống ghế, và người ấy tiếp tục kể lại: “Mới đây, bố của dì qua đời; trong lúc sửa soạn đồ đạc cho bố, thì thấy một tờ báo rất ư cũ kỹ. Vì hiếu kỳ, nên mở ra xem thì liền thấy thông tin về con. Trong lòng dì vừa mừng vừa lo, không biết con có còn ở địa chỉ mà báo đã đăng hay không, vì thời gian đăng tin cho đến lúc dì tìm thấy tờ báo cũng đã khá lâu rồi…” Cuộc nói chuyện cứ thế tiếp diễn trong nước mắt xúc động dâng trào, chẳng phải giọt lệ tan thương, nhưng những dòng lệ vui sướng không thể diễn tả bằng lời. Còn sơ A-loy-zi-a cứ ngồi nhìn âu yếm hai dì cháu, thầm lặng cảm tạ Thánh Cả Giu-se đã thương nhậm lời, và ban ơn cho cô bé Tê-rê-zi-a tìm lại người thân, cũng như Ngài đã chở che cho tất cả những ai tin tưởng chạy đến với Ngài.
Cô bé Tê-rê-zi-a ngày nào, giờ đây cùng với dì, người thân thiết sống vui sống tốt quảng đời còn lại bên nhau. Tuy cuộc sống gia đình gặp rất nhiều khó khăn, thử thách, nhưng cô và gia đình chẳng bao giờ quên chạy đến cùng Thánh Giu-se.
11.
THÁNH GIU-SE VỚI CÁC EM THIẾU NHI
Dù ảnh tượng nào khắc hoạ về Thánh Giu-se, chúng ta đều thấy Ngài đều ẳm bồng Hài nhi Giê-su trên tay, nâng niu, che chở. Chắc hẳn, lúc sinh thời, Thánh Cả Giu-se hằng gìn giữ, đỡ nâng, dạy bảo trẻ Giê-su; vì vậy, Ngài cũng được mệnh danh là Đấng bầu chữa các em thiếu nhi!
Nhớ lại cung cách, thái độ đón nhận, chúc lành cho các em nhỏ của Đức Giê-su như các sách Tin Mừng thuật lại, chúng ta không khỏi liên tưởng đến cách nuôi dạy, gần gũi con trẻ của Thánh Giu-se khi còn ở làng Na-da-rét. Ngoài bản tính Thiên Chúa, Đức Giê-su là con người thật, Ngài giống chúng ta mọi đàng, chỉ trừ tội lỗi. Cho nên, mối gắn kết, cách tiếp xúc của Thánh Giu-se đối với Hài nhi Giê-su lúc thời thơ ấu ít nhiều cũng ảnh hưởng và khắc sâu trong tâm trí của Đức Giê-su, mãi đến khi Ngài ra đi rao truyền Nước Trời, bắt đầu đời sống công khai.
Vì vậy, Thánh Giu-se yêu mến các em thiếu nhi cách lạ lùng, như Ngài đã từng bao bọc, chở che Đức Giê-su nơi gia đình Thánh thất. Thoạt nhớ đến những năm đầu thế kỷ XIX, tại một giáo xứ nọ, cha quản nhiệm đang chuẩn bị cho các em sắp được Rước lễ lần đầu. Cha đang say sưa giảng dạy trong Thánh đường, bỗng dưng một người đàn ông xông vào, hớt hơ hớt hải, với khuôn mặt giận dữ, mắt liếc ngang liếc dọc như đang tìm ai đó. Cha xứ thấy thế liền hỏi ông ấy:
- Phải chăng anh đang tìm ai?
- Đúng vậy, tôi đang tìm thằng con trai tôi ở đây…
- Anh có thể chờ cho đến khi tôi kết thúc, rồi đưa con trai anh về được không?
Anh liền cáu gắt, quát tháo:
- Không đời nào, tôi vô thần, chẳng tin ai cả. Tôi đến đây để lôi thằng con trai tôi về nhà, vì bao lâu nay nó theo đạo của mẹ nó, và mẹ nó giấu tôi…
Nói thế, ông ấy choàng đến, túm cổ áo con trai, rồi kéo lê ra khỏi nhà thờ, trong sự chứng kiến đầy ngạc nhiên, sửng sốt, nhưng đầy hốt hoảng, sợ hãi hiện rõ trên khuôn mặt của các em. Cha xứ thấy vậy, không thể đứng yên được, can ngăn và thúc giục ông ấy bình tĩnh, nhưng mặc cho con trai khóc lóc gào thét, mồ hôi đầm đìa ướt đẫm chiếc áo, ông vẫn lôi về. Tuy nhiên, trước khi về, cha quản nhiệm xin ông ấy nói đôi lời với cậu con trai bé bỏng:
- Con à, đừng sợ hãi, cứ về với bố con. Cha và các bạn sẽ ở bên con, sẽ cầu nguyện cho con, và nhất là khấn xin Thánh Giu-se, cũng như dâng gia đình con, đặc biệt con cho Ngài…
Thật ra, trong lúc cáu giận, bố của cậu bé cũng đã xác nhận với cha xứ: trước kia, ông ấy đã đồng ý cho phép nó được Rửa tội; còn đứng tham dự bên canh vợ con trong Thánh đường này. Tuy nhiên, vì cuộc sống đổi thay, tính nết ương ngạnh, nên có thái độ ngăn cản con trai đến nhà thờ. Với tình cảnh ấy, cha xứ vẫn tiếp tục việc chuẩn bị cho các em sắp được Rước lễ lần đầu; đồng thời cũng dò hỏi những người xung quanh, hỏi thăm về cậu bé, thì mọi người cho biết: bố cậu bé chỉ không cho cậu đến nhà thờ thôi, còn những nơi khác thì vẫn cho phép, nhưng hầu hết, ông đều đưa đến nơi công sở để dễ bề quản lý…Được nghe vậy, cha và các em chuẩn bị Rước lễ lần đầu ngày càng tha thiết cầu khẩn Thánh Giu-se hơn nữa. Nhớ lại biến cố ngàn cân treo sợi tóc, khi Thánh Cả vâng phục lời Thiên thần truyền đưa con trẻ Giê-su và Mẹ Ma-ri-a lánh nạn qua Ai-cập trong đêm, hòng tránh cơn trút giận giết hại trẻ em nam sơ sinh của bạo chúa Hê-rê-đô, thì nay Ngài cũng thương trợ giúp, gìn giữ cậu bé mà bố cậu vốn ngăn cấm không cho đến nhà thờ, cũng như thực hành đời sống đạo.
Thời gian vùn vụt trôi, chẳng nhắn gửi hay dừng lại chờ đợi ai bao giờ, mặc dù cha quản nhiệm và các em chuẩn bị Rước lễ lần đầu đang háo hức, nóng lòng trông mong cậu bé được trở lại để cùng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể lần đầu tiên trong đời. Giây phút không thể nào quên, được rước lấy chính Mình Máu Thánh Chúa Giê-su hiện diện đơn sơ qua hình bánh miến và rượu nho! Thời khắc như ngừng trôi, chứng kiến trời với đất kết giao, Con Thiên Chúa uy nghiêm hạ mình trở nên lương thực giản đơn nuôi dưỡng xác hồn nhân loại! Ôi giây phút quá huy hoàng cao cả dường nào, nhưng lại gần gũi, thiết thân làm sao! Thế rồi, ngày ấn định Rước lễ lần đầu cũng đã đến, và đúng vào dịp lễ kính trọng thể Thánh Cả Giu-se. Mọi việc diễn ra như dự kiến, Thánh lễ bắt đầu. Tuy nhiên, đến phần quan trọng cho các em Rước lễ lần đầu, thì cha quản xứ nhìn thấy bóng dáng lờ mờ của cậu bé, mà đã từng bị người bố vô thần lôi cổ về nhà. Tuy nhiên, cha không tin vào mắt mình, chỉ nghĩ chắc suy tưởng thôi! Nhưng hình dáng thư sinh, hơi gầy gò của cậu bé thật sự đang hiện diện trước mặt cha khi cha cho em Rước Mình Máu Thánh Chúa lần đầu. Mặc dù, Thánh lễ chưa kết thúc, nhưng chao ôi, lòng cha rạo rực hân hoan, sung sướng, thầm nguyện tạ ơn Thánh Cả Giu-se đã thương chuyển cầu cùng Chúa, và đưa em tới Bàn tiệc Thánh Thể tình yêu này.
Khi mọi việc kết thúc, ai nấy đều nhộn nhịp chụp hình lưu niệm, còn cha quản xứ thì chạy tìm cậu bé, cũng như mong gặp lại người bố của em. Liền lúc ấy, hình ảnh ông ấy lờ mờ đứng bẻn lẻn xa xa, cùng với dáng dấp hai người nữa, một cao và một thấp. Tiến lại gần, cha nhận ra đây là gia đình của cậu bé. Ngài hết sức vui mừng được nói chuyện thân tình với cậu bé, đặc biệt với người bố đã từng lớn tiếng to giọng trong chính ngôi Thánh đường, mà mười mấy phút trước đó, con trai của ông được diễm phúc lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa Giê-su lần đầu, còn ông vui mừng tham dự, chứng kiến giây phút hạnh phúc nhất của đứa con trai bé bỏng của mình.
Lạy Thánh Cả Giu-se, Đấng gìn giữ các em thiếu nhi,
Xin cầu cho các em và hết thảy chúng con nữa. Amen!
12.
THÁNH CẢ GIU-SE VỚI CHUỖI MÂN CÔI
Là người Công Giáo, hầu hết chúng ta đều yêu mến Đức Mẹ, siêng năng lần hạt Mân Côi, nhất là vào tháng Mười. Vì mỗi khi suy gẫm Mầu nhiệm Mân Côi, chúng ta dường như được tháp nhập vào cuộc đời của Mẹ, của Đức Giê-su, và dĩ nhiên cũng liên quan ít nhiều đến cuộc đời của Thánh Cả Giu-se, vì Ngài là trụ cột trong gia đình Thánh Gia Thất.
Quay ngược thời gian về khoảng thế kỷ XIX, thời Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII, vị Giáo Hoàng thứ 256, tại vị từ năm 1878 đến 1903. Ngài được mệnh danh là Giáo Hoàng của Kinh Mân Côi, và đã từng minh định rằng: “Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện tuyệt vời nhất và là phương cách hiệu quả nhất để đạt tới sự sống đời đời. Đó là phương thuốc cho tội lỗi của chúng ta, và là nguồn gốc phúc lành cho chúng ta. Không có cách cầu nguyện nào tuyệt vời hơn.” Ngài là vị Giáo Hoàng thọ nhất trong lịch sử Giáo Hội – qua đời lúc 93 tuổi, với tài năng chắp bút sắc bén, thi sĩ thông minh, thần học gia nổi trội, và người sáng lập Học viện Giáo hoàng Thánh Tô-ma A-qui-nô năm 1879 – nay là Đại học Giáo hoàng Thánh Tô-ma A-qui-nô, hoặc Angelicum tại Rô-ma.
Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII đã ấn định tháng Mười là tháng Mân Côi, ban nhiều ân xá cho người đọc Kinh Mân Côi, ủng hộ việc xây dựng Thánh Đường Mân Côi tại Lộ Đức, thêm danh xưng “Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi” vào Kinh Cầu Đức Bà, và ngài cũng ban bố việc đọc kinh cầu Thánh Giu-se, bổn mạng toàn thể Giáo Hội, sau khi lần chuỗi Mân Côi. Vì ngài ước mong và tin rằng: mỗi lúc siêng năng lần hạt, các tín hữu không quên suy niệm về Thánh Giu-se, bạn trăm năm Đức Ma-ri-a, và là dưỡng phụ của Chúa Giê-su. Từ thời điểm đó trở đi, cứ sau chuỗi Mân Côi, kinh cầu ông Thánh Giu-se được vang lên, và chắc hẳn chúng ta sẽ được lãnh nhận nhiều ơn lành đặc biệt qua lời bầu chữa uy quyền của Ngài.
Tuy nhiên, trong một gia đình nọ, ông bố không cùng tín ngưỡng với vợ con. Ông thuộc giáo phái Tin Lành, còn vợ và các con là tín hữu Công Giáo. Hằng ngày, vợ con ông đều tề tụ trước tượng ảnh Đức Mẹ, cùng nhau lần hạt Mân Côi; nhưng mỗi lần về tới nhà, nhìn thấy cảnh đó, ông trở nên tức giận, quát tháo. Một đêm kia, theo lẽ thường khi xong việc, ông về nhà thì lặng lẽ bước vào phòng riêng; tuy nhiên, không hiểu lí do gì ông lại bắt vợ và các con ông dừng việc đọc kinh Mân Côi. Người vợ tế nhị, kéo ông ra ngoài nói chuyện riêng với ông: “Em không thể bắt các con ngưng việc lần chuỗi được. Vả lại, đây là điều đẹp lòng Chúa, nên anh đừng ngang ngược vậy!”
Nghe thế, ông lại càng giận dữ, đóng sầm cửa bỏ ra ngoài; nhưng lát sau, ông trở về phòng, ngã lưng trên giường, rồi ngủ thiếp đi lúc nào cũng chẳng hay. Nhưng điều đặc biệt, đêm ấy ông mơ thấy một cụ già hiền lành đang chờ ông trước cổng. Khi thấy ông, cụ già ấy liền nhẹ nhàng ôm ông vào lòng và dìu đi, leo lên một ngọn núi cao. Đi được một đoạn dài, ông dừng lại, muốn bỏ về vì trước mặt ông là ngọn núi cao chót vót, khiến ông nhụt chí, đầu hàng. Nhưng cụ già hiền từ ấy không cho phép ngừng, vẫn nắm tay ông, kéo mạnh tiến về phía trước. Khi đã vượt qua đoạn cao chót vót ấy, cụ già liền nói với ông: “Hãy nhìn về phía sau mà xem!”. Tức thì, ông quay lại, bỗng trông thấy một con vật vô cùng xấu xí, nhưng từ miệng, nó phun lửa xua đuổi họ. Ông bèn sợ hãi, kêu cứu cụ già hiền lành. Thế là cuộc hành trình cứ tiếp tục cho đến khi tới đỉnh núi. Thật bao la hùng vĩ lạ thường! Nhưng trước mắt ông ấy có một cánh cửa đẹp lộng lẫy, mê hồn hơn nhiều. Cụ già liền nhẹ nhàng mở khẽ, mời ông bước vô. Vừa tiến vào, ông sửng sốt vì chứng kiến cảnh tượng một ngôi thánh đường đẹp diễm lệ tựa như thiên cung. Ở giữa thánh đường, một người phụ nữ hiền hậu ngồi trên chiếc ngai cao sang, xung quanh vô số các trinh nữ trong phẩm phục đầy màu sắc, trên tay cầm chiếc lá vạn tuế xanh tươi, và hoà giọng với nhau lần chuỗi Mân Côi. Thấy thế, ông ấy cúi chào họ, và cụ già nói với ông nhìn lên trên cao. Thay vì trần nhà, ông lại thấy luồng ánh sáng toả chiếu rực rỡ, và tức thì một tia sáng dường như thẩm thấu tâm hồn ông; liền lúc ấy, ông choàng bừng tỉnh, thức giấc. Tuy nhiên, hình ảnh ông cụ già trong giấc mơ vẫn còn vương vấn trong tâm trí, và ông chưa nhận ra là ai!
Bước ra khỏi phòng, thấy cậu con trai, ông liền hỏi: “Tối hôm qua, mấy mẹ con nói gì về bố vậy hả?”. Cậu đáp: “Có nói gì đâu bố, chỉ lần chuỗi Mân Côi thôi ạ!”. Nhưng ông cứ gặn hỏi, nên cậu bé đáp: “Thật ra, sau khi lần hạt xong, mẹ con con đọc kinh cầu ông Thánh Giu-se…”.
- “Thế kinh đó đọc như thế nào?” ông hỏi.
- “Mẹ và con khấn xin Thánh Giu-se ban cho bố được ơn hoán cải, trở lại đạo ạ!”
Câu trả lời của cậu con trai dường như đã giải toả thắc mắc trong tâm trí ông về hình ảnh người cụ già trong giấc mơ tối hôm qua, nên khuôn mặt ông trở nên rạng rỡ, vui tươi khó tả, rồi buộc miệng nói rằng: “Mau gọi mẹ con và em con lại đây, chúng ta cùng nhau lần chuỗi Mân Côi nào!”. Trước phản ứng kỳ lạ của bố, cậu con trai không biết chuyện gì đã xảy ra đêm qua, nhưng vẫn chạy đi gọi mẹ và đứa em như bố nói.
Ai trong chúng ta đều cho là khó tin vào chuyện này, nhưng nó lại xảy ra một cách tự nhiên, với lời bầu cử đắc lực, đầy uy quyền của Thánh Cả Giu-se. Mỗi lần chúng ta cùng nhau lần chuỗi Mân Côi, và sau đó biết chạy đến khẩn cầu với Thánh Giu-se, thì chắc chắn chúng ta sẽ được lãnh nhận vô vàn ơn lành, nhiều ân sủng mà chúng ta chẳng bao giờ ngờ tới.
Giu-se Thánh Cả hiển vinh
Đơn sơ, giản dị, lặng thinh nguyện cầu.
Với Mẹ thuỷ chung trước sau
Chở che Con Chúa, bên nhau quây quần.
Hằng ngày lời kinh ân cần
Siêng năng lần chuỗi, xếp vần yêu thương.
Là nơi chốn con tựa nương
Hăng say sống đạo, can trường vượt qua.
Nhờ lời bầu chữa thiết tha
Ra đi chan chứa bao la tình Ngài.
13.
THÁNH GIU-SE: GIỮ GÌN ƠN GỌI
Khi nói đến tiểu sử ơn gọi hoặc những câu chuyện ơn gọi, chúng ta thường được lắng nghe, học biết, chia sẻ biết bao nhiêu tình tiết, hoàn cảnh mà trong đó Chúa mời gọi chúng ta bước theo Người trên con đường tận hiến-phục vụ-truyền giáo, cũng như trao ban ân sủng đặc biệt cho một số người sống và hoạt động trong các dòng chiêm niệm.
Trong vô số chư Thánh được mệnh danh là Thánh bổn mạng cho ơn gọi không ai khác, chính là Thánh Cả Giu-se. Ngài thầm lặng chở che, giữ gìn hạt giống ơn gọi cho mọi ứng viên chuẩn bị bước vào đời sống dâng hiến. Và câu chuyện rất xúc động đã xảy ra tại đất nước xa xôi Ba-lan vào khoảng năm 1650. Sau khi sơ dòng Cát-minh tên là Tê-rê-sa Giê-su Ma-hô-luk-ka qua đời, thì câu chuyện tìm kiếm ơn gọi và sống theo ơn gọi của sơ được nhắc tới, cũng như nhiều người biết đến. Thật ra, sơ là con gái út trong một gia đình giàu có, sung túc. Vì người chị cả đã nghe tiếng Chúa mời gọi, bước vào dòng tu sống mấy năm trước, cho nên không cần nói cũng biết mọi tài sản còn lại của gia đình dĩ nhiên sẽ được trao cho sơ (lúc ấy chưa đi tu!). Tuy nhiên, từ thuở nhỏ, cô bé này đã có lòng yêu mến đặc biệt Thánh Cả Giu-se. Cũng vì được nhận Thánh nữ Tê-rê-sa A-vi-la (hoặc Tê-rê-sa Giê-su) làm quan thầy, nên cô bé hằng ngày bắt chước Thánh nữ sùng kính Cha Thánh Giu-se trong mọi giờ kinh chung cũng như riêng tư.
Tuy sống vui tươi với bố mẹ trong gia đình sung túc, nhưng tâm hồn của cô bé luôn khắc khoải, tìm kiếm điều gì đó như thể thiếu vắng vậy. Một hôm, được bố mẹ cho phép, cô bé mời các bạn đến nhà chơi, ăn tiệc mừng. Trong lúc tiệc đang diễn ra, cô bé cùng một số bạn trình diễn vở kịch ngắn, bắt chước các sơ mặc tu phục, sống trong cộng đoàn nhà dòng. Khi nhìn thấy Ma-hô-luk-ka mặc chiếc áo dòng, mọi người đều ngạc nhiên đến độ sung sướng vô cùng, và khen tặng nữa. Và chính cô bé cũng cảm thấy hân hoan, cảm giác thoải mái lúc soi mình trước gương. Trong bộ áo tu phục mượn trắng tinh ấy, cô bé dường như nhận ra ý hướng đi tu, muốn thực sự bước vào dòng, khoác trên mình chiếc áo dòng của chính mình, chứ không phải chỉ là đồ mượn để đóng kịch. Và cứ thế, dần dần ước muốn đi tu lớn lên từng ngày. Tuy nhiên, trông thấy cô bé mặc như vậy, người mẹ chẳng thích và giận ra mặt, bắt cô cởi bỏ nó ra. Bởi lẽ, bà ta có ác cảm với các nữ tu trước đó khá lâu rồi, nên bà rất khắt khe, và cấm không cho cô con gái út đi tu!
Từ đó trở đi, mối tương quan của mẹ con trở nên xa cách, lạnh nhạt. Mẹ thì cứng nhắc, răn đe, còn cô bé thì cứ nuôi khát vọng đi tu ngày càng mãnh liệt, dữ dội hơn. Mỗi ngày từ sáng đến tối, Ma-hô-luk-ka đều cầu nguyện, nài van Chúa nâng đỡ, chỉ dẫn cho cô biết phải làm thế nào để đáp lời Chúa mời gọi, bước vào đời sống tu trì. Tương tự, những lúc thế này, cô bé cũng xin lỗi Chúa vì biết bao nhiêu điều không hay không tốt, những lỗi lầm mà bấy lâu làm phiền lòng Chúa, và cha mẹ. Tình cờ một hôm, cha quản xứ thuộc dòng Cát-minh ghé thăm gia đình cô, trông thấy bộ dạng, sắc mặt cô bé, cha khẽ nói: “Con gái à, đừng lo lắng quá! Chúa sẽ cho con trở nên người phục vụ trung thành của Người mà. Hãy siêng năng cầu nguyện và chờ đợi nhé!” Vài ngày sau, cô mạnh dạn bộc bạch với bố mẹ ước muốn đi tu của mình. Dĩ nhiên, nghe xong, mẹ cô rất đỗi giận dữ, phản đối, lỡ miệng nói ra: “Nếu con vẫn muốn vào dòng tu, thì mẹ thà chết sớm còn hơn”. Lúc ấy, bà con gần xa ai cũng biết để được vào dòng tu, cô bé phải có sự cho phép của bố mẹ ruột; họ cũng đã cố gắng khuyên răn, bàn chuyện với mẹ cô, nhưng chuyện chẳng thay đổi gì, đâu vẫn vào đấy. Ma-hô-luk-ka không thể không buồn, đến nỗi đã nói hết mọi điều cho cha quản xứ biết; và ngài động viên cô bé đừng bỏ cuộc, mà nên tiếp tục cầu nguyện liên lỉ. Trong giờ cầu nguyện mỗi ngày, cô luôn chạy đến với Đức Mẹ trước tiên, sau đó khẩn khoản nài xin Thánh Cả Giu-se như đã từng được nghe đến đời sống cầu nguyện của Thánh nữ Tê-rê-sa A-vi-la. Lạ thay, cứ mỗi lần cầu nguyện, cô bé lại cảm nhận sâu sắc tình mến, sự quan tâm, chở che êm ái của Cha Thánh Giu-se. Mặc dù biết chẳng thể thay đổi tâm tính của bố mẹ, nhưng hằng ngày đều dâng lên Thánh nhân tình thế khó khăn này. Tưởng dễ thở đôi chút, nhưng mẹ cô ngày càng cấm cản, không cho cô đến nhà thờ, đến nỗi khoá cửa phòng, không cho cô ra ngoài. Dẫu chịu đựng trong nước mắt giàn giụa, nhưng cô chẳng bao giờ căm ghét mẹ mình. Nhưng khi đến tháng ba, đặc biệt lễ kính Thánh Giu-se, cô bèn can đảm xin mẹ cho phép đến nhà thờ dự lễ. Vì cũng biết đây là dịp lễ lớn, nên bà để Ma-hô-luk-ka đi lễ, với điều kiện phải về nhà ngay sau Thánh lễ kết thúc.
Đã lâu không được dự lễ, nay đến với Chúa, sau khi Rước lễ, cô bé cầu nguyện khẩn thiết, liền lúc ấy, một tiếng nói vang vọng trong tâm hồn mình: “Chắc chắn con sẽ trở nên một nữ tu thánh thiện mà!” Tuy không thể hiện ra bên ngoài sự vui mừng hân hoan, nhưng trong thâm tâm, cô cảm thấy bình an chứa chan dạt dào, khó tả, và thầm nói tạ ơn Thánh Cả Giu-se. Không lâu sau, đột nhiên mẹ Ma-hô-luk-ka thay đổi hoàn toàn, và đồng ý cho phép cô vào dòng Cát-minh. Không khỏi bồi hồi cám ơn Thánh Giu-se đã gìn giữ ơn gọi của mình, giờ đây niềm vui được sống tận hiến cho Chúa đã khiến cô quên hết những nỗi buồn, sầu khổ bấy lâu. Nay, đặt chân vào dòng Cát-minh, trở nên nữ tu thánh thiện của Chúa, trong tu phục tinh tuyền của riêng mình, chứ chẳng phải chiếc áo mượn của ai!
Đời sống dâng hiến diễn ra hằng ngày với lòng nhiệt huyết không thay đổi của cô bé, giờ đây là sơ Ma-hô-luk-ka. Tuy nhiên, bên cạnh niềm hoan lạc phục vụ-cầu nguyện-sinh hoạt trong cộng đoàn, sơ phải chịu nhiều sự cám dỗ về xác thịt, của cải cũng như về đời sống thiêng liêng. Ma quỷ khiến sơ nghi ngờ tình yêu Chúa dành cho mình, và đố kị với chị em. Những lúc này, sơ nhớ lại lời dặn của mẹ, khi chở đến nhà dòng: “Bố mẹ đồng ý cho con đi theo ơn gọi của mình, nên buồn vui sướng khổ gì con cũng nên trung thành, kiên định sống với hội dòng, vì con nhất quyết một mựt xác thực đây là cuộc sống của con mà!” Nhiều lúc, ma quỷ bóp méo lời nói này, trái lại gợi lên sự đa nghi trong lòng sơ cũng như có tiếng bố mẹ vang vọng nghi vấn về ơn gọi của sơ. Rất đau khổ, nhưng sơ cương quyết không xa rời đời sống cầu nguyện, suy gẫm, chiêm niệm, hầu vượt thắng các cơn cám dỗ thường trực này. Và cứ mỗi lần xưng tội, cha giải tội luôn khuyên răn với xác quyết, kèm theo lời hứa với Thánh Cả Giu-se: “Xin cho con một lòng sống trọn đời với ơn gọi này!”
Cơn cám dỗ vẫn còn đấy, nhưng với sự trợ giúp, gìn giữ, chở che của Thánh Cả Giu-se, sơ Ma-hô-luk-ka vượt thắng từng ngày. Đây chẳng phải công trạng hay tài năng khôn khéo của mình, mà tất cả đều nhờ lời cầu bầu quyền thế, nhờ cánh tay yêu thương đỡ nâng, đồng hành của Cha Thánh Giu-se, nên khi còn sống, sơ được chị em trong dòng, mọi người biết tới với danh xưng “bà Thánh sống”. Giờ đây, trên Thiêng đàng, chúng ta tin chắc rằng: sơ đang chung hưởng tình mến dạt dào thiết tha nơi Thánh Cả, và cùng với Ngài ca khen chúc tụng Thiên Chúa khoan nhân muôn đời.
Lạy Thánh Giu-se, xin Ngài chở che, gìn giữ mọi bậc sống, đặc biệt ơn gọi dâng hiến. Amen!
14.
THÁNH GIU-SE CHỮA LÀNH KẺ CÓ TỘI
Thánh Bê-na-đét-ta đã từng nói: “Người tội lỗi thường ưa thích làm việc xấu xa”. Tuy nhiên, như chúng ta biết: Thiên Chúa không chấp nhận tội lỗi, chứ chẳng hề ghét bỏ kẻ có tội (x. Ez 33, 11). Thế nên, khi nói về Thánh Giu-se, chúng ta dường như quên lãng thuộc tính chữa lành người tội lỗi của Ngài.
Chuyện xảy ra khá lâu tại Pa-ris, thời kỳ Cách mạng Pháp. Sau khi chấm dứt, hoà bình được lặp lại khắp nơi. Trong số đó, một quý ông được mệnh danh là nhà lãnh đạo Cách mạng Pháp tài ba, được mọi người tung hô tán thưởng. Thế nhưng, ông mắc bệnh hiểm nghèo và đang hấp hối, nằm cô đơn trong căn phòng tiện nghi, thoải mái, chẳng thiếu thứ gì tại một bệnh viện nổi tiếng tại Pa-ris.
Ngay thời cách mạng, ông được tán dương anh hùng xuất chúng; giờ đây, nằm chờ giây phút cuối cùng một mình, chẳng ai tới ghé thăm. Bệnh tình ngày càng trầm trọng đến độ hiện trạng linh hồn của ông hiện ra trước mắt ông. Hằng ngày, miệng lưỡi ông kêu gào, mắng nhiếc, nguyền rủa gia đình, xã hội, thậm chí nói phạm đến Thiên Chúa. Nhớ lại lúc được Rước lễ lần đầu, ông cảm thấy hạnh phúc lắm, nhưng không lâu sau đó, ông đã bỏ đạo, cắt đứt mối dây liên kết với giáo xứ của mình, chuyên lên án, phán xét cha quản xứ. Tuy nhiên, dù con người có tự mãn, ích kỷ, tội lỗi đến đâu, Thiên Chúa cũng chẳng bao giờ bỏ mặc họ, như Thánh Phao-lô đã quả quyết: “Nơi đâu tội lỗi ngập tràn, nơi ấy ân sủng chứa chan bội phần” (x. Rm 5, 20). Chính vì vậy, Người đã dùng bà Phi-lô-mê-na, một người có lòng yêu mến Thánh Cả Giu-se hết mực, cũng là người bạn cũ thời thơ ấu với ông.
Được biết tin ông ấy bệnh nặng, đang đau khổ chờ chết, chẳng một ai viếng thăm, bà Phi-lô-mê-na liền khăn gói đến bệnh viện thăm ông. Vừa nhìn thấy bà, ông trông vui hẳn lên, có lẽ vì ông nhớ lại thời trẻ con nô đùa, chơi với nhau. Sau khi tươi cười ôn lại kỷ niệm xưa, bà liền hỏi ông về đời sống đạo, về việc đã lãnh nhận các bí tích sau cùng chưa. Nói đến đó, nét mặt ông sầm xuống, mắt thì nhắm lại, tai thì chuyển hướng khác như thể không muốn nghe. Tuy buồn, nhưng bà chẳng lấy làm thất vọng. Bà cố gắng khuyên nhủ nhiều lần, chỉ mong muốn cứu được linh hồn ông bạn ấy. Nhưng kết quả không như mơ, bà trở nên buồn rầu. Dù vậy, bà chẳng hề quên chạy đến khấn với Cha Thánh Giu-se. Bà dâng ông bạn cho Thánh Cả mỗi ngày, với niềm trông cậy vào lời bầu cử quyền thế của Ngài, ông ấy biết trở lại, hoà giải, chịu lãnh nhận các Bí tích sau cùng.
Cứ thế, mỗi ngày, bà nỗ lực khuyên răn ông, nhưng ông một mực không nghe. Đến độ, bà nhắc lại chuyện thời thơ ấu xa xưa: “Ông không nhớ sao? Khi còn bé, tôi với ông và mọi người đều chơi vui vẻ, thân thiện với nhau, lúc nào cũng chạy đến ngôi nhà thờ trong làng. Sau đó, mọi người cùng quỳ xuống và đọc kinh Lạy Cha. Lúc ấy thật thú vị dường nào…!”
Khi nghe đến đây, vẻ mặt ông dường như đang hồi tưởng thời vui vẻ ấy, ngờ đâu, ông buông lời: “…Không, ở cái thời ấy, tôi quên hết rồi…Chẳng có gì ấn tượng cả…, nhưng hình như ngày càng thích đọc kinh thôi sao ấy…”
“Ông nói kinh nguyện sao? Vậy để giúp ông nhớ lại, tôi với ông cùng đọc kinh nhé…” Vừa nói xong, bà Phi-lô-mê-na liền nghe lời thỏ thẻ: “Lạy Cha chúng con ở trên trời. Chúng con nguyện danh Cha cả sáng…” Và như vậy, hai ông bà đọc đến khi kết thúc kinh. Vẻ mặt vui tươi phấn chấn của bà thầm cảm tạ Chúa, qua lời cầu bầu quyền uy của Thánh Cả Giu-se. Thế nhưng, cứ nghĩ đến khi nào ông ấy mới chịu xưng tội, chịu các Bí tích sau cùng, thì lòng bà lại lo lắng, chẳng thể nào an tâm. Trong khi đó, tình trạng của ông ấy càng ngày càng xấu đi. Gạt hết mọi bồn chồn lo nghĩ, bà Phi-lô-mê-na nhiệt tâm cầu nguyện nhiều hơn, thường xuyên chạy đến kêu xin Thánh Cả. Một ngày nọ, bà đem đến cho ông ấy một tấm ảnh Thánh Giu-se, và dự định sẽ treo lên tường để ông dễ dàng nhìn thấy. Khi mọi người nghỉ ngơi, bà lấy tấm hình ra và căn dặn ông: “Mỗi khi đau đớn, hãy nhìn lên bức hình này, ông sẽ cảm thấy nhẹ nhỏm, và cùng tôi làm Tuần cửu nhật kính Thánh Giu-se có được không? Tôi tin chắc, Ngài sẽ cứu giúp chúng ta”.
Nói xong, bà ra về. Trên đường, bà đi ngang qua một cô nhi viện do các sơ dòng Vin-sơn Phao-lô điều hành. Nhìn các em nhỏ ngây thơ, đáng yêu, bà thầm nghĩ phải cầu nguyện đơn sơ, tin tưởng như các em thế này, thì mới được. Bất ngờ, lúc ấy một sơ mà bà quen biết có việc đi ngang qua, bà mừng rỡ và nhờ sơ ấy cùng đọc kinh tuần Cửu nhật kính Thánh Giu-se, đặc biệt cầu nguyện cho người tội lỗi biết ăn năn sám hối trở lại, và bắt đầu ngay tối hôm đó.
Vì đã giữ lời hứa với bà Phi-lô-mê-na, ông vừa nhìn ảnh Thánh Cả vừa đọc kinh, thậm chí đọc kinh phía sau tấm ảnh luôn. Ngày tháng cứ vô tình trôi, chẳng hay biết bệnh tình của ông ngày một trầm trọng. Giây phút gần đất xa trời dần đến, mà ông vẫn chưa chịu nhận các Bí tích sau cùng. Thấy vậy, một y tá Công Giáo tại bệnh viện ấy cố gắng thuyết phục ông: “Để tôi gọi cha xứ gần đây đến ban các Bí tích sau cùng cho ông nhé! Chẳng khó gì đâu, các cha được gọi đến xức dầu bệnh nhân là đến liền thôi. Ông đừng lo chi cả. Thánh Cả Giu-se cũng luôn gìn giữ, chở che, giúp ông dọn mình thật tốt để được về cùng Chúa thôi mà…”
Mặc dù nghe vậy, nhưng ông vẫn chưa chịu thay đổi: “Không đâu, thật ra tôi chẳng có tư cách gì để được gặp linh mục cả…” Cô y tá dỗ dành: “Mọi sự đều sẽ qua, mọi lỗi lầm sẽ được tha thứ thôi…Vậy tôi gọi cha xứ gần đây đến nhé!”
Thật ngẫu nhiên, ngày mà ông chịu để cô y tá gọi cha xứ đến xức dầu, và cử hành các Bí tích sau cùng cho ông, lại là ngày thứ chín trong tuần Cửu nhật kính Thánh Giu-se. Sau khi nhận cuộc gọi của cô y tá, bà Phi-lô-mê-na chạy ngay đến bệnh viện. Trên đường, bà tình cờ gặp cô y tá và được biết: hai mươi mấy phút trước, ông ấy đã được xưng tội, lãnh nhận Bí tích xức dầu bệnh nhân và chịu Rước Mình Thánh Chúa, làm của ăn đàng về nhà Chúa rồi (Viaticum)…Bà hết sức vui sướng, hy vọng đến gặp ông ấy lần cuối cùng. Thế nhưng, ông ấy đã ra đi trong bình an vài phút trước khi bà bước vào phòng!
Đau lòng phải chia tay người bạn thuở thơ ấu, nhưng bà Phi-lô-mê-na không dấu được niềm hân hoan cảm tạ Chúa, cám ơn Thánh Cả Giu-se đã chuyển cầu, đã chở che, gìn giữ ông ấy, dẫn đưa người tội lỗi biết ăn năn sám hối trở về hoà giải với Chúa, với tha nhân và với chính mình.
Lạy Thánh Giu-se, xin dẫn đưa chúng con là những kẻ tội lỗi trở về chính lộ ngàn đời. Amen!
15.
THÁNH GIU-SE NÂNG ĐỠ BỆNH NHÂN BIẾT CẬY TRÔNG
Mỗi lần đọc kinh cầu ông Thánh Giu-se, chúng ta nhận thấy quá nhiều tước hiệu và những công trình âm thầm nhưng đầy kỳ diệu của Thánh Cả như: gìn giữ các kẻ đồng trinh, an ủi kẻ gian nan khốn khó, làm cho kẻ bệnh tật được cậy trông, v.v…
Thật sự, chúng ta biết và cảm nhận quá ít ỏi về sứ mạng tại thế ngắn ngủi của Ngài. Tuy nhiên, bao nhiêu tục truyền, câu chuyện đã minh chứng quyền năng của Thánh Cả Giu-se qua lời bầu cử uy quyền trước thiên nhan Chúa, đặc biệt đối với người lâm bệnh hiểm nghèo, các bệnh nhân khi đối diện với sự đau đớn, sự tuyệt vọng. Và trong muôn vàn câu chuyện ấy, chúng ta cùng đến với lời kể của sơ Bê-ti-na, dòng Ur-su-la tại đất nước Ba Lan.
Khi bước vào dòng, sơ đã khá lớn tuổi (28 tuổi), nhưng được ân phúc có sức khoẻ phi thường, ít ngã bệnh hoặc mắc bệnh gì. Sơ hăng hái làm mọi việc dù nặng nhọc đến mấy, cũng như sẵn sàng giúp đỡ các chị em trong phận vụ của họ. Tuy nhiên, vào một hôm, sơ cảm thấy rát rát nơi cổ họng, còn giọng nói thì dần dần nhỏ lại, đến khi không thể phát ra tiếng. Trong cơn bấn loạn, sơ được đưa đến bệnh viện kiểm tra; tuy nhiên, cơn đau ngày càng lan rộng, bệnh tình trở nên trầm trọng trước sự bất ngờ đầy sửng sốt của các bác sĩ và những nhà chuyên môn. Vài ngày trước đây, chẳng những cuống họng bị đau, mà giờ, hai bờ vai đau nhức, nặng trĩu như thể đang chất hai tảng đá to lên trên vậy. Cứ thế, đau đớn âm thầm lan nhanh đến vùng ngực, phía lưng, và khắp cơ thể.
Dĩ nhiên, sau khi kiểm tra toàn bộ, các bác sĩ thông thường sẽ đưa ra chẩn đoán và hướng điều trị; nhưng lần này lại khác thường, họ không thể đưa ra bất cứ cách điều trị nào, và cũng chẳng biết bệnh danh! Mọi hy vọng dường như tan biến, để lại bao nỗi trống trải trong lòng sơ Bê-ti-na và chị em cùng dòng. Tuy nhiên, các sơ thầm động viên nhau, ngõ hầu không đánh mất niềm tin, luôn kiên định cậy trông nơi Thánh Cả Giu-se. Hằng ngày, cả cộng đoàn đều cử hành tuần Cửu nhật kính Thánh Giu-se, phó dâng hoàn toàn cho Ngài người chị em đáng thương, đang mắc căn bệnh vô danh. Thế nhưng, hiện trạng không mấy khả quan như mong đợi. Thấy vậy, sơ bề trên cộng đoàn bèn quyết định: rước kiệu ảnh Thánh Cả quanh khuôn viên nhà dòng, và kết thúc tại căn phòng bé nhỏ của sơ Bê-ti-na. Hơn nữa, trước khi nghi thức rước kiệu kết thúc, sơ bề trên cùng các chị em cùng khấn hứa trước ảnh Thánh Cả Giu-se rằng: sẵn sàng hy sinh, hãm mình cho những bệnh nhân, đặc biệt cho người chị em Bê-ti-na đang mắc bệnh, và làm việc kính mến Cha Thánh trong bảy ngày Chúa nhật liên tiếp.
Ngày tháng cứ thế vô tình trôi, còn bệnh tình của sơ chẳng tiến triển tốt đẹp gì mấy, nếu không muốn nói ngày càng hiểm nghèo, gần kề thời điểm phải ly biệt mãi mãi. Chính vì vậy, sơ bề trên và ai ai trong cộng đoàn đều lo lắng, nhưng vẫn một lòng xác tín, tin vào lời bào chữa quyền thế của Thánh Giu-se. Lúc ấy, cũng rơi vào ngày Chúa nhật thứ bảy, một sự trùng hợp ngẫu nhiên không ai ngờ tới. Sơ Bê-ti-na ước ao được tham dự giờ Chầu Thánh Thể chung với cộng đoàn, và còn muốn ngồi ở vị trí ca đoàn nữa, dù biết bản thân không thể tự đi được. Vì thế, các chị em bàn hỏi nhau, xin sơ bề trên cho phép đưa sơ Bê-ti-na vào nhà nguyện, đặt ngồi ở vị trí ca đoàn. Suốt thời gian chầu Thánh Thể, như bao nhiêu chị em khác, miệng sơ đều mấp máy nguyện kinh, hát cùng cộng đoàn, dĩ nhiên không thể phát ra tiếng. Tuy nhiên, cũng chính lúc này, quyền năng chuyển cầu của Thánh Cả Giu-se được tỏ lộ. Ngay sau kết thúc giờ chầu, sơ Bê-ti-na đứng dậy, bước ra từ những hàng ghế ca đoàn, tiến về phía sơ bề trên trước sự ngạc nhiên, sửng sốt của cả cộng đoàn. Điều kỳ lạ chưa dừng lại ở đấy, mà sơ bề trên kinh ngạc hơn khi nghe giọng của sơ Bê-ti-na nói khe khẽ, nhẹ nhàng trong tiếng khóc đầy vui sướng: “Thưa mẹ, con đã được Thánh Giu-se nâng đỡ, cầu bầu. Giờ đây, con trở nên lành lặn, bình thường trở lại…” Nghe đến đây, sơ bề trên liền ôm choàng lấy sơ Bê-ti-na, hết sức nghẹn ngào đến nỗi rơi nước mắt. Ngay lập tức, cả cộng đoàn vang lên lời chúc tụng Thiên Chúa, đã thương nhậm lời bào chữa đắc lực của Cha Thánh qua lời kinh cầu ông Thánh Giu-se đầy xác tín dường bao!
Cuộc sống dâng hiến-tu đức-phục vụ của sơ Bê-ti-na tiếp tục trong yêu thương, chất chứa bao nỗi biết ơn trìu mến, và riêng lòng tôn kính Thánh Cả Giu-se thì ngày càng trở nên đậm đà, tươi mới hơn.
Lạy Thánh Giu-se, xin chuyển cầu cho các bệnh nhân, giúp họ luôn biết cậy trông vào Ngài. Amen!
Lm. Xuân Hy Vọng