TÌNH YÊU & HÔN NHÂN
HIỆP THÔNG - TÌNH YÊU VIÊN MÃN
Equipes Notre-Dame - Italia
Chuyển ngữ: Gm. Louis Nguyễn Anh Tuấn
Trích từ sách: Tình yêu & Hôn nhân
Ủy ban Mục vụ Gia đình/ HĐGMVN
Để có thể vượt qua quãng đường từ sự phải lòng đến yêu thương đích thật cần chuẩn bị để có một chuỗi khám phá, mà ban đầu có thể gây khó chịu nhưng rồi nếu được chấp nhận chúng tỏ ra hết sức phong phú. Khám phá những dị biệt của nhau (diversity) và tha tính (otherness) của người kia; khám phá những cái giống nhau (similarity) và tương hỗ (reciprocity). Những khám phá ấy sẽ dần dà dẫn đến chỗ đón nhận nhau và ước muốn người bạn tình của mình trong chính cái tha tính (tính khác biệt) đặc biệt của người ấy; đón nhận và mong muốn người bạn tình của mình trong những nét giống và tương hợp với mình. Những khám phá ấy sau cùng sẽ dẫn ta đến hiệp thông, tức tình yêu viên mãn.
Đôi bạn ngoài sự khác biệt căn bản về giới tính, còn có muôn dị biệt khác: về môi trường xã hội, gia đình, tôn giáo mà mỗi người đã từng sống trước đó; khác biệt về nhân cách, tâm lý, văn hóa. Văn hóa nói đây không chỉ nhiều về nền giáo dục chính thức cho bằng muốn nói tới cái hành trang những ý tưởng mang theo, trong đó có những ý tưởng về cách sống đời đôi bạn.
Cái kinh nghiệm khó nhất mà cũng góp phần phong phú nhất cho đôi bạn đang yêu nhau là chính cái kinh nghiệm khám phá ra người kia khác với mình, hoàn toàn khác mình; không thể đồng hóa với mình được dù bằng cách nào đi nữa; “anh (cô) ấy là một người khác”. Và cái khác biệt ấy của người đó rất căn cơ. Khám phá ấy đến cách bất ngờ, gây ngỡ ngàng. Thậm chí nó có thể gây “sốc”, mặc dù chính cái khác biệt ấy tự thuở ban đầu đã lôi cuốn họ một cách không ý thức!
Chắc chắn đó không phải là lần đầu tiên ta gặp sự khác biệt của tha nhân; ta đã gặp kinh nghiệm ấy rồi trong những loại tương quan khác. Và sự thôi thúc bản năng không gì khác hơn là tự vệ bằng cách, chẳng hạn, tránh xa ra. Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm, cả ở phương diện xã hội, các tập thể đều có khuynh hướng tự nhiên gạt ra bên lề kẻ lập dị. Không cần trưng thí dụ. Chúng có rất nhiều ai cũng biết. Thế nên không lạ gì nếu hai người bạn tình phải lòng nhau hấp dẫn nhau cực kỳ, lại không muốn, khi đạt tới mức cao nhất của sự kết hợp họ cảm thấy khá băn khoăn khám phá ra sự khác biệt của người bạn mình, nét độc dị của người ấy, khám phá sự dị biệt của người ấy đến tận chiều sâu, cái huyền nhiệm căn để của người ấy:
“Hiện nay chúng tôi đang sống những nét khác biệt nhau như về tính tình, về những mối bận tâm, về cách suy nghĩ, như là một ân ban, như là cơ hội làm phong phú và bổ túc cho nhau, nhưng trước đây không phải bao giờ cũng được như thế. Lúc ban đầu, thời gian sau giai đoạn đầu tiên, khi xụất hiện những dị biệt, đó là một cái gì mới lạ bất ngờ và gây xáo trộn.”
Về những nét khác biệt riêng lẻ, nhận ra và đón nhận chúng có lẽ không khiến ta bận tâm nhiều như thế: đúng hơn, điều đó có thể giúp ta xác định những không gian của nhau như trong một cuộc mặc cả lịch sự. Vấn đề thực sự nằm ở chỗ khác: đó là, vấn đề tha tính căn để của tha nhân, mà để đối diện với nó ta cần phải giữ cho mình có được một thái độ chú ý, lắng nghe, tôn trọng người bạn mình như là một người rất khác biệt ta, nhưng lại là người gần gũi nhất với ta; và cần phải có một ước muốn quyết liệt trực diện với vấn đề.
- Đón nhận sự khác biệt: đòi hỏi một nỗ lực lớn
Là một cuộc hành trình dài và nhiều khó khăn: Từ chỗ khám phá và chối từ những khác biệt và tính cách dị biệt của người bạn đời kia, dần dần chuyển qua nhìn nhận, chấp nhận, và đón nhận vui vẻ sự khác biệt ấy như một ân ban, thậm chí khát khao người bạn vì nhìn nhận người ấy khác với mình và bởi nhận ra rằng mình giới hạn và những tiềm năng của mình được giải phóng.
Hành trình ấy càng khó khăn hơn, đặc biệt trong nền văn hóa đương đại của chúng ta vốn cổ vũ và tìm kiếm sự độc lập, tự túc, thể hiện bản ngã (bản ngã của tôi chứ không phải của người kia) có khi coi chúng như những giá trị tuyệt đối. Đó là mặt trái, và là nguy cơ của sự việc đưa Nhân vị vào tâm điểm của các giá trị. Đấy là sức mạnh mà cũng là điểm yếu của mọi đôi bạn ngày nay. Một nhóm các đôi bạn đã suy nghĩ và từ đó ý thức phải có một nỗ lực dấn thân rất lớn đối với thách thức này ngày nay:
“Tiếp nhận sự khác biệt là giá trị chính yếu và là vấn đề chính yếu của đời sống lứa đôi; nhưng chỉ nhờ một nỗ lực hòa hợp thường nhọc nhằn và lâu dài trên những khác biệt của nhau đôi bạn mới có thể thực sự tăng trưởng. Nhưng những khó khăn không chỉ là những khó khăn xuất phát từ những hoàn cảnh cá nhân. Những yếu tố thuộc lịch sử, những điều kiện do bối cảnh, sự mong manh của những thăng bằng tương đối cũng làm cho những khó khăn thêm đặc thù, khó khăn hòa giải sự độc lập của hai tha tính và hòa hợp chúng lại với nhau.”
Các đôi bạn khác cũng bộc bạch những khó khăn về tiếp nhận dị biệt tính của nhau trong quá khứ như sau:
“Đối với tôi chấp nhận P. với những nét khác biệt luôn là như thế là một điều khó khăn; tôi đã thấy trong anh ấy điều tôi từng muốn thấy (có lẽ đó là khuôn mặt người cha lý tưởng) và cho tới chừng nào tôi còn chưa chấp nhận anh ấy, trong khi tôi còn chưa hiểu rằng P. chỉ có thể là P. và anh ấy đã không thể là người như tôi muốn (còn vì, khi chúng tôi bị thử thách, tôi không còn nhận ra anh ấy nữa), chúng tôi đã đau khổ nhiều.”
“Giữa hai chúng tôi có những khác biệt làm cho chúng tôi nên trưởng thành hơn…; nhưng có những khác biệt khác khiến chúng tôi chia rẽ…”
“Chúng tôi có cách phản ứng khác nhau trước những khác biệt: nàng thì muốn đối diện với chúng và tranh luận; chàng thì nhìn thấy chúng, nhưng lấy làm bực mình và đem đi chôn giấu.”
“Cái nguy hiểm của chúng tôi đó là chúng tôi có xu hướng trung lập hóa những khác biệt; cứ để chúng đấy mà không đá động gì tới, như thế là từ chối coi chúng là một yếu tố năng động.”
“Chúng tôi từ ban đầu đã lưu ý đến những khác biệt lớn giữa chúng tôi. Nhưng sau những năm đầu sự khác biệt ấy đã được bỏ mặc ở đó không đụng chạm gì tới. Có khuynh hướng là không muốn khơi dậy thêm nhiều vấn đề.”
Một số đôi bạn đã lưu ý rằng, khi nhìn nhận và đón tiếp tha nhân như là người khác, điều sơ đẳng là mỗi người cần phải nhìn nhận và đón nhận chính mình như là một kẻ khác biệt với những người khác. Điều đó hàm bao hàm khả năng trở nên khác.
“Tính chất khác biệt này - một người nói - là sự khác biệt biểu hiện ra không phải trong các vai trò hoặc trong các bộ mặt nạ ta mang, cũng không phải trong cái tôi vẫn còn chưa được biểu hiện ra nơi tất cả các tiềm năng của nó, nhưng trong cái căn tính thật sự của một bản ngã đã được giải thoát. Chỉ chính từ hai căn tính đích thật và được tự do mà nảy sinh một sự hợp nhất thật sự độc đáo.”
Bởi cách thức đó mà sự trưởng thành cá nhân có thể còn được định nghĩa như là khả năng nên khác biệt, nghĩa là khả năng xác định mình như là một nhân vị.
Về sự chấp nhận dị biệt tính của mình, nhiều tiếng nói của nữ giới bày tỏ cách đặc biệt. Nhiều chị bộc lộ thẳng thắn sự khó khăn khi phải xác định mình trong nét khác biệt của mình, khó khăn khi phải tìm và đạt cho được căn tính của mình, khi phải “biểu lộ chính những gì mình là, ngoài những khát vọng do vai trò làm mẹ, làm vợ, làm con”.
- Khác biệt làm cho phong phú
Nếu trên cuộc hành trình vất vả ấy đôi bạn không trấn áp và bóp nghẹt những dị biệt, nhưng lại có thể nhận ra giá trị của chúng, và và sống vui vẻ trong sự hòa hợp sâu xa, thì họ sẽ hợp nhất được với nhau một cách mới mẻ, với một phẩm chất phong phú hơn và với nhiều tiềm năng bất ngờ. Mỗi người sẽ nhận thấy rằng người kia được ban cho ta cũng là để ta khám phá ra mình tốt hơn. Khi nhìn nhận tính cách duy nhất của người kia ta sẽ được xác định mình rõ hơn, biết nét cá tính của mình cụ thể hơn, cả trong cái giới hạn nghèo nàn và trần trụi của mình cũng như những tiềm năng, khả năng đang chờ được phát triển đầy đủ. Nói tóm lại, cùng với sự khác biệt và tha tính của người kia, ta sẽ nhận ra sự hữu hạn và bất toàn của mình (thân phận thọ tạo của mình nơi thâm sâu) cũng như những tiềm năng còn chưa được bộc lộ của mình. Như những đôi bạn sau đây bộc bạch:
“tha nhân khác biệt của tôi là một quà tặng cho tôi; đó là một nỗi khó khăn nhưng cần thiết cho tôi được tăng triển;”
“tha nhân của tôi, vốn khác biệt tôi, mời gọi tôi cùng nhau đối diện, khiêu khích tôi, để giúp tôi ra khỏi con người của mình, ra khỏi cám dỗ tự mãn, giúp tôi biết chính mình.”
Như thế, tha nhân, kẻ khác biệt tôi, không phải là người để tôi quyết đấu, loại trừ, không phải là phương tiện cho tôi thể hiện quyền lực, sự ưu việt của tôi, nhưng để làm phong phú cho nhau hơn, đạt tới một sự hiệp thông dồi dào hơn vượt trên cả hai người. Nếu ta ý thức sâu xa như thế, thái độ của ta trước những dị biệt sẽ hoàn toàn thay đổi: tìm kiếm và trân trọng sự khác biệt của nhau và thể hiện chúng trong hòa hợp. Mỗi người vì thế nên khiêm tốn nhận biết rằng không ai là hoàn hảo; rằng cái tha tính của Anh và của Em có ý nghĩa để mỗi người trong hân hoan khám phá ra cái tôi đích thật của mình, và của người bạn mình, không phải cái tôi mơ tưởng hay hào nhoáng mà là đích thật và đôi khi còn ẩn khuất và bị chối từ.
- “Khác biệt thật tuyệt diệu”
Đây là một khám phá mới hấp dẫn mà đôi bạn có thể đạt tới. Sự dị biệt trở thành một kho tàng sung túc: là nguồn sức sống, nguồn hoạt động và sáng tạo; nguồn mạch làm cho cá nhân và cả đôi lớn lên và giàu lên.
“Những khác biệt, vốn đã từng một thời lôi cuốn chúng tôi, đã ngăn chận quan hệ của chúng tôi trở thành lề thói nhàm chán. Những đụng chạm - đối thoại từ đó mà ra đã góp phần quyết định cho sự trưởng thành của từng người và của cả đôi.”
“Việc được chọn và chọn nhau, cho dẫu có nhiều khác biệt như thế, giúp chúng ta trưởng thành hơn và hiểu rằng chỉ có tha nhân đó mới có thể giúp ta hiểu bản thân mình hơn và rằng một khi giúp ta biết chính con người thật của mình - một người dị biệt như thế - tình yêu mới có thể trở nên sáng tạo.”
“Chúng tôi ý thức về sự khác biệt của chúng tôi điều mà chúng tôi coi là một nguồn phong phú không thể định giá được. Chúng tôi được hòa nhập vào trong dòng trao đổi phẩm chất khác biệt của nhau mà không bị cám dỗ thao túng, áp đặt, thay đổi hay đồng hóa tha nhân. Một khi chấp nhận nhìn hay nghe một cách khác, trước mắt chúng tôi mở ra một chân trời mới hướng đến những chọn lựa bất ngờ, giúp chúng tôi trưởng thành hơn và sống những điều mà trước đó chắc chắn tự mình chúng tôi không thể làm được.”
Thế đó, tất cả chúng ta đều phải trải qua một cuộc hành trình lâu dài liên quan đến tha tính của chúng ta và của người bạn đối ngẫu của chúng ta. Tha tính có thể bị khước từ lúc ban đầu, nhưng rồi dần dà sẽ được nhìn nhận và dung nạp, được chấp nhận và quí trọng, có thể đến mức được khao khát và đẩy mạnh hơn. Trên con đường tiệm tiến ấy, chúng ta sẽ được trợ giúp bởi trực giác này, là một cách nào đó tha tính của mỗi người chúng ta tham dự vào mầu nhiệm Thiên Chúa, Đấng Hoàn Toàn Khác.
Người ta còn có thể đón nhận sự khác biệt của nhau bởi vì, cùng với sự khám phá và kinh nghiệm tha nhân hoàn toàn khác biệt với ta, đón nhận khác biệt còn giúp ta khám phá và kinh nghiệm được tha nhân cũng tương đồng cơ bản với ta. Chính nhờ sự dị biệt mà sự tương đồng trở nên ít hiển lộ, bớt tầm thường đi, mặc lấy một độ dầy hơn.
Dị biệt và tương đồng thoạt trông có vẻ đối nghịch nhau, bất đồng thuận. Thế nhưng, càng tập chú suy nghĩ ta càng thấy chúng có thể cùng tồn tại với nhau. Tha nhân khác biệt tôi sâu xa, nhưng cũng giống tôi cách sâu xa. Ta có thể kinh nghiệm cùng lúc hai thực tại này một cách nào đó: người yêu của tôi vừa khác lại vừa giống tôi.
Người ta không muốn nhấn mạnh nhiều đến những tương đồng đặc thù có thể có như dữ kiện có sẵn, hoặc được xây dựng trong đời sống đôi bạn:
“Điều quan trọng là những tương đồng nên được thừa nhận sao cho có thể phát huy mặt tích cực mà không phát triển tới mức làm lu mờ đi những dị biệt.”
Điều đáng chú ý là có một sự tương đồng nền tảng ở thượng nguồn: ai cũng vậy, mỗi người đều giống tha nhân kia căn bản ở chỗ vì mọi người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa: nam cũng như nữ, da đen cũng như da trắng, nhà nghèo cũng như nhà giàu, trẻ con cũng như người lớn, già cũng như trẻ, kẻ bệnh tật cũng như người khoẻ mạnh, vv...
Nếu ta nhớ lại hai bản văn về tạo dựng: St 2,18-25 và St 1,26-27 sẽ dễ dàng thấy được sự tương đồng căn bản này của các thụ tạo, của Ađam và Evà. Con người là gì? Là ’ish và ’ishsha. Hai danh từ hêbrơ này chỉ khác nhau ở tiếp vĩ ngữ phân biệt về giống, còn tiếp đầu ngữ thì thuần nhất, đồng nhất. Thiên Chúa tạo dựng con người, nam và nữ, từ cùng một chất liệu, họ đồng nhất về phẩm giá và có cùng một thực tại thâm sâu. Và chính sự đồng nhất về phẩm chất và phẩm giá làm cho Ađam có thể nhận ra Evà như là trợ tá tương xứng mà ông từng mong chờ, để đón nhận sự trợ giúp từ nàng như một đồng minh mà ông cần, để lấp đầy khoảng cô đơn trống trải và buồn bã. Nàng được tạo ra từ xương sườn của ông, nghĩa là từ thịt da ông. Không ai khác, không gì khác (việc làm, sự thống trị trên mọi sự, trên các loài, khoa học và cả kỹ thuật cũng không) có thể thỏa mãn nhu cầu tương quan ngoài một người đồng sàng.
Nếu quả thật về căn bản tất cả mọi thụ tạo đều bình đẳng như nhau, thì xem ra như thừa thãi nếu ta bàn đến sự bình đẳng nam nữ ở đây. Tuy nhiên, chính vì đây là hình thức mà người ta thường trình bày sự bất bình đẳng trong đời đôi bạn, cho nên nhắc lại sự bình đẳng đó sẽ luôn cần thiết. Đối với nhiều đôi bạn đề cập đến đề tài này vẫn còn gặp khó khăn. Ở một số nơi mà truyền thống hay tập tục vẫn còn là cản trở: ở đó không chỉ người đàn ông tự coi mình trọng hơn, mà người phụ nữ còn tự cảm thấy mình thấp kém.
Ngoài ý thức chung về sự bình đẳng căn bản, còn gia tăng ý thức về sự tương trợ lẫn nhau trong quan hệ. Cần phải khám phá và sống trọn tính tương trợ này. Đây là một ý thức rất sâu khác hẳn và phức tạp hơn nhiều thứ chủ nghĩa duy lợi thô thiển kiểu như anh sẽ ban cho em nếu em trao cho anh, cũng không phải theo kiểu duy linh sai lầm: anh cho em miễn phí, không giới hạn, không cần em phải cho anh điều gì.
Sự tương trợ lẫn nhau đặt trên nền tảng của sự chắc chắn thuộc về nhau, biểu lộ trước hết nơi chính ngôn ngữ thân xác qua sự kiện mỗi người dâng hiến chính bản thân cho người bạn tình kia. Sự tương trợ biểu lộ qua ơn gọi chung hướng tới quan hệ giữa hai dị biệt và qua thái độ và cách hành xử xây dựng tình yêu và sự hiệp thông.
Tương trợ có ý nghĩa trước hết là nhìn nhận rằng mỗi người trong đôi bạn, nam cũng như nữ, có cùng những nhu cầu sâu xa: đó là nhu cầu tự bộc lộ mình, thực hiện chính mình cách tròn đầy, được thông cảm và quí trọng, được đón nhận, giúp đỡ, tha thứ:
“Mỗi người đều có cùng những khát vọng lớn được giải phóng; được tôn trọng và được nhìn nhận; được yêu thương và bao bọc trong những nét trần trụi của mình. Cả hai người đều lên tiếng: em (anh) biết anh (em) muốn sống vui vẻ, như chính em (anh) cũng muốn sống điều ấy; anh (em) muốn một cuộc sống có ý nghĩa, như chính em (anh) cũng muốn điều ấy; anh (em) muốn được lắng nghe và chấp nhận, như chính em (anh) cũng muốn điều ấy; anh (em) muốn được tha thứ, như chính em (anh) cũng muốn điều ấy; anh (em) muốn khám phá ý nghĩa của cuộc sống như chính em (anh) cũng muốn điều ấy; anh (em) muốn một không gian riêng để được là chính mình, như chính em (anh) cũng muốn điều ấy.”
Họ cần ở nhau và dâng tặng cho nhau tình yêu, sự ân cần dịu dàng, sự đón nhận, sự tha thứ. Những yếu đuối, thiếu chung thủy, nếu chẳng may xảy ra trên cuộc hành trình của một người, có thể vượt qua được nhờ tình yêu của người kia, vì người ấy cũng ý thức sự yếu đuối, thiếu thủy chung của mình, và đồng thời cũng tin tưởng vào tiềm lực của người bạn đời yếu đuối hơn và trở lại tiếp tục cuộc hành trình.
Bởi thế, tình yêu là một thực tại phức tạp, trong đó ta có thể nhận ra vài yếu tố cốt yếu: eros, filìa, agàpe. Thuở ban đầu là tình yêu của ham muốn và phóng túng, rồi đến lúc phải có chọn lựa và trách nhiệm trong tình yêu. Trên cuộc hành trình có những khám phá phong phú nhưng không dễ dãi: khám phá về sự khác biệt, về tha tính của người bạn tình kia; nhưng cũng có khám phá về những tương đồng, bình đẳng và tương trợ. Điều quyết định cho đời đôi bạn và là nền tảng cho sự hiệp thông của họ, đó là, làm sao cùng nhau cố gắng tích cực xây dựng để hòa hợp được những khía cạnh nói trên.
- Sự hiệp thông tình yêu nối kết một người nam và một người nữ hoàn toàn dâng hiến cho nhau là tương quan liên vị sâu xa và đầy đủ nhất:
“Người yêu tôi là của tôi và tôi là của chàng.”
Đó là lời tỏ tình muôn thuở, diễn tả sự thuộc về nhau cách đặc biệt, vốn không chỉ là sở hữu vì nó phát sinh từ sự trao hiến cho nhau và mô tả sự hòa hợp tròn đầy đã đạt tới. Lời ấy được thốt lên từ hai phía, như thét gào hay khẽ khàng, rành rọt hay thầm lặng, run rẩy hay thanh bình, ngờ vực hay chắc chắn; có khi liên tục khi khác thì ngập ngừng. Hiệp thông phát sinh từ xác tín sâu xa sự kiện mình thuộc về nhau và trao hiến cho nhau trọn vẹn; tin chắc mình yêu và cũng được yêu, được ham muốn, được mong chờ.
Đôi bạn sống tình hiệp thông khi mỗi người được và cảm thấy mình được nhìn nhận và được thể hiện; khi eros, ham muốn và khoái lạc được diễn tả một cách thoải mái vì họ được nếm hưởng tình thân mật dịu dàng trong tin cậy; khi những ưu tư lo lắng, chăm sóc cho nhau được diễn tả trong sự tự do và vô điều kiện; khi quan hệ được tỏ hiện qua dự phóng chung cuộc đời luôn tươi mới. Hiệp thông nở hoa trong cuộc sống hàng ngày (cũng cái hàng ngày đó có khi người ta lại khiếm diện, xa vắng, im lặng); tình thân mật và sự trao hiến cho nhau được xây dựng, rồi tái xây dựng liên tục bởi những cái cụ thể, do biết để ý đến những chi tiết.
Trong hiệp thông đôi bạn được tăng trưởng một tầm nhìn và định giá chung các sự vật, cũng như tăng trưởng cái khả năng đồng cảm và cùng nhau xây dựng dự phóng chung. Chữ hiệp thông (communion) trong nguyên nghĩa tiếng latinh (cum-munus) có nghĩa là chung một trách nhiệm, một phận sự, cùng dấn thân vào một công việc. Như thế sự hiệp thông trở nên sáng tạo, sai hoa kết trái: có hướng lan truyền sự sống mới và hiệp thông mới, trước hết là sinh sản, nhưng không chỉ có thế; nó còn có xu hướng đi vào trong lịch sử bằng cách dệt nên những quan hệ tự do và giải phóng, phong phú và phong nhiêu.
- Tuy nhiên người ta không dễ dàng cập bến hiệp thông, mà phải có trả giá, và sẽ không bao giờ đạt tới được một hiệp thông dứt khoát.
Chúng ta ý thức rất rõ về điều đó nhất là trong thời đại ngày nay, là thời mà cái khát vọng sống chung của lứa đôi lớn mạnh và đôi khi được thực hiện từ rất sớm, nhưng xem ra cũng ngày càng thấy rõ nhiều hơn sự bất lực và những khó khăn trở ngại sống hiệp thông trong đời hôn nhân. Thành công trong việc sống hòa hợp vợ chồng ngày nay hiếm hoi đến độ được coi gần như là phép lạ! Thế nhưng tình yêu thực sự trưởng thành và dâng hiến không bao giờ thực hiện được tới mức tuyệt đối; nói cách khác khát vọng hiệp thông là vô hạn không bao giờ có thể được thỏa mãn hoàn toàn. Hợp nhất là một lý tưởng luôn thấp thoáng ẩn hiện một đàng mời gọi ta đến gần đàng khác luôn giữ một khoảng cách không bao giờ vượt qua được. Điều đó không do sự nghèo nàn, giới hạn, tội lỗi của ta.
Quan hệ lứa đôi sẽ phải luôn sống tha thiết cái khát khao đạt tới sự hiệp thông hoàn toàn, như một hồng ân có lẽ sẽ được khám phá thi thoảng, nhưng không bao giờ nắm được trong tay trọn vẹn. Sự gặp gỡ hai con người là tha nhân đối với nhau là sự gặp gỡ của hai tự do không bao giờ có thể tan hòa vào nhau hoàn toàn được. Cái ý thức mạnh mẽ về sự tương đồng và bình đẳng giữa hai người sẽ không đủ để làm dịu đi nỗi khát khao chiếm hữu, tranh đua, thù địch mà đôi khi chính tha tính của người kia khơi lên; tình bạn hay dự phóng, sự ân cần hay hoan lạc cũng sẽ không đủ; nhân từ hay tha thứ cũng thế: rốt cuộc người ta vẫn còn ý thức là tha nhân của tôi kia bên cạnh tôi đây mà cũng như đang ở một nơi nào khác; là người ấy tự căn nguyên vẫn không hẳn là của tôi, vẫn còn đấy một ẩn số mầu nhiệm lớn lao và không thể dò thấu.
Ở chiều sâu của quan hệ tình yêu, tương đồng và dị biệt, cùng được kinh nghiệm mà không phủ nhận điều nào, đưa ta tới một mầu nhiệm lớn lao siêu việt trên chúng ta. Ta có thể thấy thấp thoáng một dị biệt và một tương đồng còn vĩ đại và mầu nhiệm hơn, đó là dị biệt tương đồng giữa thụ tạo, là hình ảnh của Thiên Chúa, và Thiên Chúa của nó, là Đấng hoàn toàn khác với thụ tạo của Ngài.
Đó là lý do tại sao sự hiệp thông sẽ không bao giờ hoàn hảo và tuyệt đối được, tại sao nỗi khát khao vô hạn của ta muốn thể hiện sự hiệp thông ấy sẽ mãi mãi không bao giờ thỏa mãn được. Hiệp thông sẽ hoàn hảo khi Nước Thiên Chúa đến, khi mọi tình yêu sẽ được gồm thâu trong agàpe.
Agàpe là tình yêu “dâng hiến”, “cho không”, “vô vị lợi” nở hoa trong sự hiệp thông của một người nam và một người nữ yêu nhau trong hòa hợp, thanh khiết, mặn nồng. Đó là một chiều kích khác của tình yêu mà đôi bạn có thể tiếp cận trên cuộc hành trình của họ. Nhưng chỉ một mình Thiên Chúa mới là nguồn vô tận và là viên mãn của tình yêu này.
Tình yêu Thiên Chúa đã và đang hiến ban tình yêu này cho mỗi người và cho tất cả mọi người một cách vô hạn và không đòi điều kiện nào qua Người Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Để tỏ tình yêu của Cha Người đã mặc lấy thân phận loài người chúng ta và đã yêu thương chúng ta bằng cách dâng hiến chính mình chết trên thập giá vì chúng ta. Vì loài người chúng ta Người đã chịu tiêu hao mình đến cùng kiệt. Đối với những ai đón nhận tình yêu này Thánh Thần sẽ đến (Kh 3,20) ở trong họ và ban cho họ biết yêu mến Thiên Chúa và anh em, theo mẫu mực tình yêu của Đức Giêsu đã yêu mến chúng ta đến độ tự hiến hoàn toàn (1Ga 4,7-19).
Do đó cần ý thức rằng agàpe liên kết với một hành trình đức tin trong đó càng ngày càng xác tín rằng chỉ có Thiên Chúa là Tình Yêu vô biên và chỉ có Ngài chống đỡ tình yêu còn nghèo nàn và giới hạn của chúng ta. Agàpe, là hình thái cuối cùng của tình yêu, là tiền trạm cho sự thành toàn Nước Thiên Chúa, giúp ta sống tốt hơn nữa ái tình eros và tình yêu. Thật vậy, cách tốt nhất để sống eros và tình yêu là biết chúng tương đối, giới hạn.
- Các đôi bạn đã kinh nghiệm về khả năng sinh hoa kết trái của tình yêu agàpe này. Trong khi làm chín muồi dần và hòa hợp tất cả các chiều kích khác của tình yêu, agàpe tôn vinh, làm biến chuyển, một cách nào đó giúp cho sự hiệp thông tình yêu của đôi bạn nên hoàn thiện hơn”.
“Chúng tôi đã biết thế nào là kinh nghiệm lễ hội khi tình yêu được làm cho hoàn hảo, khi chúng tôi trao đổi cho nhau những lễ vật dâng hiến vô cầu, lòng quảng đại, tâm tình hiến dâng, tình yêu vô biên của Đức Kitô;”
“Hiệp thông trở nên sâu sắc hơn, nên mới mẻ hơn, lại đơm hoa kết trái, được xây dựng lại trong khi chúng tôi trao đổi cho nhau tình yêu tuôn trào từ thượng nguồn tình yêu bất tận”.
Trong những hạn chế, nghèo nàn, thiếu vắng, thiếu thủy chung khó tránh khỏi từ hai phía, agàpe còn có một vai trò quan trọng, nhất là để đón nhận người bạn kia và tha thứ:
“Chỉ khi nào chúng ta thực sự sẵn sàng chết cho người kia, chỉ khi chúng ta bước vào chiều kích của thập giá, thì mới có thể có phục sinh.”
Agàpe tạo khả năng vượt qua tính tương đối của eros, khắc phục sự khiếm khuyết, giới hạn, bất toàn nan y của nó.
“Agàpe đưa eros (ái tình) xâm nhập vào trong một chân trời bao la, giải phóng eros khỏi những khía cạnh chiếm hữu, làm cho eros phong phú hơn bằng sự tận tâm, đại lượng, dâng hiến, tha thứ.”
Những kinh nghiệm đẹp nhất là những kinh nghiệm ẩn khuất và khó diễn tả, nhưng tất cả chúng ta đều biết rằng một tình yêu như thế mới tạo ra mọi phép mầu.
Sau đây chúng ta sẽ xác định rõ hơn bản chất thật của chiều kích cao cả và tối hậu này của tình yêu.
Agàpe, tình yêu hiến dâng thuần khiết phục vụ lợi ích của tha nhân như đã nói, không là nét đặc thù của đôi lứa. Tình yêu đặc thù của đôi bạn nam nữ là tình yêu có khởi đầu và đặt nền tảng trên ái tình eros, và trong ý nghĩa sâu xa của nó là tình yêu khát vọng người này được bổ túc bởi người kia. Tha nhân của tôi không thể được coi như bất cứ một tha nhân nào đang sống quanh tôi vì nếu thiếu chàng (hay nàng) thì khát vọng viên mãn của tôi không thực hiện được. Tình yêu đặc thù của đôi bạn nam nữ giả thiết phải có cho và nhận, tức sự tương hỗ. Nhưng agàpe thì không. Đúng hơn, agàpe tự thân không quan tâm chuyện ấy. Agàpe đồng hành, giúp tình yêu con người trưởng thành hơn, chứ không thay thế tình yêu con người.
Agàpe không giải quyết các vấn đề của eros cũng như mọi giới hạn của tình yêu con người.
Thực ra, đức tin “không hề bảo đảm cho đôi bạn thành công; không đề xuất một suy nghĩ thực tế nào về tính dục và tình cảm muốn bảo đảm phát huy tình dục hay tình cảm, cũng không đưa ra một phân tích tâm lý nào giúp tránh xung đột. Về điều này đôi bạn phải quay về với trách nhiệm riêng của họ, nghĩa là họ phải suy nghĩ và nhận định. Tâm linh thượng hạng không làm thay đổi gì cả, mà đôi khi có thể còn có nguy cơ vì khiến ta tưởng rằng không cần phải suy nghĩ các vấn đề cụ thể đặt ra cho đời sống chung và không cần dùng đến lý trí”.
Đây là một thông điệp lớn rút ra từ mạc khải của St 1,26-27. Đâu là ý nghĩa của nó?
Đây quả là một mầu nhiệm lớn lao không dễ bước vào, và có lẽ, có thể cảm nhận và kinh nghiệm vào một lúc khác thường nào đó trong đời sống. Điều cần thiết là phải ý thức rằng chỉ với một đời sống cụ thể, đức tin, tập quán cầu nguyện, hiệp thông thường xuyên với Chúa ta mới mong có thể nhận được chút ánh sáng để hiểu.
Toàn thể thọ tạo mạc khải Thiên Chúa vì Ngài với quyền năng sáng tạo đã muốn và kêu gọi chúng đi vào hiện hữu. Thế nên toàn thể thọ tạo là một mạc khải về Thiên Chúa, là Lời của Chúa. Giữa các thọ tạo khác, có sự sống hay không có sự sống, con người không chỉ mạc khải mà còn là hình ảnh và là họa ảnh của Thiên Chúa. Tạo Hóa đã muốn và dựng nên con người theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài; con người là ánh rạng ngời của toàn thể vũ trụ:
“Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,
cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,
đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv 8,6-7)
Thế nhưng, như bản văn Sáng thế rốt cuộc xác định, hình ảnh rõ nhất, biểu tượng sáng tỏ nhất của Thiên Chúa là đôi lứa nam-nữ: sự hòa hợp tình yêu giữa một người đàn ông và một người đàn bà yêu thương nhau (xem ch. VII).
- Đôi bạn là hình ảnh của Thiên Chúa vì gồm nhiều ngôi vị.
Một cách nào đó con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa như là nam là nữ. Nhưng ta phải loại bỏ ngay kiểu nghĩ có thể qui gán giới tính cho Thiên Chúa. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa không theo lối đường cô độc cho bằng là theo nẻo đường của hiệp thông. Ý tưởng Thiên Chúa nhiều ngôi vị sẽ được mạc khải rõ ràng hơn khi Chúa Con nhập thể làm người. Nhưng điều đó không có nghĩa là ngay từ đầu người ta không linh cảm, dù còn mù mờ, rằng Thiên Chúa là chính sự hiệp thông các Ngôi Vị. Thế nên tường thuật cuộc sáng tạo con người, nam và nữ, theo hình ảnh của Thiên Chúa có thể chuẩn bị cho ta hiểu Thiên Chúa là “sự hiệp thông các Ngôi Vị không thể dò thấu”.
- Đôi bạn là hình ảnh của Thiên Chúa như là sự hiệp thông tình yêu.
Quan hệ nối kết người đàn ông này với người đàn bà này là một hiệp thông tình yêu. Nhưng, như sẽ được mạc khải, yếu tính của Thiên Chúa, sự hiệp thông các ngôi vị, là tình yêu. Tình yêu nối kết làm một các ngôi vị thần linh và cũng là tình yêu tuôn đổ bất tận trên từng thọ tạo, trên tất cả các thọ tạo. Bởi thế, đôi bạn nam nữ khi yêu nhau là đã mạc khải cách nào đó rất mầu nhiệm hình ảnh Thiên Chúa là Tình Yêu.
- Đôi bạn là hình ảnh của Thiên Chúa như là mạch nguồn sự sống phong nhiêu.
Đôi bạn tiếp nối công trình sáng tạo. Lịch sử cứu độ được lần giở ra qua sự tiếp nối các thế hệ do chính các đôi bạn tạo ra và qua công trình làm thay đổi tạo thành đã được phó giao cho họ (St 1,28). Như thế đôi bạn là hình ảnh của quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa.
- Đôi bạn giàu khả năng sinh sôi là hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tình yêu của đôi bạn được cụ thể hóa, được “vật thể hóa” nơi một ngôi vị khác là kết trái của tình yêu, là dấu chỉ vật chất của khả năng tạo sinh phong phú của họ, của sức mạnh khai nở của họ. Đôi bạn “sai hoa kết trái” như thế cách nào đó cũng là hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi. Bấy giờ nếu như họ trung thành với ơn gọi nguyên thủy của mình, nếu như họ thể hiện tình yêu viên mãn giàu sự sống, họ sẽ chính là mạc khải Thiên Chúa, trở nên Lời của Ngài, dấu chỉ sự hiện diện của Ngài, của tình yêu ba ngôi.
Chiêm ngưỡng đôi bạn yêu nhau như thế, như là hình ảnh mầu nhiệm của Thiên Chúa, gợi lên trong ta một niềm hy vọng, một lời hứa (theo nghĩa của Thánh Kinh). Một lời hứa mà Thiên Chúa của Giao Ước, Thiên Chúa trung thành đang hành trình giữa chúng ta và cứu độ chúng ta, dành cho tất cả mọi người. Mong rằng tất cả chúng ta có thể khám phá lời hứa này có ý nghĩa gì cho mỗi người hôm nay, và tiếp tục hành trình trong hy vọng hiện thực hóa lời hứa ấy.
Thông giao có một giá trị tự thân, còn hơn và trước khi như là khí cụ để tự hiểu biết mình, để dự phóng, để hành động cùng với nhau, giá trị đó hết sức quan trọng. Thông giao trở thành một cách thức hiện hữu như là ngôi vị với xác tín bên trong rằng, chỉ khi ta đi vào tương quan với một người khác và đối mặt với họ, ta mới có thể gặp gỡ thực sự chính mình, thực sự gặp gỡ tha nhân. Người ta đã hay nói tới đặc tính đối thoại thuộc về yếu tính của con người: cái bản ngã thâm sâu nhất của từng người chỉ có thể được xác định, được chiếu sáng cho mỗi người chúng ta qua một quan hệ đối thoại sâu xa với tha nhân. Nếu như điều này xảy ra nơi đôi bạn thì họ sẽ có thể “sống” như hai nhân vị, và quan hệ tình yêu sẽ có thể “sống” ngày càng phong phú hơn luôn mãi.
Các đôi bạn đã nhấn mạnh vài khía cạnh, có lẽ người ta có thể nói vài chỉ dẫn về tình trạng thông giao của họ.
- Biết mình - để người khác biết mình - biết người
Nhân vị nơi thâm sâu chứa đựng một mầu nhiệm mà tha nhân không thể dò thấu được như Đấng Tạo Hóa:
“Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ,…
con nghĩ tưởng gì Ngài thấu suốt từ xa…
miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa,
Ngài đã am tường hết” (Tv 139).
Thế nhưng người ta sẽ không bao giờ có thể lưu ý cho đủ giá trị vĩ đại của sự tự biết mình, tự biết nhau, và để cho người ta biết mình, trong cái nét đặc dị làm nên căn tính của ta.
“Chúng tôi dành rất nhiều thời giờ, dự định nhiều không gian cho việc đối thoại chiều sâu, để mình biết người và để người được biết mình, bởi lẽ biết nhau nhiều hơn và nhất là biết những nhu cầu và những mong đợi của chúng ta, chúng ta có thể tìm thấy cách sống để làm cho ta cùng hạnh phúc hơn.”
“Chắc chắn là có khát vọng muốn biết tha nhân kia cả trong những bí mật của người ấy và điều này đối với tôi là một dấu chỉ của tình yêu mà tôi dành cho L… Để cho mình được biết là điều gay go và khó khăn hơn nhiều, bởi lẽ theo bản năng chúng ta tìm cách bộc lộ mình cho tha nhân theo kiểu như mình nghĩ để người ấy yêu mình. Tôi có một khao khát mãnh liệt được yêu và xua tan nỗi lo sợ vô thức sợ rằng người kia sẽ không yêu mình nữa nếu biết con người thật của mình. Dù vậy tôi đang đi rất chậm trên đường hướng tới mở ngỏ rộng ra hơn nữa.”
“Biết tha nhân vẫn còn chưa phải là khát vọng và quan tâm rõ ràng; vẫn còn chưa phải là kiểu quan hệ của chúng tôi. Bộc lộ mình ra vẫn còn là nỗi sợ hãi sợ mình để cho người biết mình hoàn toàn. Mỗi người đều có một góc vườn bí mật.”
- Đón nhận và được đón nhận
Đây không phải và cũng không hẳn là việc một người lịch thiệp sẵn lòng đón tiếp người khác. Điều đó tự nó đã có giá trị. Đúng hơn, vấn đề là làm sao để cho cõi riêng tư của ta tiếp xúc được với cõi thâm sâu của người kia, ở những tầng sâu tâm hồn nơi người ta gặp gỡ với chính con người thật nhất.
“Nhưng - như một cặp vợ chồng tâm sự - để làm được như thế người ta cần phải được đón nhận như một con người (trên bình diện nhân vị). Mà thực tế không luôn có được điều đó.”
“Khi người bạn đời kia mở lời với tôi, đó là một tặng phẩm đang mang đến cho tôi. Nếu là lắng nghe thực sự, tôi sẽ chỉ đón nhận sự thông đạt ấy: mà không phán xét, không phê phán… Điều mà người ấy nói với tôi là anh ấy đang sống và đang trao ban cho tôi cuộc sống ấy.”
“Khi có sự chấp nhận tất cả con người của nhau với thực tâm, và trong sự tin tưởng rằng người ấy hướng tới điều thiện hảo hơn, chúng tôi cảm thấy rất tự do; chúng tôi có thể sống chính con người thật của mình.”
“Cứu độ là biết rằng em yêu anh ở chỗ mà anh đã không chấp nhận chính mình; chỗ mà anh tưởng không có lí do gì để được yêu. Bởi em đã đón nhận anh, đã tin tưởng ở anh, nên những khó khăn của anh, những điều anh phải sửa chữa, những gì anh phải thay đổi trong con người mình, tội lỗi của anh, tất cả trở thành chất liệu cho anh tăng trưởng.”
- Trách nhiệm lẫn nhau - cảm thấy đồng trách nhiệm
Cuộc sống lứa đôi đòi hỏi liên đới với nhau, tham dự tích cực và hợp tác vào sự thực hiện con người của tha nhân và vào dự phóng chung. Có rất nhiều hình thức để có thể cụ thể hóa điều đó, thế nhưng nếu chúng thường vắng mặt, hoặc hiện diện mờ nhạt, như thế có nghĩa là dấu thiếu quan tâm, chăm sóc người bạn mình và con đường chung của hai người.
“Trong giai đoạn khủng hoảng, chán nản và mất tin tưởng này của bản thân tôi, tôi đã cảm thấy mình được mang đi chỉ sống nhờ tình yêu của P., chu đáo và quan tâm. Tôi đã đi ra khỏi khủng hoảng đó với một cảm giác biết ơn và khiêm tốn chưa từng có.”
“Chưa đánh mất cùng lúc ý thức trách nhiệm đối với mối quan hệ chúng tôi, đó còn là điều may mắn. Nếu như xảy ra chỉ cho một trong hai người, người kia vẫn còn tỉnh táo và sẽ gánh trách nhiệm một mình con đường chung.”
- Dâng hiến và đòi hỏi, trao ban và đón nhận. Cám ơn.
Dòng chảy của dâng hiến và đòi hỏi, của trao ban và đón nhận, của biết ơn, nơi nào có hiệp thông tình yêu, sẽ nở hoa liên tục và tự nhiên, nhưng cũng cần phải “được tìm kiếm với trí tưởng tượng sáng tạo: trong những thời kỳ đặc biệt đánh dấu cuộc sống bởi những khó khăn, niềm vui, đau đớn và nhất là trong đời sống thường nhật, trong những cử chỉ nho nhỏ, trong thinh lặng cũng như bằng lời nói”.
Với sự thông giao không dứt và trao đổi hiến dâng này, đôi bạn, dù họ không biết, sáng tạo và làm tỏa lan một bầu khí ấm áp, ân cần, một bối cảnh thân thiện, là một trong những dấu chỉ rõ ràng nhất và phong phú nhất của sự hòa hợp đã đạt tới.
Bí quyết hòa hợp trong đời vợ chồng là biết hòa hợp hai thực tại đối nghịch: dị biệt / tha tính của tha nhân và tương đồng / tương trợ với tha nhân. Đạt tới sự thăng bằng này giữa hai cực thường không dễ, nhất là khi họ không nhìn nhận nhau và đương đầu với hai nguy hiểm mà các đôi bạn thường không chú ý minh định cho đủ. Thường xảy ra là trong khi khó nhìn nhận tha tính của người kia và trong khi ham muốn, hay đúng hơn trong khi có nhu cầu gần gũi với người kia (theo nghĩa muốn đồng hóa người ấy với bản thân mình, muốn thu gọn người ấy vào mình), người ta có xu hướng, với một sự rõ ràng và ý thức ít nhiều, đồng hóa tha nhân vào bản thân mình hoặc để mình tan hòa vào tha nhân. Điều không may là có khi hai thái độ ấy bổ sung qua lại và những hiệu quả tiêu cực của chúng gom tụ lại nơi cùng một đôi bạn. Thậm chí nơi cùng một người (là trường hợp càng khó xác định, giải quyết, thay đổi hơn). Đó là nguy cơ của một thứ tình yêu hòa tan khá thường thấy.
Chúng nên nhìn cho rõ hơn:
- Một đàng, người ta không tài nào tách mình ra khỏi thái độ, xét cho cùng là chỉ yêu bản thân mình (narcisistico). Một thái độ biến bản thân mình, con người của mình, những tình cảm của mình, những yêu sách của mình, thành trung tâm của mối quan hệ, và thu gọn tha nhân lại chỉ như là tấm gương phản chiếu mình, là vật sở hữu và thuộc quyền lực, quyền sử dụng của mình, như là một chức năng của mình. Tha nhân như thế là một mối nguy, là một đe dọa, khiến tôi sợ. Người ta chỉ yêu mến tha nhân vì chỉ yêu chính bản thân mình (narcisisticamente), nghĩa là, như tình yêu này làm thỏa mãn chính bản thân mình mà thôi.
- Đàng khác, vì thiếu ý thức về bản ngã, về cá vị tính (individualità personale) của mình vốn độc lập và phân biệt với tha nhân, người ta có xu hướng trao đổi tình yêu trong một sự hợp nhất tan hòa, ở đó các nhân cách, thay vì phát triển và trưởng thành, sau cùng sẽ tàn úa và trở thành một thứ công cụ cho người kia.
Cả hai trường hợp đều không đưa người ta đến hiệp thông yêu thương, vốn là hiệp thông liên vị, nghĩa là sự hiệp thông giữa những con người khác biệt và tự do.
“Chúng tôi nhận thấy rằng sự hòa tan có thể che đậy thực tại rất khác với tình hiệp thông giữa hai nhân vị. Trong trường hợp của chúng tôi, đã từng xảy ra thế này: L. cảm thấy khao khát luôn mình phải là trung tâm hay đúng hơn mình là người lèo lái; còn R. thì thiếu khả năng bộc lộ con người mình và thực hiện mình như một nhân vị.”
“Trước đây tôi từng cho rằng hòa hợp tan chảy hoàn toàn trong một căn tính duy nhất là mục tiêu có thể đạt tới được và gần như bị coi thường. Nhưng chẳng bao lâu chúng tôi đã học được rằng không đúng như thế. Chỉ cần một ít lâu để chúng tôi hiểu rằng điều quan trọng và cần thiết là đón nhận tha nhân kia như là họ khác với mình. Chính như thế đó mới là tình yêu.”
“Nhìn nhận nơi tha nhân của ta nhu cầu được trưởng thành và tìm những cái có thể khác biệt với ta bằng cách giúp đỡ người ấy cách cụ thể tìm được không gian và những cách thức để thực hiện, điều đó giúp chúng ta có được sự độc lập cá nhân.”
“Chúng tôi đã cùng nhau tìm được một sự độc lập, mà, bởi những con đường khác nhau, trước đây chúng tôi đã không hề có cơ hội trưởng thành trong gia đình nguyên thuỷ. F. như là người con trai duy nhất của cha mẹ già; C. như đứa con gái được giáo dục phải phục tùng người đàn ông.”
Bởi thế, gặp gỡ thực sự bắt đầu khi dứt bỏ một thứ quan hệ hòa tan và người ta có thể nhìn tha nhân của mình trong cái nhìn không còn bị ràng buộc bởi khuynh hướng chiếm hữu hoặc tiêu diệt, bằng cách vẫn trung thành với ơn gọi cá nhân của mình.
“Chỉ như thế lịch sử của em và của anh mới có thể trở thành lịch sử của chúng ta.”
Nhiều đôi bạn đã cho biết rằng mối tương quan giữa sự độc lập và kết hợp là chủ đề trung tâm của quan hệ đôi bạn. Một vài trong số đó, khi cùng nhau bàn bạc, đã thêm vào:
“Về chủ đề trung tâm này cần phải xem xét cả bối cảnh lịch sử mà tất cả chúng ta đã sống. Làm thế là đúng, để hiểu tốt hơn cũng như để tránh mang gánh nặng, mặc cảm tội lỗi, thói duy đạo đức rốt cuộc chỉ làm cho tình cảnh trầm trọng thêm.”
Nguy cơ của sự tan hòa và nguy cơ của sự hư hỏng, kết quả có thể có của nó, là khá cao trong các cặp vợ chồng hiện nay, còn bởi vì chúng liên kết với “các lịch sử sinh động và khách quan: đề cao và khuyến khích kết hợp mãnh liệt trong đời sống đôi lứa đi kèm với việc đề cao và khuyến khích để biểu lộ mình và để trưởng thành cá nhân. Có một vấn đề lịch sử đàn áp đời sống đôi lứa (và do đó đàn áp hôn nhân); có một vấn đề lịch sử khách quan về nỗi yếu đuối lớn của đôi lứa.”