MỒNG BA TẾT
THÁNH HÓA CÔNG ĂN VIỆC LÀM
(St 2,4b-9.15; Cv 20,32-35; Mt 25,14-30)
LÀM LỜI TÙY THEO KHẢ NĂNG CỦA MÌNH
“Ông chủ trao cho người này năm nén,
người kia hai nén, người khác nữa một nén”
(Mt 25,15)
I. CÁC BÀI ĐỌC
Trong thánh lễ cầu cho việc “thánh hóa công ăn việc làm”, Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc và suy gẫm những bài đọc Sách Thánh liên quan đến “của cải”, đến những gì Thiên Chúa thương ban cho con người, cả vật chất lẫn tinh thần. Chọn lựa và sử dụng thế nào là quyền tự do của con người.
1. Bài đọc 1
Đoạn sách Sáng Thế hôm nay thuộc trình thuật thứ hai về sáng tạo. Dù có những điểm khác biệt về chi tiết so với trình thuật thứ nhất, trình thuật này vẫn làm nổi bật vị thế và vai trò của con người trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa.
Trước hết, dù con người nằm trong số những loại thụ tạo do Thiên Chúa dựng nên, nhưng lại là thụ tạo duy nhất được Thiên Chúa đích thân “nặn ra” và “thổi sinh khí vào lỗ mũi” (St 2,7). Như một thợ gốm lành nghề, Thiên Chúa “nặn ra” con người (x. Is 45,9) theo ý của Ngài và cũng chính vì thế mà con người hoàn toàn lệ thuộc vào thánh ý của Thiên Chúa trên cuộc đời mình. Hơn nữa, chính Thiên Chúa ban “sinh khí”, tức là “hơi thở sự sống” cho con người. Nhờ “sinh khí” như là nguyên lý của sự sống mà con người bắt đầu sống nhờ chính hơi thở của Thiên Chúa, nhờ sinh lực Thiên Chúa ban. Sự sống của con người phụ thuộc vào sinh khí của Thiên Chúa và chỉ Thiên Chúa mới có thẩm quyền cao nhất và cuối cùng trên sự sống của con người.
Thêm vào đó, con người còn được ủy thác cho nhiệm vụ cộng tác với Thiên Chúa, tiếp tục công trình tạo dựng của Ngài trong việc “cày cấy và canh giữ đất đai” (St 2,15). Dù con người là trung tâm của tạo dựng, nhưng con người cũng có vai trò quan trọng trong việc bảo toàn và phát triển những gì tốt đẹp mà Thiên Chúa đã dựng nên. Sự cộng tác của con người trong việc “cày cấy và canh giữ đất đai”, gìn giữ và vun trồng vườn cây Thiên Chúa tạo dựng, là bảo đảm cho sự bền vững tốt đẹp của những gì Thiên Chúa đã thiết lập. Vì thế, sự cộng tác tích cực của con người đóng vai trò rất quan trọng để công trình tạo dựng của Thiên Chúa đạt tới tầm mức viên mãn.
2. Bài đọc 2
Cv 20,32-35 là đoạn cuối trong diễn từ của thánh Phaolô từ biệt các kỳ mục tại Êphêxô trước khi ngài lên đường cho một sứ vụ mới.
Thánh nhân ý thức những khó khăn mà các Kitô hữu sẽ gặp phải sau khi ngài ra đi, đồng thời ngài cũng cho thấy đâu là chỗ dựa cho họ, nên ngài mới “phó thác anh em cho Thiên Chúa và lời ân sủng của Người” (Cv 20,32a). Thánh Phaolô cho thấy rằng sức mạnh của các Kitô hữu ở nơi Thiên Chúa. Phó thác cuộc đời trong tay Chúa và lời ân sủng của Người giúp các Kitô hữu vượt qua những sóng gió trong đời sống đức tin, vì chính lời Chúa là lời “có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến” (Cv 20,32b). Sự tin tưởng phó thác vào Chúa và sức mạnh của lời Người có thể không mang lại cho người tín hữu sự giàu có sung túc về vật chất, nhưng chắc chắn là bảo đảm cho phần gia tài vinh phúc cùng với các thánh.
Những lời tâm huyết của thánh Phaolô không là mớ lý thuyết suông, nhưng chính thánh nhân đã cảm nghiệm và chứng minh qua chính cuộc sống của mình. Quả vậy,thánh Phaolô đã nêu gương tự lập và không ham danh lợi; ngài đã tự lo cho mình về những nhu cầu vật chất, đồng thời khuyến khích các Kitô hữu hãy lao động để giúp đỡ những người đau yếu, vì theo thánh Phaolô, (có lẽ dựa vào truyền khẩu, vì các tác giả Tin Mừng không ghi lại) Chúa Giêsu đã từng dạy rằng “cho thì có phúc hơn là nhận”. Như thế, một đàng thánh Phaolô khuyên các Kitô hữu hãy biết cậy dựa vào Thiên Chúa và lời của Người chứ không phải là của cải vật chất; đàng khác ngài khuyến khích họ hãy chăm chỉ làm việc để có thể chia sẻ với những người thiếu thốn hơn mình.
3. Bài Phúc Âm
Bài Tin Mừng mời gọi chúng ta suy gẫm về những phúc lành mà Thiên Chúa trao cho con người. Sử dụng và làm triển nở các phúc lành đó là sự tự do chọn lựa của con người; một sự chọn lựa đi kèm với trách nhiệm về những hậu quả của nó.
Trước hết, ông chủ trong dụ ngôn không trao cho các đầy tớ những yến bạc cách ngẫu nhiên, tùy hứng, cẩu thả, nhưng trao cho họ số yến bạc tùy theo khả năng riêng mỗi người (Mt 25,15). Chắc hẳn ông chủ đã tính toán cẩn thận, quan tâm đến từng đầy tớ, để ý đến khả năng của mỗi người, để rồi cân đo đong đếm số yến bạc mà ông sẽ trao cho họ sao cho phù hợp nhất. Về điểm này, khó có thể trách ông chủ vì đã không đối xử công bằng. Ngoài ra, ông chủ không hề căn dặn gì thêm. Chính vì thế mà các đầy tớ có hoàn toàn quyền quyết định nên làm gì với số yến bạc được trao và quả thật đã có những cách làm khác nhau đối với số yến bạc của ông chủ.
Hơn nữa, thánh Mátthêu cho biết rằng ông chủ trở về sau thời gian dài và tính sổ với các đầy tớ. Chi tiết này cho thấy ông chủ không phải là người nông cạn, nhất thời, bốc đồng, tùy hứng nhưng là người đã lên kế hoạch tỉ mỉ và cẩn thận. Ông chủ là người tin tưởng hoàn toàn vào các đầy tớ nên đã trao cho họ một kế hoạch dài hơi để họ có đủ thời giờ để sắp xếp, tính toán và làm lợi số yến bạc được giao. Về điểm này, không thể trách ông chủ là người hà khắc, keo kiệt. Ông không hề đưa ra tỷ lệ hoa lợi, mà cũng chẳng hạn chế thời gian. Sự thành bại không phụ thuộc ông chủ mà phụ thuộc vào thái độ thiện chí và cách hành xử khôn ngoan của các đầy tớ khi đứng trước những yến bạc ông chủ trao cho.
Sau cùng, ông chủ không đề cao sự mưu mẹo, khôn khéo hay khen các đầy tớ vì đã làm lợi được nhiều hay ít; tiêu chuẩn đánh giá của ông chủ lại là sự trung thành của đầy tớ (Mt 25,21.23): trung thành ngay cả trong những việc nhỏ, trung thành làm tất cả những gì trong khả năng của mình để làm lợi cho chủ. Một khi đã giao phó các yến bạc cho cho đầy tớ, ông chủ hẳn đã trao gởi nơi họ sự tín nhiệm cao nhất và sự tín nhiệm đó chỉ có thể được đền đáp trọn vẹn bằng sự trung thành. Và cũng chỉ có những đầy tớ trung thành như thế xứng đáng hưởng niềm vui của chủ (Mt 25,21.23).
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1/ Mỗi người chúng ta được tạo dựng cách đặc biệt và được đón nhận sự sống từ chính Thiên Chúa. Tôi đã đón nhận hồng ân cao cả này ra sao? Tôi đã quản lý sự sống Chúa ban thế nào? Tôi có đang làm những điều chống lại sự sống của chính tôi, của người khác và của các sinh vật quanh tôi?
2/ Đâu là mối bận tâm lớn nhất của tôi trong cuộc đời này? Kiếm được nhiều của cải vật chất? Tìm cách tích lũy của cải tinh thần? Kiếm tìm Chúa và sống trong ân nghĩa với Ngài?
3/ Tôi đang sử dụng các phúc lành Chúa ban, cả vật chất lẫn tinh thần, như thế nào? Những gì tôi đang có sẽ dẫn tôi đi về đâu? Tôi có đang trung thành với Thiên Chúa, Đấng là nguồn của mọi phúc lành tôi đang có? Tôi có tìm kiếm niềm vui nơi Thiên Chúa là Chủ của cuộc đời tôi?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự tốt lành, Ngài luôn quan phòng và sẵn lòng tuôn đổ muôn phúc lành cho con người. Trong dịp đầu năm hôm nay, chúng ta cùng hiệp dâng và cầu xin Chúa chúc lành thánh hoá công ăn việc làm của chúng ta trong Năm Mới.
1. Con người được mời gọi làm triển nở các phúc lành của Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh biết sử dụng cách hiệu quả mọi tài năng Chúa ban để loan báo Tin Mừng và góp phần xây dựng Nước Trời nơi trần thế.
2. Chúa đã trao cho con người làm chủ vũ trụ và thiên nhiên. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo trên thế giới biết quan tâm tạo công ăn việc làm, mưu cầu hạnh phúc cho người dân; đồng thời, có những chính sách ưu tiên cho việc bảo vệ môi sinh, môi trường.
3. Lao động là cộng tác vào công trình tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi Kitô hữu luôn ra sức làm việc nhằm tạo ra của cải và góp phần xây dựng xã hội, nhưng cũng biết chú tâm tìm kiếm Chúa và sống trong ân nghĩa với Người.
4. Người Kitô hữu được mời gọi thực thi ý Chúa: “cho thì có phúc hơn là nhận.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn trung thành sống giới răn mến Chúa yêu người, biết sẵn lòng chia cơm sẻ áo cho những người túng thiếu bất hạnh.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin nhận lời chúng con cầu nguyện và thánh hóa mọi công việc làm ăn của chúng con, giúp chúng con đạt được thành quả tốt đẹp ở đời này, và đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu ở đời sau. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen
CHÚA NHẬT 6 MÙA THƯỜNG NIÊN NĂM B
Lv 13,1-2.44-46; 1Cr 10,31-11,1;
Mc 1,40-45
SỰ THANH SẠCH VÀ LỀ LUẬT
“‘Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh’.
Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch”
(Mc 1,41-42)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1: Lv 13,1-2.44-46
Lêvi là quyển sách thứ ba trong bộ Ngũ Thư gồm năm quyển: Sáng Thế, Xuất Hành, Lêvi, Dân Số, và Đệ Nhị Luật. Bài đọc 1 nằm trong khối đơn vị văn chương thuộc hai chương 13 và 14 của sách Lêvi, vốn bàn đến những thứ bệnh da liễu, dưới tên gọi chung là sara‘at. Hạn từ này thường được chuyển ngữ là “bệnh phong hủi”, nhưng không nhất thiết là bệnh phong do vi trùng Hansen gây ra như cách hiểu của y học ngày nay.
Theo sách Lêvi, các vị tư tế đóng vai trò kiểm tra người bệnh, có quyền tạm thời cô lập người bệnh trong trường hợp chưa thể xác định được bệnh cách rõ ràng; sau 7 ngày tư tế sẽ tiến hành kiểm tra bệnh lần nữa, và tư tế sẽ tuyên bố người bệnh đã khỏi bệnh (thanh sạch) hay bị “phong hủi”.
Người phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu, và kêu lên: “ô uế, ô uế”. Ba hành vi này hầu chắc nhằm diễn tả nỗi đau thương, tang tóc, như thể mình đã chết rồi, hay ít ra như thể mình đang đau đớn phiền muộn trước cái chết của người thân. Quả vậy, St 37,34 nhắc đến chuyện ông Giacóp đã “xé áo mình ra, quấn áo vải thô ngang lưng và để tang Giuse lâu ngày” sau khi nghe hung tin Giuse đã bị thú dữ ăn thịt. Lv 10,6 cũng nhắc đến chuyện ông Môisen ngăn cấm anh mình là thượng tế Aharon không được “xõa tóc và xé áo” trước việc hai người con của mình là tư tế Nađáp và tư tế Avihu đã chết thảm vì cả gan lấy lửa phàm tục mà tiến dâng Đức Chúa.
Hành vi kêu lên hai tiếng “ô uế, ô uế” hầu chắc nhằm cảnh giác cộng đoàn trước tình trạng “phong hủi” của người bệnh, để cộng đoàn có thể tránh được tình trạng lây bệnh, mà nhờ đó giữ được “sự thanh sạch” xứng hợp với Đức Chúa là Đấng Chí Thánh đang ngự giữa họ.
Việc người phong phải sống ngoài trại cũng nằm trong chiều kích phục vụ lợi ích của cộng đoàn. Việc sống ngoài trại cũng làm nổi bật lên yếu tố “sự chết” trong dân Israel. Bộ Ngũ Thư cho chúng ta biết trong thời gian dân Israel đi trong sa mạc trên hành trình tiến về Đất Hứa, họ sống trong trại với nhau, giữa trại là Lều Hội Ngộ có Đức Chúa ngự trị. Việc sống ngoài trại, vì thế, biểu tượng cho sự xa cách Đức Chúa và tách biệt khỏi đời sống cộng đoàn. Ngoài ra, khu vực ngoài trại là nơi những tội nhân và những người ô uế bị đưa đến đó (x. Lv 10,4-5; Ds 5,1-4; 23,14-15; 31,19-24). Án tử dành cho kẻ phạm trọng tội cũng diễn ra ở ngoài trại (x. Ds 15,35-36).
2. Bài đọc 2: 1Cr 10,31-11,1
Trong thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côrintô, 1Cr 10,31-11,1 là đoạn kết của một đơn vị văn chương, vốn bàn đến vấn đề “Thịt cúng và những mối nguy hiểm từ việc thờ ngẫu tượng” (1Cr 8,1-11,1). Trong đoạn kết này, vị tông đồ dân ngoại khuyên nhủ các tín hữu 3 điều cụ thể sau đây:
- Dù làm việc gì, người tín hữu hãy làm để tôn vinh Thiên Chúa (x. 10,31)
- Người tín hữu đừng làm gương xấu cho bất cứ ai (x. 10,32)
- Người tín hữu hãy noi gương các vị thánh trong Giáo Hội, nhưng Đức Kitô mới là mẫu gương tuyệt vời nhất để họ noi theo (x. 11,1)
3. Bài Tin Mừng: Mc 1,40-45
Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật thứ 6 Mùa Thường Niên năm B xuất hiện ngay sau trình thuật Chúa Giêsu âm thầm rời Caphácnaum để tiếp tục đi khắp miền Galilê, rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh tật cho nhiều người. Từ đoạn Tin Mừng này, chúng ta có thể rút ra những điểm chính yếu sau đây:
1/ “Có người bị phong hủi đến gặp Chúa Giêsu” (c. 40a): Người phong hủi này một cách nào đó đã vi phạm Luật Môisen khi anh dám liều mình đến với Chúa Giêsu. Chiếu theo Luật Môisen như bài đọc 1 đã nói đến, người mắc bệnh phong phải sống tách biệt khỏi đời sống cộng đoàn. Anh không được phép đến gần những người không mắc bệnh. Anh phải hô lên 2 tiếng “ô uế, ô uế”, một hành vi không chỉ diễn tả tình trạng đau thương của mình, mà còn để lưu ý người khác và để bảo vệ lợi ích của cộng đoàn. Như vậy, trong mắt người phong hủi này, Chúa Giêsu phải là một người tuyệt vời, nhân lành và quyền năng lắm thay mới khiến anh dám đến với Ngài mà không sợ mang nặng cảm giác “vi phạm Luật” nơi mình, không sợ lây bệnh cho Ngài khiến Ngài phải trở nên ô uế, nhưng tin tưởng Ngài không chỉ có khả năng “miễn nhiễm” ô uế, mà còn có năng quyền chữa lành cho anh.
2/ “Anh quỳ xuống van xin rằng: ‘Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch’” (c. 40b): Người phong hủi đến với Chúa Giêsu với tâm tình của một người khiêm hạ. Anh dám nói lên mong ước của mình, nhưng cũng để Chúa Giêsu tự do quyết định điều gì Ngài cần làm.
3/ “Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: ‘Tôi muốn, anh sạch đi!’” (c. 41): Tiếp nhận một người phong hủi đồng nghĩa với việc Chúa Giêsu dám tiếp nhận sự ô uế vào mình. Là “Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian”, Chúa Giêsu đã và đang gánh lấy bao nỗi khổ đau, bệnh tật và tội lỗi của con người. Ngài làm tất cả vì tình thương, vì “chạnh lòng thương” nhân loại lầm than và thống khổ, vì muốn con người được nên “thanh sạch”, được tái hòa nhập với cộng đoàn, được tham dự vào đời sống Phụng Vụ (thờ phượng Thiên Chúa chốn công khai), và sống hạnh phúc nhất với phẩm giá làm người. Tình trạng “ô uế” có thể lây từ người này sang người khác, nhưng không thể “gây hại” cho Chúa, vì sự chí thánh và lòng xót thương hải hà của Ngài xóa tan đi tất cả những gì là ô uế và nhơ nhớp.
4/ “Lập tức, chứng phong hủi biến mất khỏi anh, và anh được sạch” (c. 42): trạng từ “euthus” (lập tức), vốn được thánh Máccô ưa dùng (không dưới 44 lần), nhấn mạnh đến tính hiệu năng tức thời của lời Chúa Giêsu: “tôi muốn, anh sạch đi” (c. 41). Trong Tin Mừng Máccô, chúng ta cũng bắt gặp những trường hợp tương tự trong các phép lạ chữa lành: Chúa Giêsu chữa người bại liệt (x. Mc 2,11-12); Chúa Giêsu chữa người phụ nữ bị băng huyết (x. Mc 5,28-29); Chúa Giêsu cho con gái ông Gaiah sống lại (x. Mc 5,41-42); Chúa Giêsu chữa lành anh mù Batimê ở Giêrikhô (x. Mc 10,52).
II. GỢI Ý SUY TƯ PHẢN TỈNH
1/ Có “chứng bệnh” nào đang khiến tôi phải xa cách Chúa, và tách biệt khỏi cộng đoàn đức tin? Có “chứng bệnh” nào khiến tôi cảm thấy mình hết sức đau khổ, như thể đã chết?
2/ Người bị bệnh phong hủi mong ước được Chúa Giêsu chữa lành. Tôi cũng ao ước được Ngài chữa lành điều nào, vấn đề nào, “bệnh tật” nào trong cuộc sống của tôi?
3/ Người bị bệnh phong hủi rất khiêm tốn khi đến với Chúa Giêsu. Anh để Chúa tự do quyết định điều Ngài muốn. Còn tôi, tôi thường có thái độ nào khi đến với Chúa?
4/ Tôi có cảm nghiệm nào về Chúa Giêsu: Nơi Ngài tôi có cảm nhận được lòng xót thương của Thiên Chúa? Nơi Ngài tôi có cảm nghiệm thấy quyền năng chữa lành? Tôi có nghiệm thấy Ngài đang giơ tay chữa lành tôi?
5/ Chúa Giêsu đã yêu thương chữa lành cho người bị bệnh phong. Có bao giờ tôi đã dám đón nhận “sự ô uế” từ người khác để tôi có thể chữa lành vết thương của họ?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa Cha đã sai Con Một của Người đến trần gian để chữa lành và thanh tẩy hầu cứu độ mọi người. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và tin tưởng dâng lời cầu nguyện cho Hội Thánh và cộng đồng nhân loại:
1. Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương và đưa tay đặt trên người bệnh phong. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, hàng Giám mục và Linh mục trong Hội Thánh, luôn là dấu chỉ sống động của lòng Chúa thương xót đối với con người thời đại.
2. Người bệnh phong van xin Chúa: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người đang đau khổ nơi thân xác hay tâm hồn ở khắp nơi trên thế giới, biết tin tưởng tìm đến với Chúa Giêsu để được Người chữa lành và an ủi.
3. Chúa nói với người bệnh: “Hãy đi trình diện tư tế và dâng của lễ theo luật truyền.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho các kitô hữu khi đón nhận biết bao ân huệ của Chúa cũng luôn biết sống tâm tình tạ ơn cho xứng đáng qua bổn phận thờ phượng và tuân giữ lề luật.
4. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Ðức Kitô.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, biết tích cực góp phần phúc âm hóa đời sống cộng đoàn bằng một đời sống thánh thiện và gương lành.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha và là Đấng cứu độ chúng con, xin lắng nghe và chúc lành cho những ước nguyện của cộng đoàn chúng con, giúp chúng con luôn sống xứng đáng trong tư cách là nghĩa tử của Cha. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Ban Mục vụ Phụng tự
Nguồn: tgpsaigon.net
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn