HỌC HỎI THÁNH KINH 100 TUẦN: TUẦN 13 VÀ 14

Thứ bảy - 29/10/2016 05:17  964

TUẦN 13: SÁCH LÊVI, chương 1-16

    I.      TỔNG QUÁT

Sách Lêvi là cuốn sách về sự thánh thiện, về Thiên Chúa chí thánh và về một dân được gọi là thánh. Theo từ nguyên, “thánh” trong tiếng Hipri có nghĩa là “được cắt riêng ra, tách ra” có ý nói đến sự tách biệt giữa thánh thiện và phàm tục. “Thánh” ở đây chỉ về người, nơi chốn hoặc sự vật chỉ được tới gần hay chạm đến với điều kiện phải thanh sạch. Sách Lêvi đưa ra một định hướng và những chỉ dẫn cụ thể cho việc nên thánh, được tập trung vào lời mời gọi: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (11,44-45; 19,2; 20,7).

Tên gọi của sách này là sách Lêvi vì cuốn sách mô tả những hoạt động của các tư tế thuộc chi tộc Lêvi. Tuy nhiên trong bản văn Thánh Kinh Do Thái, tên gọi của sách này là một từ Do Thái có nghĩa là “Ngài đã gọi”. Như thế, nội dung sách nhấn mạnh đến ơn gọi và ơn gọi căn bản là sống thánh thiện được trình bày cụ thể trong bộ luật về sự thánh thiện (chương 17-26).

Những phần chính trong sách Lêvi:

* Phần I (1-7) :        Nghi thức các lễ tế

* Phần II (8-10) :     Nghi thức tấn phong tư tế

* Phần III (11-16) :  Luật liên quan đến sự thanh sạch về Lề luật

* Phần IV (17-26) : Luật về sự thánh thiện

* Phần V (27) :        Tóm kết

   II.   LỄ TOÀN THIÊU (1,1-17)

Mới nhìn thoáng qua, ta chỉ thấy những quy định quá tỉ mỉ về Lề luật xem ra có vẻ nặng hình thức. Vì thế cần phải khám phá lại ý nghĩa hàm ẩn bên trong những quy định này.

Theo nguyên ngữ trong tiếng Hipri, “toàn thiêu” chỉ có nghĩa đơn giản là “đi lên”. Như thế, ý nghĩa đầu tiên của lễ toàn thiêu là sự khẳng định rằng Thiên Chúa là Đấng ban cho ta quà tặng sự sống, bây giờ của lễ (bò, chiên hay chim) được dâng lên cho Chúa bằng cách đốt cháy của lễ. Khói bốc lên cùng với hương bay lên là hương thơm làm vui lòng Đức Chúa “Tư tế sẽ đốt nó cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, trên củi đặt trên lửa. Đó là lễ toàn thiêu, lễ hỏa tế, là hương thơm làm vui lòng Đức Chúa” (1,17). Ngoài ra, những quy định Lề luật trên đây còn nhằm dạy cho Dân Chúa bài học về sự vâng phục. Trong tương quan giao ước với Thiên Chúa, dân Israel cần phải học vâng phục. Không có sự vâng phục, không thể có sự thánh thiện.

Nguy cơ là người ta chỉ còn tuân giữ những hình thức tỉ mỉ bên ngoài mà quên mất ý nghĩa đích thực của lễ tế. Các tiên tri đã lên tiếng cảnh giác điều này nhiều lần, và Chúa Kitô đã đến để khôi phục ý nghĩa đích thực của lễ tế. Tác giả thư Do Thái đã diễn tả rõ ràng: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10,5-8).

III.      THANH SẠCH THEO LỀ LUẬT

Các chương 11-16 trong sách Lêvi bàn đến sự thanh sạch. Lời mời gọi căn bản vẫn là: “Các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh. Các ngươi đừng làm cho chính mình ra ô uế vì các loài vật nhỏ bò trên đất. Thật vậy, Ta là Đức chúa, Đấng đã đưa ngươi từ đất Ai Cập lên, để Ta làm Thiên Chúa của các ngươi; vậy các ngươi phải thánh thiện vì Ta là Đấng Thánh” (11, 44-45). Muốn nên thánh, phải thanh sạch, cho nên sách Lêvi đưa ra những quy định Lề luật về sự thanh sạch. Các chương 11-12 nói đến sự thanh sạch của những thứ được con người đưa vào trong cơ thể của mình: thực phẩm nào là sạch hay dơ, tình trạng ô uế của phụ nữ khi sinh con. Các chương 13-14 nói đến những ô uế bên ngoài như da thịt, quần áo. Chương 15 bàn đến chuyện sạch bẩn của những gì từ cơ thể con người phát ra, cách riêng về sinh dục. Chương 16 bàn đến Ngày xá tội, tức là cầu nối giữa cái thanh sạch và sự thánh thiện.

Ngày nay, người đọc có thể cảm thấy khó chịu với những quy định quá tỉ mỉ và nặng hình thức này. Tuy nhiên không nên quên ý nghĩa căn bản của những quy định này là liên kết sự thanh sạch với sự thánh thiện, và tuân giữ những quy định Lề luật về sạch-bẩn là con đường dẫn đến sự thánh thiện.

IV.    CON DÊ CHUỘC TỘI (16,20-28)

Có hai con dê và một bò tơ được dùng để làm lễ tạ tội. Một con dê được sát tế làm lễ tạ tội. Một con dê khác nhận lấy tội lỗi của cộng đoàn – qua việc đặt tay của Aaron – và sau đó được thả vào sa mạc. Như thế, một con dê biểu thị cho việc thanh tẩy thánh điện, và một con biểu thị việc xá tội cho dân: “Aaron sẽ đặt hai tay lên đầu con dê còn sống, sẽ xưng thú trên con vật mọi lỗi lầm của con cái Israel, mọi việc phản nghịch của chúng, nghĩa là mọi tội lỗi chúng. Nó sẽ trút cả lên đầu con dê, rồi sẽ dùng tay một người đang chờ sẵn mà thả vào sa mạc. Con dê sẽ mang trên mình mọi lỗi lầm của chúng vào hoang địa” (16, 21-22).

Ngày nay người Do Thái vẫn tiếp tục cử hành Ngày xá tội (Yom Kippur). Đó là ngày quan trọng để người ta hòa giải với mọi thành viên trong cộng đoàn và để được Thiên Chúa tha tội. Khi thánh Matthêu viết: “Hãy để của lể lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,24) là ngài nhắc đến điều này. Đồng thời khi cử hành Ngày xá tội, người Do Thái đọc Is 57,14 – 58,14, tức là nhấn mạnh đến việc canh tân nội tâm qua việc ăn chay:

“Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?”

Chay tịnh đích thực là ra khỏi bản thân, quan tâm đến nhu cầu của tha nhân, đặc biệt những người nghèo khổ và bất hạnh, và thay đổi đời sống mình.

Là môn đệ Chúa Kitô, trình thuật về Ngày xá tội không thể không nhắc ta nhớ đến Thứ Sáu Tuần Thánh, khi ta cử hành cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Đấng đã gánh mọi tội lỗi nhân loại trên vai Người, nhờ đó ta được tha thứ. Trong ngày này, ta cũng được mời gọi ăn chay, không chỉ là một vài kiêng khem theo luật định, nhưng là sự từ bỏ bản thân để chia sẻ với cuộc thương khó của Chúa Cứu thế, để biết quan tâm đến người khác nhiều hơn, và như thế được dẫn vào quỹ đạo tình yêu của Đấng đã chết và sống lại vì ta.

ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Nguồn: tgpsaigon.net

TUẦN 14: Sách Lêvi, chương 17 – 27

I. TÍNH THIÊNG THÁNH CỦA MÁU (17,1-15)

Khi Thiên Chúa ngỏ lời với nhân loại, Ngài đã chọn một ngôn ngữ cụ thể gắn với một nền văn hoá cụ thể. Vì thế để hiểu Thánh Kinh, không thể không hiểu cách suy nghĩ và diễn đạt của ngôn ngữ và văn hoá đó.

Trong văn hoá Hípri, mọi sự được diễn tả cách cụ thể chứ không trừu tượng. Chẳng hạn, chân lý, công bằng, hoà bình… không phải là những ý niệm trừu tượng nhưng là những sự vật sống động. Vì thế, Thánh Kinh diễn tả, “An tình và chân lý nay hội ngộ, hoà bình và công lý hôn nhau. Chân lý mọc lên từ đất thấp, công bằng nhìn xuống tự trời cao” (Tv 85,11-12). Tương tự như thế, sự sống không phải là một ý niệm tổng quát nhưng được đồng hoá với máu. Máu là sự sống, mất máu là chết, và cái chết hành động như một tên trộm lấy cắp sự sống: “Mạng sống của xác thịt thì ở trong máu, và Ta, Ta đã ban máu cho các ngươi …Các ngươi không được ăn huyết của bất cứ xác thịt nào vì sự sống của mọi xác thịt là máu nó; bất cứ ai ăn huyết sẽ bị khai trừ” (Levi 17,14).

Có như thế, ta mới hiểu được ý nghĩa của những quy định trong sách Lêvi về việc sát sinh. Mọi việc sát sinh, dù chỉ là tìm thức ăn, cũng phải trở thành lễ tiến và hy lễ. Hành động đó là hành động nhìn nhận Thiên Chúa là nguồn sự sống, và nhờ hành động đó, kẻ dâng lễ tế được tiếp tục sống.

Trong trường hợp săn được một con thú hoặc một con chim được phép ăn, thì phải lấy đất phủ lên máu của con vật. Tương tự như vậy, khi làm công việc sao chép văn bản Thánh Kinh, nếu một ký lục lỡ chép sai thì ông sẽ không xé trang đó đi và chép lại, nhưng phải cẩn thận rút phần bị sai đó ra khỏi cuộn sách, để vào trong hộp nhỏ rồi đốt đi. Tại sao lại như thế? Vì cũng như sự sống ở trong máu thì Thần Linh thánh thiện cũng ở trong Lời Chúa.

Dù đã có những thay đổi nhưng cho đến nay nhiều người Do thái vẫn không ăn máu. Với người Kitô hữu, khi hiểu được ý nghĩa của máu trong văn hoá Thánh Kinh như thế, ta cảm nghiệm sâu sắc hơn lời mời gọi của Chúa Giêsu, “Tất cả anh em hãy uống chén này vì đây là Máu Thầy, máu giao ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28). Lời mời gọi đó có nghĩa là: Hãy nên một với Thầy, nên một với sự sống của Thầy.

II. NĂM TOÀN XÁ (25,1-55)

Trong năm thứ bảy, đất sẽ được nghỉ ngơi, một sabat kính Đức Chúa (25,4). Như thế Đức Chúa đã tách riêng năm thứ bảy cho Ngài, trong năm đó đất được coi là thánh. Trong tháng thứ bảy của năm thứ 49 và kéo dài sang năm 50, dân Chúa cử hành năm toàn xá. Trong ngày xá tội, tù và được thổi lên để quy tụ dân, “Các ngươi sẽ công bố năm thứ 50 là năm thánh và sẽ tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó. Đối với các ngươi, đó sẽ là thời kỳ toàn xá” (25,10). Dân chúng được trở về gia đình và đất đai của mình (câu 10). Sẽ không gieo gặt trong năm đó (câu 11). Nếu dân tuân theo, họ sẽ được sống yên hàn và đất đai sẽ trổ sinh hoa trái (câu 18-19).

Trong năm toàn xá, người ta có quyền chuộc lại đất (25,23-55), kể cả với những người không có khả năng chuộc lại, “Nếu nó không kiếm được phương tiện để trả tiền lại cho người kia, thì của nó bán sẽ ở lại trong tay người mua cho đến năm toàn xá; đến thời kỳ toàn xá, của bán sẽ ra khỏi tay người mua, và người bán sẽ trở về phần sở hữu của mình” (25,28).

Thật ngỡ ngàng khi đọc lại những quy định này trong sách Lêvi. Ngày nay người ta nói nhiều đến việc giải phóng người nghèo và bảo vệ môi sinh, và coi đó là những điều rất mới mẻ. Thế nhưng từ nhiều thế kỷ trước, sách Lêvi đã có những quy định rất cụ thể về điều này. Như thế ta khám phá Thánh Kinh là một tác phẩm chất đầy tính nhân văn và xã hội. Và nền tảng của những quy định này là: “Đất là của Ta, còn các ngươi chỉ là ngoại kiều, là khách trọ nhà Ta” (25,23). Chỉ Thiên Chúa mới là chủ sở hữu, còn mọi người đều là khách trọ, là ngoại kiều. Khi con người loại bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài, chiếm đoạt quyền sở hữu của Thiên Chúa, thì con người cũng biến tha nhân thành nô lệ cho mình, biến thiên nhiên thành phương tiện sản xuất thuần túy. Đó là cội nguồn của tình trạng bất công và áp bức, tàn phá và hủy diệt môi sinh. Hiểu như thế, những quy định trong sách Lêvi về Năm toàn xá là cả một hiến chương mời gọi nhân loại không ngừng suy nghĩ lại về chính mình cũng như về xã hội.

Cách riêng với người tín hữu Chúa Kitô, những quy định về Năm toàn xá mời gọi ta suy nghĩ lại về cách ta cử hành Năm toàn xá. Phải chăng ta chỉ chú trọng đến những cử hành thiêng liêng mà không quan tâm gì đến những đòi hỏi và âm hưởng xã hội chính ra phải có trong năm này? Phải chăng ta chỉ lo tuân giữ những quy định về việc đi viếng nhà thờ hay tham dự các nghi lễ mà không quan tâm gì đến việc biến đổi bản thân và lối sống hằng ngày của mình? Ngay trong cách cử hành thiêng liêng để được hưởng ơn toàn xá, phải chăng ta cũng có những tính toán ích kỷ, dù là ích kỷ về mặt thiêng liêng, để tìm phần rỗi cho riêng mình mà không quan tâm đến sự giải thoát anh em?
 

ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

Nguồn: WGPSG

 Tags: n/a

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

ducchasi
 
closedbible
 
suy 5
 
thanhthan06sm 1
 
gdphanxicoxavie
 
lichconggiao2
 
giolecacnhatho adv2 copy
 
giolecacnhatho adv2
 

Tin mới nhất

Kết nối

 

 

 

Thống kê

  • Đang truy cập121
  • Máy chủ tìm kiếm48
  • Khách viếng thăm73
  • Hôm nay24,621
  • Tháng hiện tại686,174
  • Tổng lượt truy cập52,855,122

Copyright © [2018] Giáo phận Nha Trang. All rights reserved.
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Nha Trang
Email: gpnhatrangbtt@gmail.com
Địa chỉ: 22 Trần Phú - HT 42, Tp. Nha Trang - Khánh Hoà
Phone: (84) 258.3523842 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây