DẪN NHẬP
Điểm thứ nhất được đặt trong nhãn quan lịch sử mà tôi sẽ thực hiện là nhấn mạnh đến vai trò rất quan trọng của vấn đề đạo đức sinh học trong các xã hội phát triển của chúng ta, vì lý do của cuộc gặp gỡ:
Tôi thêm vào một ghi nhận: những kỹ thuật y khoa không ngừng tiến triển và đặt ra những vẫn đề mới về đạo đức và đạo đức sinh học. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng những suy tư về đạo đức khởi đi từ con số không tròn chĩnh mỗi khi có những kỹ thuật mới. Chúng ta sẽ thấy rằng suy tư của Giáo Hội Công Giáo đưa ra rất nhiều điểm tựa từ lâu để soi sáng chúng ta trong những trạng huống mới.
Hạn từ đạo đức sinh học ra đời ở Hoa Kỳ vào năm 1970. Nhưng người ta đã không chờ đến thế kỷ thứ 20 để suy tư về đạo đức y khoa: việc chăm sóc bệnh nhân tự bản chất là một tiến trình đạo đức, và điều đó đã xảy ra từ rất lâu rồi:
THÂN BÀI
Lịch sử của Kitô giáo và lịch sử của việc chăm sóc bệnh nhân gắn kết mật thiết với nhau từ khởi thủy của Kitô giáo.
Dọc dài theo lịch sử của mình, Kitô giáo đã nhấn mạnh đến phẩm giá và sự tôn trọng thân thể của con người. Do đó, con người này có thể bị bệnh nên người này được đặt trong sự ân cần chăm sóc của người thân cận. Đây là điều mà Đức Gioan Phaolô II đã viết vào năm 1982 khi ngỏ lời với những thầy thuốc công giáo trong một diễn từ với đề tựa “Thầy thuốc phục vụ con người”: “Từ khởi thủy, Giáo Hội đã luôn coi y khoa như một sự trợ lực quan trọng trong sứ mạng cứu độ riêng của mình đối với con người. Từ những dưỡng đường cổ xưa cho những khách ngoại kiều đến nhà thương phức hợp đầu tiên và cho tới ngày nay, chứng từ của Kitô hữu nhịp bước song hành với sự ân cần chăm sóc đối với các bệnh nhân. […]. Giáo Hội biết rõ rằng sự dữ về vật lý giam hãm linh hồn con người, cũng vậy sự dữ tinh thần giam hãm thân xác.”
“Từ khởi thủy”: Đức Gioan Phaolô II nhắc lại tầm quan trọng liên quan đến việc chăm sóc bệnh nhân qua mọi thời.
Điều đã tạo nên động cơ cho các Kitô hữu ở những thế kỷ đầu tiên trong việc chăm sóc bệnh nhân, dĩ nhiên đó chính là thực hành của Đức Giêsu và lời giảng dạy của ngài:
Công vụ tông đồ 10, 38, Thánh Phêrô nói về Đức Giêsu: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế vì Thiên Chúa ở với Người”.
Luca 10: Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu đã luôn là và vẫn luôn là một nguồn suối không hề cạn kiệt về tính năng động của các Kitô hữu để phục vụ nhân loại khổ đau.
Mt 25: Các Kitô hữu cũng thực hiện lời gợi lên tại cuộc chung thẩm ở chương 25 một cách nghiêm túc. Như là chính trọng tâm của việc thực hành không chỉ của người Kitô hữu nhưng của con người, Tin Mừng trình bày điều mà người tại gọi là những việc thương xót thân xác: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, cho khách đỗ nhà. Điều mà Mt 25 nói cũng chính là: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40): người Kitô hữu được mời gọi nhìn nơi người bệnh là chính Đức Kitô.
Vì thế, chính từ những thực hành của các Kitô hữu (gợi hứng từ Lc10 và Mt25) mà Giáo Hội đã khai triển một suy tư về đạo đức y khoa -> MỐI LIÊN HỆ giữa những thực hành của người Kitô hữu và những suy tư về đạo đức: sự suy tư về đạo đức này không phải là trừu tượng xa rời với những điều kiện nhân sinh.
Giờ đây, tôi trình bày một nhãn quan lịch sử có hai khía cạnh của suy tư này, một là vào lúc bắt đầu sự sống, và một khía cạnh khác là lúc kết thúc sự sống.
Nhưng những bản văn Kinh Thánh biểu tỏ một sự đánh giá rất lớn đối với hữu thể người trong cung lòng của người mẹ vì Thiên Chúa thấy phôi thai này và tác tạo nên nó.
Trong những bản văn suy niệm về mầu nhiệm phôi thai: chúng ta trưng dẫn:
Thánh vịnh rất nổi tiếng: Thánh vịnh 139,13: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con”. Thánh vịnh này nói đến sự chú ý của Thiên Chúa đối với từng người trong số những người bé mọn nhất này. Và xa hơn một chút trong cùng một Thánh vịnh này, Thiên Chúa đã thực hiện một cuộc siêu âm trước khi sinh: “Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy” (Tv 139, 16).
Lời cầu nguyện của Gióp cũng nói đến mối tương quan này với đấng tạo hóa thần linh: “xin Ngài nhớ cho, Ngài đã tạo ra con bằng đất sét…há chẳng phải Ngài đã tạo nên con như sữa lỏng? Ngài đã đắp lên con bằng da bằng thịt, rồi lấy gân lấy cốt mà dệt mà thêu” (G 10, 9-11).
Trong một cuốn sách muộn thời của Cựu Ước (cuốn sách bằng tiếng Hy Lạp vào cuối thế kỷ thứ II), cuốn sách thứ hai về các cuộc tử đạo của Israel (2Mcb 7,22-23), lời khẳng định này của một người mẹ khi nhìn thấy cả bảy đứa con của mình bị giết trong một cuộc bách hại [cuộc bách hại của Antiochus Epiphane giữa những năm 167 và 164]: “Người mẹ nói với các con của mình: “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ đã ban cho các con thần khí và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống”.”
Trong những bản văn chiêm niệm khác nhau này, sự phát triển của phôi thai được quy một cách rất rõ ràng cho Thiên Chúa.
Có một bản văn khác trễ hơn nữa vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên là bản văn Khôn ngoan 7,1-2: “Phần tôi, tôi cũng chỉ là một con người phải chết, giống như mọi người. Tôi thuộc dòng dõi con người đầu tiên đã được nắn ra từ bụi đất. Suốt chín tháng trời nơi dạ mẫu thân, thân xác tôi đã thành hình trong máu huyết, kết tụ bởi tinh khí nam nhân, và khoái lạc đi liền với giấc ngủ”. Bản văn này được quy cho Salomon, người đã nói về thân phận nhân sinh như thế. Bản văn miêu tả một tiến trình sinh lý. Tiến trình này không minh nhiên được quy cho Thiên Chúa, tuy nhiên ở đây bản văn dùng thể bị động thần linh; và thật thú vị để ghi nhận rằng bản văn đã miêu tả tiến trình sinh học của việc hình thành con người như một sự liên tục.
Nhất là, chúng ta tin rằng Ngôi Lời đã làm người, nghĩa là Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật, đã biết tất cả các giai đoạn của sự sống từ một con người nhỏ nhất khởi đi từ giai đoạn phôi. Quả vậy, đó là một phôi theo những trật tự khác nhau như lời loan báo của sứ thần Gabriel với Đức Maria và sứ thần của Chúa với Giuse vì Chính Thánh Thần là nguồn gốc của phôi Đức Kitô theo những Tin Mừng về thời thơ ấu nơi thánh Luca và Matthêu.
Nhưng một điều chắc chắn là sự Nhập Thể của Đức Kitô đã đóng góp rất nhiều vào việc cung ứng cho phôi người, ngay từ những khoảnh khắc đầu tiên, một giá trị bất khả diễn đạt và có lẽ cũng chính là một trong lý do tại sao trong Kitô giáo phản đối lại việc phá thai là phổ quát và tuyệt đối.
Quả vậy, từ những thế kỷ đầu tiên cho tới ngày nay: lập trường đạo đức của các Kitô hữu được biết đến rất rõ ràng: cấm phá thai là giáo huấn thường hằng.
Chúng ta tìm thấy việc đề cập đến một cách minh nhiên lệnh cấm phá thai trong một bản văn Kitô giáo không thuộc Kinh Thánh vào cuối thế kỷ thứ nhất đầu thế kỷ thứ hai, sách Didachè: “Bạn không được thực hành việc phá thai và bạn không được làm chết trẻ mới sinh”.
Chúng ta thấy, đó là một lập trường đạo đức. Vả lại, đã có và luôn có rất nhiều cuộc tranh luận về bình diện hữu thể học của phôi và những cuộc tranh luận này đã bắt đầu với các Giáo Phụ.
Lập trường của các Giáo Phụ cùng lúc phụ thuộc vào văn hóa và tư tưởng triết học và y khoa vào thời của các ngài, nhưng cũng phụ thuộc việc đọc Kinh Thánh của các ngài.
Những lập trường của các Giáo Phụ về vấn đề này rất khác biệt nhau. Một cách chung chung, các ngài bị đặt vào hai vấn đề:
Theo các tác giả, có hay không có mối liên hệ giữa cả hai; nghĩa là đối với một số Giáo Phụ, điều cần thiết là phôi có hình dạng người để có một linh hồn; nhưng đối với một số khác, điều đó không cần thiết.
Điều làm cho cuộc tranh luận trở thành phức tạp trên bình diện triết học dọc dài theo các thế kỷ, đó là sự tiền giả định nhân học trải rộng trên những lập trường khác nhau: nhị nguyên nhân học hay nhất nguyên nhân học: đó không cùng là một vấn đề khi xem xét phôi theo triết học Platon như chỗ thu nhận linh hồn hay con phôi như thân thể được nảy sinh sự sống, dưới dạng thức của một sự phú hồn tiệm tiến (thực hồn, giác hồn, sinh hồn theo nhân học Aristote).
Thời Trung Cổ: Một vấn đề lớn đã làm lay chuyển thần học là việc biết vào lúc nào của thai kỳ mà bào thai có được “hồn lý tính’ của mình; nghĩa là khi nào Thiên Chúa phú hồn nhân loại cho phôi? Thánh Tôma Aquinô, vào thế kỷ XIII, đã trả lời cho câu hỏi này theo cách thế như sau: phôi của người nam có linh hồn nhân loại vào ngày thứ 40 của thai kỳ và phôi của người nữ có linh hồn nhân loại vào ngày thứ 90 của thai kỳ. Hai cách giả thích khả dĩ như sau:
Phiên bản đời hiện đại của vấn đề: khi nào Thiên Chúa phú hồn nhân loại cho phôi? là: “khi nào phôi trở thành người?” Ngay cả khi câu trả lời cho vấn đề này thuộc phạm vi không thể quyết định được thì nó cũng gợi lên một phạm vi rộng lớn về lập trường triết học, mà trên đó Huấn Quyền không đưa ra lập trường: tài liệu gần đây nhất là vào thế kỷ XXI: Dignitas personae (2008) khẳng định rằng “Phôi người ngay từ lúc khởi đầu có phẩm giá riêng của con người”, ở số 5. Do đó, phẩm giá là một khái niệm đạo đức và không phải là một khái niệm hữu thể.
Chính những thần học gia luân lý vào thế kỷ XVI và XVII đã xác định cho tới ngày nay giáo huấn công giáo về việc tôn trọng sự sống trong việc chăm sóc các bệnh nhân.
Thần học gia luân lý tiên khởi trong lĩnh vực này và quyết định nhất là thần học gia Dòng Đaminh người Tây Ban Nha vùng Salamanque, Françisco de Vitoria vào thế kỷ XVI.
Lập trường của ngài rất rõ ràng về những việc chăm sóc mà tương ứng với nỗi lo lắng hữu lý về sự sống, và ngược lại về những phương tiện mà người ta cần dè chừng khi khăng khăng đề nghị do gánh nặng mà những phương tiện này gây nên cho người bệnh và cho gia đình của họ. Tôi trưng dẫn ra đây F. de Vitoria: “Người ta không bám víu vào việc sử dụng mọi phương tiện để bảo tồn sự sống của mình, nhưng thật là đầy đủ khi sử dụng những phương tiện […] thích hợp”. “Thích hợp” không muốn nói một cách đơn giản là hữu hiệu, nhưng cũng là tương thích với trạng huống của người liên quan và không áp đặt lên người đó một gánh nặng quá mức. Chúng ta đã thấy ở đây khởi đầu suy tư về việc chăm sóc tương xứng và bất tương xứng, đặc biệt khi liên quan đến sự tôn trọng một người cận kề cái chết. Đó là sự từ chối việc bám riết điều trị nhằm có lợi cho việc chăm sóc hữu lý và nhân bản. Vào thời bấy giờ, điều đó đặc biệt liên quan đến chế độ dinh dưỡng: “người ta không bám víu vào việc bảo vệ sự sống của mình trong chừng mực mà người ta có thể làm điều đó nhờ vào chế độ dinh dưỡng. Điều này thật rõ vì người ta không bám víu vào vào việc sử dụng những thực phẩm tốt nhất, tinh tế nhất và mắc giá nhất, dẫu là những thực phẩm này là tốt nhất cho sức khỏe /…/. Cũng vậy, người ta không bám víu vào những nơi trong lành nhất”. Nghĩa là đối với Vitoria, không ai bám víu vào điều vô ích, vào điều quá lao nhọc hay quá tốn kém.
Vào cuối thế kỷ XVI và thế kỷ XVII, những thần học gia luân lý Tây Ban Nha dòng Đaminh và Dòng Tên sẽ khai triển những trực giác này và xác định rõ trong khuôn khổ đó những phẩm tính bình thường và ngoại thường, đồng nghĩa với điều mà chúng ta gọi ngày nay là điều trị tương xứng và điều trị bất tương xứng.
Đạo đức y khoa này có một vị trí rất quan trọng cho nguyên tắc song hiệu, với sự phân biệt giữa sự dữ trực tiếp mong muốn (volontaire) và sự dữ được dự liệu nhưng không mong muốn: cần phải có một lý do tương xứng. Công cụ này của luân lý giải ca có nguồn gốc trong Tổng Luận Thần Học Ia IIae Q64 về việc phòng vệ chính đáng. Đó là một cách thức khác để nói đến nguyên tắc trong lời thề Hypocrate: primum non nocere = không làm điều xấu.
Sự phát triển của những suy tư về đạo đức y khoa đến từ sự đồng quy của nhiều biến cố vào thế kỷ XX:
Theo sau tòa án Nuremberg, những quy tắc liên quan đến sự thử nghiệm y khoa đã được ra đời bằng Bộ Luật Nuremberg vào năm 1947; và Bộ Luật này vẫn luôn có giá trị.
Bốn nguyên tắc chi phối Bộ Luật Nuremberg: nó vẫn luôn là một sự quy chiếu
Đức Piô XII thừa nhận 3 nguồn hợp pháp cho công cuộc nghiên cứu này:
Dĩ nhiên, ba loại thiện ích này không biện minh cho bất kỳ phương tiện nào; có những hàng rào luân lý. Cần có sự đồng thuận của người bệnh nhưng sự đồng thuận này không thể liên quan đến những hành vi hủy hoại hoặc làm tàn phế. Và thiện ích của cá nhân không phải nhường bước cho thiện ích chung: con người không bị buộc hướng đến sự hữu ích của xã hội. Đức Piô XII ở đây nghĩ đến kinh nghiệm về phát xít. Nguyên tắc nổi tiếng về toàn thể tính không được áp dụng ở đây vì trong trường hợp của xã hội hay của cá nhân, cá nhân không phải là một phần phụ thuộc vào toàn thể.
Từ đó, Giáo Hội Công Giáo đã luôn kêu gọi món quà cơ phận như hành vi liên đới và huynh đệ; nhưng nó không làm nên một bổn phận. Diễn từ này của Đức Piô XII đã được lặp lại rất nhiều: bởi Đức Gioan Phaolô II trong một diễn từ về sự xác định thời điểm chết; bởi ủy ban thường trực của Hội Đồng Giám Mục Pháp 1993 trong những tài liệu của Hội Đồng Giám Mục: “Liên đới và tôn trọng con người trong việc tháp ghép mô và cơ phận”.
Trong một diễn từ vào năm 1958 “Những vấn đề luân lý về dược học tâm thần”: “Nếu người hấp hối đồng thuận, được phép sử dụng một cách điều độ những loại thuốc gây ngủ đề làm dịu bớt các cơn đau nhưng cũng kéo theo cái chết đến nhanh hơn; trong trường hợp này, cái chết là điều không mong muốn một cách trực tiếp nhưng nó là điều không thể tránh khỏi và những động cơ tương xứng cho phép những giải pháp mà có thể làm cho cái chết đến nhanh hơn.”
Khởi đầu sự sống: theo trật tự thời gian
Chúng ta có thể nói rằng văn phong của tài liệu này cũng giống như Amoris Laetitia.
Tuyên ngôn được công bố trong bối cảnh của những dự án luật và những việc hợp pháp hóa cho phép tự do phá thai trong nhiều quốc gia. Tài liệu này thú vị vì một phần suy tư là “dưới ánh sáng đức tin” với những tham chiếu Kinh Thánh, sách Didachè, các Giáo Phụ; và tiếp theo là ‘dưới ánh sáng liên kết với lý trí”, và cuối cùng một phần về mối tương quan giữ đạo đức và luật.
Mục đích của huấn thị này là trong phần thứ nhất đưa ra những luận chứng nhân học, một mặt dưới ánh sáng của lý trí và mặt khác dưới ánh sáng của đức tin về điều liên quan đến những kỹ thuật trợ giúp của y khoa đối với việc tạo sinh.
Kết thúc sự sống
Tôi nhắc lại ở đây tầm quan trọng loại biệt trong giáo huấn của Huấn Quyền thông thường và phổ quát vào năm 1995 về ba lệnh cấm luân lý chính yếu.
“Huấn Quyền thông thường và phổ quát”: Đó là những giám mục hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng đồng thuận với nhau trên toàn thế giới để giảng dạy một điểm về giáo thuyết như được thần khải hoặc thuộc về đức tin. Quả vậy, theo Công Đồng Vaticanô II, Lumen gentium 25: “Dù tản mác khắp thế giới, nếu thông hiệp với nhau và với Đấng kế vị thánh Phêrô, các ngài cùng đồng ý dạy cách chính thức những điều thuộc đức tin và phong hóa là tuyệt đối buộc phải giữ, thì lúc đó các ngài công bố cách bất khả ngộ giáo thuyết của Chúa Kitô.”
Một giáo thuyết của huấn quyền thông thường và phổ quát đòi hỏi sự đồng thuận trong đức tin.
Điều này đã xảy ra trong luân lý lần đầu tiên vào năm 1995 trong Thông Điệp Tin Mừng Sự Sống của Đức Gioan Phaolô II và liên quan đến ba tuyên bố:
Evangelium vitae số 56 về việc giết người
Evangelium vitae số 62 về việc phá thai.
Tôi thêm điều mà Đức Gioan Phaolô II nói ở số 60: “Giáo Hội đã luôn luôn giảng dạy và vẫn còn giảng dạy rằng phải bảo đảm cho thành quả của sự sinh sản con người, từ khoảnh khắc đầu tiên trong hiện hữu của nó, một sự tôn trọng vô điều kiện vốn phải có, về mặt đạo đức đối với con người trong toàn bộ và trong tính đơn nhất thể xác cũng như tinh thần của nó”.
EV 65 về cái chết êm dịu
Cả ba triệt đều được xây dựng theo cùng một phương cách; chúng nổi bật lên một cách rõ nét so với phần còn lại của Thông Điệp bởi sự trình bày của chúng. Đó là một giáo huấn đồng nhất và thường hằng qua không gian và thời gian. Nó đòi hỏi sự đồng thuận của đức tin: để trung thành với niềm tin của Giáo Hội Công Giáo, cần phải gìn giữ tính chất chính yếu của những lệnh cấm về luân lý này.
Chính vì thế, Huấn Quyền luôn kêu gọi một nền đạo đức trách nhiệm trong mỗi trạng huống. Nền đạo đức trách nhiệm này được minh giải bởi Công Đồng Vaticanô II trong Hiến chế Gaudium et spes số 50,2.
Đạo đức và luật không được chất chồng lên nhau, cũng không có sự đồng nhất hóa giữa cả hai.
Tôi tóm tắt điều đã được trình bày trong những tài liệu khác được liệt kê trước đây.
Một vấn đề về triết học luật pháp được đặt ra: nếu luật, đây là luật tích cực, nghĩa là luật dân sự, định khung cho những thực hành trong lĩnh vực y khoa, nhân danh điều gì luật này thực hiện điều đó? Đâu là nguồn của luật?
Câu trả lời: Luật phải được đưa vào thực hiện những quyền con người căn bản. “Trong lãnh vực đạo đức sinh học như trong những lãnh vực khác của luật, luật dân sự có sứ vụ đảm bảo những quyền căn bản này bởi những quy phạm cụ thể để thăng tiến tình liên đới có trách nhiệm.”
Luật không được tổ chức sự vi phạm những quyền con người căn bản.
Và vì thế trong đạo đức sinh học: quyền sống, quyền về mặt thể lý toàn vẹn của mọi hữu thể người từ khi thụ thai đến khi chết đi; quyền về gia đình và trong khuôn khổ này, quyền cho trẻ em là phải được thụ thai, được sinh ra và được cha mẹ giáo dục.
Ở phía sau, có một nền nhân học:
KẾT LUẬN
Chúng ta vừa xem xét làm thế nào Giáo Hội đã tham dự ngay từ đầu vào suy tư về vấn đề đạo đức y khoa, nhưng chúng ta có thể tự hỏi: Tại sao Giáo Hội lên tiếng về những vấn đề đạo đức sinh học, những vấn đề này xa rời với nội dung của đức tin Kitô giáo và Kinh Thánh cũng đã không có những câu trả lời trực tiếp cho những vấn đề nay? Hơn nữa, sự đòi hỏi về mặt đạo đức có tính hữu lý và phổ quát và người ta không cần là tín hữu để là người sống theo những chuẩn mực luân lý.
Giáo Hội đã luôn coi như một phần của sứ mạng của mình là khẳng định những giá trị cho phép xã hội được nhân bản hơn. Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa, Kinh Thánh là lời không thể tách rời về con người và cho con người. Kinh Thánh dạy chúng ta rằng Thiên Chúa đã làm người, nghĩa là ngài đã trộn lẫn vào sự sống của chúng ta, và ngài muốn hạnh phúc của con người. Và Tin Mừng chuyển trao đến chúng ta tinh thần trách nhiệm đối với mọi người nam, nữ và trẻ em (x Lc10 và Mt25).
Vì thế, những kỹ thuật y sinh học được áp dụng cho con người đặt ra những vấn đề đạo đức nghiêm trọng. Những thực hành phá thai, an tử trợ tử, một vài thử nghiệm trên người rõ ràng là đi ngược lại với con người. Do đó, mỗi lần con người, hình ảnh của Thiên Chúa, bị đụng chạm đến phẩm giá của mình, Huấn Quyền sẽ can thiệp: đó là trường hợp vào thế kỷ XIX trong vấn đề về thợ thuyền (Đức Giáo Hoàng Lêô XIII với thông điệp Rerum Novarum); ngày nay, đó là trường hợp trong vấn đề đạo đức sinh học, được coi như vấn đề xã hội có tính thời sự.
Tôi sẽ kết thúc bằng hai trích dẫn của Công Đồng Vaticanô II:
Vì thế, Giáo Hội, trong những suy tư về đạo đức sinh học của mình, múc nguồn từ khởi đầu ở hai nguồn là Kinh Thánh và Luật Tự Nhiên như luật luân lý hợp lý. Giáo Hội muốn gợi lên và đào tạo những lương tâm để giúp tìm thấy những con đường của sự sống trong những trạng huống phức tạp của cuộc sống ngày nay.
Françoise Niessen
Chuyển ngữ: Giuse Nguyễn Xuân Phong
Nguồn: xuanbichvietnam.net
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn