Chúa Nhật Lễ Lá Năm C
Khi đọc Phúc Âm Khổ Nạn, chúng ta có thể hình dung câu chuyện tàn khốc này trong tâm trí, tự động phân chia điều tốt và điều xấu. Chúng ta thường đứng về phía người tốt! Trên thực tế, những mâu thuẫn đặc trưng của nhân loại tồn tại bên trong chúng ta, những mâu thuẫn khiến chúng ta chạy trốn khỏi nguy hiểm, khiến chúng ta ký kết thỏa thuận với những kẻ quyền lực, khiến chúng ta ‘rửa tay’ khỏi trách nhiệm, khiến chúng ta phản bội Chúa vì lợi ích của con người, khiến chúng ta coi đau khổ là hình phạt. Thật khó để chúng ta chấp nhận rằng trái tim chúng ta, như Manzoni đã nói, là một mớ hỗn độn, là trung tâm của những cảm xúc phức tạp thường xuất hiện đặc biệt trong những khoảnh khắc khủng hoảng.
Trở thành những Kitô hữu đích thực dưới ánh sáng cuộc thương khó của Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta đi vào bên trong chính mình để biến đức tin thành cuộc sống cụ thể, bắt đầu chấp nhận sự yếu đuối của mình, thừa nhận rằng chúng ta yếu đuối, mong manh, chịu ảnh hưởng của thế gian. Khi chúng ta phủ nhận tất cả những điều này, chúng ta bắt đầu thực hành một đức tin bề ngoài, không đi sâu, không nhập thể Chúa Kitô vào thế gian nhưng sống theo vẻ bề ngoài của Chúa Kitô. Nhưng khi đối mặt với thử thách, lớp mặt nạ bên ngoài rơi xuống và con người thật lộ diện, kẻ giả vờ tốt bụng nhưng bên trong, giống như mọi người, đều có khả năng phản bội, phủ nhận, làm sai sự thật. Nếu chúng ta không bắt đầu từ nhận thức này mà nuôi dưỡng sự tự tin sâu sắc rằng mình chính nghĩa, chúng ta sẽ không bao giờ có được đức tin đích thực. Niềm đam mê mời gọi chúng ta trải qua những sự non nớt mà chúng ta đưa vào thực hành, khiến cuộc sống của chúng ta và của người khác trở nên khó khăn, khiến Chúa Giêsu trở thành một người vô tội phải chịu đau khổ nhưng không phải là Đấng cứu chuộc, nghĩa là Người đã đến để cứu chúng ta khỏi tội lỗi, khỏi cảnh nô lệ, khỏi tình trạng thiếu tình huynh đệ.
Vào Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta có thể dàn dựng một mâu thuẫn đôi, khi xuất hiện trong cuộc sống của chúng ta. Trong khi chúng ta vẫy cành lá để chào đón Chúa Giêsu, thì chúng ta lại kêu lên: ‘Xin tha Baraba!’, trong giờ thử thách. Chúng ta cũng có thể giới hạn Chúa Giêsu vào những ngày lễ: phải không? Chúng ta có thể là những người đi nhà thờ nhưng khi cần phải lừa đảo công ty bảo hiểm để tiết kiệm một ít tiền, chúng ta lại nhắm mắt làm ngơ. Chúng ta có thể là những người quan tâm đến Chúa Giêsu vào những ngày lễ thánh nhưng sau đó lại sống như thể Ngài không hiện diện trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Chúng ta có thể là những người ăn chay vào thứ Sáu và sau đó lại không trả lương thỏa đáng cho người giúp việc hoặc nhân viên, hoặc đối xử không tôn trọng với những người trong gia đình. Đối với chúng ta, Chúa Giêsu có thể trở thành chiếc áo choàng mà chúng ta mặc để nói với mọi người rằng: ‘chúng ta là người tốt’.
Chúng ta cũng vậy, không thể là hiện thân của Chúa Kitô mà là những con người giả tạo, những kẻ kích động chia rẽ và bạo lực, những người nhắm mắt làm ngơ trước điều thiện và quay lưng lại với anh chị em mình. Phúc Âm không phải là tâm lý của thế gian,Vì vậy, Thánh Thần của Chúa vào chính ngày chúng ta cử hành và vẫy lá cờ vui mừng đã nói với chúng ta về cuộc đóng đinh, để nhắc nhở chúng ta phải bắt đầu từ chính mình. Có nhiều cuộc chiến tranh trong gia đình, trong khu phố, trong xóm láng giềng, giữa những người thân, trong các cộng đồng Kitô giáo; và chúng ta được đặt ở đâu? Thánh giá nhắc nhở chúng ta về tình yêu vị tha, về hòa bình cần xây dựng, về chân lý cần đề cao, về vương quyền thực sự không phải là sự thống trị, về lòng bác ái dường như đang suy yếu và chết đi, nhưng ngày càng trỗi dậy rực rỡ hơn. Đứng trước tình hình này, chúng ta có thực sự muốn dành chỗ cho Chúa Kitô chịu đóng đinh và phục sinh để mang lại hy vọng, hay chúng ta muốn sống theo thế gian, theo tiêu chuẩn và nguyên tắc của thế gian?
Bản thân các tông đồ đã có kinh nghiệm về Thiên Chúa dẫn họ đến việc đối mặt với sự yếu đuối của mình, và bắt đầu từ đó, họ quyết định dành chỗ cho Chúa Thánh Thần, để từ những kẻ chạy trốn, họ trở thành những người truyền giáo có khả năng chết như chính Chúa Kitô, vô tội và đã phục sinh. Don Tonino Bello đã dùng những lời đẹp đẽ để nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa của cuộc sống như một người theo đạo Thiên Chúa: ‘Đừng tin tưởng những người theo đạo Thiên Chúa ‘chân chính’ không khám phá được nền văn minh. Hãy tin vào những người theo đạo Thiên chúa ‘thực sự muốn lật đổ’ như Thánh Phanxicô thành Assisi, người đã khuyên những người lính được triển khai tham gia Thập tự chinh không nên rời đi. Người theo đạo Thiên Chúa đích thực luôn là người có tinh thần phản kháng. Người đi ngược dòng không phải để phô trương mà vì biết rằng Phúc Âm không thể phù hợp với não trạng hiện tại’ (A. BELLO, Senza misura. Riflessioni sulla carità, La Meridiana, Molfetta 1993, 61).
Từ sa mạc đến Nhà Tiệc Ly
Bị cám dỗ, cầu nguyện, thắc mắc, phạm lỗi, tha thứ, ăn mừng: những động từ này đã đồng hành cùng chúng ta trong hành trình Mùa Chay năm nay. Những động từ mà chúng ta liên tưởng đến các nhân vật và địa điểm trong Kinh thánh, điều này rất rõ ràng vì chúng ta đã nghe và suy ngẫm về chúng trong phụng vụ các Chúa Nhật Mùa Chay; mà còn là những động từ mà chúng ta trải nghiệm trong cuộc sống hằng ngày, trong hành trình cuộc sống mà Mùa Chay là biểu tượng, là dấu chỉ.
Và vì thế, cám dỗ là một phần của cuộc sống chúng ta (và chúng ta hãy nhớ rằng đó không phải là tội lỗi... nếu không, ít nhất Chúa Giêsu đã được cứu khỏi tội lỗi): và chúng ta trải nghiệm nó trên hết trong những khoảnh khắc sa mạc, sa mạc của tâm hồn, nơi chúng ta cảm thấy và chịu đựng sự khô cằn của cuộc sống, tuy nhiên, khi đối mặt với điều đó, chúng ta không được ‘sa ngã’, chúng ta không được ‘buông xuôi trước cám dỗ’, như chúng ta xin khi nguyện Kinh Lạy Cha.
Cám dỗ là khoảnh khắc mà hơn bất kỳ khoảnh khắc nào khác, chúng ta phải hướng mắt lên Đấng Tối Cao (như Chúa đã yêu cầu Abraham làm, ở vùng nông thôn rộng mở, ngắm nhìn những vì sao trên bầu trời): chính tại đó, chúng ta được trao cơ hội để nhìn thấy một vì sao sáng hơn, một cái móc giữa bầu trời nối chúng ta với Chúa, Đấng lúc đó không buông tha chúng ta, và thể hiện mình với chúng ta theo nhiều cách, đôi khi đơn giản và rõ ràng, đôi khi hơi đáng sợ và khó hiểu.
Thiên Chúa rất giỏi làm chúng ta ngạc nhiên, làm chúng ta kinh ngạc về đường lối của Ngài: giống như khi Ngài mặc khải chính mình cho Môsê trong ngọn lửa trên núi Horeb, một ngọn lửa không bao giờ tắt, đó chính là tình yêu của Ngài dành cho chúng ta. Một ngọn lửa trường tồn, và trước ngọn lửa đó, Người yêu cầu chúng ta, giống như Môsê, hãy giữ khoảng cách, bởi vì, tất nhiên, chúng ta có thể sưởi ấm bản thân, cũng như chúng ta có thể tự thiêu cháy mình. Điều đó chỉ tùy thuộc vào chúng ta, vào cách chúng ta tiếp cận Thiên Chúa: nếu chúng ta làm như vậy, tất nhiên, chỉ có thể xuất phát từ tình yêu, nhưng chúng ta hãy cẩn thận đừng muốn ‘chiếm hữu’ tình yêu của Thiên Chúa, vì chính Ngài là Đấng chiếm hữu chúng ta.
Nếu chúng ta muốn sở hữu Thiên Chúa và những điều thuộc về Thiên Chúa, chúng ta sẽ rơi vào cùng một sai lầm như người con hoang đàng: một người con luôn yêu thương Cha rất nhiều, và không bao giờ quên Cha ngay cả trong khoảnh khắc chia ly, nhưng người con này muốn ‘chiếm hữu’, muốn ‘những thứ thuộc về mình’, muốn ‘những gì mình thừa hưởng’, muốn những gì mình quan tâm. Giống như chúng ta, khi chúng ta yêu Chúa cho đến khi Ngài ban cho chúng ta mọi điều chúng ta cầu xin Ngài; Tuy nhiên, điều này cuối cùng lại làm chúng ta xa cách Ngài, khiến chúng ta phải lưu vong khỏi Ngài, đến một đất nước xa xôi, một đất nước không có ‘sữa và mật ong’, mà chỉ có những đống quả sồi, mà việc ăn chúng đã là một điều xa xỉ đối với chúng ta.
Vì thế, chúng ta đến điểm thấp nhất của cuộc hành trình: tuy nhiên, ngay cả tội lỗi tồi tệ nhất cũng được tha thứ bởi tình yêu của Chúa, bởi sức mạnh tha thứ của Ngài. Thiên Chúa không hề phân biệt bất cứ điều gì liên quan đến tội lỗi; Không có tội lỗi nào tệ hơn tội lỗi nào. Đối với Ngài, một tội lỗi không tệ hơn tội lỗi khác chỉ vì nó ‘công khai’: và không ai trong chúng ta được phép phán xét và lên án những tội lỗi ‘công khai’ là tệ hơn, khi đó, ở nơi riêng tư, chúng ta có thể làm bất cứ điều gì mình muốn. Không ai trong chúng ta được phép đưa người phụ nữ ngoại tình đến tường thành, lên án tội lỗi công khai của cô ấy để cảm thấy thoải mái với không gian riêng tư của mình. Nhưng nếu chúng ta muốn công khai phán đoán và lên án của mình, thì chúng ta sẽ gặp một Thiên Chúa cũng công khai sự tha thứ của Ngài.
Nếu một vị Thiên Chúa như thế làm phiền chúng ta, sự hoán cải của chúng ta sẽ không bao giờ có hiệu quả. Nhưng nếu Thiên Chúa của sự tha thứ là lý do để chúng ta vui mừng thay vì tức giận hay oán giận, thì chúng ta hãy bước vào Phòng Tiệc Ly, giống như các tông đồ với Chúa Giêsu vào đầu câu chuyện Khổ nạn hôm nay, và chúng ta hãy trải nghiệm lễ Phục sinh với niềm hy vọng trong lòng.
Vào đầu tuần này, chúng ta được mời chia sẻ Bánh Không Men của Giao Ước Cũ; Vào cuối tuần này, chúng ta sẽ nhận ra Đấng Phục Sinh trên đường Emmaus khi Người bẻ cho chúng ta tấm bánh được lên men bởi Tình Yêu của Người, tấm bánh trở thành sự sống và sự sống được ban tặng.
+++
Vào Chúa Nhật Lễ Lá, không có bài giảng thực sự, vì không có Phúc Âm như chúng ta thường đọc vào các ngày Chúa Nhật, vì toàn bộ Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu được thuật lại cho chúng ta, từ Bữa Tiệc Ly (Thứ Năm Tuần Thánh) đến cái chết và sự chôn cất của Chúa Giêsu (Thứ Bảy Tuần Thánh), đi qua mầu nhiệm đau khổ và cứu độ là cái chết của Chúa Giêsu. Thật đau đớn khi chỉ đọc nó, nhớ lại tác động của bộ phim, bộ phim không làm gì ngoài việc chuyển tải thành hình ảnh những gì trí tưởng tượng không thể khớp với những gì chúng ta đọc, thật đau đớn vì chúng ta thấy nỗi đau của một người đàn ông chính trực, nhưng cũng vì đó là tấm gương mà chúng ta không muốn nhìn vào chính mình. Tôi nghĩ rằng việc suy nghĩ về việc những nhân vật xuất hiện có thể giúp ích cho chúng ta.
Chúa Giêsu: chính Người là Đấng khởi đầu mọi sự, Người là Chúa không chỉ trong con người của Người, mà còn vì Người là ‘người làm chủ mọi sự’, Người không bị sự gian ác của người khác lấn át, Người hoàn toàn nhận thức và chọn làm theo ý muốn của Chúa Cha. Ngài bắt đầu bằng cách nói rằng ngài mong muốn được ăn Lễ Vượt Qua này với bạn bè của mình, biết rằng Giuđa sẽ phản bội ngài, Phêrô sẽ chối bỏ ngài, và những người khác sẽ không hiểu ngài và vì sợ hãi, sẽ chạy trốn: nhưng ngài vẫn yêu Giuđa. Trong phiên tòa, Ngài đã đưa ra lời khai cuối cùng với mọi người, nhưng điều này sẽ dẫn Ngài đến cơn thịnh nộ. Ngài sẽ bị Phêrô và dân chúng chối bỏ ba lần, trong khi Philatô cố gắng tha Ngài, và ba lần trên thập giá, Ngài sẽ được yêu cầu tự cứu mình: Ngài sẽ trả lời tất cả những điều này rằng họ không biết việc họ làm. Như Philatô đã nói ngay: Chúa Giê-su là Vua, Người uy nghi và có sứ mệnh phải hoàn thành, quan trọng đến nỗi bức màn che khuất khuôn mặt của Chúa trong đền thờ bị xé làm đôi để lộ ra khuôn mặt thật và vĩnh cửu của Chúa: Chúa Giêsu trên thập tự giá là điều Chúa muốn làm vì chúng ta.
Phêrô: lúc đầu ông rất tin tưởng, thậm chí có chút khoe khoang, vì ông tin rằng mình mạnh mẽ và Chúa Giêsu đã chọn ông vì ông là người tốt nhất; trong khoảnh khắc nhục nhã nhất, giữa lúc chối bỏ, ánh mắt của Chúa Giêsu đã đập tan hình ảnh sai lầm này và đón nhận sự thật của Phêrô. Vào đêm kinh hoàng đó, Phêrô sẽ khám phá ra khuôn mặt thật của Chúa Giêsu, Đấng luôn yêu thương ông cách nhưng không, Đấng đã chào đón ông ngay cả khi ông không nghĩ rằng mình có bất kỳ vấn đề gì. Ông giống như Ađam, ẩn núp và sợ hãi, cảm thấy được Chúa chào đón và yêu thương. Một tiếng kêu cay đắng, bởi vì đó là sự thật và biết ơn. Phêrô sẽ không bao giờ còn như trước nữa, ánh mắt đó sẽ là chìa khóa cho tin mừng của ông, là hành động rửa chân dứt khoát để được chia sẻ với Chúa Giêsu.
Giuđa: có điều gì đó bên trong đã tan vỡ không thể cứu vãn giữa hắn và Chúa Giêsu, hắn chỉ tập trung vào việc bán Chúa, hắn sẵn sàng làm sai lệch cử chỉ yêu thương bằng cách bán rẻ nó để đổi lấy sự phản bội. Chúa Giêsu ngăn cản ông ở lại trong bóng tối đen tối nhất của sự dữ mà không có khả năng lóe lên một tia chân lý, một tấm gương: từ cách viết, thậm chí có vẻ như Người không thực sự hôn ông mà là ông đã được giác ngộ trong hành động tiến hành, gần giống như Người Cha trong dụ ngôn không để cho con mình nói rằng hãy đối xử với mình như một người làm công. Sau đó, hắn rời khỏi hiện trường và không bao giờ xuất hiện trở lại: có vẻ như hắn đã biến mất cùng với tội lỗi của mình.
Các thầy cả thượng phẩm: họ thực hiện những gì Hêrôđê đã cố làm, không có chỗ cho Chúa Giêsu trên thế gian này, một Đấng Mêsia như thế phải bị loại bỏ bằng mọi giá. Họ là con đường của dụ ngôn người gieo giống không biết và không muốn chào đón hạt giống sự sống mới mà Người Gieo Giống kiên nhẫn gieo xuống, họ là những người chiến đấu và giết chóc nhân danh Chúa mặc dù sâu thẳm trong lòng họ biết rằng họ thậm chí còn không biết Chúa được gọi là gì. Mỗi người đàn ông khép kín trong lòng kiêu hãnh của mình không thể chào đón ánh sáng vì đơn giản là họ thích bóng tối hơn. Họ là những người sẽ được lính canh cảnh báo về sự phục sinh và là những người sẽ bảo họ che đậy và nói dối cho đến phút cuối cùng, thậm chí không một chút nghi ngờ, họ giống như Giuđa, khi bước ra khỏi phòng tiệc thì đã ở trong đêm tối nhất.
Pilatô: ở đây ông được miêu tả gần như là một nhân vật trung lập, không có sự tra tấn nào được mô tả trong sách tin mừng Gioan; ông ta là hình ảnh của người đàn ông hờ hững, ông ta không có vẻ xấu, nhưng ông ta không làm điều tốt mà ông ta cảm thấy mình phải làm vào lúc đó. Pilatô tin rằng Chúa Giêsu vô tội và chỉ có lòng đố kỵ và trả thù, nhưng cuối cùng ông không muốn làm bẩn tay mình. Cuối cùng, ông làm như vậy để ngăn chặn đám đông, và vì thế luôn có một lý do chính đáng để làm điều gì đó sai trái...
Những người tốt: Giuse thành Arimathê, người Cyrênê, những người phụ nữ thành Jerusalem, tên trộm lành, viên đại đội trưởng. Họ là những người ngoài cuộc, những người mà bạn sẽ không bao giờ tin tưởng, quá nghèo (về tinh thần?), quá hay khóc, quá nhu mì hay nhân từ hay xây dựng hòa bình... xét cho cùng, họ thực hiện các mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố, họ cũng là những người duy nhất thực sự gặp Chúa Giêsu và được Người biến đổi. Chúa Cha đã cho họ thấy Chúa Con và trong Chúa Con, họ thoáng thấy Chúa Cha. Thật vậy, lạy Cha, Cha đã giấu những điều này với bậc khôn ngoan nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.
Bây giờ đến lượt bạn: bạn sẽ để mình được bộc lộ qua Cuộc Khổ Nạn của Chúa hay bạn sẽ ẩn mình sau những hàng rào vô tận? - ‘Tôi không có thời gian’ hay: ‘Quá cao đối với tôi’? Chúa tể của lịch sử là đấng cứu rỗi của bạn, nếu bạn chấp nhận ở lại trong ánh sáng của Người, ánh sáng đã mặc khải cho bạn, bạn cũng sẽ khám phá ra cách Người đến để cứu bạn, luôn luôn và trong mọi trường hợp, cách mà thập giá là công cụ mạnh mẽ nhất từng tồn tại để biến đổi trái tim chúng ta, để vạch trần lời dối trá của tội lỗi nói với bạn về một vị Chúa xấu xa và rằng bạn chẳng có giá trị gì, để cho bạn chiêm ngưỡng một vị Chúa của tình yêu, Đấng vì yêu bạn mà không sợ hạ mình xuống thật thấp để khiến bạn trỗi dậy cùng Người. Chúc Tuần Thánh tốt đẹp.
Chúa nhật Lễ Lá
Đây là giờ của Ánh Sáng và cũng là giờ của Bóng Tối.
Giờ của ánh sáng, bởi lẽ bí tích của Mình và Máu được thiết lập: ‘Ta là bánh hằng sống…Tất cả những ai Cha ban cho ta, sẽ đến với ta; ai đến với Ta, Ta sẽ không khước từ…Đây là ý của Đấng đã sai Ta, là Ta không làm mất người nào mà Cha đã ban cho Ta, nhưng Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết’ (Ga 6,35-39). Cũng như sự chết đến từ con người, cũng vậy sự sống lại cũng đến từ con người, thế gian được cứu độ nhờ Người. Đó là ánh sáng của Bữa Tiệc Ly.
Trái lại, bóng tối đến từ Giuđa. Không ai hiểu thấu lòng anh. Có thể xem anh ta như một người buôn bán khu vực có một cửa hàng nhỏ và đã không chịu đựng nỗi đòi hỏi của ơn Chúa gọi [tông đồ]. Anh có thể bị cuốn vào thảm kịch của tính nhỏ nhen con người. Hoặc có thể là một người lạnh lùng và thông manh trong những tham vọng chính trị. Có kẻ cho rằng anh chính là người bị ma quỷ xâm nhập và sữ dữ biến anh mất tính người.
Tất cả những khuôn mặt ấy đều không khớp với khuôn mặt của Giuđa trong Tin Mừng. Anh là một người như bao người khác. Đã được Chúa kêu gọi như các bạn khác. Anh đã được các ngôn sứ tiên báo, và điều gì phải xảy ra thì đã xảy ra. Giuđa phải đến bởi lẽ nếu khác đi thì làm sao những lời Thánh Kinh được thực hiện? ‘Thà nó đừng sinh ra thì hơn!’ Phêrô đã chối Chúa ba lần, và Giuđa đã ném 30 đồng bạc trả lại cho các tư tế nói rằng mình đã phản bội Đấng Công Chính. Phải chăng sự thất vọng lớn hơn lòng sám hối? Giuđa đã phản bội trong khi Phêrô người đã chối Thầy lại trở nên viên đá góc tòa nhà Giáo Hội. Với Giuđa chỉ cần sợi dây để treo cổ tự tử. Vì sao chẳng có ai quan tâm dến sự sám hối của Giuđa? Đức Giêsu gọi anh là ‘bạn’. Thật có lý khi nghĩ rằng đây là một lối viết văn, để trên nền sáng vết đen xuất hiện càng đen hơn và việc bội phản càng đáng ghê tởm hơn? Trái lại, nếu giả thuyết này chạm đến việc phạm thượng, vậy thì việc gọi anh là bạn có ý nghĩa gì? Cái cay đắng của con người bị phản bội? Hoặc, nếu Giuđa phải như thế để lời Kinh Thánh nên trọn, thì anh đã bị kết tội danh nào, một người được gọi là con của sự hư mất?
Ta sẽ chẳng bao giờ rõ huyền nhiệm của Giuđa, cũng không biết lòng hối hận mà chỉ mình anh không thể thay đổi được gì. Giuđa Ítcariô sẽ không còn ‘thỏa hiệp’ với bất cứ ai.
Suy Niệm Cành Lá và Thập Giá
Cành lá và thập giá: hai dấu chỉ đặc biệt của Ngày Chúa Nhật Khổ Nạn.
Chúa Nhật Lễ Lá là một ngày đặc biệt đối với mọi tín hữu kitô, vì họ vẫn còn tin vào giá trị của sự tha thứ, vào việc hòa giải và vào Đấng mà sự hòa giải này được thực hiện nhờ cái chết trên thập giá: Đức Giêsu Kitô.
Hai biểu tượng của ngày này: cành lá và thập giá. Cả hai liên kết chặt chẽ với nhau, vì cùng diễn tả một điều: cuộc tử đạo và bình an của Đức Kitô và trong Đức Kitô. Cùng với biểu tượng cành lá, người kitô hữu chúng ta hiểu đó là dấu chỉ của hòa bình, ta muốn diễn tả ước muốn nồng cháy hòa giải với những ai không sống hòa thuận với mình và đang có một chuyện gì đó chưa giải gỡ được với ta.
Đây là ngày chính đáng để thực hiện bước đến sự hiệp thông, được kêu mời để cử hành cách xứng hợp lễ Vượt Qua năm nay cũng như mọi năm khác. Cùng với biểu tượng này Đức Giêsu được mọi người đón chào tại Giêrusalem, trước cuộc khổ nạn, cái chết và sự sống lại, nghĩa là Lễ Vượt Qua, từ đoàn dân tung hô Ngài là Đấng Messia, Đấng đáng chúc tụng, Đấng nhân danh Chúa mà đến để mang lại bình an và công bằng cho thế giới.
Trong nghi thức tưởng nhớ việc Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem, mở đầu Tuần Thánh, cùng với bài Thương Khó của Đức Giêsu, linh mục chủ tế ngỏ với dân chúng bằng lời khích lệ ngắn gọn, để diễn đạt ý nghĩa của nghi thức và mời gọi dân tham dự cách tích cực và ý thức: ‘Anh chị em thân mến, chúng ta tụ họp nơi đây, để cùng toàn thể Giáo Hội khai mạc Tuần Thánh tưởng niệm mầu nhiệm Vượt Qua, tức là cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Kitô. Để chuẩn bị Tuần Thánh, trong suốt Mùa Chay, chúng ta đã cầu nguyện, thống hối, chia sẻ tình thương và cơm áo cho nhau. Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay là ngày kỷ niệm Đấng Cứu Thế vào thành thánh Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại cho loài người ơn cứu độ, chúng ta hãy đem cả niềm tin mà hăng hái bước theo Người. Xin Người ban ơn để chúng ta thông phần đau khổ Người đã chịu trên thập giá, hầu được chia sẻ vinh quang Phục Sinh và sự sống của Người’.
Chúng ta được mời gọi bước theo Đức Kitô suốt những chặng đường lên Giêrusalem trong dịp lễ với tâm tình đón tiếp Ngài, nhưng cũng bước theo Ngài trong những chặng đường đau buồn và chối từ.
Niềm vui và đau khổ, cành lá và thập giá cùng đan xen dệt nên con đường của mỗi kitô hữu đi theo Đức Kitô, với xác tín mình làm điều khôn ngoan nếu biết lắng nghe lời đầy quyền năng của Thầy, đang lên ngai tòa của Ngài trong cuộc Thương Khó, để nói với ta về tình yêu và hòa giải.
Con đường đi theo Chúa được diễn tả qua việc rước kiệu dài hay ngắn sau khi làm phép các ngành lá cho đến khi vào bên trong thánh đường. Lúc này là phần phụng vụ Lời Chúa, thích hợp với việc cử hành Chúa Nhật Thương Khó, gồm bài đọc của ngôn sứ Isaia bài ca thứ ba về người tôi tớ của Giavê, Thánh vịnh 21, bài đọc hai về ca vịnh kitô của Thánh Phaolô tông đồ trích từ thư gửi tín hữu Êphêsô và sau cùng là bài Thương khó của thánh sử Mátcô.
Vị ngôn sứ trình bày cho ta hình ảnh của Đấng Messia đau khổ và chịu đóng đinh, làm nổi bật lòng can đảm và quyết tâm của Con Thiên Chúa bước vào cuộc thương khó và tử nạn trên thập giá: ‘Tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn’.
Còn thánh Phaolô tông đồ nhắc ta, như gương mẫu cuộc sống và chứng từ của một tình yêu vô bờ bến, mà Đức Kitô đã ‘tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người’. Việc tự hạ này chính là sự chấp nhận cuộc Thương Khó và cái chết trên thập giá.
Trong khi đó, Thánh sử Mátcô qua bài tường thuật của mình, nhấn chìm chúng ta vào trong trải nghiệm đau khổ của Đức Giêsu kính yêu của ta, Đấng mà chúng ta sẽ nghe trong bài kinh Tiền Tụng ‘Người là Ðấng vô tội, đã cam chịu khổ hình thay cho những người tội lỗi, và bằng lòng chịu kết án bất công thay cho kẻ gian tà. Người đã chết để tẩy trừ tội lỗi, và đã sống lại để thánh hoá chúng con’.
Tất cả chúng ta ý thức sứ mạng mà Đức Giêsu đã hoàn tất và trong khi cử hành Chúa Nhật của sự hòa giải, chúng ta muốn làm mới lại bổn phận của mình, trước Đức Kitô chịu đóng đinh, là sống hòa giải với tất cả mọi người và mang bình an đến mọi nơi.
Cành lá và thập giá, biểu tượng của Chúa Nhật Khổ Nạn mang lại giá trị cho cuộc sống mỗi người chúng ta là kẻ muốn bước theo Đức Kitô thật sự, từ lúc vinh quang tiến vào Giêrusalem cho đến lúc hình như thất bại khi bị treo trên thập giá, bởi lẽ thập giá của Ngài không phải là điều ngu dại cũng chẳng phải là điều điên rồ, nhưng là khôn ngoan của Thiên Chúa, vì thập giá của Đức Kitô là Tình Yêu, là Sự Sống và là Sự Sống Lại.
Thứ hai Tuần Thánh
Mỗi thánh sử thuật lại theo cách của mình cuộc đời và hành động của Đức Giêsu trong dịp lễ Vượt Qua tại Giêrusalem. Theo Gioan, tất cả những gì xảy ra trong những ngày cuối cùng này mang một giá trị tượng trưng và vượt lên trên những sự kiện thấy được. Các nhân vật chính trở thành những biểu trưng: ngay đầu tuần thương khó, Đức Giêsu làm khách trọ ở nhà Matta, Maria và Lagiarô tại Betania. Tình bạn thân thiết gắn bó mọi người; chính họ đã được báo cho biết ý nghĩa của ‘sự sống’ và ‘sự chết’ khi nói về Đức Giêsu.
Matta làm tròn bổn phận của một bà chủ nhà. Đức Giêsu đồng bàn với nhiều người. Maria làm điều kỳ chướng đối với xã hội thời đó- cả thời nay nữa: xức dầu bàn chân Đức Giêsu bằng loại dầu thơm quý giá và lấy tóc mình mà lau. Cô tôn vinh Đức Giêsu bằng cả tấm lòng trong trắng của tình yêu, không chút quan tâm đến những người có mặt ở đấy: mùi thơm lan tỏa khắp nhà.
Lời chỉ trích bề ngoài xem chừng chỉ nhắm đến việc hoang phí của cô. Nhưng, trong thực tế, người ta xấu hổ vì sự buông thả quá đáng của cô. Giuđa lên tiếng nhân danh những người bất bình. Ông muốn chia ‘ân huệ’ của Maria thành nhiều phần nhỏ, và như thế sẽ trợ giúp được nhiều mảnh đời đói khổ. Nhưng Đức Giêsu chấp nhận tính tự phát của tình yêu này, Ngài đón nhận ân huệ toàn vẹn. Chẳng phải chính Ngài cũng đang trên con đường tự hiến hoàn toàn đó sao? Qua cái chết của Ngài, Ngài cứu thế gian.
+++
Có một bữa tối khác diễn ra một tuần trước Bữa Tiệc Ly, đó là bữa tối tại Bethania, nơi ba chị em Martha, Maria và Lazarô cũng ngồi cùng bàn với Chúa Giêsu. Và ở đây chúng ta thấy một điều rất đẹp: tại Bữa Tiệc Ly, các tông đồ vẫn đang trên đường, họ phản đối Chúa Giêsu, họ nói với Người, Chúa sẽ không rửa chân cho con. Thay vào đó, ở đây chúng ta thấy rằng ba chị em này đã được dẫn dắt vào một cuộc hành trình tuyệt vời, hoàn toàn phó thác vào ý muốn của Chúa Cha với lòng tin tưởng. Họ không phải là các tông đồ nhưng họ vẫn có ân sủng để bước đi nhanh hơn họ ít nhất là ở một số khía cạnh.
Martha, người trước đây chỉ trích Chúa Giêsu và em gái mình vì không giúp cô phục vụ, giờ đây phục vụ một cách vui vẻ, để người khác sống hành trình cá nhân của họ, ơn gọi cá nhân của họ và do đó không mong đợi mọi thứ diễn ra theo kế hoạch của riêng mình. Bà đã học cách nhìn nhận mọi việc theo ý muốn của Chúa trong cuộc sống của mỗi người.
Maria không chỉ đứng dưới chân Chúa Giêsu mà còn dâng cho Người loại dầu cam tùng rất quý giá. Và chúng ta thấy Chúa Giêsu xác nhận cử chỉ này. Và vì thế, Người cho chúng ta hiểu rằng cuộc sống trong Thánh Linh là tuyệt vời, nó không phải là phép tính toán học về điều tốt như Giuđa nghĩ khi ông ta nói rằng số tiền này nên được trao cho người nghèo. Ngược lại, đôi khi Thánh Linh có thể truyền cảm hứng cho những cử chỉ thơ mộng như thế. Mang tính thơ ca và cũng mang tính tiên tri vì cô Maria dâng hương cam tùng này để chôn cất Chúa Giêsu: theo một cách nào đó, có lẽ nó báo trước sứ vụ xức dầu cho người bệnh, tức là cũng được các thừa tác viên giáo dân phân phát giống như ngày nay có các thừa tác viên hiệp thông.
Ladarô đứng đó, đã sống lại và là nhân chứng cùng với Chúa Giê-su, cùng chịu nguy cơ tử đạo với Ngài. Đó là sự nếm trước của bữa tiệc thiên đàng trên đất này.
Thứ ba Tuần Thánh
Như người lính canh
Đoạn sách Isaia, Người Tôi Tớ Thiên Chúa cất tiếng, để thực hiện ơn gọi và sứ mạng của mình, phục vụ chương trình của Thiên Chúa, mưu ích cho nhân loại. ‘Này đây ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất’. Bài ca diễn tả niềm tín thác vào Thiên Chúa, đấng sẽ trả lại sự công bình cho ta. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi người tin tưởng cậy trông Ngài.
Đoạn tin mừng hôm nay mở ra và khép lại với hai lời tiên báo mang sự buồn phiền: việc phản bội và chối Thầy. Nơi giữa đoạn, ta nhận ra một dấu nhấn, xem chừng ra có vẻ bên lề nhưng không kém quan trọng: ‘Lúc ấy là đêm tối’. Đêm mà Đức Giêsu đến để xua tan bóng tối, nhưng ngay bây giờ nó đang ra sức tấn công để áp đảo ánh sáng. Đêm tối của lầm lạc: Giuđa thực hiện tội phạm của mình; Phêrô vấp phạm vì sợ hãi; các kẻ khác trốn chạy. Nhưng cũng chính trong đêm tối ấy, Đức Giêsu được vinh quang, trả lại cho con người phẩm giá làm con cái Thiên Chúa.
Việc xuất hiện đêm tối trong cuộc sống chúng ta, lúc này chỉ là một sự kiện chóng qua, một khúc dạo đầu cho ánh sáng, sẽ trở lại chiếu soi chúng ta, bởi lẽ mặt Trời công chính là Đức Kitô sẽ không bao giờ biết đến hoàng hôn. Nên người kitô hữu cần phải thực hiện vai trò ngôn sứ, nghĩa là phát ngôn viên cho Thiên Chúa, loan báo chiến thắng chung cục của tình yêu. Người ngôn sứ phải chiêm ngắm khuôn mặt của Đấng chịu đóng đinh và phải cảm nghiệm chiến thắng của Đấng Phục Sinh. Sẽ chẳng phải là kitô hữu đích thực nếu chỉ biết gieo rắc những bất hạnh, quỵ ngã trước sự dữ, hoặc tệ hại hơn nữa, là ngừng chiến đấu cho sự sáng để mọi người nhận biết mà tìm tới.
Người lính canh, nhìn đăm đăm vào đêm tối, để nhận ra ngay tia sáng đầu tiên xuất hiện ở chân trời và vực dậy niềm hy vọng của biết bao anh em: đấy chính là hình ảnh người kitô đích thực, tất cả chúng ta đều được mời gọi để thực hiện.
+++
Đôi mắt ngấn lệ của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng cuộc đời của Người không phải là cuộc đời của một anh hùng không có đau khổ và khủng hoảng, người bước đi đến cuối cuộc đời và thể hiện sức mạnh siêu nhiên. Ngược lại, Chúa Giêsu là một con người hoàn chỉnh và chào đón thiên tính của mình vào nhân tính này. Chúa chúng ta còn đau buồn hơn nữa vì sự bỏ rơi và phản bội của những người đã tuyên bố lòng trung thành và tình yêu của họ với Ngài, hơn là vì những lời lăng mạ, những đòn roi và những chiếc đinh khi họ giết chết Ngài. Chắc chắn không quan trọng nếu chúng ta tìm ra những kẻ có tội, khi mỗi người chúng ta có thể là Giuđa hoặc Phêrô khi họ phản bội hoặc chối bỏ Chúa vào đêm đó. Simon Phêrô thưa với Ngài, 'Lạy Chúa, Chúa đi đâu?' Đức Giêsu trả lời: ‘Nơi Ta đi, bây giờ con không thể theo Ta được; nhưng sau này con sẽ theo Ta. Phêrô thưa rằng: ‘Lạy Chúa, tại sao bây giờ con không thể theo Chúa được? Con sẽ hy sinh mạng sống mình vì Chúa.’ Chúa Giêsu trả lời ông: ‘Ngươi sẽ thí mạng sống mình vì Ta sao? Quả thật, quả thật, Ta bảo ngươi, gà chưa gáy, thì ngươi đã chối Ta ba lần.’ Chúng ta biết mình đã nỗ lực bao nhiêu để ở gần Ngài, tuy nhiên, cuộc sống trong Chúa Kitô (Kitô hữu) chính xác là học dần dần để không còn chạy trốn, không còn chối bỏ và không còn phản bội. Tuy nhiên, điều có thể gây cản trở nguy hiểm cho sự phát triển này và ngăn cản ân điển chính là sự lựa chọn đóng cánh cửa tha thứ. Đối với mỗi người có thể có một khả năng khác nhau nhưng không phải đối với Giuđa, người không cho phép mình được lòng thương xót của Chúa chạm đến.
Xin ban cho gia đình này của Cha, lạy Cha, được đức tin cử hành các mầu nhiệm khổ nạn của Con Cha để nếm được vị ngọt ngào của sự tha thứ của Cha (lời cầu nguyện trong ngày)
Tiếng nói của một nhà thần học: Giống như các tông đồ, chúng ta cũng có nguy cơ nhắm mắt và nhắm lòng trước các sự kiện vì sợ phải gánh chịu hậu quả. Trước mối đe dọa bị mất ổn định, phản ứng của chúng ta thường là giả vờ không hiểu, trì hoãn càng nhiều càng tốt việc nhận thức về các sự kiện đòi hỏi phải tăng trách nhiệm.
Thứ tư Tuần Thánh
Đức Giêsu thấy giờ của Ngài sắp đến, nên chuẩn bị ăn mừng lễ Vượt Qua. Trong bữa ăn tối, Ngài báo trước việc phản bội của Giuđa. Tác giả thánh vịnh cũng đã tiên báo: Tv 41,10 [Cả người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con]. Dân do thái lên án Đức Giêsu và trao nộp Ngài cho người ngoại đạo. Những người thợ vườn nho, sau khi đã giết các tôi tớ chủ sai đến, cũng giết luôn đứa con của chủ. ‘Dân ta hỡi, Ta đã làm gì cho ngươi? Ta đã làm chi khiến ngươi phiền lòng? Hãy trả lời cho Ta’ (Mk 6,3). Giuđa bán Đức Giêsu với giá ba mươi đồng bạc. Là giá của một người nô lệ (Xh 21,32). Người ta cũng ra cùng một giá như thế đối với vị tiên tri bị truất phế (Dcr 11,12b). Và cũng cùng một giá đó Thượng Hội Đồng trả cho Giuđa để bắt nộp Đức Giêsu.
Khi những gì đã loan báo được ứng nghiệm, Kinh Thánh chấm dứt. Từ đời đời, tất cả đều hiện diện trước mặt Thiên Chúa. Hành động của con người đã được thấy trước, nhưng không phải là tiền định. Và chính vì thế mà Đức Giêsu không cất đi trách nhiệm của kẻ nộp Ngài, vì kẻ ấy đã xử dụng tự do mình cách sai lạc.
Cũng thế chúng ta có thể phản bội Đức Kitô, bán Ngài với giá rẻ mạt. Lời Chúa dạy ta, và chính Ngài mở mắt chúng ta, để chúng ta được vào số những người đồng bàn với Đức Giêsu mừng lễ Vượt Qua, những chi thể sống động của Giáo Hội.
Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?
Giuđa, không thể bỏ vào túi số tiền của bình dầu thơm (Mt 26,8-9), đã ‘khắc phục’ bằng việc bán Đức Giêsu với giá một người nô lệ (x. Xh 21,32): ba mươi đồng bạc. ‘Lòng ham muốn tiền bạc là cội rễ sinh ra mọi điều ác’ (1Tm 6,10). Trong cộng đoàn các môn đệ: nơi đây Ngài bị giao nộp và ngài tự hiến mình, trao ban thịt máu mình. Khi báo cho các môn đệ biết kẻ phản bội là một người trong nhóm họ, các ông rất đau lòng. Mỗi người đều bị đánh động bởi lời loan báo đó vì mỗi người đều cảm thấy kẻ phản bội ấy có thể là mình: ‘Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?’ Giuđa cũng hỏi như vậy: ‘Rápbi, chẳng lẽ con sao?’ Đối với mười một môn đệ, Đức Giêsu là Đức Chúa, còn đối với Giuđa Ngài chỉ là một vị thầy dạy.
Đức Giêsu trả lời cho Giuđa như cũng sẽ trả lời cho vị thượng tế và cho quan Philatô: ‘Chính anh nói đó’. Con người xét đoán chính mình qua mối quan hệ với Đức Kitô: ‘Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án; và cũng nhờ lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án’ (Mt 12,37).
Lời than thở của Đức Giêsu về Giuđa không phải là một lời tiên tri về hình phạt cuối cùng cho kẻ bội phản, nhưng chỉ là một lời mời gọi mỗi người xét lại lương tâm mình. Chúng ta có thể chèn vào trang tin mừng này tên của mỗi người chúng ta thay vào tên của Giuđa.
+++
Khúc dạo đầu của sự không chung thủy chắc chắn là sự tính toán của tình yêu. Khi chúng ta bắt đầu đánh giá tình yêu một cách định lượng, đây chính là dấu hiệu rõ ràng cho thấy tình yêu đã kết thúc. Có thể chúng ta cũng đã từng trải qua thực tế bi thảm này. Chúng ta bắt đầu đo lường những gì chúng ta đã làm được cho một người, chúng ta định lượng mọi thứ, thời gian dành ra, trách móc người khác về những gì chúng ta đã làm và những gì chúng ta chưa nhận được. Khi chúng ta rơi vào vòng xoáy của nền kinh tế thị trường, thì rõ ràng đó không phải là Tình yêu của Chúa. Khi chúng ta biến tình yêu thành một loại hàng hóa, sớm hay muộn, chúng ta sẽ bán nó để đổi lấy một trải nghiệm có lợi hơn. Nếu tôi định lượng thời gian cầu nguyện, dành cho gia đình, cho cộng đồng, cho người tôi yêu, thì nếu tôi gặp phải điều gì đó chiếm ít thời gian và năng lượng của tôi hơn, tôi chắc chắn sẽ chọn điều đó. Tuy nhiên, tôi không lựa chọn tình yêu mà lựa chọn điều có thể mang lại lợi ích cho tôi nhiều nhất. Đôi khi tình yêu không thuận tiện nhưng nó luôn tốt hơn vẻ bề ngoài. Đây chính là điều xảy ra với Giuđa khi ông rời bỏ Chúa Giêsu khi cảm thấy ‘sự không phù hợp’ của Ngài. Vào đêm trước Tam Nhật Thánh, chúng ta phải tự hỏi liệu chúng ta chọn yêu thương vì nó phù hợp với chúng ta hay vì chúng ta tin chắc vào lựa chọn của mình.
Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người.
Tiếng nói của một nhà thần học: Sống và yêu vì cơ hội khiến chúng ta sống một cuộc sống như địa ngục, bởi vì chúng ta luôn kết thúc ở địa ngục thông qua lý luận và tính toán, nhưng tình yêu là sự dư thừa vượt quá lý luận và tính toán đơn thuần. Thật kinh khủng khi một sáng thức dậy và tự nhủ: ‘Tôi thà chưa bao giờ được sinh ra’.
Thứ năm Tuần Thánh
Di chúc của Chúa
Chỉ có một ngày, đừng để vuột mất đi sự phong phú của phụng vụ, của lời Chúa, vẻ đẹp của khuôn mặt Thiên Chúa mà Đức Giêsu bày tỏ.
Bài đọc 1 trích từ sách Xuất Hành, xem như là một điểm dừng cắt ngang hành trình của đoàn dân Thiên Chúa tiến về Đất Hứa; chương 12 sách Xuất hành thuật lại những sự kiện, những biến cố, được xem như là chỉ thị nghi lễ: diễn tả tỉ mỉ những cử chỉ cung cách phải có trong đêm ăn chiên Vượt qua. Những cử chỉ này được lập đi lập lại, nhiều lúc người ta không hiểu được ý nghĩa thâm sâu, trở nên như một hình thức cử hành bên ngoài. Nghi thức này được đọc lại cho chúng ta, như để ghi nhớ. Một nhắc nhớ được cử hành như ngày lễ kính Chúa, một kỷ niệm được cử hành từ đời này sang đời kia. ‘Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm’. Một nghi lễ, một kỷ niệm đánh dấu một khởi đầu, một nghi lễ, một kỷ niệm để sống mỗi năm như một khởi đầu mới, và như thế suốt cả cuộc sống chúng ta khởi đầu với tháng này, những ngày này, những cử chỉ này, những lời nói này…
Đoạn tin mừng: nghi lễ để kỷ niệm, không chỉ là bữa tối hay một nghĩa cử khiêm tốn (vì nếu như thế sẽ rơi vào một sự lập đi lập lại rỗng tuếch), nhưng chính là sự thương khó và cái chết của Đức Giêsu. Chúng ta họp nhau chiều nay để nói lên điều này là chúng ta muốn bắt đầu lại và trong bữa ăn tối cuối cùng Đức Giêsu đã sống cùng với các môn đệ, chúng ta nhìn nhận khởi điểm cuộc sống chúng ta, khởi điểm hy vọng của chúng ta và chúng ta ước ao sống bữa tối ấy cùng với Đức Giêsu như Ngài đã sống. Bản văn viết ‘biết giờ của Ngài đã đến…’, Đức Giêsu hoàn toàn ý thức. Đức Giêsu biết, không có ý muốn nói đến việc biết trước theo thiên tính của Ngài. Tin mừng muốn cho ta thấy sự nghiêm túc và sự tự do Đức Giêsu đối diện với cái chết, điều mà chúng ta với bản tính con người tìm cách tránh xa (đau khổ, đau đớn, cái chết), là thuộc thế giới thần linh, thuộc chương trình của Thiên Chúa. Điều xảy ra không phải là may rủi, bất ưng, vô nghĩa: đã biết trước nên không phá hủy chương trình của Thiên Chúa. Cái chết, sự phản bội, vẻ thất bại của thập giá, các môn đệ bỏ Thầy, tất cả đều nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Và Đức Kitô tiếp nhận tất cả cách hoàn toàn tự do. Ta cũng tin rằng Đức Giêsu đã sống bữa tối cuối cùng như một khởi đầu mới…biết rằng bữa tối này là bữa tối cuối cùng Ngài ăn uống với các môn đệ trên trần gian và do đó là khởi đầu mới, của cách thức hiện diện mới, một hiệp thông mới nơi bánh rượu được nhắc đến trong bài đọc 2 và cử chỉ phục vụ trong bài tin mừng. Không có Thánh Thể, không có Thánh lễ, nếu không có trao ban mạng sống, nếu không có tình yêu, nếu không có phục vụ anh chị em. Thật quan trọng câu đầu tiên của đoạn tin mừng hôm nay, vì thuật lại cho ta tình yêu của Thiên Chúa, cách thức mà Thiên Chúa thực hiện tình yêu. Không phải tình yêu đổi chác filein theo kiểu con người, nhưng là agape, tình yêu của Thiên Chúa: nhưng không, trọn vẹn, dứt khoát. Bánh rượu, rửa chân, giao ước mà Thiên Chúa kết giao với mỗi người chúng ta là nơi phát sinh tình yêu ấy. Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian… tình yêu mà Đức Giêsu muốn thu tóm vào đó tất cả sứ vụ, lời nói và cử chỉ hành động của Ngài…Và Ngài yêu thương họ đến cùng, quy chiếu về điều đang xảy ra: rửa chân môn đệ, những tâm sự cuối cùng, giã từ, cái chết.
Anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em. Là bổn phận của chúng ta, nhận ra qua nghĩa cử ấy một lệnh truyền, điều kiện để yêu và phục vụ anh em là nhận ra điều Đức Giêsu đã làm cho ta. Không dễ yêu thương nhau, chúng ta chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta học nơi Đức Giêsu, đã quỳ gối như một tôi tớ trước con người, chỉ có như thế giáo hội mới có thể khởi đầu hành trình sự tự hiến của mình, vì chỉ khi phục vụ cách vô vị lợi mọi con cái của mình, giáo hội mới thực sự có uy thế. Quyền bính của giáo hội được biểu lộ và khẳng định trong việc phục vụ, nghĩa là, mức độ người ta tin vào giáo hội tỉ lệ thuận với việc giáo hội phục vụ, quỳ gối truớc mọi người nam nữ của ngày hôm nay. Để có thể cất giọng tuyên bố điều này điều nọ, giáo hội phải biết hạ mình xuống, cúi mình xuống để săn sóc, để phục vụ…Chúng ta cảm thấy đây là một bổn phận của mỗi chúng ta, như một lệnh truyền dứt khoát, bởi lẽ là di chúc Đức Giêsu trao ban.
+++
Bí tích Thánh Thể khai mạc Tam Nhật Vượt Qua, vào tối Thứ Năm Tuần Thánh, kể về hai bữa tiệc ly, trong đó một Con Chiên bị sát tế, máu của Con Chiên là ơn cứu độ và giải thoát; cả hai đều dẫn đến một cuộc di cư, từ đó một dân tộc được sinh ra.
Bữa tiệc đầu tiên - được thuật lại trong Sách Xuất Hành - là bữa tiệc của dân tộc Israel thời xưa vào thời điểm thoát khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập: máu của con chiên trên các cột cửa đảm bảo sự sống cho con cái Israel vào đêm được giải phóng; từ đó phát sinh sự tự do cho con cháu Abraham, những người sẽ có thể lên đường đến quê hương mới, trở thành ‘dân của Yahweh’ nhờ Giao ước đầu tiên. Đây là lời tiên tri về bữa tối của Chúa Giêsu với các tông đồ.
Trong bữa tiệc ly mới - được đề cập trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô và sau đó là trong thánh Gioan - con chiên bị hiến tế chính là Chúa Giêsu, Đấng trong bánh và rượu, một cách huyền nhiệm và chân thực trình bày thân thể sắp bị hiến tế và máu sắp đổ trên thập tự giá. Mình và Máu Chúa Giêsu làm nảy sinh dân mới của Thiên Chúa, những người, trong cuộc xuất hành mới khỏi ách nô lệ tội lỗi, sẽ có thể cùng Chúa bước đi về quê hương vĩnh cửu.
Và cũng giống như lễ Phục sinh cổ xưa được coi là ‘nghi lễ lâu đời’ để dân Israel cử hành ‘từ thế hệ này sang thế hệ khác’ như một sự nhận thức về phẩm giá của họ với tư cách là dân của Chúa, thì hy lễ mới dưới hình bánh và rượu trở thành lời loan báo và cử hành ơn cứu độ qua cái chết của Chúa Giêsu, mà những người được cứu phải duy trì ‘để tưởng nhớ’ Chúa Giêsu cho đến khi Người đến. Dân tộc đầu tiên của Thiên Chúa, được thành lập trên dòng dõi huyết thống từ Abraham, có nguồn gốc từ bữa tiệc kết thúc trải nghiệm ở Ai Cập; Từ bữa tiệc ly kết thúc, như một sự báo trước mang tính bí tích, kinh nghiệm trần thế của Chúa Giêsu, dân mới của Thiên Chúa đã được sinh ra, dựa trên kinh nghiệm siêu nhiên của tình yêu thương huynh đệ. Đây là lý do tại sao Chúa Giêsu, trong bữa tiệc ly này, muốn rửa chân cho các môn đồ của mình: để chỉ ra rằng mối dây ràng buộc giữ cho những người mới được hiệp nhất sẽ không phải là mối dây máu mủ, mà là tình bác ái: ‘Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy của các con mà đã rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Ta đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm như Ta đã làm cho các con’.
Bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu do đó thiết lập nên giao ước mới, dựa trên tình yêu Kitô giáo: dân tộc mới được sinh ra và mãi mãi bám rễ trong các bí tích, bắt đầu với Bí tích Thánh Thể, trên đó mọi bí tích khác được xây dựng. Từ lúc khởi đầu cho đến mãi mãi, nó sẽ có một quy luật duy nhất và bất biến: đó là lòng bác ái. Sự hiệp thông bí tích trong Mình và Máu Chúa Kitô Thánh Thể, và sự hiệp thông bác ái trong việc phục vụ lẫn nhau, trong việc rửa chân cho nhau: đây là những trụ cột của dân mới của Thiên Chúa, tức là Giáo hội. Không có cái này mà không có cái kia. Việc tách rời chúng có nghĩa là phản bội kế hoạch cứu rỗi của Chúa.
Thứ Sáu Tuần Thánh
Thánh giá
Thứ sáu thánh không phải vì sự đau khổ của cái chết trên thập giá, nhưng chính là tình yêu cho đến cùng đã làm cho Con Thiên Chúa chết trên thập giá. Đây là tình yêu mạnh hơn sự chết vì ôm lấy cái chết và vượt lên trên bằng tình yêu. Là ngày duy nhất không cử hành thánh lễ: vị Thuợng tế cao cả, đấng trung gian giữa trời và đất, hai tay đã bị đóng đinh, bị treo lơ lững giữa đất trời. Đấng bị đóng đinh là Thiên Chúa tự lột bỏ, tự hủy mình và trao ban tất cả; do đó là Thiên Chúa của mọi người không trừ ai, Thiên Chúa cho người vô thần, cho người không có khả năng diễn tả lòng tin của mình bằng bất cứ cách nào vì họ cũng đang bị đóng đinh, nghèo đói, những nạn nhân không được bảo vệ.
Lời nói nhường chỗ cho thinh lặng chiêm ngắm. Tại Firenze, trong nội cấm tu viện thánh Mátcô có một bức họa trình bày cảnh Thánh Đomênicô thờ lạy Chúa Giêsu bị đóng đinh, do Chân Phước Angelicô vẽ.
Từ mặt đất mênh mông, phẳng lặng và khô cằn, vươn lên cây thập giá nổi bật lên nền trời xanh: Đức Kitô bị đóng đinh, oai nghiêm, rạng rỡ; khuôn mặt đẹp trong vòng hào quang, nghiêng về bên phải, đôi mắt và đôi môi hé mở. Ngài còn sống. Ngài đau khổ vì yêu nên Ngài an bình; sự đau khổ của Ngài là sự đau khổ thanh tịnh. Đấng chịu đóng đinh được giương cao cho mọi người nhìn thấy. Do đó chúng ta không thể nào tỏ vẻ dửng dưng. Dưới chân thập giá, thánh Đômênicô đang ôm lấy và hầu như âu yếm cây gỗ nhuốm máu; ngài cảm động nhìn đấng bị đóng đinh với đôi mắt đỏ hoe, chiếc trán và khuôn mặt hằn lên nếp nhăn. Kết hiệp với Đức Kitô, cũng có nghĩa là sống với Ngài trên thập giá để cứu độ loài người. Bức tranh này được treo ngay cửa vào tu viện, muốn nhắc nhớ cho mọi người rằng cộng đoàn các anh em sống cùng với Đức Giêsu đóng đinh, là để chia xẻ tình yêu và hy sinh với Ngài, và để rao giảng chỉ một mình Ngài, như thánh Phaolô viết: ‘Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, điều mà người do thái cho là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ; nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người’ (1 Cor 1,23-25).
Tất cả chúng ta đối diện với thập giá, nhưng còn hơn thế nữa, chúng ta cùng ở trên thập giá. ‘Hãy can đảm! Bạn là người đang bị đóng chặt vào chiếc xe lăn. Là người thấm thía cảnh cô đơn. Hãy tin tưởng, bạn là người đang uống chén đắng của sự bị bỏ rơi. Đừng nguyền rủa, hãy lau nước mắt, bạn là người bị bạn hữu ‘đâm sau lưng’. Tin mừng viết: ‘từ mười hai giờ trưa cho đến ba giờ chiều, tối tăm bao trùm mặt đất’. Một thời gian thật dài đối với người bị đóng đinh đang hấp hối. Nhưng một ít nữa bóng tối sẽ nhường chỗ cho ánh sáng, trái đất sẽ lấy lại vẻ tinh tuyền của nó và mặt trời Phục Sinh chiếu sáng đánh tan mây mù.
+++
Chúng ta đang ở đây vào Thứ Sáu Tuần Thánh. Hôm nay cũng vậy, giống như Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta suy ngẫm về câu chuyện cuộc thương khó mà Chúa Giêsu đã trải qua vì tình yêu của chúng ta. Vào ngày đặc biệt này, chúng ta được kêu gọi nhiều hơn nữa để luôn đồng hành cùng Chúa Giêsu, mà không quên rằng Tam Nhật Vượt Qua là duy nhất, như thể đó là một ngày dài duy nhất, bởi vì không thể hiểu được đau khổ nếu không có sự phục sinh và không thể trải nghiệm được sự phục sinh nếu không có ánh sáng của đau khổ. Chúng ta thường có xu hướng tránh né mọi thứ nói về đau khổ, mọi thứ nói với chúng ta về thập giá, như thể đây chỉ là công cụ của sự chết chứ không phải của sự sống. Vì lý do này, phụng vụ ngày nay trao cho chúng ta việc tôn thờ Thánh Giá! Từ gỗ thập giá, sự sống đã được sinh ra cho chúng ta. Thánh giá thầm lặng mang đến cho chúng ta một thông điệp kép: một mặt, nó cho thấy tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta, Chúa đã đi xa đến mức nào để không bỏ rơi chúng ta trong cái chết; và mặt khác nó cho chúng ta thấy mức độ nghiêm trọng của tội lỗi mà chúng ta không thể bỏ qua. Tội lỗi có hậu quả tai hại, để sửa chữa cần phải có sự chuộc tội và Chúa, trong tình yêu thương của Ngài, đã thực hiện điều đó cho chúng ta trong xác thịt của Ngài. Thập giá của Chúa Giêsu, giống như tất cả thập giá của chúng ta, không đến từ trên cao nhưng từ sự mong manh của cuộc sống, đòi hỏi sự chấp nhận trong sự phó thác tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Đấng biết cách mang lại sự sống ở những nơi không có sự sống.
Thứ Bảy Tuần Thánh
Một đêm nữa đang chờ đợi chúng ta. Là đêm dài hơn mọi đêm. Sau đêm mà chúng ta cảm thấy bất lực trước cuộc chiến nội tâm của Đức Giêsu và trước sự chọn lựa khủng khiếp tự hiến vì phần rỗi nhân loại, chúng ta sắp cử hành mẹ của mọi đêm, đêm mà sự chết không có thể giam hãm quyền lực của Thiên Chúa. Ngày thứ bảy này Giáo hội chờ đợi để có thể chạy đến mộ Chúa vào lúc tờ mờ sáng để loan báo rằng ‘Người không còn ở đây nữa, Người đã sống lại rồi!’. Một sự chờ đợi trong thinh lặng ngập tràn niềm vui. Đứng trước ngôi mộ trống, cộng đoàn các môn đệ nhớ lại các lời nói và hành động của Thầy, giờ đây được giải thích cách đúng đắn. Không chỉ có thế: còn mở rộng tầm nhìn về bên kia chân trời và nhớ lại toàn bộ lịch sử giữa Thiên Chúa và dân Israel, bằng cách tiếp nhận vào trong đời mình những chuyện kể của Thánh Kinh, tiến dần đến Đức Kitô, cái chết và sự sống lại của Người. Chúng ta tràn đầy niềm vui trong đức tin. Hôm nay Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, chứng tỏ cho mọi người biết Ngài thật sự là Đấng Hằng Sống.
Một lời loan báo hy vọng cho con người ngày nay
Tình trạng nhiều phương diện đáng lo ngại trên thế giới dễ tạo nên một sự ngờ vực trong mọi vấn đề, một vắng bóng những lý tưởng và viễn ảnh cho tương lai, nhưng lễ Phục Sinh trình bày cho mọi người chúng ta một bảo đảm và một khả thể của một cuộc sống mới, của những viễn ảnh lý tưởng sâu xa, của một niềm hy vọng đổi mới.
Đức Kitô sống lại là con người mới và tất cả những ai hiệp thông với Người, trở nên những con người mới, có khả năng đổi mới thế giới bệnh hoạn này. Dĩ nhiên việc đổi mới này không phải là một trò ma thuật xảy ra tức thời nhờ sự can thiệp của một vị thần giải quyết mọi tình huống nan giải (Deus ex machina), nhưng là hoa quả của một sự đổi mới não trạng và viễn ảnh bắt nguồn từ trải nghiệm sống động với Đức Giêsu Kitô phục sinh, đang sống và được nhận biết như là Chúa của thế giới và của lịch sử.
Nhất là sự thay đổi được thực hiện bên trong sâu thẳm của chính chúng ta, trong tâm trí chúng ta, khi mà nhờ qua sự gắn bó của lòng tin và tham dự các bí tích, chúng ta được biến đổi trong Người và trở nên những tạo vật mới cùng với Người: chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa và bước vào trong một quỹ đạo mới hướng về tha nhân và thế giới.
Trải nghiệm sự mới mẽ này không chỉ xảy ra bên trong tâm hồn chúng ta mà thôi đâu, vì nếu như thế, có nguy cơ giản lược chiều kích đức tin vào chủ nghĩa duy tâm, như thể thuộc bình diện tâm lý: ơn cứu độ của Đức Kitô phục sinh thấm sâu vào đời sống của ta và thúc đẩy con người đổi mới thế giới bằng năng lực mới xuất phát từ chính trải nghiệm mãnh liệt này.
Người kitô hữu, từ trải nghiệm của Đức Kitô có được nhờ đức tin, nhận được sự thôi thúc cộng tác cho sự canh tân toàn thế giới, tìm cách linh hoạt xã hội bằng tinh thần tin mừng.
Kinh nghiệm sự thất bại của Lôgích xem thị trường như phương dược trị bệnh cho nền kinh tế, nhắc nhớ chúng ta cần phải làm chủ những hiện tượng kinh tế bằng những giá trị đạo đức của sự công bình, trong sáng, liên đới; thiếu những giá trị ấy, xã hội chúng ta sẽ đi đến chỗ tiêu diệt. Người kitô hữu dấn thân để những giá trị này luôn được thực thi trong lãnh vực kinh tế và những kẻ gọi là ‘ma giáo’ sẽ bị lột mặt nạ và trừng phạt.
Nhờ đức tin, người kitô hữu khám phá rằng mình được kêu gọi để họp thành một đại gia đình có chung một người Cha duy nhất, dấn thân để đập tan những bức tường ngăn cách mà hàng ngày ta dựng nên đối với kẻ khác, để tạo dựng một bầu khí tiếp nhận nhau, xây dựng một nền văn minh tình thương và một xã hội trong đó mọi người đều được mời gọi cộng tác trong sự tôn trọng quyền lợi và nghĩa vụ của từng người.
Nếu chúng ta là kitô hữu có ý thức về vẻ đẹp và tầm quan trọng của đức tin, chúng ta sẽ hành động một cách quyết liệt ngay cả trong tình cảnh Giáo hội bị chống đối, vì chúng ta cảm nhận Giáo hội là mẹ của ta và bất cứ xúc phạm nào nơi người mẹ cũng làm thương tổn những đứa con. Ý thức rằng sức mạnh của sự dữ sẽ không thắng được, chúng ta nên mạnh mẽ trong việc làm chứng cho đức tin và góp phần, với lòng trung thành với Chúa và Giáo hội, làm cho Giáo hội, mà ta là thành phần tích cực, mỗi ngày một đẹp hơn và đáng tin hơn.
+++
Tất cả những điều này có ý nghĩa gì? Ý nghĩa của cuộc sống!
Ai biết được đã bao nhiêu lần trong đời chúng ta tự hỏi mình câu hỏi này hoặc những câu hỏi tương tự: ‘Việc này có ý nghĩa gì?’ Từ những điều tầm thường nhất đến những câu hỏi hiện sinh sâu sắc nhất, mỗi người chúng ta đều cố gắng mang lại hoặc tìm kiếm ý nghĩa cho những việc chúng ta làm và trải nghiệm.
Ví dụ, một học sinh tự hỏi rằng có ý nghĩa gì khi ở trong nhà suốt cả buổi chiều, có thể là những buổi chiều rất nắng, trong khi mình có thể đi xe đạp hoặc xe máy với bạn bè, ôn thi cho một bài kiểm tra hoặc kỳ thi mà mình biết chắc sẽ trúng số, là kết quả của một chút may mắn, hoặc chắc chắn sẽ không tốt vì giáo viên không thích mình một cách có hệ thống. Một người cha và người mẹ tự hỏi rằng việc trả tiền thuê nhà hàng tháng để mua một căn hộ có ý nghĩa gì khi với số tiền đó, họ có thể trả các khoản thế chấp hàng tháng để mua được một ngôi nhà. Một bác sĩ hoặc nhân viên y tế tự hỏi có ý nghĩa gì khi đối xử tàn nhẫn hoặc quấy rối một bệnh nhân mà số phận đã không thể cứu chữa được do căn bệnh này, cộng hoặc trừ một tuần. Một tình nguyện viên đang vật lộn để tìm kiếm cộng sự cho một hoạt động phục vụ lợi ích chung và xã hội, tự hỏi rằng có ý nghĩa gì khi có quá nhiều người, có lẽ vẫn còn trẻ và khỏe mạnh, dành hàng giờ, buổi sáng, buổi chiều, cả ngày chỉ để nằm dài, thường xuyên cảm thấy buồn chán, trước một tách cà phê hay một ly rượu vang nhấp một ngụm với sự bình tĩnh gần như trong Kinh thánh, thay vì có thể dành một phần thời gian của mình cho một việc gì đó mang lại điều tốt đẹp, cho chính họ và cho người khác.
Mọi người đều được tự do làm những gì họ muốn, miễn là tôn trọng quyền tự do và phẩm giá của người khác. Nhưng có lẽ, Chúa cũng tự do - không cần chúng ta phải luôn ném đá vào mặt Ngài - để khiến chúng ta tự hỏi về ý nghĩa của cuộc sống và cách sống.
Ví dụ, việc lập kế hoạch và thực hiện một hoạt động khi biết trước rằng bạn sẽ phải dừng lại khi sinh ra có ý nghĩa gì? Ý nghĩa của việc đấu tranh để cải thiện cuộc sống của một đứa trẻ đã sa ngã, và sau nhiều năm nỗ lực chăm chỉ và thậm chí tốn kém tiền bạc, đứa trẻ đó lại nói với bạn rằng ‘Con muốn tự lập’ là gì? Cố gắng giành tình yêu từ một người không hề muốn biết gì về bạn có ý nghĩa gì? Cho đến câu hỏi hiện sinh quan trọng nhất: ý nghĩa của cuộc sống là gì, nếu nó bắt đầu bằng tiếng khóc và kết thúc bằng nước mắt, và ở giữa chỉ có nhiều đau khổ và ít thỏa mãn? Thực sự: tất cả những điều này có ý nghĩa gì?
Đức Maria đã tự hỏi mình câu hỏi này ngay từ đầu Phúc âm Luca, khi một trong những thiên thần quyền năng nhất phục vụ Chúa, Gabriel, bước vào cuộc đời mẹ, hoàn toàn hướng về Giuse, và chào mẹ bằng cách gọi mẹ là ‘đầy ơn phúc’, rồi nói với mẹ rằng mẹ sẽ là mẹ không phải của con trai Giuse, mà là của con trai của Thiên Chúa: tất cả những điều này có ý nghĩa gì?
Những người phụ nữ khác giống như mẹ đã tự hỏi mình câu hỏi này, những người bạn của mẹ và của con trai mẹ, những người đã cùng họ chia sẻ ba năm đi bộ dọc theo Palestine, và giờ đây, vào sáng sớm ngày đầu tiên của tuần lễ, họ thấy mình đang mang theo gia vị để sử dụng trong ngôi mộ nơi mà hai ngày trước, họ đã vội vã đặt thi thể của Chúa Giêsu, vì lễ Phục sinh. Họ hẳn có hàng ngàn suy nghĩ và hàng ngàn câu hỏi trong đầu, nhưng có một điều trên hết: tất cả những điều này có ý nghĩa gì? Ý nghĩa của những phép lạ được thực hiện, những bài diễn văn được đưa ra, những dụ ngôn, những lời dạy, những cử chỉ, những ngôi làng được viếng thăm, những con đường được đi qua, những tội nhân được hoán cải, những người thu thuế được xích lại gần nhau hơn, những cô gái mại dâm được chào đón, những thay đổi về mặt tinh thần, những nhà chức trách tôn giáo bị vạch mặt, những kẻ thù được hòa giải, nếu mọi thứ đều kết thúc thảm hại bằng việc treo trên cây thập tự, ngay cả khi đó là những tên tội phạm tồi tệ nhất? Hơn nữa, khi họ đến ngôi mộ, họ thấy tảng đá đã bị dời đi, và khi bước vào, họ thậm chí không còn thấy xác chết để ướp nữa: thực sự, không còn gì có vẻ hợp lý nữa. Tin vào ông Giêsu cũng vô ích thôi, nếu như ông chẳng còn lại gì, thậm chí không còn một ký ức, thậm chí không còn một cơ thể để than khóc: có vẻ như Tòa Công luận Do Thái đã thành công trong việc xóa bỏ mọi dấu vết của ông.
Những câu hỏi về ý nghĩa vẫn chưa kết thúc, nhưng có lẽ chúng đã bắt đầu không còn là câu hỏi chưa có lời giải đáp. Câu trả lời được đưa ra cho họ bởi hai người đàn ông mặc áo sáng chói, loại áo khiến bạn phải sấp mặt xuống vì họ có hình dáng giống như Chúa và khiến bạn phải sợ hãi. Đó chỉ là vấn đề ghi nhớ, không phải là lặp lại mọi điều mà Thầy đã nói, mà là ghi nhớ lời của Người, chứ không phải là tìm kiếm một người sống trong nghĩa địa, thế giới của người chết. Trong thế giới của người chết, người ta tìm kiếm người chết, người sống được tìm kiếm trong thế giới của người sống: và xét theo quan điểm này, mọi thứ đều có ý nghĩa. Bởi vì cuộc sống bắt đầu có ý nghĩa trở lại.
Cuộc sống của một học sinh bắt đầu có ý nghĩa trở lại, bởi vì thay vì tin rằng bài kiểm tra sẽ không tốt, cậu bé tin vào năng lực của mình, học tập chăm chỉ hơn bao giờ hết và đỗ; việc phải đối mặt với chi phí xây nhà một lần nữa là điều hợp lý, vì trước hết cha mẹ phải tạo dựng một ngôi nhà; liệu pháp điều trị cho một bệnh nhân bệnh nặng lại có ý nghĩa vì có một niềm hy vọng lớn hơn nhiều so với cảm giác thất vọng đang bủa vây anh ta lúc này; thời gian dành cho người khác lại trở nên có ý nghĩa vì mười phút làm tình nguyện có giá trị hơn nhiều so với nhiều giờ ngồi trước ly rượu vang, hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác và bình luận về mọi thứ diễn ra trên vỉa hè trước quầy bar; lại có ý nghĩa khi sống yêu thương ngay cả sau những thất bại tồi tệ nhất, bởi vì không có tình yêu nào vĩ đại hơn tình yêu của một người hy sinh mạng sống vì những người mình yêu.
Và tất cả điều này đều có ý nghĩa vì ‘Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, không bao giờ chết nữa: cái chết không còn quyền lực gì đối với Người nữa’.
Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê