SỰ TRƯỞNG THÀNH TÂM LÝ
Các nhà tâm lý thực nghiệm nhận thấy đời sống tinh thần của con người diễn ra trong ba hoạt động nội tâm: lý trí, ý chí và tình cảm. Lý trí là khả năng nhận thức, tư duy và lý luận phân biệt điều hay điều dở, lẽ phải lẽ trái. Ý chí là khả năng quyết định và nỗ lực thực hiện điều mình đã lựa chọn. Tình cảm là những cảm xúc của tâm hồn như: mừng, giận, yêu, ghét, buồn, sợ và ước muốn (theo chữ Hán-Việt là ‘thất tình’: hỷ, nộ, ái, ố, ai, cụ, dục). Những hoạt động này diễn ra bên trong tâm hồn nhưng thường biểu lộ qua hành vi[1], và ít nhiều chịu tác động từ bên ngoài vì con người là sinh vật có tính xã hội. Vì thế, để có thể xây dựng cách tốt đẹp đời sống gia đình, vốn là sự tương tác lâu bền giữa các cá nhân, người trẻ cần đạt đến mức độ trưởng thành về tâm lý[2], được thể hiện qua những khía cạnh : 1/ dám nhận lấy trách nhiệm của mình, 2/ có những đức tính cần thiết cho tương quan liên vị, 3/ biết cách ứng xử khi gặp những khủng hoảng và 4/ khám phá những đặc sủng giúp cho sự trưởng thành tâm lý.
1. Đảm nhận trách nhiệm.
Người có tinh thần trách nhiệm ý thức được bổn phận của mình đối với bản thân, với cha mẹ, với gia đình, nhất là đối với Thiên Chúa và tự nguyện chu toàn. Người ấy nhận ra đó là việc của mình chứ không do luật quy định hay ai bắt buộc nên tự nguyện thực hiện, và thực hiện một cách chu đáo để đạt được kết quả tốt nhất. Người có tinh thần trách nhiệm sẵn sàng đón nhận cả những thất bại, và tìm cách sửa sai, không thoái thác hay đổ lỗi cho người khác.
Trong xã hội đề cao sự hưởng thụ và ích kỷ cá nhân, tinh thần trách nhiệm trở nên một thách đố. Vì thế, để sống có trách nhiệm với chính mình, với gia đình và xã hội, đôi khi phải dám can đảm lội ngược dòng, nhờ đó mới tìm được nguồn hạnh phúc tinh ròng, không vẫn đục. Thiếu tinh thần trách nhiệm, người ta không còn là “trợ tá tương xứng”[3] của nhau, mà chất thêm gánh nặng vào cuộc đời nhau.
Điều quan trọng giúp chu toàn trách nhiệm, là người ta phải biết chọn lựa những giá trị ưu tiên và tuân thủ bậc thang giá trị ấy. Ta hãy chiêm ngắm Đức Giêsu lúc mười hai tuổi và suy nghĩ về câu trả lời của Người cho Đức Maria và Thánh Giuse: ‘Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?’ (x.Lc 2,41-50). Chúa Giêsu biết cha mẹ cực lòng tìm Người, nói cách khác, chính Người gây ra cho cha mẹ phải lo âu, đau khổ mấy ngày qua, nhưng Người vẫn nói lên một sự thật mà cha mẹ Người chưa biết, đó là Người còn phải có trách nhiệm đối với Chúa Cha nữa. Sau đó, thánh sử Luca kể tiếp: ‘Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài’ (Lc 2,51). Người lại tiếp tục tự nguyện chu toàn bổn phận làm con của Đức Maria và thánh Giuse. Kết thúc cuộc đời trên thập giá, Chúa Giêsu đã chu toàn bổn phận tại thế của Người khi Người nói: ‘mọi sự đã hoàn tất’ (Ga 19,30).
2. Những đức tính cần thiết cho cuộc sống chung.
Ngạn ngữ phương tây có câu nói : “Thà làm một con quỷ dễ thương, hơn là làm một vị thánh xấu tính”. Đời sống chung tự nó đòi hỏi mỗi người phải có những đức tính cần thiết để sống hài hòa các mối tương quan. Như thế, “khoa sư phạm khôn ngoan của gia đình phải nhằm đưa trẻ em tới chỗ khám phá ra rằng mình được phú ban một tâm lý vừa phong phú vừa phức tạp, được phú ban một nhân cách đặc thù, với những sức mạnh cũng như những yếu đuối riêng của mình.”[4]
Tông huấn Niềm vui của Tình Yêu viết: ‘Công đồng chung Vatican II, trong hiến chế Mục vụ Vui Mừng và Hy Vọng (Gaudium et Spes), bày tỏ ưu tư về ‘sự thăng tiến phẩm giá của hôn nhân và gia đình’. Hiến chế này định nghĩa hôn nhân là một cộng đồng sự sống và tình yêu, đặt tình yêu ở trung tâm gia đình… ‘tình yêu đích thực giữa vợ chồng hàm chứa sự tự hiến cho nhau, bao gồm và hội nhập các chiều kính tính dục và tình cảm, phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa. Văn kiện còn nhấn mạnh việc đôi vợ chồng cắm rễ trong Đức Kitô: Chúa Kitô ‘đến gặp gỡ đôi vợ chồng Kitô hữu trong Bí tích Hôn phối’ và ở lại với họ.”[5] Vì thế, đức tính căn bản chính là sự xác tín con người là hình ảnh của Thiên Chúa theo mặc khải Sáng thế 1,26. Người chồng thấy Chúa trong người vợ và ngược lại. Chính Thánh Phaolô đã minh họa tương quan này trong thư gửi tín hữu Êphêsô: ‘Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa…. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh…’(x.5,21-33).
Thánh Kinh và giáo huấn của Giáo hội dạy chúng ta tôn trọng phẩm giá con người vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa[6]. Tự bản chất con người đã có giá trị chứ không do giầu sang, quyền thế, hay phái tính. Tôn trọng phẩm giá người khác là lưu tâm tới danh dự của họ[7], loại trừ sự chê bai, khinh bỉ, công kích, nói hành, nói xấu sau lưng; là tôn trọng sự khác biệt của nhau về phái tính, thế hệ, tư tưởng, tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa, phong tục…; là tôn trọng tự do chính đáng của mỗi cá nhân trong tương quan với cộng đồng.
Một đức tính khác cần thiết cho đời sống chung là sự cởi mở chân thành với khả năng lắng nghe và thấu hiểu tha nhân[8]. Nói cách khác, kỹ năng đối thoại là “một cách thức ưu việt và thiết yếu để sống, bày tỏ và làm triển nở tình yêu trong đời sống hôn nhân và gia đình”[9]. Đời sống chung không bao giờ tồn tại chỉ những “đường một chiều” hay “độc thoại”, nhưng phải là muôn nẻo của đường đưa lối bước dẫn đến sự thấu hiểu tâm hồn và cuộc sống của nhau. Vì thế, cần “dành thời gian chất lượng để lắng nghe một cách kiên nhẫn và chú ý”[10], vì rất nhiều khi người ta không cần một giải pháp, mà chỉ cần được lắng nghe[11].
3. Khả năng đối diện và giải quyết những khủng hoảng cuộc sống
Sự trưởng thành tâm lý để bảo đảm những thiện ích của đời sống hôn nhân, còn đòi hỏi người trẻ dám đương đầu với khó khăn, khủng hoảng và có khả năng để vượt qua[12]. Do đó, chuẩn bị người trẻ bước vào đời sống hôn nhân chính là giúp người trẻ sống trưởng thành, rèn luyện những khả năng sống chung trong các mối tương quan, khả năng đương đầu với nhưng khó khăn của bản thân cũng như của môi trường xã hội. Những khó khăn có thể gia trọng thành ‘khủng hoảng’. Thật vậy, ‘đời không như là mơ’. Bạn trẻ dễ rơi vào hụt hẫng khi gặp phải những nghịch cảnh có khi nghiệt ngã bởi từ nhỏ được cha mẹ ‘ấp ủ’ quá kỹ. Một người chưa kinh qua cảnh đau bệnh, chưa phải chịu đói khát, thiếu thốn… chưa bị mắng, bị xúc phạm, chưa từng bị thất bại …, thì hẳn sẽ dễ rơi vào khủng hoảng khi gặp nghịch cảnh. Do vậy, để em bé sau này có khả năng vượt qua được những khó khăn, cha mẹ cần dành cho con cái sự giáo dục thích ứng. Đứng trước những nhu cầu của con cái, cha mẹ cần cân nhắc, dẫn giải những lý do giúp con cái phân định đâu là những nhu cầu chính đáng. Thái độ chỉ dạy thân tình đi vào tâm hồn, mở mang hiểu biết và khích lệ người trẻ hướng lên những thực tại cao quý chân, thiện, mỹ.
Những khó khăn trong tương quan gia đình thường là sự mâu thuẫn, xung đột tính cách hay quan điểm sống với nhau. Thực ra, con người là ‘bá nhân bá tánh’! Chính sự khác biệt giữa con người mới làm cho cuộc sống chung phong phú. Hơn nữa, nhờ sự khác biệt mới có tương quan, tôi cần người, người cần tôi, chúng ta nương tựa và bổ túc cho nhau. Vì thế, một người trưởng thành tâm lý cần có bản lãnh sẽ điềm tĩnh trao đổi khi xẩy ra xung đột trong tương quan[13]. Đức Thánh Cha Phanxicô, khi khai triển “bài ca đức ái” (1Cor 13, 4-7), để diễn tả một tình yêu đích thực, đã chia sẻ những tâm tình rất đáng để chúng ta suy nghĩ : “Nếu chúng ta không vun xới thái độ nhẫn nại, chúng ta sẽ luôn luôn phải hối tiếc vì cư xử giận dữ, và rốt cuộc chúng ta không thể sống chung với nhau..., chúng ta không có khả năng làm chủ được các xung năng của mình, và gia đình sẽ biến thành bãi chiến trường”.[14]
4. Đặc sủng cho sự trưởng thành tâm lý chính là ơn của bí tích Thêm sức.
Bí tích Thêm sức hoàn tất giai đoạn khai tâm Kitô giáo, hoàn tất ân sủng của bí tích Thánh Tẩy[15]. Với bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần : khôn ngoan, hiểu biết, thông minh, lo liệu, sức mạnh, đạo đức và kính sợ Thiên Chúa[16], người tín hữu được ơn Chúa Thánh Thần để đạt đến độ trưởng thành. Đặc biệt, trong đời sống hôn nhân, “ơn của Thần Khí là luật sống cho đôi bạn Kitô hữu và đồng thời là hơi thở hướng dẫn họ để mỗi ngày họ phát huy được thể xác, tính tình, con tim, trí tuệ, ý chí, linh hồn, hầu biểu lộ cho Hội Thánh và cho thế giới thấy sự hiệp thông mới mẻ về tình yêu do dân sủng Đức Kitô ban tặng.”[17]Vì thế, Giáo luật qui định phải lãnh nhận bí tích Thêm Sức trước khi muốn lãnh nhận bí tích Hôn phối[18]. Nói cách khác, nếu bí tích Hôn nhân là một bước ngoặc quan trọng của đời người, để dẫn đưa những người nam nữ bước vào cuộc sống chung và đảm nhận những trách nhiệm của đời sống hôn nhân - gia đình, thì Hội Thánh minh nhiên đòi hỏi sự trưởng thành về ân sủng qua bí tích Thêm Sức.
Do đó, có thể nói, người trẻ cần học biết cầu nguyện, đón nhận những ân ban của Chúa Thánh Thần, để mỗi ngày một lớn lên trong tình yêu, và xa hơn, “được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, dám đi ra khỏi chính mình để tuôn ban những thiện ích của mình cho người khác, và để quan tâm chăm sóc họ và tìm kiếm hạnh phúc cho họ.”[19]
[1] ĐTC Phanxicô, Tông huấn Niềm vui của Tình yêu “Amoris Laetitia”, số 143.
[4] ĐTC Gioan Phaolô II, Tông huấn Những bổn phận của gia đình Kitô hữu “Familiaris Consortio”, số 66.
[5] ĐTC Phanxicô, Tông huấn Niềm vui của Tình yêu “Amoris Laetitia”, số 67.
[7] ĐTC Gioan-Phaolô II, Thông điệp Tin Mừng về sự sống “Evangeliun Vitae”, số 41.
[8] ĐTC Phanxicô, Tông huấn Niềm vui của Tình yêu “Amoris Laetitia”, số 139.
[13] ĐTC Phanxicô, Tông huấn Niềm vui của Tình yêu “Amoris Laetitia”, số 210.
[15] Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 1285.
[16] Tòa Giám Mục Xuân Lộc, Giáo lý “Lớn lên trong Chúa Thánh Thần”, câu 47.
[17] ĐTC Gioan Phaolô II, Tông huấn Những bổn phận của gia đình Kitô hữu “Familiaris Consortio”, số 19.
[18] Giáo luật, điều 1065.
[19] ĐTC Phanxicô, Tông huấn Niềm vui của Tình yêu “Amoris Laetitia”, số 324.
Sự Trưởng Thành Thể Lý
1. Giá trị của thân xác
Đã có một thời gian trong lịch sử, một số trào lưu tư tưởng trong Giáo Hội bị ảnh hưởng bởi truyền thống triết học Platon với quan niệm: “Thân xác là mồ chôn linh hồn”, chính thân xác giam hãm linh hồn, khiến linh hồn không thể thăng hoa kết hợp được với Thần linh.
Trải qua nhiều thế kỷ, dưới ánh sáng của Kinh Thánh, các nhà Thần học đã dần khám phá ra giá trị của thân xác. Thiên Chúa đã tạo dựng loài người có hồn-xác. Giá trị của thân xác còn được củng cố bởi luận cứ này: Con Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm (Ga 1, 14), Người đã trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi (GLCG 470) để cứu độ nhân loại. Chúa không những chỉ cứu linh hồn mà cứu cả thể xác, để những ai tin vào Người thì được sống đời đời và Người sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết[1]. Tín điều “xác loài người ngày sau sống lại”[2] của Giáo Hội một lần nữa khẳng định giá trị của thân xác, cho nên thân xác có tầm giá trị thiết yếu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đối với thánh Phaolô, thân xác con người mang ý nghĩa và giá trị cao siêu nên ngài viết: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần ngự trong anh em là Thánh Thần của chính Thiên Chúa. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa.”[3].
Ngày nay một số người không ý thức đủ đầy được điều này, nhất là một số trong các bạn trẻ. Họ nhầm tưởng thân xác thuộc sự thống trị hoàn toàn của mình, cho nên mọi sự nơi ta là do ta quyết định. Tư tưởng đó đã và đang ăn sâu vào tiềm thức của nhiều người, cách riêng là giới trẻ, khiến họ không còn coi trọng và giữ gìn thân xác mình một cách đúng mực. Vì thế tư tưởng này dẫn đến nhiều hành vi xúc phạm nghiêm trọng đến phẩm giá cao quý của thân xác, không làm chủ được hành vi tính dục hoặc sử dụng nó một cách vô độ thiếu ý thức cần phải có.
2. Hiểu biết về tính dục trong đời sống
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Tính dục ở loài người là năng lực giới tính, thể chất, tâm lý, và sinh dục, bao gồm mọi khía cạnh đặc trưng của nam giới và nữ giới. Tính dục là một khái niệm có nội hàm rộng, vừa phản ánh mối quan hệ giới tính, vừa chứa đựng những yếu tố hữu hình và ẩn giấu của cá nhân. Trong Tiếng Việt, tính dục, đặc biệt khi chỉ đề cập tới mối quan hệ giới tính, còn được gọi là tình dục.”[4].
Theo nhãn quan Kitô giáo, tính dục là công trình của Đấng Tạo Hóa, nó là quà tặng lớn lao đặt để trong thân xác con người, cho con người tham dự vào năng lực sáng tạo. Tính dục như một thứ “tinh thần nhập thể” trong con người và trổi vượt cách kỳ diệu hơn những gì thấy được ở cấp sinh vật thấp hơn[5]: “Tính dục là thành phần căn bản của cá tính, nó là một cách thức hiện hữu, cách thức tự thể hiện, giao tiếp với kẻ khác, cách thức cảm nghiệm, diễn tả và sống tình yêu nhân bản”[6]. Như vậy, tính dục của con người là một điều thiện hảo được tặng ban từ Đấng Tạo Hóa. Nhưng tính dục phải được tình yêu định hướng, giáo dục và bổ túc, vì chỉ có tình yêu mới giúp cho tính dục mang tính nhân bản[7].
Nếu không đặt trong tình yêu, tính dục sẽ trở nên gánh nặng kéo trì con người xuống, kéo con người ra khỏi mục đích sáng tạo và cứu độ. Tính dục chỉ hợp lý hợp tình khi nó nằm trong kế hoạch yêu thương khi sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa. Vì thế, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã viết: “Niềm tin Kitô giáo luôn nhìn con người như là một hữu thể gồm cả hồn lẫn xác. Nơi họ, tinh thần và vật chất nối kết chặt chẽ với nhau và cả hai cảm nghiệm được sự cao quý mới. Thật vậy, tính dục (eros) muốn đưa chúng ta đến bầu khí thần linh, vượt lên khỏi chúng ta, vì thế nó đòi buộc một con đường vươn lên, từ bỏ, thanh luyện và chữa trị”[8].
3. Tôn trọng sự sống
Sự sống là một hồng ân vô cùng cao quý mà Thiên Chúa ban tặng cho con người. Sự sống ấy có tính cách linh thánh vì được phát xuất từ Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa. Sự sống con người cũng hết sức quý báu, vì nó là nền tảng của mọi phúc lợi, là nguồn gốc và là điều kiện cho mọi sinh hoạt con người. Không có gì gần gũi con người hơn sự sống của chính mình. Đụng đến sự sống là đụng đến chính con người. Tôn trọng sự sống là khởi nguồn của mọi tôn trọng các quyền căn bản của con người.
Đón nhận sự sống là quà tặng quý giá của Thiên Chúa mời gọi chúng ta biết chăm chút và có trách nhiệm với sức khỏe, sự sống của chính mình cũng như của tha nhân. Điều này đặc biệt quan trọng đối với người trẻ khi chuẩn bị bước vào đời hôn nhân[9]. Không có sức khỏe, người ta khó lòng chu toàn tốt những trách nhiệm đối với gia đình, với con cái.
Đàng khác, sự sống con người có giá trị linh thánh vì ngay từ khởi đầu, sự sống đã do chính Thiên Chúa tạo dựng và mãi mãi có liên hệ đặc biệt với Đấng Tạo Hóa là cùng đích của nó. Câu chuyện Cain giết em là Abel trong Cựu Ước cho thấy, ngay từ đầu lịch sử loài người đã có cảnh máu đổ do huynh đệ tương tàn. Cựu Ước luôn coi máu như dấu hiệu linh thánh của sự sống và xác định rằng: “Ngươi không được giết người vô tội cũng như người công chính”[10]. Giết người vô tội là xúc phạm nặng đến phẩm giá con người, và đến sự thánh thiện của Đấng Tạo Hóa. Chính Đức Kitô cũng đã nhắc lại lệnh truyền “Ngươi không được giết người”[11], thậm chí Ngài còn dạy không được giận, ghét hoặc oán thù anh em đồng loại mình[12].
Vì thế, tội giết người là một tội rất nghiêm trọng, là tội ác chống Thiên Chúa, Đấng duy nhất có quyền sinh tử, là tội ác chống lại tha nhân vì mình đã tước đoạt sự sống của họ, một giá trị hết sức quý báu được ban tặng bởi Chính Thiên Chúa. Trong tất cả tội ác mà con người có thể thực hiện chống lại sự sống, thì sự phá thai do cố ý là một tội ác đặc biệt nghiêm trọng. Đây chính là một loại giết người hết sức ghê tởm và man rợ, vì nạn nhân trong trường hợp này là những con người lương thiện và chưa có khả năng tự vệ. Mức độ của tội ác này trở nên trầm trọng khi chính cha mẹ, người thân quyết định tước đoạt sự sống của con cái mình. Đây là một hành vi vô luân và vô lương tâm. Nó kéo theo hệ lụy vô cùng nguy hại. Nhưng trên hết là nó xúc phạm nghiêm trọng đến điều răn thứ 5 của Thiên Chúa: “Ngươi không được giết người”[13].
4. Điều răn thứ V, giúp định lượng hành vi tính dục
Điều răn thứ V dạy ta tôn trọng sự sống của người khác, theo đó, Ai trực tiếp và cố ý giết người là phạm tội nặng. Kẻ giết người cũng như kẻ cố ý cộng tác trong việc giết người đều phạm tội kêu oán thấu trời[14]. Luân lý tính của điều răn thứ V còn dạy ta phải tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ sự sống con người ngay từ lúc thụ thai: Ngay từ khi thụ thai, bào thai phải được đối xử như một nhân vị, được bảo vệ toàn vẹn, được chăm sóc chữa trị với hết khả năng như mọi người khác. Ngay từ lúc đó, con người phải được kẻ khác nhìn nhận các quyền làm người, trong đó có quyền được sống là quyền bất khả xâm phạm của mọi người vô tội[15].
Công Đồng Vatican II cũng nhắc nhở: trực tiếp tiêu diệt sự sống một người vô tội bao giờ cũng là một hành vi xấu từ bản chất. Phá thai tự bản chất của nó là xấu, chứ không phải là xấu bởi vì Giáo Hội cấm. “Sự sống ngay từ lúc thụ thai đã phải được giữ gìn: phá thai và giết trẻ sơ sinh là những tội ác ghê tởm”[16]. Theo Giáo luật hiện hành, Hội Thánh phạt vạ tuyệt thông đối với những ai phá thai thành sự: “Người nào thi hành việc phá thai và nếu việc phá thai có hiệu quả, thì bị vạ tuyệt thông tiền kết”[17].
Như vậy để có thể định lượng hành vi tính dục, con người cần phải luôn ý thức rằng Luân lý Công giáo coi trọng thân xác nhưng không quá đề cao hành vi tính dục. Tính dục phải được tình yêu định hướng và phục vụ cho mục đích truyền sinh. Sự quân bình ý nghĩa và sự toàn vẹn của tính dục con người sẽ bị phá vỡ khi người ta tìm cách tách rời một trong hai mục tiêu của nó[18]. Thêm vào đó, chúng ta cần ý thức mình được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Hình hài thân xác chúng ta chính là hình ảnh của Ngài, chính Ngài đang ngự trong thân xác chúng ta.
Cuộc sống của chúng ta hôm nay đang phản ánh hình ảnh của Thiên Chúa. Những lúc ta sa ngã phạm tội, chính là khi ta đang làm mất đi hình ảnh Ngài nơi thân xác chúng ta. Hãy giữ cho mình một con người tinh tuyền bằng cách xa lánh những dục vọng trụy lạc. Giữ cho mình một con người thiêng liêng bằng cách tránh xa những đam mê tội lỗi. Như thế hình ảnh của Thiên Chúa sẽ được phản chiếu cách sống động nơi con người chúng ta, ngang qua một đời sống khỏe mạnh, tốt lành và thánh thiện.
[2]x. Kinh Tinh Kính các Thánh Tông Đồ.
[4]Viện Ngôn Ngữ Học, Từ Điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng 2003, trang 999.
[5]x. Công Đồng Vat. II, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, Gaudium et Spes, 51.
[6]Bộ Giáo Dục Công Giáo, Những định hướng cho việc giáo dục về tình yêu nhân bản, ban hành ngày 1.11.1983, số 4.
[8] ĐGH Bênêđitô XVI, Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, Deus Caritas Est, Ủy ban Giáo lý Đức tin - HĐGM VN, 2006, số 5.
[9] Tham khảo “Bí quyết chăm sóc sức khỏe trước khi cưới”, ngày 24-12-2016 tại địa chỉ http://suckhoethoidai.vn/co/bi-quyet-cham-soc-suc-khoe-truoc-khi-cuoi-cffh.html
[13]x. Xh 20,13; Đnl 5,17.
[15]x. CDF, instr. Donum vitae1,1.
[16] Công Đồng Vat. II, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, Gaudium et Spes, 51.
[17]x. Bộ Giáo luật 1983, điều 1398.
[18] Công Đồng Vat. II, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, Gaudium et Spes,, 50.
Nguồn: giaophanxuanloc.net