SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN A - LM. INHAXIO HỒ THÔNG
Thứ hai - 31/07/2017 04:22
1428
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN A
Trong Kinh Thánh, cái đói và cái khát mà con người cảm nhận trong thân xác được dùng để sánh ví với cái đói và cái khát của con người đối với những thiện hảo tinh thần. Đặc biệt ơn cứu độ được hình tượng về một bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi những người được Ngài tuyển chọn.
Is 55: 1-3
Trong Bài Đọc I, ngôn sứ I-sai-a loan báo cho những người lưu đày cuộc giải thoát gần kề của họ dưới ẩn dụ của một bàn tiệc đầy cao lương mỹ vị. Điều này muốn nói rằng Thiên Chúa tha thứ cho họ, làm mới lại Giao Ước của Ngài và ban cho họ muôn vàn ân phúc.
Rm 8: 35, 37-39
Trong Bài Đọc II được trích từ thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô hùng hồn ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa, được mặc khải ở nơi Đức Giê-su Ki-tô.
Mt 14: 13-21
Tin Mừng theo thánh Mát-thêu thuật lại phép lạ hóa bánh ra nhiều. Khi nuôi đám đông dân chúng ăn no nê, Đức Giê-su đưa ra một dấu chỉ báo trước lương thực đích thật mà Ngài sẽ thiết đãi nhân loại: bàn tiệc Thánh Thể.
BÀI ĐỌC I (Is 55: 1-3)
Lời mời gọi hãy đến mà ăn và uống cho thỏa thích được gởi đến những người bất hạnh, tức là những người lưu đày tại Ba-by-lon, họ phải chịu những túng thiếu đủ mọi thứ trong nhiều năm qua. Ở giữa họ, một vị ngôn sứ đứng lên, vào giữa những năm 550 và 540 trước Công Nguyên, không ngừng khích lệ họ hãy hy vọng: ông hứa với họ một sự giải phóng gần kề. Chẳng bao lâu Thiên Chúa sẽ tuôn đổ muôn vàn ân phúc của Ngài cho họ.
Vị ngôn sứ phát biểu như trên là vị ngôn sứ được gọi dưới biệt danh là I-sai-a đệ nhị. Sứ điệp của ông, gồm các chương 40-55 của sách I-sai-a, đã được đề tựa là “Sách An Ủi”. Bản văn chúng ta đọc hôm nay là đoạn mở đầu của phần kết.
1.“Đến cả đi, hỡi những người đang khát”;
Vị ngôn sứ nói nhân danh Đức Chúa, ông xóa mình sau sứ điệp ông truyền đạt đến mức người ta không biết chút gì về thân thế của ông, thậm chí ngay cả tên tuổi của ông.
Vị ngôn sứ phác họa chân dung Đức Chúa như một người bán hàng rong rảo qua các đường phố và các công trường rao bán mặt hàng của mình, nhưng với một sự khác biệt: những mặt hàng mà Thiên Chúa đề nghị thì hoàn toàn cho không chứ không bán. Những mặt hàng mà Thiên Chúa đề xuất được trình bày theo lược đồ rất quen thuộc của Cựu Ước: ở bên kia lời hứa ban “của ăn thức uống vật chất”, xưa kia là Vườn Địa Đàng, là bánh Man-na trong hoang địa, là Đất Hứa chảy sữa và mật ong, ẩn hiện những “của ăn thức uống thần thiêng”, tức là Lời Chúa, lương thực tuyệt hảo và sau cùng lời mời gọi tham dự bàn tiệc “Giao Ước”.
2.Lương thực vật chất:
Trong lời mời gọi của Thiên Chúa: “Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng, đến mua rượu và sữa, không phải trả đồng nào”, ngôn từ của vị ngôn sứ hàm chứa hai khía cạnh: vừa thực vừa biểu tượng. Đừng giãm thiểu quá mức khía cạnh thực: những người lưu đày sắp được tư do và có thể lại được nếm rượu ngon của những vườn nho xứ Pa-lét-tin, lại được uống sữa từ đàn gia súc của họ và lại được thưởng thức thịt béo của những bữa ăn hy tế mà đã bao năm qua họ đã bị tước đi. Rượu luôn luôn là biểu tượng niềm vui và sữa là dấu chỉ của sự thịnh vượng phú túc.
3.Lương thực thần thiêng:
Nhưng sâu xa hơn, là lương thực thần thiêng. Những của ăn thức uống Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến Ngài thường được diễn tả trong Cựu Ước qua những hình ảnh về bữa ăn, bánh, rượu, món ăn hảo hạng. Ơn cứu độ dành cho những người công chính vào thời thiên sai được diễn tả qua những ẩn dụ như thế. Hình ảnh nước trào lên tận nguồn chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh như biểu tượng sự sống thần linh. Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su sẽ lấy lại lời của vị ngôn sứ, vào tuần lễ Lều: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống!” (Ga 7: 37). Cũng vậy, Chúa Ki-tô quang vinh của sách Khải Huyền công bố: “Ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy đến lãnh nước trường sinh mà không phải trả tiền” (Kh. 22: 17).
Một bản văn của sách Châm Ngôn đưa ra một sự đối chiếu với bản văn hôm nay: Đức Khôn Ngoan kêu to ngoài đường phố, cất tiếng nơi quảng trường, kêu gọi nơi ồn ào náo nhiệt, tuyên bố nơi cổng thành, mời gọi tất cả những ai muốn nếm những thiên ân của mình hãy đến mà tham dự bàn tiệc của mình: “Hãy đến mà ăn bánh của Ta và uống rượu do Ta pha chế!” (Cn 9: 5). Bàn tiệc Đức Khôn Ngoan thiết đãi rõ ràng hoàn thoàn thuộc về thần thiêng. Ở đây cũng vậy: “Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào các thứ chẳng làm cho ấm dạ no lòng”: chỉ lương thực đích thật duy nhất đó là Lời Chúa: “Hãy lắng tai, và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống”. Lời kêu gọi này gợi nhớ lời kêu gọi của Đức Giê-su: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6: 27).
4.Bữa tiệc Giao Ước:
Sứ điệp của vị ngôn sứ còn nói gì với những người lưu đày? Sứ điệp này loan báo cho họ biết rằng họ sắp được giải thoát; và còn hơn thế nữa, sứ điệp này là lời hứa về một giao ước mới giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Mọi giao ước đều được đóng ấn trong một bữa ăn. Thức ăn thật hay thức ăn biểu tượng mà Thiên Chúa thiết đãi những người lưu đày là những dấu chỉ của Giao Ước Mới muôn năm bền vững, trong cùng hàng với những lời hứa được ban cho vua Đa-vít.
Vài thập niên trước đó rồi, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã nhận ra ở nơi những biến cố nghiêm trọng: thành thánh Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị thiêu hủy, dấu chỉ tiên báo về những mối liên hệ mới giữa Thiên Chúa và dân Ít-ra-en: Giao Ước Mới sẽ được ghi khắc, không còn trên đá, nhưng trong lòng. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã lập lại tư tưởng này. Đến phiên mình, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị công bố Giao Ước Mới này. Khi nhắc lại mẫu gương của vua Đa-vít, vị ngôn sứ làm xao động những người lưu đày với những tư tưởng rất thân thiết với họ: những gì Thiên Chúa đã hứa về thành thành Giê-ru-sa-lem và nhà Đa-vít thì Ngài vẫn giữ lời, không hề sai chạy. Như vậy, Thiên Chúa đã thật sự không quên dân Ngài.
5.Khía cạnh ngôn sứ:
Khía cạnh ngôn sứ của sứ điệp thì hiển nhiên: một lời tiên báo bàn tiệc thời Mê-si-a, tức là ơn cứu độ. Đức Giê-su sẽ là hiện thân Thiên Chúa trong mọi ngã đường và trên các công trường. Trước tiên, chính Ngài sẽ đề nghị những lương thực vật chất: cung cấp rượu cho tiệc cưới làng quê Ca-na, sẽ ban bánh và cá để nuôi dưỡng đám đông đói khát, chữa lành các bệnh nhân, vân vân, ngỏ hầu mọi người nhận ra rằng Ngài là Đấng cứu độ và ban sự sống, và Ngài mời gọi dự phần vào bữa ăn làm no thỏa mọi đói và khát: bàn tiệc Thánh Thể.
Bản văn của vị ngôn sứ chuẩn bị cho chúng ta hiểu Tin Mừng hôm nay một cách sâu xa.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 35, 37-39)
Những lời thổ lộ đầy cảm xúc này hoàn tất bài ca hy vọng và khải hoàn, qua đó thánh Phao-lô đóng lại chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma; thực tế, đây phần đạo lý của thư này.
Sau khi đã chứng tỏ làm thế nào mọi người, Do thái cũng như dân ngoại, bị giam hãm trong vòng tội lỗi, và làm thế nào nhờ Đức Ki-tô họ được tách ra khỏi tội lỗi, thánh nhân đã phô bày, trong chương 8 này, sự mới mẽ của người Ki-tô hữu: một đời sống theo Thần Khí và trong niềm hy vọng được dự phần vào vinh quang Thiên Chúa.
Chương trình của Thiên Chúa làm chứng về một tình yêu bao la mà con người là đối tượng. Lúc đó, thánh Phao-lô để mặc cho tình cảm nồng nàn của mình tuôn tràn ra dưới ngòi bút thành một bài thánh thi bộc phát, tôn vinh tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Những dòng sau cùng này được chất chứa biết bao sự hùng hồn và niềm cảm xúc.
1.Người Ki-tô hữu đối mặt với trăm chiều thử thách:
Thánh Phao-lô chọn hình thức nghi vấn. Thư hỏi những thử thách nào có thể khiến chúng ta nghi ngờ tình yêu của Thiên Chúa? Phải chăng là những đau đớn cùng cực nhất? Chắc chắn thánh Phao-lô nghĩ đến tất cả những khốn khổ mà thánh nhân đã kinh qua. Ngoài những nỗi gian truân mà thánh Phao-lô đã nêu lên nhiều lần (1Cr 4: 9-13; 2Tm 11), thánh nhân còn thêm vào ở đây, như từ sự linh cảm của mình, “gươm giáo”, đó sẽ là dụng cụ của cuộc tử đạo của ngài. Nhưng, đại từ “chúng ta” mà thánh Phao-lô sử dụng chứng thực rằng thánh nhân cũng nghĩ đến hết mọi người Ki-tô hữu đang gặp phải những khó khăn và những phiền nhiễu.
Thánh Phao-lô mạnh mẽ khẳng định rằng trong mọi gian nan thử thách, những Ki-tô hữu là những người toàn thắng trong cuộc chiến của họ, nhờ Đấng đã yêu mến họ. Họ càng yếu hèn, thì họ càng cảm thấy sự hiệu nghiệm nội tại và thân tình của Thiên Chúa: thánh Phao-lô biết được điều này từ chính kinh nghiệm của mình.
2.Người Ki-tô hữu đối mặt với thế gian thù ghét:
Để hoàn thiện những ví dụ của mình, thánh Phao-lô khai trừ ra khỏi những người Ki-tô hữu nỗi sợ hãi mà họ có thể có về những quyền lực bí nhiệm ám ảnh vũ trụ và dự phần vào việc điều hành vũ trụ, cũng như về mọi cảnh huống cuộc đời con người: sự sống và sự chết, hiện tại và tương lai.
Những mê tín dị đoan cổ xưa đầy dẩy trong vũ trụ với những quyền năng ít nhiều tác hại, chúng dễ dàng giải thích sự hiện diện của các ác thần. Những mê tín này càng lúc càng gia tăng tạo cơ hội thuận tiện cho việc phát triển khoa chiêm tinh, từ đó, những tín ngưỡng tràn lan dễ dàng hơn nữa khi mà niềm tin trong các tôn giáo truyền thống bị sa sút.
Kiểu nói “Thiên thần hay ma vương quỷ lực” chắc chắn ám chỉ đến những sức mạnh quỷ thần, có thể những quyền lực của các thiên thần sa ngã (x. Ep 1: 21; 3: 18; Cl 1: 16; 2: 10-15). Kiểu nói “Bất kỳ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” có lẽ gợi lên từ vựng chiêm tinh và những “định mệnh” đè nặng trên số mệnh của con người.
Còn đối với những cách nói “sự sống hay sự chết”, “hiện tại hay tương lai”, đây là những cặp đối ngẫu. Thánh Phao-lô sử dụng chúng ở nơi khác trong một mạch văn lạc quan hơn, như khi thánh nhân viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Dù cả thế gian này, sự sống hay sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Ki-tô, và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa” (1Cr 3: 22). Ở trong đoạn trích thư hôm nay, thánh Phao-lô nhắm đến khía cạnh bi quan: cái chết với những xao xuyến của mình, cuộc sống với những bận lòng của mình, hiện tại với những lo âu của mình, tương lai với những bấp bênh của mình.
Thánh Phao-lô không muốn nói rằng thánh nhân xem những niềm tin này và những sợ hãi này là của mình. Với một sự thanh thản bình yên, thánh nhân khẳng định rằng không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã bày tỏ một cách rạng rỡ tình yêu của Ngài đối với con người khi ban cho họ Con của Ngài. Đó là nền tảng niềm xác tín của người Ki-tô hữu và là lý do cuộc toàn thắng của họ trên những quyền lực bên ngoài, dù đó là gì đi nữa. Người Ki-tô hữu “trong Đức Giê-su Ki-tô” sống bằng tình yêu này.
TIN MỪNG (Mt 14: 13-21)
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng thuật lại. Quả thật, dường như trong số những phép lạ mà Đức Giê-su thực hiện thì đây là phép lạ đặc trưng nhất, vén mở rõ nhất con người của Đức Giê-su. Bốn bài tường thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều bổ túc cho nhau và soi sáng cho nhau; mọi chi tiết đều hướng đến sự súc tích và sự chính xác của chúng.
Đức Giê-su tìm cách lánh vào nơi hoang vắng một mình với các môn đệ Ngài. Để được yên tỉnh, Ngài lặng lẽ xuống thuyền qua bên kia biển hồ Ghê-nê-sa-rét để lánh xa đám đông. Nhưng đám đông đã nhận biết, vì thế họ theo đường bộ dọc theo bờ và đến nơi trước khi thuyền cập bến.
1.Một ngày đầy hồng ân:
Đức Giê-su không còn sống cho chính mình; Ngài đến để hiến dâng mạng sống mình cho con người. Dù sự hiện của đám đông làm xáo trộn dự định của Ngài, Ngài vẫn ân cần tiếp đón họ; Ngài động lòng thương trước những nỗi khốn khổ của họ và “chữa lành các bệnh nhân của họ”. Thánh Mác-cô và thánh Lu-ca nói: Ngài dạy dỗ họ suốt ngày (Mc 6: 34; Lc 9: 11). Khi chiều xuống, Ngài hoàn tất ngày này bằng một cử chỉ báo trước cuộc tự hiến của Ngài.
Đức Giê-su đã không lưu lại trên bờ nhưng dẫn đám đông vào nơi hoang vắng. Hoàn cảnh, thời điểm mà biến cố được định vị, những chi tiết được các tác giả Tin Mừng vén mở, nêu bật sự đồng nhất của những dấu chỉ.
2.Tính nhất quán của những dấu chỉ:
Thánh Mát-thêu nhấn mạnh đến hai lần nơi này thì hoang vắng. Như vậy, thánh ký hướng tư tưởng người đọc về thời Xuất Hành, khi người Do thái trong hoang địa lâm vào cảnh đói khát và nhận được từ trời bánh man-na kỳ diệu. Đức Giê-su là Mô-sê mới, trong hoang địa Ga-li-lê này Ngài sắp ban bánh kỳ diệu cho dân ăn no nê.
Thánh Mát-thêu nói: “Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ”. Thánh Gioan nói: “Chỗ ấy có nhiều cỏ” (Ga 6: 10). Thánh Mác-cô cũng nói: “Người truyền cho các ông bảo họ ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh” (Mc 6: 39). Chỉ vào mùa xuân cỏ non mới thật sự đem lại màu xanh tươi cho miền Pa-lét-tin. Dấu chỉ này chắc chắn muốn nói rằng Đức Giê-su là vị mục tử nhân lành mà các ngôn sứ và các thánh vịnh gia đã loan báo, chính Ngài dẫn đoàn chiên của mình đến đồng cỏ xanh tươi. Thánh Mác-cô đã gợi lên như vậy: “Đức Giê-su chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”(Mc 6: 34). Trái ngược với sự chểnh mảng của các thủ lãnh Ít-ra-en, Đức Giê-su hành xử như “vị Mục Tử thời thiên sai”, Ngài tận tình chăm lo dân Ngài.
Thời điểm biến cố xảy ra được thánh Gioan xác định rõ hơn nữa: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua” (Ga 6: 4). Sự kiện này giải thích tầm quan trọng của đám đông. Chính ở thành Ca-phác-na-um và trong các thành phố ven biển hồ Ghê-nê-sa-rét mà những đoàn người hành hương đến từ miền Ga-li-lê quy tụ lại, để rồi từ đó mà người ta khởi hành thành từng nhóm tiến về thành thánh Giê-ru-sa-lem mừng đại lễ Vượt Qua. Mặt khác, chính thời điểm sắp đến lễ Vượt Qua đem lại một cung giọng đặc biệt cho hành vi cử chỉ của Đức Giê-su. Đây là một hành vi cử chỉ ngôn sứ, loan báo lễ Vượt Qua mới.
3.Dấu chỉ về Thánh Thể:
Phép lạ bánh hóa nhiều rõ ràng soi sáng cho việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Các Tông Đồ đã hiểu như vậy, các tác giả Tin Mừng cũng hiểu như vậy, như thánh Mát-thêu viết: “Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho các môn đệ”. Những ngôn từ ở đây rất tương xứng với những ngôn từ khi Đức Giê-su lập bàn tiệc Thánh Thể.
Việc chia sẻ bánh hóa nhiều trên đồi Ga-li-lê báo trước việc phân phát bánh hóa nhiều khác, bánh Thánh Thể, tức là chia sẻ sự hiện diện hóa nhiều từ Thân Thể vinh quang của Đức Giê-su, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu người, mỗi phút giây và khắp hoàn vũ, cho đến ngày tận thế.
Bánh được ban trên đồi Ga-li-lê thì dư dật như rượu được ban ở tiệc cưới Ca-na. Người ta thu lại những mẫu bánh còn thừa được mười hai thúng đầy: con số mười hai ám chỉ đến mười hai chi tộc Ít-ra-en, cũng như mười hai Tông Đồ, họ đại diện dân Thiên Chúa mới. Hơn nữa, những mẫu bánh còn thừa muốn nói lên rằng có đủ chỗ cho những người khách được mời khác vào bàn tiệc Thiên Chúa.
4.Dấu chỉ thời thiên sai:
Cử chỉ của Đức Giê-su không chỉ có một tầm mức Thánh Thể, nhưng còn đưa ra một ý nghĩa trực tiếp: ý nghĩa về bàn tiệc thời thiên sai. Các sấm ngôn ((Is 55: 1-3; 49: 10), các thánh vịnh (132: 15; 78: 24-27), các sách minh triết đã loan báo điều đó: triều đại thiên sai sẽ được đánh dấu bởi những dấu chỉ của sự dồi dào và no thỏa, những hình ảnh này báo trước bàn tiệc cánh chung, bàn tiệc mà Thiên Chúa sẽ thiết đãi cho những người được tuyển chọn trong Nước Trời. Chúng ta đã đọc một trong những bản văn này ở Bài Đọc I: hình ảnh về của ăn thức uống dồi dào được đề nghị một cách nhưng không cho những người lưu đày báo trước giờ Thiên Chúa giải thoát, giờ Thiên Chúa tha thứ và giờ Thiên Chúa ân cần săn sóc dân Ngài.
Đó cũng là ý nghĩa của bữa ăn mà Chúa Giê-su đề nghị cho đám đông: thời điểm cứu độ đã đến, giờ Thiên Chúa hiện diện và hành động giữa con người, giờ Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Ngài. Đó là giờ Đức Giê-su bày tỏ tấm lòng yêu thương của Đức Giê-su đối với đám đông dân chúng, những người đã đi bộ một quảng đường dài để được gặp lại Ngài, họ đã lắng nghe Người suốt ngày, và chiều xuống họ không có gì ăn. Đức Giê-su làm thỏa mãn cơn đói khát phần xác của họ để giúp họ hiểu rằng Ngài có thể cho họ no thỏa cơn đói khát phần hồn nữa.
5.Dấu chỉ về Lời Thiên Chúa:
Dấu chỉ thời thiên sai khác không được bày tỏ minh nhiên nhưng chúng ta không thể không nghĩ đến:“bánh biểu tượng cốt yếu Lời Thiên Chúa”. Có mối liên hệ thường hằng trong Kinh Thánh giữa bánh là thức ăn ban sự sống cho thân xác con người và Lời Thiên Chúa là lương thực thần thiêng cung cấp sự sống đích thật. Qua việc ban bánh một cách dư dật, Đức Giê-su tỏ mình ra là Ngôi Lời Thiên Chúa ở giữa loài người như trong Am 8: 11: “Đây sắp đến những ngày Ta sẽ gieo nạn đói trên xứ này, không phải đói bánh ăn, cũng không phải khát nước uống, mà đói khát được nghe lời Đức Chúa”, hay trong Đnl 8: 3: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra”.
6.Dấu chỉ về Giáo Hội:
Phải nhận ra rằng trong phép lạ hóa bánh ra nhiều dấu chỉ mà thánh Mát-thêu nhấn mạnh nhất là dấu chỉ về Giáo Hội. Phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ duy nhất Đức Giê-su cho các môn đệ can dự vào. Các môn đệ là những người gợi ý với Thầy cho dân chúng về để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn. Nhưng Đức Giê-su đáp: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy liệu cho họ ăn”. Các môn đệ cố lẫn tránh vấn đề này, vì họ không có gì cả. Về phương diện con người, không có giải pháp nào có thể. Bài học thật khủng khiếp. Giáo Hội thường phải đối mặt với những vấn đề bên ngoài xem ra không thể giải quyết được, nếu như không có đức tin. Chính xác là Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài phải tín thác vào Ngài. Tiếp đó, chính qua họ mà Ngài trao phó việc ân cần phân phát bánh và cá: họ là những thừa tác viên của những thiên ân. Nhờ họ, ân ban Thánh Thể và ân ban Lời Thiên Chúa sẽ được tiếp diễn mãi. Còn đám đông dân chúng, hỗn hợp và đông đảo, quy tụ chung quanh Đức Giê-su và dự phần vào cùng một bánh, họ loan báo những cộng đồng nhân loại hình thành nên Giáo Hội sau này.
Như thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, thánh Mát-thêu không nêu lên những phản ứng của những người sau khi được thụ hưởng ân ban phép lạ hóa bánh ra nhiều này, vì đa số trong họ đã không biết nguồn gốc bánh và cá mà người ta phân phát cho họ. Chỉ một mình thánh Gioan ghi nhận lòng nhiệt thành của đám đông: “Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua” (Ga 6: 15).
Dù sao, những biến cố tiếp theo cho thấy những dấu chỉ được đề nghị, dù minh nhiên, đã không được hiểu. Những dấu chỉ này xem ra như một trong những thử thách sau cùng của Đức Giê-su ở Ga-li-lê, Ngài muốn khai lòng mở trí cho họ hiểu chân tính của Ngài. LM. INHAXIO HỒ THÔNG