Suy Niệm Tuần XIV Thường Niên - Năm C - Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê
Chủ nhật - 07/07/2019 03:59
1257
Thứ Hai tuần XIV Tn
Cái nhìn đức tin
Các bài đọc hôm nay gợi lên ước muốn có được một đức tin vững mạnh. Đức Giêsu nói với người phụ nữ: ‘Đức tin con đã cứu chữa con’. Đức tin khiến cho việc đụng chạm thể lý đến Đức Giêsu (‘Tôi chỉ cần sờ được áo choàng của Ngài thôi là sẽ được cứu chữa’) nên khác hơn cái đụng chạm bình thường: ‘Ngay từ giờ ấy bà được cứu chữa’. Đức tin giúp ta khám phá nơi các thực tại những khả năng mới, mà nếu không có đức tin người ta không thể nhận ra được. Chính Đức Giêsu diễn tả điều đó, khi Ngài nói ‘Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy’! Nó đã chết, nhưng đức tin nhận ra rằng nó có thể sống lại. Đối với những ai không có đức tin, đó chỉ là những lời vô nghĩa, và tin mừng viết: ‘Họ chế nhạo Ngài’. Nhìn thấy thực tại cụ thể, họ nói: ‘Chúng tôi chứng thực rằng nó đã chết, không thể sống lại được’, bởi lẽ họ không thấy khả năng mới mà đức tin đặt vào trong thực tại ấy.
Tin vào Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi để nhận ra những khả năng mới ấy và để biến đổi thực tại chết chóc nên thực tại của sự sống.
Tường thuật về thị kiến của Giacób cũng nêu lên những tư tưởng giống như vậy. Giacób lấy một hòn đá kê đầu: chỉ là một hòn đá. Nhưng hòn đá ấy lại là sự hiện diện của Thiên Chúa và Giacób tỉnh giấc nhận ra: ‘Quả thật, có Đức Chúa ở nơi này mà tôi không biết’. Có một khả năng mới mà ông không biết, và Đức Chúa đã mạc khải cho ông; một liên hệ giữa trời với đất: ‘một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời, trên đó các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống’. Không chỉ là một hòn đá bình thường, nhưng là nơi Thiên Chúa ngự.
Biết bao lần chúng ta chỉ thấy những viên đá, và dừng lại ở cái dáng vẻ bên ngoài của thực tại: khó khăn, bệnh tật, nghịch cảnh, bất đồng trong công việc hay trong gia đình, chúng ta chỉ thấy biết bao nhiêu là viên đá trên hành trình đời mình. Nếu chúng ta có đức tin sống động, chúng ta sẽ khám phá ra rằng những viên đá cụ thể đó không phải là tất cả thực tại của chúng. Chúng ta thấy vẻ bề ngoài nhưng bên trong có tình yêu của Chúa, Đấng ban cho chúng ta khả năng liên hệ mật thiết hơn với Ngài, khả năng biến đổi thực tại hàng ngày.
Cầu xin Chúa mở mắt cho chúng ta và gia tăng lòng tin, để chúng ta có thể nhận ra trong mọi sự cái thực thể đích thực và sâu thẳm của chúng.
+++
Tình thương của Thiên Chúa
Phụng vụ hôm nay dẫn ta vào chính con tim của Thiên Chúa. Người tự tỏ mình là phu quân ngay cả khi con người quay lưng lại với Ngài. Bằng chứng của một tình yêu vừa thâm sâu vừa tạo nên những việc diệu kỳ như thế, ta tìm gặp nơi các ngôn sứ thời Cựu ước. Sự thân tình giữa Thiên Chúa và tạo vật của Người, giữa vợ chồng, là một thực tại gây kinh ngạc cho ta là những con người rất hà tiện đáp trả tình yêu của Chúa Cha. Và tin mừng hôm nay xác quyết mạnh mẽ điều mà ngôn sứ loan báo. Đức Giêsu tự giới thiệu mình là đấng đầy lòng thương xót đối với người phụ nữ bị bệnh băng huyết, và đối với đứa con gái ông Giairô, trưởng hội đường. Là hai phép lạ xảy ra nhờ lòng tin của người phụ nữ: ‘Tôi chỉ cần sờ được vào áo choàng của Người thôi…’ và của ông Giairô: ‘Con gái tôi vừa mới chết. Nhưng xin Ngài đến đặt tay lên cháu, là nó sẽ sống’. Và vị phụ quân mà Ôsê loan báo đã ra tay hành động. Ngài là vị phu quân cho người phụ nữ mắc bệnh được chữa lành nhờ lòng tin, cho người cha đang thất vọng vì cái chết của đứa con gái mà Đức Giêsu cầm tay truyền lệnh chỗi dậy, cử chỉ của tình yêu vô biên.
Thiên Chúa của chúng ta không xa cách cuộc sống của chúng ta, được dệt bằng biết bao điều phức tạp. Quyền năng của Đấng Tối Cao và lòng thương xót của Đức Giêsu không bao giờ vơi cạn. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, lòng tin vào Ngài, vào tình thương của Ngài có khả năng giải cứu chúng ta khỏi mọi hoàn cảnh bối rối.
Thứ Ba tuần XIV Tn
Đêm tối đức tin
Đoạn sách Sáng Thế chúng ta đọc hôm nay thật mầu nhiệm; các Giáo Phụ xem đó như là thử thách Thiên Chúa gởi đến Giacób, như đã từng xảy ra cho Abraham, dù cách thức khác nhau.
‘Ông Giacób ở lại một mình và có một người vật lộn với ông cho đến lúc rạng đông’. Cuộc vật lộn xảy ra thâu đêm; không chỉ trong đêm tối mà còn trong tri thức nữa: Giacób không biết mình đang vật lộn với ai. Abraham đã nghe tiếng Thiên Chúa, biết là chính Ngài, nhưng ông cũng phải vật vả trong đêm tối: ‘Ông ra đi mà không biết mình đi về đâu’, như thư do thái viết. Giacób, trái lại, đã lựa chọn tương lai cho mình, nhưng dọc đường Thiên Chúa đã mời gọi ông thay đổi nội tâm qua một cuộc vật lộn với Ngài, cuộc vật lộn kéo dài và khó nhọc.
Là giờ phút bi thảm và huyền nhiệm trong cuộc đời của Giacób, để có thể so sánh với Abraham khi leo lên núi Moria, với đau khổ và lòng vâng phục, và Thiên Chúa đã xác nhận lời Ngài hứa và chúc lành. Giacób dù chiến đấu, vẫn cảm thấy là đối thủ của mình không có ác ý, ông hiểu một cách mơ hồ rằng Thiên Chúa ở gần bên mình: ‘Tôi sẽ không buông ngài ra, nếu ngài không chúc phúc cho tôi’. Và cùng với chúc lành, ông nhận một tên gọi mới: Israel. Giacób đã chiến đấu với Thiên Chúa, đã được xác nhận ơn gọi của ông: từ nay ông trở thành con người mới, người của Thiên Chúa.
Trong cuộc hành trình thiêng liêng cũng xảy ra điều tương tự. Hành trình đã chọn, ngay tức khắc xuất hiện những trở ngại cần chiến đấu để vượt qua. Thường thì những chắc chắn thưở ban đầu biến mất, tất cả chỉ còn lại tăm tối và cám dỗ buông xuôi: là thời gian vật lộn để đứng vững trong những chọn lựa của mình, không thay đổi. Có những khó khăn ngoại tại: Thiên Chúa cho phép để làm cho chúng ta tiến tới trong ánh sáng và ân sủng.
Chúng ta mong ước một cuộc sống an nhàn, thanh thản, bình an…Thanh thản, vâng, nhưng trong sự tin tưởng đón nhận những nghịch cảnh mà Thiên Chúa, vì yêu thương, cho phép xảy đến cho ta, bởi lẽ cuộc đời chúng ta không có mẫu gương nào khác ngoài Đức Giêsu.
+++
Thờ ngẫu thần, thói xấu của con người
Trong đoạn sách ngôn sứ Ôsê lập lại lời tố cáo của Thiên Chúa đối với dân Người vì họ chạy theo việc thờ các tượng thần do tay con người tạo nên, không có khả năng nhận biết và giải cứu. Đặc biệt lưu ý đến những lời này: ‘Chúng gieo gió thì sẽ gặt bão. Chúng là cây lúa không làm đòng, là hạt lúa lép không có bột, nhưng giả như có bột, thì ngoại bang cũng sẽ nuốt hết’. Hình như ta có thể nhận ra điều này nơi biết bao người tín hữu một năm chỉ đi xưng tội một lần hoặc còn tệ hơn thế họ sống trong tình trạng thiếu vắng ân sủng, thế nên cho dù việc làm của họ xem ra là tốt lành trước mắt người đời, giống như cây lúa không làm đòng, không mang lại kết quả cho ơn cứu độ đời đời. Tôi đáng là đối tượng cho lời nhắc nhở và quở trách của vị ngôn sứ. Khi ta sống trong tội lỗi mà chẳng thấy cần phải xin ơn tha thứ của Thiên Chúa, thì chẳng khác nào ta đang tôn thờ một vị thần do tay người phàm tạo nên, hoặc tưởng nghĩ ra.
Đoạn tin mừng trình bày cho ta một người câm bị quỷ ám. Bị câm là tội của con người không biết thưa chuyện với Thiên Chúa, không biết cầu nguyện với Người và cũng chẳng nghe tiếng Người. Khi ta không có trao đổi với Thiên Chúa, thì ta sẽ lập tức quay sang cầu xin sự trợ giúp của những vị khác, là những tạo vật không có khả năng để giúp ta! Cầu mong Chúa gởi đến ta những sứ giả của Người, những người thợ loan báo tin mừng! Ít là có được một lời sự thật và một lời mời gọi chạy đến sự trợ giúp của Thiên Chúa đầy lòng thương xót, đấng chữa lành mà không làm ta thương tổn. Hai phần ba nhân loại còn đang sống trong tình trạng chưa nhận biết ơn cứu độ đã được Đức Giêsu thực hiện và nhiều tín hữu đang sống trong tình trạng câm điếc nên Đức Giêsu phải thốt lên lời: ‘Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về’. Hãy cầu xin cho vườn nho của Chúa không bao giờ thiếu vắng những người thợ làm vườn kiên trung và quảng đại.
Thứ tư Tuần XIV Tn
Chữa lành tật bệnh
Đức Giêsu kêu gọi Mười Hai môn đệ, trao cho họ quyền xua trừ các thần ô uế và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Ngài sai các ông không chỉ đi rao giảng mà còn chữa lành bệnh. Tin Mừng viết: ‘Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Thiên Chúa đã đến gần’. Đức Giêsu cũng đã thực hiện như vậy, nghĩa là không chỉ giới hạn trong việc rao giảng mà còn chữa lành bệnh nữa. Như vậy tin mừng mới được hoàn tất, có ý muốn nói tin mừng không phải là một lề luật, không chỉ là tổng hợp những chỉ thị của Thiên Chúa nhằm cứu rỗi chúng ta, nhưng thực sự là một hồng ân Thiên Chúa ban để cứu thoát chúng ta. Việc rao giảng tin mừng phải minh chứng cho thấy tin mừng trước tiên không phải là một đòi buộc nhưng thật sự là một quà tặng của Thiên Chúa. Nên Đức Giêsu trao cho các Tông Đồ quyền chữa lành, như dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa Đấng cứu độ ở giữa chúng ta.
Là kitô hữu chúng ta cũng phải hành động như thế. Chúng ta không chỉ rao giảng, dạy dỗ cho biết điều gì nên làm, điều gì không được làm; trước hết chúng ta cần phải làm chứng về lòng tốt lành của Thiên Chúa đối với con người, cả phần hồn lẫn phần xác. Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta có hồn có xác và Ngài không khinh chê xác thân chúng ta. Chúa Giêsu đã không coi thường những tấm thân đau yếu bệnh tật, trái lại, Ngài đã cúi xuống với lòng yêu thương đặc biệt. Ngài đã nói, không chỉ cho các bệnh nhân mà cho tất cả mọi người rằng cần phải vác thập giá mình, và điều đó là thiết thực; tuy nhiên đối với những bệnh nhân, đối với tất cả những ai đang đau khổ, đang cần giúp đỡ, Ngài đến gần bên không phải với một lời khuyên bảo, nhưng với lòng tốt vô cùng và với quyền năng an ủi và chữa lành. Cũng vậy chúng ta phải làm cho mọi người nhận thấy Thiên Chúa tốt lành, qua những hành động của chúng ta. Thiên Chúa là đấng tự hiến trao, mang đến cho mọi người, qua mọi thời, bình an và niềm vui của Ngài.
+++
Thờ ngẫu thần và sứ mạng của Nhóm Mười Hai
Ta thường nghe những câu nói gợi nhớ đến sự cứng lòng tin của thánh Tôma: ‘Nếu tôi không thấy, tôi không tin!’ Thiên Chúa là đấng vô hình và thực tại đời sống của Người không thể dò thấu bằng các giác quan, nên con người có khuynh hướng loại bỏ Thiên Chúa, đấng quá xa cách cuộc sống của ta, để tin tưởng vào những vị thần linh do tay con người tạo dựng nên. Tội thờ ngẫu tượng hệ tại tôn thờ một công trình do con người dựng nên, một bức tượng hoặc một con vật hữu hình. Người do thái thời ngôn sứ Ôsê đã tôn thờ các thần linh của các dân ngoại giáo xung quanh. Thế giới hiện đại có những thần tượng rất đặc biệt: quyền lực, giàu sang, vui thú, ích kỷ, thể thao, ma túy, internet…Khi những thần tượng này đi vào lòng, con người phó thác cho nó mọi dự tính và việc làm của mình, thì lúc ấy Thiên Chúa đích thực bị xua đuổi ra bên ngoài, ‘không có chỗ cho Người’.
Chính để lôi con người ra khỏi tình trạng đó mà Chúa đã loan báo tin mừng của Ngài như thánh Phaolô minh chứng trong thư gởi tín hữu Rôma. Để cho lời rao giảng này đến với tất cả mọi người, Ngài đã tuyển chọn Mười Hai Tông đồ, để cho dù sự mỏng giòn yếu đuối của họ, Ngài tạo họ nên những cây cột của đền thờ Thiên Chúa và để họ loan báo khắp thế giới biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa duy nhất và đích thực, phải được nhận biết và tôn thờ như Đấng Cứu Thế. Trải qua dòng thời gian, việc loan báo ơn cứu độ không ngừng được vang lên, nên việc thờ ngẫu tượng là một tội và một sai lệnh đạo đức nghiêm trọng cho người do thái thời các ngôn sứ cũng như cho thời đại chúng ta. Lẽ công bằng đòi buộc phải trả lại cho Thiên Chúa điều gì thuộc về Người: tôn thờ và cảm tạ…và cho con người sự tôn trọng nhân phẩm. Sống trong sự bất công, con người chối từ Thiên Chúa, chối từ việc tuân giữ các nguyên tắc tin mừng, phạm những điều bất công khi đàn áp, khinh dễ, trục lợi tha nhân. Xin Chúa làm cho lòng con nên mềm mại bằng cách gợi lên những tâm tình tri ân đối với Chúa và lòng thương xót và thông cảm đối với tha nhân.
Thứ Năm tuần XIV Tn
Thánh Bênêdictô
Chúng ta sẽ dễ dàng cho rằng tin mừng thật xa xôi, khi nghĩ rằng: Chỉ các môn đệ mới phải dấn thân, hoặc các vị như thánh Bênêdictô, Thiên Chúa mới kêu gọi để thực hiện những việc trọng đại. Tin mừng không phải là một quyển sách lịch sử. Không chỉ thuật lại những sự kiện. Các Tông đồ, các thánh và các vị thừa sai trao lại cho tôi tin mừng. Hãy nhìn Phêrô theo Đức Giêsu và các môn đệ khác đã từ bỏ tất cả; hãy nhìn thánh Benêdictô, khi còn là sinh viên trẻ tuổi, đã từ bỏ cuộc sống vinh hoa của Roma để lui vào trong cô tịch! Mọi người đều ở trong lịch sử. Chúng ta đâu phải chỉ là những khách bàng quang? Tin mừng không liên quan gì đến chúng ta sao?
Tin Mừng nói đến Triều đại mới, thời tái sinh. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa có dự tính cho chúng ta. Chính đó là bi kịch của tình yêu. Là lịch sử đời tôi với Thiên Chúa. Lịch sử thiên triều đã bắt đầu. Cần phải tiếp tục thuật lại lịch sử như là lịch sử của Thiên Chúa với từng người. Trong bài tin mừng hôm nay, Đức Giêsu thuật lại lịch sử của chính mình khi Ngài nói: ‘Đến thời tái sinh, khi Con Người ngự tòa vinh hiển…’ (Mt 19,28). Đối với Đức Giêsu điều đó nghĩa là tình yêu cao độ cho đến độ chết trên thập giá. Ngài biết: Chúa Cha đã sai Ngài đến thế gian vì tình yêu và muốn Ngài làm phát sinh một dân tộc mới. Sứ vụ của Ngài là loan truyền tình yêu cho toàn thế giới. Thiên Chúa muốn tuôn đổ tình yêu Ngài vào trong thế gian. Đó chính là bi kịch của tình yêu. Chúng ta có thể dự phần vào bằng cách để cho Thiên Chúa chỉ cho ta việc phải làm. Bởi vì Ngài sẽ tỏ mình cho chúng ta, từng người một. Biết bao lần chúng ta đã chối từ lời mời gọi: ơn cứu độ xảy ra lúc này và ở đây, ngay hôm nay. Không phải trên lý thuyết, nhưng trong chính giây phút Đức Giêsu yêu, nói và làm. Điều quan trọng là tôi biết ngước mắt nhìn sự việc xảy ra. Ích gì cho tôi, nếu ai đó tha thứ cho tôi trên lý thuyết chứ không phải trong lòng, hoặc lúc khác chứ không phải lúc này? Việc thực hành của Đức Giêsu cho ta thấy điều này: Ngài đến gặp tất cả mọi người. Ngài mời gọi mọi người. Nên tôi không phải sợ gì. Tôi chẳng cần phải là người có địa vị; dù tôi thế nào đi chăng nữa, cứ việc đến. Đối với cộng đoàn, điều đó có nghĩa: tôi vẫn là một thành viên ngay cả với những yếu đuối của mình.
+++
Nhận ra ý định của Thiên Chúa
Câu chuyện về Giuse là một dẫn nhập tuyệt hay vào bài tin mừng; gặp thấy những tình cảm hết sức tế nhị về lòng tốt làm người ta cảm động. Giuse tỏ mình ra cho các anh: ‘Tôi là Giuse’. Khiếp sợ trước mặt người mà họ đã muốn loại trừ, họ chẳng còn hơi sức để trả lời, nhưng Giuse trấn an các anh: ‘Hãy lại gần tôi! Tôi là đứa em mà các anh đã bán sang Aicập. Nhưng bây giờ các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận vì đã bán tôi sang đây: chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gởi tôi đi trước anh em’. Thật lạ lùng! Trong hoàn cảnh khủng khiếp mà ông là nạn nhân, Giuse nhận ra ý định quan phòng và yêu thương của Thiên Chúa. Lẽ ra ông có thể nói: ‘Thiên Chúa đã cứu thoát tôi và giờ đây Ngài để những người mưu hại tôi phải đau khổ. Giờ đây tôi vui mừng, còn họ chịu hình phạt xứng với tội họ phạm’. Kinh Thánh cũng nói rằng Thiên Chúa thưởng công người lành và phạt kẻ dữ. Thế nhưng Giuse đã đọc ra ý định của Thiên Chúa. ‘Các anh đã bán tôi’. Là thực tế phủ phàng, nhưng ẩn ngầm bên dưới là ý định tích cực của Thiên Chúa: ‘Thiên Chúa gửi tôi đi trước anh em để cứu sống anh em’.
Lòng quảng đại của Thiên Chúa biến sự dữ thành sự lành, nhưng không dễ nhận ra điều ấy khi mà đau khổ đè nặng trên chúng ta. Càng không dễ giúp đỡ người đã làm hại mình, không dễ hiểu rằng Thiên Chúa muốn liên kết chúng ta vào lòng nhân lành vô bờ của Ngài bằng cách ban cho chúng ta khả năng tha thứ và làm điều lành cho người xúc phạm chúng ta. Đây là mạc khải của Thiên Chúa.
Quả thật câu chuyện về Giuse là hình ảnh tiên báo về Đức Giêsu, về sự khổ nạn và vinh hiển của Ngài. Đức Giêsu đã bị kết án tử, như Giuse đã bị lên án chết vì lòng ganh tị của các anh. Nhưng cái tình cảnh chết chóc ấy, trái lại, trong thánh ý Chúa, dẫn đến việc tôn vinh Giuse; và Đức Giêsu, vì đã tự ý chấp nhận cái chết, đã được tôn vinh bên hữu Chúa Cha. Giuse lẽ ra có thể trừng trị nghiêm khắc các anh mình nhưng ngược lại, ông đã cứu họ khỏi chết; Đức Giêsu lẽ ra có thể dùng quyền năng Thiên Chúa của mình để phạt các tội nhân, trái lại, Ngài lại mang đến cho họ sự sống lại và sự sống. Sự bất công đáng sợ của cái chết của Đức Giêsu được biến đổi thành ơn giải thoát và sự công chính hóa cho mọi người; Giuse, trước cái chết của Giacób, nói với các anh mình đang sợ hãi: ‘Đừng sợ! Tôi đâu có thay quyền Thiên Chúa! Các anh đã định tâm làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt’. Giuse sẳn lòng tuân theo việc biến đổi Thiên Chúa thực hiện. Chính vì thế, Giuse là hình ảnh của Đức Giêsu và đồng thời cũng là gương mẫu cho chúng ta, dạy ta biết nhận ra trong mỗi thăng trầm của cuộc sống ý định yêu thương của Thiên Chúa.
+++
Tình thương của Thiên Chúa đối với dân Người
Đọc lướt qua và không đầy đủ Sách Thánh dễ làm cho ta có cái nhìn sai lạc về một Thiên Chúa nghiêm khắc, luôn sẵn sàng phạt tội dân chúng. Là những người sống trong thời đại khác xa với thời mà các sự hiện xảy ra trong Kinh Thánh, chúng ta dễ dàng lên án. Ngôn sứ Ôsê trái lại cho ta ngày nay hình ảnh về một Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu và xót thương, khác nào người cha đầy tình yêu thương đối với các tạo vật của mình. Ông vẽ nên một cử chỉ được lập đi lập lại nhiều lần ngay chính trong đời sống gia đình. Người cha nắm tay con và tập nó bước đi, không phải vì thế mà người cha đánh mất đi phẩm giá của mình do việc làm đầy yêu thương ấy. Còn nữa, biết bao lần ta chứng kiến những hành động yêu thương của những người cha, cúi xuống bồng con mình lên cao để hôn lên má con! Đó là hình ảnh của Thiên Chúa muốn loan báo cho Éphraim, nghĩa là cho toàn thể nhà Israel biết rằng lòng của Người thiên về sự tha thứ hơn là trả thù, thiên về yêu thương hơn là giận ghét, thiên về đón nhận hơn là khước từ. Thái độ nhân hậu này được thể hiện trong tin mừng cách tuyệt vời. Mọi trang tin mừng đều là lời tụng ca tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Lịch sử cứu độ là lịch sử tình yêu của Chúa Cha đối với tạo thành của Ngài, đã không ngại sai người Con duy nhất của Người đến cứu độ nhân loại. Tình yêu này được thể hiện cách cụ thể bằng nhiều cách khác nhau: loan báo tin mừng Nước Thiên Chúa đến, chữa lành sức khỏe thể lý, những phép lạ chữa lành, dấu chỉ và lời loan báo ơn cứu độ toàn diện con người. Thế nên việc tiếp nhận lời cứu độ là điều quan trọng, đòi hỏi từ nơi những người loan báo một cung cách sống phù hợp với những gì họ loan báo: không tìm của cải, tiện nghi, thuận lợi, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Đấng sai họ đi, và đòi hỏi từ nơi những người được loan báo một sự tiếp nhận tự nguyện, không thiên kiến. Sự khước từ là một thảm họa: bị xét xử nghiêm nhặt hơn thành Sôđôma và Gômôra.
Thứ Sáu tuần XIV Tn
Đừng sợ
‘Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ…Và khi người ta nộp anh em thì anh em đừng lo lắng. Điều Đức Giêsu khuyên các môn đệ thật không dễ dàng chút nào, khi ngài tiên báo những bách hại đủ loại; trên bình diện con người thật không khả thi chút nào. Nhưng điều đó lại là thái độ tích cực của tình yêu, dựa trên đức tin. Chúng ta không phải là con cái của Ngài sao? Và Ngài đã nói là không ai có thể giựt chúng ta ra khỏi tay Ngài. ‘Nếu Thiên Chúa ở với chúng ta, ai còn làm gì được chúng ta?
Lo lắng là thái độ tự nhiên của chúng ta; nhưng nếu chúng ta để nó chi phối, chúng ta sẽ sống trong ích kỷ; vô ích và chẳng sinh hoa kết quả gì. Khôn ngoan kitô giáo dạy ta không nên lo lắng trước những điều làm chúng ta sợ hãi. Có thể chúng chẳng bao giờ xảy ra và nếu chúng có xảy ra đi nữa, chúng ta có ân sủng Chúa ban làm sức mạnh để sống những biến cố ấy như Ngài muốn.
Lòng tin đích thực dứt khoát đẩy xa tất cả những lo lắng về số phận của mình. Hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta hôm nay được trung thành, gia tăng lòng tin và lòng cậy của chúng ta, để chúng ta chiều theo thánh ý Ngài cách vui vẻ, trong niềm tin chắc rằng Ngài luôn trợ giúp chúng ta nhiều hơn điều chúng ta nghĩ tưởng.
+++
Kêu gọi trở về với Thiên Chúa và những bách hại
Hình như Ôsê muốn đi vào bên trong những tình cảm của bao người chúng ta hôm nay đến với tòa giải tội, để lãnh nhận sự tha thứ tội lỗi của mình. Cần phải xét mình để biết ở đâu và khi nào chúng ta đánh mất những liên hệ với Chúa, với anh em và với chính mình. ‘Hãy trở về với Thiên Chúa, mang theo lời cầu nguyện’. Ta biết rõ rằng nhìn nhận tội lỗi đã phạm không đủ, cần phải có lòng ăn năn sám hối là ân ban lớn lao của Thiên Chúa. Do đó vị ngôn sứ giúp ta ngỏ lời với Thiên Chúa: ‘Xin thứ tha mọi gian ác, xin vui nhận lời ngợi khen…’ Việc xưng thú của ta nhiều lần không mang tính công bằng nào cả. Ai có thể nhớ hết mọi tội lỗi mình phạm sau hàng tuần, hàng tháng, hàng năm sau lần xưng tội trước? Như thế khi không thể nhớ hết và xưng thú hết mọi tội lỗi, ta cầu xin Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn trong lòng ta, tha thứ mọi tội ta phạm, nhưng lỗi xưng thú và cả những tội ta quên sót. Hoa quả của sự tha thứ của Thiên Chúa được vị ngôn sứ diễn tả như là những lợi ích vật chất, theo cái nhìn của cuộc sống an bình cùng với vẻ huy hoàng của thiên nhiên làm hoan lạc lòng người. Đó cũng là hoa quả của một việc xưng tội thực hiện tốt: biết bao an bình tràn lan trong tâm hồn biết chắc mình được tha thứ! Khi ta sống trong tình trạng thanh thản này, cùng với Thiên Chúa trong lòng, ta cũng có can đảm để đối đầu với những bách hại, có khi cả cái chết nữa. Tin mừng cảnh báo cho ta biết rằng không phải chỉ có kẻ thù mới đưa ta đến quan tòa, nhưng ngay chính những người họ hàng thân thích. Máu chảy ra…nhưng Thánh Thần sẽ ban sức mạnh để ta vượt lên trên tất cả những tình cảm con người. Để làm chứng cho sự thật, để ‘không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha nói trong anh em’. Được chính Thần Khí nâng đỡ, Thánh Phaolô đã có thể viết: ‘Không có gì có thể tách ta ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa’.
+++
Tin mừng hôm nay là chiếc gương phản chiếu trải nghiệm đau khổ của các cộng đoàn kitô tiên khởi trong những thập niên đầu tiên của công nguyên: tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu thường đi đôi với bách hại, tù đày, khổ nhục. Còn hơn thế nữa: gây chia rẽ chính những thành viên trong gia đình. Đối với nhiều kitô hữu, điều mà tin mừng mô tả ngày nay là thực tại khủng khiếp. Tuyên xưng niềm tin mình thường đòi hỏi sự can đảm lớn lao. Đoạn tin mừng là cơ hội giúp ta suy nghĩ về các anh em kitô hữu, không chỉ bằng lời cầu nguyện, nhưng còn tự nhủ: Ta có thể làm gì cho họ? Ta có đủ thông tin về họ? Sự phản kháng của một cộng đoàn kitô, của một nhóm kitô hữu trước các tòa đại sứ của các quốc gia liên hệ, có nhận được một kết quả nào chăng?
Ta cũng cần tự hỏi mình cách riêng: ta có can đảm để phục vụ tin mừng? Là kitô hữu chúng ta là thiểu số trong thời xã hội. Trong những tương quan, ta phải bảo vệ đức tin của mình, khi cần thiết. Thư thứ nhất thánh Phêrô viết (1Pr 3,15): ‘Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em’. Nhưng Ngài còn thêm: ‘Nhưng phải trả lời cách hiền hòa và với sự kính trọng’ (1Pr 3,16).
Thứ Bảy tuần XIV Tn
Giacób trước khi qua đời truyền lệnh cho các con hãy chôn cất ông trong cánh đồng đối diện với Mamrê, Canaan, nơi đã chôn Ápraham và Xara, nơi đã chôn Isaác và Rêbecca cùng Lêa. Giuse trước khi chết cũng trối lại cho anh em hãy đem hài cốt mình về lại Canaan, đất Thiên Chúa hứa ban, ngày mà Thiên Chúa viếng thăm.
Hai vị tổ phụ với hai cuộc đời đầy những thăng trầm, rày đây mai đó. Nhưng vẫn nhớ đến lời hứa của Thiên Chúa và mong muốn được an nghỉ trong phần đất ấy. Thiên Chúa dẫn dắt cuộc đời mỗi người. Không có gì phải sợ! Thiên Chúa quan phòng tất cả. Điều quan trọng là trung thành trong niềm tin vào Ngài.
+++
Trong đoạn tin mừng hôm nay ta gặp thấy lời nói tuyệt vời của Đức Giêsu về sự quan tâm của Thiên Chúa đối với các môn đệ Người (Mt 10,29-31). Có ý nghĩa gì khác nữa không?
Trước tiên: chính Đức Giêsu đã sống trong lòng tín thác tuyệt đối. Ngài chắc chắn điều này: Chúa Cha đồng hành với tôi, biết điều xảy ra cho tôi, rất thân tình với tôi. Chính Đức Giêsu đã phải chiến đấu để bảo vệ lòng tín thác này: trong vườn Dầu và trên thập giá nơi mà Thiên Chúa hình như ở cách xa Ngài. Cộng đoàn kitô truyền lại cho ta những lời của Đức Giêsu về chim sẻ và sợi tóc và tác giả tin mừng đã chuyển đến chúng ta để thấu hiểu giờ phút cuối của Đức Giêsu trên thập giá. Thánh Mathêô và cộng đoàn của Ngài đã bị bách hại, chia lìa, khước từ. Họ sống cách cay đắng những chống đối khó khăn để luôn tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu. Nhưng giữa những trải nghiệm đau thương ấy, họ gắn bó với lời này của Đức Giêsu: ‘Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ’. Không phải là một lời dễ tin và xa lạ với thực tế, nhưng là một lời tin tưởng cậy trông giúp vượt qua những thử thách, nhất là trong thời gian khủng hoảng vì bách hại, lời tuyên xưng đức tin và việc trải nghiệm của cộng đoàn sẽ làm cho mọi người trưởng thành. Hãy tin tưởng vào sự hiện diện của Thiên Chúa
+++
Sứ mạng
Việc thần hiện mà ngôn sứ Isaia được tham dự, thắp lên trong lòng ta một khao khát mãnh liệt Đấng Vô Biên, dù chúng ta bất xứng. Thiên Chúa vẫn tỏ mình cho ta và sự hiện diện của Người làm cho linh hồn ta phải run sợ, nhất là khi lương tâm ta không trong sáng. Nhưng Thiên Chúa không đến để đoán phạt, nhưng để ban lại cho ta phẩm chất bị đánh mất do tội và loan báo cho ta ơn cứu độ. Tuy nhiên ta cần phải thanh tẩy để có thể đọc ra những dấu chỉ của Thiên Chúa. Ta nên nhớ: Phúc cho ai có lòng thanh sạch vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. Việc thanh luyện ấy đã xảy ra cho vị ngôn sứ khi hòn than hồng chạm đến môi miệng ông. Là lửa đốt cháy và thanh luyện, biểu trưng cho lửa thống hối. Nhưng cũng là lửa của bách hại đang chờ đợi người môn đệ Chúa, không thể mong vượt trội hơn Thầy mình, đấng đã chết và bị bách hại, và sau cùng bị kết án chết cách nhục nhã. Ngài trấn an các môn đệ của Ngài: Không có gì xảy ra mà không do ý muốn của Cha. Và khuyến khích họ sẵn sàng hiến mạng sống để làm chứng cho sự thật, được thúc đẩy bởi tình yêu đối với Chúa nhưng cũng bởi tình yêu đối với những kẻ giết hại họ, bằng cách muốn chứng minh, bằng cả mạng sống, sự thật mà họ loan báo.
Trên hết mọi sự, đối với người kitô hữu, chết là một mối lợi nghĩa là có được sự sống đời đời mà họ hằng mong đợi. Nên họ phải sợ không chỉ kẻ cất mạng sống mình mà cả kẻ làm cho họ xa lìa con đường ngay chính, lòng trung thành với Đức Kitô và với Tin mừng. Bách hại ngày nay thường không cất đi mạnh sống những kẻ tin nhưng lại thúc đẩy họ chối từ sự thật qua những ‘khổ hình’ tâm lý. Do đó mà nhiều chứng nhân cho Chúa đã tuyên xưng niềm tin của mình trước vì họ biết mình không còn có ý thức gì về những điều họ sẽ phải thốt ra trong lúc bị các hình khổ. Họ là những vị tử đạo của ngày hôm nay, bị hành hạ về thể lý cũng như về tâm lý. Hãy cầu nguyện cho những người anh chị em của ta để họ đủ can đảm và sức mạnh của Thánh Thần.
Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê