Lời Chúa: Is. 5, 1-7; Pl. 4, 6-9; Mt. 21, 33-43
MỤC LỤC
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Sách các vua Israel kể rằng: Vua Akhab muốn có vườn nho của ông Nabot mà không được vì đó là cơ nghiệp tổ tiên để lại làm gia bảo. Vua hằm hằm, giận dữ, buồn bực bỏ ăn. Vợ vua lập mưu ra lệnh mở lễ đại hội cầu an, mời Nabot chủ sự và đặt hai tên vô loài đối diện Nabot để chúng làm chứng tố cáo Nabot đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua; rồi điệu Nabot ra ném đá cho chết đi. Thế là Akhab đã tịch thu vườn nho Nabot. Nhưng tội giết người cướp của không che được mắt thánh. Tiên tri Elia được Thiên Chúa sai đến báo cho Akhab biết: “Chó sẽ ăn thịt các ngươi bên tường Nabot”. Lòng tham của Akhab không đáy, được voi đòi tiên, Akhab lại đem quân xâm chiếm đất nước Aram. Akhab bị bắn chết, đàn chó đã liếm máu ông, y như Chúa đã phán (1V. 21,1 – 22,38). Tham thực cực thân, ác giả ác báo.
Akhab là một trong muôn ngàn tá điền ở thế gian, mà dụ ngôn tá điền chiếm vườn nho trong Tin mừng hôm nay kể tới.
Chắc hẳn, lúc đầu chủ chưa cho canh tác, các tá điền này rất tử tế, rất khéo nói và hứa hẹn nhiều điều khiến ông chủ tín nhiệm đã trao vườn nho đặc biệt này cho họ canh tác, rồi ông trẩy đi xa. Một vườn nho đã được ông gieo trồng giống tốt, trang bị đủ mọi phương tiện bảo vệ và sản xuất, như tường rào, tháp canh, hầm đạp nho ép rượu. Các tá điền thấy khu vườn tốt quá, lòng tham nổi dậy mạnh mẽ, mắt họ tối lại, âm mưu tìm đủ cách chiếm đoạt vườn nho. Khi thấy chân tay của chủ đến: “Họ đã đánh đứa này, giết đứa kia, ném đá đứa khác”. Chỉ còn đứa con trai duy nhất đến, họ cũng giết luôn để chiếm đoạt gia tài dễ dàng, gọn nhẹ.
Kể câu chuyện này, Đức Giêsu ám chỉ người Do thái, nhất là các kẻ lãnh đạo đã phản phúc. Họ đã được Thiên Chúa chọn làm dân riêng duy trì và canh tác vườn nho đặc sản tươi tốt của Thiên Chúa, như vườn địa đường Chúa ban cho Adam Evà xưa. Isaia đã mô tả vườn nho đó bằng một bài ca về ngọn đồi màu mỡ: “Vườn nho ấy là nhà Israel của Thiên Chúa các đạo binh. Đó là cảnh điền viên vui thú của Người. Người trông nó được minh chính, nhưng nó lại manh tâm; được hưởng nhiều ân sâu, nó lại ai oán” (Is. 5, 1-7). Làm ơn nên oán, cưng chiều quá hóa hư. Tham vọng chiếm công vi tư. Họ chiếm đoạt của Thiên Chúa để một mình làm chủ. Loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài, họ tự do hoành hành, giết các sứ ngôn Thiên Chúa, và một cú chót nữa: giết luôn Con Một duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô. Họ tưởng thế là êm xuôi. Nhưng như Adam Evà thoát khỏi tay toàn năng nhân ái của Thiên Chúa, họ rơi vào cảnh lầm than, tiêu diệt, như Akhab, như Hitler hay cựu Tổng thống Đại Hàn (Chun Doo Hwan, đã bị tòa án xử tử hình ngày 26/08/1996).
Những kẻ cướp sát nhân đã bị tiêu diệt. Thiên Chúa đã lấy lại vườn nho và xây dựng một vườn nho mới xinh đẹp vững mạnh là Hội Thánh trên đá tảng hằng sống là Đức Giêsu Kitô, để sinh hoa kết quả tốt đẹp làm vinh danh Thiên Chúa muôn đời.
Hội Thánh xinh đẹp đầy hoa trái này đang thể hiện sức sống phong phú của mình nơi giáo đoàn Philiphê mà thánh Phaolô hết sức vui mừng cảm tạ: “Tôi cảm tạ Thiên Chúa của tôi, mỗi lần nhớ đến anh em. Tôi luôn vui sướng, mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy, vì từ buổi đầu cho đến nay, anh em đã góp phần vào việc rao giảng Tin mừng” (Phil. 1, 3-5). Họ đã cố gắng sống Tin mừng và rao giảng Tin mừng giữa những người dân ngoại, nên thánh Phaolô có cảm tình đặc biệt và bày tỏ cảm nghĩ của ngài bằng những lời tuyệt vời này: “Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, là làm sáng tỏ lời ban sự sống, để tôi được hiên ngang hãnh diện trong ngày Đức Kitô quang lâm” (Phil. 2, 15b-16a). Và trong Bài đọc II, ngài đã chúc Hội thánh Philiphê: “Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở cùng anh chị em” (Phil. 4, 9).
Lạy Chúa, mỗi người chúng con đều là những tá điền canh tác vườn nho của Thiên Chúa; vườn nho đó là thân xác, linh hồn và những tài năng Chúa ban, vườn nho đó là lời Chúa, Thánh lễ và các phép Bí tích ban nguồn ơn cứu độ của Chúa, vườn nho đó là ông bà. cha mẹ, con cháu, vợ chồng, là gia đình, xóm làng, xứ đạo, đất nước và Hội thánh. Xin cho mỗi người chúng con biết cố gắng làm nảy sinh hoa trái tươi sáng như những vì sao chiếu sáng vinh danh Chúa, cho mọi người được hưởng sự vui mừng ơn cứu độ như Hội thánh Philiphê xưa.
Xin cho trần gian không còn hạng tá điền gian tham, sát nhân nữa, để mọi người được sống trong nguồn bình an của Chúa. Amen.
Kính thưa anh chị em
Chúng ta thấy trong cái hành trình đi rao giảng Tin Mừng của mình, Chúa Giêsu rất thích dùng cái dụ ngôn. Chúng ta thấy các ngôn ngữ của dụ ngôn rất là đơn sơ.
Chúa muốn dùng dụ ngôn để cho người nghe dễ hiểu. Có những cái dụ ngôn rất là xúc tích và phong phú cho mọi không gian và thời gian. Và có những cái dụ ngôn Chúa Giêsu đưa ra, chúng ta có nhiều cái suy nghĩ. Bởi vì, nó có nhiều cái góc cạnh và nhiều góc độ khác nhau.
Cái Dụ Ngôn “người tá điền làm vườn nho” hôm nay, nó làm cho con liên tưởng đến cái câu nói mà chúng ta vẫn thường hay nghe:
“Nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý.”, nếu mà dựa vào cái câu nói này mà áp dụng cho cái dụ ngôn này! Thì thực sự ra mà nói, có rất nhiều chuyện để nói trong cái nhìn của người Việt Nam, nhưng mà rồi, nếu mà xét về khía cạnh của linh mục thì như Thánh Phaolô nói: “Chúng tôi là những người quản lý mầu nhiệm thánh”, và rồi Linh mục quản lý cái mầu nhiệm thánh đó như thế nào?
Mới là hợp lòng Chúa, như ý Chúa muốn. Chứ không phải linh mục quản lý mầu nhiệm thánh theo cái kiểu: Buôn thần, bán thánh, hay là thích ai thì cho, hay không thích thì cất lại mầu nhiệm thánh. Cuộc đời của linh mục, chứa đựng, chất chứa mầu nhiệm thánh. Và trao ban cho mỗi người cái mầu nhiệm thánh mà mình được Thiên Chúa ký gửi. Nhưng nếu mà xét như thế cũng chỉ là xét về khía cạnh của linh mục thôi.
Ngày hôm nay, ta không có nhìn Dụ ngôn này dưới góc độ theo kiểu của con người, theo cái kiểu nhìn là: “nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý hay là không có xét theo cái khía cạnh là: “linh mục là người quản lý mầu nhiệm thánh”, nhưng mà ngày hôm nay, chúng ta tập trung và nhìn vào cái khía cạnh quan hệ của tất cả mọi người, với cái dụ ngôn “Người làm vườn nho” này!
Vườn nho này, chính là cuộc đời của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa trao ban cho mỗi người chúng ta mỗi vườn nho. Chúng ta không phải là chủ vườn nho, nhưng chúng ta quản lý cuộc đời của chúng ta cho ông chủ đó chính là Chúa.
Và mỗi người chúng ta phải trả lẽ trước mặt Chúa rằng: “mình sử dụng cái vườn nho này có ích lợi như thế nào? Mang hoa quả về cho chủ mình như thế nào?”. Chứ không phải mình sử dụng vườn nho theo sở thích cá nhân của mình. Hay là chỉ làm thỏa mãn cái tôi của mình, cái dục vọng của mình, cái lòng muốn của mình. Nhưng chúng ta phải vận dụng cuộc đời của chúng ta trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Chúng ta thấy, có vài tôn giáo đi theo chủ nghĩa khủng bố. Gọi là mà nếu: tự thiêu để mà cho người khác chết, lúc đó mình thành hiển thánh.
Có một cái cô hướng dẫn viên du lịch, cô kể về một cái chuyện rằng là ngày thứ Sáu, ngày Sa bát ở bên Itraen, thì dân Hồi giáo sau cái giờ cầu nguyện, cầu nguyện xong thì cứ ra lấy lựu đạn ném, ném chơi vậy thôi! Gọi là thánh chiến, thực hành theo ý của Đấng Ala. Nhưng mà người Kitô hữu chúng ta không được làm những chuyện như vậy. Làm như thế, chúng ta nhớ ở trong Kinh Thánh Cựu Ước vẫn thường nói về chúng ta, về sự sống của con người, về quyền sống của con người.
Mỗi người chúng ta không phải là chủ tể tuyệt đối của sự sống mà Chúa là Chúa Tể. Nếu mà chúng ta làm cho người khác đổ máu, có nghĩa là chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa. Và như thế người Công giáo của chúng ta không có cái chuyện là tự hủy, tự thiêu hay là thậm chí cái chuyện chết êm dịu! Bởi vì Thiên Chúa, mới là Chủ đích thực cuộc đời của mỗi người. Đâu có ai làm chủ đâu, để mình tự quyết định cuộc đời của mình!
Chúng ta, dẫu rằng có khả năng về trí thức, có về sức khỏe, có quyền lực, nhưng mà tất cả đều do bàn tay của Thiên Chúa.
Chúng ta nhớ đến hình ảnh của Philatô, khi mà đối diện với Philatô, Chúa Giêsu nghe Philatô nói nghe ghê quá! Tôi có quyền giết ông, hợm hỉnh, Chúa Giêsu nói: Nếu từ TRÊN không ban ơn cho ông, thì ông không có quyền trên tôi.
Quyền tổng trấn là cái ơn ở trên ban xuống cho ông. Ông chỉ là cái người nắm giữ cái quyền đó thôi. Nhưng ông đã “bé cái lầm”, ông cứ nghĩ rằng mình là cái người có quyền trên Chúa Giêsu. Nhưng mà đích thực Chúa Giêsu mới là người có quyền trên cuộc đời của ông.
Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, có một cái tâm tình rất là dễ thương: “tất cả là hồng ân.” để rồi ngày mỗi ngày trong cuộc đời của thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu diễn tả cái Hồng ân đó qua cái đời sống của mình.
Chắc có lẽ, chúng ta còn nhớ đến một cái cô ca sĩ tài danh Celine Dion, ca sĩ người Canada. Mẹ của cô đã từng tâm sự rằng: Đã hơn một lần cũng đã có ý định phá thai, tức là hủy bỏ đứa con đó trong bụng của bà.
Nhưng rồi, cái quyết định đó không được đưa ra. Chắc có lẽ, từ tiếng nói của lương tâm, và chính vì không có sát hại giọt máu trong lòng mình, để rồi, Dion đã xuất hiện và cô đã hát thật hay, không những hát thật hay mà cô còn làm từ thiện. Cô đã giúp đỡ, chia sẻ cuộc đời của mình cho rất nhiều người. Ngoài giọng ca tiếng hát của cô, một cuộc đời của Celine Dion rất là tuyệt vời, và rất nhiều người nhớ đến cô. Đặc biệt trong cái bài Titanic, trong cái bài hát My heart will go on rất là tuyệt vời! Nếu mà giả sử như cô đã bị hủy hoại, cô không có cống hiến tài năng của mình cho nhân loại.
Không phải một mình cô, mà rất nhiều người chỉ vì một cái sự ích kỷ nhỏ nhoi mà nhiều lần đã can tâm giết đi giọt máu của mình. Mà họ sai lầm, họ không nghĩ rằng: họ chỉ là cái người quản lý, mà chính Chúa mới là có quyền.
Ngày hôm nay, giữa một cái xã hội ích kỷ người ta vẫn sát hại nhau, không chỉ là sát hại nhau bằng súng ống, đạn dược, bằng phá thai nữa! Mà người ta sát hại nhau bằng lời ăn tiếng nói bằng những cái hành động để làm cho người khác chết dần chết mòn và đau khổ.
Và người ta vô cảm, người ta không còn một cái cảm thức về người đồng loại. Người ta bằng mọi giá để giết người đồng loại, và hạ nhục người đồng loại chờ đến mức có thể được.
Nhưng mà họ quên rằng họ mới chỉ là những người quản lý những ơn lành của Chúa ngay cả sức khỏe, ngay cả tài năng chúng ta thấy: nếu như Chúa lấy đi, thì không còn ai có thể làm được gì cả!
Khi nằm xuống buông xuôi bàn tay. Dù rằng, chúng ta có tính toán cỡ nào, chúng ta cũng không thể nào làm được gì khi Chúa đã khép thời gian cuộc đời của chúng ta lại cuộc đời người rất là ngắn ngủi rất là vắng gọi mạnh giỏi chăn là được 80 mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ
Lạy Chúa xin cho chúng con biết đếm tháng ngày cuộc sống, để ngỏ hầu tâm trí được khôn ngoan.
Xin cho mỗi người chúng ta, sau mỗi ngày chúng ta thức giấc, là chúng ta thấy ngày mà chúng ta gần Chúa hơn. Bởi vì, Chúa như cuốn thời gian cuộc đời chúng ta lại. Dù muốn dù không chúng ta cũng không thể nào níu kéo được cuộc sống của chúng ta. Bởi vì, cuộc sống của chúng ta Thiên Chúa đã định đoạt, Thiên Chúa đã định cho mỗi người chúng ta bao nhiêu năm.
Chuyện quan trọng là sống không phải là bao nhiêu năm, mà bao nhiêu năm sống đó! Chúng ta sống như thế nào cho Chúa, chúng ta là người quản lý cái mảnh đất mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta như thế nào?
Chúng ta trao cho Chúa như thế nào chúng ta cũng sẽ được hưởng như thế nếu chúng ta canh tác cái mảnh đất gần nhau của chúng ta tốt thì Thiên Chúa lại yêu thương là Thiên Chúa lại trao cho chúng ta nhiều hơn chúng ta tưởng. Còn nếu như chúng ta phá hủy cái mảnh đất tâm hồn của chúng ta, thì chúng ta phải đón nhận sự trừng phạt của Thiên Chúa.
Lời nguyện của Chúa Nhật 17 Thường Niên rất hay: Lạy Chúa xin ban ơn giúp chúng con, để dầu sống giữa cảnh thế sự thăng trầm mà lòng luôn tha thiết tìm kiếm những điều cao quý trên trời. Nhiều lần, nhiều lúc, mải mê với thế sự thăng trầm này! Chúng ta đã quên đi quê hương của chúng ta ở “Trên Trời.” Đích thực, cuộc đời của chúng ta là ở Trên Trời, để chúng ta vun vén cuộc đời của chúng ta.
Điều đáng tiếc là hôm nay, không chỉ chúng ta phá hoại cuộc đời của mỗi người chúng ta, chúng ta còn muốn phá hoại thêm cuộc đời của người khác nữa! bằng: cách ăn, nết ở, của chúng ta.
Nói tới đây, con cảm thấy, ngày hôm nay cái sợ nhất là: người ta đi nói xấu, người ta chà đạp nhau, người ta không dám nhìn nhận cái sự thật của chính đời mình. Và người ta tìm cách đi nói xấu người khác.
Có một cái câu ca dao tục ngữ của người Việt Nam rất hay: Chuồn chuồn chê khỉ rằng hôi! Khỉ nói lại: cả họ mày thơm!
Nhiều khi mình chỉ biết nói xấu người khác, mà thực sự ra mình có tốt hơn ai? Nhiều khi mình muốn hãm hại người khác, để đạt được quyền lợi mình đạt được điều này điều kia!
Nhưng mà soi gương đi! trước mặt Chúa, mình có là gì đâu! để mà rồi mình cứ loại trừ anh chị em đồng loại.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta. Để ngày mỗi ngày, chúng ta biết, canh tác cái mảnh đất mà Chúa ban cho chúng ta thật tốt. Và nên nhớ: sau khi nhắm mắt lìa đời, Chúa sẽ không hỏi: mảnh đất người A, người B người C, nhưng, Chúa hỏi chính cuộc đời của chúng ta.
Thế nhưng, nhiều lần nhiều lúc, chúng ta cứ lăng xăng, lích xích, chúng ta cứ dòm bên này, dòm bên kia, để chúng ta xét đoán mảnh đất của người này, người kia. Trong khi đó mảnh đất của chúng ta ngày một khô cằn, ngày một bị bỏ hoang, bởi chúng ta thờ ơ, chúng ta vô cảm với ngay chính bản thân của chúng ta, chứ đừng nói gì vô cảm với người khác.
Xin cho chúng ta, nhân cơ hội này, nhìn lại cuộc đời của chúng ta. Để chúng ta cân chỉnh cái mặt đất mà Chúa ban cho chúng ta. Để chúng ta sinh nhiều hoa trái, nhiều bông hạt như lòng Chúa mong muốn. Amen.
Câu chuyện những người tá điền nổi loạn chính là diễn tiến của lịch sử cứu độ.
Thực vậy, vườn nho tượng trưng cho Nước Thiên Chúa. Nước ấy khởi đầu được trao cho một số người, nhưng vì sự tráo trở và tàn ác của họ, nên nước ấy đã được cất khỏi họ để trao cho dân tộc khác, biết làm trổ sinh hoa trái.
Trong dòng lịch sử, Thiên Chúa đã chọn cho Ngài một dân riêng, đã giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, dẫn đưa họ vượt qua biển Đỏ ráo chân, nuôi sống họ bằng manna từ trời xuống và sau cùng ký kết với họ một giao ước của tình thương và trung thành, cũng như cho họ được định cư nơi miền đất hứa. Thế nhưng, họ lại luôn bất trung và thất tín, để rồi Thiên Chúa đã phải gởi đến với họ các tiên tri hầu cảnh tỉnh họ. Tuy nhiên các tiên tri này đều bị họ bạc đãi và giết đi. Cuối cùng, Thiên Chúa đã phải gởi chính Con của mình, nhưng Người Con duy nhất ấy cũng đã bị họ giết chết như một tên tội phạm. Bởi đó, Thiên Chúa đã phải loại bỏ dân riêng của Ngài để thiết lập một dân mới, đó là Hội Thánh.
Dụ ngôn của Chúa Giêsu dĩ nhiên là một lời cảnh cáo đối với những người Do Thái đương thời. Đồng thời cũng là một lời cảnh cáo đối với chính người Kitô hữu chúng ta.
Thực vậy, chúng ta đã lãnh nhận Nước Thiên Chúa, chúng ta đã lãnh nhận ơn cứu độ. Thế nhưng, ơn cứu độ ấy đã đem lại những hoa trái nào cho cuộc đời chúng ta? Nho thật hay nho dại? Điều chính trực hay chỉ toàn những sự gian ác?
Điều đã xảy ra với dân Do Thái cũng có thể xảy ra với chúng ta, nếu như chúng ta lặp lại thái độ và nếp sống của họ ngày xưa. Ơn cứu độ được ban nhưng không. Tuy nhiên, nó cũng có thể trở thành hòn đá làm cho chúng ta vấp ngã, trở thành bản án cho chính bản thân chúng ta, khi nó không sinh hoa kết qua theo như lòng mong ước của Thiên Chúa.
Nếu chúng ta không thay đổi nếp sống của chúng ta, thì trong ngày sau hết, chúng ta cũng sẽ bị loại bỏ như dân Do Thái thuở trước, để rồi Nước Thiên Chúa sẽ được ban cho những người khác biết đâm bông và kết trái.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Qua dụ ngôn những người tá điền nổi loạn chúng ta thấy ông chủ tượng trưng cho Thiên Chúa đã rào giậu và chăm sóc cho vườn nho của mình. Còn những tá điền nổi loạn chính là dân Do Thái, dân tộc đã được Thiên Chúa chọn lựa và trao ban cho muôn vàn hồng ân. Còn các đầy tớ được sai đến là các tiên tri. Nhờ các tiên tri mà Thiên Chúa biểu lộ thánh ý của Ngài cho họ, thế nhưng họ đã đối xử dã man và tàn bạo đối với những người được Thiên Chúa sai đến. Nào là đánh đập, nào là giết đi.
Sau cùng ông chủ đã phải sai phái chính người con trai duy nhất của mình đến với họ, để tỏ cho họ thấy lòng nhân từ thương xót vô biên của Ngài, nhất là sau những biến cố đáng buồn đã xảy ra. Người con duy nhất này là hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô, Đấng đã bị họ giết chết trên thập giá. Cái chết khổ đau này làm cho Ngài liên tưởng tới lời thánh vịnh 118: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường, đó là việc Thiên Chúa đã làm và thực lạ lùng dưới mắt chúng ta. Tảng đá góc tường là nơi câu móc những bức tường của toà nhà, nó nắm giữ một vai trò, một vị trí rất quan trọng.
Cuối cùng Thiên Chúa đã phải bỏ rơi dân Do Thái, để chọn cho mình một dân riêng mới, đó là Giáo Hội, để đem lại cho Ngài nhiều hoa trái.
Câu chuyện trên cũng làm cho chúng ta nhớ tới hinh ảnh vườn nho của tiên tri Isaia. Vườn nho này được chủ hết sức chăm sóc với hy vọng sẽ có được những trái nho đặc biệt, thế nhưng kết quả lại hoàn toàn trái ngược, khiến cho chủ phải nổi giận: Còn việc gì nữa mà Ta đã không làm cho vườn nho của Ta. Ta mong ước có được những trái ngon trái ngọt, vậy tại sao nó chỉ cho toàn những trái chua trái dại?
Còn chúng ta thì sao? Phải chăng tâm hồn chúng ta chỉ là một cây nho cằn cỗi? Thiên Chúa cũng đã đổ xuống cho chúng ta biết bao nhiêu ơn lành hồn xác, thế mà con người chúng ta vẫn không thể đâm bông kết trái. Có lẽ chúng ta cần phải dừng lại, để hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống, trước khi nó đã quá muộn.
Nếu như chúng ta trung thành phụng sự Chúa, thì chúng ta không có chi phải lo buồn sầu khổ. Trái lại, nếu chúng ta đã có những thái độ và một nếp sống như dân Do Thái ngày xưa, thì chắc hẳn, trong giờ phút sau hết, Thiên Chúa cũng sẽ loại bỏ chúng ta và trao ban Nước Trời cho những người khác là những người biết đâm bông và kết trái.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Cách hành xử của dân Do Thái cũng phản ánh cách hành xử của mỗi người đối với Thiên Chúa. Biết cách hành xử của dân Do Thái cũng là biết phần nào sự thật về chính con người của mình; biết cách đối xử của Thiên Chúa với dân Do Thái cũng biết Thiên Chúa là ai.
Người chủ vườn nho trong sách tiên tri Isaya đã chăm sóc vườn nho chu đáo: làm đất, rào dậu, chọn giống nho quý để trồng. Người chủ hy vọng và chờ đợi rất nhiều nơi vườn nho này, nhưng cây nho được chọn lựa và chăm bón kỹ lưỡng lại cho những quả nho chua. Thiên Chúa đã chờ đợi nhiều nơi dân Do Thái, nhưng dân Do Thái luôn là dân cứng cổ cứng đầu không vâng lời Thiên Chúa; Thiên Chúa cũng chờ đợi nhiều nơi mỗi người, thế nhưng con người lại đã làm những điều xấu xa không như Thiên Chúa kỳ vọng.
Người chủ vườn nho trong dụ ngôn Đức Yêsu kể cho các kỳ lão và tư tế cũng đã chờ đợi nơi vườn nho và những người tá điền rất nhiều. Ông đã làm tường rào bảo vệ vườn nho, đã làm bồn ép nho, và sẵn sàng để thu hoa lợi. Ông trao vườn nho cho những tá điền, và hy vọng những tá điền này sẽ giúp ông thu hoa lợi. Thế nhưng khi mùa đến, ông sai đầy tớ tới để nhận hoa lợi, thì những đầy tớ này lại bị những tá điền hành hạ và làm hại; cuối cùng ông chủ đã sai người con một của ông tới, nhưng những người tá điền thay vì kính trọng con ông chủ, lại giết người con một của ông chủ. Đáng lẽ những người tá điền phải biết ơn ông chủ đã tạo công ăn việc làm cho họ và giúp họ có cơ nghiệp, nhưng thực tế họ lại đối xử tệ bạc và bất công với ông chủ. Những người tá điền được ký thác chăm lo vườn nho dân Do Thái là các tư tế và kỳ lão, nhưng những người này đã dùng vườn nho như sở hữu riêng của họ. Không chỉ dân Do Thái mà cả những người lãnh đạo dân cũng đã bất tuân và chống cưỡng Thiên Chúa.
Con người đã không đáp ứng kỳ vọng của Thiên Chúa về mình, như cây nho được tuyển chọn lại đã sinh nho chua. Những người đại diện Chúa đã không phục vụ Chúa nhưng đã trục lợi nơi những gì Chúa trao cho họ, hơn nữa họ còn giết cả những tôi tớ của Thiên Chúa được sai tới, và ngay cả người Con Một của Ngài. Con người, cả dân chúng lẫn người lãnh đạo, đã không coi trọng Thiên Chúa, tuy dù Thiên Chúa luôn kỳ vọng nơi con người và luôn tin tưởng những người Ngài tuyển chọn.
Đức Yêsu là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa. Ngài được sai tới với con người để trở thành dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa cho con người, nhưng con người đã đối xử với Ngài như đã từng đối xử với đồng loại. Họ đã ganh ghét khi thấy Ngài trổi trang, đã muốn diệt Ngài khi thấy dân chúng theo Ngài. Tuy con người đối xử với Thiên Chúa như vậy, nhưng Thiên Chúa đã không cư xử với con người theo cách của con người: mắt đền mắt, răng thế răng; trái lại, Ngài luôn lấy tình yêu đối lại với thù hận, lấy tha thứ đối lại với xúc phạm.
Đức Yêsu vẫn yêu thương con người. Khi ở trên thập giá, Ngài vẫn một mực xin Cha “tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết.” Đức Yêsu không thù hận, vẫn yêu thương cho dù người ta không đáp trả tình yêu của Ngài. Biết rằng sẽ bị giết, Ngài vẫn yêu thương và trao ban chính Ngài đặc biệt nơi bí tích Thánh Thể. Ngài hy vọng con người sẽ nhận biết tình yêu của Ngài, và nhận biết tình yêu Thiên Chúa đối với họ. Đức Yêsu là biểu hiện tình yêu của Thiên Chúa cho con người cách tuyệt vời.
Thiên Chúa vẫn yêu thương con người. Trên thập giá, như thể Thiên Chúa Cha chấp nhận để con người hành hạ con mình, như thể Thiên Chúa yêu thương con người hơn yêu thương Con Một Ngài. Thực sự Thiên Chúa Cha yêu thương Con Ngài vô cùng, tuy nhiên qua việc chấp nhận để Con của Ngài bị con người hành hạ đến phải chết trên thập giá cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào. Ngài yêu thương con người như yêu thương Con Duy Nhất của Ngài (Ga.17, 23).
Thiên Chúa là Đấng tuyệt vời, cho dù con người tệ bạc nhưng Ngài vẫn yêu thương, Ngài vẫn làm mọi cách để được lại con người. Ngài không chỉ muốn con người được hạnh phúc ở đời sau, nhưng Ngài muốn con người được bình an hạnh phúc ngay cả ở đời này. Thiên Chúa muốn con người, và đặc biệt là tôi, được an bình và hạnh phúc ngay tự giây phút này.
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu ở Philip, khuyên họ đừng lo lắng gì. Nếu cần gì hãy cầu xin Thiên Chúa, và sự bình an của Thiên Chúa sẽ ở cùng họ. Thánh Phaolô là người cảm nghiệm đặc biệt tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Không có gì có thể tách con người khỏi tình yêu Thiên Chúa, cho dù sự sống hay sự chết, hiện tại hay tương lai. Chính Thiên Chúa yêu thương con người, và làm tất cả cho con người; chính vì vậy, con người có thể sống bình an hạnh phúc không phải vì sức riêng của con người nhưng vì Thiên Chúa muốn và Ngài giúp con người được như vậy.
Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương và Thành Tín. Ngài muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. Con người có thể được tất cả trong Ngài. Những điều vượt khả năng con người, những điều con người không đáng được, thì Thiên Chúa vẫn ban cho con người. Con người được bình an và hạnh phúc thật sự khi nhận biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương mình vô cùng. Chính nhờ nhận biết Thiên Chúa, con người không còn lo lắng bất an, vì Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Chủ đề: Vườn nho của Chúa (Mt 21,38)
Anh chị em thân mến
Ngày xưa Thiên Chúa đã đặt nguyên tổ chúng ta trong vườn địa đàng, để các ngài “canh tác và giữ vườn”. Ngày nay Thiên Chúa cũng đặt chúng ta trong vườn nho Hội Thánh để chúng ta canh tác và nộp hoa lợi.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa chỉ cho chúng ta biết phải làm gì trong Hội Thánh của Ngài.
Mặc dù là thành phần của Hội Thánh, nhưng rất ít khi chúng ta góp phần xây dựng Hội Thánh.
Chúng ta lãnh nhận ơn Chúa rất nhiều, nhưng rất ít khi chúng ta làm gì để đáp lại những ơn ấy.
Do tội lỗi đã phạm, chúng ta đã góp phần giết chết Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa.
III. Lời Chúa
Trong dụ ngôn này, “vườn nho” tượng trưng cho dân Israel.
Thiên Chúa đã yêu thương, chăm sóc dân này rất ân cần chu đáo. Ngài chỉ mong nó sinh ra những trái nho ngon ngọt.
Nhưng trước bao nhiêu tình thương và chăm sóc của Thiên Chúa, dân Israel vẫn bạc tình bạc nghĩa, như một vườn nho chỉ sinh trái dại.
Do đó, cuối cùng Thiên Chúa quyết định bỏ mặc họ cho quân thù dày xéo.
Tất cả những điều được nói bằng lời lẽ dụ ngôn trên đều được thực hiện trong lịch sử Israel.
Tv này là một lời nguyện sám hối. Tác giả coi mình là một người dân Israel, biết tội mình là một vườn nho không sinh trái tốt, đáng bị quân thù dày xéo. Nhưng tác giả kêu xin lòng thương xót Chúa, xin Ngài bảo vệ vườn nho yêu quý của Ngài.
Lời cầu xin ấy đã được nhậm lời: Thiên Chúa sẽ sai Con Ngài là Ðức Giêsu đến để phục hồi vườn nho ấy.
Vườn nho mà Ðức Giêsu tái lập là Nước Trời. Những thợ làm vườn nho ban đầu là dân Do Thái, cách riêng là các lãnh tụ tôn giáo Do Thái.
Lẽ ra dân Do Thái phải biết ơn Chúa khi gọi họ vào Nước Trời, và đáp lại họ phải có một cuộc sống tốt, như một phần hoa lợi nộp cho Thiên Chúa là chủ vườn nho. Nhưng chẳng những họ không làm thế, mà còn giết các sự giả của Thiên Chúa, cuối cùng giết luôn Ðức Giêsu Con duy nhất của Thiên Chúa.
Vì thế, Thiên Chúa quyết định trao Nước Trời cho một dân mới là Hội Thánh.
Thánh Phaolô dạy tín hữu Philipphê bí quyết để được bình an:
Ðừng lo lắng gì hết. Nếu có gì lo lắng thì khi cầu nguyện hãy trình bày hết cho Chúa.
Cứ theo lương tâm mà sống những gì mà mình nghĩ là tốt (chân thật, trong sạch, công chính, thánh thiện, tiếng tốt v.v.)
Thêm vào đó là thực hành những gì họ đã nghe Phaolô dạy và thấy Phaolô làm gương.
Chúa ơi
Lịch sử phải chăng chỉ là một sự tái diễn khôn ngoan
Là tấn thảm kịch được diễn tả lại mãi mãi muôn đời?
Ðây vườn nho của Chúa,
Mảnh đất này Chúa đã trao cho con.
Ðây vườn nho của Chúa,
Lòng, trí con và tự do này
Tất cả đều do Người ban tặng.
Con lại chiếm cho mình mà không biết thẹn;
Và để chiếm trọn gia tài,
Con lại quyết không nhìn Người Con thừa tự,
Dồn Người vào ngục tối sử xanh.
Thế là Chúa đã chết rồi!
Hoan hô con người!
Một mình sở hữu mọi của cải trần gian!
Vạn tuế con người,
Chỉ mình làm chủ kiếp người và lịch sử!
Chúa liền sai bao sứ giả đến
Ðể thu phần hoa lợi của tình yêu,
Ðem chia sẻ, an bình và công lý.
Thế mà tất cả lại bị đánh đập tơi bời,
Hoặc bị tống giam vào nơi ngục thất,
Hoặc bị tù đày hay là bị giết.
Giêrêmia bị ném đá, Isaia bị xé xác tan tành,
Roméro Giám mục bị bắn gục trước bàn thờ,
Cha Popieluko bị đánh nhừ tử và trấn sâu dưới nước,
Thân thể Cha Jarland đạn ghim lỗ chỗ như tổ ong bầu.
Ôi lạy Ðức Kitô!
Sao Người luôn bị ghét bỏ khinh khi,
Bị miệt thị và đóng đinh vào thập giá!
Xin ban cho con tâm hồn hiểu biết
Gương mù này của thập giá tình yêu.
Hiểu biết hơn sự ngoan cố của con người
Không cộng tác làm vườn nho của Chúa;
Xin cho con luôn nghiệm ra rằng:
Mọi viên đá nào bị loại bỏ
Ðều trở nên viên đá góc tường,
Cho thế nhân hưởng nguồn ơn cứu độ.
Ôi lạy Ðức Kitô phục sinh!
Ngài là Con Thừa Tự của Trời, Ðất mới
Xin mở mắt con để con thấy rõ
Qua gian lao của những bậc tôi trung,
Qua cái chết của các ngôn sứ,
Chúa đang thực hiện công trình của Chúa,
Công trình kỳ diệu còn khuất mắt chúng con.
(M. Hubaut, trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 313-315)
Trong thư gởi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đã đặt một câu hỏi rất cơ bản khiến mọi người chúng ta phải suy nghĩ: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” (1 Cr 4,7)
Sự sống: do Chúa trực tiếp ban
Sức khoẻ: cũng thế
trí khôn, một số khả năng: cũng thế
tiền bạc, tài sản: do Chúa ban qua trung gian cha mẹ, thân nhân.
…
Tóm lại, tất cả đều do Chúa ban. Ta đúng là một vườn nho được Chúa chăm sóc chu đáo ân cần.
Chúa chờ gì nơi ta?
– Chúa muốn ta nhận biết tất cả là bởi Ngài – Thế mà rất thường xuyên chúng ta coi những thứ đó là của riêng của chúng ta. Như thế, chúng ta cũng giống như những tá điền kia muốn chiếm đoạt vườn nho của chủ.
– Chúa cho chúng ta hưởng dùng tất cả những thứ đó, miễn là ta góp lại một phần nhỏ cho Chúa như là phần hoa lợi – Nhưng chúng ta chỉ biết xử dụng tất cả những thứ đó cho riêng mình. Không có phần nào cho tha nhân, không có phần nào cho Hội Thánh, không có phần nào cho xã hội.
“Xin cho con biết nhận mà cũng biết cho”, một câu hát rất hay. Nó vừa là một lời cầu nguyện mà cũng vừa là một lời nhắc nhở.
“Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” (1 Cr 4,7). Phải, tất cả những gì ta đang có đều là do ta lãnh nhận từ tay Chúa, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhưng không chỉ nhận, ta còn phải biết cho, bởi vì, trên căn bản, ta nhận không phải chỉ cho riêng mình mà còn cho người khác nữa.
Thảm cảnh ngày nay là có nhiều người túng thiếu bên cạnh những người dư thừa, nhiều người kém cỏi bên cạnh những người giỏi giang.
Phải chi những người thừa thải và những người giỏi giang đó ý thức rằng những gì họ nhận lãnh cũng là nhận lãnh cho những người khác, và từ đó họ biết chia sẻ cho những người khác, thì thảm cảnh kia đâu còn.
Nhận lãnh cho nhiều người mà chỉ xử dụng cho riêng mình, đó là gian lận, là trộm cắp, là biển thủ, là tội!
Bài đọc I hôm nay có một câu than rất chua xót của Chúa: “Nào còn việc gì phải làm cho vườn nho của Ta mà Ta đã không làm!”
Câu chuyện có thực sau đây giúp ta phần nào hiểu được cảm thụ của Chúa:
Hai vợ chồng kia có 4 đứa con và hết mực yêu thương chăm sóc chúng. Dù không giàu có, nhưng vì muốn con cái mình có được tất cả những gì tốt nhất, họ đã làm tất cả những gì họ làm được: ngoài giờ làm việc chính thức ở sở làm, họ còn đi làm thêm vào ngày Chúa nhật và các buổi tối; vay tiền để mua một ngôi nhà rộng rãi để mỗi đứa có một phòng riêng tiện cho việc học; không ngại gởi con vào những trường tốt nhất mặc dù học phí rất cao; không bao giờ dám bỏ tiền đi du lịch, thậm chí không dám đi ăn cơm tiệm và đến các rạp hát để giải trí…
Thế rồi các đứa con dần dần lớn lên, đỗ đạt, lập gia đình, có việc làm tốt. Nhưng cũng dần dần từng đứa từng đứa ra riêng. Ðứa nào cũng chỉ lo cho cuộc sống riêng của gia đình chúng, không hề nhớ đến mẹ cha. Bây giờ hai vợ chồng già sống hiu quạnh trong căn nhà cũ. Họ đã than thở với một người đến thăm:
– Chẳng có việc gì có thể làm cho chúng nó mà chúng tôi đã không làm. Thế mà bây giờ chẳng có việc gì chúng nó phải làm cho chúng tôi mà chúng nó chịu làm!
Ngày xưa có một cô gái bị nhốt trong một cái chai, rất khổ sở. Một hôm có một vị thần tình cờ đi ngang qua, nghe tiếng than của cô: “Thật là khổ sở và nhục nhã phải sống trong cái chai này. Ước gì mình được sống trong một túp lều”. Vị thần động lòng, hóa phép cho cô ra khỏi cái chai và được sống trong một túp lều. Rồi vị thần ra đi. Cô gái mừng quá quên cám ơn vị thần.
Năm sau, vị thần trở lại để xem cô sống ra sao. Cô than: “Thật là khổ sở và nhục nhã phải sống trong cái túp lều này. Ước gì mình được sống trong một biệt thự rộng rãi”. Vị thần động lòng, hóa phép cho cô sống trong một biệt thự. Rồi vị thần ra đi. Cô gái mừng quá quên cám ơn vị thần.
Năm sau nữa, vị thần trở lại để xem cô sống ra sao. Cô than: “Thật là khổ sở và nhục nhã phải sống trong cái biệt thự này. Ước gì mình được làm một công nương có kẻ hầu người hạ”. Vị thần động lòng, hóa phép biến cô thành một công nương. Rồi vị thần ra đi. Cô gái mừng quá quên cám ơn vị thần.
Năm sau nữa, vị thần trở lại để xem cô sống ra sao. Cô than: “Thật là khổ sở và nhục nhã vì chỉ là một công nương. Ước gì mình được trở thành hoàng hậu được thần dân cả nước tôn thờ”. Vị thần bảo cô cứ yên tâm đi ngủ, sáng hôm sau sẽ được như ý. Sáng hôm sau, khi thức dậy, cô gái thấy mình bị nhốt ở trong cái chai như trước!
Chúng ta cũng giống như cô gái này. Nhưng rất may là Thiên Chúa không giống như vị Thần trong câu chuyện.
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa đã lấy vườn nho yêu quý của Ngài từ tay dân Do Thái bất trung để trao lại cho Hội Thánh, với hy vọng Hội Thánh sẽ làm cho nó sinh nhiều hoa trái. Trong tâm tình biết ơn Chúa, chúng ta hãy dâng lên Ngài những lời nguyện tha thiết.
CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã khiển trách dân Do Thái đã lãnh nhận vườn nho của Chúa nhưng không chịu nộp phần hoa lợi. Hội Thánh chúng con ngày nay cũng đang quản lý vườn nho Chúa và cũng chưa nộp hoa lợi cho đúng mức. Xin Chúa đừng trừng phạt Hội Thánh, nhưng xin giúp mọi thành phần Hội Thánh ý thức thiếu sót của mình để từ nay tích cực hơn trong bổn phận của mình. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
– Kinh Tiền Tụng: nên dùng Kinh Tiền tụng Chúa nhật thường niên VIII, trình bày Hội Thánh là Vườn nho của Chúa.
– Trước kinh Lạy Cha: Kết hợp tâm tình với Ðức Giêsu, Người Con Thừa Tự duy nhất của Chúa Cha, chúng ta hãy dâng lên Chúa Cha lời kinh chính Chúa Giêsu đã dạy.
VII. Giải tán
Công việc hằng ngày của chúng ta chính là làm vườn nho cho Chúa. Chúng ta hãy nhớ nộp hoa lợi cho Ngài bằng những đóng góp cho Hội Thánh và xã hội, cũng như bằng những chia xẻ cho những anh chị em còn túng thiếu.
Suy Niệm
Hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe dụ ngôn những tá điền.
Những tá điền này được chủ nhà cho canh tác vườn nho của mình,
để đến mùa hái nho họ giao lại cho ông hoa lợi.
Đây là một vườn nho được ông chủ quan tâm săn sóc.
Ông đã trồng, đã rào giậu, khoét bồn đạp nho và xây tháp canh.
Tiếc thay, khi ông chủ sai các đầy tớ đến để thu hoa lợi
các tá điền chẳng những không nộp, mà còn hành hạ họ và giết đi (c. 35).
Nhóm đầy tớ thứ hai cũng chịu chung số phận (c. 36).
Nhưng ông chủ vẫn không thất vọng trước sự độc ác của các tá điền.
Sau cùng, ông đã sai chính con trai mình đến với họ.
Đứa con thừa tự cũng chẳng được nể vì, bị lôi ra khỏi vườn nho và giết đi.
Khi kể dụ ngôn này Đức Giêsu muốn nói mình chính là người con ấy,
người Con của ông chủ vườn nho là Thiên Chúa.
Ngài tiên báo về cái chết sắp đến của mình
bởi tay những tá điền sát nhân là các nhà lãnh đạo Do thái giáo đương thời.
Cái chết của Đức Giêsu nằm trong chuỗi những cái chết của các ngôn sứ
là các đầy tớ đã được Thiên Chúa sai đến với dân Israel trong dòng lịch sử.
Tuy nhiên, cái chết ấy đặc biệt cao quý vì là cái chết của chính Người Con.
Hơn thế nữa, cái chết ấy không phải là một dấu chấm hết.
Nó là cánh cửa mở ra một trang mới của lịch sử,
không phải chỉ là lịch sử của dân tộc Israel, mà còn của cả nhân loại.
“Viên đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên viên đá đầu góc.
Đó là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (c. 42).
Giáo Hội sơ khai thích dùng trích dẫn trên đây của thánh vịnh 118, 22
để nói về việc Đức Giêsu bị loại trừ và được tôn vinh (x. Cv 4,11; 1Pr 2,7).
Bị loại bỏ là việc độc ác của con người,
còn trở nên viên đá góc là việc làm kỳ diệu của Thiên Chúa.
“Thu hoa lợi”, “nộp hoa lợi”, “sinh hoa lợi” (cc. 34, 41, 43).
Hoa lợi là điều mà ông chủ nhắm tới khi ông đầu tư cho vườn nho.
Ông đã không thu được hoa lợi gì từ những tá điền độc ác,
bởi đó ông đã lấy vườn nho lại, cho người khác làm để lấy hoa lợi.
Vườn nho bây giờ được hiểu là Nước Thiên Chúa.
Nước này không còn nằm trong tay giới lãnh đạo dân Do Thái nữa,
nhưng được trao cho một dân biết sinh hoa lợi (c. 43).
Dân mới ấy chính là Giáo Hội phổ quát,
trong đó gồm cả dân ngoại và những người Do Thái tin Đức Giêsu.
Chúng ta thuộc về Giáo Hội, thuộc về đoàn dân mới.
Chúng ta hãnh diện vì được trao phó vườn nho là Nước Thiên Chúa,
và lo lắng trước trách nhiệm phải sinh hoa lợi cho xứng ở đời này.
Làm thế nào để Giáo Hội nộp hoa lợi đúng mùa cho Chủ?
Làm thế nào để chúng ta không rơi vào tội của các tá điền đi trước?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
con thường thấy mình không có thì giờ,
nhưng đồng thời cũng thấy mình
lãng phí bao thời gian quý báu.
Nhiều khi con tự hỏi
mình thực sự làm việc bao nhiêu giờ mỗi ngày.
Xin cho con biết quý trọng từng giây phút
đang trôi qua mà con không sao giữ lại được.
Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian,
để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa.
Xin cho con luôn làm việc như Chúa:
hăng say, tận tụy và vui tươi,
vâng phục, có phương pháp và đầy sáng tạo.
Vì quá khứ thì đã qua,
và tương lai thì chưa đến,
nên xin dạy con biết trân trọng giây phút hiện tại.
Xin cho con thấy Chúa
lúc này đang ở đây bên con,
và đang mời gọi con đáp lại tiếng của Ngài
bằng những hành động cụ thể.
Con xin hiến dâng Chúa giây phút này
như một hy lễ,
với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố.
Ước gì con dám sống hết mình giây phút hiện tại
để hiện tại đưa con vào vinh cửu của Chúa. Amen.
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Chuyện ngụ ngôn “Lừa và Sói” kể rằng: Một hôm, lừa đang gặm cỏ, bỗng thấy sói phi nước đại phóng tới. Lừa giả bộ đi khập khiễng. Khi sói đến gần, hỏi nó vì sao bị thọt chân, thì lừa trả lời:
– Vừa nãy tôi nhảy qua hàng rào bị xóc gai.
Rồi lừa đề nghị sói trước khi ăn thịt mình hãy nhổ gai ra đã, để khỏi bị gai đâm.
Sói tin lời, lừa giơ cao chân để sối soi mói kỹ lưỡng các móng chân lừa. Lừa thừa cơ đạp mạnh vào mõm sói rồi bỏ chạy.
Sói bị gẫy hết răng ôm đầu kêu la.
– Đáng đời ta! Cha mẹ nuôi ta thành kẻ chuyên ăn thịt, chứ đâu dạy ta làm thầy lang!
***
Nếu chuyện ngụ ngôn nào cũng cho chúng ta một bài học, thì chuyện ngụ ngôn “lừa và sói” muốn nói với chúng ta: kẻ nào không làm đúng công việc của mình sẽ lãnh hậu quả bi thảm.
Tin mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn “Những người thợ làm vườn nho”. Mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa giao phó cho một vườn nho, là những tài năng tinh thần, của cải vật chất, để chúng ta đem hoa lưọi về cho Người. Thiên Chúa còn tôn trọng chúng ta, Người để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc, theo sáng kiến riêng của mỗi người. Thánh Matheu viết: “Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa” (Mt 21,33). Người không ở đó để kiểm soát, canh chừng.
Khốn thay, có những tá điền đã không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông. Những tá điền ấy đã ngược đãi và sát hại các đầy tớ mà chủ sai đến. Thậm chí, đến lần thứ ba chúng giết luôn cả con trai ông. Họ làm như thế là để chiếm lấy gia tài của chủ. Hậu quả là: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông” (Mt 21,41).
Thiên Chúa ban muôn hồng ân, là để chúng ta phục vụ Chúa và an hem, chứ không phải để chúng ta tìm tư lợi, danh vọng, và khoái lạc cho bản thân.
Thiên Chúa kiên nhẫn trước những xúc phạm, lầm lỗi của chúng ta, là để chúng ta có cơ hội hoán cải, chứ không phải để chúng ta ngày càng sa lầy trong tội lỗi.
Thiên Chúa trao phó cho chúng ta các tài năng là để chúng ta sinh lợi cho phần rỗi mình. Nếu chúng ta không biết sử dụng ơn lành Chúa ban, thì người sẽ cất đi và tao cho kẻ khác. Nỗi bất hạnh ấy chỉ mình ta gánh chịu mà thôi!
Sẽ đến ngày chúng ta phải tường trình về công việc “vườn nho” mà Chúa đã trao phó. Sẽ đến ngày chúng ta phải dâng lên Chúa những thu hoạch “hoa lợi” mà Người trông đợi. Bội thu hay mất trắng là hoàn toàn do công việc chúng ta đang làm hôm nay. Đức Hồng Y Suhard đã nói: “chúng ta chịu trách nhiệm về những điều chúng ta đã làm, đã không làm, hay đã cản trở không cho người khác làm”.
***
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã trao cho chúng con làm công việc của Chúa, xin cho chúng con luôn biết mau mắn chu toàn.
Nếu Chúa gởi đến cho chúng con những ơn lành hồn xác, xin Chúa dạy chúng con biết sử dụng trong tinh thần biết ơn, và liên đới với an hem trong tinh thần chia sẻ, vì đó là con đang làm theo ý Chúa. Amen.
Dụ ngôn những thợ vườn nho phản loạn thuộc vào loại các dụ ngôn Chúa dùng để tỏ lộ thân thế của Ngài là Đấng Thiên Sai. Dụ ngôn này cũng cho thấy sự cô đơn bi thảm của Chúa Giêsu, khi bị dân Ngài loại bỏ.
Như thường lệ Chúa Giêsu cấu tạo dụ ngôn từ các thực tại mà Ngài nghe thấy trước mắt. Trong xứ Galilêa thời ấy, những điền chủ bỏ tiền vào việc trồng nho. Họ giao cho thợ làm vườn nho trông coi rồi trả lương. Đôi khi họ đi vắng xa, chẳng hạn như ra nước ngoài, và để quan lý mùa màng, họ sai những đầy tớ đến với những người thợ làm vườn. Theo luật Do Thái, nếu chủ một thửa đất chết đi mà không có người thừa kế, thì thửa đất ấy sẽ thuộc về người nào chiếm ngụ đầu tiên. Điều này làm cho chúng ta hiểu được lý luận của các thợ làm vườn nho: Đứa con thừa tự đây rồi, nào hãy giết nó đi và chúng ta sẽ chiếm được gia tài của nó. Quả thực, người con thừa tự mà chết, đất sẽ thành vô chủ và thuộc quyền những kẻ cư ngụ.
Qua dụ ngôn này và qua đoạn kế tiếp với hình ảnh viên đá góc bị thợ xây loại bỏ, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng: Chính Ngài là người con bị bọn thợ làm vườn nho giết đi, chính Ngài là viên đá góc bị thợ xây loại bỏ.
Một cách quyết liệt, dụ ngôn đã đưa ra câu hỏi sau đây: Làm sao giới hữu trách của dân Do Thái lại đi tới chỗ loại bỏ Đấng thiên sai? Tôi xin thưa vì họ đã buông thả theo bản năng chiếm hữu của họ. Chủ vườn nho là Thiên Chúa, thủ lãnh duy nhất của họ. Thế nhưng tinh thần chiếm hữu của họ hệ tại việc áp đặt quan niệm riêng của họ về lề luật. Họ dùng lề luật để thống trị dân, họ còn có cao vọng dùng dân tộc của họ để lên ngôi thống trị thế giới. Các vị tiên tri đã đến để nhắn nhủ họ, nhưng tất cả đều bị họ giết chết, và sau cùng họ đã đi tới chỗ loại bỏ Đấng Thiên Sai, Con Một của Thiên Chúa. Thay vì phục vụ cho lề luật và dân chúng thì họ đã chiếm hữu, coi mình là chủ của lề luật và của dân chúng.
Còn chúng ta thì sao, liệu chúng ta có thoát khỏi thái độ tự coi là người làm chủ của Tin Mừng, của chân lý hay không? Làm thế nào để phục vụ Phúc Âm mà không chiếm hữu? Tôi xin thưa bằng cách để cho tinh thần Phúc Âm thấm nhập vài cải tạo chúng ta, chứ chúng ta không đọc Phúc Âm, rồi sau đó ngồi sắp xếp Phúc Âm theo ý riêng của chúng ta. Ngày xưa các thầy thông luật đã lèo lái niềm trông đợi của dân chúng tới những ước vọng thống trị trần gian. Ngày nay cũng không thiếu gì những người muốn lợi dụng Phúc Âm để quảng cáo cho một hệ thống chính trị hay một quan niệm xã hội. Chúng ta không có quyền sử dụng và dùng Phúc Âm vào một mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu đi đến Đức Kitô. Nhiều người muốn chiếm hữu Phúc Âm để mưu cầu lợi ích riêng tư, để rồi cuối cùng đã đi đến chỗ phủ nhận con người Đức Kitô. Tin Mừng mời gọi chúng ta xây dựng cuộc sống trên viên đá góc là Đức Kitô, Đấng chúng ta tìm kiếm và yêu mến, chứ không nên lèo lái Ngài và Tin Mừng của Ngài vào những ý đồ riêng tư của mình.
Dụ ngôn “Vườn Nho Bị Chiếm Đoạt” chúng ta vừa nghe chứng tỏ cường độ chống đối Chúa Giêsu của nhóm Pha-ri-sêu đã lên đến cao trào, và Chúa Giêsu tỏ ra hết sức khẳng khái. Ngài không né tránh, ngược lại, Ngài đương đầu.
Ngài kể dụ ngôn này cho nhóm Pha-ri-sêu và Ngài hỏi: “Anh em nghĩ Đức Vua sẽ làm gì với những người tá điền sát nhân đó?” Họ trả lời: “Đức Vua sẽ tiêu diệt họ và cho người khác canh tác vườn nho”.
Họ rơi vào bẫy của Chúa Giêsu. Ngài thẳng thắn nói ngay vào mặt họ, những khuôn mặt đã chai lì trong sự chối từ của họ: “Tôi nói cho mấy ông biết, Nước Thiên Chúa, Thiên chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa mà trao cho một dân khác biết làm cho Nước ấy trổ sinh hoa lợi”. Chúng ta có thể hiểu rằng, chính nhóm Pha-ri-sêu là những kẻ sát nhân đó. Họ tưởng rằng giết người con của ông chủ, thì họ sẽ chiếm đoạt được vườn nho. Nhưng không dễ dàng như thế đâu! Vua sẽ lấy lại vườn nho và cho những người khác biết khai thác để sinh hoa lợi.
Với dụ ngôn này, Chúa Giêsu nhắc đến những tiên tri đã bị dân Do Thái giết hại, đồng thời cũng tiên báo về cái chết của Ngài. Ngài sẽ bị giết, vì chính Ngài là Người Con của Chúa Cha sai đến để thu hoa lợi.
Ai là những kẻ được canh tác vườn nho, nếu chẳng phải là chúng ta? Chúng ta là “dân mới” của Chúa, đã được chọn “trong Đức Ki-tô và đã được tiền định làm nghĩa tử, tiền định làm cơ nghiệp riêng, theo kế hoạch của Người” (Ê-phê-sô 1,1…). Chúng ta hãy vui mừng cảm tạ Chúa, vì chúng ta được thừa kế gia nghiệp mà Chúa Cha đã định từ trước, đã ban cho chúng ta.
Đón nhận gia sản của Chúa, chúng ta có nhiệm vụ làm trổ sinh hoa trái cho Cha trên trời. Chúng ta đã làm gì? Và chúng ta đã làm được gì?
Chúa trao cho nhân loại vườn nho của Ngài, vườn nho đã được Ngài chu đáo tạo mọi điều kiện để trổ sinh hoa lợi: Ngài đã rào giậu, xây bồn đạp nho, xây cả tháp canh… Ngài cho nhân loại canh tác, nhưng thay vì nộp hoa lợi cho chủ, chúng ta lại muốn chiếm đoạt cả vườn nho. Tất cả phải quy về Chúa, là nguồn gốc và là chủ mọi sự, chúng ta lại tự tiện sử dụng cho riêng mình, không nghĩ đến Chúa.
Chúng ta tưởng rằng chỉ có dân Do thái mới giết Chúa, còn chúng ta thì tốt. Nhưng không, chúng ta cũng phản bội, tiếp sức cho những người vô đạo, ủng hộ những hành động bạo lực, vô luân của thế gian. Nhiều người trong chúng ta đã sống như thánh Phao-lô đã nói: “như kẻ thù của thập giá”; chúng ta tôn thờ thân xác và nhục dục, chạy theo tiền của, chà đạp lương tâm. Phải chăng chúng ta cũng là những tá điền sát nhân?
Chúng ta đang ở vào một thời điểm quan trọng của một thời mới. Thời con người tiến bộ về khoa học, và muốn chiếm đoạt vương quyền của Thiên Chúa. Con người của thế kỷ hai mươi mốt này, đa số muốn loại trừ Thiên Chúa, làm như Thiên Chúa cản bước tiến của họ. Họ muốn trở thành “siêu nhân” và muốn giết chết Thiên Chúa. Người chủ trương mạnh mẽ nhất là một triết gia người Đức, Ông Frederic Nietzsche. Ông đã tuyên bố: “Thiên Chúa đã chết rồi!” Lạ thay! Thiên chúa vẫn sống, còn ông đã gởi thân vào ba tấc đất và chỉ còn là một bộ xương. Ảnh hưởng của phong trào này vẫn còn là một thách thức đối với chúng ta là những người tin Chúa.
Nói thế không phải để chúng ta bi quan, ngược lại chúng ta phải dấn thân hơn, làm sao cho vườn nho của Chúa sinh hoa kết quả dồi dào hơn. Đây chính là một thách thức. Thời nào Giáo Hội cũng gặp những thách thức tương tự. Sau cùng, Giáo Hội vẫn sống, vì tin vào “tảng đá thợ xây loại bỏ, đã trở nên tảng đá góc tường”.
Chúng ta vẫn tin, mặc dù phải chạm trán với mọi trở lực.
“Anh em đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian”.
Ngài vẫn là Con Đường duy nhất dẫn chúng ta xuyên qua mọi thử thách, đưa chúng ta vào một dấn thân mới, thích hợp với hoàn cảnh xã hội hôm nay.
Ngài là Sự Thật, soi sáng bước đi yếu ớt của chúng ta.
Ngài là Sự Sống, chúng ta sống trong Ngài ngay trong hiện tại đầy bóng tối này. Niềm vui của Ngài sẽ tràn ngập tâm hồn những ai dám tin vào Ngài. Khuôn mặt bầm giập của Ngài trên thập giá sẽ trở nên khuôn mặt đáng yêu nhất trong trần gian này.
Đứa Con duy nhất của chủ vườn nho đã bị giết, nhưng nhờ đó, vườn nho được trao vào tay chúng ta. Và Đứa Con bị giết đó đã sống lại và vẫn sống. Ngài sống lại để nhập cuộc với chúng ta trong cuộc chiến cam go này cho sự thật, cho tình thương và cho hạnh phúc bất diệt.
Ngài nhập cuộc bằng một tấm bánh ban sự sống. Ngài sẽ vào trong mỗi người chúng ta, giúp chúng ta không nản chí khi thấy những cố gắng của chúng ta chỉ như giọt nước rơi vào đại dương của thế gian. Ngài mãi mãi là niềm hy vọng không bao giờ tàn lụi cho nhân loại, và chính chúng ta là hoa quả của vườn nho mênh mông của Chúa.
Để cảnh giác nhiều người Do-thái xưa nay không muốn nghe lời Thiên Chúa, cũng chẳng tiếp nhận và thậm chí còn bách hại các ngôn sứ Chúa gửi đến rao giảng cho họ, Chúa Giê-su kể dụ ngôn sau đây:
“Có gia chủ kia trồng được một vườn nho… Ông trao cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi.”
Gia chủ trong câu chuyện này ám chỉ Thiên Chúa; vườn nho tượng trưng cho dân Do-thái là dân được Chúa chọn; bọn tá điền là các cấp lãnh đạo Do-thái; còn các tôi tớ tượng trưng cho các ngôn sứ Chúa sai đến để chỉ dạy cho dân trung thành với Thiên Chúa, đừng chạy theo tà thần.
Thế rồi các thủ lãnh của người Do-thái đã đối xử thế nào với các vị ngôn sứ này?
Không những họ bác bỏ lời dạy của các ngài, mà còn ra tay bách hại các ngài.
Chúa Giê-su nói về họ như sau: “Bọn tá điền bắt các đầy tớ của ông chủ: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy.”
Trước sự việc đó, chủ vườn là Thiên Chúa đã sai chính người Con yêu quý của mình đến với họ, may ra họ sẽ kiêng nể Ngài mà đón nhận và vâng nghe. Thế nhưng số phận người Con này lại càng bi đát hơn. Chúa Giê-su nói về họ như sau:
“Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó! ” Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi.”
Qua dụ ngôn này, Chúa Giê-su lên án 2 thế hệ:
– Một là lên án nhiều người Do-thái thời cựu ước đã không đón nhận lời các ngôn sứ là những sứ giả Chúa gửi đến để chỉ dạy cho họ biết làm lành, lánh ác; đã thế, họ còn bách hại các vị ngôn sứ này.
– Hai là lên án những người Do-thái thời Chúa Giê-su đã gác bỏ ngoài tai lời Ngài rao giảng, lại còn ra tay giết hại Ngài.
Hôm nay, kịch bản đau lòng đó vẫn đang tiếp diễn giữa chúng ta.
Cũng như người Do-thái xưa, hiện nay vẫn còn rất nhiều người bịt tai lại trước lời Chúa, nhắm mắt không nhìn nhận những kỳ công Chúa làm trong vũ trụ.
Vì thế, lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đừng bịt mắt trước ánh sáng của Chúa, đừng bưng tai để gạt bỏ lời Chúa ra ngoài như những người Do-thái xưa.
Một thuyền trưởng đang lái tàu giữa đại dương mênh mông trong đêm tối mịt mù, không còn nhìn ra phương hướng, lại gặp cơn bão lớn đang ào ào xông tới, mà cứ chủ quan xem thường, không thèm hướng nhìn về ánh sáng của ngọn hải đăng từ xa để đưa thuyền vào bến cách an toàn, nên thuyền của ông đã bị nhận chìm dưới đáy biển.
Tương tự như thế, Lời Chúa cũng như ngọn hải đăng soi đường, dẫn lối cho chúng ta đi đúng đường đúng hướng, giúp vượt qua biển đời tăm tối đầy sóng gió gian nguy.
Nếu chúng ta nhắm mắt làm ngơ trước những tia sáng do Chúa Thánh Thần chiếu dọi vào tâm hồn qua những trang Tin mừng, qua lời các ngôn sứ, thì chúng ta cũng sẽ lâm nạn như viên thuyền trưởng ngoan cố trên đây.
Nhiều tài xế lái xe băng qua điểm giao cắt giữa đường bộ và đường sắt không rào chắn, đang khi hai tai họ bị bít kín vì đang sử dụng tai nghe nhạc (phone) nên không nghe tiếng còi cảnh báo của đoàn tàu đang lao tới. Thế là các anh đã lao vào cái chết thảm khốc.
Tương tự như thế, nếu đôi tai của ta bị bít kín trước những lời giáo huấn của Tin mừng, của các ngôn sứ Chúa gửi đến, hoặc để cho những lời đường mật chứa đầy nọc độc của thế gian ru ngủ tâm hồn và lấn át tiếng lương tâm, thì thảm hoạ tinh thần sẽ chụp xuống bất cứ lúc nào.
Lạy Chúa Giê-su,
Thật là điên rồ khi lái tàu giữa biển khơi trong đêm tối, gặp bão tố cuồng phong ào ào xông tới mà không hướng nhìn về ngọn hải đăng chiếu dọi để đưa con tàu về bến an toàn.
Thật là dại khờ khi lái xe qua những điểm giao cắt với đường sắt mà đôi tai còn bị bít kín bởi tai nghe nhạc (phone).
Và cũng thật là rồ dại nếu chúng con bưng tai trước những lời vàng của Chúa và bịt mắt lại trước ánh sáng của Tin mừng.
Xin cho chúng con luôn mở mắt đón nhận ánh sáng của Chúa Thánh Thần soi dẫn và mở tai để lắng nghe lời hằng sống Chúa truyền dạy chúng con, nhờ đó, chúng con sẽ luôn được an toàn và hạnh phúc trong Chúa.
(Suy niệm của Barbara E. Reid – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Ông chủ sẽ trao vườn nho cho những tá điền khác.” (Mt 21,41)
Những tá điền khác: Họ là ai?
Năm năm trước đây, tại một số quốc gia vùng Ả rập, nhiều cuộc bạo loạn xảy ra, để biểu thị quyền lực hoặc để lật đổ chế độ. Một vài nơi đã thành công trong việc xóa bỏ chính quyền cũ và thành lập chính phủ mới. Một số cuộc cách mạng kết thúc khá ôn hòa, nhưng nhiều nơi những cuộc lật đổ gây nhiều đổ máu và tang tóc. Các biến cố này có nhiều nét tương đồng so với bối cảnh của dụ ngôn được Tin Mừng hôm nay thuật lại. Dụ ngôn đề cập đến cuộc lật đổ của các tá điền đối với ông chủ vườn nho.
Quá bức xúc vì mình không có đất đai để canh tác cũng chẳng có quyền hành gì, những tá điền đã nổi loạn chống lại những sứ giả ông chủ sai tới. Họ còn giết cả đứa con của ông chủ, người có quyền thừa tự, để mong tiếm quyền sở hữu vườn nho về cho mình. Câu 40 trong dụ ngôn đưa ra một câu hỏi khá hóc búa “Trước tình thế đó, ông chủ sẽ xử trí ra sao?”. Câu trả lời, là ông sẽ ra lệnh trừng phạt họ một cách nghiêm khắc. Bạo lực sẽ phải trả giá bằng bạo lực, có khi còn dữ dội hơn. Các tá điền chắc chắn sẽ bị tru diệt một cách không thương tiếc. Chúng ta có thể đọc dụ ngôn này theo một góc nhìn khác, nếu nhìn vào sự vô vọng nơi các tá điền khi họ muốn lật đổ ông chủ, và đòi quyền sở hữu vườn nho dành cho mình.
Theo cái nhìn truyền thống khi đọc dụ ngôn này, chúng ta có những hình ảnh và tình tiết mang tính biểu trưng để so chiếu. Vườn nho biểu thị cho dân Israel, các tá điền là những lãnh đạo tôn giáo thời Chúa Giêsu, ông chủ vườn là chính Thiên Chúa, các sứ giả mà ông chủ sai tới là các ngôn sứ trong cựu ước, và người con của ông chủ chính là Đức Giêsu. Dụ ngôn mà ngôn sứ Isaia nói tới, như được trình thuật trong bài đọc thứ nhất cũng có nhiều nét ẩn dụ tương đồng như vậy. Tuy nhiên, phần kết nơi hai dụ ngôn thì hoàn toàn khác nhau. Trong trình thuật của Isaia, ông chủ vườn nho thất vọng vì vườn nho không sinh hoa trái, và ông đã ra lệnh hủy diệt vườn nho.
Nơi dụ ngôn của Đức Giêsu, vườn nho không bị tiêu hủy, nhưng được trao phó cho những người quản lý mới. Trong cả hai dụ ngôn, điểm quy chiếu là vườn nho cần phải được chăm sóc để cho trái trăng, và những tá điền đương thời đã không làm được điều này. Một điểm nhấn khác, là nếu dụ ngôn phác vẽ một hình ảnh biểu trưng về lịch sử cứu độ, thì “Người Con” được ông chủ gửi tới, là chính Đức Giêsu đấng Messia. Đây là quà tặng lớn nhất mà Thiên Chúa tặng ban, là chính Đấng mà nhân loại vẫn luôn ngong ngóng đợi chờ. Món quà đó không thể bị tước mất khỏi tay ông chủ. Nếu chủ vườn nho là chính Thiên Chúa, và ngay cả cái chết xảy ra nơi người Con là điều không thể tránh khỏi khi con người nhẫn tâm chống lại Ngài, thì lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn luôn dàn trải và đổ xuống trên ta đến vô tận, đem lại cho chúng ta những cơ hội để thống hối, hơn là đưa ra một phán quyết hủy diệt cuối cùng.
Trong mạch văn của Tin Mừng Mathêu, dụ ngôn nhắm đến các đầu mục Do thái giáo, những con người đang kình chống Đức Giêsu. Dụ ngôn cũng chỉ dẫn ra điều cần thiết, là phải có những vị lãnh đạo mới. Thế nhưng, những tá điền khác, hay các vị lãnh đạo tôn giáo khác là ai? Một số cắt nghĩa rằng, họ là những người mà ông chủ sẽ tín nhiệm để thay thế các tá điền cũ, tức là Thiên Chúa sẽ thiết lập “một Hội Thánh mới, thay thế cho Israel cũ, trải rộng đến các dân ngoại”. Cách cắt nghĩa này rất dễ bị chống đối. Mathêu viết cho các Kitô hữu gốc Do Thái và theo họ, các đầu mục của Israel cũ sẽ được thay thế bằng các lãnh đạo mới, cũng gốc Do thái. Những người theo Đức Giêsu thời đó, vẫn nghĩ rằng các môn đệ của Đức Giêsu, chủ yếu là những Kitô hữu gốc Do thái, sẽ là những “tá điền khác”. Họ cố đấu tranh để chứng tỏ điều đó, dù họ có liên hệ gốc gác với dân vùng Judea hoặc gốc Pharisiêu chăng nữa.
Dụ ngôn cũng đặt ra một câu hỏi nhức nhối đối với những ai đang nắm quyền lãnh đạo thuộc bất cứ một tổ chức nào, một định chế nào, hay một quốc gia nào. Nếu những người lãnh đạo không giúp đem lại thiện ích cho các thành viên thuộc quyền, họ phải được thay thế bằng những người khác, những người có khả năng làm nảy sinh hoa trái cho những ai dưới quyền mình. Theo mạch văn của đoạn Tin Mừng, chẳng còn kỳ vọng gì nơi những người lãnh đạo hiện tại. Cũng chẳng mong họ hối hận, và làm cho vườn nho sinh trái. Dụ ngôn cũng ghi nhận rằng mùa hái nho đã đến gần – tức là thời điểm cánh chúng đang đến. Đó là thời điểm quyết định không còn chờ đợi một sự thay đổi nào nũa, và tất cả đều hướng tới một quyết định chung thẩm cuối cùng. Tin Mừng gọi mời chúng ta, phải chú tâm đến các vị lãnh đạo, làm sao để họ biết cách lo cho thiện ích chung được phát sinh cách dồi dào. Đồng thời chúng ta cũng cố gắng thực hiện những phương cách ôn hòa, không gây bạo lực để thay đổi lãnh đạo, ở bất cứ nơi đâu và vào bất cứ thời điểm nào, khi cần thiết phải thực hiện.
Nếu ruộng lúa, nương khoai, khóm trúc và con trâu là những hình ảnh quen thuộc của người Việt Nam, thì người Do Thái cũng có những hình ảnh thân thương đối với họ, đó là đàn chiên và vườn nho.
Thực vậy, Chúa Giêsu sinh ra là người Do Thái, cũng đã thừa hưởng nền văn hóa con chiên và cây nho ấy. Ngài đã dùng những hình ảnh quen thuộc đó để nói lên quan điểm của Ngài đối với mối tương giao giữa Thiên Chúa và Israel, cũng như mối tương giao giữa bản thân Ngài đối với các tín hữu của mình…
Chẳng hạn trong Tin Mừng theo thánh Gioan thì Chúa Cha là người trồng nho, bản thân Ngài là cây nho còn các môn đệ là ngành nho. Điều Ngài muốn truyền dạy là chúng ta phải sống gắn bó mật thiết với Ngài.
Thế nhưng trong Tin Mừng theo thánh Matthêu thì hình ảnh cây nho hay nói đúng hơn hình ảnh vườn nho được khai thác cho một đề tài khác.
Chúa Giêsu đã nói tới lòng tốt của ông chủ vườn nho không những sẵn sàng thuê mướn mọi người, nhất là những kẻ thất nghiệp, kém may mắn, mà còn trả công đồng đều cho cả những kẻ làm việc ít giờ nhất.
Ngài cũng đã nói tới những tá điền, là những người quản lý có trách nhiệm canh tác vườn nho để giao nộp hoa lợi cho chủ. Nhưng họ đã phản bội, đã đánh đập các sứ giả và đã giết chết chính người con của chủ. Để rồi, chủ đã phải lấy lại vườn nho mà trao cho người khác quản lý, tức là Giáo Hội.
Hôm nay, khi đọc lại dụ ngôn này, chúng ta sẽ ung dung tự nhủ: Do Thái là Do Thái và Giáo Hội là Giáo Hội Chúa đã trao đoàn chiên cũng như vườn nho của Ngài cho Giáo Hội, người quản lý cuối cùng mà Chúa đã chọn, vì thế không còn gì phải lo sợ: Làm thế nào mà Giáo Hội lại có thể giết hại các tôi tớ Chúa và cướp đoạt vườn nho Chúa được.
Thế nhưng chúng ta không nên lạc quan với những nhận định trừu tượng và lý thuyết trên đây mà phải nhìn vào thực tại trước mắt: Và thực tại trước mắt cho thấy Giáo Hội chính là chúng ta. Cộng đoàn dân Chúa, gồm những con người bằng xương bằng thịt, mới chỉ được mời gọi và được ban ơn sủng để nên thánh, hay nên hoàn thiện, nhưng thực tế thường chưa thánh, chưa hoàn thiện, do đó vẫn còn có thể có những kẻ lười biếng không chịu làm việc trong vườn nho, tệ hơn nữa vẫn còn có thể có những kẻ hung ác đánh đập, hành hạ và thậm chí giết hại những người tôi trung của Chúa, những người làm vườn tốt, để chiếm lấy vườn nho cho mình. Chính những ngôn ngữ chúng ta thường dùng cũng tố cáo sự chiếm đoạt có khi là vô ý thức đó.
Thực vậy, chúng ta chẳng thường nói: Con chiên của tôi, nhà thờ của tôi, giáo xứ của tôi, Giáo Hội của tôi. Trong khi đúng ra phải nói là con chiên của Chúa, nhà thờ của Chúa, giáo xứ của Chúa, Giáo Hội của Chúa.
Nhìn vào vườn nho Chúa, chúng ta thấy không thiếu những cây nho cành lá xum xuê mà chẳng sinh được một trái. Cũng chẳng thiếu những cành nho khô héo èo uột vì chỉ còn dính hờ vào thân cây.
Điều đáng buồn hơn nữa là cũng chẳng thiếu gì những tá điền, những người quản lý đã chiếm đoạt vườn nho Chúa làm gia nghiệp riêng của mình. Họ mặc sức khai thác tùy theo ý muốn, miễn sao có lợi cho mình. Không thiếu những kẻ chỉ lo rào dậu, xây tường và kiến tạo những bồn đạp nho, nhưng lại chẳng chăm sóc gì đến cây nho, khiến vườn nho Chúa mọc lên những cỏ dại và gai góc.
CÂU CHUYỆN VƯỜN NHO
CÂU CHUYỆN ĐỜI TA
Vườn nho là một hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc này để thính giả dễ hiểu điều Chúa nói về Nước Trời. Ý nghĩa dụ ngôn này như sau. Thiên Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho thoạt tiên được dùng để chỉ dân Do Thái. Dân Do Thái được Chúa chọn là dân riêng. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu thương của Chúa. Vì yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành sẵn cho họ một đất nước. Vì yêu thương Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy phá của các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai khiến các tiên tri đến dạy dỗ họ. Quả thật dân Do Thái là một vườn nho được Chúa trồng, chăm sóc từng li từng tí. Từ rào dậu chung quanh đến xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới bón cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được đáp lại bằng sự phản bội. Người Do Thái không công nhận quyền làm chủ của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai đến dạy dỗ họ. Họ còn giết cả Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa để chiếm lấy vườn nho làm của riêng họ. Nhưng họ có biết đâu rằng nếu để Chúa là chủ thì vườn nho còn được bảo vệ, được chăm sóc và họ còn được hưởng hoa lợi. Nhưng từ chối quyền làm chủ của Chúa, vườn nho rơi vào cảnh hoang tàn, đổ nát, không còn hoa trái. Và vì thế cuộc đời họ cũng bị diệt vong.
Câu chuyện vườn nho không chỉ nói với người Do Thái mà còn nói với tất cả chúng ta, đặc biệt các sinh viên học sinh nhân dịp đầu năm học mới. Sinh viên học sinh là những cây nho được Chúa ưu ái trồng trong vườn nho của Chúa. Vườn nho đó là Nước Chúa, là Giáo Hội, là gia đình, là trường học. Các cháu thiếu nhi, các bạn thanh niên, học sinh, sinh viên trẻ trung là những cây nho non mơn mởn được Chúa chăm sóc tưới bón trong tình thương bao la của cha mẹ, trong sự tận tâm của thày cô giáo, trong sự nhiệt thành quên mình của các linh mục, tu sĩ nam nữ. Chúa đặt lương tâm như tháp canh để cảnh báo những nguy cơ đe dọa tàn phá vườn nho. Để ngăn chặn thú dữ tàn phá, trẻ con nghịch ngơm, kẻ thù quấy phá, Chúa cẩn thận rào dậu vườn nho. Rào dậu là đặt ra những quy tắc luật lệ. Kỷ luật là phên dậu vững chắc bảo vệ những cây nho còn non yếu, bảo vệ hoa lợi khỏi kẻ thù đến phá hoại. Kỷ luật giúp bảo vệ cuộc đời của các con. Không chỉ bảo vệ sự sống mà còn tất cả những hoa trái tốt đẹp của sự sống. Bảo vệ tương lai của các con. Chúa xây bồn ép nho. Bồn ép nho là nơi làm việc. Quả nho phải trải qua quá trình ép, lọc, ủ mới lên men thành thứ rượu nho thơm lừng làm đẹp cho xã hội. Cũng vậy các con phải lao động vất vả qua nhiều công đoạn mới trở nên hữu ích cho Giáo Hội và cho xã hội. Có thể nói cuộc đời của mỗi người các con là một kỳ quan về tình yêu thương của Chúa. Chúa tạo dựng nên các con để các con được hạnh phúc. Chúa đã định sẵn cho các con một định mệnh tốt đẹp cao quý trong thánh ý Chúa.
Tiếc là có nhiều người không hiểu được điều đó, nên đã chối bỏ quyền Chúa làm chủ đời mình. Vì xua đuổi Chúa nên ma quỷ đã xâm nhập cuộc đời họ. Có nhiều người đã bỏ tháp canh lương tâm nên không còn tỉnh thức trước những nguy cơ đe dọa tàn phá sự sống. Có nhiều người đã phá đổ những phên dậu kỷ luật, biến vườn nho tâm hồn thành bãi đất hoang mặc cho mọi người chà đạp, tàn phá. Có nhiều người đã bỏ quên bồn ép nho, không chịu làm việc, chỉ rong chơi ngày tháng nên cả cuộc đời tiêu tốn biết bao sự thương yêu, tiền bạc, công sức của cha mẹ, thày cô giáo, các bề trên trong Giáo Hội mà không sinh được hoa trái gì cho cuộc đời.
Các con, sinh viên học sinh thân mến,
Đầu năm học mới là dịp các con chỉnh đốn lại vườn nho tâm hồn các con. Hãy để Chúa làm chủ cuộc đời các con. Hãy tin tưởng định mệnh Chúa dành cho các con là định mệnh tốt đẹp nhất. Tương lai Chúa dọn sẵn cho các con là tương lai tươi sáng không gì có thể so sánh được. Hãy đón nhận tình yêu thương của cha mẹ, thày cô giáo, và các bề trên trong Giáo Hội. Tình yêu thương chăm sóc của các ngài là nước mát tưới cho cây đời các con xanh tươi. Hãy tuân theo sự hướng dẫn của tháp canh lương tâm để các con biết phân biệt thật giả, trắng đen, thiện ác giữa lúc vàng thau lẫn lộn, biết chọn lựa con đường tốt đẹp cho tương lai. Hãy sống theo sự hướng dẫn của luật lệ, luật xã hội, luật học đường, luật sự sống, luật Giáo Hội. Đó chính là cách tự bảo vệ trước những lực lượng xấu, trước những cơn cám dỗ ngọt ngào đang rình chờ trói chặt những cuộc đời ẻo lả, mềm yếu, buông tuồng. Hãy làm việc trong bồn ép nho. Sự siêng năng chăm chỉ, lòng say mê học tập chính là chìa khóa của sự thành công.
Năm học mới là một ân huệ nhưng cũng là một trách nhiệm. Các con được ban nhiều, các con sẽ bị đòi hỏi nhiều. Năm học mới được ban tặng để các con sinh lợi. Sinh lợi để xứng đáng với tình thương của Chúa. Sinh lợi để xứng đáng với xã hội, quê hương đất nước. Sinh lợi chính là thăng tiến bản thân, làm lợi cho chính các con trước hết.
Xin Chúa ban phúc lành cho năm học mới để các thày cô giáo, các học sinh sinh viên thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp, góp phần thăng tiến bản thân, gia đình, Giáo Hội và xã hội. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chúa đã ban cho bạn sự sống và còn đặt biết bao người, biết bao phương tiện, hoàn cảnh để nuôi dưỡng và phát triển sự sống đó. Bạn có nhận biết điều này không?
2) Bạn có nhìn nhận Chúa làm chủ đời mình và có thái độ xứng hợp không?
3) Phát triển là một trách nhiệm. Bạn có chu toàn trách nhiệm đó không?
LAO LỘNG THEO Ý CHÚA ĐỂ XÂY DỰNG VÀ GÌN GIỮ GIA ĐÌNH NHÂN LOẠI LUÔN HẠNH PHÚC
Bài Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn và cũng là một ám ngôn, vì vừa hình dung vừa diễn tả sự thật, vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri. Vườn nho ám chỉ Nước Chúa, được trao cho dân Do Thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo đứng đầu trong dân Do thái. Các đầy tớ là các ngôn sứ được Thiên Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc giết chết. Câu chuyện vườn nho hôm nay không chỉ nói với người Do Thái mà còn nói với tất cả chúng ta. Mỗi người chúng là những cây nho được Chúa ưu ái trồng trong vườn nho của Chúa. Vườn nho đó là Nước Chúa, là Giáo Hội, là giáo xứ, Giáo phận và gia đình của chúng ta. Chúa đặt lương tâm như tháp canh, rào giậu để cảnh báo tội lỗi có nguy cơ đe dọa tàn phá vườn nho, để ngăn chặn tội lỗi tàn phá đời sống thân xác và tâm hồn chúng ta. Rào giậu, tháp canh đó là những điều luật của Chúa và của Hội Thánh. Qủa thế, Lời Chúa và các điều luật của Hội Thánh dạy không chỉ để giúp bảo vệ cuộc đời của chúng ta được bình an, thánh thiện và hạnh phúc mà còn làm phát sinh hoa thơm trái tốt đẹp cho đời và Giáo Hội là các nhân đức và công việc làm ăn chân chính. Vì vậy, các bài Lời Chúa hôm nay tập trung kêu gọi chúng ta hãy ra công lao động theo thánh ý Chúa và Lời Ngài qua nhiều công đoạn, nhiều thời mới trở nên những người hữu ích cho gia đình nhân loại và Nước Chúa. Cho nên, mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho là gia đình, Giáo xứ, Giáo phận hay xã hội, chúng ta có bổn phận phải làm sáng danh Chúa và mưu ích cho tha nhân.
Cụ thể, Lời Chúa trong bài đọc 1, Ngôn sứ Isaia kể về một người bạn thân của Ngài có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ. Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho hầu mong mai sau đem lại một mùa bội thu sinh ích cho anh và mọi người. Rồi, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói: “Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giêsu”. Như vậy, Lời Chúa nói rõ rằng những ơn phúc Chúa ban: tài năng tinh thần, những của cải vật chất, sức khoẻ, lòng đạo đức, các kinh nguyện… chúng ta phải biết sử dụng chúng để sinh lợi vật chất và đức tin trong tinh thần của Chúa Giêsu và Lời Ngài. Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn liếng khác nhau về nơi chốn, thời gian, khả năng, cơ hội, trí thông minh, sức khoẻ… không ai giống ai cả, nhưng ai cũng phải làm lợi ra với số vốn liếng Chúa ban theo ý Chúa và Lời Ngài chỉ bảo chứ không phải theo ý mình đề rồi như các người tá điền kia đã không chịu làm ăn mà còn không có lương tâm, vô đạo đức nên họ đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ… chỉ vì muốn thu lợi cho mình một cách bất chính.
Đời sống và sự phát triển của con người gắn chặt với lao động. Đúng thế, lao động làm cho đời sống có ý nghĩa bởi lẽ lao động vừa giúp người ta được tồn tại, mà còn là sự tiếp nhận thành quả và chuyển đạt hạnh phúc cho đời sau. Cho nên, lao động là để tạo hạnh phúc và giữ gìn hạnh phúc, lao động là để phục vụ và giúp đỡ người khác và lao động là để cộng tác với chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Vì vậy việc lười biếng, thích hưởng thụ, lao động bất chính là việc đi ngược và cản bước tiến của tiến trình phát triển của nhân cách, của xã hội đồng thời không làm theo đúng ý Chúa, gây tội lỗi cho con người.
Lời Chúa trong Sách Sáng Thế kể: “Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Eđen để con người canh tác và coi sóc đất đai” (St 2,5). Vườn Eden, địa đàng, là hình ảnh của hạnh phúc mà Thiên Chúa đã tạo dựng sẵn cho con người. Con người hưởng được hạnh phúc ấy bằng cách phải canh tác, nghĩa là phải làm việc để tạo ra hạnh phúc. Không chỉ vậy, con người phải biết “canh giữ vườn”, đồng nghĩa với việc giữ gìn hạnh phúc bằng việc vâng nghe Lời Chúa thì mới tồn tại và tiếp tục được hưởng phúc. Cho nên, lao động trong tinh thần tuân giữ Lời Chúa thì mới tạo ra hạnh phúc. Vì thế, đại văn hào Voltaire nói: “Lao động xua đuổi ba sự xấu xa kinh khủng nỗi buồn chán, thói trụy lạc và sự nghèo túng”. Còn ông bà ta nói: “nhàn cư vi bất thiện”. Vì thế, người có việc gì đó để làm là người hạnh phúc nhất như ai đó đã nói: “Người hạnh phúc là người có việc gì đó để làm, ai đó để yêu thương và điều gì đó để hy vọng.” Còn đối với người công Giáo chúng ta, trong tinh thần của Chúa Đức Kitô, làm việc để phục vụ và giúp đỡ người khác là bổn phận và trách nhiệm của chúng ta vì chưng Thánh Phaolô dạy: “Phải giúp đỡ người khác bằng cách làm lụng vất vả và phải nhớ lời Chúa Giêsu dạy: cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,33-35). Như vậy chúng ta làm việc không chỉ là bổn phận và trách nhiệm mà còn là mối phúc của chúng ta nữa, đúng như Lời Chúa Giêsu nói: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa (Mt 5,9). Như vậy, dưới ánh sáng đức tin, khi lao động, con người được Thiên Chúa mời gọi cộng tác để kiện toàn công trình tạo dựng; đồng thời thực thi được ý muốn của Thiên Chúa qua lao động. Nói cách khác, con người được dựng nên để đồng sáng tạo với Thiên Chúa. Cho nên, Công đồng Vatican II cũng xác định: “Khi cấy cầy với hai bàn tay hoặc với phương tiện kỹ thuật để trái đất nảy sinh hoa quả và trở thành nơi cư ngụ xứng đáng của toàn thể gia đình nhân loại con người đã tuân theo ý định của Thiên Chúa được tỏ bày ngay từ thủơ ban đầu, là loài người phải chế ngự trái đất và hoàn tất công trình sáng tạo”.
Qua dụ ngôn ông chủ và các tá điền trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu muốn chúng ta cộng tác với Người tuỳ theo những nén bạc Chúa trao vì vậy mỗi người phải ra công làm việc để để sinh lời cho Nước Chúa là Giáo hôi, gia đình hay xã hội chúng ta. Noi gương Chúa Giêsu, Đấng làm việc liên liên lỉ theo thánh ý Chúa Cha (Ga 5,17), đem lại ơn cứu độ cho con người, chúng ta, những người Kitô hữu, cũng ra công làm việc để mưu cầu hạnh phúc, giúp đỡ chia sẻ với người khác và thực thi thánh ý Thiên Chúa. Mỗi người, tuỳ theo hoàn cảnh, địa vị và ơn ban riêng Chúa ban, phải làm việc và sinh ích lợi cho mọi người. Bậc làm cha mẹ thì lo làm tròn bổn phận của người làm cha làm mẹ, giữ gìn gia đình hạnh phúc. Kẻ làm con cái lo sao chữ đạo hiếu cho tròn. Người sống đời dâng hiến làm việc bằng cách tuân giữ kỷ luật tu trì và rao giảng Tin Mừng cứu độ hầu mưu ích cho các linh hồn và sáng danh Chúa.
Vậy ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa ban cho chúng ta được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng ta trong đời sống thường ngày dù’ nhỏ hay lớn đều nêu cao tinh thần tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta biết siêng năng làm việc để chu toàn bổn phận sinh lợi cho Nước Chúa là làm sao cho Tin Mừng được mọi người biết đến, yêu thích và sống theo để mọi người cùng nhau xây dựng đức tin và hạnh phúc ngay đời này và đời sau. Amen.
Anh chị em thân mến.
Trong câu chuyện lịch sử “Chiếc nỏ thần”, để lại một dấu ấn trong cuộc sống của dân tộc Việt Nam.
Thục Phán An Dương Vương được Thần Kim Quy tặng cho chiếc nỏ có sức công phá cực kỳ, không ai có thể chống lại được. Nhờ chiếc nỏ mà trong nước được an bình.
Ông có cô con gái tên Mỵ Châu, được chàng Trọng Thuỷ con của Triệu Đà thuộc nước lân bang đến cưới. Mọi việc hết sức tốt đẹp, mối duyên của đôi trẻ ngày càng nồng ấm.
Một hôm Trọng Thuỷ xin về thăm cha của mình. Ít ngày sau thì chiến tranh kéo đến. Nhìn thấy đoàn quân đến từ xa, An Dương Vương không lo lắng gì, ông mỉm cười tự tin, vì đã có chiếc nỏ thần trong tay. Giặc càng ngày càng gần, đến lúc cần thiết, ông mới dùng đến nỏ thần. Nhưng bất ngờ thay, chiếc nỏ không còn công hiệu như xưa, đội quân của ông không phòng thủ nỗi với sức tấn công dũng mạnh của quân thù. Oâng cùng với cô con gái thân yêu tìm đường thoát thân. Nhưng càng chạy thì nghe tiếng của địch quân ngày càng gần. Nhìn lại thì ông thấy chính đứa con mà ông yêu thương nhất lại là người làm ông thất vọng nhất. Chính cô đã để lại dấu hiệu trên đường cho giặc đuổi theo. Oâng cũng hiểu ra: chính vì đứa con mà ông yêu thương, nên kẻ thù mới lợi dụng tình yêu thương đó, cưới con ông và tráo đỗi nỏ thần, khiến cho ông phải đi vào chỗ chết. Ông yêu thương con gái mình, nên cũng rất mực yêu thương chàng rể. Nhưng những gì mà ông yêu thương đã phản bội lại ông, làm cho ông phải chết. Nếu như ông có quyền trở lại ông sẽ đối xử với chàng rể như thế nào?
Khi lòng tham đã lên ngôi, thì tình yêu thương không còn hiệu quả nữa mà bị phản bội. Lòng tham làm cho con người trở nên tàn ác, bất chấp mọi thủ đoạn, miễn làm sao lòng tham đạt được như ý muốn.
Đó là những gì của con người. Nhưng Thiên Chúa không để cho sự ác ngự trị mãi được, sự ác không thể tồn tại, ngay cả trong con người đang làm ác cũng không thể chấp nhận được cái ác.
Những người thời đó không thể chấp nhận được việc làm của những người trong dụ ngôn, hành động không có nhân tính.họ đã quên đi những gì người khác làm cho họ, họ cũng quên đi những gì họ đang có là từ đâu mà đến. Họ càng không muốn nhớ đến thời khó khăn trước đó như thế nào và làm sao mà họ thoát khỏi khó khăn như thế. Giờ đây họ chỉ còn nhìn thấy cái lợi vật chất. Họ tìm cách chiếm đoạt mà không cần biết đến cảm nghĩ của người khác như thế nào, cũng không cần biết đến hậu quả ra sao. Họ không nhìn thấy được tình yêu thương chung quanh họ, thì làm sao họ có thể sống trong tình yêu được.
“Nước Thiên Chúa sẽ lấy khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm trổ sinh hoa lợi”.
Một câu nói mạnh mẽ mà Chúa Giêsu thốt lên để cảnh báo cho những người không biết đến tình nghĩa, không nhìn thấy người khác, cũng không nhận ra được chính mình.
Câu cảnh báo cho người xưa cũng là lời cảnh báo cho những người hôm nay, cho chúng ta. Mỗi người được bao bọc trong tình yêu thương, được Thiên Chúa ưu ái, ban cho một hoàn cảnh sống thật tốt đẹp. Nhưng nhìn lại, chúng ta có biết cảm tạ hồng ân Chúa, hay mỗi ngày chúng ta đòi hỏi nhiều hơn, bất mãn nhiều hơn, toan tính để được nhiều hơn cái không phải là của mình. Càng không chấp nhận được khi những gì là của mình mà bị bắt buộc phải chia cho người khác. Nên nhiều lúc trong cuộc sống, chúng ta giống như những người trong dụ ngôn, muốn loại trừ người khác, ngay cả tiêu diệt người khác bằng mọi cách, để có thể hưởng trọn những gì mình muốn. Những lúc đó chúng ta cũng giống như chàng Trọng Thuỷ vô tâm, đứng trước một tình yêu chân thành nhưng không biết tận hưởng, mà chọn lấy nguồn lợi riêng tư để bước vào con đường chết. Nếu chúng ta nhận ra hồng ân Chúa trong đời sống và biết cảm tạ bằng những gì trong cuộc sống đời thường, để biết chu toàn mà đền đáp hồng ân Chúa thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.
Xin Chúa soi sáng cho mỗi người, để biết nhận ra Chúa là nguồn tình yêu, mà biết sống xứng đáng để đền đáp tình yêu thương của Chúa.
Trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 27 này, Bài Đọc I trích từ Is 5-1-7 và Tin Mừng trích từ Mt 21: 33-43 cách nhau khoảng tám trăm năm, tuy nhiên cả hai xướng đáp với nhau qua cùng một dụ ngôn vườn nho với cung điệu bi thương.
Is 5: 1-7
Trong một bài thơ trữ tình theo thể hát đối, ngôn sứ I-sai-a ca ngợi vườn nho được ông chủ hết lòng chăm sóc, nhưng vườn nho lại sinh trái nho dại trái với lòng mong ước của ông. Lúc đó, giọng nói của vị ngôn sứ vang lên: vườn nho vô ơn bội nghĩa “chính là dân Ít-ra-en”.
Pl 4: 6-9
Trái với bầu khí bi thương của Bài Đọc I và Tin Mừng, đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê tràn ngập bình an, chan chứa niềm tin tưởng và đầy lòng yêu thương.
Mt 21: 33-43
Tin Mừng thuật lại dụ ngôn về “các tá điền gian ác”. Sau khi đã đối xử tàn ác với các tôi tớ của ông chủ vườn nho, chúng ra tay sát hại cả người con một của ông để mong chiếm đoạt vườn nho.
BÀI ĐỌC I (Is 5: 1-7)
Bài thơ ca ngợi “vườn nho” của ngôn sứ I-sai-a rất nổi tiếng, vì giá trị văn chương của nó. Đây là một bài thơ được trao chuốc rất công phu nói về dân Ít-ra-en là vườn nho của Đức Chúa. Về hình ảnh “Ít-ra-en là vườn nho của Chúa, ngôn sứ I-sai-a đã đón nhận nguồn cảm hứng từ ngôn sứ Hô-sê:
“Ít-ra-en vốn là một cây nho sum sê,
trái trăng thật dồi dào phong phú.
Nhưng trái trăng càng nhiều,
chúng càng dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng;
đất nước càng giàu sang,
chúng càng làm thêm những cột thần lộng lẫy” (Hs 10: 1)
Hình ảnh “Ít-ra-en là vườn nho của Chúa” nầy được lập đi lập lại nhiều lần trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 32: 32), trong Thánh Vịnh (Tv 80), qua ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Gr 2: 21; 5: 10; 6: 9; 12: 10), ngôn sứ Êdê-ki-en (Ed 15: 1-8; 19: 10-14), vân vân. Trên môi miệng của Đức Giê-su, hình ảnh này rõ ràng quy chiếu đến bài thơ của I-sai-a (Mt 21: 33-41).
Các nhà chú giải có thể ấn định niên biểu của bài thơ về vườn nho nầy vào khoảng năm 737 trước Công Nguyên, nghĩa là vào giai đoạn đầu sứ vụ của ngôn sứ I-sai-a ở Giê-ru-sa-lem trước khi thành thánh bị đạo quân Sy-ri liên minh với đạo quân vương quốc miền Bắc vây hãm.
Những sứ điệp đầu tiên của vị ngôn sứ liên quan đến tội thờ ngẫu tượng của vương quốc miền Bắc, vương quốc Ít-ra-en mà thủ đô là Sa-ma-ri. Khi hướng nhìn về vương quốc miền Nam, vương quốc Giu-đa mà thủ đô là Giê-ru-sa-lem, ngôn sứ I-sai-a thất vọng theo cách khác: bất công, áp bức những kẻ nghèo hèn cô thế, bạo lực, máu và nước mắt, giả nhân giả nghĩa, vân vân. Bài thơ về vườn nho của ông là một lời cảnh báo.
Chúng ta có thể hình dung vị ngôn sứ ngâm hay hát bài thơ của ông trên hành lang đền thờ vào dịp lễ hội thu hoạch nho (sau nầy được gọi lễ Lều). Lễ hội nầy kéo dài một tuần lễ. Vào ngày khai mạc và ngày kết thúc, các nghi lễ diễn ra trong khuôn viên đền thánh. Dù thế nào, xứ Pa-lét-tin là miền đất trồng nho, vì thế, bài thơ của vị ngôn sứ chạm đến độ nhạy cảm của một dân trồng nho.
Bài thơ được xây dựng theo cách thức của một bài thi ca trữ tình, nhưng tình phụ bạc. Thiên Chúa là hôn phu và là người trồng nho, còn Ít-ra-en là hôn thê và là cây nho hoặc vườn nho. Trong bài thi ca nầy, hai hình ảnh “người trồng nho và cây nho” và “hôn phu và hôn thê” được đan quyện vào nhau. Đáp lại sự ân cần chăm sóc của người chồng là sự bất trung của người vợ. Người chồng bị tình phụ xin đám đông phân xử. Cũng như trong các bài thi ca trữ tình khác, bài thi ca nầy được sáng tác theo thể hát đối.
Trước hết, vị ngôn sứ, đại diện bạn mình là chủ vườn nho, cất tiếng hát (5: 1-2). Đoạn, đến phiên mình, chủ vườn nho thổ lộ nỗi niềm tâm sự và bừng bừng nổi giận (5: 3-6). Sau cùng, vị ngôn sứ tiếp lời, và chính lúc đó một mặc khải gây choáng váng: ông chủ vườn nho không ai khác chính là Đức Chúa; vườn nho không sinh hoa lợi, chính là Ít-ra-en, dân bất trung sẽ bị trừng phạt vì phụ tình bội nghĩa của nó (5: 7).
Vị ngôn sứ tự xưng mình là “bạn của chủ vườn nho”, chắc chắn tước hiệu nầy được gợi hứng bởi “bạn của chàng rể” trong những bài ca hôn nhân (tước hiệu mà Gioan Tẩy giả sẽ áp dụng cho mình). Bài thơ mô tả người chồng hết mực trìu mến chăm lo cho người vợ của mình như ông chủ vườn nho ân cần chăm sóc vườn nho của mình, rào giậu chung quanh, trồng giống nho tốt “trên sườn đồi màu mỡ”. Ông chủ cất một vọng gác trong vườn nho nói lên một sự ân cần hết mức của ông dành cho vườn nho của mình: canh giữ vườn nho ngày lẫn đêm, trông chừng những tên hái trộm, những con vật phá hoại …Than ôi, mặc cho những ân cần săn sóc giữ gìn của ông chủ, vườn nho chỉ sinh nho dại!
Đức Giê-su sẽ trích dẫn đúng nguyên văn vài chi tiết của bài thơ trong dụ ngôn của mình về “bọn tá điền gian ác”: “Có một gia chủ kia trồng được vườn nho; chung quanh vườn, ông rào dậu; ông khoét bồn đạp nho, và xây một vọng gác” (Mt 21: 33).
Đến phiên mình, ông chủ vườn nho thổ lộ tâm can. Ông xin toàn thể dân chúng làm chứng cho những công sức mà ông đã đổ ra cho vườn nho của ông cách vô ích: “Người Giê-ru-sa-lem, và dân Giu-đa hỡi”. Vườn nho vô ơn bội nghĩa sẽ phải đón nhận sự trừng phạt đích đáng. Ông sẽ không còn quan tâm đến vườn nho của mình để mặc cho nó bị giày xéo và trở nên hoang phế, không người chăm sóc và không cho mưa trời tưới xuống. Lối nói ngoa ngữ: “Sẽ truyền lệnh cho mây, đừng để mưa tưới xuống” ở đây để cho thoáng thấy ông chủ vườn nho là một nhân vật đầy quyền năng.
Vị ngôn sứ lại cất tiếng hát. Mặc khải của ông được chuẩn bị rất khéo léo. Dân chúng tự kết án mình vì họ không còn cách nào ngoài việc thú nhận mình là vườn nho được Chúa vun trồng chăm sóc hết mực nhưng chỉ sinh những nho dại, vì thế đáng bị trừng phạt.
Phương pháp tâm lý nầy nhắc nhớ phương pháp mà ngôn sứ Na-than đã áp dụng cho vua Đa-vít về tội vua sát hại người tôi trung của mình là ông U-ri và cướp đoạt vợ của ông. Ngôn sứ Na-than cũng xây dựng một dụ ngôn về người giàu có một trăm con chiên mà lại bắt một con chiên độc nhất của người nghèo làm thịt để đãi khách. Khi vừa nghe xong dụ ngôn, “Vua Đa-vít bừng bừng nổi giận với người ấy”. Ngôn sứ Na-than trả lời: “Kẻ đó chính là ngài” (2Sm 12: 1-7). Cũng vậy, ngôn sứ I-sai-a vạch mặt chỉ tên: “Vườn nho của Chúa Tể càn khôn, chính là nhà Ít-ra-en đó. Cây nho Người mến yêu quí chuộng, ấy là dân nước Giu-đa”.
BÀI ĐỌC II (Pl 4: 6-9)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân đề nghị một khuôn mẫu sống, theo đó di sản Do thái giáo, mặc khải Ki-tô giáo và lý tưởng Hy-lạp hòa hợp với nhau.
“Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giải bày trước mặt Chúa những điều anh em thỉnh nguyện”. Đây là lời cầu nguyện mang đậm nét lời cầu nguyện Do thái giáo qua việc lập đi lập lại những lời ngợi khen, cảm tạ và tri ân: “Ngợi khen Thiên Chúa…Chúc tụng Thiên Chúa…”, được xen lẫn với những lời khấn nguyện cầu xin Chúa rủ lòng thương. Thánh Phao-lô, trung thành với truyền thống nầy, dễ dàng thích ứng truyền thống nầy vào trong lời cầu nguyện Ki-tô giáo và khuyên bảo các tín hữu Phi-líp thực hành như thế.
“Bình an của Thiên Chúa, là bình an không ai hiểu thấu, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hiệp với Đức Giê-su Kitô”. Chúc bình an cũng thuộc vào truyền thống Do thái giáo. Ở đây, không chỉ cầu xin “bình an”, nhưng còn những ơn ban khác nữa. Theo gương Đức Giê-su, thánh nhân đem đến cho chữ “bình an” một chiều kích mới. Đối với thánh nhân, bình an của Thiên Chúa, chính là bình an mà hy tế của Đức Giê-su đã mang lại cho chúng ta. Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã hòa giải muôn loài muôn vật với mình. Nhờ Thánh Thần của Ngài, Ngài toả rạng bình an giữa các Ki-tô hữu và giữa các Kitô hữu với muôn dân. Bình an là một khía cạnh của cuộc sống đời đời, được khởi sự từ dưới thế nầy.
Thánh Phao-lô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu gốc Hy-lạp. Thánh nhân khuyên họ đừng từ bỏ, nhưng hãy thấm nhập vào trong con người họ những đức hạnh mà truyền thống cha ông của họ đã dạy: “Những gì là đức hạnh đáng khen, thì xin anh em hãy để ý”.
Như vậy, thánh Phao-lô đã không xem thường lý tưởng luân lý của truyền thống văn hóa Hy-lạp. Ki-tô giáo không nhằm loại bỏ “những gì là chân thật, cao quí, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt”. Thánh nhân đã hình thành nên “học thuyết nhân bản Kitô giáo”. Nhưng học thuyết nầy để thực sự là Ki-tô giáo phải dựa vào lời dạy tông đồ để không có bất kỳ khiếm khuyết nào và sai lệch nào: “Những gì anh em đã học hỏi, đã hấp thụ, đã nghe, đã thấy nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành”. Công Đồng Va-tican II cũng đã dạy theo cùng một cách như vậy: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki-tô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Vui Mừng và Hy Vọng, 1).
TIN MỪNG (Mt 21: 33-43)
Tiếp theo dụ ngôn về “hai người con” mà chúng ta đã suy gẫm vào Chúa Nhật vừa qua, thánh Mát-thêu ghi tiếp dụ ngôn về “những tá điền gian ác” theo cùng một chiều hướng và cùng nhắm đến một đối tượng.
Đức Giê-su mượn ở nơi bài thơ của ngôn sứ I-sai-a hình ảnh về ông chủ vườn nho: “trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; ông khoét một bồn đạp nho, và xây một vọng gác”, nhưng lại triển khai theo một chiều hướng khác với ngôn sứ I-sai-a. Trong sấm ngôn của I-sai-a, đối tượng được nhắm đến là vườn nho. Dù được chăm sóc chu đáo, nhưng vườn nho lại sinh những trái nho dại, vì thế, bị bỏ mặc thành hoang phế. Trái lại, trong dụ ngôn, đối tượng được nêu bật là thái độ gian ác của bọn tá điền.
Ông chủ vườn nho “trẩy đi xa” và để vườn nho cho bọn tá điền thuê. Đến mùa thu hoạch, chủ vườn nho sai gia nhân của mình đến thu hoạch huê lợi. Các tá điền không chỉ không giao nộp huê lợi như giao ước, trái lại “chúng đánh người nầy, giết người kia, ném đá người nọ”. Vẫn một mực nhẫn nại, ông chủ vườn nho cố thử thêm một lần nữa: “sai một số đầy tớ khác đông hơn trước; nhưng bọn tá điền vẫn cư xử với họ y như vậy”. Cuối cùng, ông quyết định liều sai đứa con trai một của mình, vì nghĩa rằng: “Chúng sẽ nể con ta!”. Nhưng ông không ngờ, bọn tá điền muốn cướp đoạt vườn nho, vì thế “chúng bắt lấy cậu, lôi ra ngoài vườn nho và giết chết cậu”.
Dụ ngôn nầy diễn tả một cách ngắn gọn cả một lịch sử cứu độ dài, một thiên tình sử giữa Đức Chúa và dân Ngài. Vườn nho của Đức Chúa chính là dân Ít-ra-en. Ngài đã trao cơ nghiệp của Ngài cho các giai cấp lãnh đạo Do thái để họ chăm lo vun xới và làm trổ sinh hoa trái. Biết bao lần, Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đến nhắc nhở họ trung thành tuân giữ giao ước, nhưng họ đã ngược đãi, bách hại và giết chết các ngài. Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn sai lần lượt các ngôn sứ nầy đến các ngôn sứ khác, nhưng họ không hề thay đổi, vẫn thói nào tật nấy hành xử với các ngài theo cùng một cách như thế. Nhưng lòng nhẫn nại của Thiên Chúa vẫn không hề vơi, cuối cùng Ngài sai chính Con Một của Ngài với hy vọng: “Chúng sẽ nể con ta”. Nhưng lòng gian ác của họ đã đạt đến cực điểm. Họ đã tra tay bắt lấy “Người Con Một” của Ngài và lôi ra ngoài thành thánh Giê-ru-sa-lem mà giết đi để mong chiếm đoạt gia sản của Ngài, tức là biến dân của Ngài thành dân của họ.
Qua dụ ngôn nầy, Đức Giê-su quy trách nhiệm cho giai cấp lãnh đạo Do thái còn cứng rắn hơn dụ ngôn hai con trai trước đó. Đồng thời, Ngài cũng kín đáo và thống thiết muốn cho họ hiểu rằng Ngài là Con Thiên Chúa và sắp bị giết chết bởi lòng dạ gian ác của họ.
Như vị ngôn sứ trong bài ca vườn nho, Đức Giê-su xin thính giả của Ngài, tức giai cấp lãnh đạo Do thái, phân xử. Những người nầy phẩn nộ về thái độ của bọn tá điền, không ngờ chính mình lại tự kết án mình. Và như dụ ngôn hai người con trước đây, ở đoạn cuối, ý nghĩa của dụ ngôn được Chúa Giê-su giải thích rõ ràng khi trích dẫn Tv 118: ‘Viên đá người thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Ấy là Chúa đã làm nên như vậy, trước mắt chúng ta, thật lạ lùng”. Thánh vịnh nầy ca ngợi việc chấn hưng dân Ít-ra-en tương lai và được giải thích như Thánh vịnh thiên sai. Giáo Hội tiên khởi đã thấy ở đây một lời loan báo về sự Phục Sinh của Đức Kitô (cf. Cv 4: 11 và 1Pr 2: 7).
Con Thiên Chúa bị giết chết xem ra là một sự thất bại rõ ràng. Nhưng nhờ cái chết của Người Con nầy, một dân mới, được biểu thị không còn qua hình ảnh vườn nho nhưng tòa nhà. Toà nhà nầy Đức Giê-su sẽ là viên đá góc tường sẽ được xây dựng trên nền móng vững chắc: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt. 16: 18).
CHÚNG TA ĐƯỢC TRAO PHÓ CANH TÁC VƯỜN NHO THIÊN CHÚA
Câu chuyện giữa Thiên Chúa với con người là một câu chuyện tình. Tình yêu thương được trao ban, nhưng không được đón nhận; tình yêu thật quảng đại, nhưng lại bị phản bội cách trắng trợn. Giu-đa lấy cái hôn để nộp Thầy, đó là một sự phản bội lại tình yêu thương làm cho Chúa Giêsu đau lòng biết bao. Tình yêu của Thiên Chúa thật bao la; và sự phản bội tình yêu đó lại là cái gì hết sức phũ phàng. Không có gì đẹp bằng tình yêu, nhưng cũng không có gì ghê gớm hơn tình yêu bị phản bội.
Trong một xã hội “đấu đá nhau”, những trò đời đã nhiều lúc trở nên khủng khiếp lắm rồi; nhưng khi “trò đời” lại diễn ra nơi chính bầu khí của tình yêu, trong gia đình chẳng hạn, thì nó lại trở nên khủng khiếp thế nào: cha mẹ lợi dụng con cái; con cái bất hiếu, bạc đãi cha mẹ, con cái giết cha mẹ cũng có… Quả thật, chính sự phản bội trong tình yêu là một đòn chí mạng khiến con người bị gục ngã. Bao nhiêu bà mẹ đã từng hy sinh mọi sự cho con cái, nhưng rồi cuối đời, những năm tháng về già, đã gục ngã vì sự phản bội, vì sự bất hiếu của đứa con cưng.
Chúng ta được trao phó cho mảnh vườn của Thiên Chúa, cha mẹ được Thiên Chúa trao phó cho một gia đình để chăm sóc; linh mục cũng được Thiên Chúa trao pho cho đoàn chiên; các người có trách nhiệm với dân tộc, với cộng đoàn giáo xứ, với các hội đoàn… đều là những người được Thiên Chúa trao phó vườn nho của Ngài. Cuộc sống này là vườn nho của Thiên Chúa và mỗi người chúng ta là những người làm vườn nho của Thiên Chúa.
Câu chuyện về sự phản bội của tình yêu cho chúng ta thấy rằng Tình yêu cũng chính là cái giá con người phải trả lại cho Thiên Chúa. Ông chủ ban “người con” như một lời mời gọi cuối cùng của tình yêu cho những người tá điền của mình. Không có gì thật sự là tốt đẹp mà không cần trả giá đâu. Sự trả giá ở đây chỉ là lòng trung thành, là mở lòng ra để đón nhận chủ quyền của Thiên Chúa chứ không phải muốn giành lấy gia sản của Người để hưởng thụ cho chính mình.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã trả giá cho đời sống chúng con,
không phải là trả một món nợ nào khác,
nhưng là món nợ của tình thương,
món nợ nặng nề nhất và cay đắng nhất.
Xin cho chúng con biết nhận ra
chúng con cũng mắc nợ nhau trong tình yêu thương
và cũng biết chấp nhận hy sinh vì tình yêu thương.
Ba bài đọc trong Thánh lễ hôm nay như sợi chỉ đỏ xuyêt suốt nói về sự khôn ngoan, nói về sự lựa chọn của con người trong cuộc đời này về sự khôn ngoan.
Sách các Vua quyển thứ nhất trong chương 3 mà chúng ta nghe đấy nói cho chúng ta nghe về một chuyện thật là buồn cười. Là một vị vua, lẽ ra Salômôn phải xin cho được mình được sống lâu trăm nghìn tuổi để ngồi trên ngai mà trị vì dân chúng, lẽ ra Salômôn xin cho mình được của cải đầy dư để mà lên mày lên mặt với dân chúng, với các dân các nước lân bang, lẽ ra vua Salômôn phải xin cho tất cả những kẻ thù của vua phải chết đi, phải biến mất đi khỏi nhan của vua để mà vua được ngồi trên ghế trị vì đất nước được thoải mái, lẽ ra và lẽ ra Salômôn xin nhiều điều như một số vị vua khác đã làm đó là là cho mình được thê thiếp đầy nhà đầy cửa để phục vụ cho những ham muốn của mình, xin cho mình được quân binh dũng mãnh để đối phó với thù trong giặc ngoài nhưng rồi Salômôn xin với Thiên Chúa cho ông được tài phân biệt để xét xử.
Nếu vội vã, chúng ta sẽ cho rằng Salômôn là một người nông cạn, thiếu suy nghĩ vì xin cái gì không xin, xin tiền tài vật chất không xin mà xin cái gì đó nó chẳng có giá trị gì về vật chất cả, nó là cái chi chi đấy: tài phân xử. Xem ra cái chuyện ông xin là chuyện vô ích, chẳng cần xin thì ai ai cũng có tài phân xử cả. Chẳng cần ơn cũng có thể phân xử vậy mà ông lại xin. Như thế có vô ích không?
Chúng ta nhìn lại đời thường của chúng ta. Chuyện phân xử hình như nó dính liền với cuộc đời của chúng ta, dính liền với thái độ sống của chúng ta.
Sáng sớm, mới mở mắt thức giấc, chúng ta phải đứng trước một chuyện phân xử mà chúng ta không biết đó thôi đó là chúng ta có tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta qua một đêm yên ổn hay không? hay là chúng ta dửng dưng trước cái ơn của Chúa đấy. Cứ tưởng là bình thường nhưng chẳng bình thường chút nào cả vì đã có nhiều và nhiều người sau khi ngủ một đêm thì lại tiếp tục ngủ giấc ngủ ngàn thu chứ không hề thức dậy chi cả. Sau khi tạ ơn ấy, chúng ta có chịu trao phó cuộc đời, có dâng ngày sống trong tay Chúa hay là chúng ta lại dâng ngày sống trong tay chúng ta, trong sự quyết định không đâu vào đâu của chúng ta. Phân xử đấy chứ! Ai bảo là không phân? Hoặc chúng ta đặt để cuộc đời chúng ta trong tay Chúa, trong sự quan phòng theo thánh ý Thiên Chúa, hoặc chúng ta đặt để cuộc đời chúng ta trong tay của chúng ta, trong quyết định của chúng ta?
Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, một bông hoa, một tiếng cười hay ngược lại?
Và rồi trải dài suốt cả ngày sống, chúng ta đước trước không biết bao nhiêu là điều phải lựa chọn, bao nhiêu là điều phải phân xử.
Đứng trước một sự cãi vả, một cuộc tranh chấp, chúng ta phải lựa chọn cái gì? Lựa chọn sự thua thiệt hay sự hơn người khác?
Đứng trước một quyết định về một mầm sống, chúng ta quyết định để hay là phá?
Đứng trước một con người thấp cổ bé họng, một con người nghèo khổ túng cực, chúng ta yêu thương họ hay phỉ báng?
Đứng trước một người giàu thái độ chúng ta như thế nào?
Đứng trước một người nghèo thái độ chúng ta như thế nào?
Đứng trước một con người tạm gọi là tội lỗi, khiếm khuyết, yếu đuối thì chúng ta sẽ xử họ như thế nào?
Và rồi, cuối ngày, trước khi đi vào giấc ngủ, chúng ta có kiểm điểm lại qua một ngày sống chúng ta được không biết bao nhiêu là ơn lành của Chúa để chúng ta tạ ơn Chúa hay là chúng ta lại tỏ thái độ dửng dưng trước bao nhiêu ân huệ mà Chúa dành cho ta? Chúng ta lại có khiêm tốn để trao phó cuộc đời chúng ta trong tay Chúa qua giấc ngủ mà chúng ta sắp chìm vào hay không?
Đó là chuyện thường ngày nhất mà chúng ta thường gặp. Chúng ta phải có thái độ để lựa chọn. Nhiều Thánh vịnh cũng đã nhắc nhở chúng ta về sự lựa chọn, đơn cử Thánh vịnh 90 (Tv 90, 5-12) vẫn nhắc nhớ chúng ta:
Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng,
như cỏ đồng trổi mọc ban mai,
nở hoa vươn mạnh sớm ngày,
chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.
Ngài thịnh nộ, chúng con phải mạng vong,
nổi trận lôi đình: thấy mà khủng khiếp!
Tội chúng con, Thánh Nhan đều soi tỏ.
Chúa nổi xung, đời chúng con tàn tạ.
kiếp sống thoảng qua: một tiếng thở dài.
Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục
mạnh giỏi chăng là được tám mươi,
mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,
cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.
Cơn giận Ngài, ai lường được sức mạnh,
trận lôi đình, ai hiểu thấu căn nguyên?
Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.
Thế đấy! Con người vẫn bé cái lầm là cứ tưởng rằng mình là chúa, là chủ của cuộc đời nhưng xin thưa rằng mạnh giỏi lắm thì chừng tám chục mà thôi. Tất cả những tài sản, những nổ lực, những cố gắng mà mình bao nhiêu năm đổ mồ hôi sôi con mắt tìm kiếm sẽ giao lại cho người khác. Ngay cái căn nhà, cái biệt thự, cái villa cao cấp mà mình đang trú ngụ đấy sẽ về tay người khác khi mà chúng ta đã khuất rồi.
Trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe đấy là đỉnh điểm nhắc nhở chúng ta về sự khôn ngoan, sự lựa chọn khôn ngoan mà Chúa Giêsu đã nói cho dân chúng, Chúa Giêsu cũng đã nói với mỗi người chúng ta: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng bán đi tất cả những gì mình có để mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy”.
Chúa nhắc cho chúng ta căn tính, căn cốt và cùng đích của cuộc đời chúng ta đó là Nước Trời. Cuộc đời này chỉ là đời tạm mau qua chóng tàn, là cuộc lữ hành về quê trời thôi chứ không phải là vĩnh cửu để rồi chúng ta bám, chúng ta víu vào? Bé cái lầm là cái điều cần chúng ta lại không tìm, điều không cần chúng ta lại ấp ủ? Phải chăng là chúng ta thiếu khôn ngoan, chúng ta thiếu cân nhắc, chúng ta thiếu phân xử như Salômôn?
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma Ngài cũng đã nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa đã kêu gọi mỗi người chúng ta theo ý định của Người. Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang”.
Thiên Chúa quan phòng, Thiên Chúa yêu thương và Thiên Chúa đã tuyển chọn, hiến thánh mỗi người chúng ta nhưng chúng ta làm sao đấy? Chúng ta cứ luẩn quẩn trong con người hay hư nát của chúng ta? trong cái con người nay còn mai mất của chúng ta mà chúng ta không tìm kiếm những sự cao siêu trên trời như Thánh Phaolô đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta.
Thấy điều gì hay, điều gì phải, điều gì tốt chúng ta cũng nên bắt chước và hôm nay chúng ta cũng bắt chước vua Salômôn để rồi chúng ta không xin Chúa cho chúng ta giàu sang phú quý, thành công, bằng này cấp nọ hơn người khác nhưng xin cho chúng ta cũng như ông: xin ơn khôn ngoan, xin ơn biện phân để chúng ta biết đếm tháng ngày chúng ta sống để ngõ hầu tâm trí của chúng ta được khôn ngoan. Chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta khôn ngoan lựa chọn thái độ sống của những người tìm kiếm Nước Trời chứ không phải tìm kiếm cái thế gian mau qua chóng tàn và phù vân này.
Nguyện xin Chúa là Chúa của sự khôn ngoan đến và ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta luôn khôn ngoan chọn lựa thái độ sống phù hợp với thánh ý Chúa.
Dụ ngôn “Các tá điền sát nhân” mà Tin mừng hôm nay kể lạicho chúng ta thấy sự tương phản giữa Tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa vàsự vô ơn, phản bội của dân Do thái.
Thật vậy, Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Do thái làm dân riêng và coi họ như là “vườn nho” mà Ngài luôn chăm sóc giữ gìn. Qua các thời kỳ, Ngài sai các thủ lĩnh, các tiên tri và chính Con Một của Ngài đến để chăm sóc, dạy dỗ và hướng dẫn họ. Ngài chăm sóc họ giống như ông chủ chăm sóc vườn nho:rào giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn. Ngài mong muốn họ sinh quả nhothì họ lại sinh nho dại (x. Is 5,2). Ngài mong muốn điều chính trực, thì lại toàn sự gian ác. Ngài mong muốn đức công bình, thì lại toàn là tiếng kêu oan (x. Is 5,7).
Không những thế, họ còn nổi lên chống lại Ngài. Họ bắt các đầy tớ là các tiên tri mà Ngài sai đến: “đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác” (x. Mt 21,35).Cuối cùng, họ giết luôn cả Con Một của Ngài là chính Đức Giêsu. Vì sự vô ơn và phản bội của họ nên Thiên Chúa “cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi” (x. Mt 21,41). Cuối dụ ngôn hôm nay, Đức Giêsu đã khẳng định với người Do thái: “Tôi bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái.”(Mt 21,43).
Người khác hay dân tộc khác ở đây chính là Giáo hội. Thiên Chúa trao vườn nho cho Giáo hội. Giáo hội là vườn nho và cũng là người coi sóc vườn nho.Giáo hộicó sứ mạnglàm cho vườn nho sinh hoa trái. Đó là nhiệm vụ bảo quản và trao ban. Giáo hội bảo quản và trao ban những khotàng thiêng liêng là Lời Chúa và các Bí tíchthông qua sứ mạng ngôn sứ, tư tế và mục tử.
Với sứ mạng ngôn sứ, Giáo hội có trách nhiệm rao giảng Lời Chúa. Đây là lệnh truyền mà Giáo hội lãnh nhận từ Đức Giêsu trước khi Ngài về trời: “Anh em phải đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15). Lệnh truyền nàyđược áp dụng với hết mọi thành phần trong Giáo hội: Giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân. Giáo hội có thể rao giảng Lời Chúa bằng lời nói, bằng chứng tá cuộc sống, trong nhà thờ, nơi các lớp giáo lý, nơi mọi môi trường sống và trong mọi hoàn cảnh. Thánh Phaolô nói: “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4, 2).
Với sứ mạng tư tế, Giáo hội có trách nhiệm cử hành phụng vụ nhất là phụng vụ các Bí tích.Bảy Bí tích là máng chuyển thông ơn Thiên Chúa qua Giáo hội để đến với mọi người: Bí tích Rửa tội tha tội nguyên tổ và tội riêng; Bí tích Giao hòa tha các tội ta đã phạm từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội về sau cùng giao hòa tội nhân với Chúa và Giáo hội; Bí tích Thánh Thể là của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn các kitô hữu; Bí tích Thêm Sức ban cho người lãnh nhận bảy ơn cả của Chúa Thánh Thần, tăng cường đời sống siêu nhiên, gắn bó ta cách mật thiết hơn với Giáo hội ; Bí tích Xức dầu ban ơn nâng đỡ bệnh nhân phần hồn, phần xác và chuẩn bị bước vào đời sau; Bí tích Hôn nhân kết hợp hai người nam nữ thành vợ chồng trước mặt Thiên Chúa và mọi người, cùng ban ơn để họ sống xứng đáng ơn gọi của mình ; Bí tích Truyền chức thánh hiến những vị mà Chúa muốn trao ban cho tác vụ thánh trong dân Chúa.
Với sứ mạng mục tử, Giáo hội có sứ mạng chăm sóc Vườn nho.Trách nhiệm chung đối với Giáo hội hoàn cầu là Đức Giáo Hoàng; trách nhiệm đối với các Giáo phận là cácGiám mục; trách nhiệm đối với các giáo xứ là các linh mục quản xứ; mỗi cộng đoàn có các Bề trên…Trong Giáo hội, Giáo phận, Giáo xứ, cộng đoàn còn có nhiều chức vụ khác nhau để ai nấy cũng có thể thông phần sứ mạng mục tử của Giáo hội. Thánh Phaolô khẳng định: “Và chính Người đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ.” (Ep 4,11).
Tất cả mọi thành phần trong Giáo hội, không chỉ coi Giáo hội là vườn nho để hưởng hoa lợi qua Lời Chúa và các Bí tích mà còn được mời gọi để thông phần sứ mạng ngôn sứ, tư tế và mục tử của Giáo hội. Đặc biệt, các thành phần trong Giáo hội phải cóbổn phận đối với vườn nho được giao phó cách riêng cho mình: Giám mục có bổn phận với Giáo phận; cha xứ có bổn phận với giáo xứ; bề trên có bổn phận với cộng đoàn; cha mẹ có bổn phận với con cái… Ngoài ra, mỗi kitô hữu cũng là vườn nho của Chúa nên phải có bổn phận tự chăm sóc giữ gìn để làm cho vườn nho của mình được phát sinh hoa trái. Đểvườn nho của mình được sinh hoa trái, các kitô hữucần phảigắn bó với Chúa qua đời sống cầu nguyện,liên đới với anh chị em qua việc thực thibác ái. Đặc biệt, các kitô hữu cần phải dọn mình lãnh nhận các Bí tích và chu toàn bổn phận mà các Bí tích đòi hỏi: Bí tích Rửa tội mời gọi chúng ta từ bỏ ma quỉ, xa lánh tội lỗi, tin theo Chúa Kitô và tuân giữ lề luật của Người; Bí tích Giao hòa mời gọi chúng ta thực hành 4 việc là xét mình, ăn năn tội, xưng tội, và đền tội; Nơi Bí tích Thánh Thể có Chúa Giêsu hiện diện nên mời gọi mọi người chúng ta hết lòng yêu mến và tôn kính Bí tích cực trọng này; Bí tích Thêm sức mời gọi chúng ta can đảm thực hành Lời Chúa để làm chứng cho Chúa trong cuộc sống thường ngày, góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Tin Mừng và tích cực bênh vực và truyền bá đức tin cho mọi người; Bí tích Truyền chức thánh mời gọi người lãnh nhận phải giữ luật độc thân và khiết tịnh; Bí tích Hôn phối mời gọi hai người phối ngẫu phải giữ luật đơn hôn và vĩnh hôn, đồng thời phải yêu thương nhau, sinh sản và giáo dục con cái.
Từ khi được Đức Giêsu trao phó Vườn nho, Giáo hội đã cố gắng chu toàn bổn phận chăm sóc và giữ gìn qua sứ mạng ngôn sứ, tư tế và mục tử. Nhưng chắc chắn trong lòng Giáo hội vẫn còn có những vị lãnh đạo chưa chu toàn bổn phận của mình, vẫn còn có những con dê đội lốt chiên. Đặc biệt, nhìn vào cuộc sống của mỗi người chúng ta,nhiều khi chúng ta vẫnchưa sử dụng hết khả năng và ơn lành của Chúa để sinh hoa kết trái trong cuộc đời: Đó là những khi chúng ta không chu toàn bổn phận làm linh mục, bổn phận tu sĩ, bổn phận vợ chồng, bổn phận cha mẹ, bổn phận làm con cái, bổn phận ngôn sứ, tư tế và mục tử. Trái lại, nhiều người trong chúng ta vẫn còn sinh ra những thứ hoa dại: Đó là tội lỗi, gương mù gương xấu, làm thiệt hại cho Giáo hội, cho Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi thành phần trong Giáo hội biết chu toàn bổn phận ngôn sứ, tư tế và mục tử. Xin cho mỗi chúng con luôn biết sử dụng những nén bạc Chúa giao để sinh lợi cho Chúa bằng những việc lành phúc đức, góp phần làm cho vườn nho của Giáo hội và của chính mỗi người chúng con được sinh bông hạt. Amen.
DÙ CON NGƯỜI BẤT TRUNG, THIÊN CHÚA VẪN MỘT LÒNG TRUNG TÍN
Tiếp theo dụ ngôn “Hai người con”: Người cha sai hai đứa con vào làm vườn nho (x. Mt 21, 28-32). Đức Giêsu kể cho thượng tế và kỳ lão nghe dụ ngôn “Những tá điền sát nhân” (x. Mt 21, 33-43). Quả thật, Vườn nho của Chúa là nhà Israel, Thiên Chúa đã tuyển chọn và coi như một vườn nho đặc tuyển được Chúa chăm sóc, bảo vệ, (“Bài ca vườn nho” – Is 5, 1-7) là một bằng chứng: “Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Israel, và người Giuđa là chồi cây Chúa vui thích” (Is 5, 7). Tình yêu của ông chủ với vườn nho, hay cụ thể là mối tình giữa Thiên Chúa với Dân Ngài thật đậm đà, thắm thiết. Thiên Chúa đã không tiếc gì đối với dân: “Người tôi yêu có một vườn nho trên đồi xinh tươi. Người rào giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn, và trông mong nó sinh quả nho” nhưng hỡi ôi, “nó lại sinh toàn nho dại” (Is 5, 2).
Điều gì phải đến sẽ đến, ông chủ “sẽ phá hàng rào, để nó bị tàn phá, sẽ phá tường để nó phải bị giầy đạp. Ta sẽ bỏ nó hoang vu, không cắt tỉa, không vun xới; gai góc sẽ mọc lên, và ta sẽ khiến mây không mưa xuống trên nó” (Is 5, 5-6). Ngụ ý nói: “Thiên Chúa trông mong Israel thực hành đức công bình, nhưng đây toàn là tiếng kêu oan” (Is 5, 7). Theo lẽ thường, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống Israel. Nhưng Thiên Chúa “không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người ăn năn hối cải” (2 Pr 3, 9). Nên, mới giao vườn nho cho những tá điền chăm sóc (x. Mt 21, 33-43).
Gọi vào làm vườn nho và chăm sóc vườn nho là sáng kiến của Thiên Chúa. Ngài đã chọn dân Israel. Ngài tin tưởng và ban cho dân những điều kiện để sống xứng đáng trong Vương Quốc của Ngài. Ngài gọi dân vào làm vườn nho thể thiện tương quan đặc biệt giữa Ngài với dân. Việc trồng nho lấy quả, ép rượu, theo truyền thống Kinh Thánh là dấu hiệu của niềm vui phồn thịnh.
Thiên Chúa lấy tình yêu mà chăm sóc dân Chúa để nó sinh nhiều trái tốt, là sống công chính hoan lạc trong tình yêu. Cây nho sinh trái, thể hiện tình yêu từ Thiên Chúa xuống với con người, trung thành với lề luật Chúa là đáp lại tình yêu ấy. Yêu thương con người là sáng kiến của Thiên Chúa, vì Ngài đã chủ động yêu thương. Thảm kịch đối với dân được chọn là khước từ kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, cho dù bao lần Ngài dùng miệng các tiên tri không ngừng mời gọi dân hoán cải, thậm trí sai chính Con của Ngài đến kêu gọi, dân chúng vẫn chọn sự bất trung với Thiên Chúa, ngược đãi với Con Ngài.
Chúa Giêsu lấy lại và tiếp tục lời than của Thiên Chúa trong Isaia (x. Is 5, 1-7). Chính ở đó chúng ta gặp được chìa khóa cho dụ ngôn. Tại sao Thiên Chúa “trồng một vườn nho” và Thiên Chúa đến tìm những “hoa quả “ nào?
Những tá điền không trồng nho và chăm sóc vườn nho vì thương yêu vườn nho, nhưng vì lợi ích riêng của chính mình. Thiên Chúa thì khác. Ngài dựng nên con người và lập giao ước với con người, không phải vì lợi ích cho Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương và ích lợi cho con người mà thôi. Những hoa quả được trông đợi từ con người là tình yêu đối Thiên Chúa và sự công bình đối với những kẻ bị áp bức: tất cả là vì con người, chứ không phải cho Thiên Chúa.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Israel, đồng thời phác họa lịch sử tương quan của Thiên Chúa với toàn thể nhân loại chúng ta. Chúng ta có thể trách cứ dân Israel hay cha ông họ là những tá điền sát nhân, vì chẳng những từ chối tình yêu thương của Thiên Chúa mà còn giết hại chính Con Một Ngài. Coi chừng câu nói: “Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó”(Mt 21,38) lại là của chính chúng ta. Bởi lẽ, ngày hôm nay chúng ta phải nói rằng Chúa Giêsu đã “bị quăng ra ngoài vườn nho,” bị quăng ra ngoài bởi những người xưng mình là Kitô hữu, hay là có khi phản Kitô hữu. Những lời nói của những tá điền vườn nho dội lên không bằng lời thì cũng ít nhất bằng những việc làm trong xã hội tục hóa ngày nay. Nhân loại tục hóa muốn làm người thừa tự, làm ông chủ.
Chúng ta tự hỏi: Tôi đã chuẩn bị thế nào để Chúa Kitô sống trong tôi? Tôi đáp trả tình yêu vô biên của Chúa dành cho tôi bằng cách nào? Tôi đã tình cờ quăng Người ra ngoài nhà tôi, ngoài sự sống của tôi; nghĩa là tôi đã quên và không biết Chúa Kitô chăng?
Thiên Chúa vẫn một lòng trung tín. Tình yêu của Ngài mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung của con người. Ngài tiếp tục sai chính Con Một Ngài đến trao nộp vì chúng ta để bảo đảm cho tới cùng tình yêu trao ban cứu độ thế gian.
Lịch sử nhân loại được hoàn tất nhờ cái chết trên Thập giá. Nhờ cái chết, Chúa Giêsu đã tiêu diệt sự dữ. Nhờ phục sinh, Thiên Chúa đã nâng con người lên bằng sức mạnh của tình yêu, Người đã tiêu diệt hận thù. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc ” (Mt 21, 42), đền thờ Thiên Chúa được phục hồi. Vườn nho trở nên Vương Quốc của Giao Ước Mới, vì Nước Trời không bị phá hủy, từ nay “ Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái” (Mt 21, 43).
Ông chủ vườn nho nói: “Chúng sẽ nễ con Ta” (Mt 21, 37). Giờ đây, Cha trên trời sắp sai Con của Người đến với chúng ta trong Bí tích Mình và Máu Người. Ta có hiểu sự cao trọng lúc này không? Ta có sẵn sàng đón tiếp Người với sự sùng kính mà Chúa Cha mong đợi không?
Hôm nay chúng ta đọc lại lịch sử Dân Chúa chọn để lên án sự loại bỏ Đức Kitô do Chúa Cha sai đến. Nhưng cũng ý thức về sự khốn cùng của chúng ta khi loại bỏ “viên đá góc”, lúc chúng ta có ý xây dựng thế giới này theo tiêu chí của chúng ta, tự coi mình là những ông chủ vườn nho của Chúa.
“Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắt rứt lương tâm chúng con, và thương ban những ơn trọng đại, lòng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ. Amen” (Lời nguyện Nhập lễ).
(Trích trong ‘Suy Niệm Hằng Ngày’)
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay thuật lại dụ ngôn “Người thợ làm vườn nho”. Vườn nho là một hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc này để giúp người nghe dễ hiểu điều Ngài muốn nói về Nước Trời.
Thiên Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho thoạt tiên được dùng để chỉ dân Do Thái. Dân Do Thái được Chúa chọn là dân riêng. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu thương của Thiên Chúa. Vì yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành sẵn cho họ một đất nước. Vì yêu thương Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy phá của các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai phái các tiên tri đến dạy dỗ họ.
Quả thật dân Do Thái là một vườn nho được Chúa trồng, chăm nom săn sóc từng li từng tí. Từ rào dậu chung quanh đến xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới bón cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được đáp lại bằng sự phản bội. Người Do Thái không công nhận quyền làm chủ của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai đến dạy dỗ họ. Họ còn giết cả Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa để chiếm lấy vườn nho làm của riêng.
Mỗi người chúng ta hôm nay cũng là một tá điền mà Thiên Chúa giao phó cho một vườn nho, đó là những tài năng tinh thần, là của cải vật chất, để ta sinh thêm hoa lợi và mang về cho Người..
Thiên Chúa ban muôn hồng ân, là để ta phục vụ Chúa và anh em, chứ không phải để ta tìm tư lợi, danh vọng, và khoái lạc cho bản thân.
Thiên Chúa kiên nhẫn trước những xúc phạm, lầm lỗi của ta, là để ta có cơ hội hoán cải, chứ không phải để ta ngày càng sa lầy trong tội lỗi.
Thiên Chúa trao phó cho ta các tài năng là để ta sinh lợi cho phần rỗi của mình. Nếu ta không biết sử dụng ơn lành Chúa ban, thì Người sẽ cất đi và trao cho kẻ khác.
Sẽ đến ngày ta phải tường trình về công việc vườn nho mà Chúa đã trao phó cho ta. Sẽ đến ngày ta phải dâng lên Chúa những thu hoạch hoa lợi mà Người trông đợi. Bội thu hay mất trắng là hoàn toàn do công việc ta đang làm hôm nay.
***
Lạy Chúa! Xin cho con biết cộng tác vào vườn nho của Chúa, để làm trổ sinh nhiều hoa trái thánh thiện và làm cho Nước Chúa được nhiều người biết đến. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Sau khi nghe câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể về “những tá điền sát nhân”, các Thượng Tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ và họ tìm cách bắt Người. Dân Chúa xưa, đặc biệt những người lãnh đạo, những người được gọi là đạo đức hẳn thuộc nằm lòng bài ca về vườn nho của Ngôn sứ Isaia (Is 5). Mẹ Hội Thánh lại trích cho chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất Chúa Nhật này. Trong khi Ngôn Sứ Isaia nhấn mạnh đến vườn nho là đoàn dân Chúa xưa, thì Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến những tá điền là những người lãnh đạo mà Chúa trao phó quản lý vườn nho. Dù là vườn nho hay là người quản lý thì điểm chung hướng đến, đó là: hãy trở nên chính mình. Nói nôm na là nho thì ra nho, quản lý thì ra quản lý.
Nho ra nho: Ngôn sứ Isaia đã minh nhiên nói rằng vườn nho chính là đoàn dân Chúa xưa và chúng ta có thể hiểu thêm mỗi người chúng ta là những cây nho, là những cành nho (x. Ga 15). Các khâu canh tác như làm cỏ, bón phân, tỉa cành sâu bệnh… thì chủ vườn nho là Thiên Chúa đã vuông tròn. Vấn đề còn lại là chính cây nho phải sinh hoa trái tốt tươi, ngọt ngào. Theo kinh nghiệm nông gia, khi đã đủ đầy các điều kiện tự nhiên và sự chăm bón thì chuyện sinh hoa kết trái của cây trồng, hệ tại ở khả năng cây “hấp thụ dinh dưỡng” từ đất, từ trời và hệ tại ở việc cây “giảm phát sinh để tăng phát dục”, nghĩa là giảm đâm cành, mọc lá mới để tăng ra hoa, kết trái.
Đề hấp thụ dinh dưởng từ trời đất thì chính chúng ta, những cây nho, tiên vàn phải gắn bó, kết hiệp với Thiên Chúa. Cầu nguyện là một trong những phương thế tuyệt hảo để kết hiệp với Thiên Chúa. Để gia tăng hoa trái tốt lành thì việc hãm mình hy sinh là điều không thể thiếu. Như thế để nho ra nho nghĩa là sinh hoa trái ngọt ngào thi Kitô hữu chúng ta cần chuyên chăm cầu nguyện và hy sinh hãm mình. Hằng năm cứ đến mùa Chay thánh thì đề tài ăn chay cầu nguyện được nhấn mạnh và chúng ta nghiệm thấy ngay các hoa trái trổ sinh.
Quản lý ra quản lý: Người quản lý là người được trao phó một sự gì đó. Một việc gì đó để bảo quản, giữ gìn, chăm nom và dĩ nhiên theo tiêu chí mà người chủ yêu cầu. Các tá điền trong câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể được hiểu như là những người quản lý. Và tiêu chí người chủ đưa ra là đến kỳ thu hoạch, vườn nho phải sai hoa, mộng trái. Theo chiều kích xã hội thì những người quản lý là những người được giao phó các chức vụ của công quyền. Họ được trao phó đoàn dân của một tập thể, của một đất nước… Theo chiều kích tôn giáo, thì những người quản lý là những vị mục tử. Họ đuợc trao phó đoàn chiên là các tín hữu của tôn giáo mình. Dù là các mục tử trong Hội thánh này Hội thánh kia hay là những người nắm giữ công quyền trong xã hội thì chỉ một mình Thiên Chúa là người chủ duy nhất. Thánh Phaolô minh định điều này khi nói rằng các chính quyền hợp pháp đều là do Chúa đặt định (x.Rm 13,1)
Trong khoảng thời gian chờ đến mùa vụ, thì ông chủ thỉnh thoảng sai gia nhân của mình đến nhắc nhở những người quản lý về bổn phận và trách vụ của họ. Và bên cạnh đó chắc chắn có sự đánh giá về những gì mà những người quản lý đang thực thi. Tốt thì khen và khích lệ. Xấu thì chê và phê bình sửa sai. Trong lịch sử dân Chúa xưa, các ngôn sứ chính là những gia nhân mà ông chủ vườn nho đã sai đến. Thay vì nghe những ý chỉ của Thiên Chúa qua các sứ ngôn thì những người tá điền là nhưng người quản lý đã bách hại các ngài.
Thiên Chúa, người chủ vườn nho vẫn kiên trì nhẫn nại đến cùng. Người đã sai chính Con Một đến với hy vọng là những người quản lý kia sẽ nể mặt mà nghe theo. Thế nhưng sự tham lam đã làm cho tâm hồn những người quản lý thành ác độc. Họ đã nhẫn tâm giết chết Người Con Một của ông chủ. Tưởng rằng sẽ từ vị thế quản lý trở thành chủ nhân của vườn nho, nhưng họ đã lầm. Ông chủ sẽ tru di họ và trao vườn nho cho những người khác.
Câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể đã làm chột dạ những vị lãnh đạo DoThái giáo thời bấy giờ. Chuyện dụ ngôn này cũng đã ứng với nhiều triều đại vua chúa các nước trên thế giới. Chuyện dụ ngôn này cũng ứng với những chính phủ nắm giữ công quyền của các quốc gia. Và chuyện dụ ngôn này cũng đáng làm cho các vị mục tử giật mình tự kiểm.
Nho ra nho, quản lý ra quản lý. Nếu không thực là mình thì sẽ đến lúc phải bị loại trừ. Cành nho nào sinh hoa trái sẽ được chăm bón để trái hoa xum xuê thêm nhiều. Cành nào không sinh trái thì phải bị chặt đi. Nó sẽ khô héo và người ta sẽ bỏ nó vào lửa mà thiêu đốt đi (x.Ga 15,6). Người quản lý nào chuyên chăm cứ đến giờ mà phân phát lúa thóc cho kẻ ăn, người ở, thì sẽ được ân thưởng khi chủ về. Trái lại viên quản lý nào chểnh mảng, mãi mê chơi bời ăn uống mà bỏ bê bổn phận, thậm chí còn hành xử bạo lực với người dưới quyền, thì sẽ bị chung số phận với quân bất lương, ở nơi phải khóc lóc và nghiến răng (x.Lc 12,41-48).
TRỞ THÀNH NGƯỜI THỢ CÓ TRÁCH NHIỆM
TRONG VƯỜN NHO CỦA CHÚA
Dịp tháng 5/2014, khi Trung Quốc đem giàn khoan vào vùng biển Việt Nam, đã tạo nên một làn sóng phản đối dữ dội ở mọi tầng lớp người dân. Tại các khu công ngiệp, công nhân đã phản ứng một cách thái quá, và trút sự căm thù xuống trên chính các công ty của mình, nơi mình đang làm việc để kiếm sống. Công nhân đã xông vào các công ty Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan đập phá, đốt xưởng. Ở Bình Dương, công nhân tràn vào nhà máy để phá và hôi của của công ty. Họ hể hả vì lấy được những món hàng từ trong công ty. Có những người không ngại ngùng để đưa mặt mình vào ống kiếng khi bị quay cảnh cướp của ấy. Hậu quả là công ty phải đóng cửa, công nhân không còn chỗ làm việc, những người ăn cắp bị ghi hình phải ra hầu tòa, phải đem đồ đến trả lại cho công ty trong sự xấu hổ. Sự kiện trên cho thấy rằng hầu như công nhân làm việc trong công ty từ trước đến nay không hề tỏ ra có trách nhiệm với công ty và làm việc thiếu lòng yêu mến đối với công việc và nơi mình làm việc nên mới xảy ra những sự việc đáng tiếc như thế. Cuối cùng, người thì bị đuổi việc, kẻ thì ở tù, còn Chính phủ bị bắt vạ phải bồi thường cho các công ty đó.
Thưa quý OBACE, khi làm việc mà người thợ không cảm thấy mình có trách nhiệm với công việc, thì chính họ sẽ biến mình thành kẻ phá hoại. Cũng vậy, khi họ làm việc mà không có lòng yêu mến thì cũng không khác gì kẻ nô lệ, và có khi biến mình thành kẻ cướp, kẻ ăn cắp ngay trong công việc của mình. Sự kiện nên trên không chỉ xảy ra ngày nay, mà cách đây hai ngàn năm, Chúa Giêsu cũng đã kể một câu chuyện tương tự.
Có một chủ nhà có một vườn nho, ông chăm sóc, rào giậu chung quanh, xây bồn ủ nho. Ông cho tá điền canh tác rồi trẩy đi xa. Đối với người Do Thái ngày xưa, vườn nho là một tài sản lớn, người ta yêu quý vườn nho như là con cái, là gia nghiệp của mình. Vì thế, khi trao vườn nho lại cho tá điền canh tác, ông chủ đã hết sức tin tưởng, trao phó cả cơ nghiệp của mình cho những tá điền này. Tuy nhiên, bọn tá điền đã bộc lộ ý đồ muốn chiếm đoạt vườn nho của ông chủ. Khi ông sai đầy tớ đến thu hoa lợi, bọn tá điền đã đánh đập, nhục mạ, giết chóc đầy tớ. Đã nhiều lần chúng đối xử với ông chủ và với những người được sai đến như thế, nhưng ông chủ vẫn hết sức khoan dung và kiên nhẫn với bọn tá điền. Cuối cùng, ông đã sai chính con trai duy nhất của ông đến, bọn tá điền đã bộc lộ rõ âm mưu chiếm đoạt vườn nho khi chúng bàn với nhau: Đứa con thừa tự đây rồi, nào ta giết nó đi và đoạt lấy gia tài của nó.
Israel chính là vườn nho của Thiên Chúa, là gia nghiệp của Chúa được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn. Ngài hết mực yêu thương Israel như đã được diễn tả qua bài ca về vườn nho trong sach Isaia: Tôi xin hát tặng bạn thân tôi bài ca về vườn nho của mình. Bạn tôi có một vườn nho màu mỡ trên sườn đồi, anh vun tưới cày cuốc và trồng vào đó những giống nho tốt. Anh dồn hết bao công sức cũng như kỳ vọng vào vườn nho này, nhưng nó lại không đáp lại sự mong đợi của anh, nó sinh ra trái nho chua nho dại. Vì thế, ông sẽ để cho nó bị tan hoang, heo rừng vào phá phách, cỏ dại mọc um tùm. Bài ca này nói lên tâm trạng và sự chờ đợi của Thiên Chúa nơi dân Israel. Ngài mong họ trổ sinh hoa trái yêu thương, hành động công bình, nhưng họ lại sinh ra những quả gian ác, những trái bất công. Kể câu chuyện trên, Chúa Giêsu đã muốn nhắm tới các thượng thế và luật sĩ. Họ chính là những tá điền được Thiên Chúa trao cho trông coi, canh tác vườn nho là Israel, nhưng những người này đã không làm tốt trách nhiệm của mình, còn đối xự tệ bạc với Thiên Chúa là ông chủ và muốn biến vườn nho Israel làm của riêng mình.
Những người trước đây được sai đến để thu hoa lợi là các ngôn sứ, những vị này được sai đến để giúp Israel điều chỉnh lại cuộc sống, kêu gọi thay lối sống gian tà bằng sống công bình bác ái, nhưng các ngôn sứ đã bị các tá điền là các thượng tế và luật sĩ tìm cách loại trừ, nhục mạ. Sau cùng, Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài là Đức Giêsu đến với họ, thì họ đã đối xử với người con ấy không khác gì những tá điền trong câu chuyện. Họ hành hạ, giết chết Ngài và quăng xác ra khỏi vườn nho. Trong câu chuyện, Chúa Giêsu cho thấy sẽ đến ngày Thiên Chúa là ông chủ sẽ loại trừ họ, đuổi họ khỏi vườn nho và trao vườn nho cho những người thợ trung thành, có trách nhiệm, hết lòng yêu mến làm việc và sinh hoa lợi cho Thiên Chúa.
Vườn nho ngày xưa đã đã bị bỏ hoang và Thiên Chúa đã thiết lập nên vườn nho mới là Giáo Hội, được trao cho những tá điền mới. Chúng ta là giống nho mới được tháp nhập vào thân cây nho là Đức Giêsu, được trồng trong mảnh vườn của Giáo Hội, được chính Thiên Chúa làm chủ canh tác và các cộng tác viên của Ngài là các thừa tác viên được tuyển chọn để chăm sóc cho vườn nho. Đồng thời, mỗi người chúng ta cũng là những tá điền được Thiên Chúa tín nhiệm trao cho việc chăm sóc vườn nho của Chúa. Vì thế, với trách nhiệm và với hết lòng yêu mến, chúng ta được mời gọi làm việc liên lỉ để sinh thật nhiều hoa trái tốt cho Chúa.
Là cành nho, chúng ta sẽ phải sinh trái nào? Thánh Phaolô đã chỉ cho chúng ta trong bài đọc hai: Trong mọi hoàn cảnh, hãy biết tạ ơn Thiên Chúa và không ngừng giải bày những tâm tình nguyện xin. Tạ ơn vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn, cho chúng ta được nhận biết Ngài, sống theo giáo huấn của Ngài, được tôn thờ Ngài, được hưởng ơn cứu độ. Đây chính là niềm vui đầy tràn trong tâm hồn và được biểu lộ ra bên ngoài. Dù cuộc sống bên ngoài còn nhiều khó khăn, thử thách cũng không thể làm vơi cạn niềm vui thánh thiện trong tâm hồn của chúng ta. Kế đến, phải sinh những hoa trái là: Sự chân thật cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen, thì anh em hãy để ý mà thực hành.
Như vậy, với tính cách là những cây nho được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và vun trồng trong vườn nho Hội Thánh, chúng ta cần phải biết tận dụng cơ hội Chúa ban để sinh hoa kết trái trong cuộc đời của mình. Cần phải sinh những hoa trái như Thiên Chúa mong muốn và kỳ vọng nơi mỗi chúng ta. Điều Chúa mong đợi nhất nỗi người là sinh những hoa trái ngọt ngào yêu thương. Hãy dâng tặng cho Chúa lòng yêu mến, biết ơn của mình bằng sự gắn bó, trung thành với Chúa, với giới răn, lề luật của Chúa. Hãy bày tỏ lòng biết ơn qua việc dâng thánh lễ mỗi ngày. Hãy sinh những hoa trái là những việc lành, việc tốt cho gia đình, cho lối xóm và cho cả xã hội này. Đừng bao giờ trở thành những trái chua, trái đắng cho nhau. Hãy mạnh dạn loại bỏ những trái tham lam, ích kỷ, nhỏ nhen, và hãy trao cho nhau những hoa quả ngọt ngào yêu thương. Khi mỗi người cùng trổ sinh những hoa trái như thế, chúng ta sẽ làm biến đổi xã hội này và thế giới này, và cuộc sống cộng đoàn, xã hội mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Trong tư cách là những người thợ được Thiên Chúa tín nhiệm trao phó cho vườn nho của Ngài, mỗi người tùy theo địa vị và ơn gọi của mình, hãy làm việc với hết khả năng, hết sức lực và nhất là hãy làm việc với tất cả tinh thần trách nhiệm và lòng yêu mến để đem lại nhiều hoa trái cho Chúa. Chúng ta được sai vào vườn nho rộng lớn là cả giáo hội, để ở nơi đây, chúng ta có bổn phận làm cho Tin Mừng được lan tỏa đến khắp nơi và đến với hết mọi người. Chung quanh chúng ta còn nhiều người chưa biết Chúa và Giáo Hội, chưa nghe nói về Tin Mừng Cứu độ. Chúng ta sẽ phải là những người giới thiệu hoa trái ngọt ngào này cho tất cả mọi người, để họ cũng được hưởng nếm niềm vui cứu độ của Chúa.
Là người thợ trong vườn nho là giáo hội địa phương tức là giáo xứ, hãy là những thành viên có trách nhiệm và có lòng yêu mến. Vì từ nơi môi trường giáo xứ, chúng ta được sinh ra trong đức tin, được nuôi dưỡng bằng ân thánh của Thiên Chúa qua các Bí Tích, qua thánh lễ được cử hành nơi đây. Cũng ở nơi môi trường giáo xứ, chúng ta được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc qua các chủ chăn là những người được sai đến phục vụ cộng đoàn. Hãy hết lòng chung tay góp sức, xây dựng cộng đoàn vườn nho địa phương. Hãy mạnh dạn bỏ đi những tự ái, cái tôi bè phái, chia sẽ để góp phần xây dựng sự hiệp nhất yêu thương. Đừng bao giờ có tham vọng loại trừ người khác và biến vườn nho này thành của riêng mình, bắt người khác làm theo ý mình, nhưng cần phải làm theo ý Chúa.
Là những người được trao cho chăm sóc vườn nho là các gia đình, các bậc làm cha mẹ sẽ phải trở thành những người có trách nhiệm làm cho vườn nho của gia đình mình trổ sinh hoa trái tốt lành. Hãy chăm sóc nhiều hơn cho những mầm nho là con cái được lớn lên trong bầu khí đạo đức của gia đình, của cha mẹ qua các giờ kinh sớm tối, qua gương sáng của cha mẹ. Hãy kịp thời uốn nắn để con cái được lớn lên trưởng thành về nhân cách cũng như trưởng thành trong đời sống đức tin, trở thành những Kitô hữu tốt, nhiệt thành.
Xin Chúa cho mỗi người ý thức trách nhiệm Chúa trao ban, để chúng ta chu toàn tốt nhiệm vụ của mình, cộng tác và làm cho vườn nho của Chúa ngày càng được mở rộng trên khắp mặt đất này. Amen.
(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Tôi những mong trái tốt, mà sao vườn nho chỉ sinh nho dại” (Is 5,4).
Trong thơ văn Kinh Thánh, vườn nho là biểu trưng cho người được yêu. Ngôn sứ Isaia đã vay mượn hình ảnh của một vườn nho để hát một bài ca dâng tặng người yêu. Bài ca đó miêu tả việc Thiên Chúa yêu thương săn sóc dân của Ngài. Tuy nhiên cung điệu bài ca mau chóng chuyển thành lời ca thán người được yêu, như Isaia đã mô tả, vì vườn nho được săn sóc ân cần, nhưng chỉ sinh ra nho dại. Cuối cùng nó đã bị bỏ rơi và trở nên hoang tàn. Đức Chúa phán “Ta sẽ chặt phá hàng dậu cho vườn nên tan hoang. Ta sẽ đập đổ các tường bao, cho vườn bị giày xéo. Ta sẽ biến mảnh vườn thành đất hoang vu, không tỉa cành nhổ cỏ, cho gai góc mọc um tùm, và ta sẽ truyền lệnh cho mây đừng đổ mưa xuống”.
Thế thì, vườn nho sản sinh loại hoa trái nào? Isaia đã viết rằng, loại giống nho tốt đã được chọn lựa để gieo trồng, nhưng nó chỉ cho ra nho dại. Hạn từ trong tiếng Do Thái khi nói về nho dại, có một nguồn gốc mang ý nghĩa “hư hỏng, hôi thối”. Câu văn trong tiếng Hy lạp, nho dại còn mang chở thêm ý nghĩa là “gai góc” như trong trình thuật của Isaia. Như vậy vườn nho thay vì cho trái thơm trái ngọt, nó chỉ cho trái hư thối hay chỉ sản sinh gai góc. “Thiên Chúa kỳ vọng sự ngay chính, nhưng Ngài chỉ thấy toàn là đổ máu. Ngài chờ đợi sự chính trực, nhưng chỉ nghe tiếng khóc than” (Is 5,7). Vườn nho này chẳng còn giá trị gì. Tuy nhiên, những người thợ làm vườn có thể cải tạo và vun xới cho vườn nho. Vì thế, Isaia cũng nói về một viễn cảnh tương lai khi vườn nho sẽ xanh tốt trở lại, lúc mà “Giacóp sẽ bén rễ, Israel sẽ trổ nụ đơm bông, và mặt đất sẽ đầy tràn hoa trái (Is 27,6).
Trong dụ ngôn của bài Tin Mừng, Đức Giêsu trở lại với vườn nho. Hình như vườn nho bây giờ đang sản sinh những trái tốt, và ông chủ chuẩn bị cho thu hoạch. Cho dù vấn đề nho dại hay gai góc không còn được nói tới, nhưng vườn nho lại nảy sinh một vấn đề khác. Ông chủ giao phó vườn nho cho các tá điền chăm sóc và đi xa. Khi mùa gặt đến, ông sai những gia nhân đến gặp họ để thu gom hoa lợi. Nhưng các tá điền bắt các đầy tớ, đánh đập người này, ném đá người khác, thậm chí còn giết chết họ. Vườn nho ở đây là biểu trưng cho dân Israel, đang mang chở những hoa trái tốt lành, như Isaia đã tiên báo. Đồng thời, Đức Giêsu khai mở một viễn ảnh rộng lớn hơn, đó là Nước Thiên Chúa đang đến. Ông chủ vườn nho là chính Thiên Chúa, là người yêu trong dụ ngôn của Isaia, nhưng có những nhân vật mới xuất hiện so với vườn nho trong cựu ước, đó là các tá điền và những gia nhân của ông chủ.
Theo mạch văn trong Mt 21,45, các tá điền là những thượng tế và biệt phái, những người đã không được ủy thác sứ mạng thu gom hoa lợi khi mùa gặt đến. Họ không phải là những cây nho đã sinh ra trái xấu, nhưng dụ ngôn nói về họ như là những con người phản bội ông chủ, không đem hoa lợi về cho ông chủ khi ông sai phái những sứ giả đến vườn nho. Những đầy tớ được gửi tới là hình tượng ám chỉ các ngôn sứ trong cựu ước, giống như Isaia, mà những bài tình ca viết cho họ cũng chẳng làm sao lay động được con tim của họ, giống như tâm tưởng gian ác và chai lỳ của những tá điền. Sau khi đã sai gửi những đầy tớ, ông chủ gửi chính người con của mình đến với họ và nghĩ rằng “Họ sẽ kính trọng đứa con của ta”. Nhưng trớ trêu thay, các tá điền đã quyết định giết luôn anh ta để tiếm quyền sở hữu gia tài. Thế rồi Chúa Giêsu đưa ra câu hỏi “Khi ông chủ đến, ông sẽ hành xử thế nào đối với những tá điền như thế?” Các đầu mục Do Thái và người Pharisiêu trả lời, nhưng dường như họ không biết câu trả lời đó chính là tự kết án họ “Ông chủ sẽ tru diệt bọn chúng, và sẽ trao vườn nho cho người khác canh tác để đến mùa sẽ thu hoa lợi”. Đức Giêsu đồng ý với câu trả lời. Người nói với họ “Quả thật, tôi bảo các ngươi, nước Thiên Chúa sẽ được cất khỏi các ngươi và được trao cho một dân khác có thể làm sinh hoa lợi cho Vương quốc này”.
Bởi vì các tá điền không phải biểu trưng cho toàn dân, nên những người Israel vẫn còn là hình tượng của vườn nho được Chúa yêu thương, mà dụ ngôn của Isaia đã miêu tả. Nhưng vườn nho sẽ được giao cho những tá điền khác, tức là giao cho một dân khác để có thể đem lại trái trăng cho vương quốc nước trời.
Những người theo Đức Giêsu, hình thành một dân mới, gồm cả người Do Thái và dân ngoại. Nhưng họ có thực sự là những tá điền của vườn nho này hay không, còn tùy thuộc vào kết quả sinh lợi của vườn nho. Điểm nhấn của dụ ngôn không phải là vườn nho sẽ bị bỏ hoang như Isaia đã mô tả, nhưng là cần phải chăm sóc chu đáo những trái nho mà vườn nho đã sản sinh. Một cách mặc nhiên, chúng ta hiểu là trong dụ ngôn của Đức Giêsu, vườn nho đang cho những trái tốt. Đức Giêsu không hát lên một bài ca chiến thắng về những hoa trái mà vườn nho mang lại. Ngài cũng không đá động đến sự trổi trang nơi các môn đệ Ngài, nhưng Ngài cũng gợi nhắc lại bài ca tình yêu về vườn nho của Isaia cho nhóm độc giả rộng lớn hơn. Vườn nho được trải rộng. Mọi người chúng ta đều được đón mời đến làm vườn nho cho Chúa. Hơn nữa, có khi tâm hồn chúng ta ngập tràn trái nho dại, chúng ta cần phải đổi mới và sản sinh những trái nho thơm ngọt cho Vương quốc Nước Trời.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Dụ ngôn các thợ vườn nho phản loạn thuộc vào loại dụ ngôn Chúa Giêsu tạo ra để tỏ bày thân thế của Ngài là Đấng Messia. Dụ ngôn này cũng cho thấy sự cô đơn bi thảm của Đức Kitô bị dân Người loại bỏ và chung quanh có những môn đệ mà lòng tin phát sinh khó khăn và hiện còn mỏng manh. Như thường lệ, Chúa Giêsu cấu tạo dụ ngôn từ thực tại mà Người nghe thấy trước mắt. Trong xứ Galilêa thời ấy, những điền chủ bỏ tiền vào việc trồng nho. Họ giao cho thợ làm nho trông coi rồi trả lương. Đôi khi họ đi xa, ra cả nước ngoài và để việc quản lý mùa màng lại cho những phái viên họ sai đến với các thợ làm nho. Theo luật Do thái nếu chủ một thửa đất chết đi mà không có người thừa kế, đất ấy thuộc về người nào chiếm ngụ đầu tiên. Điều này cho ta hiểu lý luận của các thợ vườn nho: Con thừa tự đấy, giết nó đi, chúng ta sẽ chiếm được gia tài của nó. Quả thực, con thừa tự mà chết, đất thành vô chủ và thuộc quyền những kẻ cư ngụ. Qua dụ ngôn này, và trong đoạn nói tiếp nhắc lại hình ảnh viên đá góc bị thợ xây loại bỏ, Chúa Giêsu muốn cho hiểu rằng chính Ngài là người con trai bị thợ làm vuờn nho giết đi và là viên đá góc. Trong tâm trí người đọc sách phúc âm vào thời Mt viết ra, cũng như trong tâm trí chúng ta, tất cả câu chuyện kết thúc bằng việc Chúa Con sống lại, để giải cứu gia tài Ngài, là toàn thể nhân loại và đã trở thành viên đá chính trong việc xây dựng nước trời. Dụ ngôn này đặt ra cách quyết liệt câu hỏi sau đây: Làm sao các người hữu trách dân Do thái lại đã tới chỗ loại bỏ Đấng Messia?
1) Họ đã hướng theo bản năng chiếm hữu. Chủ vườn nho là hình ảnh Thiên Chúa, thủ lãnh duy nhất và Cha của dân tộc Do thái. Việc các lãnh tụ của dân chiếm hữu nằm ở chỗ họ áp đặt quan niệm riêng và lề luật. Họ dùng lề luật để thống trị dân, họ còn có cao vọng dùng dân tộc được chọn để đạt tới chỗ thống lãnh thế giới. Các vị tiên tri đã đến và chính Con Thiên Chúa cũng đã đến để nhắc nhủ rằng, lề luật thuộc riêng mình Thiên Chúa và dân không phải là sở hữu của những kẻ cai trị, nhưng là của Thiên Chúa mà thôi. Họ đã giết các tiên tri và cuối cùng đã giết luôn Con Thiên Chúa. Họ đã tới chỗ loại bỏ Đấng Messia bởi vì thay vì phục vụ lề luật và dân, họ đã chiếm hữu, coi mình là chủ lề luật và dân. Một câu hỏi: liệu chúng ta có thoát khỏi thái độ tự coi là người làm chủ Chân lý?
2) Làm thế nào để phục vụ Chân lý Phúc Âm mà không chiếm hữu? Bằng cách hãy để cho Phúc Âm thâm nhập và cải tạo chúng ta, chứ không phải đọc rồi sắp xếp Phúc Âm theo ý chúng ta. Ngày xưa các thày thông luật lèo lái sự trông mong của dân đến những ước vọng thống trị trần gian. Ngày nay, phải chăng không có những nhà trí thức xử dụng Phúc Âm để quảng bá hệ thống chính trị của họ, các quan niệm về xã hội của họ dầu cho đó là bảo thủ hay là cách mạng? Người ta không có quyền cư xử như chủ nhân Phúc Âm và dùng Phúc Âm như mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu đi đến Chúa Giêsu Kitô trong đức tin. Nhiều người tiếm hữu Phúc Âm mưu lợi cho ý tưởng của họ, như các ký lục ngày xưa tiếm hữu lề luật, cuối cùng đi tới chỗ phủ nhận con người Đức Kitô. Phúc Âm mời gọi chúng ta xây dựng cuộc sống trên viên đá sống động là Chúa Giêsu Kitô, Đấng chúng ta lắng nghe, tìm kiếm và yêu mến. Không ai làm chủ Đức Kitô, chúng ta tất cả đều phục vụ cho Phúc Âm của Ngài mà chúng ta chỉ là người lãnh nhận.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)
Nếu Chúa Giêsu đã đến trái đất này cùng một cách như Người đã đến lần đầu tiên, bạn thử nghĩ xem Người sẽ được tiếp bạn ra sao? Sự tiếp đón ngày hôm nay của chính xứ sở bạn có khác với những gì đã xảy ra ở Giudea vào những thế kỷ trước không?
Chúa Giêsu đã đến thế gian sau những lời tiên báo của một loạt các tiên tri trong kỷ nguyên Cựu Ước nhưng chúng đã bị dân chúng thời đó coi thường và phớt lờ đi. Họ đã xử sự giống như những người nô lệ trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã kể trong bài Phúc âm hôm nay. Những nô lệ này đã đối xử cách đáng xấu với những người làm công mà chủ sai đến lấy phần thu của ông. Thật kinh tởm, khi người khi chủ sai chính con trai của ông, vì ông hy vọng rằng họ sẽ nể ông, nhưng họ đã giết luôn đứa con trai của ông.
Chúng ta không cần phải tưởng tượng gì thì cũng nhận ra người con mà dụ ngôn nhắc đến chính là Chúa Giêsu. Hôm nay có gì mới không? Chúa Giêsu sẽ đến đổi mới thế giới đau khổ và tàn tệ mà Người đã chịu đựng hai mươi thế kỷ trước không?
Không phải tưởng tượng nhưng chúng ta cần đức tin để trả lời cho câu hỏi này. Theo đức tin công giáo của chúng ta, sự thật là Chúa Giêsu đang đến giữa chúng ta,đặc biệt là nơi người hất hủi, bị khinh bỉ và những phần tử nghèo nàn cơ cực trong xã hội của chúng ta.
Chúa Giêsu đến trong ngôi vị của một thai nhi trong dạ mẹ. Người đang cố gắng để được sinh ra một lần nữa vào trong thế giới của chúng ta, nhưng phong trào phá thai đang loại bỏ Người bằng cách huỷ diệt Người ngay tại nơi được coi là cung thánh an toàn nhất trên mặt đất này, là nơi dạ người mẹ. Có phải Thiên Chúa Cha sẽ nói như người chủ đất hôm nay: “Chắc họ sẽ kính trọng con trai ta”.
Theo lịch sử, Chúa Giêsu đã sinh ra tại Bethlehem, âm vang cái tên thành phố. Bên trong câu chuyện nhẹ nhàng ở Bethlehem là một thú nhận bi thảm về gia đình Thánh: “ Không có phòng cho họ nơi quán trọ”. Thật ra, Mẹ Maria và Thánh Giuse là những người dân nhập cư. Họ từ Nazareth, một nơi phương Bắc xa xôi. Cho dù Chúa Giêsu đã sinh ra nơi thành phố của tổ tiên là Bethlehem, người cũng đã bị đối xử như một người ngoại quốc. Các quán trọ có thật đã chật chỗ không? Hay đơn giản hơn là họ đã không được tiếp đón? “Không có phòng cho họ”.
Ngày hôm hay Chúa Giêsu vẫn còn cố gắng để được chúng ta tiếp đón trong những người dân nhập cư đến với đất nước của chúng ta, những người con cái Chúa này bị loại bỏ như những người ngoại quốc, cho dù họ đã đến một miền đất giống như tất cả trái đất đều thuộc về Thiên Chúa là Cha của họ.
Đời sống công khai của Chúa Giêsu đầy dẫy những chống đối vì những lời rao giảng và giáo huấn của người. Sự thương xót của Người dành cho dân nghèo và người đau ốm làm dâng cao sự căm phẫn bởi vì Người đã làm những công việc tốt lành vào ngày Sabath. Lời hứa về Thánh Thể của Người đòi hỏi những người lắng nghe Người một là chấp nhận người, hai là loại bỏ Người. Nhiều người đã xoay lưng và bỏ đi. Sự loại bỏ biến thành oán ghét, và oán ghét làm cho điên cuồng, họ đã đóng đinh Chúa Giêsu như là một tội nhân.
Có phải đây là một cú nhảy đức tin quá nhiều để chúng ta nhìn về Chúa Giêsu trong một đội nhân không? Nếu như thế, ít nhất chúng gta không nhớ lời Chúa Giêsu đã tha thứ cho trộm lành có lòng hối cải và tha thứ cho những người đã đóng đinh Người ư? “Họ không biết việc họ làm?” Chúng ta có biết việc chúng ta đang làm cho chúng ta thích phạt và khuyến khích một hành động dẫn chúng ta tới tình trạng dã man không?
Một dụ ngôn Chúa Giêsu đã nói khi xưa vẫn có ý nghĩa với chúng ta hôm nay nếu chúng ta khiêm nhường đủ để cho nó thách đố chúng ta bằng những vấn nạn giống như nhiều người đồng hương của chúng ta, chúng ta yếu ớt trong việc tìm kiếm Chúa trong tha nhân.
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn và cũng là một ám ngôn, vì vừa hình dung vừa diễn tả sự thật, vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri.
Ông chủ vừa trồng xong vườn nho. Ông rất yêu qúy vườn nho của mình. Chung quanh vườn, ông rào cẩn thận. Ở giữa vườn, ông cho đào một bồn ép làm rượu. Ông còn cho xây một cây tháp cao để canh giữ kẻ gian. Ông chăm sóc vườn nho thật chu đáo.
Ông chủ có lòng nhân ái với các tá điền. Họ vốn là những người nghèo khổ, không “một tấc đất cắm dùi” nên ông thương tình và muốn giúp họ sinh sống. Ông chủ thật quảng đại, thay vì chỉ thuê và trả theo lương công nhật, ông lại tin tưởng và giao toàn quyền vườn nho cho họ chăm sóc và trẩy đi phương xa. Các tá điền vui mừng được canh tác theo ý mình. Đến mùa, họ chỉ cần nộp một phần nhỏ hoa lợi cho chủ là xong trách nhiệm. Nhưng con người có lòng tham không đáy “được voi đòi tiên”. Dù đã được hưởng phần lớn hoa lợi nhưng họ còn muốn sở hữu luôn cả vườn nho để khỏi phải nộp một phần hoa lợi nào cả! Do đó, khi thấy các đầy tớ ông chủ sai đến để thu hoa lợi như đã hợp đồng, chẳng những họ đã không nộp mà còn hành hạ đánh đập, thậm chí ném đá để giết hại các người đầy tớ đó. Thấy vậy, ông chủ vẫn kiên nhẫn sai thêm một số đầy tớ khác đông hơn trước đến, nhưng số phận của những người này cũng không khá hơn những đầy tớ đến trước. Cuối cùng, ông chủ còn sai người con trai duy nhất đến, với hy vọng bọn tá điền sẽ tôn trọng con trai mình. Nhưng bọn tá điền thấy con trai ông chủ liền bàn nhau giết luôn người thừa tự kia để chiếm đoạt vườn nho cho mình.
Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi về thái độ của ông chủ vườn đối với bọn tá điền bất nhân ác đức kia là gì? Các thính giả nghe dụ ngôn đã đồng thanh trả lời: “Ác giả ác báo, ông chủ sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, nộp phần hoa lợi cho ông”. Chúa Giêsu kết luận bằng cách áp dụng vào chính họ: “Tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”.
Dụ ngôn là tóm lược toàn bộ Thánh Kinh về ơn cứu độ của Thiên Chúa. Vườn nho ám chỉ nước Thiên Chúa được trao cho dân Do Thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo, đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là hàng loạt các ngôn sứ được Thiên Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc bị giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, nước Thiên Chúa được chuyển sang một quốc gia khác là Hội Thánh, một dân phổ quát và Công giáo, sẽ lan rộng đến tất cả mọi quốc gia.
Dụ ngôn vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri. Dụ ngôn diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ.
Dụ ngôn nói tiên tri về đạo Chúa sẽ lan rộng khắp các dân tộc. Hơn nữa, dụ ngôn cũng cho thấy rõ thân thế và sứ mạng của Chúa Giêsu. Những người được sai đến trước Ngài, dù nổi tiếng như Êlia, Isaia, Giêrêmia, Gioan Tiền Hô… cũng chỉ là đầy tớ, còn Ngài mới là con trai duy nhất của Chúa Cha.
Mỗi người chúng ta là một tá điền, Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho. Đó là những ơn phúc. Mỗi người có bổn phận phải đem hoa lợi về cho Chúa. Mỗi người hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc mình làm.
Những ơn phúc Chúa ban như sự sống, tài năng, sức khỏe, của cải vật chất, chúng ta phải biết sử dụng chúng để sinh lợi. Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn liếng khác nhau không ai giống ai, nhưng ai cũng phải làm lợi ra với số vốn liếng đó.
Thiên Chúa trao cho chúng ta công việc chăm sóc vườn nho của Ngài. Thiên Chúa không ngừng sai những sứ giả đến để nhắc nhở hãy tích cực chăm sóc vườn nho. Vì thế mỗi người có bổn phận biết ơn là dâng lại cho Ngài những điều tốt đẹp, những chùm nho ngon ngọt của việc làm tốt mà chúng ta phải thực hiện trong cuộc sống hằng ngày.
Xin Chúa giúp chúng con luôn biết siêng năng làm việc, chu toàn bổn phận hàng ngày. Xin cho chúng con biết sử dụng tài năng, sức lực, thời giờ, của cải Chúa ban để xây dựng sự nghiệp đời này và sự nghiệp đức tin trên Nước Trời. Amen.
Câu chuyện suy gẫm.
Khi giảng về việc giữ ngày Chúa nhật, một linh mục Trung hoa đã minh họa bằng câu chuyện sau đây: “Một bà kia đi chợ mang theo 7 quan tiền trong túi áo. Khi tới chợ, bà trông thấy một người đàn ông bị què, áo quần rách nát, đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Bà thấy tội nghiệp nên đã móc túi ra cho hắn 6 quan tiền và chỉ giữ lại duy một quan đi chợ. Nhưng tên ăn mày này vốn tham lam, thấy bà ân nhân vẫn còn một quan tiền ở trong túi, hắn ta liền bám sát theo và nhân cơ hội bà sơ ý, hắn ta đã ăn cắp nốt quan tiền còn lại. Khi nghe câu chuyện về tên ăn mày tham lam này, có lẽ ai trong chúng ta cũng nghĩ hắn ta đúng là một tên mạt rệp đáng khinh bỉ và trừng phạt!”.
Rồi vị linh mục đặt vấn đề với cộng đoàn: Còn chúng ta thì sao? Trong một tuần lễ, Chúa đã ban cho chúng ta 6 ngày lao động kiếm ăn, thế mà còn duy một ngày Chúa nhật để ta dành ra mà nhớ đến Chúa, làm các việc thờ phượng kính mến Chúa và các việc bác ái phục vụ tha nhân, nhưng nhiều khi chúng ta đã tiếc xót, vẫn làm việc thêm mong kiếm nhiều tiền cho đầy túi tham! Như vậy, chúng ta sẽ là hạng người nào?
“Chủ vườn” là từ quan trọng trong dụ ngôn này, cùng với một từ khác tương ứng với từ đó: “hoa trái”. Người chủ vườn này muốn có những hoa trái đặc biệt. Với lòng quan tâm chăm sóc, ông trồng một vườn nho và mong đợi một mùa thu hoạch tốt đẹp, nhưng các tá điền không có vẻ gì là hoạt động cả. Chủ vườn sai đầy tớ tới: tá điền giết chết họ. Thế là chủ vườn thực hiện một hành vi điên rồ: ông sai chính con trai của mình đến và con trai ông cũng bị giết.
Chúng ta biết rằng người con trai này chính là Chúa Giêsu, nhưng vườn nho này là vườn nho nào? Những thợ làm vườn nho là ai? Chúng ta phải làm gì trong câu chuyện này?
Từ một vườn nho ở trên một sườn đồi, dụ ngôn kể chuyện những tương quan giữa Thiên Chúa và con người, điều mà Tin Mừng gọi là Nước Trời: “Ta sẽ là Chúa của các ngươi, và các ngươi sẽ là dân của Ta”, Chúa đã nói như thế. Đây là món quà đẹp nhất của Thiên Chúa, ông chủ của mọi sự, người thầy của mọi sự.
Thiên Chúa mong ước ban Nước Trời cho chúng ta. Là tình yêu Thiên Chúa muốn làm cho tất cả mọi người thành một dân tộc của tình yêu. Điều này muốn nói lên hai điều luôn luôn liên kết với nhau một cách chặt chẽ: một dân tộc gồm những con cái được Thiên Chuá yêu thương và yêu thương Thiên Chúa; một dân tộc gồm những người anh em yêu thương nhau. Đó là vườn nho và đó là những mùa hái nho.
Để thực hiện dự định vĩ đại này, Thiên Chúa đã chọn một dân tộc nhỏ làm hạt giống, làm men, đó là Israel. Ngài đã giao phó vườn nho của Ngài, tức là dự án về Nước trời cho dân tộc này.
Thất vọng. Được các vị lãnh đạo tôn giáo dẫn dắt tồi, Israel không sử dụng cho đúng những đặc ân của mình. Chúa sai đến cho Israel những sứ ngôn, những tiên tri, nhưng nước này không nghe họ. Coi thường chủ vườn, các tá điền xấu tin rằng họ có thể một mình làm chủ vườn nho của Chúa. Họ chăm sóc vườn nho không tốt bởi vì các ân sủng của Thiên Chúa chỉ sinh hoa kết quả với Thiên Chúa mà thôi.
Trong một nhiệt tình yêu thương tối hậu, Thiên Chúa sai Con Trai của Ngài để dạy cho các thợ làm vườn nho biết cách làm cho vườn nho của Chúa sinh lợi, biết cách sống vì Nước Trời như thế nào. Nhưng hết rồi, vào cuối Tin Mừng, Chúa Giêsu nhận thấy rằng chính Ngài cũng không được lắng nghe, các nhà lãmh đạo dân chúng muốn bóp nghẹt tiếng nói của Ngài.
Thế rồi Ngài đưa ra một lời đe doạ hoàn toàn không khoan nhượng cho những ai tự xem mình là những người được ưu tiên vĩnh viễn, những người chủ của các ân sủng của Thiên Chúa. Cho tới lúc đó, Chúa thường đe doạ họ và thậm chí sửa phạt họ một cách nghiêm khắc, nhưng không hề có ai dám nói với họ rằng Thiên Chúa sẽ giao phó vườn nho của Ngài cho những người khác. Dầu sao thì đây cũng chính là ý nghĩa của dụ ngôn ghê gớm này mà những từ cuối cùng rơi xuống như một cái máy chém: “Nước Trời sẽ được cất khỏi các ngươi và sẽ được trao cho dân khác làm cho trổ sinh hoa trái”,
Lời đe doạ đã được thực hiện, người Kitô hữu tiếp tục sự nghiệp của người Do thái. Điều này không xoá bỏ sự vĩ đại của dân tộc đã được chọn đầu tiên và vẫn là một dân tộc được chọn này (Rm 11, 28-29). Dân Do thái vẫn tiếp tục loan báo Đấng Tối Cao bằng đức tin sâu xa và thường rất anh hùng của họ. Tiếp theo sau và cùng với dân Do thái chúng ta nên giòng mạc khải Do thái –Kitô giáo. Và dụ ngôn này phải làm cho chúng ta suy nghĩ về sự vĩ đại và trách nhiệm của chúng ta. Thật là một sứ mạng nặng nề! Sống tình yêu, loan truyền tình yêu khắp nơi, tạo ra những kết quả thực sự của Nước Trời. Chúng ta có xứng đáng không? Người Kitô hữu và những nhà lãnh đạo tín hữu có tỏ ra trên khắp thế giới như là những tá điền tốt, những thợ làm vườn nho tốt của ông chủ duy nhất của vườn nho hay không?
Những người Biệt phái không sẵn sàng trở lại. Đó là một thái độ thụ động. Nhưng đi xa hơn, họ bước sang hành động quyết định chống lại Đức Kitô. Trong ngụ ngôn thợ làm vườn nho, Thày chí thánh đã mô tả cho chúng ta như sau: Israel là một dân gồm những mục tử và nông dân. Các dụ ngôn Phúc âm là những hình ảnh thu nhặt trong đời sống đồng áng. Trước kia nơi các tiên tri và các thánh vịnh, quốc gia này đã được so sánh với một vườn nho được Thiên Chúa vun trồng săn sóc đặc biệt. Chúa chờ hái lượm những chùm nho chĩu nặng tức là mong thấy bay tỏa hương thơm đạo đức và lòng tùng phục Thiên Chúa. Nhưng ít khi Chúa mãn nguyện. Bây giờ, khi Chúa đến, giờ quyết định của dân tộc đã điểm.
Đó là giờ quyết định thực sự! Bổn phận mà Israel chu toàn lại bị coi như là một cố gắng vô ích sao? Quả thực các vị thủ lãnh dân tộc có một đời sống tôn giáo nông cạn khô khan. Ngoài ra họ bắt đầu công kích Chúa, mặc dầu Ngài đã góp công phục hưng quốc gia. Cha ông họ đã giết các tiên tri, những thừa sai của Thiên Chúa, còn chính họ là con cái lại quyết định giết Chúa.
Theo phương diện lịch sử, giờ quyết định đã điểm vì tất cả quá khứ của Israel hướng về ngay vị cứu tinh xuất hiện. Tất cả những hy vọng quy về vị cứu tinh là tột đỉnh mong đợi. Đây Chúa Cứu Thế đã đến và số phận dân tộc đã biểu lộ. Các thủ lãnh đều có trách nhiệm về điều đó. họ tự quyết chống lại Ngài, vì họ muốn một vị khác đáp lại những đòi hỏi sai lầm của họ. Họ không những đã từ chối, nhưng nhất là công kích đầy căm phẫn nữa. Đấng phải đến cho họ sự phục sinh, lại bị chính họ xử tử.
Lời Chúa đòi p hải có lập trường vững chắc, nhất là khi hành động. Ngược lại với lời nhân loại, lời Chúa bắt phải dấn thân. Người ta có thể gạt bỏ những ý tưởng triết học, gạt bỏ hệ thống suy luận của một tư tưởng gia hay những tác phẩm của văn sĩ. Người ta ít chú ý đến những thứ đó, nên một năm khó lòng mua được một số sách, do đó nhiều khi sách vở phải bán theo giá giấy. Trái lại lời Chúa, tiếng gọi và đòi hỏi, đòi phải chọn lựa khi nghe biết. Không chú ý đến lời Chúa là phủ nhận lời Chúa và như vậy là gạt Chúa sang một bên. Làm như thế tức là tiến thêm một bước nữa về sự dữ. Trong khi chối từ những gì đem lại ơn cứu độ, người ta tự ý hướng về tình trạng khai trừ. Kitô giáo, không phải chỉ loan báo những chân lý để bàn luận hay xác định lập trường tùy tiện. Thiên Chúa mời gọi chúng ta, muốn chúng ta dấn thân phục vụ Ngài. Vì thế từ chối có nghĩa là nổi loạn. Lời Chúa là nền tảng cho đời sống. Ai chối bỏ là chối bỏ chính Chúa: Hòn đá không ở một nơi, nhưng theo Đức Kitô, hòn đá đó sẽ nghiến nát ai chối bỏ nó để ở lại giữa loài người.
Tình trạng cuộc sống không bất động: mỗi hành động nhân loại đều được Thiên Chúa đáp ứng cách khác nhau. Thực ra, Ngài không chỉ sửa phạt, Ngài sẽ không tiêu diệt những ai từ chối, nhưng đôi khi Ngài chịu đựng để biến đổi sự dữ thành sự lành. Trước hành động của kẻ thù, Ngài phản ứng lại theo đức công bình và nhất là phản ứng theo lòng yêu thương.
Adam từ chối Thiên Chúa đã gọi mình, nên đánh mất Thiên Đàng, nhưng đồng thời ông lại được hứa Đấng Cứu Thế. Lỗi phạm, nhờ ơn sủng biến thành lỗi có phúc. Đại hồng thủy đưa đến giao ước với Noe. Tháp Babel biểu thị sự chia rẽ nhân loại, cũng biểu thị ơn gọi của Abraham là người biến Israel thành dân duy nhất của Chúa. Việc bán Giuse sang Ai Cập trở nên sự cứu độ cho anh em. Pharaon cứng lòng đưa dân Chúa đến việc ký kết giao ước với Thiên Chúa. Lịch sử tiếp tục thể hiện cho tới lúc Israel từ chối Đức Kitô, đóng đanh Chúa họ trên núi Calvariô. Sự thất bại tuyệt đối đã được ân sủng tác động để hình thành giao ước mới với toàn thể nhân loại, và hy tế cứu độ của Chúa. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, máu các vị tử đạo không ngừng trở nên hạt giống làm trổ sinh những kitô hữu mới. Cho tới ngày chung cuộc, việc xuất hiện người chống lại Đức Kitô sẽ kêu mời Đức Kitô tái giáng. Trái đất bị chúc dữ sẽ báo hiệu một thế giới mới, để tất cả tăm tối sẽ bị ánh sáng toàn thắng. Tất cả sự chết sẽ bị sự sống thống trị, tội lỗi sẽ bị ơn sủng chế ngự. Hòn đá bị thợ ném đi, được Chúa can thiệp để trở nên hòn đá góc. Và nước Chúa được ban cho một dân tộc ưu tú mới, vườn nho được phó thác cho những người thợ mới; những người ấy nhờ tác động của ơn sủng, sẽ gặt hái hoa trái chín mọng do ơn Chúa. Vậy, những hầm rượu và kho lẫm Thiên Chúa được tràn đầy phong phú, rồi những kẻ ưu tú được lệnh trao hoàn cho Ngài. Tất cả biến thành ơn sủng.
MINH HỌA LỜI CHÚA:
Chúa Giêsu luôn giảng dạy bằng dụ ngôn. Đó là những câu chuyện thế gian hàm chứa ý nghĩa thiên quốc. Các dụ ngôn này thường chia ra hai loại: dụ ngôn “cửa sổ” và dụ ngôn “kiếng soi”.
Dụ ngôn “cửa sổ” là câu chuyện đơn giản nói về Chúa hoặc Nước Chúa. Nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về Người hoặc về Nước của Người, thí dụ như dụ ngôn “Con chiên lạc”.
Dụ ngôn “kiếng soi” là những câu chuyện giúp chúng ta hiểu rõ chính mình. Các nhân vật trong câu chuyện đại diện cho những người nghe. Thế nên họ nhận ra chính mình khi nghe dụ ngôn. Dụ ngôn “Tá điền sát nhân” trong Tin Mừng hôm nay thuộc loại này.
Chủ vườn nho chính là Thiên Chúa. Vườn nho lúc đầu là dân Itraen. Tá điền là các vị lãnh đạo Itraen. Các đầy tớ được chủ vườn sai đi thu hoa lợi là các ngôn sứ. Con trai độc nhất của chủ vườn chính là Chúa Giêsu. Các tá điền khác được chủ vườn nho giao lại là các tông đồ của Chúa Giêsu, là những nhà lãnh đạo mới của dân Chúa.
Nghe Chúa Giê su kể dụ ngôn trên đây, “các thượng tế và người Biệt Phái hiểu là Người nói về họ” (Mt. 21, 45). Họ nhìn vào dụ ngôn “kiếng soi” mà thấy chính họ. Song thay vì sám hối, họ vẫn ngoan cố trong lầm lỗi của họ.
Phải chăng Chúa Giêsu kể dụ ngôn trên đây chỉ nhằm hành động sai trái của các Thượng Tế và Biệt Phái? Không phải thế. Người còn muốn dạy chúng ta nữa. Người muốn dạy chúng ta các điều sau đây:
Nó tóm lược Kinh Thánh về ơn cứu độ. Chúa Giê su là con Thiên Chúa. Các Tông Đồ là những vị lãnh đạo mới của dân Chúa. Và Chúa kiên nhẫn chờ đợi chúng ta chu toàn bổn phận chúng ta đối với Hội Thánh Người. (Theo cha M. Link)
Một thiếu nữ trẻ đẹp Người Úc ở Melbourne. Chúa kêu gọi cô làm thừa sai giúp những người mắc bệnh cùi tại Inđônêsia. Cô sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa không chút do dự, và được hội truyền giáo gởi đến khu làng cùi tại đó. Nhiều người ngạc nhiên hỏi cô:
– Sao cô can đảm hy sinh như thế? Nếu cô bị lây nhiễm bệnh cùi, sắc đẹp cô sẽ tàn phai đã đành, cuộc đời cô sẽ bất hạnh nữa. Cô nghĩ sao?
– Tôi sẵn sàng hy sinh cho những người cùi, vì đó là điều Chúa muốn tôi thực hiện để giúp việc Chúa, dù có chết tôi cũng sẵn sàng để làm sáng danh Chúa.
Thế là cô lên đường, phục vụ người cùi được trên mười năm, thì mắc bệnh như người ta tiên đoán. Mặc dầu cô được chữa khỏi, nhưng nhan sắc cô bị ảnh hưởng bệnh đó nên trở nên xấu xí. Nhất là khi thời tiết thay đổi, cô rất đau đớn. Có người hỏi:
– Cô có ân hận vì đã giúp người cùi mà bây giờ phải mang hậu quả bi đát thế không?
Cô điềm nhiên đáp:
– Dù ta phải trả giá bằng mạng sống, tôi cũng sẵn sàng dâng hiến. Và nếu Hội Thánh cần, tôi vẫn không từ chối đến phục vụ anh chị em cùi bất cứ ở nơi nào.
Câu chuyện trên đây làm sáng tỏ ý muốn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay. Chúa giao vườn nho cho các Thượng Tế và Biệt Phái, để họ chăm sóc, nhưng họ đã không thi hành, không làm vườn nho sinh hoa lợi nộp cho Chúa, mà còn giết chết hết các sứ giả của Chúa. Đến cả Con Một yêu dấu của Chúa, họ cũng giết luôn để đoạt gia tài: “Bọn tá điền vừa thấy người con thì bảo nhau: Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” (Mt. 21, 38)
Vì thế, Chúa buộc lòng phải lấy lại vườn nho của Người và giao cho các tông đồ và chúng ta canh tác, cho nó trổ sinh hoa lợi cho Chúa, là đức tin và việc lành hằng ngày của chúng ta và anh chị em chúng ta. Như thế Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhiệt thành phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em. (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).
Hôm nay mình ghé dòng Mến Thánh Giá Sóc Trăng. Chị bề trên đón mình một cách niềm nở như đón một người chiến sĩ chiến thắng trở về… Và chị cũng mơ ước được đi truyền giáo. Mình mở cờ trong bụng “thế nào cá cũng cắn câu”.
– Công tác truyền giáo ở Năm Căn cứ mọc lên như nấm. Tôi muốn mở thêm một giáo điểm, nhưng còn thiếu cán bộ. Hiện nay đã có các chị bác ái Vinh Sơn, Dòng Ba Nam, tu hội Tận Hiến, thừa sai Lái Thiêu, tu sĩ truyền giáo, sinh viên Đại Chủng Viện, nhưng vẫn không đủ. Lúa chín thì nhiều quá lẽ, mà thợ gặt thì ít xịt. Vậy xin chị cho dòng Mến Thánh Giá góp mặt với chúng tôi.
– Cha muốn xin mấy chị?
– Càng nhiều càng tốt. Tối thiểu là hai.
– Thưa cha, xin cha thông cảm dòng chúng con còn ít người lắm, vả lại các em còn non nớt quá, chúng con không dám cho các em đi xa…
– Nếu năm nay không được thì năm tới vậy nhé!
– Thưa cha, năm năm nữa cũng chưa được.
Mình hiểu năm năm nữa nghĩa là chẳng bao giờ…
Mình nhớ lại một buổi sáng nọ, Chúa Giêsu tập trung trước mặt 72 môn đệ để đọc lệnh lên đường. Họ chưa được đào tạo. Chính Chúa cũng phải xác nhận rằng: “Thầy sai chúng con đi như những con chiên đi vào giữa bầy muông sói”. Dù thế Người vẫn sai họ lên đường, bởi lẽ “Có Chúa và nghề dạy nghề”.
Đúng thế. “Lúa chín đầy đồng, thợ gặt thì ít”. Vườn nho của Chúa bao la mà người làm vườn chẳng có được bao nhiêu. Đã vậy mà còn thêm những kẻ chểnh mãng, những người muốn chiếm đoạt vườn nho của Chúa làm của riêng mình, như trường hợp các Thượng Tế và Biệt Phái trong Tin Mừng hôm nay. Do đó, Chúa cần chúng ta giúp một tay vào việc chăm sóc vườn nho của Ngài ngày càng phát triển và sinh nhiều bông trái tốt cho Người. (Theo “Nhật ký truyền giáo”).
Một hôm nhà chính trị nổi tiếng người Pháp đi vào một làng nhỏ miền đông Ấn Độ. Ông phát hiện một pho tượng cổ quý, bày bán giữa những món hàng khác. Ông hỏi giá và được trả lời:
– Thưa ngài, tôi xin 75 đồng.
Nhà chính trị liền thương thuyết với người bán hàng:
– Tôi xin trả 45 đồng.
– Trời ơi, chỉ có 45 đồng sao?
Nhà chính trị vẫn khăng khăng trả giá 45 đồng. Người bán hàng tức tối nói:
– Tôi không thể bán với giá đó. Thà tôi tặng không cho ông còn hơn.
Nhà chính trị liền tóm lấy pho tượng bỏ vào túi và nói:
– Ông là người tử tế quá. Tôi xin cám ơn ông. Đây là món quà ông tặng cho tôi. Tôi tin chắc ông không từ chối món quà tôi tặng cho ông. Vừa nói ông vừa trao 45 đồng vào tay người bán hàng rồi đi.
Trong cái nhìn đức tin, tất cả những gì chúng ta có đều là quà tặng nhưng không của Chúa, từ sự sống tự nhiên đến cuộc sống tâm linh. Tất cả những gì chúng ta có thể làm được cho đến đức tin, tất cả đến từ lòng quảng đại của Thiên Chúa. Chính vì lãnh nhận nhưng không, chúng ta cũng được mời gọi trao ban nhưng không. Thánh Phaolô đã xác quyết: “Tất cả là hồng ân”.
Trong thư gởi tín hữu Côrintô, thánh nhân còn đặt câu hỏi khiến chúng ta phải suy nghĩ: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” (1 Cr. 4, 7)
Tất cả chúng ta là vườn nho được Chúa chăm sóc ân cần đầy đủ: “Ông rào giậu, trong vườn ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh” (Mt. 21, 33).
Chúa chờ đợi gì nơi chúng ta? Chúa muốn chúng ta nhận biết tất cả là hồng ân nhưng không Chúa ban cho chúng ta. Thế mà chúng ta xem đó là của riêng của chúng ta, như các Thượng Tế và Biệt Phái trong Tin Mừng hôm nay. Họ nhẫn tâm giết hết để chiếm đoạt vườn nho cho riêng họ. “Không có phần nào cho tha nhân, không có phần nào cho Hội Thánh”.
Như thế Tin Mừng hôm nay mời chúng ta chia sẻ: nhất là chia sẻ ơn cứu rỗi của Chúa cho anh chị em chúng ta (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”. Tập III).
Sáng ngày 19 tháng 3 năm 1994, do hai phát súng của nhóm bất lương Camara ở nước Ý đã giết chết cha Giuse Daiana tại phòng áo nhà thờ xứ Casandi Piusêpê, lúc cha chuẩn bị dâng Thánh Lễ.
Cha Daiana là một linh mục 36 tuổi luôn nhiệt thành trong sứ mạng tông đồ, chăm sóc vườn nho của Chúa. Trong bài giảng lễ an táng cha, Đức Giám Mục Lôrensô Chiaradinali đã tóm lược công tác tông đồ của cha như sau: “Đau khổ và tin tưởng. Đó là đời sống tông đồ của cha Daiana. Việc tông đồ của cha đầy khó khăn vì những hình thức vô luân đồi bại và những sức mạnh bất lương núp sau bóng tối. Sứ mệnh tông đồ của cha là bẻ gãy xiềng xích của tội ác để xây dựng công bằng và tình thương. Hoạt động tông đồ của cha bắt đầu từ công tác giáo dục đức tin, nỗi lực sống chứng tá Kitô, bảo vệ quyền lợi cho người nghèo khổ và bị áp bức, nhất là huấn luyện giới trẻ qua hoạt động hướng đạo…
Tinh thần hăng say hoạt động tông đồ và lòng quả cảm hy sinh của cha Daiana mời gọi chúng ta nhớ đến thái độ bê tha chểnh mãng của các Thượng Tế và Biệt Phái trong Tin Mừng hôm nay đối với vườn nho của Chúa.
Cha Daiana đã cống hiến cho vườn nho của Chúa bao nhiêu thì các Thượng Tế và Biệt Phái đã bê bối bấy nhiêu. Với tấm lòng của người tông đồ, cha đã trung thành với sứ mạng Chúa giao bằng cái giá đắt là mạng sống của mình.
Cái chết của cha như hạt giống gieo vào lòng đất, phải mục nát để sinh được bông trái dồi dào tốt đẹp dâng cho Chúa, như Chúa Giêsu đòi hỏi các nhà lãnh đạo Do Thái phải thực hiện trong Tin Mừng. Thật vậy, cái chết của cha đã không uổng phí. Mấy hôm trước khi bị sát hại, cha đã nói với một thanh niên muốn theo ơn gọi linh mục: “Nếu con muốn trở thành linh mục, con phải luôn nhớ con sẽ phải trả giá rất đắt”. Và chính người thanh niên đó, khi đứng trước thi hài của cha đã tuyên bố: “Trước kia tôi còn do dự, nhưng giờ đây đứng trước thi hài của cha, tôi nhất quyết trở thành linh mục”
(Theo “Thiên Đàng là thế đó”).
Số phận của những kẻ chống lại chủ vườn nho sẽ như thế nào?
Mặc dù đoạn Tin Mừng không nói rõ, nhưng chúng ta cũng thấy được qua câu trả lời của những người nghe Chúa Giêsu:
– Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ đến mùa, họ sẽ nộp phần hoa lợi.
Từ câu trả lời này, chúng ta bước vào lãnh vực siêu nhiên. Vậy số phận của những kẻ chống lại Thiên Chúa sẽ như thế nào? Chúa Giêsu cũng đã từng lên tiếng về vấn đề này:
– Viên đá bị thợ xây loại bỏ, sẽ trở thành viên đá góc tường. Hễ ai vấp ngã trên viên đá này, thì kẻ ấy sẽ bị dập nát và hễ viên đá này đè lên ai, thì kẻ ấy sẽ bị tan xương.
Câu nói này làm cho chúng ta liên tưởng tới lời cảnh cáo của Chúa Giêsu được gửi tới cho Phaolô trên con đường đi Đamas:
– Khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Kinh nghiệm đau thương này đã được thực hiện qua giòng thời gian nơi các dân tộc cũng như nơi những cá nhân.
Trước hết là nơi các dân tộc.
Tôi xin đưa ra hai trường hợp điển hình. Trường hợp thứ nhất, đó là trường hợp của dân Do Thái.
Trong Cựu ước, họ là một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn và yêu thương cách đặc biệt. Thế nhưng mỗi khi họ quay lưng chống lại Ngài, bằng cách sống bê tha tội lỗi và nhất là quì gối thờ lạy những thần tượng nhảm nhí, thì lập tức đất nước họ bị quân thù dày xéo còn bản thân họ thì bị đi lưu đày, vì khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Trong Tân ước, họ là một dân tộc được nghe những lời Ngài truyền dạy và được thấy những việc kỳ diệu Ngài đã làm, thế nhưng cõi lòng họ vẫn chai đá, để rồi những lời Chúa cảnh cáo chỉ là như một thứ nước đổ đầu vịt mà thôi. Họ chống đối Chúa, họ vu oan cho Chúa và sau cùng họ đã giết chết Chúa một cách ô nhục trên thập giá. Nhưng rồi sau đó vào năm 70, thủ đô Giêrusalem đã bị tàn phá bình địa dưới sức mạnh của quân đội La Mã do tướng Titus chỉ huy. Còn bản thân họ thì phải rời bỏ quê hương, tản mát khắp bốn phương trời, mãi cho đến năm 1950, nhờ áp lục quốc tế, họ mới được trở về khôi phục lại đất nước, vì khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Trường hợp thứ hai là nước Pháp trong cuộc cách mạng vào năm 1789. Những kẻ khởi xướng cho cuộc cách mạng này đã bài xích Giáo hội, chối bỏ Thiên Chúa, coi lý trí là thần tượng tuyệt đối có thể giải quyết được mọi vấn đề. Thế nhưng hậu quả mà cuộc cách mạng này đã đem lại như thế nào thì lịch sử đã cho chúng ta thấy: máy chém mọc lên ở khắp nơi, rồi cướp của giết người xảy ra ở khắp chốn, đến nỗi chịu không nổi cảnh tượng hỗn độn vô trật tự ấy, Robespierre đã phải truyền dán trên khắp các ngả dường những tấm bích chương với hàng chữ: Nhân dân Pháp tin vào Thiên Chúa. Quả thực, khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Bây giờ xuống tới lãnh vực cá nhân, số phận của những kẻ chối bỏ Thiên Chúa cũng không hơn gì. Tôi xin đưa ra hai trường hợp điển hình.
Trường hợp thứ nhất là trường hợp của Mirabeau. Ông là người đi tiên phong cho cuộc cách mạng Pháp, hăng hái đả phá Giáo hội và chối bỏ Thiên Chúa. Nhưng rồi sau đó, ông đã phải đau khổ và tuyệt vọng, nhất là khi phải đối đầu với cái chết. Ông đã chết bằng một cái chết đớn đau và điên khùng.
Trường hợp thú hai là trường hợp của Voltaire. Suốt đời, ông đã tìm cách hạ bệ Thiên Chúa và Giáo hội. Chính ông vàp năm 1753 đã viết: Thiên Chúa phải về hưu vì đã hết thời. Đúng hai mươi năm sau, nghĩa là vào năm 1773 ông đã chết một cách thê thảm, tru tréo như một con chó dại, đến nỗi bà giúp việc phải thốt lên: Nếu quỉ có thể chết, thì cũng không chết một cách dữ tợn hơn Voltaire. Thiên Chúa vẫn còn mãi, nhưng khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Từ những sự việc cụ thể xảy ra cho cá nhân cũng như cho dân tộc, tôi muốn đi tới một kết luận:
– Xe trước đã đổ, thì xe sau phải coi chừng.
Xem người phải nghĩ đến thân, bẳng không, nếu cứ bình chân như vại, đắm chìm trong tội lỗi, chắc chắn số phận chúng ta cũng sẽ không hơn gì bởi vì chủ vườn nho sẽ triệt hạ hết những kẻ xằng bậy và sẽ trao vườn nho cho người khác. Như thế có nghĩa là Nước Trời sẽ bị cất khỏi bàn tay chúng ta, đề rồi chúng ta sẽ bị trầm luân muôn kiếp.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Ngày xưa Thiên Chúa đã chọn Israel là dân riêng của Ngài và coi dân Ngài như “vườn nho” được Ngài săn sóc cẩn thận. Ngài chỉ mong cho vườn nho đem lại nhiều hoa quả tốt tươi, nhưng vườn nho chỉ đem lại những trái nho dại đắng đót. Cả những người trồng nho cũng phản loạn, bất trung trong việc canh tác, nên Thiên Chúa đã trao vườn nho cho người khác.
Ngày nay, chúng ta cũng được coi là vườn nho mới của Chúa. Tất cả những gì Chúa ân cần săn sóc ban cho đều là hồng ân của Chúa. Chúng ta được tự do hành động, sắp xếp công việc theo ý ta, nhưng ta phải chịu trách nhiệm về những việc làm ấy. Bổn phận của chúng ta là phải cố gắng làm việc cho tốt để đáp lại tình thương của Chúa đối với chúng ta.
Sách có chữ rằng:”Tiền xa ký phúc, hậu xa khả giới”: Xe trước đổ, xe sau phải coi chừng. Dân Do thái ngày xưa đã bất trung nên đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ. Ngày nay chúng ta là dân Do thái mới được Thiên Chúa săn sóc giữ gìn, chúng ta phải tránh xa vết xe cũ kẻo phải hư đi, nhưng phải trung thành với những hồng ân Chúa ban, bằng cách làm cho ơn Chúa được sinh hoa kết quả dồi dào trong đời sống; đồng thời cũng phải biết chia sẻ cho người khác nữa.
+ Bài đọc 1: Is 5,1-7.
Tiên tri Isaia đã dùng “bài ca cây nho” để nói lên tình yêu của Thiên Chúa đã yêu dân Chúa như thế nào và dân Chúa đã đáp lại ra sao. Trong dụ ngôn này, “vườn nho” tượng trưng cho dân Israel. Thiên Chúa đã yêu thương và săn sóc dân Chúa như thế nào, Ngài chỉ muốn cho nó sinh ra những hoa trái ngon ngọt. Nhưng than ôi! trước sự yêu thương và săn sóc của Thiên Chúa, dân Chúa vẫn bất trung, bạc tình bạc nghĩa giống như vườn nho chỉ sinh ra những trái nho đắng đót.
Trước sự bất trung ấy, Thiên Chúa định bỏ mặc dân Israel cho quân thù giấy xéo, phải làm tôi ngoại bang. bị đi lưu đầy. Thực tế đã chứng minh: những sự việc này đã xẩy ra trong lịch sự dân Israel.
+ Bài đọc 2: Pl 4, 6-9.
Gặp những hoàn cảnh khó khăn, nhiều người tỏ ra xao xuyến ngã lòng, thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Philipphê hãy trút bỏ mọi lo âu và hãy tin tưởng vào Chúa để được bình an trong tâm hồn. Ngài đưa ra cho tín hữu bí quyết để đón nhận được sự bình an ấy:
+ Bài Tin mừng: Mt 21, 33-43.
Chúa Giêsu muốn dùng dụ ngôn này để cảnh giác các nhà lãnh đạo Do thái: vua chúa, luật sĩ, biệt phái và những tư tế. Thiên Chúa đã giao dân Chúa – là cây nho qúi – cho những nhà lãnh đạo Do thái, nhưng những người này lại khai thác cây nho để hưởng lợi riêng, bách hại những tiên tri, những sứ giả của Thiên Chúa và giết cả Con của Người.
Đồng thời Chúa Giêsu cũng cảnh cáo dân Do thái: đáng lẽ dân Do thái phải biết ơn Chúa khi gọi họ vào Nước Trời, và đáp lại họ phải có một đời sống tốt, như một phần hoa lợi nộp cho Thiên Chúa là chủ vườn nho. Nhưng chẳng những họ không làm thế mà còn giết luôn cả Chúa Giêsu, Con duy nhất của Thiên Chúa.
Do đó, Chúa Giêsu kết luận:”Nước Thiên Chúa, Người sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”.
Hãy sinh hoa trái tốt
Palestine là một vùng đồi núi thích hợp cho việc trồng nho, nên trồng nho là một nghề rất quen thuộc. Chúa Giêsu muốn dùng vườn nho để làm dụ ngôn. Vườn nho thường có hàng rào làm bằng hàng rào gai dầy để ngăn chặn heo rừng vào phá và kẻ trộm có thể vào ăn trộm nho. Mỗi vườn nho đếu có hầm ép rượu gồm hai cái chậu đục từ đá hay xây bằng gạch, cái này đặt cao hơn cái kia và nối với nhau bằng hai cái rãnh. Nho được ép từ chậu cao sẽ chảy xuống chậu thấp. Cái tháp trong vườn được dùng cho hai mục đích. Nó dùng làm chòi canh kẻ trộm khi mùa nho chín và làm chỗ ở cho người làm việc trong vườn nho.
Những người có nhiều đất thì thường đem đất đai cho mướn, giống như ở Việt nam xưa cho tá điền phát canh thu tô. Tiền cho mướn phải trả bằng ba cách: bằng tiền, bằng số trái cây nhất định hoặc bằng số bách phân của hoa mầu.
Hành động của những người trồng nho mướn cũng không phải là việc bất thường. Trong thời Chúa Giêsu, xứ Palestine ở vào thời kinh tế bất ổn, người làm công bất mãn và làm loạn. Hành động của những tá điền tìm giết con chủ vườn không phải là chuyện không xẩy ra.
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn những người làm vườn nho giết người, để trình bầy về sự tương phản giữa tình yêu của Thiên Chúa với sự độc ác của những kẻ bất trung vô ơn bội nghĩa với tình thương yêu ấy.
Theo từng chi tiết, vườn nho ám chỉ Nước Thiên Chúa hay là Nước Trời được trao cho dân Do thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo, là những người đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là các tiên tri, những sứ giả được Thiên Chúa sai đến đều bị ngược đãi hoặc bị giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, Nước Thiên Chúa được chuyển sang cho một dân tộc khác là Hội thánh, một dân phổ quát và Công giáo, sẽ lan tràn trên khắp thế giới.
Ý nghĩa câu chuyện thật rõ ràng đối với thính giả Do thái thời Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã chọn người Do thái làm dân riêng của Ngài, đã ban cho họ mọi sự có thể, nhưng họ bác bỏ và giết chết các tiên tri của Thiên Chúa và đóng đinh chính Con của Ngài chết trên thập giá.
Rồi Thiên Chúa kêu mời những người Do thái, là chúng ta đây, làm những tá điền mới trong vườn nho của Ngài, làm công dân mới trong Nước Thiên Chúa. Cũng vậy, chúng ta phải làm sinh hoa lợi, phải nộp một loại “tiền thuế”, một loại “dịch vụ”, một loại “nợ” về ân huệ gia nhập dân Chúa.
Đọc dụ ngôn này, chúng ta có thể rút ra được mấy bài học để thực hành trong đời sống hằng ngày:
– Lòng yêu thương và kiên nhẫn của Thiên Chúa.
– Sự tự do của con người trong cuộc sống.
– Phải sinh hoa trái tốt trong đời sống.
Suy nghĩ về thái độ của ông chủ vườn nho đối với các tá điền, ta thấy chủ vườn nho đã cố gắng tới ba lần để giúp các tá điền thay đổi đường lối. Ông sai hết người đại diện này đến người đại diện khác đến với họ. Ông không đến báo thù ngay khi người đại diện ban đầu bị ngược đãi, ông cho những người tá điền hết cơ hội này đến cơ hội khác để đáp ứng đòi hỏi của ông. Khi ông thấy rằng có kiên nhẫn hơn nữa cũng vô ích, ông ta mới ra tay xét xử đám này và bắt họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Cuối cùng, ông chủ lấy lại vườn nho và trao lại cho người khác.
Thiên Chúa cũng cư xử với chúng ta y như thế. Cha chúng ta trên trời vô cùng kiên nhẫn. Nhưng rồi sẽ đến lúc sự kiên nhẫn của Chúa sẽ nhường bước cho sự xét xử. Và chúng ta cũng sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Ông chủ vườn nho đã sắp xếp mọi thứ: có hàng rào, có hầm ép rượu và tháp canh để giúp cho công việc được dễ dàng. Ông chủ không những giao công việc để làm, mà còn giao phương tiện để làm nữa. Ông chủ vườn để những người tá điền làm công việc theo sở thích của mình và chỉ đòi họ canh tác để đến mùa thu hoa lợi, chứ không phải là người độc đoán, ông như một vị chỉ huy khôn ngoan trao công tác rồi để cho họ làm.
Điều này nói lên ông chủ tín nhiệm các tá điền. Nhưng có những tá điền không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do ông chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tin của ông chủ. Những người tá điền cố tình thực hiện kế hoạch chống lại và không vâng phục chủ mình.
Mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho, là những ơn phúc và chúng ta có bổn phận đem hoa lợi về cho Chúa. Ngài để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm.
Tất cả mọi cái chúng ta có là do Chúa mà có, ngay cả con người chúng ta, mạng sống chúng ta. Chúng ta phải nói như thánh Phaolô:”Tất cả là hồng ân”. Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đặt một câu hỏi khiến mọi người chúng ta phải suy nghĩ:”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận” (1Cr 4,7).
Thật vậy, những ân phúc Chúa ban như những tài năng tinh thần, những của cải vật chất, chúng ta phải biết xử dụng để sinh lợi tối đa, tức là chúng ta phải làm việc và làm lợi cho Chúa. Mỗi người Chúa ban cho một vốn liếng khác nhau không ai giống ai: người mười nén, người năm nén, người một nén… nhưng tất cả đều giống nhau ở chỗ là phải cố gắng làm sinh lời tùy theo sức của mình. Chúa chỉ đòi chúng ta cố gắng chứ không đòi kết quả.
Tóm lại, tất cả đều do Chúa ban. Chúng ta đúng là một vườn nho được Chúa chăm sóc ân cần.
Chúa chờ đợi gì nơi ta?
Chúa muốn chúng ta nhận biết tất cả là bởi Chúa. Thế mà chúng ta vô tình coi những thứ đó là của riêng ta. Như thế, chúng ta cũng giống như những tá điền muốn chiếm đoạt vườn nho của chủ. Nhiều khi chúng ta chỉ biết dùng những thứ ấy cho riêng mình mà không nghĩ tới tha nhân, Giáo hội và xã hội.
Ngoài ra, trong việc làm sinh hoa kết quả trong đời sống, tâm lý thông thường con người ta là muốn làm việc lớn, được nhiều lợi nhuận, được nhiều người biết đến. Nhưng trước mặt Chúa, mọi việc dù lớn dù nhỏ không quan hệ, miễn là chúng ta làm việc cho Chúa, vì Chúa và làm hết khả năng của mình.
Trong cuộc sống của chúng ta, chẳng mấy khi có việc lớn mà chỉ là những việc nhỏ, nhưng trung thành chu toàn được những việc nhỏ lại là việc khó như ngạn ngữ La tinh có câu: “Communia, non communiter”: làm công việc tầm thường nhưng bằng một cách phi thường. Thánh Têrêsa Hài đồng đã làm gương cho chúng ta về vấn đề này.
Không ai có thể làm việc lớn cho Chúa nếu trước hết không làm những việc nhỏ cho Ngài. Nếu không trung thành trong những việc nhỏ thì không ai tin tưởng mà trao cho chúng ta việc lớn hơn. Kinh thánh nói:”Ai trung thành trong việc nhỏ mọn cũng sẽ trung thành trong việc lớn” (Mt 25,21; Lc 19,17)
Truyện: Vị thiên thần dễ tính.
Ngày kia, có hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền năng của Thiên Chúa. Vị thiên thần đồng ý. Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện:”Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có sức làm những việc thông thường”. Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng với những thành công đã đạt được. Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt xa lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa. Rồi sau cùng sức khỏe cũng giã biệt chàng, thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi sức khỏe ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.
Ngược lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tốt những việc bình thường. Vị thiên thần cũng đồng ý và nhắn thêm:”Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào đặc biệt để hoàn thành những việc phi thường đâu”. Chàng bình thản tiếp tục sống cuộc đời mình, hằng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương thiện, một người chồng chung thủy, một người cha hiền tận tụy với con cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm thấy đời mình thật ý nghĩa, thật vui tươi và hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.
Biết nhìn ra những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống, con người mới có khả năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ. Từ đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá trị của bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân (Phạm Văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng CN, năm A, tr 212-213).
Ta nhắc lại một lần nữa lời thánh Phaolô:”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận”(1Cr 4,7). Phải, tất cả những gì ta đang có là do ta lãnh nhận từ tay Chúa, một cách trực tiếp hay gián tiếp. Nhưng không chỉ nhận, ta còn phải biết cho, bởi vì, trên căn bản, ta nhận không phải chỉ cho riêng mình mà còn cho người khác nữa.
Con sông chỉ nhận nước vào mà không cho nước thoát ra thì không thể nhận thêm nước được, nó sẽ trở thành cái ao tù. Nó phải phân phối nước đi thì nó mới trở nên trong sạch được bằng cách nhận thêm nước khác. Nước Biển Chết là một thứ nước mặn chát, hôi thối vì chỉ nhận nước tư các sông chảy vào mà không có lối thoát ra, không phân phát cho cho các nhánh khác.
Có một mối tương quan biện chứng giữa nhận và cho: đã nhận thì phải cho đi, cho đi thì mới nhận vào được, nếu chỉ nhận mà không cho đi thì bị tắc nghẽn. Con người cũng thế, nếu chỉ biết nhận lãnh cho mình mà không biết chia sẻ cho nguời khác thì người đó chỉ biết co cụm lại, thay vì làm giầu thì chỉ làm cho mình nghèo đi. Những người chỉ biết co cụm lại không thông ra cho người khác thì không bao giờ có niềm vui vì người ta chỉ có thể có niềm vui khi mở lòng ra với người khác.
Truyện: Không biết chia sẻ.
Một người nghèo nọ được thần tài gõ cửa, nên không mấy chốc căn nhà của anh bỗng rộn lên tiếng cười của vợ con, họ hàng và láng giềng. Một cuộc sống xứng với nhân phẩm hơn đó là điều mà con người may mắm này đã cảm nhận được.
Tuy nhiên, may mắn nào cũng kéo theo những đòi hỏi, đòi hỏi thách thức nhất của người nghèo bỗng nhiên trở thành giầu có là: hãy chia sẻ với người khác. Không mấy chốc, bà con họ hàng từ các nơi đổ xô về căn nhà nghèo nàn của anh để xin giúp đỡ, trước là nhận họ sau là nhận hàng, đó là thói thường của người đời.
Kẻ trúng số hiểu được các tâm lý thông thường ấy, lúc đầu được thúc đẩy bởi lòng quảng đại, ông không ngần ngại chia sớt cho mọi người. Nhưng dần dà con số người đến xin giúp đỡ ngày càng gia tăng, cho đến một lúc cuộc sống riêng tư và êm ấm của gia đình hầu như bị xáo trộn triền miên. Người đàn ông không còn đủ kiên nhẫn nữa.
Một hôm, ông đề nghị với vợ:
– Hay là ta dọn đi một nơi khác.
Người vợ lắc đầu bảo:
– Mình có đi đâu thì thiên hạ cũng tìm tới.
Nhưng người chồng giải thích:
– Mình sẽ đi đến một chỗ không ai biết, mình sẽ đổi tên đổi họ, cũng không cho ai biết mình sẽ đi đâu, và sẽ cố gắng sống một cách đơn giản để không ai để ý đến mình nữa, ngay cả mấy đứa nhỏ cũng không cho biết mình đã trúng số.
Người vợ thắc mắc:
– Còn tiền bạc thì mình để ở đâu?
Chồng trả lời dứt khoát:
– Mình sẽ đem chôn giấu, mình sẽ sống như thể không hề trúng số, chỉ đem ra dùng khi nào cần thiết mà thôi.
Thế là cả gia đình đã dọn đến một nơi khác như dự kiến: họ lén lút ra đi nên không ai biết, tiền bạc đem chôn cất, con cái còn quá nhỏ nên không biết việc gì đã xẩy ra, họ sống nghèo nàn trong một khu ổ chuột. Ngày qua ngày, chính họ cũng quên rằng mình đã có lần trúng số, và khi họ chết thì tất cả mọi tài sản đều mất hết. Họ quên cả việc viết chúc thư cho con cái để trao lại tài sản cho chúng.
Câu chuyện ngụ ngôn trên đây nhắc cho chúng ta lời khuyên của Chúa Giêsu:”Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho đi nhưng không”. Tất cả những gì Chúa ban cho ta, không phải chỉ dành cho riêng mình nhưng còn phải cho kẻ khác nữa. Chúng ta chỉ có được niềm vui khi chúng ta biết mở lòng ra với người khác. Còn niềm vui nào lớn hơn khi niềm tin được sinh lợi bằng những hoa trái của yêu thương, của phục vụ. Còn niềm vui nào lớn hơn khi chúng ta cảm nhận được Chúa đang đến qua từng cố gắng sống niềm yêu thương chia sẻ của chúng ta mỗi ngày trong cuộc sống.
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn và cũng là một ám ngôn, vì vừa hình dung vừa diễn tả sự thật, vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri. Vườn nho ám chỉ nước Chúa, được trao cho dân Do Thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo, là những người đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là hàng loạt các ngôn sứ được Thiên Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, nước Chúa được chuyển sang một quốc gia khác là Hội Thánh, một dân phổ quát và Công giáo, sẽ lan tràn đến tất cả mọi quốc gia.
Chúng ta thấy dụ ngôn vừa có tính cách lịch sữ vừa có tính cách tiên tri, nghĩa là một đàng diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ. Đàng khác, nói tiên tri về đạo Chúa sẽ lan tràn khắp các dân không phải dân Do Thái. Hơn nữa, dụ ngôn cũng cho chúng ta thấy rõ thân thế và sứ mạng của Chúa Giêsu. Những người được sai đến trước Ngài, dù nổi tiếng đến đâu như Elia, Isaia, Giêrêmia, Gioan Tiền Hô… cũng chỉ là đầy tớ, còn Ngài mới là con trai duy nhất của Chúa Cha. Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay có nhiều điều đáng lưu ý và ghi nhớ. Sau đây chúng ta tìm hiểu một điều thôi, đó là các tá điền làm vườn nho. Bài Tin Mừng cho biết: ông chủ vừa trồng xong vườn nho, lẽ ra ông phải chăm bón để kiếm hoa lợi, nhưng ông lại cho các tá điền canh tác để đến mùa thu hoa lợi. Điều này nói lên ông chủ tín nhiệm các tá điền. Nhưng có những tá điền đã không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do ông chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông chủ. Chúng ta có thể áp dụng như sau: mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho, là những ơn phúc và chúng ta có bổn phận phải đem hoa lợi về cho Chúa. Ngài để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm.
Thực vậy, những ơn phúc Chúa ban như những tài năng tinh thần, những của cải vật chất, chúng ta phải biết sử dụng chúng để sinh lợi tối đa, tức là chúng ta phải làm việc và làm lợi cho Chúa. Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn liếng khác nhau về nơi chốn, thời gian, khả năng, dịp tiện. Mỗi người, không ai giống ai cả, nhưng ai cũng phải làm lợi ra với số vốn liếng Chúa ban. Chúng ta không giống nhau về khả năng, nhưng có thể giống nhau về cố gắng. Thà cố gắng mà không có tài còn hơn có tài mà không cố gắng làm lợi cho Chúa.
Vậy mọi người chúng ta đều có một điều giống nhau, đó là đời sống để làm việc: việc lớn, việc nhỏ. Đa số chúng ta ai cũng muốn làm việc lớn, được nhiều lợi, được người khác biết đết. Nhưng Chúa bảo chúng ta hãy làm việc nhỏ. Chúng ta cần trung tín trong việc nhỏ bé trước đã. Chỉ khi nào chúng ta làm được những việc nhỏ bé, chúng ta mới có khả năng làm những việc lớn lao hơn. Những việc nhỏ chính là nấc thang đưa tới thành công lớn. Không ai có thể làm việc lớn cho Chúa nếu trước hết họ không làm được những việc nhỏ cho Ngài. Nếu chúng ta không trung thành trong việc nhỏ thì không ai tin tưởng trao cho chúng ta việc lớn hơn. Chúng ta hãy nhớ: không có việc gì quá nhỏ mà không đáng làm, và cũng không có việc gì quá nhỏ mà không đem lại lợi ích. Vấn đề là chúng ta có chịu làm hay không.
Có một câu chuyện ngụ ngôn, với tựa đề là “vị thiên thần dễ tính” kể lại như sau: Ngày kia, có hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền vạn năng của Thiên Chúa. Vị thiên thần đồng ý. Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện: “Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có sức làm những việc thông thường”. Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng với những thành công đã đạt được. Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt xa lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa. Rồi sau cùng sức khoẻ cũng giã biệt chàng, thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi sức khoẻ ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.
Ngược lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tới những việc bình thường. Vị thiên thần cũng đồng ý và nhắn thêm: “Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào đặc biệt để hoàn thành những việc phi thường đâu”. Chàng bình thản tiếp tục sống cuộc đời của mình, hằng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương thiện, một người chồng chung thuỷ, một người cha hiền tận tuỵ với con cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm thấy đời mình thật ý nghĩa, thật vui tươi và hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.
Biết nhìn ra những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống, con người mới có khả năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ. Từ đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá trị của bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Tóm lại, chúng ta hãy siêng năng làm việc để chu toàn bổn phận của mình. Chúng ta hãy tận dụng tài năng, sức lực, thời giờ, của cải Chúa ban để xây dựng sự nghiệp đời này và sự nghiệp đức tin trên nước trời.
Trước đây, có một nhân vật đã nhìn vào lịch sử nhân loại và đưa ra những con số như sau: từ năm 1496 BC, trước công nguyên, tới năm 1861 AD, trong 3358 năm, đã có 227 năm hoà bình, và 3130 năm chiến tranh. Như vậy cứ 13 năm chiến tranh, mới có một năm hoà bình. Trong ba thế kỷ, 16, 17 và 18 đã có 286 cuộc chiến xảy ra ở Âu Châu. Từ năm 1500 BC, trước công nguyên, tới năm 1860 AD, đã có hơn 8000 hiệp ước về hoà bình đã được ký kết.
Nhận xét trên đây về tình trạng của nhân loại đã được đưa ra hơn một thế kỷ rồi, chưa kể đến hai cuộc thế chiến, những cuộc chiến tranh kéo dài về ý thức hệ, chủng tộc và khủng bố ở thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Thế kỷ 20 sẽ được coi như thời đại mưu sát khổng lồ sinh mạng con người.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói dụ ngôn về vườn nho với những hành động bạo lực, bắt bớ, đánh đập, ném đá và giết người của các tá điền. Trong Cựu Ước, vườn nho là hình ảnh của dân Thiên Chúa, dân Do Thái, như đã được diễn tả trong sách tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất: “Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Irael”. Trong cái nhìn của Tân Ước, khi Chúa Giêsu nói với các thầy thượng tế và kỳ lão rằng: “Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái”. Chúng ta phải nghĩ đến hình ảnh vườn nho là cả nhân loại, gồm tất cả mọi dân tộc trên thế giới.
William Barclay đã cắt nghĩa dụ ngôn những tá điền sát nhân trong ba chiều hướng: chủ vườn nho là Thiên Chúa, những tá điền làm thuê là những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái, những người đầy tớ và con trai ông chủ là những sứ giả, các tiên tri và Chúa Giêsu Kitô.
Thiên Chúa trong vai trò ông chủ vườn nho rất tin tưởng vào những tá điền để trao cho họ sứ mạng trông coi vườn nho. Ngài rất kiên nhẫn và bao dung, gửi các tiên tri và sứ giả đến qua bao nhiêu thế kỷ để nhắc nhở và khuyên bảo, nhưng cũng đã bị đối xử tàn bạo. Sau cùng, Ngài gửi chính con trai đến, rồi cũng bị giết chết. Đến lúc này mới là phán quyết của Thiên Chúa trao vườn nho lại cho các dân tộc khác.
Những người tá điền làm vườn nho trong bài Phúc Âm là những người bạo lực và ích kỷ. Họ đã giết bao nhiêu sứ giả và các tiên tri của Thiên Chúa gửi đến kêu gọi xây dựng một xã hội hoà bình, công chính và thương yêu.
Họ là những ai trong thời đại chúng ta? Họ là những chủ nhân làm giầu qua việc sản xuất vũ khí tối tân, thúc giục chiến tranh trên thế giới thay vì giúp đỡ những quốc gia kém mở mang chống lại nghèo đói, bệnh tật và bất công. Họ nâng đỡ những chế độ độc tài để bóc lột dân chúng vì quyền lợi riêng tư của họ. Họ là những chủ nhân bóc lột sức lao động của công nhân với tiền lương rẻ mạt ở những nước kém phát triển…
Năm 1492, Columbus thả buồm ra biển khơi. Ông đã cập vào quần đảo của người Hispaniola, giữa Cuba và Puerto Rico, với dân số 100.000 người. Thổ dân da đỏ niềm nở ra chào đón những nhà thám hiểm của Phương tây. Columbus đã nhìn thấy họ đeo những nữ trang bằng vàng và báo cáo cho vua Ferdinand biết rằng vũ khí của thổ dân này rất đơn sơ, chỉ cần một nhóm lính Tây Ban Nha được trang bị vũ khí cẩn thận, cũng có thể bắt ép họ làm nô lệ trong những mỏ vàng để phục vụ cho ngân khố của Tây Ban Nha. Trong 15 năm, sự cai trị của Tây Ban Nha đã làm giảm dân số của người Hispaniola từ 100.000 xuống còn 15.000 người. Những việc lao nhọc dã man đã đè nặng trên những người nô lệ của Tân Thế Giới này là một hình thức diệt chủng tàn bạo phát xuất từ những nền văn minh trọn hảo. Những người lính phục vụ trung thành đã kiếm được rất nhiều tài sản và đồn điền.
Một ngày kia, chàng thanh niên tên là Bartolomeo de las Casas đã nghe một bài giảng của linh mục dòng Đaminh. Ngài đã nói những sự đối xử tàn bạo đó đối với người khác là ghê tởm, trái với đạo lý của Kitô giáo. Những người địa chủ Tây Ban Nha cười nhạo ngài, nhưng de cas Casas đã ăn năn trở lại. Anh trao trả tự do cùng với đất đai cho những người nô lệ. Sau này, anh đi tu trở thành linh mục, và lễ thụ phong của linh mục Bartolomeo là thánh lễ truyền chức đầu tiên ở Tân thế Giới.
Bartolomeo phục vụ như một linh mục của những người cai trị Tây Ban Nha, nhưng ngài rất thương mến những người thổ dân da đỏ. Ngài nói rằng những hạt lúa mì đã được trồng xuống, chăm nom, và gặt hái bởi những người nô lệ đã tạo nên tấm bánh được bẻ ra trong Bí tích Thánh Thể. Khi ngài bẻ bánh, ngài nhìn thấy máu của những người nô lệ chảy xuống.
Qua bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải trở nên những người đầy tớ của Thiên Chúa. Phải xây dựng vườn nho bằng tình yêu thương và sự hy sinh chính thân mình cho tha nhân, như chính Ngài đã cầm lấy tấm bánh bẻ ra và nói: “Hãy cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta”.
Để xây dựng trật tự xã hội phải lấy chính nhân phẩm con người như một tạo vật “giống hình ảnh của Thiên Chúa” làm trọng tâm như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Chính từ giá trị con người mới phát sinh ra giá trị xã hội, chứ không phải từ giá trị xã hội mà có giá trị con người”.
Phải trở về với những giá trị Kitô giáo để kiến tạo hoà bình. Một tác giả tôi không nhớ tên đã khuyên rằng: “Những giá trị giống như những dấu tay. Không ai giống nhau. Nhưng bạn để lại chúng trên mọi sự bạn hành động”. Phải, thời đại này đã để lại những giá trị của mình khắp nơi trên thế giới qua những nhãn hiệu Coca-Cola, kẹo chewing-gum, sách báo phim ảnh khiêu dâm, tự do tình dục, mãi dâm, nhạc rock’n’roll, rap-talk, tiền đôla, xe hơi Cadillacs, điện thoại cầm tay, computers, phi thuyền không gian, vũ khí nguyên tử, phá thai, an tử và trợ tử… Tất cả những điều này nói lên những giá trị của thời đại văn minh hiện nay. Thật đáng tiếc! Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã gọi nền văn minh này là “văn hoá của sự chết”!
Vở ca nhạc kịch (opera) “Miss Saigon” là một bản phóng tác từ câu chuyện ngắn “Madam Butterfly” của văn sĩ John Luther Long vào năm 1898 đăng trên tạp chí “Thế Kỷ”. Một câu chuyện cũ được đưa vào trong bối cảnh của cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong màn thứ nhất, một cô gái bán bar yêu một chàng lính Mỹ GI. Họ kết hôn với nhau, thề hứa yêu thương trọn đời. Hết nhiệm kỳ, chàng bó buộc phải rời nàng trở về Mỹ, nhưng hứa sẽ trở lại khi chiến tranh chấm dứt. Nàng là một cô gái nhà quê đơn sơ, vô tội và chịu đựng. Tình yêu của nàng dành cho chàng lính Mỹ hoàn toàn vô điều kiện, yêu thương hết lòng. Chàng lính Mỹ trở về nước mà không biết rằng vợ đang mang thai, một bé trai. Nàng âm thầm dấu kín và hết sức bảo vệ người con trong khi chịu đựng mọi tủi nhục.
Màn thứ hai giới thiệu một cơ quan phục vụ nhằm đi tìm những người lính Mỹ GI, cha của những trẻ em Mỹ lai. Khi câu chuyện tiếp diễn, chàng lính Mỹ đã kết hôn lần nữa ở Mỹ. Anh rất hạnh phúc, mặc dù anh vẫn mơ ước gặp lại Miss Saigon. Nhân viên thiện nguyện tìm được anh. Anh phải nói cho vợ biết về Miss Saigon và đứa con trai. Anh và vợ cùng đi về Việt Nam để sắp xếp vấn đề cho êm thắm. Miss Saigon đã gặp vợ của anh, cô quá xúc động không nói lên lời, chỉ xin vợ anh đưa đứa bé về Mỹ và tạo cho nó một đời sống mới mà nàng không thể làm được.
Màn kết thúc, Miss Saigon mặc quần áo đẹp cho con trai nàng, một đứa bé khôi ngô tuấn tú, để trao lại cho ba nó và mẹ ghẻ. Trong giây phút lưu luyến yêu thương nhất nàng hôn con và nói “Xin con đừng quên mẹ, sau này con sẽ hiểu”. Đứa bé trai bước đi theo ba nó và mẹ ghẻ với vòng tay mở rộng. Miss Saigon biến mất sau bức màn. Đùng!!! Một phát súng đã nổ. Nàng đã tự tử chết; chàng lính Mỹ GI chạy vội vào trong, ôm nàng lên, anh rên rỉ đau khổ…
Nhà văn John Bradshaw đã nói lên phản ứng cá nhân của ông đối với vở ca nhạc kịch Miss Saigon như sau: “Thình lình, ông bật khóc nức nở trong phần kết thúc của bi kịch, ông bắt đầu xúc động vì vở kịch đưa ông vào câu chuyện yêu thương và hận thù của chính cuộc đời ông, đám cưới đổ gẫy của cha mẹ ông, nỗi đau thời thơ ấu của ông. Ông bắt đầu đồng hoá mình với đứa bé vô tội trong số phận thảm thương do cuộc tình của cha mẹ. Ông nghĩ về những người ông đã yêu, và đặc biệt là người đã bỏ ông! Ông nhớ mãi nỗi đau thương đó! Nó giống như một người nào đó đã đóng một cái đinh sắt khổng lồ vào giữa lồng ngực của ông. Chỉ trong một giây phút ông có thể cảm thấy mất thở vì đã bị từ chối…”
Ông nghĩ về thân phận đau khổ của mẹ mình. Làm thế nào người phụ nữ 26 tuổi lại có thể một thân mình nuôi được ba người con. Bà lao động vất vả để nuôi gia đình. Bà lại là một người Công giáo đạo đức. Đức tin không cho phép bà tái hôn. Từ lúc cha của Bradshaw bỏ bà ra đi, bà chưa bao giờ đụng vào một người đàn ông nào. Bradshaw nói: “Thật là một đức tin khó tả! Một lời đoan hứa cho những niềm tin. Và cũng thật đau khổ khủng khiếp khi bà bị từ chối!”
Chúa Giêsu cũng đã bị từ chối. Đây là điều bản văn Thánh Kinh đã nói với chúng ta: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta”. Chúa Giêsu đã trích lại lời Thánh Vịnh 118:22-23 để áp dụng cho chính Ngài.
Con người khi bị từ chối, bỏ rơi, thường rất tuyệt vọng và đau khổ như trong trường hợp của Miss Saigon. Chúa Giêsu cũng rất đau khổ, nhưng không tuyệt vọng. Trong cùng một hoàn cảnh giống như con người nhưng Ngài đã tìm thấy niềm hy vọng. Chúa Giêsu Đấng đã bị từ chối, nhưng đã trở nên Đấng Cứu Thế. Và Thánh Kinh kết luận: “Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta”.
Đây chính là điểm mang lại niềm hy vọng cho tất cả những ai có cảm giác bị từ chối, và bị loại bỏ. Nó được tìm thấy ý nghĩa trong tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa. Nó mang lại hy vọng khi chúng ta đặt tất cả sự nghi ngờ và lo sợ trên bàn thờ của Thiên Chúa và xin Ngài chữa lành những thương tích của chúng ta.
Trong cuộc sống có rất nhiều sự bất công, đôi khi họ đạp lên cả lẽ phải và sự công chính để thực hiện mưu đồ điều ác của mình. Hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta về người chủ nhà làm mọi cách có thể để vườn nho của ông sản xuất trái nho. Rồi ông giao cho tá điền thuê, nhưng kết quả là một sự thiệt hại về cả vật chất lẫn tinh thần. Nó được thể hiện rỏ nhất khi chủ nhà sai những đầy tớ đến thu phần hoa lợi, thì những tá điền bắt các đầy tớ mà đánh đập và giết chết. Không những thế, khi chủ nhà lại sai chính con ông thì họ cũng giết cậu. Rồi Chúa Giêsu tuyên bố rằng ông chủ nhà sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và cho những tá điền khác thuê vườn nho mà họ biết chia phần hoa lợi.
Bài học trong câu chuyện thật dễ hiểu đối với thính giả thời Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã chọn người Do Thái làm dân riêng của Ngài, đã ban cho họ mọi sự có thể, nhưng họ bác bỏ và giết các sứ giả của Thiên Chúa và đóng đinh chính con của Ngài chết trên thập giá.
Ngày hôm nay, có nhữngtá điền mới trong vườn nho của Ngài, những công dân mới trong nước Thiên Chúa đó chính là chúng, những người được lựa chọn, những người được mời gọi. Cũng vậy, chúng ta phải làm sinh hoa lợi, phải trả một loại “tiền thuê”, một loại “dịch vụ”, một loại “nợ” về ân huệ gia nhập dân Thiên Chúa. Những gì Thiên Chúa muốn không phải vì Ngài thiếu. Nhưng Ngài muốn là lòng biết ơn của ta đối với Đấng đã cưu mang, điều đó được thể hiện qua việc chúng ta tuân giữ lề luật của Ngài. Thực vậy, mọi sự mà các giới răn đòi hỏi chúng ta đều thuộc về Thiên Chúa, ngay như những hoa lợi mà chủ nhà đòi hỏi đã thuộc về của ông.
Khi Thiên Chúa trao vườn nho cho mỗi người, thì chúng ta phải có bổn phận đáp trả sao cho xứng đáng, có thể chúng ta đang là những tá điền gian ác, bất công… Chúng ta có những hành động đó vì những cám dỗ nơi của cải trần gian, danh lợi thế tục mà chúng ta bị che mờ, bị mù quang cứ lao đầu như con thiêu thân làm hết chuyện ác này đến điều ác khác
Các giới răn là tiền lương, tiền thuê, tiền thuế, nếu bạn muốn gọi là thế, mà chúng ta phải trả cho bổn phận trong nước Thiên Chúa. Ở đây, bây giờ, bạn hãy xin Ngài giúp bạn thi hành sự trả nộp đó, nghĩa là tuân giữ các lệnh truyền của Ngài với lòng biết ơn và yêu mến.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra mình đang là những ta điền trong vườn nho của Chúa, để con biết được thân phận hèn mọn của mình mà ca tụng Chúa mỗi ngày trong đời con. Amen.
Đức Giáo Hoàng Piô X lãnh đạo Giáo hội công giáo từ năm 1904 đến năm 1914. Chúng ta kính nhớ Ngài về việc làm thăng tiến nền giáo dục công giáo, khuyến khích rước lễ lần đầu vào tuổi sớm hơn, và đời sống thánh thiện của Ngài. Ngày nay chúng ta tôn kính Ngài là thánh Piô X. Khi làm cha phó ở Tombolo, Italia, Ngài đã lưu ý đến nhiều thanh niên không biết đọc biết viết. Do đó họ không kiếm được địa vị hay công việc thích hợp. Vị giáo hoàng tương lai tuyên bố: “Chúng ta sẽ mở trường học đêm. Trường sẽ chia ra hai nhóm: một nhóm do các giáo viên địa phương hứơng dẫn, là nhóm khá hơn gồm những người đã biết đôi chút. Tôi sẽ phụ trách những người khó dạy hơn”. Các thanh niên rất thích thú, nhưng một người trong nhóm họ đã muốn biết, “làm thế nào chúng ta có thể trả chi phí về việc này?”. Vị linh mục thánh thiện giải thích: “Bạn đừng lo. Tiền học là chỗ bạn không chửi thề”.
Để tỏ cho chúng ta biết nước Thiên Chúa giống như cái gì, Chúa Giêsu vừa kể cho chúng ta về người chủ nhà làm mọi cách có thể để vườn nho của ông sản xuất trái nho. Rồi ông giao cho tá điền thuê. Khi chủ nhà sai những đầy tớ đến thu phần hoa lợi, thì những tá điền bắt các đầy tớ mà đánh đập và giết chết. Chủ nhà lại sai chính con ông thì họ cũng giết cậu. Rồi Chúa Giêsu tuyên bố rằng ông chủ nhà sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và cho những tá điền khác thuê vườn nho mà họ biết chia phần huê lợi.
Ý nghĩa câu chuyện thật rõ ràng đối với thính giả thời Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã chọn người Do thái làm dân riêng của Ngài, đã ban cho họ mọi sự có thể, nhưng họ bác bỏ và giết các sứ giả của Thiên Chúa và đóng đinh chính con của Ngài chết trên thập giá.
Rồi Thiên Chúa kêu mời những người ngoài Do thái, là bạn và tôi, làm những tá điền mới trong vườn nho của Ngài, làm công dân mới trong nước Thiên Chúa. Cũng vậy, chúng ta phải làm sinh hoa lợi, phải trả một loại “tiền thuê”, một loại “dịch vụ”, một loại “nợ” về ân huệ gia nhập dân Thiên Chúa. Những thanh niên trong câu chuyện cảm thấy họ hàm ơn linh mục trẻ, thánh Piô X tương lai, vì họ được làm thành viên trong lớp học của Ngài. Tất cả điều Ngài đòi hỏi là họ không được kêu tên Chúa vô cớ. Trong khi làm cho chúng ta nên thành viên của nước Ngài, thì tất cả điều Thiên Chúa đòi hỏi là chúng ta tuân giữ lề luật của Ngài. Thực vậy, mọi sự mà các giới răn đòi hỏi chúng ta đều thuộc về Thiên Chúa, ngay như những hoa lợi mà chủ nhà đòi hỏi đã thuộc về của ông.
Trong giới răn thứ nhất, Thiên Chúa đòi hỏi phải tôn thờ sùng phụng. Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa ngay chính và qua thánh lễ này. Đấng tối cao có quyền đòi hỏi tôn vinh Ngài. Một ngày trong tuần đòi hỏi tôn vinh Thiên Chúa, Ngài đòi hỏi thánh hóa ngày đó như phần đền đáp lại của bổn phận trong nước Ngài. Thiên Chúa đã giao quyền bính cho cha mẹ và thầy dạy chúng ta. Bởi vì các Ngài thay mặt Chúa nên các Ngài đang được chia sẻ cho một số người được quyền năng tạo dựng những con người mới. Đấng tối cao che chở bảo vệ phái tính. Mọi của cải tùy thuộc Thiên Chúa. Trộm cắp là lấy mất cái gì nơi Thiên Chúa.
Các giới răn là tiền lương, tiền thuê, tiền thuế, nếu bạn muốn gọi là thế, mà chúng ta phải trả cho bổn phận trong nước Thiên Chúa. Ở đây, bây giờ, bạn hãy xin Ngài giúp bạn thi hành sự trả nộp đó, nghĩa là tuân giữ các lệnh truyền của Ngài với lòng biết ơn và yêu mến.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Có một bản tin gây nhiều xúc động, đó là: một thanh thiếu niên phạm pháp được trả tự do lạm thời, nhờ hạnh kiểm tốt trong thời gian bị giam tù. Vì không còn cha mẹ, nên em này được một người trong vùng nhận làm con nuôi và em được đối xử tốt đẹp như năm người con khác trong gia đình, không chút kỳ thị phân biệt. Cha mẹ nuôi cũng như anh chị em mới trong gia đình cố gắng làm hết mọi sự để giúp em cảm nhận được tình yêu thương chân thành trong gia đình mới.
Một hôm, em được phép cha mẹ cho đi tham dự buổi tiệc sinh nhật của người bạn với lời nhắn nhủ là “hãy trở về nhà trước 11 giờ khuya”. Nhưng 11 giờ, rồi 12 giờ và 1 giờ sáng mà em vẫn chưa về. Mọi người trong nhà đã đi ngủ, chỉ trừ cha mẹ nuôi của em canh thức đợi em về với nhiều lo tắng, cuối cùng 2 giờ sáng em mới về tới nhà. Không một lời giải thích hay xin lỗi cha mẹ nuôi gì cả, nhưng phần cha mẹ nuôi chỉ trách nhẹ em một câu: “Này con, lần sau con ráng về đúng giờ để cha mẹ không phải lo lắng đợi chờ con nữa”.
Sáng hôm sau, khi mọi người trong gia đình kẻ đi làm người đi học, chỉ còn lại mẹ nuôi ở nhà, và bất ngờ, người thiếu niên này dùng một khúc sắt từ sau lưng tiến lại đập đầu người mẹ nuôi của em. Trước toà án, em không chút hối hận và người cha nuôi của em trong cơn đau khổ tột cùng chỉ thốt lên một lời: “Nó đã giết chết người vợ thân yêu của tôi. Đây là một hành động vô ơn tột cùng”.
Sự việc trên có thể giúp chúng ta phần nào hiểu thấu được dụ ngôn: “Người tá điền và vườn nho” được nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là thái độ vô ơn tột cùng của những người giữ vườn nho đáng trách, họ đã khước từ và giết hại những người làm mà ông chủ sai đến, rồi cuối cùng họ cũng giết chết luôn cả người con của ông chủ.
Thái độ vô ơn tột cùng này cũng là một lời cảnh tỉnh cho mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay, qua đó nhắc nhở chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình đối với Thiên Chúa. Như ông chủ vườn nho, Thiên Chúa nhân lành luôn thông cảm và tha thứ những lỗi tầm của chúng ta, một khi chúng ta biết trở về với Ngài.
Mặt khác, Thiên Chúa trao cho chúng ta công việc chăm sóc vườn nho của Ngài, để chúng ta làm trổ sinh hoa trái tốt đẹp. Hơn nữa, Ngài đã không ngừng sai những sứ giả của Ngài đến để nhắc nhở chúng ta tích cực chăm sóc vườn nho cho Ngài. Vì thế chúng ta phải có bổn phận biết ơn là dâng lại cho Ngài những điều tốt đẹp, những chùm nho ngon ngọt của việc làm tốt mà chúng ta phải thực hiện trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng, có thể thay vì dâng cho Ngài những chùm nho ngon ngọt, thì chúng ta lại có những thái độ thù nghịch chống lại Ngài, chống lại Thiên Chúa, chống lại những sứ giả mà Ngài đã sai đến với chúng ta.
Vậy, thử hỏi còn điều gì có thể làm được cho con người mà Thiên Chúa đã không làm để cứu rỗi, để hướng dẫn và ban hơn nữa cho chúng ta hay không?
Chính Ngài đã sai Con Một Ngài đến cứu rỗi chúng ta, và hy vọng con người sẽ không giết hại Con Ngài, nhưng sẽ tắng nghe lởi Người: “Đây là Con Ta yêu dấu, các người hãy vâng nghe lời Ngài”.
Thật thế những kẻ vô tâm, bất nhân bất nghĩa đã làm việc bất nhân, thay vì dâng lời cảm lạ Thiên Chúa thì lại giết chết Con Thiên Chúa, giết chết người ân nhân vĩ đại của cuộc đời mình. Xin Chúa ban ơn biến đổi cho mỗi người chúng ta, giúp chúng ta luôn biết tắng nghe liếng Chúa trong mọi hoàn cảnh sống của cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ khẩn cầu Chúa ban cho mỗi người chúng con được bắt chước gương sống của Mẹ: Khiêm tốn, vâng phục, chấp nhận thưa “xin vâng” với Chúa trong mọi nghịch cảnh của cuộc đời: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Ngài truyền”. Nhất là chúng con xin Mẹ giúp cho mỗi người chúng con luôn luôn sống trong thái độ biết ơn Thiên Chúa, cố gắng hết mình để làm vườn nho mà Ngài đã trao phó cho mỗi người chúng con, để cây nho được trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp. Xin Thiên Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
Dân Do-thái khi đã an cư lạc nghiệp nơi vùng Đất Hứa, họ gia công làm việc để gầy dựng cuộc sống. Chấm dứt thời gian lữ hành ăn Manna, thịt chim cút và uống nước suối. Giữa vùng đất sỏi đá, họ đã dùng sức lao động để chuẩn bị những mảnh vườn trồng nho mầu mỡ. Có lẽ nhiều người trong chúng ta không quen thuộc với hình ảnh vườn nho, dàn nho hay cây nho nặng trĩu trái ngọt. Tiên tri Isaia ví von dân Do-thái như vườn nho được chăm tưới: Người rao giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn và trông mong nó sinh qủa nho nhưng nó lại sinh toàn nho dại (Is 5, 2). Người chủ trồng loại nho tốt trong vườn, nhưng kết qủa dàn nho chỉ sinh ra toàn trái nho dại.Isaia ngụ ý nói về đời sống bất trung của dân Do-thái. Một dân tộc được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc và bảo vệ ân cần, nhưng rồi dân chúng chứng nào cứ tật đó. Họ đã từ bỏ giáo huấn của Chúa để chạy theo lối sống của các dân ngoại.
Đọc qua lịch sử của dân Do-thái, chúng ta nhận biết họ là một dân tộc rất thông minh, ưu tú và giầu có. Họ đã trải qua biết bao thăng trầm để kiến thiết đất nước. Các dân tộc chung quanh luôn quấy phá, nên chẳng mấy khi dân chúng được sống trong yên hàn. Xưa kia, Thiên Chúa đã hứa ban cho họ một dòng dõi đông đúc và trường tồn, nếu họ biết trung thành giữ các huấn lệnh và giữ lời giao ước. Suốt dọc lịch sử của hơn một ngàn năm trước Đấng Cứu Thế xuất hiện, họ đã bị lưu đầy xa xứ nhiều lần, làm nộ lệ cho ngoại bang và thành thánh bị phá đổ tan hoang. Chúa vẫn yêu thương và kiên nhẫn qui tụ họ lại như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh. Thời gian tín trung chẳng kéo dài được bao lâu, họ lại buông bỏ rời xa Chúa. Hậu qủa của sự bất trung: Giờ đây ta tỏ bày cho các ngươi biết ta sẽ làm gì đối với vườn nho ta; Ta sẽ phá hàng rào, để nó bị tàn phá, sẽ phá tường để nó phải bị gầy đạp (Is 5, 6). Dân lại bịlưu đầy tản mác, không phải chỉ trong thời của tiên tri Isaia, nhưng vận số kéo dài cho đến ngày nay. Chẳng mấy khi quê hương xứ sở nước Do-thái được sống trong an bình.
Tiên tri Isaia diễn tả tâm tình của người chủ đau buồn vì bị con cái từ chối và làm cho thất vọng. Như cha mẹ đã rên siết trong lời than van mà Isaia đã thốt lên: Nào còn việc gì phải làm cho vườn nho ta, mà ta không làm? Không có sự buồn phiền sầu não nào hơn là bị bỏ rơi. Như gươm sắc thâu qua trái tim và ghi hằn vết sâu thương tích. Tiên tri đã diễn tả sự vô ơn của một đoàn dân đã hưởng nhờ biết bao ơn lành phước lộc, nhưng đã không sinh ra được hoa qủa mong muốn. Như Giáo hội mẹ cũng mang nhiều tâm tư sầu khổ khi thấy con cái mình thơ ơ lãnh đạm trong việc sống đạo và hành đạo. Nhiều Kitô hữu không còn là muối là men để ướp đời, nhưng đã bị đời ô nhiễm làm biến chất không sinh hoa qủa tốt lành.
Câu truyện dụ ngôn trong bài phúc âm hôm nay tường thuật về việc ông chủ vườn nho cho các tá điền thuê để kiếm hoa lợi. Một vườn nho được chuẩn bị kỹ lưỡng và xếp đặt đầy đủ các phương tiện để giúp thu hoặch mùa màng tốt. Tá điền là những người làm công quản lý gia sản của chủ. Họ đã gian tham lạm dụng sự tin tưởng của ông chủ để làm những việc thất đức. Người làm vườn đã xua đuổi, giết chóc và hãm hại các đầy tớ của chủ được sai đến để thu phần hoa lợi. Vì ác tâm, họ đã giết cả người con thừa tự. Họ tìm cách tiêu diệt tất cả hậu duệ để chiếm đoạt gia sản. Họ đã vào hùa với nhau: Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em, chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó (Mt 21, 38). Lời Chúa trong dụ ngôn này đã động chạm tới các thượng tế và kỳ lão trong dân, vì họ hiểu rằng Chúa Giêsu đang ám chỉ tới cách cư xử thất trung của họ và cha ông họ đối với các tiên tri xưa.
Chúa Giêsu tóm lược sự thất nghĩa của dân tộc Do-thái qua câu truyện dụ ngôn ngắn. Đúng thế, không tiên tri nào được quí trọng nơi quê hương xứ sở của mình. Hầu hết các tiên tri chịu chung một số phận là bị ghét bỏ, đánh đập, xua đuổi và bị giết hại. Chúa Giêsu là vị tiên tri cao cả và là Con Thiên Chúa, rồi đây họ cũng không tha. Nhưng dù họ có loại bỏ và giết đi, Chúa Kitô đã trở nên viên đá góc của tất cả mọi niềm tin và hy vọng. Chúa Giêsu phán: Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh: Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc, đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta (Mt 21, 42). Đá góc quan trọng nối hai bờ tường lại giáp mối với nhau. Chúa Giêsu là trung gian kết hợp con người trong yêu thương.
Trên thế giới hiện nay, có tổng cộng trên 2.18 tỉ Kitô hữu trong mọi tầng lớp. Ba nhóm Kitô hữu đông nhất là Giáo Hội Công Giáo, Tin Lành và Chính Thống Giáo Đông Phương. Có trên 1.09 tỉ người là Công Giáo, nửa số Kitô hữu còn lại cũng đều tin vào Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ. Giống như muôn hoa đua nở, có rất nhiều giáo phái khác nhau trong cùng một niềm tin. Các giáo phái thuộc các tôn giáo luôn củng cố và phát triển mỗi ngày vững mạnh hơn. Sự đối thoại liên tôn giúp các phe nhóm trong các Giáo Hội sát gần lại với nhau hơn. Tuy có nhiều khác biệt về tổ chức, chủ trương, cách hành lễ và thực hành đạo, nhưng chung qui về một tảng đá góc, đó là Chúa Giêsu Kitô. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhận định để trả lời cho đại diện của nhóm những người Tin Mừng rằng: “Tôi không quan tâm tới việc cải đạo những anh chị em Tin Mừng qua đạo Công Giáo. Tôi muốn người ta tìm được Chúa Giêsu ngay trong cộng đồng của họ. Hiện có rất nhiều đạo lý mà chúng ta không thể nhất trí với nhau được. Nhưng chúng ta hãy để ý tới việc biểu lộ tình yêu của Chúa Giêsu.”
Một thực tế là niềm tin và cuộc sống con người khó thay đổi để trở nên một, nhưng vẫn có thể hiệp nhất với nhau trong Chúa Kitô.Cách tốt nhất là chấp nhận nhau và thăng tiến mỗi ngày để giúp nhau sống tốt hơn.Chúng ta không thể đi ngược lại thời gian. Giáo Hội trải qua rất nhiều giai đoạn thăng trầm trong cơ cấu tổ chức. Niềm tin vào Chúa Kitô được tỏ bầy dưới nhiều hình thức rất đa dạng. Mỗi người được mời gọi vào làm vườn nho cho Chúa. Lúc nào vườn nho cũng cần được vun xới để sinh hoa kết qủa tốt. Mỗi chúng ta đều là tá điền có bổn phận chăm lo một phần nhỏ trong vườn nho nhà Chúa. Khi mùa thu hoặch đến, chúng ta hy vọng sẽ thu phần hoa lợi tốt qua đức bái ái yêu thương và biết chia sẻ cuộc sống. Dụ ngôn về các tá điền thách đố chúng ta tiếp tục trung thành làm việc trong vườn nho Chúa, đừng để bị thất vọng. Chúng ta sẽ cung cấp những hoa trái tốt lành bằng gương sáng trong cuộc sống.
Thánh Phaolô khuyến khích chúng ta đặt niềm tin tưởng vào Chúa Kitô trong khi cầu nguyện. Không thể cậy dựa vào sức riêng của mình, nhưng với ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta sẽ gặt hái được nhiều thành qủa trong đời sống tâm linh: Anh em thân mến, anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ (Phil 4, 6). Đừng lo lắng nhưng hãy phó thác vào sự quan phòng của Chúa. Chúa tiếp tục dẫn dắt lịch sử nhân loại. Thiên Chúa đã gieo những hạt giống tốt vào tâm hồn của chúng ta, Ngài mong mỏi hạt giống sẽ sinh ra nhưng bông hạt quí báu. Đừng để sinh ra những trái nho chua vô bổ của sự hiềm thù, ganh ghét, ích kỷ và vô ơn.
Lạy Chúa, chúng con là môn đệ, là tá điền và là chứng nhân của Chúa, xin cho chúng con biết nỗ lực tiến bước và làm phát sinh những hoa qủa tốt là lòng bao dung, sự quảng đại, yêu thương và tha thứ.
Chuyện ngụ ngôn “Lừa và Sói” kể rằng: Một hôm, lừa đang gặm cỏ, bỗng thấy Sói phi nước đại phóng tới. Lừa giả bộ đi khập khiễng. Khi Sói đến gần, hỏi nó vì sao bị thọt chân, thì Lừa trả lời:
– Vừa nãy tôi nhảy qua hàng rào bị xóc gai.
Rồi Lừa đề nghị Sói trước khi ăn thịt mình hãy nhổ gai ra đã, để khỏi bị gai đâm.
Sói tin lời, Lừa giơ cao chân để Sói soi mói kỹ lưỡng các móng chân Lừa. Lừa thừa cơ đạp mạnh vào mõm Sói rồi bỏ chạy.
Sói bị gẫy hết răng ôm đầu kêu la.
– Đáng đời ta! Cha mẹ nuôi ta thành kẻ chuyên ăn thịt, chứ đâu dạy ta làm thày lang!
Nếu chuyện ngụ ngôn nào cũng cho chúng ta một bài học, thì chuyện ngụ ngôn “Lừa và Sói” muốn nói với chúng ta: Kẻ nào không làm đúng công việc của mình sẽ lãnh hậu quả bi thảm.
Tin Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn “Những người thợ làm vườn nho”. Mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa giao phó cho một vườn nho, là những tài năng tinh thần, của cải vật chất, để chúng ta đem hoa lợi về cho Người. Thiên Chúa còn tôn trọng chúng ta, Người để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc, theo sáng kiến riêng của mỗi người. Thánh Matthêu viết: “Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa”. Người không ở đó để kiểm soát, canh chừng.
Khốn thay, có những tá điền đã không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông. Những tá điền ấy đã ngược đãi và sát hại các đầy tớ mà chủ sai đến. Thậm chí, đến lần thứ ba chúng giết luôn cả con trai ông. Họ làm như thế là để chiếm lấy gia tài của chủ. Hậu quả là: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông”.
Thiên Chúa ban muôn hồng ân, là để chúng ta phục vụ Chúa và anh em, chứ không phải để chúng ta tìm tư lợi, danh vọng, và khoái lạc cho bản thân.
Thiên Chúa kiên nhẫn trước những xúc phạm, lầm lỗi của chúng ta, là để chúng ta có cơ hội hoán cải, chứ không phải để chúng ta ngày càng sa lầy trong tội lỗi.
Thiên Chúa trao phó cho chúng ta các tài năng là để chúng ta sinh lợi cho phần rỗi mình. Nếu chúng ta không biết sử dụng ơn lành Chúa ban, thì Người sẽ cất đi và trao cho kẻ khác. Nỗi bất hạnh ấy chỉ mình ta gánh chịu mà thôi!
Sẽ đến ngày chúng ta phải tường trình về công việc vườn nho mà Chúa đã trao phó. Sẽ đến ngày chúng ta phải dâng lên Chúa những thu hoạch hoa lợi mà Người trông đợi. Bội thu hay mất trắng là hoàn toàn do công việc chúng ta đang làm hôm nay. Đức Hồng Y Suhard đã nói: “Chúng ta chịu trách nhiệm về những điều chúng ta đã làm, đã không làm, hay đã cản trở không cho người khác làm”.
Công trình cứu độ của Thiên Chúa kỳ diệu biết bao. Từ trước khi tạo dựng, Thiên Chúa đã dự liệu cho loài người được hạnh phúc vĩnh cửu và Ngài đã lo cho loài người đến cùng, Ngài không hề tiếc chi với con người. Ngài đã tạo dựng lại còn cứu chuộc. Khi con người phản nghịch cùng Chúa, Ngài đã chuẩn bị một chương trình để Con Một Ngài là Đức Kitô đến với loài người, tỏ mình và dạy dỗ nhân loại cho biết về mầu nhiệm Ba Ngôi tình yêu, về bổn phận của con người đối với Thiên Chúa và đồng loại.
Thiên Chúa đã chọn dân Do thái làm dân riêng để chuẩn bị cho việc cứu độ mọi người mọi thời. Ngài đã sai các tiên tri đến dạy dỗ họ, Ngài giữ gìn, ban ơn, tỏ ra ưu ái họ hơn những dân tộc khác. Tuy nhiên, có nhiều lúc họ không lo đáp trả tiếng Chúa, không tuân giữ lời Chúa dạy, không trả phần huê lợi mà Chúa đã đầu tư vào rất nhiều. Chúa đã thể hiện bao nhiêu là tình thương, nhẫn nại đối với dân tộc Israel nhưng nhiều kẻ vẫn cứng lòng, không đáp ứng lời mời gọi của Chúa. Nhất là khi thời gian viên mãn đã đến, Thiên Chúa đã sai Con Một ngài xuống thế vì nhân loại. Đấng Emmanuel đầy tình yêu thương, rất nhân từ với mọi người lại bị kẻ cầm quyền trong dân ganh ghét và giết đi. Tuy nhiên, sự cứng lòng cố chấp của họ không phá được chương trình cứu độ kỳ diệu của Thiên Chúa. Tuy không phải toàn dân Do thái tin theo Chúa Giêsu, nhưng từ dân tộc Do thái, Chúa chọn được một số người làm nền tảng xây dựng dân tộc mới là Hội thánh Chúa. Cả dân Do thái và dân ngoại đều được hưởng ơn cứu chuộc nhờ tin vào Đức Kitô và những tín hữu này trở nên chứng nhân cho Chúa giữa mọi người.
Chúa Giêsu muốn các kỳ lão và thượng tế nhận thức được dụ ngôn mà biết lỗi và sửa đổi, nhưng sau khi nghe dụ ngôn, họ vẫn tiếp tục sai lầm và còn chống đối muốn giết Chúa Giêsu. Tuy nhiên, chương trình của Chúa không vì thế mà bế tắc. Lúc Chúa Giêsu chết trên thánh giá lại là lúc Ngài chiến thắng Ác thần và sự chết, tự nơi Ngài có sức mạnh cứu độ muôn dân. Hòn đá mà những người thợ xây loại ra, đã trở nên viên đá góc tường, là nền tảng của Hội thánh. Những người cầm quyền dân Do thái từ chối Chúa Giêsu, nhưng Thiên Chúa đã cho Người trở nên Đá Tảng xây nên toà nhà của Chúa. Đó là việc kỳ diệu trong công trình cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Sau khi Chúa sống lại, Chúa đã giao vườn nho lại cho người xứng đáng hơn canh tác. Những người tin vào Ngài hợp thành dân riêng là Hội thánh Chúa, họ được thừa hưởng lời Giao Ước Chúa ban cho con cháu Abraham, được trở nên con Chúa trong Đức Giêsu Kitô Phục sinh.
Những sai phạm và cố chấp của các vị lãnh đạo do thái xưa là lời cảnh tỉnh cho chúng ta hôm nay. Chúng ta có cộng tác với ơn chúa chưa? Nhiều lúc chúng ta nhận ra ý chúa nhưng vì không muốn khổ cực nên chúng ta từ chối, thoái thác. Chúng ta có biết cậy trông, phó thác vào Chúa hay cứ làm theo kế hoạch riêng nhằm đem lại lợi lộc trần gian mà thôi. Mỗi người đều được Chúa mời vào một vị trí trong chương trình của Ngài. Chúng ta nên ý thức về nhiệm vụ của mình, ra sức phát triển khả năng Chúa ban và phục vụ theo ý Chúa muốn. Nén bạc chúa trao, tôi có sử dụng đúng mức không, có nộp đủ phần hoa lợi cho Chúa không? Có khi nào tôi chôn giấu nén bạc Chúa trao mà không sinh lợi, hay có sinh lợi nhưng quên nguồn gốc của nén bạc đó, không biết ơn chúa đúng mức! Thiên Chúa là Đấng nhân hậu, kiên nhẫn vẫn chờ đợi tôi, nhắc nhở và ban ơn thêm. Nhưng đến một lúc nào đó, Ngài sẽ gọi tôi đi trình diện và thưởng phạt công minh.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con hết lòng tin tưởng vào chương trình của Chúa thực hiện mỗi người chúng con, chúng con sẽ luôn vâng theo thánh ý Chúa để cuộc đời chúng con luôn gắn bó mật thiết với Chúa. Chúng con sẽ sống khiêm tốn, biết tìm dịp lắng đọng tâm hồn nhiều hơn để có thể nhận ra tiếng Chúa trong cuộc sống. Xin Chúa cho chúng con biết luôn tỉnh thức, không tự mãn với những việc đạo đức của mình nhưng tin tưởng, trông cậy, phó thác vào chương trình của Chúa. Chúng con nguyện sống theo gương Chúa về lòng tin yêu phó thác và phục vụ để mọi người nhìn vào chúng con có thể nhận ra tình thương của Chúa mà được ơn cứu độ.
Nhân cơ hội các thượng tế và các kỳ lão chất vấn Chúa Giêsu về việc Người lấy quyền nào mà đánh đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ, Chúa Giêsu đã dùng ba dụ ngôn để nói với các ông như những lời cảnh giác về sự cứng lòng của họ. Dụ ngôn tá điền gian ác là một trong ba dụ ngôn ấy.
Như đã nói ở trên, câu chuyện dụ ngôn Đức Giêsu kể trực tiếp nhắm vào các thượng tế và kỳ lão. Họ là những người được Thiên Chúa trao phó trách nhiệm chăm sóc vườn nho là dân riêng của Chúa. Nhưng thay vì mang hoa lợi về cho chủ là Thiên Chúa, họ lại muốn chiếm đoạt hoa lợi ấy cho mình. Vì thế, những sứ giả được Thiên Chúa sai đến là các ngôn sứ đều bị họ giết chết. Cuối cùng ngay cả Người con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu cũng bị họ đóng đinh và treo Người trên cây thập giá. Họ nghĩ rằng chỉ khi làm như thế họ mới chiếm đoạt được trọn quyền thừa kế và hưởng lợi lộc từ vườn nho.
Ý nghĩa cụ thể của dụ ngôn là như thế. Nhưng chúng ta cần nội tâm hóa câu chuyện để có thể lắng nghe được tiếng gọi của Thiên Chúa dành cho chính mình chứ không phải chỉ cho những người xa lạ ở vào những thời đại xa xưa.
Như ông chủ trao phó vườn nho cho các tá điền, Thiên Chúa cũng tín nhiệm trao phó cho ta chăm sóc những vườn nho của Người. Vườn nho ấy là chính cuộc đời của riêng ta, là những cộng đoàn mà ta phải phục vụ, là những trách nhiệm mà ta phải hoàn thành.
Như ông chủ vườn nho đã dựng hàng rào, đã xây tháp canh để bảo vệ vườn nho, đã lắp đặt máy ép nho để giúp cho công việc của tá điền được dễ dàng, nhờ đó họ có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Khi trao cho ta những nhiệm vụ, Thiên Chúa cũng ban cho ta phương tiện là những ân huệ cần thiết để chúng ta thực hiện tốt công việc được trao.
Trao vườn nho rồi, ông chủ đi xa một thời gian. Ông tin tưởng các tá điền sẽ làm cho vườn nho sinh hoa kết trái. Thiên Chúa cũng tin tưởng ở chúng ta khi trao cho chúng ta những trách nhiệm. Người không trực tiếp giám sát chúng ta như những anh công an. Người cũng không phải là một ông chủ chuyên chế áp đặt tự do và giết chết sáng kiến của chúng ta. Người tôn trọng chúng ta như những người trưởng thành và để chúng ta tự do làm việc. Người tin tưởng ở tinh thần trách nhiệm của chúng ta.
Sau một thời gian vắng nhà, khi trở về, ông chủ sai các đầy tớ đến thu hoa lợi của vườn nho. Sẽ tới ngày chúng ta cũng phải tính sổ với Thiên Chúa về những công việc được trao phó. Người hỏi chúng ta về hoa trái của những công việc đã được trao. Người hỏi chúng ta về tinh thần trách nhiệm.
Những người tá điền đã giết chết các tôi tớ của ông chủ. Hành vi này tượng trưng cho sự khước từ Thiên Chúa của chúng ta. Có thể chúng ta đã từng loại trừ Thiên Chúa vì nghĩ rằng Người là một ông chủ hà khắc, hay đòi hỏi, hay quấy nhiễu con người.
Thay vì tiêu diệt các tá điền, ông chủ lại sai thêm các đầy tớ khác. Điều này nói lên lòng nhân từ và sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người không trừng phạt chúng ta khi chúng ta phản nghịch và chống lại Người, nhưng Người ban cho ta nhiều cơ hội để sửa chữa những lỗi lầm và để trả lời cho tiếng gọi của Người.
Không nhận ra được lòng nhân từ của ông chủ, những người tá điền lại giết chết cả những anh đầy tớ này. Đó chính là thái độ cố chấp sống trong tội lỗi của chúng ta. Tội lỗi là sự bất tuân lệnh của Thiên Chúa, là cố ý chống lại Thiên Chúa, cố ý đi ra khỏi con đường của Người.
Không ngã lòng, ông chủ còn sai con trai mình đến với những người tá điền. Và họ cũng giết chết luôn cả anh con trai này. Họ bàn bạc với nhau rằng: Phải giết anh con trai thừa tự này đi để chúng ta chiếm lấy vườn nho. Thì ra tội lỗi của những người tá điền không phải là không làm cho vườn nho sinh hoa kết trái mà là muốn chiếm đoạt vườn nho của ông chủ. Thiên Chúa đã dùng mọi phương cách để cứu vớt con người. Người đã chơi ván bài chót là liều hy sinh chính Con Một của Người để thức tỉnh con người. Nhưng con người luôn muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời mình để có thể sử dụng cuộc đời, để định đoạt mọi sự theo ý mình muốn. Chúng ta làm việc này việc khác không phải vì quyền lợi của Thiên Chúa mà chỉ vì ích lợi của bản thân mình. Chúng ta muốn chiếm đoạt những gì thuộc về Thiên Chúa để làm của riêng mình.
Chính trong ý nghĩa nói trên mà câu chuyện dụ ngôn cũng là câu chuyện của đời thường và câu chuyện của ngày xưa cũng là câu chuyện của ngày hôm nay. Hàng ngũ lãnh đạo Do thái giáo ngày xưa đã loại trừ và đã giết chết Con Thiên Chúa, Đấng đã đến trần gian để chỉ cho họ con đường về Trời. Vụ án giết Con Thiên Chúa vẫn còn kéo dài qua mọi thời cho tới ngày hôm nay. Và lý hình giết con Thiên Chúa có thể là mỗi người chúng ta. Điều đó thật là đáng sợ.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn và cũng là một ám ngôn, vì vừa hình dung vừa diễn tả sự thật, vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri. Vườn nho ám chỉ nước Chúa. Những người làm vườn nho là giới lãnh đạo, là những người đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là hàng loạt các ngôn sứ được Thiên Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, nước Chúa được chuyển sang cho một quốc gia khác là Hội Thánh, một dân phổ quát và Công Giáo, sẽ lan tràn đến tất cả mọi quốc gia.
Chúng ta thấy dụ ngôn vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri, nghĩa là một đàng diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ. Đàng khác, nói tiên tri về đạo Chúa sẽ lan tràn khắp các dân không phải dân Do Thái. Hơn nữa, dụ ngôn cũng cho chúng ta thấy rõ thân thế và sứ mạng của Chúa Giêsu. Những người được sai đến trước Ngài, dù nổi tiếng đến đâu như Ê-li-a, Ê-li-sa, I-sa-i-a,
Giê-rê-mi-a, Gio-an Tiền Hô… cũng chỉ là đầy tớ, còn Ngài mới là con trai duy nhất của Chúa Cha. Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay có nhiều điều đáng lưu ý và ghi nhớ. Sau đây chúng ta tìm hiểu một điều thôi, đó là các tá điền làm vườn nho.
Bài Tin Mừng cho biết: ông chủ vừa trồng xong vườn nho, lẽ ra ông phải chăm bón để kiếm hoa lợi, nhưng ông lại cho các tá điền canh tác để đến mùa thu hoa lợi. Điều này nói lên ông chủ tín nhiệm các tá điền. Nhưng có những tá điền đã không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do ông chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông chủ. Chúng ta có thể áp dụng như sau: mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho, là những ơn phúc và chúng ta có bổn phận phải đem hoa lợi về cho Chúa. Ngài để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm.
Thực vậy, những ơn phúc Chúa ban như những tài năng tinh thần, những của cải vật chất, chúng ta phải biết sử dụng chúng để sinh lợi tối đa, tức là chúng ta phải làm việc và làm lợi cho Chúa. Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn liếng khác nhau về nơi chốn, thời gian, khả năng, dịp tiện. Mỗi người, không ai giống ai cả, nhưng ai cũng phải làm lợi ra với số vốn liếng Chúa ban. Chúng ta không giống nhau về khả năng, nhưng có thể giống nhau về cố gắng. Thà cố gắng mà không có tài còn hơn có tài mà không cố gắng làm lợi cho Chúa.
Vậy mọi người chúng ta đều có một điều giống nhau, đó là đời sống để làm việc: việc lớn, việc nhỏ. Đa số chúng ta ai cũng muốn làm việc lớn, được nhiều lợi, được người khác biết đến. Nhưng Chúa bảo chúng ta hãy làm việc nhỏ. Chúng ta cần trung tín trong việc nhỏ bé trước đã. Chỉ khi nào chúng ta làm được những việc nhỏ bé, chúng ta mới có khả năng làm những việc lớn lao hơn. Những việc nhỏ chính là nấc thang đưa tới thành công lớn. Không ai có thể làm việc lớn cho Chúa nếu trước hết họ không làm được những việc nhỏ cho Ngài. Nếu chúng ta không trung thành trong việc nhỏ thì không ai tin tưởng trao cho chúng ta việc lớn hơn. Chúng ta hãy nhớ: không có việc gì quá nhỏ mà không đáng làm, và cũng không có việc gì quá nhỏ mà không đem lại lợi ích. Vấn đề là chúng ta có chịu làm hay không.
Có một câu chuyện ngụ ngôn, với tựa đề là “vị thiên thần dễ tính” kể lại như sau: Ngày kia, có hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền vạn năng của Thiên Chúa. Vị thiên thần đồng ý. Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện: “Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có sức làm những việc thông thường”. Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng với những thành công đã đạt được. Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt xa lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa. Rồi sau cùng sức khỏe cũng giả biệt chàng, thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi sức khỏe ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.
Ngược lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tốt những việc bình thường. Vị thiên thần cũng đồng ý và nhắn thêm: “Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào đặc biệt để hoàn thành những việc phi thường đâu”. Chàng bình thản tiếp tục sống cuộc đời của mình, hàng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương thiện, một người chồng chung thủy, một người cha hiền tận tụy với con cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm thấy đời mình thật ý nghĩa, thât vui tươi hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.
Biết nhìn ra những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống, con người mới có khả năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ. Từ đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá trị của bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Tóm lại, chúng ta hãy siêng năng làm việc để chu toàn bổn phận của mình. Chúng ta hãy tận dụng tài năng, sức lực, thời giờ, của cải Chúa ban để xây dựng sự nghiệp đời này và sự nghiệp đức tin trên Nước Trời.
(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến)
Thưa quý vị, thưa các bạn, Tin Mừng Chúa Nhật 27 TN A hôm nay (Mt 21, 33-43) rất thú vị, dù nội dung dụ ngôn thật bất nhân, mang tính bất lương, mất nhân tính. Nhưng câu kết của Đoạn Tin Mừng hôm nay là một đoạn kết có hậu, đầy tràn sự nhân đạo, ôn hòa. Vì sao, thưa quý vị? Thưa vì, “Chúa Giêsu- Đấng Cứu Thế, đứng trên mọi quyền lực”.
Theo đó, Đoạn Tin Mừng hôm nay, tuy có 11 câu, nhưng có thể chia làm 3 phần:
Phần 1: Nội dung dụ ngôn “ Dụ ngôn vườn nho và những tên tá điền ác nhân “ (Mt 21, 33- 39)
Phần 2: Vấn đề Chúa Giêsu đặt ra và sự trả lời của người Do-thai. (Mt 21, 40 – 41)
Phần 3: Sự trả lời của Chúa Giêsu và ý nghĩa nhân hậu của vấn đề. (Mt 21, 42 -43)
Như vậy, ý nghĩa đoạn Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một bài học vô cùng cao siêu từ Thiên Chúa là Cha nhân hậu, giàu lòng xót thương, nhưng không nhu nhược. Bởi vì, Người đứng trên mọi quyền lực. Điều đó được biểu lộ tại câu 43 của Tin Mừng thánh Mat-thuê.
Qua đoạn nầy, chúng ta xem lại các đoạn (Mc 12, 1- 12); (Lc 20, 9-19), sẽ thấy điểm khác biệt của Tin Mừng Matthuê, thánh Mat-thuê thường sử dụng từ “Gia Chủ” để chỉ về Thiên Chúa. Đây là từ ngữ được đặc trưng cho Matthuê, hầu đề cập đến một Nước Thiên Chúa siêu nhiên.
Khởi đi từ bài đọc I (Is 5, 1- 7), chúng ta thấy Thiên Chúa nhân từ yêu thương dân tộc Israel, chi họ Giu-đa. Hình ảnh vườn nho là một sự thân thương, một hoạt cảnh thiết thực trong đời sống dân Do-thai, được Thiên Chúa yêu thương, săn sóc, vỗ về.
Bài đọc II thánh Phao-lô (Pl 4, 6 – 9) chỉ dạy cho chúng ta biết, chúng ta đừng lo lắng, nhưng hãy cậy trông tin tưởng vào Thiên Chúa, vì bình an của Thiên Chúa vượt lên trên tất cả, sẽ dẫn đưa chúng ta đến với Đức Kitô – Giêsu. Vì những điều tốt là những điểm cần chú ý và đã được nhìn thấy từ thánh nhân thì nên thực thi.
Trở về Đoạn Tin Mừng hôm nay, tại câu 34, thánh Matthuê cho chúng ta thấy, Nước Thiên Chúa đang đến gần: “Gần đến mùa hái nho, ông cho đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi” (c34). Qua câu nầy, thánh Matthuê đã dùng một mệnh đề tạo hình dáng cho người đọc thấy được đặc tính Nước Thiên Chúa sắp đến gần. Điều nầy sẽ xuất hiện ở câu 43 là câu mấu chốt của vấn đề. Ở câu 35; Đánh đập các đầy tớ, đánh người nầy, giết người kia, thật là sát nhân. Điều nầy theo nghĩa bóng là giết hại các tiên tri, bất chấp sự giáo huấn của họ. Nhưng theo nghĩa đen, thì cảnh tượng nầy chính là nằm ở lòng tham của phàm nhân. Chúng ta thấy, hình ảnh nầy, theo nghĩa đen thì không xa lạ gì với tâm trạng tội lỗi của nhân loại. Người làm công và tá điền cũng thường dấy lên để chống lại chủ. Tuy nhiên cũng có những chủ nhân bất công, hà khắc, nhưng cũng có những chủ nhân tốt. Dù sao, tâm lý tá điền và người làm công, nếu như không có nhân đức, thì lòng tham dễ nổi lên. Thánh Matthuê đã đưa thêm vào so với Mc và Lc, là giết người và ném đá điểm nầy. Câu 36 -37, chúng ta thấy thánh Matthuê đã tóm tắt cảu Mc, loại bỏ tính từ “được yêu thương” dành cho “Người Con” của ông chủ. “… Ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: “chúng sẽ nể con ta”. (c 37). Nhưng khi bọn tá điền vừa trông thấy người con trai thì hè nhau nói: “Nào đây, là đứa thừa tự đây rồi!”. “Chúng ta giết quách cho xong, và chiếm đoạt gia tài nó.” (c 38). Và rồi chúng cũng giết luôn người con trai của ông chủ. (c 39). Như vậy, chúng ta thấy sự tàn ác theo nghĩa đen là do của cải vật chất, sự ganh tỵ, sự ích kỷ, sự tàn ác chính là hệ quả của lòng tham.
Ở câu 39 thánh Matthuê đã đưa vào một ngụ ý là Chúa Giêsu sẽ chịu “tử nạn” ở bên ngoài thành Giêrusalem “quăng ra bên ngoài vườn nho và giết đi”.
Câu 40-41, Matthuêu cho thấy cuộc đối thoại mà trong đó sự trả lời gay gắt, mạnh mẽ của các kinh sư, nhằm lên án sự ác nhân, thất đức của các tá điền bất lương. Chính là những hành động của dân Israel đã hành động đối với Thiên Chúa là Ông Chủ của họ. Về mặt nhân bản tự nhiên, khi nghe câu chuyện như vậy, con người vẫn tỏ thái độ phán xét vội vàng, tưởng chứng như một quan tòa chí công.Khi phàm nhân nghe thấy, hoặc chứng kiến một sự thiếu công bằng nào đó, họ dễ nổi giận ngay và đưa ra một “phán quyết”, nhưng Thiên Chúa thì không “trả đũa”.
Nhưng ở câu 42, được trích từ Thánh Vịnh 118, 22- 23, được Chúa Giêsu dùng để bảo họ. Các ông chưa từng bao giờ đọc câu nầy trong Kinh Thánh sao?: “Tảng đá bị thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta”. Nhưng quan trọng là ở câu 43. “Bởi đó, Tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (c 43).
Ý nầy chính là sự đóng góp quan trọng của thánh Matthue, làm cho phần giải thích của dụ ngôn “vườn nho và những tá điền bất nhân” nầy thêm phong phú, nhằm hé mở ra một ngụ ý về lịch sử cứu độ của Thiên Chúa qua Đấng Cứu Thế. Những người được sai đến là các tiên tri, ngôn sứ, nhưng đều bị người Israel giết hại, cuối cùng lên đến cực điểm là chính Chúa “GIÊSU”, với tư cách là “người con trai”.
“Nước Thiên Chúa” có thể được hiểu như là một điều gì đó như một sở hữu hiện tại của sự bảo bọc và ân sũng bởi Thiên Chúa, nhưng những động từ ở quá khứ và tương lai có thể làm cho câu nầy trở nên một ý nghĩa như một “Lời Hứa” ban phước vào ngày thế mạt hco mọi dân tộc. Theo đó, nơi Thiên Chúa không có sự trừng phạt nào, bởi đã có Chính Đấng Cứu Chuộc. Điều nầy có thể được minh định bởi câu nói của Chúa Giêsu: “Ta đến không phải để lên án thế gian. Nhưng để cứu chuộc thế gian. Hầu thế gian nhờ Ta mà được sống. Sống dồi dào và sung mãn” (Ga 3, 17); (Ga 12, 47); (Ga 10, 10).
Từ “dân” (c 43) ở đây chỉ Giáo Hội, được Mattheu đưa lên như là sự mở màn cho những người Israel có lòng tin và những người cải tà qui chánh, qui hồi về niềm tin, thức tỉnh, giác ngộ. Nhận ra Đức Kitô là Đấng Cứu Chuộc duy nhất. Những ai mà cùng nhau xây dựng dân tộc mới của Thiên Chúa. Như vậy, Giáo Hội Công Gíao là một tiêu biểu, một sự cứu độ phổ quát cho hết mọi người, đó là dân Do-thái thực thụ.(không hiểu như nghĩa đen).
Theo đó, sự kết luận của đoạn Tin Mừng hôm nay, thì ôn hòa hơn là nội dụng dụ ngôn. Nói cách khác là đoạn kết có hậu. Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ gian ác, nhưng “Lời Hứa” bị lấy đi ban cho người khác. Đó là cách xử lý của Thiên Chúa, còn chúng ta thì sao?
Lạy Chúa Giêsu, Đấng cứu độ trần gian,là Đấng chính Chúa Cha sai đến, Chúa là Đấng đứng trên hết mọi quyền lực. Nơi Chúa không có sự thua cuộc, không có hận thù, chỉ có tha thứ và yêu thương, vì đó là NƯỚC THIÊN CHÚA, nhưng Chúa sẽ lấy lại, nếu như kẻ lãnh nhận bất xứng, chứ Chúa không tiêu diệt. Vì sự trừng phạt của Chúa, chính là thu hồi “ân sủng” là “Lời Hứa” yêu thương ngọt ngào như sữa và mật ong. Xin thương ban cho con người biết nhận ra chân lý ấy mà sám hối ăn năn, hầu đáng lãnh nhận ơn tha thứ./. Amen.
Câu hỏi gợi ý:
Suy tư gợi ý:
Bài Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn có ý nói bóng gió về tình trạng đã, đang và xảy ra trong dân Do Thái, mà trước mắt có sự góp phần của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái là âm mưu giết Đức Giêsu. Kết cục được diễn tả trong câu cuối của bài Tin Mừng là: Dân Do Thái được Thiên Chúa dành ưu tiên trong việc vào Nước Thiên Chúa, nhưng vì họ tỏ ra không xứng đáng, nên chỗ ưu tiên của họ được nhường cho những dân tộc khác.
Thiên Chúa đã yêu quí dân Do Thái, điều này được diễn tả trong bài đọc I: Thiên Chúa cưng chiều dân Do Thái như một người có một vườn nho mà anh ta rất quí: “Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho” (Is 5,2a). Anh quí nó đến nỗi làm cho nó tất cả những gì mà anh nghĩ nó cần nó thích: “Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?” (5,4). Anh ta kỳ vọng rất nhiều vào vườn nho đó, nhưng vườn nho đã làm anh thất vọng: “Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại” (5,2b). Một vườn nho như thế thì người chủ nên làm gì cho nó? Thất vọng vì vườn nho ấy, anh ta đã “hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo (…) biến thửa vườn thành mảnh đất hoang vu, không tỉa cành nhổ cỏ, gai góc mọc um tùm; truyền lệnh cho mây đừng đổ mưa tưới xuống” (5,5-6). Vườn nho đó được I-sai-a xác định: “Vườn nho đó chính là nhà Ít-ra-en; cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, chính là người xứ Giu-đa. Người những mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than” (5,7).
Trong dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tiếp tục khai triển chủ đề “vườn nho” của bài đọc I (Is 5,1-7), với những ám chỉ sau đây: 1. Vườn nho ám chỉ dân Do Thái; 2. Ông chủ đất: Thiên Chúa; 3. Bọn tá điền: Các lãnh tụ tôn giáo Do Thái; 4. Các tôi tớ của chủ đất: Các ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến; 5. Người con trai của ông chủ: Đức Giêsu; 6. Các tá điền khác: Dân ngoại.
Toàn bài dụ ngôn nói lên diễn tiến trong lịch sử dân Do Thái: Thiên Chúa chọn Do Thái là dân riêng của Ngài giữa mọi dân tộc. Ngài muốn họ là cầu nối giữa Ngài với mọi dân tộc khác và với toàn nhân loại. Để thực hiện mục đích ấy, Ngài đã sai các ngôn sứ đến để dạy dỗ, sửa đổi và cho họ biết ý định của Ngài. Nhưng lời nói của những ngôn sứ này thường không lọt lỗ tai các lãnh tụ tôn giáo Do Thái, vì “trung ngôn nghịch nhĩ”, “lời thật mích lòng”. Và kết quả là các ngôn sứ này đều bị ném đá chết dưới tay các lãnh tụ tôn giáo Do Thái. Chính ngôn sứ Ê-li-a đã phải than phiền: “Khi cầu nguyện với Thiên Chúa, ông đã tố cáo dân Ít-ra-en rằng: Lạy Chúa, các ngôn sứ của Ngài, chúng đã giết chết; bàn thờ của Ngài, chúng đã phá huỷ. Chỉ còn sót lại một mình con, thế mà chúng cũng đang tìm hại mạng sống con” (Rm 11,3; x. V 19,10.14).
Cuối cùng, Thiên Chúa sai chính Con Một của mình đến cũng để làm công việc ngôn sứ ấy, thì cũng bị họ giết chết một cách dã man và thảm hại. Dân Do Thái vì hèn nhát trước quyền lực nên cũng hùa theo các lãnh tụ của họ. Vì thế, dân Do Thái đã bị Thiên Chúa loại bỏ, mất quyền ưu tiên đối với Nước Trời. Và Nước Trời do Đức Giêsu thiết lập – gồm những người tin theo Đức Giêsu – bao gồm những người mà người Do Thái gọi là dân ngoại, gồm đủ mọi dân tộc trên thế giới.
Còn dân Do Thái đã bị đào thải khỏi lịch sử: tháng 9 năm 70, Titus, lúc ấy làm thống soái quân đội Rôma (sau làm hoàng đế năm 79-81), đã bao vây và chiếm Giê-ru-sa-lem, giết rất nhiều người Do Thái. Kể từ đó, Do Thái bị mất nước, và dân Do Thái phải tản mác khắp nơi trên thế giới. Đến thế chiến thứ hai, dân Do Thái tại Đức đã bị Hitler giết tới 6 triệu người. Mãi đến năm 1947, sau gần 19 thế kỷ bị mất nước, Do Thái đã lập quốc trở lại tại vùng đất cũ, nhưng kể từ đó, họ phải chiến tranh liên tục với dân Palestin và Ai Cập cho đến nay.
Khi tôi học Cựu Ước, giáo sư dạy Kinh Thánh cho tôi thường nói: “Israel là Giáo Hội, Israel là chính tôi”. Vì thế, nếu bài dụ ngôn kia có thể áp dụng cho dân Do Thái, thì cũng có thể áp dụng cho Giáo Hội và cho chính bản thân tôi.
Do Thái giáo là một tôn giáo do chính Thiên Chúa thiết lập qua các tổ phụ, Mô-sê và các ngôn sứ, với hàng giáo phẩm là các tư tế, lê-vi và các ráp-bi. Thiên Chúa đã trực tiếp can thiệp vào lịch sử của dân tộc, đã ra tay giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách thống trị Ai Cập, đã đích thân ban hành luật pháp cho họ, đã trực tiếp chỉ định những vì vua cai trị họ… Ngay cả Ki-tô giáo hiện nay cũng chưa được Thiên Chúa trực tiếp can thiệp như thế. Có ngôn sứ nào trong Ki-tô giáo oai hùng như I-sa-i-a, khi ra lệnh cho dân Do Thái điều gì thì đều nói: “Thiên Chúa là Chúa các đạo binh phán như thế” (x. Is 1,24; 3,15; 5,9; 10,24; 14,22-24; 17,3; 19,4; v. v…) Vì thế, dân Do Thái đã rất có lý khi nghĩ rằng tôn giáo của mình do Thiên Chúa thiết lập ắt sẽ vĩnh cửu, và sẽ lan tràn khắp thế giới. Nhưng lịch sử cho chúng ta thấy họ đã lầm. Do Thái giáo đã tàn lụi, và được thay thế bằng Ki-tô giáo. Có thể nói, Do Thái giáo chính là tiền thân của Ki-tô giáo.
Ki-tô giáo hiện nay cũng đang tự hào là tôn giáo duy nhất do chính Thiên Chúa thiết lập, là tôn giáo có giá trị hơn hết mọi tôn giáo trên thế giới, nên mọi Ki-tô hữu đều tin tưởng nó sẽ tồn tại muôn đời, và sẽ lan tràn khắp thế giới. Nhưng nhiều khi các Giáo Hội Ki-tô giáo chỉ biết tự hào như thế mà quên đi niềm mong ước của chính Thiên Chúa đối với mình. Liệu Thiên Chúa có phải than phiền về Ki-tô giáo như đã than về Do Thái giáo: “Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm? Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại?” Ki-tô giáo đã hơn Do Thái giáo những gì?
Đức Giêsu đến để thiết lập một tôn giáo mới dựa trên nền tảng tình yêu thương, và luật của Ki-tô giáo là luật yêu thương: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34); “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8.10); “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô” (Gl 6,2); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2,8).
Luật của Tân Ước mới hẳn so với Cựu Ước của Do Thái giáo, nhưng các Ki-tô hữu đã coi trọng luật ấy đủ chưa? đã tập trung mọi cố gắng để thực hành luật ấy đúng mức chưa? Hay Ki-tô giáo lại đi vào vết xe đã đổ của Do Thái giáo, là thượng tôn nghi thức, quá chú trọng tới những lễ nghi và hình thức bên ngoài? Còn lề luật chính yếu là sống yêu thương thì lại lãng quên? Có phải hiện nay hình thức của Ki-tô giáo thì mới mẻ và khác hơn Do Thái giáo, nhưng tinh thần nệ luật, nệ hình thức thì chẳng khác gì những người Do Thái ngày xưa? Đã tới lúc chúng ta cần nghiêm túc tự hỏi: ngày nay, người ngoài nhìn vào cách sống của người Ki-tô hữu, có thể nhận ra đạo của chúng ta là “đạo yêu thương” như thời Ki-tô giáo sơ khai không? Ngày nay, lễ “bẻ bánh” có còn là một dấu chỉ của một sự chia sẻ có thực trong đời sống giữa những người đến tham dự không, hay nó đã trở thành một nghi thức thuần túy, cho dù đầy ý nghĩa nhưng không có gì là thực tế cho lắm?
Mỗi Ki-tô hữu – nhất là những người có trách nhiệm hướng dẫn, lãnh đạo tôn giáo – cần tự vấn: Thiên Chúa hay Đức Giêsu có hài lòng với tình trạng Ki-tô giáo hiện nay không? Còn những người lãnh đạo tôn giáo cần tự vấn thêm: Tôi có giống như những vị lãnh đạo Do Thái giáo xưa, chẳng những không thèm nghe mà còn sẵn sàng bạc đãi hoặc bách hại những tiếng nói ngôn sứ vào thời đại của mình không? Hay ít ra khi họ bị bách hại vì đã chu toàn chức năng ngôn sứ của họ, tôi đã im lặng, làm ngơ, để mặc họ bị bách hại như thể tôi cũng đồng ý với sự bách hại ấy?
Không khéo Ki-tô giáo của chúng ta chẳng hơn gì Do Thái giáo, khiến Thiên Chúa cũng sẽ phải đối xử với chúng ta như đã đối xử với dân Do Thái: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Ki-tô giáo hiện nay thế nào, chính con – cũng như bất kỳ Ki-tô hữu nào – đều có phần nào trách nhiệm. Xin cho con biết sống đạo Chúa Ki-tô đúng với với tinh thần yêu thương của Ngài. Xin cho con rút ra được bài học lịch sử của dân Do Thái để tránh được vết xe đã đổ.
Chủ đề:
“Dụ ngôn chủ vừơn nho là một bản tóm lược lịch sử Chúa cứu độ chúng ta”.
Chiếc cầu treo Melrose bắc trên sông Niagara ở Nữu Ước nối liền Gia Nã Đại và Hiệp Chủng Quốc. Người ta nói rằng chiếc cầu này đã được thiết kế như sau:
Trước tiên người ta thả một cái diều cho nó bay ngang qua sông. Cái diều đó được cột vào một sợi dây, tiếp theo, sợi dây này được cột lại vào một sợi thừng và đến lượt sợi thừng này lại được cột vào một sợi cáp bằng thép. Như thế, dây cáp bằng thép này được dùng để giúp cho phần còn lại của chiếc cầu đứng vững.
Câu chuyện cầu Melrose thừơng được dùng để minh hoạ cho thấy các sự việc lớn lao thường được khởi đầu bằng những việc rất khiêm tốn.
Thuật kể chuyện rất phổ biến ngay từ khi con người biết liên kết từ với nhau để tạo thành câu. Thời xưa rất ít người biết đọc hoặc viết. Khi muốn dạy một điều gì quan trọng, người ta thường dựng lên một câu chuyện về điều muốn dạy, nhờ thế không những dễ học mà còn dễ nhớ nữa.
Có lẽ Chúa Giêsu đã kể chuyện nhiều hơn phần lớn các Tôn Sư khác. Câu chuyện Ngài kể được gọi là dụ ngôn. Có người đã khéo léo mô tả dụ ngôn như là một câu chuyện bàn về thế trần hàm chứa một ý nghĩa thiên quốc. Nhằm mục đích thực tiễn hoàn toàn, các dụ ngôn của Chúa Giêsu thừơng là một trong hai dạng sau: dụ ngôn “Cửa sổ” và dụ ngôn “kiếng soi mặt”.
Dụ ngôn “cửa sổ” là một chuyện đơn sơ nói về Chúa hay về Nứơc Chúa. đây là một “cửa sổ bằng lời nói” qua đó chúng ta có thể hiểu rõ hơn về Thiên Chúa hoặc Nước Chúa. Dụ ngôn dạng này thường bắt đầu với những từ sau: “Nước Trời giống như…”
Một ví dụ về dụ ngôn dạng “Cửa sổ” là câu chuyện con chiên lạc của Chúa Giêsu. Câu chuyện này so sánh mối quan tâm của người mục tử đối với một con chiên lạc và sự quan tâm của Cha Ngài đối với kẻ tội lỗi. Người mục tử ra đi tìm kiếm con chiên lạc đường. Khi tìm thấy nó, ông đã không cột chiên con vào một cái dây rồi trừng phạt nó mà lại âu yếm đặt nó trên vai mang về nhà. Chủ ý Chúa Giêsu là tỏ cho thấy Cha Ngài trên trời cư xử với kẻ tội lỗi cũng y hệt như thế. Như thế các dụ ngôn dạng “cửa sổ” là những câu chuyện giúp chúng ta hiểu rõ Thiên Chúa và Nước Ngài.
Còn ngược lại các dụ ngôn dạng “kiếng soi” là những câu chuyện có tác dụng như “chiếc gương soi bằng lời” Nghĩa là, chúng giúp chúng ta hiểu rõ chính mình. Chúa Giêsu đã xây dựng các dụ ngôn này khéo léo đến nỗi các nhân vật trong dụ ngôn đại diện cho cả đám cử toạ đang nghe Ngài. Nói cách khác, đám người đang nghe Chúa Giêsu có thể nhận ra chính mình là một trong những nhân vật được nêu ra trong dụ ngôn.
Dụ ngôn chủ vườn nho hôm nay là một ví dụ rất hay thuộc dạng này, Chúa Giêsu ám chỉ trực tiếp và đặc biệt đến các trưởng tế và biệt phái. Hãy nhìn vào các nhân vật đóng vai trong dụ ngôn sẽ thấy ngay Chúa Giêsu có ý định để cho các nhân vật này đại diện đám người nào trong cuộc sống thực tế ngoài đời.
Dĩ nhiên, Chủ vườn nho không ai khác hơn là ngoài Thiên Chúa. vườn nho, theo như bài đọc thứ nhất hôm nay cho thấy, là dân tộc Israel. Tá điền vườn nho là các vị lãnh đạo Israel. Nhóm đầy tớ đầu tiên được chủ vườn sai đến là các tiên tri thuở xưa được Chúa phái đến với Israel. Nhóm nô lệ thứ hai là các tiên tri kế tiếp cũng do Chúa phái đến với Israel. Con trai chủ vườn, tức kẻ bị giết, là Chúa Giêsu. Đám nông gia tá vườn mới mà chủ vườn giao vườn nho lại là các Tông Đồ của Chúa Giêsu. Họ là các nhà lãnh đạo mới của dân Chúa.
Phần cuối dụ ngôn, không được trưng ra trong bài đọc hôm nay kể lại rằng: “Các tư tế và biệt phái đều hiểu rằng Chúa Giêsu đang nói về họ”. Nói cách khác, họ nhìn vào dụ ngôn “kiếng soi” này và trông thấy chính mình. nhưng thay vì hoán cải, họ vẫn cứ tiếp tục bước đi trong đường nẻo sai lạc của mình.
Điều này dẫn chúng ta đến một vấn nạn quan trọng, phải chăng Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này chỉ nhằm tác động đến các trưởng tế và biệt phái mà thôi không? Hoàn toàn không phải thế. Ngài còn nhắm cả đến chúng ta nữa. Như thế dụ ngôn này nói lên với chúng ta điều gì? Tôi xin đưa ra bốn điểm sau:
– Trước hết, dụ ngôn tóm lược toàn bộ Thánh Kinh nói về ơn cứu độ, nêu rõ những qui chiếu rõ rệt về Giao ước và Giao ước mới. Lần giao ước vườn đầu tiên ám chỉ đến Cựu ước. Lần giao vườn thứ hai ám chỉ đến Tân ước.
– Thứ đến, dụ ngôn này xác nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. nhân vật cuối cùng được sai đến với các tá điền không phải là một đầy tớ nào khác mà chính là con trai của chủ vườn.
– Thứ ba, dụ ngôn xác nhận các Tông Đồ của Chúa Giêsu là những nhà lãnh đạo mới của dân Chúa.
– Cuối cùng, dụ ngôn nói với chúng ta về lòng nhẫn nại mà Chúa dành cho chúng ta cũng như trách nhiệm của chúng ta đối với Chúa.
Chủ vườn nho đã cố gắng tới ba lần để giúp các tá vườn thay đổi đường lối. Khi ông ta thấy rằng có kiên nhẫn hơn nữa cũng vô ích, ông ta mới ra tay xét xử đám này và bắt họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của họ.
Thiên Chúa cũng cư xử với chúng ta y như thế. Cha trên trời của chúng ta vô cùng kiên nhẫn. Nhưng rồi sẽ đến lúc sự kiên nhẫn của Chúa sẽ nhường bước cho sự xét xử. Và chúng ta cũng sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Như thế, dụ ngôn hôm nay không chỉ nói với các trưởng tế và biệt phái thời Chúa Giêsu mà còn nói với chúng ta nữa. Dụ ngôn tóm lược câu chuyện Thánh Kinh về ơn cứu độ, cho chúng ta biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, các Tông đồ Chúa là những vị lãnh đạo mới của dân Chúa, và cuối cùng dụ ngôn ấy còn dạy chúng ta về lòng kiên nhẫn lớn lao của Chúa dành cho chúng ta, đồng thời trách nhiệm riêng chúng ta phải chịu trước mặt Ngài.
Chúng ta hãy kết thúc bằng một tư tưởng có tính cách cầu nguyện mà Richard Wilson viết ra cách đây nhiều năm. Tư tưởng này được viết thành những vần thơ trữ tình như sau:
Đức Giêsu là người ưa kể chuyện
Ngài hình dung trong tâm trí những bức tranh
Ngài chỉ cho thiên hạ cũng như chỉ cho bạn và tôi
Cách thức sự việc xảy ra như thế nào.
Ngài đã dùng bầu trời
Ngài đã dùng biển cả
Ngài đã dùng chim muông
Ngài đã dùng cây cối
Ngài đã dùng bất cứ những gì Ngài có thể trông thấy,
Ngài là Người kể chuyện à?
Phải, Chúa Giêsu là người ưa kể chuyện
Ngài hình dung trong tâm trí những bức tranh
Đó là phương cách Ngài dùng
Chỉ cho thiên hạ, cho bạn cho tôi
Biết sự việc sẽ xảy ra thế nào.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
DỤ NGÔN TÁ ĐIỀN VƯỜN NHO SÁT NHÂN
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Xung quanh ông rào giậu, bên trong ông khoét bồn đạp nho”: Ở đây cũng như trong Isaia, việc liệt kê các sự chăm sóc về kỹ thuật mà gia chủ làm cho vườn nho của ông, cố ý nhấn mạnh đến tình yêu cũng như quyền tuyệt đối của ông trên vật sở hữu; nó thuộc về ông vì ông đã gầy dựng nên nó hoàn toàn. Tháp canh dùng để canh phòng kiểm soát cho dễ, nhất là vào mùa hái nho; bồn đạp nho người ta phải khoét vì đấy là một cái hố trong đó trái nho được đạp và nước nho từ đó thoát ra bằng một đường rãnh thích hợp. Tất cả mọi chi tiết này là những nét có tính cách dụ ngôn: chúng có mục đích làm cho bài học của dụ ngôn thêm sống động ở đây, chúng làm nổi bật sự tương phản giữa tấm lòng của gia chủ đối với vườn nho và lòng độc ác của các tá điền không chịu giao nộp hoa quả của một công lao khó nhọc và chăm sóc ân cần như thế. Thành thử không nên biến các chi tiết này thành những nét có tính cách ẩn dụ, như lối chú giải của các giáo phu đã làm, và tìm cách gán cho mỗi chi tiết một ý nghĩa biểu trưng.
“Khi đã gần mùa trái”: Mùa hái nho này chắc hẳn ám chỉ tới thời chung cục lúc Thiên Chúa tính sổ với dân Ngài. Bản văn Mt nói theo mặt chữ: “Khi thời gian đã gần đến” (êggisen); động từ “gần đến” đây đã được Gioan Tẩy giả và sau đó Chúa Giêsu dùng để loan báo Nước trời sắp xuất hiện: “Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần bên” (êggisen: 3, 2 và 4, 17). Thành ra hình như chỗ này Matthêu muốn hiểu ngầm là lúc tính sổ trùng phùng, trong lịch sử cứu rỗi, với sự xuất hiện của Gioan Tẩy giả và của Chúa Giêsu. chính để đáp lại lời rao giảng của hai vị sứ giả ấy của Thiên Chúa mà Israel bây giờ phải “sinh hoa quả phúc đức, xứng vui lòng hối cải” (3, 8).
“Các tá điền túm lấy các tôi tớ của ông, đánh đập người này, giết chết người kia, ném đá người nọ”: Sự tiến triển từ đánh đập, giết chết đến ném đá (việc bạo hành số một thời Chúa Giêsu) không chỉ là một cách diễn tả cho linh động dễ nhớ, song còn ám chỉ đến sự đối nghịch ngày càng trầm trọng hơn giữa gia chủ và các tá điền; việc ném đá các ngôn sứ hình như đã là một chủ đề truyền thống trong Do thái giáo và Kitô giáo sơ khai (Dt 11, 37; nhưng nhất là 11, 37; Lc 13, 34).
“Ông lại sai thêm tôi tớ đông hơn trước”: Việc sai phái lần thứ nhì này hình như ám chỉ đến việc người Do thái xếp các ngôn sứ thành hai hạng đầu và cuối (hay trước và sau).
“Sau cùng”: Trạng từ này đánh dấu đây là cơ may cuối cùng để cho các tá điền thống hối ăn năn.
“Kẻ thừa tự đó, ta mau giết quách nó đi”: Theo 3 bản Nhất Lãm, các tá điền lập tức nhận ra kẻ thừa tự không chút ngập ngừng (Dt 1, 2; 11, 7; Rm 8, 17); tội ác của họ không phải là hậu quả của một sự lầm lẫn bi đát hay của lòng thiếu tin vào Đấng được sai; họ hành động với đầy đủ ý thức về sự trầm trọng của việc làm. Dụ ngôn chẳng mô tả điều xảy ra trong trí óc của các đối thủ Chúa Giêsu, những kẻ không thừa nhận Người như kẻ thừa tự; đúng hơn nó mặc khải sự nặng nề của việc họ từ chối Thiên Chúa trong bản thân của Đấng Ngài sai đến.
“Chúng túm lấy người con, lôi ra bên ngoài vườn nho và giết đi “: Cái chết ngoàì vườn nho” này chắc chắn ám chỉ đến việc Chúa Giêsu chết ngoài thành Giêrusalem. Đây là một nét ẩn dụ khác.
“Viên đá thợ xây đã thải”: Câu trích dẫn này xê dịch trọng tâm của dụ ngôn từ vườn nho hay các tá điền sang bản thân người con mà, cho đến phần cuối của câu trước, không có gì loan báo là sẽ tái xuất hiện một cách oai hùng cả. Câu ấy có thể hiểu như là một lời chú giải Giáo Hội sơ khai thêm vào dụ ngôn; tuy nhiên trong một dụ ngôn như thế này, toàn thể bản văn vừa truyền lại vừa chú giải các lời nói của Chúa Giêsu. Việc thợ xây thải viên đá được diễn tả bằng một từ chuyên môn (apodekimazein, x.Mc 8, 31; 17, 25; Dt 12, 17) chỉ việc thủ tiêu một đồng bạc bị một nhân vật có thẩm quyền xét là giả mạo. Viên đá góc có lẽ chẳng phải là viên đá góc tường của móng dưới, nhưng là viên đá đỉnh góc (clé de voute), viên đá hoàn tất và mặc cho công trình xây dựng ý nghĩa của nó. Viên đá bị thải, nghĩa là Người Con, không tự nâng mình lên vì động từ egenêthê (nghĩa sát chữ: đã được làm thành) ở thể thụ động (thụ động thần linh), nên đây là một hành động oai hùng và kỳ diệu của Thiên Chúa.
“Một dân”: dịch sát chữ: “một dân nước”. Hạn từ “dân nước” này (ethnos), ở số ít: không thể chỉ “chư dân” theo nghĩa “lương dân” (luôn luôn ở số nhiều), nhưng chỉ một đoàn thể đang được cấu tạo và hình thành: người ta nghĩ đến dân thánh” (ethnos agion) của Xh 19, 6. Dân nước này sẽ được làm thành bởi mọi kẻ sẽ sinh hoa trái của Nước Trời, nghĩa là những kẻ, khi tiếp nhận Người Con, sẽ tụ họp quanh Người để làm nên Dân mới của thiên Chúa (Rm 9,25; 1 Pr 2, 10).
Các nhà phê bình chia rẽ nhau về xác thực tính của câu 44. Đa số các đại thủ bản (Sinaiticus, Vaticanus, Ephlemi Rescriplus, K,L,W,X…) đều có ghi nó, nên đối với nhiều tác giả điều ấy đủ để đảm bảo rằng nó xác thực.. Tuy nhiên, nhiều bản dịch cổ xưa (thủ sao của bản Latinh cổ, bản Syri cổ ở Sinai, bản Diatesseron của Tatien) và một số giáo phụ (Irênê, Origène, Eusèbe) đã loại nó ra. Hơn nữa, vì câu này đã nằm trong Lc 20, 18 nên có thể là các sao lục viên đã chèn nó ở đây vì ưu tư hòa hợp hái bản văn. Cuối cùng, đáng ra nó phải được ghi ngay sau câu trích dẫn 21, 42 chứ chẳng phải sau 21, 43 là câu tự nhiên không đòi hỏi một trích dẫn Thánh Kinh nào. Các lý do khác nhau vừa nói làm ta nghĩ câu 44 này không xác thực, trặc dù tính cách rất cổ của nó đã làm cho nó thành một chứng nhân quý giá của tư tưởng thần học của các thế kỷ đầu Kitô giáo.
KẾT LUẬN
Chủ đề vườn nho là một trong những chủ đề phong phú nhất của cả Cựu ước. Nó thường được liên kết với chủ đề tình yêu đến độ biểu tượng về vườn nho thường hay hòa lẫn, hoán đổi với hình ảnh người đàn bà. Đàng khác, nó lại được khai thác trong một bối cảnh cánh chung, dưới hình thức mùa hái nho hay bồn đạp nho, cùng gợi lên trước trường hợp đó sự ghen tương và trả thù cuồng nhiệt của Thiên Chúa Giao ước, Đấng đổ rượu giận dữ của Ngài trên thù địch của dân Ngài yêu (Is 63). Diễn từ sau bữa Tiệc Ly (Ga 15, 1- 6), cũng như việc Phụng vụ dùng Is 63 trong bối cảnh Tuần thánh, gợi lên một tổng hợp sống động về hai cách sử dụng chủ đề đó: Chúa Giêsu vừa là người hái nho đơn độc làm cho mối tình tuyệt vọng được hả giận hay bớt đắng cay, bằng cách dùng máu mình làm nước nho chua ra dịu ngọt, vừa là vườn nho song động, hiền thê của Đấng Dấu ái duy nhất, chạp nhận vô điều kiện việc gọt tỉa cần thiết cho mình, và sau hết đời đời là gốc nho – là đầu – của một thân thể không ngừng phát triển tứ chi bằng việc chia sẻ giòng máu sống động của Ngài, để dẫn đến cho Thiên Chúa một dân thánh, được hiệp nhất bằng nhiệm cục khải hoàn vinh thắng của tình yêu.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1.”Người bạn yêu của tôi có một vườn nho…” Isaia mở đầu bài ca tuyệt diệu về tình yêu của Chúa đối với dân Ngài như thế. Chính với một tình âu yếm sâu xa mà Thiên Chúa đã tạo dựng con người đã chọn giữa nhân loại một nhóm người thụ thác các lời Ngài hứa và chịu trách nhiệm làm cho Ngài hiện diện với tất cả. Chính với sự ân cần mà Ngài đã nuôi nấng, cưng chiều, sai phái những kẻ được chọn đó ra đi làm sứ giả mang niềm vui và lòng yêu thương âu yếm của Ngài. Khổ nỗi, thay vì sinh trái ngon ngọt của lòng trung tín và sự bình an, họ đã tạo nên hận thù, ghen tương, bạo lực. Hy vọng hái được nho ngon, Thiên Chúa chỉ nhặt được những trái chua lòm.
Việc Chúa Giêsu biến đổi bài thơ của Isaia thật quan trọng; rõ ràng là Người nhấn mạnh đến các lần liên tiếp sai phái đầy tôi, sự ân cần sốt sắng và đồng thời đức kiên trì không tưởng tượng nổi của chủ. Dù các sứ giả mình đã bao lần từ chối, gặp thất bại và chịu ngược đãi, Chúa vẫn không ngừng gởi thêm sứ giả mà dân cần đến. Lời ám chỉ thật rõ ràng. Suốt dòng lịch sử, Thiên Chúa đã cho chỗi dậy rất nhiều ngôn sứ, nhưng dân vẫn không đời nào nghe sứ điệp họ, lại còn khai trừ, ngược đãi và giết họ nữa. Cuối cùng, Ngài sai Con mình. Và Người Con đó đã bị đóng đinh ở ngoài cửa thành Giêrusalem.
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
Ý CHÍNH: Dụ ngôn những tá điền sát nhân
Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn “Những tá điền sát nhân” này để cảnh cáo các đầu mục Do Thái. Câu chuyện kể về bọn tá điền gian ác, đã được chủ vườn ưu ái trao quyền canh tác vườn nho, nhưng lại rắp tâm chiếm đọat bằng việc không chịu nộp phần hoa lợi như đã thỏa thuận. Ho đã bách hại các đầy tớ do chủ sai đến và còn giết chết chính con trai ông chủ. Số phận của bọn tá điền gian ác là sẽ bị ông chủ trừng phạt đích đáng và vườn nho được trao cho tá điền khác biết chu tòan các thỏa thuận đã ký kết.
CHÚ THÍCH:
– C 33: + Các ông: Ở đây ám chỉ các thượng tế và kỳ mục Do Thái ở Giê-ru-sa-lem. + Gia chủ và vườn nho: Trong sách ngôn sứ I-sai-a, vườn nho ám chỉ dân Ít-ra-en và chủ vườn nho là Thiên Chúa (x. Is 5,1-4). Còn trong dụ ngôn này, vườn nho lại ám chỉ Nước Thiên Chúa do Đức Giêsu thiết lập. + Rào giậu chung quanh, khoét bồn đạp nho và xây một tháp canh: Khi liệt kê các việc ông chủ đã làm cho vườn nho, Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự quan tâm và quyền sở hữu tuyệt đối của chủ vườn nho qua các việc như: rào giậu là cách bảo vệ khỏi bị người khác lấn chiếm; bồn đạp nho hay hầm ép rượu là một cái hố được đục khoét sâu vào tảng đá lớn, nho được đạp dập cho chảy ra nước cốt. Nước cốt này chảy qua máng vào một thùng lớn và được ủ trở thành rượu. Tháp canh là vọng gác luôn có người canh để đề phòng kẻ trộm. + Cho tá điền canh tác: Tá điền ám chỉ các đầu mục dân Do thái đã được Thiên Chúa trao phó trách nhiệm chăn dắt dân Ít-ra-en. Nhưng họ đã đưa dân này vào con đường thất tín và bất trung với Giao ước đã ký kết với Thiên Chúa.
– C 34: + Gần đến mùa hái nho: Gần đến nhắc ta nghĩ đến lời giảng “Nước Trời đã đến gần” của Gio-an Tẩy Giả và của Đức Giêsu (x. Mt 3,2; 4,17). Mùa hái nho là thời gian Thiên Chúa sẽ đến tính sổ với dân Ngài. + Ông sai đầy tớ đến gặp tá điền để thu hoa lợi: Đầy tớ ám chỉ các ngôn sứ Cựu Ước đã được Thiên Chúa sai đến kêu gọi dân Ít-ra-en sám hối để làm con dân của Thiên Chúa.
– C 35-36: + Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: Dân Ít-ra-en đã bắt bớ giết hại các ngôn sứ do Thiên Chúa sai đến kêu gọi họ giữ Giao ước. + Chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ: Các hình khổ của bọn tá điền làm đối với những gia nhân do chủ sai đến theo thứ tự từ nhẹ đến nặng: Đánh, giết, ném đá. Ném đá cũng là một cách giết chết, nhưng kèm thêm sự nhục nhã và đau đớn hơn nhiều. Điều này cho thấy sự chống đối của dân Ít-ra-en đối với các ngôn sứ ngày một gia tăng. Đó là thứ tội bất trung và xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa. + Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước. Nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy: Qua câu này ta thấy có hai loại ngôn sứ là ngôn sứ tiền và ngôn sứ hậu. Việc gửi các ngôn sứ hậu đông hơn ngôn sứ tiền, diễn tả lòng khoan dung kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với dân Ít-ra-en. Dù bị họ phản bội bất trung, nhưng Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi, mà vẫn tiếp tục sai các ngôn sứ khác đến cảnh cáo, ngăm đe, để giúp họ hồi tâm sám hối. Nhưng họ vẫn cố chấp giết hại các vị ấy.
– C 37-39: + Sau cùng: Đây là cơ may cuối cùng để bọn tá điền hồi tâm sám hối. + Ông sai chính con trai mình đến: Con trai ông chủ ám chỉ Đức Giêsu, vì nhiều lần Người đã xưng mình là Con Thiên Chúa (x. Mt 14,32; 16,16). + Đứa con thừa tự đây rồi: Khi thấy con ông chủ đến, bọn tá điền lập tức nhận ra kẻ thừa tự. Họ đã hành động với đầy đủ ý thức và tự do nên tội của họ rất nặng. Còn về các đầu mục dân Ít-ra-en tuy không tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (x. Mt 27,43) vì lầm chẳng biết (x Lc 23,34), nên tội của họ có thể được nhẹ đi phần nào. + Nào ta giết quách nó đi và đoạt lấy gia tài nó: Lỗi nặng nhất của các tá điền là không bhững không tiếp nhận mà còn giết hại các đầy tớ và chính người con thừa tự do chủ vườn sai đến với họ. Tội đó phát xuất từ ý muốn chiếm đoạt vườn nho. Đây cũng là lời cảnh báo chúng ta: Mỗi lần ta biến các việc thuộc về Chúa trở thành việc riêng của mình để trục lợi, là ta đã chiếm đoạt vườn nho của Chúa làm của riêng ta, như bọn tá điền làm trong Tin Mừng hôm nay. + Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi: cái chết của người con trai ông chủ do bọn tá điền làm, ám chỉ cái chết của Đức Giêsu ngoài thành Giê-ru-sa-lem lúc cuối đời Người.
– C 40-41: + Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?: Đặt câu hỏi này, Đức Giêsu muốn cho các đầu mục dân Do Thái nhận định điều gì phải quấy. + Họ đáp: “Ác giả ác báo!: Họ cũng trả lời đúng với ý của ông chủ là phải trừng phạt bọn tá điền gian ác kia. + Cho các tá điền khác canh tác vườn nho: Tá điền khác ám chỉ dân Ít-ra-en Mới là Hội Thánh. Hội Thánh sẽ thay thế dân riêng Ít-ra-en để thừa hưởng lời hứa cứu độ của Thiên Chúa.
– C 42-43: + Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao?: Đây là câu trích trong sách Thánh vịnh (x. Tv 118,22-23), gần giống với lời tuyên sấm của ngôn sứ I-sai-a (x Is 28,16). Sau này thánh Phê-rô đã ám chỉ câu này về mầu nhiệm Đức Giêsu Phục sinh, Đấng sẽ thiết lập dân mới của Thiên Chúa (x. Cv 4,11; 1 Pr 2,4-8). + Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ…: Tảng đá bị thợ xây loại bỏ ám chỉ Đức Giêsu bị bọn đầu mục Do thái sát hại, đã được Thiên Chúa nâng lên địa vị làm “Chúa” muôn loài sau cuộc tử nạn và phục sinh của Người (x. Pl 2,8-11). + Mà ban cho một dân tộc: không nhất thiết là dân ngoại, nhưng một dân mới là Hội Thánh, gồm các dân tộc tin thờ Thiên Chúa và tin vào Đức Giêsu (x. Rm 9,25; 1 Pr 2,10). Chính dân mới này sẽ thay chỗ của dân Ít-ra-en bất trung. + Biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi: Hoa lợi là phần rỗi đời đời. Tóm lại: Giao ước mới (Tân ước) sắp được ký kết giữa Thiên Chúa với loài người trong Máu Con Chiên Thiên Chúa là Đức Giêsu, sẽ thay thế Giao ước cũ (Cựu ước) được ký kết giữa Thiên Chúa với dân Ít-ra-en trong máu chiên bò thời Mô-sê.
CÂU HỎI:
1) Ý nghĩa của vườn nho trong sách ngôn sứ I-sai-a và trong Tin mừng Mat-thêu khác nhau thế nào? 2) Trong dụ ngôn, ông chủ vườn nho đã biểu lộ lòng yêu mến dành cho vườn nho của mình qua những hành động nào? 3) Bọn tá điền trong dụ ngôn ám chỉ những ai và họ đã thi hành nhiệm vụ thế nào? 4) Đầy tớ được chủ sai đến thu hoa lợi vườn nho ám chỉ những ai? 5) Bọn tá điền đã đối xử thế nào đối với các đầy tớ do chủ vườn sai đến? 6) Sự khoan dung nhẫn nhịn của chủ vườn nho thể hiện qua hành động nào? 7) Sau cùng chủ vườn nho đã sai ai đến và nhằm mục đích gì? 8) Bọn tá điền hè nhau giết hại con trai ông chủ nhằm mục đích gì? Cái chết của con trai ông chủ vườn trong dụ ngôn ám điều gì sẽ xảy ra cho Đức Giêsu sau này? 9) Câu “Ác giả ác báo” ám chỉ về ai trong dụ ngôn? 10) Tảng đá bị bọn thợ xây lọai bỏ ám chỉ ai và điều gì sẽ xảy ra cho Người? Dân tộc khác ở đây là dân nào? Làm cho sinh hoa lợi nghĩa là gì?
Sách Các Vua (x. 1 V 21,1-16) thuật lại câu chuyện về lòng tham của một ông vua như sau:
Trong thời kỳ các vua, ở Sa-ma-ri có một người tên là Na-vót. Ông là chủ đang canh tác một vườn nho. Bấy giờ vua của Sa-ma-ri là A-kháp đã sai người đến yêu cầu Na-vốt nhượng lại vườn nho ấy để làm vườn rau, vì nó nằm cạnh cung điện của nhà vua. Bù lại, vua sẽ cho ông ta một vườn nho khác tốt hơn. Hoặc nếu muốn, nhà vua sẽ trả bằng bạc theo giá thỏa thuận. Nhưng Na-vốt đã từ chối không bán vườn nho cho vua, với lý do đó là đất hương hỏa của tổ tiên để lại. Vua A-Kháp rất tức giận và buồn rầu. Nhà vua vào nằm quay mặt vào trong giường không chịu ăn uống gì cả. Bấy giờ hoàng hậu I-de-ven nghe biết đã đến an ủi vua. Bà hỏi lý do tại sao nhà vua lại buồn rầu và bỏ ăn như thế. Vua liền kể lại sự thể do Na-vốt đã không bán vườn nho cho mình. Nghe xong, hoàng hậu I-de-ven đã hứa sẽ tặng không cho vua vườn nho ấy. Rồi bà nhân danh vua A-kháp viết một bức thư, dùng con dấu của vua đóng ấn trên đó, rồi sai người mang đến nhà các kỳ mục và thân hào trong thành. Trong lá thư, bà đã đề ra một kế hoạch chi tiết để họ làm theo. Đó là xúi người đứng ra cáo gian Na-vốt đã dám nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua, rồi hội đồng sẽ xét xử và kết án Na-vốt bị ném đá chết. Dân chúng, kỳ mục và thân hào trong thành đã làm đúng theo kế hoạch hoàng hậu đã vạch ra cho họ. Sau khi Na-vốt chết, hoàng hậu liền đến gặp và giục vua chiếm lấy vườn nho của Na-vốt.
1) Về sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu:
Đức Giêsu có sứ mạng thiết lập Triều đại của Thiên Chúa hay cũng gọi là Nước Thiên Chúa. Đây là một Vương quốc bình an, hạnh phúc và đầy tràn tình thương. Nước Thiên Chúa bắt đầu trong lòng mỗi người như Đức Giêsu đã nói: “Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17,21), rồi từ đó lan rộng ra xã hội để làm thành một Vương quốc mang lại hạnh phúc vĩnh cửu cho loài người. Để hình thành Nước Thiên Chúa này, Đức Giêsu đã kiện toàn Luật Mô-sê khi nhấn mạnh đến khía cạnh tinh thần của việc thờ phượng thay vì chú trọng thờ Chúa ở hình thức bề ngoài, như Người đã nói với người phụ nữ Sa-ma-ri: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem… Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,21.23).
Tuy nhiên các lời rao giảng về Nước Thiên Chúa của Đức Giêsu chỉ được lớp người bình dân đón nhận, đặc biệt là những người thu thuế và những cô gái điếm tội lỗi đi theo Người rất đông… Còn các người lãnh đạo là các Thượng tế, Kinh sư, Biệt phái… lại quyết liệt chống đối vì cho rằng Đức Giêsu đã phá bỏ truyền thống của cha ông. Do đó nhiều lần họ đã dò xét và tranh luận với Đức Giêsu về nhiều vấn đề như: Việc rửa tay trước khi ăn, việc ăn chay, việc chữa bệnh trong ngày hưu lễ Sa-bát, quyền xua đuổi con buôn ra khòi Đền Thờ… Đặc biết họ phẫn nộ khi nghe Đức Giêsu xưng mình là Con Thiên Chúa, gọi Thiên Chúa là Cha và coi mình ngang hàng với Thiên Chúa… Nên cuối cùng họ đã họp nhau quyết định: “Hắn đáng chết!” (Mt 26,59-66). Khi kể dụ ngôn những người tá điền sát nhân này, Đức Giêsu đã cho biết Người sẽ bị các đầu mục dân Do thái giết chết và về số phận của bọn người gian ác này (Mt 21,33-39).
2) Về ý nghĩa của dụ ngôn bọn tá điền sát nhân:
Câu chuyện trong dụ ngôn là một bản tóm lược về ơn cứu độ của Thiên Chúa, trong đó mỗi chi tiết đều mang một ý nghĩa liên quan tới lịch sử cứu độ: Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa, vườn nho là dân Ít-ra-en được Thiên Chúa chọn làm dân riêng của Ngài: Chúa đã thiết lập Giao ước Xi-nai với dân này qua trung gian ông Mô-sê, gọi là Cựu ước. Người đã bảo vệ và hướng dẫn họ như ông chủ vườn nho rào giậu, làm bồn đạp nho và vọng gác. Bọn tá điền sát nhân ám chỉ các nhà lãnh đạo đã đưa dân vào con đường bội nghĩa bất trung. Các đầy tớ của chủ vườn ám chỉ các ngôn sứ đã bị các đầu mục Do thái đối xử tàn tệ. Người con trai của chủ vườn là chính Đức Giêsu cũng sẽ bị họ đóng đinh trên núi Sọ ngoài thành Giê-ru-sa-lem. Các đầu mục Do Thái tưởng rằng khi giết được Đức Giêsu, họ sẽ nắm được trọn quyền lãnh đạo dân tộc. Nhưng trái lại, họ sẽ bị mất quyền ấy và tòan dân cũng bị vạ lây là thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị tàn phá vào năm 70 sau này. Còn Nước Thiên Chúa sẽ được giao cho một dân khác biết làm phát sinh hoa lợi, đó là Hội Thánh. Hội Thánh được ký giao ước mới với Thiên Chúa nhờ máu Đức Giêsu chịu chết trên thập tự: Người là “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại sẽ trở nên đá tảng góc tường”. Người là Con Thiên Chúa bị dân Do Thái là bọn thợ xây giết hại. Nhưng đến ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại và được “Thiên Chúa siêu tôn và tặng ban Danh hiệu trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu. Để khi vừa nghe Danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ. Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng “Đức Giêsu Ki-tô là Chúa” (PI 2,10-11).
3) Chúng tôi phải làm gì?
– “HỒNG ÂN THIÊN CHÚA BAO LA”: Thiên Chúa là chủ vườn nho, đã ban cho loài người biết bao hồng ân như thánh Phaolô đã viết: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” (1 Cr 4,7). Chúa trao cho ta một nén vàng và ta có bổn phận phải làm lợi ra gấp năm gấp mười nén khác. Ngài giao cho chúng ta trọn quyền làm chủ vườn nho tượng trưng cho sinh mạng, sức khoẻ, tài năng, phương tiện sinh sống, thời giờ và cả con cái hay những người chúng ta có bổn phận chăm sóc… Sau này chúng ta sẽ phải trả lẽ về phần hoa lợi phải nộp cho Ngài là các việc lành. Vậy chúng ta sẽ nộp cho Chúa phần hoa lợi nào khi ra trước tòa Chúa phán xét ở đời sau?
– TRÁNH THÓI THAM LAM: Sự tham lam là thói thường của con người: “Lòng tham vô đáy” được biểu hiện qua các thái độ: “Được voi đòi tiên”, “Theo đạo lấy gạo mà ăn”, hoặc “Sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi”, “Cúi đầu lạy Chúa Ba Ngôi, cho tôi được vợ tôi thôi nhà thờ”… Chúa trao trách nhiệm coi sóc vườn nho của Ngài cho ta và chỉ cần ta dâng lại một một phần nhỏ hoa trái làm ra. Thực ra Thiên Chúa không cần những thứ ta dâng, vì Ngài hoàn toàn sung mãn. Nhưng qua hành động dâng tiến đó, ta mới chứng tỏ được lòng mến Chúa và sẽ được Chúa ban thêm nhiều hồng ân, nhất là ơn cứu độ đời đời. Vậy hiện nay tôi đang theo đạo nhằm mục đích gì?
– NƯỚC THIÊN CHÚA SẼ BỊ LẤY ĐI: Câu cuối cùng trong bài Tin Mừng không chỉ là lời Chúa cảnh cáo các thượng tế và đầu mục dân Ít-ra-en, mà cũng là lời cảnh báo mỗi tín hữu chúng ta. Có khi nào Chúa sẽ lấy đi “ơn cứu độ” khỏi tay chúng ta để ban cho anh em lương dân thành tâm thiện chí đón nhận Chúa Giêsu không? Chúng ta sẽ bị Chúa lấy ơn Chúa khi chúng ta “đánh, giết, ném đá” những ngôn sứ là những vị chủ chăn trong Hội Thánh được Chúa sai đến coi sóc hướng dẫn chúng ta. Chúng ta sẽ bị lấy đi ơn cứu độ khi chúng ta cố tình phạm tội trọng, khi chúng ta không cầu xin ơn Thánh Thần đến thánh hóa chúng ta, khi chúng ta không biết làm phát triển nén vàng đức tin được trao cho chúng ta quản lý.
– “ÁC GIẢ ÁC BÁO”: là lời cảnh cáo các tín hữu tham lam, lợi dụng tôn giáo để mưu cầu ích lợi cho bản thân mình. Thiên Chúa luôn tỏ ra kiên nhẫn trước những sự bất trung của con người. Nhưng sẽ đến ngày thái độ kiên nhẫn phải nhường chỗ cho sự xét xử công minh. Đó là giờ chết của mỗi người hay là ngày tận thế chung của toàn nhân loại. Vậy ngay từ bây giờ mỗi tín hữu chúng ta phải làm gì? Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê cũng là khuyên chúng ta về cách ăn nết ở như sau: “Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (PI 2,14-15).
1) “Tất cả đều là hồng ân”. Bạn có đồng ý với câu khẳng định đó không khi bản thân bạn liên tiếp gặp phải những tai nạn rủi ro và những sự trái ý cực lòng? 2) Thiên Chúa có quảng đại không, khi đòi chúng ta phải làm lợi thêm những nén vàng Ngài đã trao cho ta, hay khi Ngài đòi thu phần hoa lợi từ vườn nho tài năng mà Ngài đã trao cho ta trọn quyền sử dụng?
– Lạy Chúa Cha Từ Ái. Mỗi người chúng con đều là những tá điền được Cha trao sứ mệnh canh tác vườn nho của Cha. Vườn nho đó chính là những người thân yêu trong gia đình ruột thịt, là bà con chòm xóm, là xứ đạo, đất nước và Hội Thánh mà chúng con được mời gọi phục vụ.
– Xin cho các tín hữu chúng con biết chiếu sáng đức tin như những vì sao trên trời. Xin cho đức tin của chúng con luôn thể hiện qua đức cậy là lời cầu nguyện phó thác nơi Cha, và đức mến là thái độ khiêm nhường phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ những người nghèo đói bệnh tật hay bị bỏ rơi… Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ được Chúa chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho chúng con đời này và đời sau.
HÃY LÀM NẢY SINH NHIỀU HOA LỢI CHO CHỦ MÌNH
Tại sao những người tá điền lại nhẫn tâm”bắt các đầy tớ [của ông chủ]: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ [và còn dám cả gan]… bắt lấy [con trai của ông], quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi” như vậy thưa bạn (Mt. 21:35,39)?
Bạn nghĩ thử mà xem, khi kiếm người trông nom và quản lý tài sản trong một thời gian dài và nhất là khi phó thác số tài sản lớn của mình trong tay của người đó thì ông chủ nhất định phải khôn khéo lựa chọn những người có lý lịch trong sạch, có uy tín và thật đáng tín nhiệm chứ! Chắc chắn ông phải điều tra kỹ lắm! Thế thì tại sao những người tá điền này lại trở thành những tên sát nhân độc ác như vậy? Chắc có nhiều lý do lắm. Thế nhưng theo tôi, lý do chính khiến cho những người tá điền chất phác này trở thành những tên sát nhân ác tâm như vậy là bởi vì họ không có HOA LỢI để nộp cho chủ.
Tôi và bạn, chúng mình đều là những tá điền, là những người quản lý trong vườn nho của ông chủ tốt lành là Thiên Chúa. Nhiệm vụ của chúng mình là phải làm sản sinh ra nhiều HOA LỢI cho Ngài.
Tôi hỏi thật bạn nhé! Bạn đã làm ra nhiều HOA LỢI cho ông chủ của bạn hay chưa?
Sống trong ơn gọi hôn nhân, bạn được ông chủ trao cho công việc quản lý một vườn nho trong đó toàn là những giống nho tốt, đó là cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, cháu chắt của bạn… Nhiệm vụ của bạn là phải làm cho những cây nho này trổ sinh hoa trái ngon ngọt và sinh thật nhiều HOA LỢI cho Ngài.
Nếu bạn đang sống trong ơn gọi tu trì thì bạn và tôi chúng mình được ông chủ trao cho công khá nặng nề đấy! Chúng mình phải đứng trên những tháp canh, làm công tác bảo vệ vườn nho, trông coi những bồn đạp nho và làm đốc thúc công nhân làm việc để nhờ vậy HOA LỢI của ông chủ càng ngày càng gia tăng.
Bạn thân mến, nếu tôi và bạn, chúng mình không biết làm sinh HOA LỢI cho ông chủ thì… căng đấy!
Bạn có tin rằng khi không có hoa lợi nộp cho chủ, chúng mình sẽ lâm vào cảnh “đói ăn vụng túng làm liều.” Lúc đó tôi và bạn không chừng sẽ trở thành những tên sát nhân còn nhẫn tâm và ác ôn hơn là những tên tá điền trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay!
Nếu chúng mình thấy chưa có HOA LỢI để nộp cho ông chủ thì hãy nhanh tay lên, phải khẩn trương lên, bạn và tôi vẫn còn thời gian để làm cho HOA LỢI của ông chủ nảy sinh thêm. Đừng để cho ông chủ nổi giận và “tru diệt bọn chúng [mình], và cho các tá điền khác canh tác vườn nho” (Mt. 25:41).
Chúng mình hãy cầu nguyện cho nhau để bạn và tôi sẽ trở thành những người quản lý thông minh và khôn khéo, biết làm cho hoa lợi của ông chủ nảy sinh gấp bội. Làm được như vậy chắc chắn ông chủ sẽ rất hài lòng!
Tôi bảo đảm, nếu chúng mình làm nảy sinh nhiều HOA LỢI cho vườn nho của Chúa thì Ngài sẽ tươi cười và nói với chúng mình trong ngày sau hết: “Khá lắm! hỡi [những] đầy tớ tài giỏi và trung thành!… Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ [các] anh!” (Mt. 25:21).
Năm 1965 trong chuyến bay từ Ý qua Mỹ, có một số Giám Mục trở về sau khi tham dự Công đồng Vaticanô II. Có 1 nữ chiêu đãi viên rất xinh đẹp nhưng cô lại rất bực mình vì có một người cứ chăm chú nhìn cô, người đó là Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen, vị giảng thuyết lừng danh của Hoa Kỳ. Khi hạ cánh, Đức Tổng nói với cô: “cô đẹp lắm, cô hãy cám ơn Chúa vì đã cho cô đẹp.” Mấy hôm sau cô chiêu đãi viên này tìm đến văn phòng Đức Tổng và hỏi con phải cám ơn Chúa thế nào? Đức Tổng trả lời: “Chúa đã lấy hết sắc đẹp của người cùi trong trại cùi Di linh bên VN mà ban cho cô, cô hãy qua đó an ủi họ.” Sau một thời gian, cô này đã nhập Dòng làm nữ tu và tình nguyện sang Việt Nam phục vụ tại trại cùi Di Linh.
Một tấm gương sáng và rất anh hùng.
Bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm đều nói về vườn nho. Vườn nho đó chỉ về dân Do Thái là dân riêng Chúa và cũng chỉ về mỗi người Công giáo chúng ta, vì khi chịu phép Rửa tội chúng ta thuộc về Giáo hội, là dân riêng Chúa.
Có 3 điểm nói về Thiên Chúa.
a/ Thiên Chúa tin tưởng con người: Ngài là chủ vườn nho, nghĩa là chủ thân xác và linh hồn chúng ta, nhưng Ngài tin tưởng và giao cho chúng ta canh tác, ban cho chúng ta có tự do để làm ích lợi hay làm thất thoát vườn nho đó.
b/ Thiên Chúa kiên nhẫn với con người: Ngài ban ân huệ như rào dậu chung quanh, xây tháp canh, đào hầm ép rượu, cho người tới thăm hỏi, cho thời gian sinh lợi.
c/ Thiên Chúa phán xét con người: Sau cùng khi đến hạn là lúc chúng ta nằm xuống, Ngài phán xét tùy theo chúng ta sống: phục vụ hay ích kỷ, sinh lợi hay khô cằn, chuyên cần hay lười biếng…
Có 3 điểm nói về con người.
a/ Con người có ân huệ Chúa ban: tự do, thời giờ, khả năng, ơn thánh… Thiên Chúa đã ban đủ phương tiện để chúng ta đạt mục đích.
b/ Con người có nhiều cơ hội: Chúa đã sai nhiều người tới nhắc nhở, cho nhiều biến cố xẩy ra để cảnh báo, cho nhiều thời gian để lập công phúc…
c/ Con người phải trả lẽ trước toà Chúa: mẫu số chung của con người là cái chết. Chúa có dịp hái nho ngọt để thưởng thức hay nho dại để đốt đi. Hoa lợi sinh cho Chúa là những việc lành hay gai góc là những việc xấu.
Ai cũng có 1 kiếp sống và chỉ một kiếp sống mà thôi. Chúng ta không có 2 kiếp để đánh đổi hay thử nghiệm. Những việc chúng ta làm ở đời nàysẽ định đoạt cho chúng ta ở đời sau. Thiên Chúa muốn cuộc sống của chúng ta phải sinh lợi cho Chúa và tha nhân. Ngài ban đủ phương tiện, Ngài cho đủ thời gian, Ngài không đòi hỏi điều vô lý hay quá sức chúng ta. Những chùm nho chín ngọt mà Thiên Chúa mong muốn là những nhân đức, những việc lành, những hy sinh, những phút giây cầu nguyện, những hành vi bác ái…
Cầu chúc cho nhau, với Ơn Chúa giúp và sự cố gắng của mỗi người, cuộc đời mình là Vườn Nho xanh tươi và chùm nho chín ngọt.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn