Các bài suy niệm CN 30 TN B (nhiều tác giả)

Thứ ba - 23/10/2018 06:14  922
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN - B

Lời Chúa: Gr 31,7-9; Dt 5,1-6; Mc 10,46-52

MỤC LỤC

1. Cặp mắt tâm hồn
2. Nhìn cái tốt
3. Rào cản.
4. Xin cho con được sáng – ViKiNi (Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
5. Mù loà và mù quáng – Lm. Ignatiô Trần Ngà
6. Sáng đôi mắt đức tin – Thiên Phúc
7. Ngọn đèn cho thân xác (Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
8. Trở nên Bartimê (Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
9. Thiên Chúa thương cứu con người (Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
10. Chúa cho người mù được thấy (Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
11. "Xin cho con được thấy" (Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
12. Mù có phải là bất hạnh không? (Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
13. Mù lòa
14. Thiên Chúa, Đấng chuyên gia chữa lành (Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM)
15. Đôi mắt Đức Tin (Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
16. Xin cho con được thấy - Hiếu Nguyễn
17. "Anh muốn tôi làm gì cho anh?" (Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
18. Suy niệm chú giải Lời Chúa CN XXX TN B - Lm. Inhaxio Hồ Thông
19. Mù sương – Lm. Vũ Đình Tường
20. XIN THƯƠNG XÓT TÔI. Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
21. Niềm tin – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
22. Ôi lạy Chúa, xin mở cho con đôi mắt (Suy niệm của Huệ Minh)
23. Học hỏi Phúc Âm Chúa nhật XXX TN B.  Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
 24. Người mù.
25. Xin thương xót tôi.(Trích trong ‘Manna’)
26. Lòng thương – Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
27. Tới nguồn sự sáng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
28. Chúa chữa anh mù Bactimê (Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Khảm)
29. “Đức tin của anh đã cứu anh” - Yvon Daigneault.
30. Lòng tin của anh đã cứu chữa anh! (Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa) 

1. Cặp mắt tâm hồn

Một người vô thần hỏi một người Ả rập đang ngồi cầu nguyện giữa sa mạc hoang vắng: Làm sao anh có thể tin vào Thiên Chúa, Đấng anh không hề trông thấy? Người Ả rập trả lời: Khi nhìn vào những dấu chân con sư tử trên cát, thì tôi biết được rằng con sư tử mới đi qua đây, mặc dù tôi không trông thấy nó. Với Thiên Chúa cũng vậy, mặc dù Ngài là Đấng vô hình, nhưng những kỳ công của Ngài nói cho tôi biết về Ngài.

Chúng ta thật may mắn vì ngay từ lúc mở mắt chào đời, chúng ta đã có một niềm tin vững chắc vào Thiên Chúa, như điều răn thứ nhất đã truyền dạy. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều dân tộc mê tín, tin vào những chuyện nhảm nhí như lửa, như gió và các vì tinh tú, hay như ca dao đã diễn tả: Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề. Tại sao lại có tình trạng ấy?

Lý do thứ nhất, đó là vì sự yếu đuối, sự hạn hẹp của trí khôn con người, coi tất cả những gì đẹp đẽ, những gì oai hùng đều là thần minh. Họ giống như một bác nông dân, lần đầu tiên được bước vào cung vua, thấy bất kỳ ai ăn mặc đẹp đẽ cũng tưởng là nhà vua, nên quỳ gối chào kính.

Nhưng nguyên nhân chính yếu, đó là mưu mô của ma quỷ. Đã từ lâu, nó nuôi tham vọng được bằng Thiên Chúa, như lời tiên tri Isaia đã nói về nó: Ta sẽ lên tới trời và ta sẽ đặt ngai tòa của ta dưới những vì sao. Nó xúi bẩy con người đi tới chỗ thờ lạy nó và dâng tiến cho nó những lễ vật. Nhất là nó mong muốn người ta tôn kính nó như là Thiên Chúa. Chính vì thế, nó đã nói với Chúa Giêsu trong cơn cám dỗ: Ta sẽ ban cho ngươi mọi vương quốc trần gian, nếu ngươi quỳ gối thờ lạy ta.

Điều ma quỷ không thể tìm được nơi Chúa Giêsu, thì nhiều người kém lòng tin đã hiến dâng cho nó. Tình trạng mê tín không phải chỉ ngày xưa, mà ngay cả hôm nay trong thời buổi văn minh cũng vẫn có. Không thiếu gì những tín hữu đã làm những chuyện nhảm nhí để cầu mong cho được điều nọ điều kia. Họ đã vâng phục loài người hơn là vâng phục Thiên Chúa. Họ đã chạy theo những đam mê dục vọng bất chính, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Họ lấy cái bụng của họ làm chúa.

Tội mê tín hiểu theo một nghĩa rộng, đó là việc từ bỏ Thiên Chúa, để tìm kiếm hạnh phúc nơi những thụ tạo. Những đam mê mù quáng như kiêu căng, hà tiện, những khát vọng quá đáng về tiền bạc, danh vọng và lạc thú chính là những thần tượng giả tạo, chúng ta cần phải trục xuất ra khỏi tâm hồn, để tâm hồn trở thành đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị. Có khử trừ tội lỗi, thì cặp mắt tâm hồn chúng ta mới được trong sáng và chúng ta mới có thể nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi vũ trụ và nơi những người chung quanh, cũng như nơi thẳm sâu cõi lòng chúng ta.

 

2. Nhìn cái tốt

Có một cô bé khó tính, luôn phê bình và chỉ trích bởi vì cô bé không bao giờ tìm thấy được một điều gì tốt nơi người khác. Bất kể ai làm được một việc tốt, thì cô bé cũng phải tìm cho ra một điều sai, một nguyên do xấu. Cô bé thường hay nói: Nó phải có ý đồ đen tối, nó phải rút ra được cái gì lợi trong đó. Và cô bé luôn bắt lỗi mọi người. Nhiều người trong chúng ta cũng hành động như cô bé bới bèo ra bọ, vạch lá tìm sâu. Để rồi lúc nào cũng cau có, lúc nào cũng bực bội, lúc nào cũng bất mãn.

Thế rồi một ngày kia, nghe cha sở cắt nghĩa về đoạn Tim Mừng kể lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù bẩm sinh, mà chúng ta vừa mới được nghe đọc. Cô bé bỗng sực tỉnh và nhận thấy rằng: Tâm hồn mình đã thực sự bị mù loà vì đã không nhận ra được những cái tốt đẹp của người khác.

Chúa Giêsu đã chữa lành sự đui mù thể xác, để chứng tỏ Ngài cũng có thể chữa lành sự đui mù tâm hồn. Chính sự đui mù tâm hồn này còn tác hại cho chúng ta hơn cả sự đui mù thể xác. Vì một trong những cách biểu hiện của nó là không nhìn thấy chân lý, không nhìn thấy tình thương, không nhìn thấy những điều tốt đẹp của những người chung quanh. Tật đui mù này lại thường hay lân lan. Chính vì thế mỗi người chúng ta phải không ngừng tự hỏi: Tôi có bị đui mù về tâm hồn hay không? Nếu có, thì chúng ta hãy vội vã kêu cầu Chúa cứu chữa chúng ta như người đui mù trong đoạn Tin Mừng hôm nay.

Nơi tốt nhất để chúng ta bắt đầu sửa chữa tật đui mù này chính là gia đình. Chẳng hạn người mẹ quên đính nút áo hay quên vá chiêc quần cho chúng ta, thay vì càu nhàu trước sự sơ sót này, chúng ta hãy nghĩ đến những việc tốt mà mẹ đã làm cho chúng ta, chẳng hạn như nấu ăn, giặt giũ, lau chùi nhà cửa. Người anh của chúng ta hay nóng tính, thay vì nghĩ đến những lần gắt gỏng, thì chúng ta hãy nhớ tới công việc nặng nhọc mà người anh ấy phải làm ngoài thửa ruộng thần nông hay trong nhà máy để đem lại chén cơm manh áo cho gia đình và những người thân yêu.

Thay vì nghĩ đến những lầm lỗi của người khác, chúng ta hãy tập cho quen biết mở mắt để nhìn thấy những cái tốt cái đẹp của họ. Nghĩ tới nó và luôn nói về nó, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo: dù là một tên tướng cướp, thì trong lồng ngực của hắn cũng vẫn có một một mảnh tim vàng. Nhờ việc khám phá ra những cái tốt đẹp nơi họ, chúng ta sẽ xích lại gần họ hơn và dễ dàng yêu thương họ như Chúa đã truyền dạy chúng ta.

Bởi đó, cùng với anh mù trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta hãy kêu cầu Chúa: Lạy Chúa, xin thương xót con và cho con được sáng.

 

3. Rào cản.

Có một chi tiết nhỏ qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay đã làm cho tôi phải suy nghĩ và muốn được đem ra để chia sẻ. Đó là đang khi chàng hành khất kêu van cùng Chúa Giêsu: Lạy Con Vua Đavid xin thương xót tôi, thì nhiều người đã quát mắng và bảo anh hãy im đi, hãy câm miệng lại. Những người này đã trở thành một thứ rào cản, ngăn chặn không cho anh tiến đến cùng Chúa Giêsu. Đáng lẽ họ phải nắm lấy tay anh mà dẫn tới Chúa, thì họ lại túm cổ, lôi anh ra xa Ngài. Chẳng có một ai ngoài chính Chúa Giêsu đã giúp đỡ anh mà thôi.

Thực vậy, khi nghe dân chúng quát mắng anh, thì Ngài đã dừng lại, truyền dẫn anh đến với Ngài. Chỉ lúc đó, họ mới thay đổi thái độ. Chỉ lúc đó, họ mới chịu giúp đỡ con người bất hạnh kia.

Từ chi tiết nhỏ bé trên chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống, vì biết đâu, chính chúng ta đôi lúc cũng đã trở thành một thứ rào cản, ngăn chặn không cho Chúa đến với người khác, cũng như không cho người khác đến với Chúa. Vậy chúng ta đã trở nên một thứ rào cản như thế nào?

Tôi xin thưa: trước hết là bằng những ý nghĩ chủ quan đầy thiển kiến, những lời nói thiếu ý thức gây sứt mẻ và những cử chỉ mang tính cách ghen tị. Thực vậy, đứng trước một thanh niên rượu chè cờ bạc hay trộm cắp, mà nay muốn làm lại cuộc đời của mình để trở nên tốt lành hơn, thì phản ứng tự nhiên của chúng ta là nghi ngờ cái thiện chí của anh ta. Từ sự nghi này, chúng ta thường có thái độ cảnh giác, đề phòng bằng cách không liên hệ với anh ta. Và nếu có liên hệ thì cũng dè chừng, mắt trước mắt sau. Cũng vì sự nghi ngờ ấy, chúng ta thường có những lời nói vô ý thức, thiếu trách nhiệm, chẳng hạn: ngựa quen đường cũ. Người như nó mà bỏ được tật xấu này, tật xấu kia thì tôi chỉ bé bằng con kiến.

Tất cả những ý nghĩ, lời nói và thái độ như thế sẽ vùi dập mất chút thiện chí vừa mới lóe sáng trong tâm hồn người thanh niên, để rồi anh ta sẽ chẳng thể nào trở về cùng Chúa. Thay vì kéo anh ta đến với Chúa, thì chúng ta đã trở nên một thứ rào cản, thậm chí còn đẩy anh ta xa lìa Ngài. Hiện thời, đời sống và cách cư xử của chúng ta đã là một thứ rào cản, hay đã là một nhịp cầu, trên đó Chúa đến với những người anh em chúng ta, cũng như trên đó họ sẽ đến cùng Chúa.

Ngoài ra, chúng ta còn có thể trở nên một thứ rào cản bằng chính cuộc sống bê bối của chúng ta. Thực vậy, có những anh em lương dân đầy thiện chí, muốn tìm hiểu Kitô giáo cũng như sứ điệp Tin mừng, thế nhưng thiện chí này đã bị khựng lại khi họ nhìn vào đời sống cụ thể của chúng ta.

Thực vậy, khi nhìn vào đời sống, họ thấy chúng ta cũng gian tham và bất công, cũng độc ác và hà hiếp, cũng giận hờn và thù oán, cũng vợ nọ con kia, lem nhem trong lãnh vực tình cảm… để rồi có lúc họ đã phải thốt lên: Tôi tưởng người Kitô hữu tốt lành như thế nào. Không ngờ họ còn thua cả những người cộng sản, những người Hòa Hảo, những người Cao Đài.

Đáng lẽ ra đời sống của chúng ta phải là một bài giảng hùng hồn, có sức thuyết phục cuốn hút họ về với Đức Kitô, thì do những bê bối, đời sống của chúng ta đã trở thành một thứ thuốc nổ, phá hủy chút thiện chí còn đọng lại nơi họ, hay là đã trở thành một thứ rào cản không cho họ tiến đến cùng Chúa.

 

4. Xin cho con được sáng – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Từ thế kỷ 19, những người mù đã được học hành như người sáng mắt. Có những người mù đậu tiến sĩ, giáo sư như bà Killer, ông Braille (Brai-ơ) (1809-1852).

Ông Braille đã bị mù từ lúc lên ba tuổi. Lúc đầu ông được học nhạc ở học viện và đánh đàn tại nhiều nhà thờ. Ông đã trở thành giáo sư và chính ông đã sáng chế ra hệ thống chữ nổi cho người mù học. Nhờ đó, ông đã cứu giúp được bao nhiêu thế hệ mù khỏi mù chữ. Ông đáng được tôn vinh là ông tổ ân nhân của thế giới mù. Tuy nhiên, ông đã không thể cứu họ khỏi mù mắt. Họ vẫn phải sống trong tối tăm.

Nếu họ được sáng mắt, họ sẽ thấy muôn cảnh vật tuyệt diệu lạ lùng đến chừng nào. Một bà cụ ở Rạch Giá, bị mù từ 56 tuổi. Thế là tất cả mọi người mọi vật chung quanh bà đều trở thành đen tối, tất cả đối với bà như đã chết. Bà quên hết mọi mầu sắc, hình ảnh, cảnh vật. Đến năm 73 tuổi, khi được bệnh viện Điện Biên Phủ (Saint Paul) chữa khỏi, bà được thấy lại cảnh vật và người ta, bà quá sung sướng hạnh phúc, khi gặp tôi bà nói: “Đẹp quá cha ơi, đẹp như thiên đàng vậy cha ơi!”. Thực ra, bà đâu đã thấy thiên đàng đẹp thế nào? Đó chỉ là ước mơ và nay ước mơ của bà đã thành sự thực, thì đúng là thiên đàng của bà.

Tâm trạng sung sướng bà mù này giúp chúng ta thấy được anh mù Bartimê sung sướng đến chừng nào khi được Chúa Giêsu chữa anh sáng mắt và cũng cho ta thấy nỗi khổ cùng cực của tật mù. Anh Bartimê cùng cực hơn nữa, mù còn phải lần mò đi ăn xin, vì đi lại quá khó khăn, nên anh chỉ biết ngồi bên vệ đường, lắng tai nghe có ai đi qua thì giơ tay ra van xin bố thí. Hôm nay, anh ngạc nhiên, nghe thấy tiếng người ồn ào đông đảo bước đi rầm rập trước mặt anh. Họ xôn xao cười nói về Đức Giêsu mà bao nhiêu lần anh đã được nghe tin đồn về Ngài là con vua Đa vít đã thương cứu chữa bao nhiêu người tàn tật. Anh đã bao nhiêu lần khao khát được gặp Ngài. Không ngờ, đây là dịp may nhất đời anh. Thế là anh lấy hết sức kêu gào, át cả tiếng ồn ào dọa nạt. Anh kêu như thét lên: “Lạy Con Vua Đa vít, xin thương xót tôi”. Trước tiếng kêu não nùng đó, Đức Giêsu đã dừng lại gọi anh. Anh liệng áo choàng nhảy chồm lên đến với Người. Người cúi xuống hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Anh thưa: “Xin cho con được sáng”. Người nói: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Tức khắc, anh nhìn thấy được và theo Người lên đường. Sung sướng biết bao cho anh, chẳng những được sáng mắt, anh còn được sáng trong đức tin mạnh mẽ để theo Đức Giêsu và trở nên những người Kitô hữu có mặt trong cộng đồng Công giáo đầu tiên, vì thế thánh Marcô viết Tin mừng đã kể đích tên anh. Anh đã không còn bị ngồi cô độc bên vệ đường nữa. Anh đã được sống chung với mọi người, được sống trong cộng đồng chan hòa tình thương, chan hòa ánh sáng trong vũ trụ bao la đầy cảnh vật mầu sắc huy hoàng. Thật là kỳ diệu, ánh sáng đã cho anh thấy được muôn người, muôn vật sống động và hiện hữu mà Thiên Chúa dựng nên.

Trước đây, anh đã phải sống trong một vũ trụ như chưa có ánh sáng, trời đất muôn vật lù mù, tăm tối, hỗn độn, mông lung, hiu quạnh trống không như thuở khai nguyên, cho tới lúc Thiên Chúa gọi: “Hãy có ánh sáng”, trời đất muôn vật mới xuất đầu lộ diện với muôn hình muôn sắc (St. 1, 1-3).

Đức Giêsu chữa anh mù được sáng để khẳng định cho nhân thế nhận ra Người là ánh sáng đôi mắt, ánh sáng trời đất và nhất là ánh sáng phục sinh, ánh sáng sự sống vinh quang muôn thuở: “Lúc khởi đầu, nhờ Ngôi Lời mà muôn vật được tạo thành … Người là Sự Sống và Sự Sống là Sự Sáng cho nhân loại … Thế gian nhờ Người mà có” (Ga. 1, 2-4 và 10). Nhưng vì phạm tội, loài người đã chết trong tăm tối: “Mọi người đã sinh ra trong tối tăm” (Eph. 4, 18). Đến nay, nhờ Người, “Thiên Chúa đã gọi chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng huyền diệu của Ngài” (1P. 2, 9 và Col. 1, 12). “Đức Kitô chiếu sáng trên chúng ta” (Eph. 5, 14) để “trong Chúa, chúng ta là ánh sáng” (Eph. 5, 8). Chính Đức Giêsu đã làm chúng ta nên ánh sáng để “chúng ta là ánh sáng thế gian” (Mt. 5, 14), nên “chúng ta phải sống như con cái sự sáng” (Eph. 5, 8 và 1Th. 5, 5).

Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt tâm hồn con, cho con được thấy ánh sáng của Người chiếu ra từ lời Chúa, từ việc Chúa làm và từ đời sống thương yêu “thông cảm với những kẻ ngu muội và lầm lạc, yếu đuối và bệnh tật để dâng mình tế lễ đền tội cứu chuộc muôn dân” (Dt. 5, 1-6).

 

5. Mù loà và mù quáng – Lm. Ignatiô Trần Ngà

Rất nhiều người may mắn không bị mù loà, nhưng hầu như ai cũng có lúc bị mù quáng. Người mù quáng dễ dàng thấy rõ những sai lầm của người khác nhưng mù tối về những sai lỗi của mình. "Việc người thì sáng, việc mình thì quáng".

Vua Đa-vít được xem là một vị vua khôn ngoan, dũng cảm và đức độ; thế nhưng nhà vua cũng có lúc bị mù quáng nặng nề. Dù đã có nhiều thê thiếp, nhưng vua lại chiếm đoạt bà Bát-sa-bê là vợ của Uria và sau đó lại mượn tay quân thù giết chết chồng bà để chính thức cưới lấy bà nầy làm vợ. Thế là cùng một lúc vua đã phạm hai tội ác tầy đình: tội ngoại tình và tội giết người. Ấy thế mà vua vẫn ung dung như không có gì xảy ta. Sau đó, Thiên Chúa sai tiên tri Na-tan đến cảnh tỉnh nhà vua. Tiên tri nói với vua:

Trong thành kia, có một người giàu có đến cả ngàn dê cừu. Trong khi đó, bên cạnh nhà ông ta có một ông lão nghèo khó và cô độc, chỉ có một con chiên nhỏ làm bạn cho vui tuổi già. Ông lão thương con chiên đó như con gái của ông. Ông cho chiên ăn trên tay và cho ở trong nhà. Thế rồi khi người giàu có khách, ông ta không chịu bắt chiên mình làm tiệc, trái lại, cho tôi tớ qua nhà ông lão nghèo khổ bắt con chiên độc nhất của ông nầy làm thịt đãi khách.

Nghe đến đây, vua Đa-vít bừng bừng nổi giận. Vua muốn trừng trị tức khắc tên bất lương đó. Nhà vua phán: "Nó đáng chết vì tội ác nó đã phạm. Nó phải bồi thường gấp bốn thiệt hại nó đã gây ra." Bấy giờ tiên tri Na-tan mới tỏ cho vua biết tên bất lương đó chính là nhà vua và Chúa sẽ trừng phạt vua vì tội ác đã gây ra.

Vua Đavít bừng sáng mắt ra, thấy rõ tội ác của mình nên đã ăn năn thống thiết. (II Samuel 11, 1-12,12)

* * *

Tuy bị mù loà là một thua thiệt lớn, nhưng không đáng sợ bằng mù quáng, vì người mù loà chẳng gây hại cho ai, còn người mù quáng có thể gây ra vô vàn điều tai hại cho mình và cho xã hội. Mặt khác, người mù quáng không hề tự biết là mình mù quáng, vì thế sự chữa trị lại càng khó khăn hơn.

* * *

Đã mang lấy phận người, mấy ai không bị mù quáng? Nhưng nhận ra mình mù quáng và cần được cứu chữa cũng là điều rất khó khăn.

Điều kiện cần thiết nhất để được Chúa Giêsu cứu chữa là phải khao khát được sáng.

Anh mù Bartimê có lòng khao khát được sáng rất mãnh liệt. Khi anh ta nghe biết là có Chúa Giêsu đi ngang qua, anh ta liền cất tiếng kêu to: "Lạy ông Giêsu, con vua Đa-vít, xin hãy thương xót tôi". Dù người qua kẻ lại quát mắng anh im đi nhưng không gì có thể dập tắt được khao khát được sáng bừng lên mãnh liệt trong lòng, nên anh càng la to hơn: "Lạy ông Giêsu, con vua Đa-vít, xin hãy thương xót tôi!

Thế rồi, khi được biết là Chúa Giêsu cho vời mình đến, anh vui mừng đến độ vứt cả áo choàng, vứt cả bị gậy để đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: Anh muốn tôi làm gì cho anh? Anh mau mắn thưa ngay: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy."

Cầu được ước thấy, ánh sáng đã bừng lên cho anh. Anh thấy được Đức Giêsu, thấy mọi người chung quanh, thấy thế giới rực rỡ muôn màu.

Muốn được chữa lành bệnh mù quáng, chúng ta phải có lòng khao khát mãnh liệt được sáng như anh mù Bartimê. Lòng khao khát đó sẽ thúc đẩy chúng ta đến với Đức Giêsu là Ánh Sáng đích thật và Ánh Sáng của Ngài sẽ xoá tan sự mù quáng đang vây phủ lòng trí chúng ta. Khi đó, chúng ta sẽ tránh được rất nhiều điều đáng tiếc và đáng hổ thẹn trong đời mình.

 

6. Sáng đôi mắt đức tin – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở Anh Quốc. Mỗi sinh viên được phát một nón bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước nón có gắn bóng đèn nổi với một bình điện đeo ở thắt lưng.

Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên nón bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.

Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: "Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên nón". Mọi người đều làm theo. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: "Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn". Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: "Đây là tình trạng của những người mù". Tất cả sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.

*****

"Có đau mắt mới biết thương người mù". Các sinh viên trong câu chuyện trên đây đã cảm nghiệm trong giây lát nỗi khổ của người mù. Họ không chỉ khổ nơi thân xác mà còn khổ trong tâm hồn. Quả thật, người mù đã không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn ngắm người thân bạn bè, mà còn bị mặc cảm lệ thuộc kẻ khác, sống bên lề xã hội.

Hôm nay Đức Giêsu chữa người hành khất mù Báctimê. Anh mù loà, "ngồi bên vệ đường" ăn xin, nghe biết Đức Giêsu đi qua, anh thống thiết kêu van: "Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót con" (Mc.10,47). Người ta ngăn cấm anh, nhưng anh càng tin tưởng kêu to hơn: "Hỡi con vua Đavít, xin thương xót con". Người cho gọi anh, anh sung sướng, liệng áo choàng, đứng phắt dậy, đến cùng Người: "Lạy Thầy, xin cho con được sáng" (Mc.10,51). Tức thì anh ta thấy được.

Và khuôn mặt đầu tiên anh nhìn thấy chính là Đức Giêsu, Đấng đã đến để thắp sáng đời anh. Người phán: "Đức tin của anh đã chữa anh" (Mc.10,52).

Đích thực, Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt Đức tin, vì anh đã thấy Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế khi gọi Người là "con vua Đavít".

Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt tâm hồn, vì anh đã thấy Đức Giêsu là người có quyền chữa anh khỏi bệnh mù loà.

Với đôi mắt đức tin, anh đã chẳng sợ người ta cấm cản. Càng đe dọa, anh càng lớn tiếng kêu xin thống thiết hơn.

Với đôi mắt đức tin, anh đã liệng bỏ áo choàng là phương tiện để nhận quà tặng, cởi bỏ đời sống ăn xin, từ bỏ thân phận mù loà, rũ bỏ đời sống tối tăm, đến miền ánh sáng tình yêu và sự sống.

"Lạy Thầy, xin cho con được thấy". Đó phải là lời cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Vì sẽ có những lúc chúng ta không thấy, hoặc cố ý không muốn thấy. Có những lúc chúng ta thấy mặt này mà chẳng thấy mặt kia. Mù loà thể xác ai cũng biết, nhưng mù loà tâm hồn thì không dễ nhận ra. Nên chúng ta hãy xin Chúa xóa cảnh mù loà cho mình. Vì chỉ "trong ánh sáng của Chúa, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng".

***

Lạy Chúa,

Xin cho mắt tâm hồn chúng con được sáng, để chúng con thấy Chúa là tất cả, thấy anh em thật dễ mến dễ thương, và thấy mình càng nhỏ bé đi, trong bàn tay yêu thương của Chúa. Amen.

 

7. Ngọn đèn cho thân xác

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

Con mắt là đèn soi cho thân xác con. (Mt 6, 22)

Christine Hà, cô gái khiếm thị đầu tiên tham dự chương trình MasterChef đã khiến mọi người phải kinh ngạc, vì tài năng và nỗ lực hiếm có của cô và giành được giải quán quân Vua đầu bếp Mỹ lần thứ ba, vượt qua hơn 100 đầu bếp của nước Mỹ, vừa diễn ra vào tối 10/9/2012.

Trong vòng chung kết, hai thí sinh được yêu cầu nấu 3 món ăn trong vòng hai giờ. Các món của Hà được đánh giá cao về cân bằng dinh dưỡng và thực hiện hoàn hảo, mà cô miêu tả là " bản giao hưởng của những hương vị".

Khi 19 tuổi, Hà được chẩn đoán mắc một chứng bệnh về thị giác rất hiếm gặp khiến cô bị rối loạn khả năng tự miễn dịch và dần dần các dây thần kinh thị giác, và một số dây thần kinh trong tủy sống bị tê liệt. Thị lực của cô mất dần kể từ năm 1999 và hoàn toàn mất hẳn vào năm 2007.

Trước đây, Hà không biết nấu ăn và mới chỉ cách đây vài năm cô mới bắt đầu khởi động từ những món ăn đơn giản nhất. Cô mày mò tự học, dù trước đó cô chưa trải qua một trường lớp, hay được một vị đầu bếp nào đứng ra dạy bảo.

Tường thuật Tin Mừng hôm nay, kể về anh chàng Batimê cũng mù lòa, ngồi ăn xin bên vệ đường, đã phải cố gắng vượt qua những rào cản của đám đông, đe dọa, cấm đoán, để xin Chúa Giêsu cứu chữa.

Mù mắt sáng lòng

Tuy bị tách ra khỏi cộng đồng xã hội, ngồi ăn xin vất vưởng vệ đường với đôi mắt mù lòa, anh Batimê vẫn nóng bỏng niềm hy vọng được cứu chữa. Dù hẩm hiu số phận, anh vẫn chờ đợi và sẵn sàng tỉnh thức, đón nhận phúc lành. “Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêricô, anh nghe nói đó là Đức Giêsu Nazaret, anh ta liền kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con Vua Đa vít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10, 46-47)

Cũng như cô Christine Hà mù lòa, chàng Batimê được Thiên Chúa bù đắp lại bằng các giác quan còn lại phát triển hơn người bình thường. Điều khác biệt giữa chàng Batimê và cô Christine Hà, là kết quả nhận được, một bên chỉ là tiền bạc, danh vọng phù vân và bên kia kho tàng viên mãn đời đời.

Nhưng tại sao cả đám đông đang mải mê đi theo Chúa, không một ai công khai xưng tụng danh Chúa Giêsu là Con Vua Đa vít? Đó là tước hiệu của Đấng Mêsia trong dân gian, mà Chúa Giêsu, trong các chương Tin Mừng Mác Cô trước đây, đã cấm quỷ và người được hưởng phép lạ, cũng như chính các môn đệ, nói ra Người là ai. Nhưng ở đây, chàng Batimê thoải mái gọi Người ngay giữa đám đông bằng tước hiệu Mêsia, thì Người không cấm nữa. Có lẽ vì lời tuyên xưng đó phát xuất từ Niềm Tin mạnh mẽ, không phải cậy nhờ vào các phép lạ hay dư luận. Trong khi đó, các thầy tư tế, Biệt phái, luật sĩ đang ráo riết phủ nhận Người là Đấng Mêsia. Nên ai dám khẳng định điều đó, thì đương nhiên gây thù chuốc oán với họ.

Chính Đức Tin đã soi sáng cho anh Batimê nhìn thấy Đấng Mêsia, đã ban cho anh thêm sức mạnh, dũng cảm tuyên xưng thánh danh Người. Chính Đức Tin đã thúc đẩy anh công khai cầu xin Chúa, không e ngại bị gây khó dễ, bắt nạt, đàn áp, không sợ bị bịt miệng vì công bố sự thật thánh thiêng. Chính con mắt Đức Tin đã soi đường chỉ lối cho anh.

Vượt qua thách đố

Hành trình của anh Batimê đến với Chúa Giêsu, lại còn tiếp tục chịu nhiều thách đố trở ngại, tưởng chừng không thể vượt qua nổi. Đám đông xúm xít rẻ rúng, khinh rẻ, hoặc nghi ngờ, cũng như cảnh giác anh ăn xin Batimê nghèo nàn rách rưới, hôi hám, dơ bẩn, ngăn cản anh lại gần Chúa Giêsu. Dẫu vậy, anh cứ la lên, lớn tiếng, kêu xin Chúa rủ lòng thương anh. “Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: Lạy Con Vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10, 48)

Nếu anh Batimê không dốc lòng, dốc sức kêu van thống thiết, thì liệu anh có át nổi tiếng những tiếng hỗn loạn, đe nạt của đám đông, để thấu nổi đến tai Chúa chăng? Dẫu vậy, Người không bao giờ bỏ quên những người khốn cùng, bệnh hoạn, tật nguyền, như mù, què, câm điếc, phong hủi.

Nhưng nếu anh cứ do dự, yếu bóng vía, sợ hãi các thế lực đàn áp, những lời hăm dọa, quát nạt, không còn tin tưởng, trôngcậy vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa Giêsu, thì liệu anh được đoái thương chăng?

Đáp lại Ơn Gọi

Đức Giêsu đứng lại và nói:”Gọi anh ta lại đây!”Người ta gọi anh mù và bảo:”Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. (Mc 10, 49-50)

Nghe tiếng gọi, anh Batimê vội vàng đáp lại, bỏ ngay những gì đang cản trở, thoát khỏi sự níu kéo, ràng buộc vào vật chất, tiện nghi, áo choàng vướng víu, đứng phắt dậy, dứt khoát mau chóng đến với Chúa. Chứng tỏ lòng nhiệt tình, lòng thành tâm sôi sục, sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi.

Dù anh mù lòa, nghèo nàn, bộ dạng xấu xí, thảm não, nhưng lòng anh rạng ngời, luôn sẵn sàng rộng mở, nhạy bén đón nhận Ơn Gọi. Anh đã hân hoan, mừng rỡ nhận lãnh phước lành.

Hai con mắt hướng dẫn chúng ta trên con đường đi tới Nước Trời là con mắt của đức Tin và đức Mến. Lòng tin càng mạnh mẽ và lòng mến càng nồng nàn thì đường đi càng sáng sủa và chắc chắn. (DC de Ségur)

Dứt khoát đi theo Chúa

Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”Anh mù đáp: ”Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.”Người nói:”Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi. (Mc 10, 50-52)

Từ lòng Tin, niềm trông Cậy, lửa Mến đã cháy bừng trong tâm hồn anh. Batimê đã được giải thoát khỏi sự u mê, tăm tối, khỏi ách satan ma quỷ giam cầm anh trong bóng đêm dày đặc tội lỗi. Nay anh đã thấy ánh sáng nẻo ngay, chân lý, sự sống viên mãn, sẵn sàng can đảm đi theo Chúa.

“Hãy theo Thầy!” các Tông đồ đã bỏ mọi sự theo Chúa. Con có dứt khoát một phen theo Chúa không? Chúa phải gọi con mấy lần rồi? (ĐHV, 61)

Lạy Chúa, xin cho con luôn sáng lòng, để thoát khỏi u mê tội lỗi giam cần vây hãm, để con nhận ra tiếng Chúa gọi, mà đi theo Chúa mãi.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ soi sáng lòng trí con luôn nhận ra ánh sáng ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu, đang mời gọi, mong chờ con tìm đến, để kết hợp sống chặt chẽ với Người. Amen.

 

8. Trở nên Bartimê

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

Trở lại Assisi, một tối kia bè bạn đặt chàng Phanxicô đứng đầu để chi tiêu thỏa thích. Chàng cho dọn một bữa tiệc thịnh soạn như chàng vẫn thường làm trong quá khứ. Ăn uống no nê xong, họ kéo nhau ra khỏi nhà. Đám bạn đi phía trước, vừa đi vừa ca hát qua các ngả đường thành phố. Tay cầm cây trượng thủ lãnh, chàng lùi lại sau họ một ít, không ca hát nhưng mải miết suy tư. Bỗng nhiên chàng được Chúa viếng thăm. Chúa đổ đầy tâm hồn chàng một sự êm dịu lớn lao đến mức chàng không nói năng, hay cử động gì được. Chàng không thể cảm nghiệm và nghe thấy gì khác ngoài sự êm dịu kỳ lạ này, nó khiến chàng thoát ra ngoài mọi cảm giác. Và như Phanxicô sau này cho biết, giả sử lúc đó người ta có định xẻ thịt mình, thì chàng cũng không thể nào cử động được.

Khi các bạn ngoảnh lại và thấy chàng cách họ khá xa, họ liền quay trở lại, ngạc nhiên vì thấy chàng đã biến đổi thành một con người khác. Họ hỏi chàng: "Anh nghĩ ngợi gì mà không đi theo chúng tôi? Có phải đang tính đến chuyện cưới vợ không?" Chàng mạnh dạn trả lời: "Các bạn nói đúng đấy! Tôi đang nghĩ đến việc cưới một người vợ quí phái, giàu sang và kiều diễm hơn bất cứ người nào các bạn đã từng thấy." Họ cười nhạo chàng. Thực ra chàng nói câu ấy không phải tự ý mình, nhưng do được Thiên Chúa linh ứng, vì vị hôn thê là đời sống tu trì chân thực, mà sau này chàng sẽ noi theo, một vị hôn thê quí phái, giàu sang và kiều diễm hơn nhờ có đức khó nghèo.

Kể từ giờ phút ấy, chàng bắt đầu coi thường bản thân và khinh chê những gì trước đây chàng ưa thích. Vì chưa hoàn toàn tách khỏi các sự phù vân của thế gian, nên sự biến chuyển vẫn chưa trọn vẹn. Tuy nhiên chàng cũng dần dần rút lui khỏi cảnh huyên náo và bon chen của trần thế và chăm chú tìm kiếm Chúa Giêsu Kitô trong con người nội tâm. Để che giấu khỏi tầm mắt những kẻ thích nhạo cười viên ngọc quí, mà chàng đem bán mọi tài sản để mua lấy, chàng thường xuyên và gần như mỗi ngày, lánh mình cầu nguyện ở nơi kín đáo. Chàng được thúc đẩy làm như vậy, vì chính niềm êm dịu đã được nếm trước đó. Nay niềm êm dịu ấy lại viếng thăm chàng thường xuyên hơn nữa, cuốn hút chàng vào cầu nguyện ngay giữa quảng trường hay giữa những nơi công cộng khác.

Mặc dầu từ lâu chàng đã là ân nhân của người nghèo, nhưng kể từ đấy, chàng quyết tâm không bao giờ từ chối bất kỳ người nghèo nào đến xin bố thí nhân danh Chúa, trái lại còn sẵn lòng cho rộng rãi hơn thường lệ. Như thế, mỗi lần có kẻ nghèo đến xin ngoài đường, chàng đều lấy tiền cho. Nếu không sẵn tiền, chàng lấy mũ hay giây thắt lưng của mình cho người ấy, để chắc chắn là người ấy không ra về tay không. Nếu không có cả những thứ ấy, chàng không ngần ngại đến một chỗ khuất, cởi áo ra, đem trao cho người nghèo và năn nỉ người ấy nhận lấy vì lòng mến Chúa. Chàng cũng mua cả những vật dụng để trang hoàng nhà thờ, và kín đáo gởi các thứ đó đến các linh mục nghèo túng. (Truyện thánh Phanxicô do ba người bạn thuật, Ofmvn.org)

Chàng công tử hào hoa Phanxicô thành Assisiô bất ngờ nghe tiếng Chúa gọi. Chàng cảm thấy ngây ngất, hạnh phúc vô cùng. Con tim mù lòa của chàng được hào quang Nước Trời chiếu dọi vào, trở nên ấm áp lạ lùng. Bỏ mặc những tiếng cười chê của bạn bè, thị phi của thiên hạ, chàng Phanxicô can đảm canh tân cuộc đời, y như anh chàng mù Bartimê được Chúa cho sáng mắt.

Tin Mừng Chúa nhật 30 hôm nay, Thánh sử Máccô thuật lại hành trình đức tin của chàng hành khất Bartimê mù lòa. Công khai hóa niềm tin, tích cực khấn xin chữa lành, anh tìm đến Đức Giêsu, vượt qua gian nan, thử thách, dám từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa.

Tin Người

Giữa đám đông chen chúc, hỗn độn, ô hợp, xô bồ, anh Bartimê mù lòa đang ngồi ăn xin bên vệ đường, được biết Đức Giêsu đi ngang qua, liền cất lên tiếng cầu khẩn: "Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương con." (Mc 10, 46-47) Tiếng kêu tha thiết, mãnh liệt, tràn đầy tin cậy, tưởng chừng lạc lõng, bị lấn át đi, chẳng ai có thể nghe được. Không bỏ cuộc, anh lại lớn tiếng lập lại ước nguyện: "Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi."

Hình như lời xưng tụng “Con Vua Đavít” không được đông đảo quần chúng đồng tình ủng hộ? Bởi vì thiên hạ đang mong đợi một Đấng Messia, cứu nhân độ thế, giải phóng Israel khỏi ách nô lệ Roma, phải uy nghi, hùng dũng, tiền hô hậu ủng, chứ không phải ông Giêsu Nazareth bình dân bụi đời. Mặc cho quần chúng sáng mắt nhưng tối lòng, đang vây quanh Đức Giêsu, dọa nạt, cưỡng bức Bartimê phải im lặng, anh vẫn không chịu khuất phục, càng khẳng định, xưng tụng, gào to hơn: “Con vua Đavít!” càng van xin lòng thương xót của Đấng Cứu Thế. Như ánh sáng chói lọi giữa đêm u ám kiếp mù lòa, đức tin anh Bartimê bỗng rạng ngời bừng sáng, không cần giấu diếm, che đậy, không đắn đo, không khôn ngoan theo thế gian, bất chấp những đòn trả thù dã man của những kẻ quá khích kình chống Đức Giêsu, đang lởn vởn vây quanh gầm ghè hăm dọa. Bartimê vẫn anh dũng tuyên xưng đức tin.

Tìm Người

Mặc dầu nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: "Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi." Giữa tiếng ồn ào, giữa đám đông huyên náo, giữa xã hội nhiễu nhương, đa dạng, Đức Giêsu vẫn luôn lắng nghe, luôn thấu hiểu, luôn đáp lại bất cứ ai khẩn cầu Người, cần đến Người cứu chữa, giúp đỡ, che chở. Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: "Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh." Không bao giờ Người phụ lòng bất cứ một ai chân thành tìm đến Người cứu giúp. "Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giêsu."

Vượt qua những rào cản hữu hình, vượt qua nỗi sợ hãi đến với Đức Giêsu, anh Bartimê còn can đảm vất bỏ đi tấm áo choàng bất ly thân của anh, vốn gắn bó che thân và mưu sinh. Cương quyết bỏ đi tất tần tật những gì vương vấn, vướng víu, trở ngại để đến với Chúa. Đức tin trưởng thành của anh dẫn đến hành động xả kỷ rất quyết liệt, rất dũng cảm, không chút e dè, chần chừ, so đo, tính toán: “đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giêsu," dứt khoát bỏ mình, dấn thân theo Chúa. Hành trình đức tin khi này đưa Bartimê đến tầm cao mới, thoát khỏi sự lệ thuộc vật chất tầm thường. Thánh Phanxicô cũng đã noi gương anh Bartimê, cho đi áo quần, giày mũ, của cải, để hân hoan, thảnh thơi đi theo Chúa.

Theo Người

Chúa Giêsu đáp: "Được, đức tin của anh đã chữa anh." Tức thì anh ta thấy được và đi theo. Dù hoàn toàn hiểu nguyện vọng của anh, Đức Giêsu vẫn tôn trọng tự do của anh, muốn chính anh bộc lộ ra công khai. Rồi chính quyền năng Người đã cứu chữa anh sáng mắt, nhưng Người nhấn mạnh đó là thành quả của đức tin đáng được tưởng thưởng của anh Bartimê. Một sự khiêm tốn cả thể và một tầm quan trọng vô cùng của đức tin.

Hành trình đức tin của Bartimê bắt đầu từ lặn lội đi tìm Chúa, vượt qua gian khó, thử thách, từ bỏ mình, khám phá ra Ánh Sáng, được chiếu sáng cả thân xác lẫn tâm hồn, được nhận biết chân dung nhân ái của Đức Giêsu, tiếp tục dìu dắt anh đồng hành cùng Người, hướng về Giêrusalem theo Thánh Ý Đức Chúa Cha.

“Quyết định theo Chúa của con không phải chỉ là một chữ ký, không phải là một lời tuyên thệ thôi. Nhưng là một sự hiến dâng liên lỉ thực hiện trong cả cuộc sống.” (Đường Hy Vọng, số 69)

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con trở nên chàng Bartimê mới, biết tin yêu lắng nghe, từ bỏ của cải, bươn chải tìm đến Chúa, hội ngộ với Chúa, được chiếu sáng tâm hồn và được đồng hành với Chúa trên đường hy vọng.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã từ bỏ mọi sự thế gian, dâng hiến trọn đời theo Chúa, xin cầu bầu cứu giúp chúng con thoát khỏi đêm đen đầy ma lực cám dỗ, để tỉnh thức tìm đến Ánh Sáng Chúa Kitô. Amen.

 

9. Thiên Chúa thương cứu con người

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Anh mù ăn xin, con ông Timê, hôm nay được chữa lành. Khi được Đức Giêsu gọi, anh ta vui mừng đã vứt tung cả áo choàng để có thể mau đến với Đức Giêsu. Nhờ đức tin soi dẫn, anh ta đã được sáng.

I. Thiên Chúa- Đấng thương xót con người

Vào thế kỷ VI trước công nguyên, khi dân Do Thái đang lưu đày, Yêrêmia đã nói với tư cách ngôn sứ: Thiên Chúa sẽ đem dân Israel lưu đày trở về. Thiên Chúa sẽ cứu dân Người, số sót của Israel; ngay cả những người què và đui mù, phụ nữ với trẻ thơ, từng đoàn từng lũ kéo nhau về. Thiên Chúa sẽ an ủi dân Người khi Người đem họ về. Thiên Chúa sẽ dẫn họ tới suối nước, đi trên đường bằng phẳng kẻo họ bị vấp ngã, vì Thiên Chúa là cha của Israel.

Vì tội lỗi của dân, Thiên Chúa để dân Do Thái phải lưu đầy nơi đất khách quê người; và vì lòng nhân từ, Thiên Chúa đưa dân Israel trở về. Đây là những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho dân Do Thái trước mắt mọi dân tộc. Khi một dân bị lưu đầy giữa một dân tộc khác, họ sẽ bị kỳ thị, khinh bỉ, hà hiếp, và cảm thấy nhục nhã. Dân Do Thái đã một thời sống nơi đất khách quê người hơn bốn trăm năm, từ thời ông Giacóp và mãi đến thời Thiên Chúa dùng Môsê giải phóng dân Chúa khỏi Aicập và đưa về Đất Hứa. Lần này khi bị lưu đày ở Babylon, Thiên Chúa đã dùng vua người ngoại Kyrô đem dân Ngài trở về quê hương xứ sở. Được trở về quê hương, cũng tương tự như được giải phóng khỏi ách nô lệ, dân Chúa vui mừng dường bao!

Thiên Chúa là Đấng thương xót dân Ngài. Ngài rung động trước nỗi khổ của dân, và Ngài đáp cứu họ. Thiên Chúa tỏ cho dân biết Ngài là Thiên Chúa giầu lòng thương xót, quan tâm đến dân, muốn giải phóng dân thoát khỏi mọi nỗi khổ đau. Thiên Chúa rất gần con người, Ngài luôn ở bên con người để có thể nghe được tiếng họ kêu xin. Thiên Chúa là người kề cận, là người bạn, người anh, người cha và người mẹ đối với con người.

II. Gọi anh ta lại đây

Đức Giêsu trong cuộc đời đi rao giảng, Ngài cũng rung động trước nỗi khổ của con người. Với người nghèo đói, Ngài cho họ cơm bánh; với những người bệnh tật như người mù, người bại liệt, người phong cùi, người điếc lác, Ngài chữa lành họ. Ngài đã trải qua kiếp nghèo nên Ngài dễ thông cảm với người nghèo; Ngài đã khổ nên Ngài dễ thông cảm với những ai đau khổ; Ngài được sinh ra trong hoàn cảnh cùng khổ nhất, nên có thể thông cảm với tất cả mọi người.

Người mù con ông Timê nghe biết Đức Giêsu đi ngang qua, anh ta kêu lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Người ta quát mắng bảo anh im đi, nhưng anh ta lại càng la to hơn: “Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Đây là tiếng kêu của người đau khổ, người cùng khốn, không biết nại vào điều gì để xin người khác ban ơn cho mình, chỉ còn biết nại vào lòng thương xót của người khác. Anh ta không có lý do gì để xin điều mình muốn xin, chỉ nhờ hoàn toàn vào lòng thương của người khác. Đức Giêsu là người cảm thương anh hơn cả; người khác quát mắng đòi anh im lặng nhưng Đức Giêsu thì khác. Người khác có thể không tin, nên đòi anh im lặng; còn anh, anh hy vọng, anh tin, nên anh càng la to hơn. Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi. Đức Giêsu dừng lại. Ngài đã nghe thấy tiếng kêu cứu, kêu xin Ngài cứu. Ngài không thể bước đi vì tiếng kêu xin này! “Gọi anh ta tới đây”. Anh ta mừng, nhẩy lên, vứt cả áo choàng. Hy vọng tràn trề: Ngài đã cho gọi anh, Ngài đã nghe tiếng anh, đã quan tâm tới anh. “Anh muốn ta làm gì cho anh? Lạy thầy, xin cho tôi được sáng”. Một câu quá ngắn, nhưng lại quá khó khăn đối với con người! “Lòng tin của anh đã cứu anh”.

Đức Giêsu là đại diện Thiên Chúa đối với con người. Ngài sống giữa con người như những người nghèo hèn nhất, cùng khốn nhất; Ngài có thể nghe tiếng kêu cứu của con người. Ngày xưa, Thiên Chúa đã nghe tiếng dân Israel kêu cứu khi phải sống lầm than ở Aicập, Ngài đã sai Môsê đi cứu họ; ngày nay, Thiên Chúa cũng luôn nghe tiếng kêu cứu của con người. Thiên Chúa cũng sai bao người đại diện Ngài thương cứu con người hôm nay. Mỗi người đều được Thiên Chúa mời gọi trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho tha nhân.

III. Đức Giêsu- Vị thượng tế cảm thông nỗi khổ đau của con người

Một người không thể là thượng tế theo ý mình muốn, nhưng là một ân huệ được Thiên Chúa trao tặng. Đó là một ơn gọi. Vị thượng tế cũng là một người như bao người khác, cũng yếu đuối và lỗi lầm, nên phải dâng lễ tạ tội cho dân và cho chính mình. Vị thượng tế là người thông cảm với người khác, vì chính ngài cũng cảm thấy mình mong manh mỏng dòn như người khác vậy. Vị thượng tế được chọn giữa bao người, để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người.

Tác giả thư Do Thái nhận ra Đức Giêsu Kitô là vị thượng tế; vị thượng tế này không phạm tội cho dù Ngài chia sẻ hoàn toàn thân phận con người. Vị thượng tế này rất gần con người cho dù Ngài không phạm tội, vì Ngài cũng chia sẻ tất cả những gì là con người. Ngài không là tội nhân vì phạm tội không thuộc về bản chất con người. Thiên Chúa không tạo dựng con người để con người phạm tội, nhưng tạo dựng con người để con người nên giống Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa.

Đức Giêsu Kitô là biểu lộ tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu thương cảm con người, tức là, Thiên Chúa thương cảm con người. Đức Giêsu là Thiên Chúa ở với con người: Thiên Chúa hiện diện với con người trong mọi nỗi gian khổ và thăng trầm của họ trong cuộc sống, Ngài đói với người đói, khát với người khát; Ngài đau với người đau, khổ với người khổ. Ngài muốn con người nhận ra rằng: Thiên Chúa yêu con người, và Thiên Chúa muốn con người ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình thương. Ai sống yêu thương là con cái Thiên Chúa. Ai yêu thương anh em là yêu thương Thiên Chúa. Thiên Chúa thương cứu con người nhờ Đức Giêsu Kitô.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Với bạn, từ ngữ nào diễn tả Thiên Chúa cách tuyệt nhất?

2. Bạn thích Đức Giêsu ở điểm nào nhất?

3. Bạn ao ước Thiên Chúa làm gì cho bạn?

 

10. Chúa cho người mù được thấy

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện anh mù Bartimê kêu xin Ðức Giêsu "Lạy Thầy, xin cho con được thấy". Và Ðức Giêsu đã cứu chữa anh. Chúng ta cũng có thể dùng lời của Bartimê để cầu xin với Chúa, bởi vì chúng ta cũng mù loà về rất nhiều điều.

II. Gợi ý sám hối

- Chúng ta mù lòa không thấy những bằng chứng của tình thương Chúa rất nhiều chung quanh chúng ta và trong cuộc đời chúng ta.

- Chúng ta mù lòa không thấy những cảnh khổ của anh chị em chúng ta.

- Chúng ta mù lòa không thấy lỗi lầm khuyết điểm của chúng ta.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Gr 31,7-9)

Ngôn sứ Giêrêmia nói tiên tri về thời giải phóng. Khi đó Thiên Chúa sẽ đưa dân từ chốn lưu đày trở về quê hương; tất cả những người đau khổ, mà đại biểu là những người mù, què, tàn tật sẽ được cứu chữa.

2. Ðáp ca (Tv 125)

Bài ca mừng cuộc giải phóng khỏi kiếp lưu đày.

3. Tin Mừng (Mc 10,46-52)

Liền sau chuyện Giacôbê và Gioan xin địa vị ưu tiên trong "nước" Ðức Giêsu sắp thành lập, Mc viết tiếp chuyện anh Bartimê như để "sửa lưng" các môn đệ. Bartimê là tấm gương cho tất cả những ai muốn "thấy" Ðức Giêsu thực sự là ai và thực lòng muốn "đi theo" Ngài.

- Mặc dù mù, nhưng anh tha thiết "xin cho tôi được thấy", và cuối cùng anh đã thấy. Khi thấy rồi, anh còn "đi theo" Ðức Giêsu lên Giêrusalem (ở đó Ngài sẽ chịu nạn chịu chết và sống lại).

- Trước đó, khi được Ðức Giêsu gọi, anh đã từ bỏ ("liệng áo choàng"), thay đổi nếp sống (từ "ngồi ở vệ đường" đến "đứng dậy"), quy hướng về Ðức Giêsu ("nhảy đến với Ðức Giêsu").

4. Bài đọc II (Dt 5,1-6) (Chủ đề phụ)

Tác giả thư Do thái tiếp tục suy tư về vai trò của Vị Thượng Tế người phàm: (1) Vị đó được chọn từ giữa loài người, (2) để đại diện cho loài người trong các tương quan với Thiên Chúa. (3) Vì cũng mang thân phận loài người tội lỗi, nên chẳng những vị ấy dâng lễ đền tội cho dân, mà còn phải dâng lễ đền tội cho chính mình.

IV. Gợi ý giảng

1. Sáng đôi mắt đức tin (Mc 10,46-53)

Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở Anh Quốc. Mỗi sinh viên được phát một nón bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước nón có gắn bóng đèn nổi với một bình điện đeo ở thắt lưng.

Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên nón bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.

Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: "Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên nón". Mọi người đều làm theo. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: "Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn". Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: "Ðây là tình trạng của những người mù". Tất cả sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.

*****

"Có đau mắt mới biết thương người mù". Các sinh viên trong câu chuyện trên đây đã cảm nghiệm trong giây lát nỗi khổ của người mù. Họ không chỉ khổ nơi thân xác mà còn khổ trong tâm hồn. Quả thật, người mù đã không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn ngắm người thân bạn bè, mà còn bị mặc cảm lệ thuộc kẻ khác, sống bên lề xã hội.

Hôm nay Ðức Giêsu chữa người hành khất mù Báctimê. Anh mù loà, "ngồi bên vệ đường" ăn xin, nghe biết Ðức Giêsu đi qua, anh thống thiết kêu van: "Hỡi ông Giêsu, con vua Ðavít, xin thương xót con" (Mc.10,47). Người ta ngăn cấm anh, nhưng anh càng tin tưởng kêu to hơn: "Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót con". Người cho gọi anh, anh sung sướng, liệng áo choàng, đứng phắt dậy, đến cùng Người: "Lạy Thầy, xin cho con được sáng" (Mc.10,51). Tức thì anh ta thấy được.

Và khuôn mặt đầu tiên anh nhìn thấy chính là Ðức Giêsu, Ðấng đã đến để thắp sáng đời anh. Người phán: "Ðức tin của anh đã chữa anh" (Mc.10,52).

Ðích thực, Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt Ðức tin, vì anh đã thấy Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Thế khi gọi Người là "con vua Ðavít".

Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt tâm hồn, vì anh đã thấy Ðức Giêsu là người có quyền chữa anh khỏi bệnh mù loà.

Với đôi mắt đức tin, anh đã chẳng sợ người ta cấm cản. Càng đe dọa, anh càng lớn tiếng kêu xin thống thiết hơn.

Với đôi mắt đức tin, anh đã liệng bỏ áo choàng là phương tiện để nhận quà tặng, cởi bỏ đời sống ăn xin, từ bỏ thân phận mù loà, rũ bỏ đời sống tối tăm, đến miền ánh sáng tình yêu và sự sống.

"Lạy Thầy, xin cho con được thấy". Ðó phải là lời cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Vì sẽ có những lúc chúng ta không thấy, hoặc cố ý không muốn thấy. Có những lúc chúng ta thấy mặt này mà chẳng thấy mặt kia. Mù loà thể xác ai cũng biết, nhưng mù loà tâm hồn thì không dễ nhận ra. Nên chúng ta hãy xin Chúa xóa cảnh mù loà cho mình. Vì chỉ "trong ánh sáng của Chúa, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng".

***

Lạy Chúa,

Xin cho mắt tâm hồn chúng con được sáng, để chúng con thấy Chúa là tất cả, thấy anh em thật dễ mến dễ thương, và thấy mình càng nhỏ bé đi, trong bàn tay yêu thương của Chúa. Amen.

(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

2. Thị giác và thị lực

Cần phải phân biệt thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy: nhiều hay ít, xa hay gần, rõ hay mờ v.v. Người cận thị chỉ thấy được rất gần; người viễn thị thì thấy xa hơn. Thí dụ này giúp ta hiểu rằng chỉ có thị giác thôi thì chưa đủ, mà còn phải có thị lực tốt.

Hiểu rộng hơn một chút, thị lực không phải chỉ là mức độ thấy của đôi mắt, mà còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác.

Ðức Giêsu là người có thị lực rất tốt: Ngài thấy Natanael đang ngồi dưới gốc cây vả trước khi ông tìm đến với Ngài; Ngài thấy tấm lòng của một bà goá dâng hai xu trong thùng tiền đền thờ; Ngài thấy cõi lòng tan nát của người phụ nữ ngoại tình bị lôi đến sân đền thờ để chịu xét xử v.v.

Anh chàng Bartimê trong bài Tin Mừng hôm nay tuy mù nhưng cũng có thị lực tốt vì anh đã thấy được Ðức Giêsu là Ðấng Messia "Con Vua Ðavít".

Không phải chúng ta có đôi mắt tốt thì đương nhiên chúng ta có thị lực tốt đâu. Vậy chúng ta hãy xin với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy xin cho con được thấy".

3. Ðứng trước một người tàn tật

Ðoạn Tin Mừng của Thánh Marcô kể chuyện Chúa Giêsu cứu chữa một người mù có thể gợi lên vài suy nghĩ:

1. Ở đời chúng ta thấy có nhiều người tàn tật: có người thì mù, có người thì què, có người thì câm, có người thì rối loạn thần kinh... Trong số họ, có những kẻ bị tàn tật vì do một tai nạn, nhưng cũng có rất nhiều người bị tàn tật như thế ngay từ lúc mới sinh.

Ðứng trước những người tàn tật ấy, người ta có thể có nhiều thái độ khác nhau: trẻ con thì vô tâm đến tàn nhẫn và chọc ghẹo những người đó "1,2,3 thằng cha bán kẹo què giò, còn một giò đi kéo xe lôi"; những kẻ có lòng hơn thì không nở chọc ghẹo nhưng ngậm ngùi tội nghiệp thông cảm; người thân của kẻ tàn tật thì đau khổ xót thương: năm 1962, tại thành phố Liège nước Bỉ có một bà mẹ sinh ra một đứa con hình dáng không ra con người mà là giống như một con vật. Bà đau đớn quá và giết chết đứa con ấy đi. Người ta đem bà ra toà vì tội giết con. Nhưng toà án tha bổng vì thông cảm với nỗi đau khổ của bà và nỗi đau khổ của đứa con ấy nếu nó sống và phải gánh chịu.

Nhưng ngoài những thái độ chọc ghẹo, tội nghiệp và thương xót đó, người tín hữu chúng ta còn có thể có suy nghĩ nào hơn nữa không? Thưa có, đó là suy nghĩ về cuộc đời và những bất công của cuộc đời. Cuộc đời này quả thực có nhiều bất công: có người sinh ra thì mạnh khoẻ xinh đẹp, có người sinh ra thì tàn tật xấu xí. Có kẻ sinh ra đã nằm sẵn trong một gia đình giàu có, địa vị; còn có kẻ sinh ra nhằm một gia đình cơ cực túng thiếu. Một người vừa mới sinh ra đã mạnh khoẻ, thông minh và thuộc một gia đình giàu có thì hầu như sẽ rất dễ thành công trong đời; còn một người sinh ra mà tàn tật, ngu đần lại nghèo khổ nữa thì rất khó mà ngóc đầu lên được trong xã hội. Thử hỏi những kẻ xấu số đó bản thân của họ có làm gì nên tội mà phải gánh chịu những thiệt thòi như vậy? Họ không có tội nhưng họ phải chịu thiệt thòi, đó là một sự bất công.

Mà bất công thì đòi hỏi phải sửa lại cho công bằng. Nhưng có những trường hợp không thể sửa lại cho công bằng được. Chẳng hạn trường hợp cái quái thai do bà mẹ người Bỉ kia sinh ra, người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Bà mẹ ấy đã giết nó chết đi, như thế có phải là công bằng không? chắc chắn là không. Còn nếu không giết chết nó thì phải nuôi sống nó, nuôi thật chu đáo, đầy đủ, cưng chiều nó đủ thứ, nhưng như thế có phải là công bằng chưa? Cũng chưa vì chăm sóc chiều chuộng bao nhiêu đi nữa cũng chỉ là xoa dịu phần nào những đau khổ của nó mà thôi, chứ không thể nào bù đắp được những thiệt thòi cho nó bằng một người bình thường không tàn tật. Bất công cũng vẫn còn là bất công thôi.

Nhưng chính những cái bất công ở đời này và sự bất lực không tạo được sự công bằng ở đời này đã giúp cho chúng ta tin rằng phải có một thế giới công bằng ở đời sau. Bởi vì nếu tất cả đều kết thúc ở đời này thì thật là chua xót quá đối với những kẻ xấu số tàn tật, thà họ không được sinh ra còn hơn. Thiên Chúa, Ðấng đã tạo dựng nên họ không thể nào tàn nhẫn quá đến nỗi tạo ra họ chỉ là để cho họ chịu khổ đau. Vì thế mà chắc chắn phải có một cõi đời sau, khi đó mọi bất công sẽ không còn, những thiệt thòi sẽ được bù đắp xứng đáng, và công bình sẽ được thực hiện trọn vẹn.

Ðó là ý nghĩa của những lời cầu nguyện đầy tin tưởng mà những kẻ xấu số đã kêu lên trong thánh vịnh 125: "Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận cho con, như những dòng suối ở miền Nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan". Mà cũng là ý nghĩa lời hứa hẹn ngầm của Chúa Giêsu khi ra tay cứu chữa anh Bartimê khỏi bị mù trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là điều mà tiên tri Giêrêmia tiên báo trong bài thánh thư hôm nay "Ta sẽ lấy lòng từ bi mà dân dẫn dắt những kẻ đui mù què quặt..."

Tóm lại, những cảnh bất công ở đời vừa làm cho lòng ta thương cảm, mà cũng vừa giúp chúng ta tin chắc rằng phải có một cõi đời sau, công bằng hơn, hoàn hảo hơn và hạnh phúc hơn. Ở đời này có một số bất công mà con người không thể nào bù đắp cho công bằng được, như tàn tật chẳng hạn.

Nhưng chính các bất công không bù đắp được mấy khiến loài người mơ tối một cõi đời khác sẽ không còn bất công.

Và qua phép lạ cứu chữa một người mù, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền năng TC có thể tạo ra một cõi đời như thế.

Như vậy phép lạ này là một bằng chứng về cõi đời sau. Ðó là niềm tin của người Công giáo chúng ta.

4. Tâm sự của một người mù

Helen Keller bị mù và điếc từ lúc mới 19 tháng tuổi. Cô tâm sự như sau:

Một hôm, một người bạn của tôi vừa đi dạo trong rừng trở về. Tôi hỏi xem cô ấy đã thấy những gì. Cô bạn đáp: "Chẳng có gì đặc biệt cả".

Tôi rất ngạc nhiên và tự nhủ "Không thể nào như thế được". Bản thân tôi đây, vừa mù vừa điếc, thế mà chỉ với đôi tay sờ soạng, tôi vẫn cảm nhận được hàng trăm điều thích thú quanh tôi. Tôi cảm thấy được hình dáng dễ thương và sự mềm mại của chiếc lá. Chỉ cần đặt bàn tay lên cành cây nhỏ đang rung rinh là tôi cảm nhận được tiếng hót líu lo của con chim nhỏ đang đậu trên đó.

Bất hạnh lớn nhất không phải là bị mù, mà là có mắt nhưng không nhìn thấy.

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, người mù ăn xin đã cảm nghiệm tất cả mỗi khốn cùng của mình, nên khi gặp Ðức Giêsu, anh đã van nài Chúa thương xót. Chúng ta hãy van nài xin Chúa thương xót chúng ta:

1. Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn trở thành ánh sáng đem lại hy vọng / cho những người đang sống trong bóng tối của lầm lạc và thất vọng.

2. Xin cho các nhà cầm quyền trong xã hội / biết lo lắng cho những người mù lòa bệnh tật / để giúp họ được chữa lành / hoặc được sống trong niềm vui và hạnh phúc.

3. Xin cho những người bị đui mù cả phần xác lẫn phần hồn / được có dịp gặp gỡ Ðức Giêsu / và được Ðức Giêsu thương chữa lành.

4. Xin cho anh chị em giáo hữu trong xứ đạo chúng ta luôn ý thức rằng / bệnh đui mù phần hồn còn tai hại hơn đui mù phần xác / để luôn nài xin Chúa gìn giữ mình thoát khỏi căn bệnh tai hại ấy.

Chủ tế: Lạy Chúa, đức tin của chúng con còn yếu kém và nhiều khi còn mù quáng, chúng con nài xin Chúa thương ban thêm đức tin, để chúng con trở nên đèn sáng dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Kitô...

VI. Trong Thánh lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa giúp chúng ta không còn mù lòa nữa, nhưng thấy được thánh ý Chúa Cha trong cuộc đời chúng ta.

VII. Giải tán

Sau khi được Ðức Giêsu chữa khỏi mù, anh Bartimê đã nhìn thấy được và đi theo Ðức Giêsu trên con đường Ngài đi. Chúng ta cũng được Chúa cho thấy con đường mà chúng ta phải đi để theo Chúa. Chúng ta hãy hăng hái tiến bước trên con đường ấy.

 

11. "Xin cho con được thấy"

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một anh mù đi thăm một người bạn. Trời tối khuya. Anh sợ người khác đụng vào mình nên anh đã có một sáng kiến. Anh đội đèn lên đầu để người khác trông thấy anh mà tránh. Anh hân hoan bước đi. Thình lình anh va vào một người làm cái đèn rớt xuống bể nát. Anh tức giận và chửi: "Mày mù hay sao mà không thấy đèn của tao". Người kia trả lời rằng: "Đèn mày còn sáng đâu mà tao trông thấy".

Cái đáng thương của anh mù là không biết đèn mình đã tắt. Anh chong đèn không phải để anh bước đi cho rõ mà quan yếu là nhờ ánh sáng để người khác đừng đụng phải anh. Nhưng anh đâu ngờ đèn anh đã tắt tự bao giờ! Vâng, mù đôi mắt là một bất hạnh. Bất hạnh vì đi lại khó khăn. Bất hạnh vì không còn nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của những người thân yêu, của cuộc sống quanh ta. Song song với cái đáng thương của sự mù loà thể xác còn có cái đáng thương của mù loà về luân lý, về chân thiện mỹ, đó là sự mù loà của tâm hồn. Cái đáng thương của mù loà tâm hồn là họ mù nhưng không chấp nhận mình mù. Họ vẫn bước đi trong vùng tối của tội lỗi, của đam mê nhưng không nhận ra sai trái của mình. Họ có cái nhìn lệch lạc về luân lý, về chân thiện mỹ nhưng đáng thương thay, họ vẫn cố chấp sống theo quan điểm của mình. Chính sự ngộ nhận đó đã giết chết cuộc đời họ và chắc chắn cũng gây nên đau khổ, có khi tổn thất cho những người chung quanh vì sự u tối và dốt nát của mình.

Bài tin mừng hôm nay được thánh Marcô ghi lại, có lẽ không nhằm nói về sự bất hạnh của người mù thể xác. Vì thời Chúa Giêsu cũng như thời nay người mù loà thí rất nhiều. Nhưng Chúa Giêsu chỉ chữa lành một vài trường hợp, trong đó có trường hợp chữa lành người mù thành Giêricô tên là Bactimê. Hơn nữa, những phép lạ của Chúa Giêsu thường liên hệ đến việc chữa lành tâm hồn. Anh mù Bactimê chỉ được chữa lành khi anh cố đến với Chúa. Anh quyết tâm chỗi dậy, dứt bỏ chốn xưa đã giam hãm cuộc đời anh. Anh cậy dựa vào Chúa để mong muốn thay đổi cuộc đời.

Thực vậy, anh mù Bactimê được Chúa chữa lành nhờ thiện chí của anh. Dù rằng người đời cản ngăn anh. Dù rằng thế gian muốn anh mãi mãi là người mù ăn xin bên vệ đường thành Giêricô. Anh đã mạnh dạn kêu cầu Chúa: "Lạy ông Giêsu, con Vua Đavít xin dủ lòng thương". Với thiện chí của mình anh đã dũ bỏ áo choàng ăn xin, dũ bỏ góc đường Giêricô mà bấy lâu nay anh vẫn ngồi đó để chờ bố thí, và rồi với đức tin mạnh mẽ anh đã được Chúa chữa lành, để từ nay anh trở thành một con người được tôn trọng giữa cộng đoàn, và hơn thế nữa anh còn có thể trở thành môn đệ của Chúa Giêsu.

Ngày nay, loại mù về tâm hồn rất nhiều. Nguyên nhân có thể là do hoàn cảnh, do môi trường. Có thể do thiếu hiểu biết. Có thể là do đam mê, lười biếng. Có thể là vì thiếu trách nhiệm nên cố tình mù loà để hưởng bổng lộc của thế gian bố thí.

Có những bạn trẻ đã chạy theo xu hướng sai lầm của thời đại, quá tự do về giới tình, quan hệ nam nữ bừa bãi dẫn đến hủy hoại tâm hồn và thể xác. Có những cô gái trẻ đã phá đi cái thai là hậu quả của những giây phút bồng bột, lầm lỡ vì họ đã thấy trong gia đình, trong xóm làng đã có nhiều người làm thế nên mình làm theo.

Có những người trở thành những con nghiện của sì kẻ, ma túy do thiếu hiểu biết nên sa vào con đường tội lỗi và tự huỷ diệt thân xác mình mà không hay.

Có những người vì đam mê rượu chè, ham thích đỏ đen mà hủy hoại thanh danh không chỉ của mình, đôi khi còn ảnh hưởng xấu đến gia đình. Có những người vì rượu chè, cờ bạc đã đẩy gia đình đến khánh tận bần cùng mà họ vẫn trơ trẽn sống theo đam mê của mình.

Có những người vì một chút bổng lộc thế gian đã bán mình làm tôi cho ma quỷ, trở thành một Giuđa bán Chúa và làm hại anh em. Cuối cùng chỉ còn lại sự thất vọng, cô đơn và chán chường.

Hậu quả của những ngừơi mù mất ý thức này là huỷ diệt chính mình, hủy diệt thân xác và cả linh hồn. Còn đâu sự trong sáng của linh hồn là hình ảnh Thiên Chúa! Tất cả đã bị bôi nhọ bởi chính sự lầm lẫn đáng thương của chính mình.

Xem ra người mù thành Giêricô thật có phúc vì anh ý thức được sự mù loà của mình. Anh đã vượt qua mọi trở ngại để chạy đến nương nhờ lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ, với hành vi đấm ngực ăn năn, không phải là máy móc, vụ hình thức mà là sự nhức nhối của con tim đầy nuối tiếc về sự mù loà tâm linh của mình dẫn đến biết bao điều sai quấy, gây lo âu bất an cho tâm hồn, và gây đau khổ cho gia đình. Ước gì chúng ta luôn khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của mình để cần Chúa chỉ đường dẫn lối, và chữa lành khỏi những u mê của cõi lòng, để chúng ta luôn hân hoan bước đi trong ánh sáng của tin mừng, của chân thiện mỹ, của nẻo chính đường ngay. Ước gì cặp mắt của tâm hồn chúng ta luôn đủ sáng để nhận ra đâu là thiện, là ác, để luôn hành động đúng theo lương tri của một con người. Amen.

 

12. Mù có phải là bất hạnh không?

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

Khi nghĩ đến người mù, nhất là những người bị mù bẩm sinh, ta thường nghĩ đến hai chữ “tội nghiệp”, “đáng thương”, hay “bất hạnh”. Dĩ nhiên có khi chính bản thân người mù cảm thấy bất hạnh thật vì họ không được nhìn thấy ánh sáng, không được nhìn thấy vẻ đẹp thiên nhiên, nhất là không được nhìn thấy những người thân yêu của mình. Và ngay cả khái niệm về màu sắc, họ cũng không biết đến.

Tuy nhiên, giữa người mù và người sáng, chưa chắc ai bất hạnh hơn ai. Có khi vì mắt sáng tỏ, nên người ta bất hạnh hơn là bị mù loà. Bằng chứng là trong các vụ án trộm cắp, lường gạt, đâm chém, hiếp đáp, ngoại tình,…, ta có thấy thủ phạm nào là người mù không, ngoại trừ những người sáng mắt? Trong số những dân chơi cuồng quay nơi các vũ trường ngập ngụa ma tuý, thuốc lắc, hàng “đá”, ta có bắt gặp bóng dáng người khiếm thị nào bên cạnh những người mắt sáng ở đó không? Trước vành móng ngựa xét xử các quan tham vô lại, có lẽ ta cũng khó mà tìm được một bị cáo nào là kẻ mù loà ở đấy; có chăng chỉ toàn là những người cả hai mắt đều tỏ đều tường!!! Và nếu ta cất công thắp đuốc đi tìm các tù nhân là người mù trong các trại giam, chắc chắn ta sẽ thất vọng vì nơi đó chỉ thấy toàn những người có đủ cả hai mắt. Vậy thì ai “bất hạnh” hơn ai? Người mù hay người sáng? Bởi thế, khi nhìn thấy một người mù, khoan đã cho rằng người đó tội nghiệp, người đó bất hạnh. Hạnh phúc hay bất hạnh không hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt thể lý, nhưng là hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt tâm hồn, cặp mắt đức tin.

Trong câu chuyện Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, ta thấy Bartimê là một người mù loà, hành khất bên vệ đường ngoại thành Giêricô. Không biết anh có thuộc “Hội Người Mù” nào hay không! Song thiết tưởng anh là một người lương thiện. Anh sống bằng những gì kiếm được từ lòng hảo tâm của người khác. Mặc dù nghèo, nghèo nên phải đi ăn xin, nhưng cuộc đời anh thanh thoát. Anh sống vô tư giản dị, không bon chen giành giật, không tính toán hơn thua, không đua đòi ăn diện. Anh cũng không vợ nọ con kia, không rượu bia các thứ. Có lẽ anh cũng chưa bao giờ phạm vào những tội “đội sổ” của con người thời đại hôm nay: buôn gian bán lận, lậu thuế trốn thuế, tham ô, móc ngoặc, hối lộ, hay rút ruột các công trình xây dựng… Suốt cả cuộc đời, chắc hẳn anh cũng chưa hề lường gạt, bóc lột hay hãm hại ai. Tắt một lời, anh sống hoàn toàn ngay chính.

Hơn thế nữa, trong khi rất nhiều người sáng đôi mắt thể lý, lại mù loà trước ánh sáng vô hình, không thể nhận ra Chúa Giêsu là ai, thì anh mù Bartimê này lại “thấy tỏ tường” chính Đức Giêsu là ai. Anh không van xin Chúa bằng danh xưng “Giêsu Nazareth”, mà dùng danh xưng “Con Vua Đavít” - một danh xưng ám chỉ tước hiệu Đấng Mêsia. Tiếng kêu lớn tiếng của anh khi bị mọi người ngăn cản: “Lạy Con Vua Đavít”, đồng thời cũng là một lời tuyên xưng niềm tin vào chính Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng mà anh tin là sẽ phục hồi sự sáng cho anh. Bởi đó, khi được Chúa Giêsu hỏi anh muốn xin gì, anh không xin Chúa Giêsu mua cho anh mấy tờ vé số, cũng không xin Chúa Giêsu cho anh ít đồng bạc cắc bố thí, như anh đã từng nói với những người qua lại, mà anh chỉ xin Chúa Giêsu cho anh được thấy, tức là được sáng mắt. Nếu không tin Chúa Giêsu là Đấng có thể mở được mắt cho nguời mù bẩm sinh, anh đã không xin Ngài điều này.

Đồng ý “đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”, nhưng không phải một khi “cửa sổ” ấy bị đóng vĩnh viễn do mù loà là đương nhiên tâm hồn trở nên tối tăm băng giá như vùng bắc cực đâu. Ngược lại nữa là khác. Khi đôi mắt của họ không còn khả năng thấy được những thực tại hữu hình, thì tâm hồn họ lại rất bén nhạy với những thực tại vô hình. Bởi đó người ta bảo rằng người mù thường cảm nhận rất sâu xa về những thực tại siêu linh, và họ cũng rất nhạy bén trước những nỗi thống khổ của anh em đồng loại. Nói cách khác, người mù thường có cặp mắt đức tin sáng tỏ, như trường hợp anh mù Bartimê hôm nay.

Dẫu chưa một lần được gặp gỡ hay diện kiến Đức Kitô; chưa một lần được trực tiếp nghe những lời Ngài giảng dạy, cũng chưa một lần được phúc chứng kiến các phép lạ Ngài đã làm; anh chỉ mới được nghe người ta nói về con người của Đức Giêsu; thế mà anh đã tin. Anh tin một cách mãnh liệt. Và nhờ niềm tin đó, anh đã gặp được hiện thân lòng nhân hậu của Thiên Chúa, hiện thân của những mối phúc thật là Đức Giêsu Kitô. Anh được Chúa phục hồi sự sáng, sự sáng của cặp mắt thể lý, và quan trọng hơn là cặp mắt đức tin nơi anh vốn đã sáng nay sáng tỏ hơn. Từ đây đời anh hoàn toàn đổi mới. Còn hạnh phúc nào bằng? Anh đã tự nguyện dấn bước theo Chúa trong niềm vui trào tràn.

Lạy Chúa, sẽ thật hạnh phúc cho con, nếu con có đôi mắt thể lý lẫn đôi mắt tâm linh sáng ngời. Ngược lại sẽ thật bất hạnh cho con nếu con có đôi mắt thân xác sáng tỏ nhưng đôi mắt tâm hồn lại mù tối như đêm 30. Con xin tạ ơn Chúa vì ngài đã ban cho con có đôi mắt thể lý chưa một lần phải đến bác sĩ nhãn khoa. Xin Người gìn giữ con để đôi mắt đức tin của con cũng luôn được tinh tường sáng suốt. Đặc biệt xin Chúa cho những người mù luôn giữ được cái tâm trong sáng để cuộc đời của họ không bao giờ là "bất hạnh", là "đáng thương" như người ta vẫn nghĩ. Amen.

 

13. Mù lòa

Cách đây không lâu khi lớp chúng tôi đến học hỏi thực tập mục vụ tại một họ đao thuộc thành phố Cần Thơ; sau khi nghe cha sở chia sẻ về công việc mục vụ: cha lo lắng cho giáo dân từ tinh thần cho đến vật chất, cha không chỉ chú tâm xây dựng nhà thờ vật chất , mà cha còn lo xây dựng nhà thờ tinh thần trong lòng giáo dân. Nhưng điều làm tôi đánh động nhất chính là cách cha đối xử với người nghèo, người bệnh tật cô đơn... cha luôn quan tâm đến họ cách đặc biệt. Cha thật là người mục tử cho chúng tôi học hỏi và noi theo. Thì hôm nay bài Tin Mừng lại giới thiệu cho tôi một mẩu gương phục vụ tuyệt hảo hơn rất nhiều. Đó là Đức Giêsu người đã động lòng trước sự kêu xin tha thiết của người mù bất hạnh ngồi ăn xin bên vệ đường.

Anh mù hôm nay không hề thấy Đức Giêsu, nhưng anh đã nghe biết nhiều về người, Khi Đức Giêsu đi ngang thì đúng là cơ hội "ngàn năm một thuở". Lập tức anh ta đã kêu to lên để được Đức Giêsu chú ý. Chắc những người đi theo Đức Giêsu lúc đó rất khó chịu, vì họ đang nghe những lời giáo huấn của Đức Giêsu, mà anh mù này lại hét to hết sức có thể, thì đúng là một sự xúc phạm không thể chịu được. Cho nên những người đi trước "mắng bảo anh ta nín đi". Nhưng lúc này không có gì có thể ngăn cản anh ta, anh quyết phải gặp cho được Đức Giêsu con người mà bấy lâu anh hằng mong đợi. Tuy anh không thể thấy nhưng trong tâm trí anh nhìn thấy Đức Giêsu lúc này không phải là một sự mơ hồ, lờ mờ, hoặc do cảm xúc. Nhưng đây là một ước muốn thiết tha. Và cũng chính ước muốn này đã khiến cho mọi sự được thành.

Chính lòng tha thiết mà anh đã được Chúa Giêsu "dừng lại". Vì Ngài không phải là mục tử của kẻ kiêu căng ngạo mạn, mà Ngài là vị mục tử của những người bất hạnh nghèo nàn, là vị cứu tinh nhân hậu, Đặc biệt ứu ái với đám dân kém may mắn. Ngài nhìn đến con người mù lòa. Ngài đã để ý bên vệ đường và thấy tình trạng thống khổ, không ai lưu tâm, không ai lắng nghe lời của một người ăn xin, tệ hơn nữa còn muốn cho anh ta im đi. Nếu Ngài không là người quan tâm đến họ, không tinh ý thì khó có thể nghe thấy được. Việc anh mù ao ước xin chữa lành, còn đáng giá hơn ngàn lần sự cuồng nhiệt của dân chúng. Hay giấc mơ vinh quang và hy vọng tiến thân, tranh giành quyền lực địa vị không chính đáng của các môn đệ....Hình ảnh anh mù lúc này la một tấm lòng tuyệt diệu trong ánh mắt của Đức Giêsu. Ngài đả phá việc cổ vũ cuồng nhiệt bên ngoài mà trong lòng không chút gì khao khát Thên Chúa, Ngài thông cảm giữa bậc cao sang và kẻ hèn hạ, giữa người thông sáng với kẻ mù lòa, giữa người thi ân và kẻ lãnh nhận.

Nếu xét về mù lòa tâm hồn thì không những chỉ có trong đám đông theo Chúa Giêsu hôm nay, nhưng có rất nhiều người kể cả các tông đồ. Khi chữa lành người mù Đức Giêsu nói: "lòng tin của anh đã chữa anh". Ngài muốn gửi đến một thông điệp cho tất cả chúng ta, cũng như cho các tông đồ là phải có niềm tin thì mới được lành mạnh. Nhờ tin mà người hành khất được thấy ánh sáng, cơ hội này cũng là dịp cho các Tông Đồ được mở trí soi lòng và xứng đáng được tháp tùng với Ngài lên Giêrusalem. Người mù đã được sáng, lòng tin là ánh sáng mới, ánh sáng đó đã giúp phát hiện ra những thực tại bị che khuất, giúp khám phá những điều chưa ai biết. Ánh sáng này giúp khám phá những điều vượt khỏi giác quan và lý trí con người. Ai không nhìn thấy Ánh Sáng này mới chính người mù thật sự.

Điều làm cho Đức Giêsu đau lòng nhất chính là những người đang mù mà lại không biết mình mù, cứ ảo tưởng cho mình là sáng, là tốt đẹp...không cần đến ai chỉ đường cả. Thậm chí là Thiên Chúa họ cũng chẳng màng. Chính vì thế đòi buộc người tín hữu phải mau mắn thi hành chức vụ tiên tri mà mình đã lãnh nhận, có bổn phận dìu dắt chỉ đường cho họ biết tìm đến ánh sáng. Nhưng chúng ta phải làm thế nào giữa một xã hội luốn đòi hỏi những chứng cứ cụ thể. Vì thể, nếu chỉ rao giảng bằng lời nói thì đó chỉ là thứ lý thuyết suôn vô bổ. Lời rao giảng đó phải được cụ thể hóa bằng hành động, bằng cuộc sống vị tha, bác ái, mới may ra giúp họ nhận ra mình đang bị mù mà nói với Chúa: "Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy"

Cuối cùng tôi xin mươn lời kinh hòa bình của thánh Phanxicô làm lời nguyện: "Lạy Chúa, xin cho con biết đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm, để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cây vào nơi thất vọng, để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem ủi an đến chốn u sầu...". Amen.

 

14. Thiên Chúa, Đấng chuyên gia chữa lành

(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM)

Một thanh niên lập gia đình và có hai con. Vì là con một, nên ngay từ nhỏ, được cha mẹ nuông chiều muốn gì có đó. Trong một tai nạn, kính xe hơi của anh vỡ bể tan nát văng vào cả hai mắt anh, và dù gia đình tìm mọi cách chữa chạy, cuối cùng cũng phải chấp nhận cho bác sĩ khoét hai con mắt của anh. Lúc đó tất cả bầu trời như muốn sụp đổ xuống cuộc đời anh, anh tỏ ra tuyệt vọng và không còn muốn sống nữa. Thế nhưng, ngày kia có một nữ tu trước đây khi còn ở ngoài, học cùng lớp với anh đến thăm, động viên và tỏ lòng cảm thương với nỗi khốn khổ của anh; đồng thời trước khi ra về, chị nữ tu này đã tặng anh một đĩa audio cuốn sách Ý Nghĩa Sự Đau Khổ của Cha Tuyên dòng Chúa Cứu Thế, và cáo biệt ra về. Trong lúc buồn sầu chán sống, tự nhiên nhớ đến đĩa CD người bạn mới cho, liền nói bà xã cho vào máy mở nghe cho đỡ buồn thôi, nhưng không ngờ càng nghe càng thấy thấm thía thích nghe và tìm được niềm vui trở lại dần dần, nhất là anh đã tìm được ý nghĩa của cuộc sống nhân sinh của con cái Chúa. Có lần anh tâm sự với tôi một cách rất tích cực rằng: Thưa Cha, nhờ bị mù hai mắt thể lý mà mắt tâm hồn con được mở ra, sáng lên và nhận ra đời thật vui tươi như Cha đang thấy nơi con đây. Lạ không, thưa bạn!

Vâng đúng thế, tôi với bạn mỗi người chúng ta đều mang những tật nguyền và bệnh hoạn cả về tâm linh lẫn thể xác, và rất cần được chữa lành để sống khỏe, sống bình an hạnh phúc. Nhưng rất may mắn, loài người chúng ta có một Thiên Chúa là Cha, và Ngài không bao giờ mệt mỏi chữa lành những tật nguyền bệnh hoạn của con cái loài người hầu đem lại hạnh phúc đời này và đời sau trên nơi vĩnh phúc cho chúng ta.

Bài Tin mừng hôm nay soi dẫn cho biết mọi người chúng ta đều mắc những bệnh mù nguy hiểm, tuy mức độ khác nhau, nhưng không ai có thể tự hào là tôi không bị mù chút nào. Và tôi có thể tóm lại các bệnh mù thành ba loại như sau:

- Mù trong việc nhận biết Thiên Chúa là Cha Toàn Năng Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình...

- Mù trong việc nhận biết anh chị em của mình trên toàn thế giới.

- Mù trong việc nhận biết chính thân phận mình chỉ là hư vô bọt bèo, tất cả những gì mình có, mình là, mình làm được đều là do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho.

Vậy thì, Phải chăng mỗi lần chúng ta làm tôi phụng thờ Chúa,mỗi lần chúng ta tham dự cử hành phụng vụ,mỗi lần chúng ta cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích, là mỗi lần chúng ta bớt bị mù hơn về Thiên Chúa là Cha hay yêu thương chúng ta?

Phải chăng mỗi lần chúng ta yêu thương,tha thứ, cảm thông và đối xử tử tế với một trong những người bé mọn của Thiên Chúa, là mỗi lần mắt tâm hồn chúng ta trở nên sáng hơn trong việc nhận ra anh chị em con cùng Cha, cùng Mẹ trên trời với mình?

Và phải chăng, mỗi lần chúng ta hạ mình khiêm tốn, không dám cho mình hơn ai,không dám nhận sức riêng mình có gì, vì tất cả đều là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho…,là mỗi lần chúng ta bớt bị mù,bớt bị hoa mắt hơn bởi những ảo tưởng muốn cho mình là cái rốn của vũ trụ này?

Thưa Bạn,

Như vậy, có lẽ bạn và tôi cũng cần phải quỳ xuống mà cầu xin: Lậy Chúa xin cho chúng con được thấy, thấy Chúa, thấy anh chị em con,thấy chính mình con…để con dám can đảm sống như chúng con đã thấy.

Đôi khi lời cầu nguyện của chúng ta có thể bị thử thách, bị cám dỗ,làm cho lời cầu nguyện có nguy cơ bỏ ngỏ dở dang, đứt đoạn vì thấy mãi mà chưa được thẩm nhận, làm chúng ta chán ngán muốn bỏ không tin, không cầu nguyện nữa, thì lúc đó, chính Chúa lại ra tay đích thân an ủi động viên khích lệ ta tiếp tục đi đến cùng của lời cầu nguyện với lòng tin tưởng hơn, như Chúa đã động viên người mù cứ vững tin khi thấy người ta ngăn cản không cho anh ta kêu gào to hơn lên tới Chúa.

Nào bạn và tôi cứ tiếp tục gào lên, cứ tiếp tục gõ chiếc thùng hành khất của chúng ta cho đến khi nào Chúa đổ đầy ân sủng của Ngài vào, cho đến khi chúng ta nghe thấy Ngài nói với chúng ta lời đầy an ủi: “Lòng Tin của con đã cứu chữa con”, bạn nhé! Chúc bạn thành công!

 

15. Đôi mắt Đức Tin

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Nhạc sĩ Xuân Hồng viết ca khúc “Đôi mắt” với ca từ dễ thương.

Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời,

Để nhìn đời và để làm duyên.

Mẹ cho em đôi mắt màu đen,

Để thương để nhớ, để ghen để hờn.

Đôi mắt em là cửa ngõ tâm hồn,

Là bài thơ hay nhất,

Là lời ca không dứt,

Là tuyệt tác của thiên nhiên.

Đôi mắt là cửa ngõ tâm hồn, là tuyệt tác thiên nhiên.

Thi sĩ Lưu Trọng Lư đã viết hai câu thơ thật đẹp về tình yêu trong đôi mắt:

Mắt em là một dòng sông,

Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.

Cô gái nhớ nhung chàng trai phố núi dù chỉ mới gặp gỡ qua “đôi mắt”.

Tôi đã gặp đôi mắt người phố núi,

Chiều cao nguyên trong khói toả sương mù,

Chẳng hề quen sao đôi mắt hẹn hò?

Trong giây phút làm hồn tôi rung cảm.

Tôi đã yêu đám mây chiều lơ đãng,

Những đường mòn,những đồi dốc không tên,

Đôi mắt anh làm tôi thấy yêu thêm,

Thành phố núi những buổi chiều hiu hắt.

Sao tôi chỉ yêu người qua đôi mắt?

Đôi mắt buồn như phố núi hoàng hôn,

Anh có là thi sĩ lúc chiều buông?

Đang mơ mộng tìm vần thơ viết dở.

Đôi mắt.Trời ơi, kiêu kỳ hoang dã!

Anh nhìn tôi rất lạ rất thân tình,

Anh đã làm chảy máu trái tim xinh,

Đêm phố núi về tương tư đôi mắt.

Tôi đến đây, miền cao nhiều gió lạnh,

Chỗ thân quen ở lại một đôi ngày,

Mai mốt về tôi biết nhớ gì đây?

Hay chỉ nhớ một chàng trai phố núi?

Tôi sẽ về, chắc lòng còn tiếc nuối,

Tình cảm này tôi biết gởi về đâu?

Khi tôi và anh chưa biết tên nhau,

Hy vọng gì sau một lần gặp gỡ!

Tôi sẽ về, chắc không còn gì nữa!

Anh cũng xa vời như gió như mây,

Tình yêu của tôi lãng mạn phút giây,

Nhưng tôi sẽ thương nhớ hoài đôi mắt. (Thanh Dương)

Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp.

Thế nhưng, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu của sách Sách Sáng thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon... mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn... Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng” (St 3, 4–7).

Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:

- Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.

- E-và nhìn trái táo và thấy sướng mắt.

- Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.

Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.

Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: “mắt cả hai người đã mở ra”. Không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. “Mắt hai người đã mở ra”. Câu Thánh kinh thật ngắn ngũi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. A-đam – E-và đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù loà chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế. (x.Nước mắt và hạnh phúc trg 69–71, Lm Nguyễn Tầm Thường).

Chúa Kitô đã đến chữa lành sự mù loà ấy, hàn gắn lại vết thương thưở sa ngã của Nguyên Tổ.

Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù loà của Nguyên tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian.

“Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thưở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian. Ngài ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức Tin.

Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin.

Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Si-lô-ác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pha-ri-siêu đang tra vấn, khủng bố anh: Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Si-lô-ác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì.

Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không?” thì anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin.” Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.

Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin.

Phép lạ chữa người mù thưở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù loà của nhân loại với điều kiện: Tin vào Ngài.

Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù loà tâm hồn. Ngài mở mắt cho Gia-kêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9, 1-10). Ngài mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7, 36-50). Ngài mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23, 32-43)...

Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xoá tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô. Ðôi mắt đức tin giúp chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa và yêu mọi người, mọi sự trong Chúa và yêu như Chúa đã yêu.Nhiều Thánh vịnh giúp chúng ta tập nhìn cuộc đời và con người bằng đôi mắt tin yêu, như Thánh vịnh 104, các Thánh vịnh Job 38-39.

Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngõ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt thì đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Bar-ti-mê tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Chúa Giêsu là Ðấng Mes-si-a "Con Vua Ðavít". Anh kêu xin: "Rabbuni, xin cho tôi được thấy", và Chúa Giêsu trả lời: "Hãy đi! Niềm tin của con đã cứu chữa con". Bar-ti-mê được thấy và anh theo Chúa Giêsu trên con đường của Người ; khi thấy được, anh cùng hành hương lên Giê-ru-sa-lem (x. Đức Giêsu thành Nazareth phần II, trg 13). Bar-ti-mê thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy Chúa là con vua Đa-vít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.

Lạy Chúa, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt.

Để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt.

Để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên.

Để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.

Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân con

với những yếu đuối và khuyết điểm,

nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa;

từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng,

để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen.

 

16. Xin cho con được thấy - Hiếu Nguyễn

CHUYỆN MINH HỌA LỜI CHÚA

1. Sáng mắt đức tin

Một nhóm sinh viên tham quan mỏ than Scottish ở Anh quốc. Mỗi người được phát cho chiếc nón bảo hộ của thợ mỏ, phía trước nón có gắn bóng đèn nối liền với bình điện đeo ngang lưng. Người hướng dẫn đưa họ vào hầm than tối mịt, nên bảo họ bật đèn lên. Khi đến khu khai thác, người hướng dẫn lại bảo họ tắt đèn hết. Lúc đó họ không thấy gì cả. Và ông ta nói cho họ biết, “Đây là tình trạng bi thảm của những người mù.” Thế là các sinh viên đã hiểu ra bị mù thì khốn khổ vì không thấy được gì cả, như họ đang ở trong cảnh tối tăm này.

2. Thế giới mù lòa

Ông Hosesaramago là văn sĩ người Bồ đào nha đã được giải thưởng văn chương năm 1998. Một trong các tác phẩm nổi tiếng của ông là cuốn “Mù lòa,” diễn tả một thành phố bất thần bị dịch mù lòa như sau:

Người đầu tiên bị mù là một người đàn ông lái xe và chờ đèn giao thông. Một người hào hiệp dẫn ông về nhà rồi chôm luôn chiếc xe của ông. Và anh này cũng mù luôn. Bác sĩ nhãn khoa khám mắt cho anh xong cũng bị mù. Và nạn dịch mù lan tràn khắp thành phố! Người ta phải tập trung những người mù vào bệnh viện. Và cuộc sống của những người mù này chẳng khác nào địa ngục trần gian. Họ căm thù mù lòa, họ căm thù lẫn nhau.

Trong đám người mù lòa có một người nữ giả mù để sống với chồng là bác sĩ nhãn khoa. Bà ta dẫn đám người mù ra khỏi bệnh viện, nhưng cuộc sống của họ ngày càng đau khổ. Họ lạc lõng khắp nơi, không ai biết đường về nhà, chẳng ai giúp đỡ được ai, đường sá đầy rác rến, người chết ngổn ngang! Trong trang cuối của tác phẩm “Mù lòa” khi nạn dịch dứt đi, các nhân vật lý giải như sau, “Tại sao chúng ta mù? Tôi không nghĩ là chúng ta hóa mù. Chúng ta mù mà có thể nhìn thấy, nhưng chúng ta không thèm nhìn thấy!”

3. Người ta quát nạt anh ta

Cách đây mấy năm, có hai người cha mẹ kể lại cái chết của đứa con trai họ, “Thứ năm vừa qua, chúng tôi chôn cất đứa con trai chúng tôi. Câu chuyện xảy ra là hôm thứ ba, nó vào phòng ngủ của nó và tự sát. Nó bắn vào thái dương của nó, viên đạn xuyên qua óc nó và nó đã chết. Nó tên là Mike.”

Tại sao Mike tự sát? Mike có rất nhiều bạn. Nó sống hết tình với bạn hữu nó. Ngược lại các bạn nó cư xử tệ với nó. Chẳng những không đáp lại thịnh tình của nó mà còn hất hủi nó, làm hại nó nên nó buồn phiền tuyệt vọng, mượn cái chết để khỏi còn thấy cảnh con người đối xử tệ bạc với con người như thế.

4. Biết mình mù

Có mấy người mù được yêu cầu mô tả con voi. Dĩ nhiên họ không thể dùng mắt, họ phải dùng tay sờ để mô tả con voi. Người sờ vào lỗ tai voi thì bảo nó mềm, dẹp và không ở yên một chỗ. Kẻ sờ mũi voi thì mô tả nó dài, thon thon và cũng đứng ngồi không yên…

Đúng là mô tả rất thiếu sót, vì không dùng thị giác được. Thị giác giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn. Chính vì thế mà người mù phải sống trong bất hạnh khổ sở. Do đó Chúa Giêsu thương họ, sẵn sàng cứu chữa họ. Nhưng trước khi chữa cho họ, Người muốn họ phải ý thức thân phận mù lòa của họ. Vì thế trong Tin mừng hôm nay, khi người mù Batimaeus đến gần, Chúa Giêsu hỏi, “Anh muốn tôi làm gì cho anh” (Mc 10:51).

5. Người mù nhìn thấy

Một người đàn bà mù tâm sự: Trước khi bị mù lòa, tôi là một phụ nữ rất tự mãn và độc lập. Tôi làm việc nuôi năm đứa con của tôi. Tôi cũng làm việc thiện nguyện. Nhưng gia đình tôi không được hạnh phúc, nên tôi định ly dị. Nhưng rồi tai nạn xảy đến cho tôi. Bác sĩ bảo phải giải phẫu mới chữa được. Trước khi giải phẫu tôi còn sáng mắt, sau khi giải phẫu tôi phải mù lòa. Giờ đây tôi không còn tính chuyện ly dị được nữa, phải chung sống với người mình không thương. Tôi cố làm việc nội trợ, nhưng chỉ làm rối trật tự trong nhà. Đứa con gái út của tôi xấu hổ vì có người mẹ mù lòa….

Thật là một cuộc sống lầm than cô độc.

Ngày nọ, tôi nói với chồng tôi là tôi muốn đi ra ngoài đổi không khí. Tôi đinh ninh chồng tôi cùng đi với tôi. Nhưng không, tôi một mình đứng ở góc đường. Bỗng có tiếng nói trong tôi, “Ngươi không còn ai. Đã đến lúc ngươi phải tự cứu lấy chính ngươi…”

Thế là tôi lần mò đến trung tâm hồi phục kể cho mọi người nghe câu chuyện của tôi. Ở đây, tôi gặp một người thanh niên mù từ lúc mới sinh. Anh chưa bao giờ biết một bữa tiệc mừng sinh nhật. Tôi về nhà cố làm cho anh một ổ bánh và tổ chức mừng sinh nhật anh ta. Anh thổi những cây nến mà anh không thấy, nhưng chắc chắn anh đã hưởng được niềm vui và tôi cảm thấy rất hạnh phúc. Thế là tôi mù lòa, nhưng thấy được nhu cầu của người khác. Và tôi cố gắng giúp họ thỏa mãn.

6. Tâm sự của một người mù.

Từ thế kỷ 19, những người mù đã được học hành như người sáng mắt. Có những người mù đậu tiến sĩ, giáo sư như bà Keller, ông Braille (1809-1852).

Ông Braille đã bị mù từ lúc ba tuổi. Lúc đầu ông được học nhạc ở học viện và đánh đàn tại nhiều nhà thờ. Ông đã trở thành giáo sư và chính ông đã sáng chế ra hệ thống chữ nổi cho người mù học. Nhờ đó, ông đã cứu giúp được bao nhiêu thế hệ mù khỏi mù chữ. Ông đáng được tôn vinh là đại ân nhân của thế giới người mù. Tuy nhiên, ông đã không thể cứu họ khỏi mù mắt. Họ vẫn phải sống trong tối tăm.

Và đây cũng là tâm sự của bà Helen Keller. Keller bị mù và điếc từ lúc 19 tháng tuổi. Cô tâm sự như sau :

Một hôm, một người bạn của tôi vừa đi dạo trong rừng trở về. Tôi hỏi xem cô ấy đã thấy những gì ? Cô bạn đáp : "Chẳng có gì đặc biệt cả”.

Tôi rất ngạc nhiên và tự nhủ “Không thể nào như thế được”. Bản thân tôi đây, vừa mù vừa điếc, thế mà chỉ với đôi tay sờ soạng, tôi vẫn cảm nhận được hàng trăm điều thích thú quanh tôi. Tôi cảm thấy được hình dáng dễ thương và mềm mại của chiếc lá. Chỉ cần đặt bàn tay lên cành cây nhỏ đang rung rinh là tôi cảm nhận được tiếng hót líu lo của con chim nhỏ đang đậu trên đó.

Bất hạnh lớn nhất không phải là bị mù, mà là có mắt nhưng không nhìn thấy.

7. Thánh Phanxicô Salêsiô.

Thánh Phanxicô Salêsiô có một đức tin mạnh mẽ, nhất là đối với Phép Thánh Thể. Ngài thường rao giảng cho dân vùng Chablais (Thụy sĩ) đang bị ảnh hưởng nặng của ly giáo Calvinô. Mỗi buổi tối, ngài hay đến trước nhà chầu sốt sắng cầu nguyện. Một hôm, đang mê say cầu nguyện thì có tiếng ai đi lại trong nhà thờ. Tưởng là kẻ trộm, ngài lên tiếng hỏi. Ai ? Một bóng người lạ đi tới và nói :”Thưa Đức Giám mục, con là người không có đạo. Con nghe Đức Cha giảng nhiều lần về Chúa Giêsu trong Thánh Thể, con không tin. Chiều hôm nay, con lẻn vào nhà thờ rình xem thái độ Đức Cha như thế nào. Con thú thực, đã nhìn thấy đức tin của Đức Giám mục. Giờ đây con xin Tin. “Lạy Chúa xin cho con được nhìn thấy”(Mc 46,51).

Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi ? Số người “thấy mà xem chẳng thấy”(kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người của mình, là bản thân mình.

Nói chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng. Anh mù Bartimê đã nhìn ra Đức Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.

Riêng chúng ta, những môn đệ của Chúa, ai dám nói mình không bao giờ bị mù trước những thực tại thiêng liêng ? Nhiều người cho là mình sáng mắt sáng lòng nhưng thực tế họ luôn mù tối không nhìn ra chân lý; và tệ hơn nữa họ vừa mù vừa hướng dẫn người khác thì hậu quả sẽ khôn lường.

8. Chiếc đèn lồng.

Có một người mù, một đêm kia đến thăm người bạn thân. Hai người trò truyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một chiếc đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói :

- Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau.

Người bạn trả lời :

- Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối người ta có thể đụng phải anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi.

Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đụng phải anh. Với vẻ tức giận, anh mù nói :

- Người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi ?

Người kia đáp :

- Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không trông thấy. Mong anh thông cảm

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu truyện kết luận : Con người tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy.

Nhiều khi cuộc đời chúng ta chỉ là chiếc lồng đèn bị tắt lửa không còn ánh sáng để soi chiếu cho người khác, chúng ta bắt chước anh mù Bartimê mà kêu lên :”Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tiếng Hy lạp là Kyrie eleison. Một truyền thống lâu đời của Giáo hội Đông phương đã dạy các tu sĩ ở Hy lạp, Ai cập, Liban… phương thế tự thánh hóa mình nhờ “lời cầu xin với Đức Giêsu” bằng cách chỉ lặp đi lặp lại cách đơn sơ và không biết mệt mỏi những từ này : Iesou, Eùleison, Iesou, Eùleison…

9. Tìm thấy mẹ nhờ con mắt tình yêu:

Vào một buổi chiều năm 1945, tại nhà ga Verona nước Italia, có khá đông dân chúng đang tập trung tại sân ga và náo nức chờ đón một số binh lính là người thân của họ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Lúc đó, một người lính trẻ bị mù hai mắt cũng đang lần mò từng bước trên sân ga. Khi tiến gần đến chỗ một phụ nữ lớn tuổi đang đứng chung với mấy người thân trong gia đình, đột nhiên anh lính mù dừng lại rồi kêu to lên: “Mẹ!”, và rồi hai mẹ con đã ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Một lúc sau, khi phát hiện ra cặp mắt của con trai đã bị mù hòan tòan, bà mẹ liền hỏi: “Con ơi, mắt con đã bị mù như thế mà sao lúc nãy con lại nhìn thấy mẹ giữa bao nhiêu người khác và kêu lên vậy?”. Anh lính trẻ liền đáp: “Thưa mẹ, tuy mắt con không thể nhìn thấy mặt mẹ như trước đây, nhưng chính trái tim đã mách bảo con là mẹ cũng đang có mặt tại đây và đang chờ đón con. Khi từ trên xe lửa bước xuống sân ga, con cứ đi theo sự mách bảo của trái tim và đến lúc con linh cảm chắc chắn mẹ đang ở rất gần bên con, thì tự nhiên con buột miệng la to lên “Mẹ!” và quả thật con đã gặp lại được mẹ như mẹ đã thấy đó”.

 

17. "Anh muốn tôi làm gì cho anh?"

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)

Ở đây, theo tâm lý mà nói, quả thật Ðức Giêsu đã làm một nghĩa cử vô cùng cao đẹp, khi Người hỏi người hành khất mù: “Bác-ti-mê-ô, anh muốn tôi làm gì cho anh?” - Ðúng vậy, chúng ta ai cũng muốn một lần nào đó trong đời được người khác hỏi như vậy. Một lần nào đó được tự do bày tỏ điều mình mong ước! Ðôi mắt đứa trẻ sẽ mở rộng tròn xoe một cách vui sướng rạng rỡ, khi bà dì hay ông cậu đầy thương yêu nói với nó: “Cháu có quyền xin bất cứ cái gì cháu thích, bà dì (ông cậu) sẽ cho cháu ngay!” Ðứng trước niềm vui được tự do bày tỏ nguyện vọng và chắc chắn sẽ được thoả mãn, tâm lý những người lớn chúng ta cũng không khác tâm lý của những đứa trẻ là bao!

“Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Ðức Giêsu cũng hỏi mỗi người trong chúng ta như thế! Người mù đã không thể trả lời cách nào khác hơn, là: “Thưa Thầy, xin cho tôi có thể nhìn thấy được!” Anh ta biết mình bị mù. Và anh cũng biết là không còn gì đẹp đẽ và quan trọng hơn là anh ta lại có thể nhìn thấy được. Còn chúng ta, chúng ta trả lời thế nào câu hỏi của Chúa?

Có lẽ đối với chúng ta, trước hết chúng ta sẽ phải bắt đầu câu trả lời: “Thưa Thầy, xin cho con biết được là con đang bị mù!" Hay: "Thưa Thầy xin cho biết là con đang thiếu thốn những gì!” Phải chăng chúng ta không cần phải cầu xin như thế? Chúng ta không biết mình đang bị mù, đang thiếu thốn gì sao? Nhất thiết chúng ta phải cầu xin cho mình được thực sự sáng mắt? Vâng, theo thiển ý, tôi nghĩ rằng đó là điều chúng ta cần phải cầu xin cùng Chúa!

Thỉnh thoảng chúng ta cảm thấy bực mình về con cái chúng ta, vì chúng quá kén chọn, đến nỗi nhiều bậc cha mẹ đã phải than phiền: “Ngày nay người ta chẳng còn biết phải cho con cái điều gì nữa!” Cũng vậy, nhiều khi các ông bà nội / ngoại cũng đã than thở trước ngày sinh nhật của các cháu mình: “Ngày nay chúng nó đã có tất cả rồi, nên chẳng biết phải lấy gì làm quà cho chúng nó nữa!” Nhưng có phải thực sự các cháu của họ đã có tất cả rồi chăng?

“Thưa Thầy, xin cho con biết được điều con - chúng con - đang thiếu thốn!” Dĩ nhiên, chúng ta còn thiếu rất nhiều thứ: Tương lai, công ăn việc làm, sự bảo đảm an ninh khỏi trộm cắp, kiếm cho con cái một chỗ học hành gần nhà, không mắc phải những chứng bệnh nan y nguy tử, không bị tàn tật, không bị rơi vào hoàn cảnh luôn luôn phải nhờ vả kẻ khác, v.v... Vâng, đó là những nguyện vọng cần phải tỏ bày cùng Chúa. Nhưng phải chăng chúng ta chỉ thiếu thốn những điều đó thôi sao?

Chúa đã dạy chúng ta phải cầu xin cho mình có đầy đủ lương thực hằng ngày! Thiên Chúa sẽ không bao giờ xua đuổi bất cứ ai đang trong cơn túng cực và khó khăn mà biết chạy đến kêu xin Người. Trái lại Người còn muốn ban cho chúng ta nhiều hơn nữa, chứ không chỉ có lương thực hằng ngày mà thôi. Với lương thực hằng ngày, Người muốn ban cho chúng ta sự sống, sự sống của Người, sự sống thiên đàng tràn đầy hạnh phúc. Chúng ta có náo nức khao khát được tiếp cận Thiên Chúa và những gì Người hứa ban cho chúng ta không? Chúng ta có ý thức được rằng tội lỗi chúng ta đã chia lìa chúng ta khỏi Thiên Chúa và vì thế chúng ta phải xa tránh bằng sự ăn năn hối cải không? Cả trong cuộc sống của những người đạo đức cũng không thiếu những mù lòa mà chính đương sự không hề biết. Vì thế, “Thưa Thầy, xin cho con nhận biết điều con đang thực sự thiếu thốn” phải luôn luôn sống động trên môi miệng mỗi người chúng ta!

Nhiều khi chúng ta cũng hãy can đảm và thẳng thắn nhìn nhận rằng vì do sự thiếu khôn khéo và nhất là do các lầm lỗi của mình mà một số các vị có trách nhiệm trong Giáo Hội đã vô tình làm mai một đi nhiều vẻ đẹp và sức hấp dẫn của Giáo Hội cũng như của niềm tin Kitô giáo của chính mình trước con mắt người đời. Chúng ta không khỏi đau lòng khi nhận thấy những người lương dân khi nghe nói đến tiếng “Giáo Hội Công Giáo” là thường nghĩ ngay đến luật lệ cấm phá thai, cấm dùng các phương pháp ngừa thai nhân tạo, cấm đồng tình luyến ái, không cho phép những người ly dị được rước lễ, phụ nữ không được làm Linh mục,v.v...! Dĩ nhiên, đó là qui luật hiện hành của Giáo Hội, nhưng Giáo Hội không chỉ quanh quẩn có bấy nhiêu! Tất cả chúng ta đều mong muốn trở nên một Giáo Hội mà trong đó lòng thương xót của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta được rực sáng, trong đó không một ai bị cô lập, nếu như người đó nêu lên những ý kiến có tính cách phê bình và không bị loại trừ, nếu người đó không giữ vuông tròn được các luật lệ. Chúng ta hãy kính nể và biết ơn tất cả những ai đang dấn thân làm chứng nhân cho tình thương xót đó trong Giáo Hội, tức tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho con người, như bài Tin Mừng hôm nay đã loan báo, đặc biệt là những ai đang ngày đêm săn sóc và chăm nom:

những người già nua, những người bệnh tật,

những người tàn tật và những người bất hạnh, đói khổ,

những người ngoại kiều và những người sống ngoài lề xã hội,

những người bị bỏ rơi, bị tẩy chay, bị khai trừ, v.v...

Chúng ta thực sự là Giáo Hội của Ðức Kitô, nếu chúng ta biết sống trọn tình thương đó trong lòng Giáo Hội và giữa chợ đời. Vì không có dấu chỉ nào khác để cho thế gian nhận biết chúng ta thuộc Ðức Kitô hơn là sự thông cảm, tình thương và đức ái!

Dĩ nhiên, bất cứ ở đâu và trong bất thời đại nào, vẫn có những Kitô hữu sống một cách vô ý thức, thiếu hy vọng, và đầy sợ hãi khi phải đưa mắt nhìn về tương lai, hay chỉ nghĩ đến mình và chỉ sống cho mình mà thôi, v.v... Tất cả đều nói lên “mặt trái của một chiếc mề đay”, những “con chiên ghẻ” trong đoàn chiên của Chúa. Ðiều quan trọng trong một trường hợp đầy thách đố như thế, là người tông đồ của Ðức Kitô càng phải nỗ lực giữ vững đức tin và không để cho những thử thách, những khó khăn của môi trường sống chung quanh làm tê liệt lòng nhiệt thành với Ðức Kitô và tinh thần phục anh em đồng loại. Thật ra, tương lai còn bao la vĩ đại, chứ không phải chỉ đi tìm sự an ninh, sự bình an và dễ dãi cho mình. Tương lai chứa đựng nhiều thách đố nhiêu khê và người ta cần phải nêu danh chúng ra, dẫu rằng điều đó có thể gây ra những chua cay và bất bình. Nhưng chính điều đó lại có thể động viên được những nguồn sức mạnh để giải quyết tận gốc những khủng hoảng và đưa ra được liều thuốc sửa trị hiệu nghiệm.

Người Kitô hữu nên biết rằng, dù cho tương lai đen tối bao nhiêu đi nữa, Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trong mỗi tương lai! Người là Thiên Chúa của lịch sử và là Thiên Chúa của thế kỷ hiện tại cũng như của những thế kỷ sắp tới! Niềm hy vọng Kitô giáo giúp tôi có thêm nghị lực để bước đi những bước mới theo khả năng tôi cho phép, với sự ý thức chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ chiếu giọi ánh sáng của Người trên việc làm bé nhỏ của tôi, trên cuộc sống cụ thể hằng ngày của tôi.

Chúng ta không chỉ nài xin Chúa giúp chúng ta đạt được những mục đích quan trọng mà chúng ta cần phải hiện thực, nhưng cả đến khả năng để bước đi những bước cụ thể, nhỏ mọn và đơn sơ, mà tôi - chúng ta - có thể thực hiện được trong gia đình, trong Giáo xứ và làng mạc của chúng ta hay ở bất cứ nơi đâu. Và qua đó, thế giới sẽ trở nên tươi sáng hơn. Ðó chínnh là sứ mệnh của tất cả chúng ta!

“Lạy Chúa, xin ban cho con sự can đảm trong những bước mà con sắp sửa đi! Và xin cho con cảm nhận được rằng Chúa hằng đồng hành với con trên mọi nẻo đường con đi!”

Ðó là điều cần phải nài xin Chúa ban cho chúng ta. Bởi vì, có những giờ phút trong cuộc sống, Chúa để xảy đến cho chúng ta trở nên vô cảm và nguội lạnh, không còn cảm nghiệm được bất cứ điều gì nữa. Ðó là những giờ phút chúng ta hoàn toàn trở nên trống rỗng và khô cạn, như thể bị căng ra trên thập giá như Chúa xưa kia ở đồi Golgotha vậy! Tuy nhiên, chúng ta có thể và cần phải tha thiết câu xin:

“Lạy Chúa, xin che chở con, xin che chở cộng đoàn Dân Chúa. Xin cho chúng con cảm nhận được sự gần gũi của Chúa bên chúng con!”

Nói tóm lại, Chúa đã hỏi người mù Bác-ti-mê-ô - Người cũng hỏi bạn và tôi nữa -: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Chúng ta hãy trả lời Người với tất cả sự cảm xúc đầy mong mỏi đợi chờ mà mỗi người chúng ta hằng ấp ủ:

Lạy Chúa, xin cho con biết con đang bị mù!

Xin cho con nhìn thấy được điều con đang thiếu thốn, điều con thực sự đang thiếu thốn!

Xin ban cho sự can đảm trong những bước đường sắp tới, chứ đừng để con chỉ ngồi chờ đợi kẻ khác!

Và xin cho con cảm nhận được rằng Chúa luôn ở bên con!

Hy vọng rằng chúng ta cũng sẽ được lãnh nhận tình thương của Chúa, như người mù Bác-ti-mê-ô: Ðức Giêsu đã sờ đến anh. Anh lại có thể nhìn thấy và anh đã theo Ðức Giêsu trên đường Người đang đi.

18. Suy niệm chú giải Lời Chúa CN XXX TN B - Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX này có chung một chủ đề: tấm lòng của Thiên Chúa đối với nỗi khốn cùng của nhân loại.
Gr 31: 7-9
Bài Đọc I được trích từ sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Vị ngôn sứ ca ngợi tấm lòng ưu ái của Đức Chúa. Ngài đã bày tỏ tấm lòng phụ tử đối với những người lưu đày khi đích thân dẫn đưa họ trở về quê cha đất tổ.
Dt 5: 1-6
Thư gởi tín hữu Do thái so sánh Đức Giê-su với vị thượng tế Cựu Ước. Đức Giê-su là vị Thượng Tế Tân Ước thập toàn biết cảm thông những yếu đuối của con người.
Mc 10: 46-52
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đã lắng nghe lời khẩn cầu đầy lòng tin của anh mù thành Giê-ri-cô và đã đáp trả ước nguyện của anh.
BÀI ĐỌC I (Gr 31: 7-9)
Bản văn nầy được trích từ chương 31 sách Giê-rê-mi-a. Chương 31 nầy liên kết với chương 30 trước đó để hình thành nên một đơn vị. Đây là một trong những bản văn cảm động nhất mà vị ngôn sứ viết để ca ngợi tấm lòng phụ tử của Thiên Chúa.
1.Bối cảnh:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem vào khoảng những năm 626-587 trước Công Nguyên. Ông đã chứng kiến những năm tháng bi thương của đồng bào ông dưới gót dày xâm lược của đế quốc Ba-by-lon, nào cảnh nước mất nhà tan, cảnh thành thánh đổ nát và cảnh Đền Thờ Giê-ru-sa-lem hoang phế. Đây là thảm họa mà ông có sứ mạng báo trước, nhưng đồng bào ông đã để ngoài tai những lời cảnh báo của ông.
Trước khi những biến cố bi thảm nầy xảy đến, ông đã trải qua một thời kỳ hạnh phúc dưới triều đại của vua Giô-si-gia-hu (522-509 tCn.). Chính vào thời kỳ nầy mà bản văn hân hoan nầy được viết, chủ yếu liên quan đến những dân cư Ga-li-lê và Sa-ma-ri. Vào thế kỷ trước đó, hai miền này đã bị đế quốc Át-sua xâm chiếm và một phần dân cư đã bị dẫn đi lưu đày. Ấy vậy, đế quốc Át-sua trở nên suy yếu và không còn đủ sức bành trướng. Nhờ đó, vua Giô-si-gia-hu mới có thể thực hiện công cuộc canh tân cải tổ toàn diện của mình trên toàn cõi đất nước.
2.Niềm ước mơ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a tràn đầy hy vọng. Phải chăng giờ phục hưng Ít-ra-en và thống nhất dân Thiên Chúa đã điểm? Ông mơ ước, ít ra một sấm ngôn bày tỏ niềm mơ ước này được gặp thấy ở chương 30-31. Cùng chung nhịp với tấm lòng của Thiên Chúa, vị ngôn sứ phác họa niềm cảm xúc của Đức Chúa trước cảnh khốn cùng của con cái Ngài (30: 1-11). Chắc chắn Ngài đã trừng trị họ vì những lỗi phạm của họ (30: 11, 15), nhưng Ngài không bao giờ ngừng yêu thương họ “bằng mối tình muôn thuở” (31: 3). Và Giê-rê-mi-a hình dung Đức Chúa kêu mời muôn dân: “Reo lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân tộc đứng đầu chư dân!”. Ít-ra-en được gọi “dân tộc đứng đầu chư dân”, vì dân này đã được Thiên Chúa tuyển chọn, tách riêng ra giữa muôn dân và được Ngài rất mực yêu thương.
“Nào loan tin, ca ngợi và công bố: Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn lại của Ít-ra-en”. “Số còn lại của Ít-ra-en” là những người đã kinh qua gian khổ của cuộc lưu đày, họ sẽ là chất xúc tác đối với toàn dân Chúa chọn. Cũng danh xưng nầy sẽ được dùng để gọi những người lưu đày ở Ba-by-lon vào thế kỷ sau đó.
3.Ngày trở về:
“Nầy Ta đưa chúng từ phương Bắc trở về”: Đây là cách nói kinh điển để chỉ ách thống trị của ngoại bang, dù đế quốc Át-sua hay đế quốc Ba-by-lon. “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng”. Ngay cả những kẻ yếu nhược nhất, thông thường không thể tự mình trở về, Đức Chúa sẽ an ủi và nâng đỡ để không một ai vấp ngã trên đường, vì Đức Chúa là Người Cha tận tình săn sóc: “Vì đối với Ít-ra-en, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ép-ra-im chính là con trưởng”. Tên “Ép-ra-im” được dùng để chỉ toàn bộ các chi tộc phương Bắc và tước hiệu “con trưởng” để chỉ đứa con rất mực yêu dấu.
Niềm ước mơ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không được thực hiện. Đế quốc Ba-by-lon đã thay thế đế quốc Át-sua. Dân Ít-ra-en phải chịu cảnh đời nô dịch này thay thế cảnh đời nô dịch khác. Vì thế, những viễn cảnh tươi đẹp mà vị ngôn sứ phác họa chỉ được ứng nghiệm sáu mươi năm sau thời kỳ lưu đày Ba-by-lon. Chính từ những viễn cảnh tươi đẹp này sẽ được ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ của thời lưu đày Ba-by-lon, lấy lại và khai triển những đề tài chứa chan hy vọng cho những người lưu đày Ba-by-lon. Tuy nhiên, trong trực giác sâu xa của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị đánh lừa. Khi mô tả tấm lòng phụ tử của Thiên Chúa: cảm thương thân phận con cái của Ngài, nhân loại vừa tội lỗi vừa đau khổ, vị ngôn sứ đã đem lại cho niềm ước mơ của mình một tầm mức mà chính ông không thể ngờ được, một tầm mức Mê-si-a.
BÀI ĐỌC II (Dt 5: 1-6)
Trọng tâm của Thư gởi tín hữu Do thái là sứ vụ của Đức Ki-tô, vị Thượng Tế thập toàn và trổi vượt vô vàn so với vị Thượng Tế Cựu Ước.
Hai khía cạnh chủ yếu tiêu biểu chức tư tế: một mặt, vị Thượng Tế nào cũng là người được chọn trong số phàm nhân; mặt khác, ông là người của Thiên Chúa, người trung gian giữa con người và Thiên Chúa. Dưới ánh sáng của hai khía cạnh nầy, tác giả đối chiếu tấm lòng biết cảm thông với con người yếu đuối và tội lỗi giữa vị thượng tế Cựu Ước và Đức Ki tô, vị thượng tế Tân Ước.
1.Vị thượng tế Cựu Ước:
Tác giả nhấn mạnh những phẩm chất phàm nhân của vị thượng tế Cựu Ước: là một con người như bao nhiêu người khác, ông chia sẻ những yếu đuối của con người; ông lại càng cảm thông hơn nữa với những tội lỗi của họ bởi vì chính ông cũng là một tội nhân: “Mà vì yếu đuối, nên ông phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy”. Không ai có thể tự phong cho mình là người của Thiên Chúa, nhưng phải lãnh nhận chức vị nầy từ chính Thiên Chúa. Thật ra, chức thượng tế Cựu Ước là một chức vụ cha truyền con nối. Thiên Chúa đã chọn ông A-ha-ron một lần cho tất cả, bao gồm hậu duệ của ông (Xh 28: 1 và Lv 18: 1-13).
2.Đức Ki tô, vị Thượng Tế Tân Ước:
Tác giả sẽ đối lập vị Thượng Tế biết cảm thông của Cựu Ước với Đức Ki tô, vị Thượng Tế biết cảm thương của Tân Ước. Ông tiến hành theo trật tự đảo ngược khi bắt đầu gợi lên lễ tấn phong của Đức Ki-tô với hai đặc tính biệt phân: trước hết, Đức Ki-tô là một vị Thượng Tế có phẩm chất khôn sánh, vì Ngài là Con Thiên Chúa; thứ nữa, Đức Ki-tô là vị Thượng Tế không theo phẩm trật A-ha-ron, nhưng theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.
Khi bắt đầu gợi lên tính siêu việt của chức tư tế Đức Ki-tô, tác giả thư gởi tín hữu Do thái lưu ý rằng Đức Ki-tô là vị Thượng Tế biết cảm thông tuyệt vời vì Ngài là Đấng Trung Gian trực tiếp lòng xót thương của Thiên Chúa. Chức tư tế độc nhất vô nhị của Đức Ki-tô diễn tả một chuyển động từ trên xuống: tấm lòng Phụ Tử của Thiên Chúa đối với con người.
Quả thật, chính từ sáng kiến của Chúa Cha mà Chúa Con nhận được lễ tấn phong của mình. Tác giả trích dẫn Tv 2 để làm chứng: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con”. Thánh Vịnh nầy là một trong những Thánh Vịnh phong vương. Thời quân chủ Đa-vít, vào ngày lễ phong vương, vị tân vương được công bố là Thiên Tử. Tước hiệu Thiên Tử của vị tân vương là biểu tượng, còn tước hiệu Thiên Tử của Đức Ki-tô mới là đích thực. Tước hiệu Thiên Tử của Chúa Giê-su không chỉ hàm chứa biến cố Nhập Thể (“Cha đã sinh ra con”) nhưng còn tính cách vương đế của Ngài. Đức Ki-tô vừa là vương đế vừa là thượng tế, như vậy làm trọn niềm ước mơ Mê-si-a.
3.Vị Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê:
Đức Giê-su không thuộc chi tộc Lê-vi, vì thế, Ngài không thể tự nhận mình là thượng tế theo luật Mô-sê. Chức tư tế của Ngài thuộc phẩm trật khác, phẩm trật Men-ki-xê-đê. Men-ki-xê-đê là một nhân vật huyền nhiệm mà sách Sáng Thế nói về ông (14: 18-20). Ông vừa là “vua thành Sa-lem” (thành Giê-ru-sa-lem tương lai) vừa là “tư tế của Thiên Chúa Tối Cao”. Chính ông đã chúc phúc cho ông Áp-ra-ham và đại diện vị tổ phụ, tiến dâng bánh và rượu lên Thiên Chúa. Còn ông Áp-ra-ham thì biếu tặng cho “con người của Thiên Chúa” nầy một phần mười chiến lợi phẩm của mình.
Truyền thống đối lập chức thượng tế A-ha-ron với chức thượng tế Men-ki-xê-đê. Chức thượng tế Men-ki-xê-đê thì không giới hạn, không lai lịch, muôn đời, có nguồn gốc thiên giới. Chính ở nơi mẫu thức chức thượng tế Men-ki-xê-đê nầy mà Tv 110 quy chiếu đến: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Tv 110: 4). Thánh Vịnh này, cũng là một Thánh Vịnh phong vương, loan báo vị thượng tế lý tưởng trong tương lai, vì thế, Thánh Vịnh nầy cũng mang một cung giọng Mê-si-a. Những sấm ngôn nầy được ứng nghiệm nơi Đức Ki-tô, Ngài là vị Thượng Tế biết cảm thông với những yếu đuối và tội lỗi của con người và Ngài là Đấng Trung Gian muôn đời bên cạnh Chúa Cha.
TIN MỪNG (Mc 10: 46-52)
Việc chữa lành anh mù thành Giê-ri-cô được cả ba sách Tin Mừng nhất lãm thuật lại (tại Mát-thêu, có đến hai người mù được chữa lành). Câu chuyện nầy có một tầm quan trọng đặc biệt, bởi vì nó đóng chức năng như bản lề giữa lời loan báo thứ ba về cuộc Thương Khó và cuộc khải hoàn của Đức Giê-su vào thành thánh Giê-ru-sa-lem.
1.Bối cảnh:
Chúa Giê-su rời thung lũng sông Gio-đan và trực chỉ tiến về thành thánh Giê-ru-sa-lem, băng qua thành Giê-ri-cô. Chính ở thành Giê-ri-cô nầy mà vào thời điểm lễ Vượt Qua những người hành hương từ khắp nơi quy tụ lại trước khi cùng nhau lên thành thánh Giê-ru-sa-lem, cách đó khoảng hai mươi sáu cây số. Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài cùng với đám đông đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. Vì thế, việc thánh ký ghi nhận “Đức Giê-su cùng với đám đông dân chúng ra khỏi thành Giê-ri-cô” phù hợp với khung cảnh của khách hành hương trước đại lễ Vượt Qua.
2.Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và anh mù thành Giê-ri-cô:
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và anh mù thành Giê-ri-cô được mô tả rất sinh động và ngoạn mục. Mọi người đang lũ lượt kéo nhau đi trong khi anh ngồi mà lại ngồi một mình bên vệ đường. Tư thế này diễn tả cảnh ngộ của anh, anh hoàn toàn bị gạt ra ngoài cuộc sống, bị khai trừ khỏi cộng đoàn đang nhộn nhịp lên đường lên Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, anh không cam chịu số phận bị khai trừ của mình. Anh lắng nghe dư luận quần chúng, nhờ đó biết rằng Đức Giê-su đang đi qua đây; vì thế, lòng anh tràn đầy hy vọng. Chắc chắn anh đã nghe nói về việc ông Giê-su Na-da-rét nầy đã mở mắt cho nhiều người mù. Vì thế, anh kêu to và bạo dạn gọi Đức Giê-su là “Con vua Đa-vít”, tước hiệu của Đấng Mê-si-a mà dân chúng từ lâu mong đợi (2Sm 7: 1-17). Nhiều người quát nạt bảo anh im đi. Đám đông trở nên chướng ngại ngăn cản anh đến với Đức Giê-su. Nhưng mặc kệ, không chịu thua cuộc, anh mù lại càng kêu gào hơn nữa át cả những lời quát tháo ngăm đe của đám đông để làm thế nào lời kêu cứu của anh đến được với Đức Giê-su.
Đức Giê-su cứ để mặc anh mù kêu to tước hiệu Mê-si-a mà không đòi buộc anh phải im lặng như trước đây nữa. Thời kỳ nầy đã qua, thời Ngài đã cố giữ mầu nhiệm chung quanh con người của Ngài để tránh những giải thích sai lạc về sứ vụ Mê-si-a của Ngài. Giờ đây, Ngài đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường mặc khải tuyệt mức sứ vụ Mê-si-a của Ngài ở nơi biến cố Tử Nạn và Phục Sinh. Giờ của sự thật đã điểm. Chẳng bao lâu nữa dân thành Giê-ru-sa-lem sẽ tung hô Ngài dưới tước hiệu nầy.
3.Đức tin của anh mù thành Giê-ri-cô:
Đức Giê-su không thể nào làm ngơ trước những tiếng kêu đầy niềm tin của anh mù thành Giê-ri-cô nầy được, vì thế, Ngài dừng bước và ra lệnh: “Gọi anh ta lại đây!”. Một lần nữa, Đức Giê-su biểu lộ cho thấy Ngài muốn liên lụy đến những kẻ mà người ta khăng khăng muốn khai trừ, loại bỏ. Đám đông tức khắc thay đổi thái độ từ ác cảm sang thiện cảm khi khuyến khích anh mù: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”.
Khi được Đức Giê-su gọi, “anh mù liền vất áo choàng lại”. Trong Kinh Thánh, y phục không chỉ để che thân nhưng nhất là tượng trưng cho nhân cách người mặc nó. Khi “vất áo choàng”, anh vất thân phận bị khai trừ của mình. “Áo choàng” cũng là của cải duy nhất mà người nghèo có (Xh 22: 25-26); đối với anh hành khuất mù này, áo choàng còn là phương tiện sinh sống, bởi vì người mù thường trải chiếc áo choàng ra trước mình để đón nhận của bố thí. Khi vất áo choàng, anh đã bỏ tất cả những gì anh có mà đến với Đức Giê-su. Đây đúng là lời đáp trả mà Đức Giê-su đã mong đợi nhưng không gặp thấy ở nơi chàng thanh niên giàu có. Anh “đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giê-su” trong khi mắt vẫn mù, thì đúng là thái độ của đức tin.
Khi diện đối diện với anh mù, Ngài hỏi anh: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Dĩ nhiên, Đức Giê-su biết rõ ước muốn của anh, nhưng Ngài luôn luôn tôn trọng sự tự do của những người đến gặp Ngài, vì thế Ngài muốn anh phải tự mình nói lên ước nguyện của mình: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Tác giả sách “Hạt Giống Nẩy Mầm” viết: “Đây cũng là lời cầu xin của các tín hữu trong cộng đồng của Mác-cô. Họ đang sống trong một thời kỳ bị bách hại, nghi kỵ và khinh miệt. Họ không biết phải sống như thế nào. Họ xin Chúa cho họ thấy con đường mà họ phải sống và đi theo Người. Một phần nào đó, tôi cũng không biết phải sống như thế nào trong hoàn cảnh hiện tại của tôi. Tôi hãy mượn lời anh Ba-ti-mê để cầu xin với Chúa: ‘Lạy Chúa, xin cho con được thấy’”.
4.Anh mù đón nhận nhiều hơn điều anh mong chờ:
 “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”. Lời của Đức Giê-su mặc lấy một chiều kích sâu xa bất ngờ đối với anh mù cũng như đối với đám đông vây quanh. Lệnh truyền “Anh hãy đi” hàm chứa một sứ mạng. Thay vì “lòng tin của anh đã chữa lành anh”, Đức Giê-su lại nói với anh: “lòng tin của anh đã cứu anh!”, nghĩa là, nhờ đức tin, Đức Giê-su không chỉ cứu chữa anh khỏi đôi mắt mù lòa của thể xác, mà còn ban cho anh ơn cứu độ mà Ngài đem đến nữa.  Như vậy, anh mù không chỉ được sáng mắt mà còn sáng cả cõi lòng trước sứ điệp Tin Mừng.
Câu chuyện kết thúc với lời đáp trả tích cực của anh: “Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi”. Con đường mà Đức Giê-su đi là con đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường dẫn Đức Giê-su đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh. Đó cũng là con đường mà anh mù Ba-ti-mê vừa được sáng mắt đi theo Ngài để được dự phần vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Như vậy, câu chuyện kết thúc với việc ghi nhận rằng anh mù Ba-ti-mê được sáng mắt trở thành người môn đệ lý tưởng của Ngài, và chắc chắn vì lý do đó mà tên anh vẫn được truyền trong ký ức của các Ki-tô hữu tiên khởi.
Như vậy, câu chuyện anh mù thành Giê-ri-cô là dịp làm chứng về một đức tin năng động và kiên vững tương phản với tâm trí u mê mù tối của các Tông Đồ trước ba lần loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Thầy. Câu chuyện nầy cũng đã đánh dấu việc vén mở bí mật Mê-si-a, chuẩn bị cho việc dân chúng hân hoan đón tiếp Ngài vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Một lần nữa, chúng ta thấy nghệ thuật kể chuyện bậc thầy của thánh Mác-cô. Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Mác-cô là người kể chuyện với nhiều chi tiết sinh động nhất và phong phú nhất.

 

19. Mù sương – Lm. Vũ Đình Tường

Con đường tin theo Đức Kitô không phải lúc nào cũng bằng phẳng, thẳng tắp, thênh thang. Thực ra con đường theo Chúa có lúc nọ, lúc kia, khi thẳng, khi cong. Đức Kitô xác nhận con đường Ngài chọn đi là con đường có cửa hẹp. Đường dẫn vào cửa hẹp dẫn đến sự sống. Mt. 7,13.

Dù đường đời hay đường theo Chúa. Con đường nào cũng có lúc quanh co, khi uốn khúc. Có đoạn chênh vênh sườn núi. Có đoạn gập gềnh khúc khuỷnh ẩn sau cánh rừng. Lại cũng có đoạn vắt ngang cánh đồng xanh, bao la, bát ngát, đây đó có chim kêu, kia nọ có bướm lượn. Dù thung lũng sâu hay trên đỉnh non cao, đường có lúc trong sáng, gió nhẹ bay. Khi khác lại mù sương, gió buốt, thốc từng cơn. Khi trong sáng trước mắt hứa hẹn một tương lai rực rỡ, khi mây đen bao phủ, tương lai mù mờ.

Song song với đường đời, người Kitô hữu còn có đường thiêng liêng dành riêng cho những ai nối gót Đức Kitô. Tự nguyện bước trên đường này sẽ nhận được ơn riêng Chúa ban. Ngài ban ơn hỗ trợ, nâng đỡ, khuyến khích, mời gọi Kitô hữu cùng nâng đỡ, dìu nhau tiến bước. Nếu có ai không may trượt chân, mệt mỏi, vấp ngã hãy đỡ nâng, giúp họ tiếp tục tiến bước.

Đường thiêng liêng

Chúa không tạo dựng đường riêng cho từng Kitô hữu. Ngài mời gọi Kitô hữu nhập thế, đi chung đường đời. Đã làm người ai cũng trải qua đường đời. Kitô hữu nhập thế để trở thành muối, thành men ướp đời. Nói cách khác, Kitô hữu vừa chung đường đời vừa có nhiệm vụ làm người chỉ đường, linh đạo cho nhân thế.

Cần biết rõ con đường mới có thể chỉ đường rõ ràng, mạch lạc. Không rõ con đường sẽ chỉ mông lung, lơ mơ. Cả hai đều lạc. Đường tâm linh soi sáng, hướng dẫn đường đời mà không thể ngược lại. Chúa soi sáng, dẫn đường tâm linh. Đây là đường vĩnh cửu, luôn đúng. Trào lưu xã hội chỉ đạo đường đời. Trào lưu thường có thời. Hết thời trào lưu chết, đường theo trào lưu cũng chết theo.

Vững tin, hèn tin

Chọn đường đời hay đường tâm linh đều không tránh khỏi lo âu, phiền muộn. Mạnh tin, coi lo âu, phiền muộn là cơ hội dẫn đến gần Chúa hơn. Gian truân, thử thách giúp cảm nghiệm rõ tình yêu Chúa. Cảm nghiệm Chúa luôn hiện diện, gần gũi, chia sẻ mọi biến cố trong đời.

Một khi Kitô hữu cảm nhận rõ ràng tình yêu Chúa dẫn dắt trên đường khi nguy khó người đó trở nên quyết tâm, bám chặt vào Chúa, vững tâm, không sờn lòng trước chông gai, bão tố. Đời lắm gian truân, đức tin và lòng thành càng lộ tỏ vững chắc. Tin theo mà không tính toán hơn thiệt.

Trái lại kém lòng tin thường coi lo âu, phiền muộn là chướng ngại. Thiếu phó thác vào Chúa. Cậy sức riêng giải quyết thử thách, nguy nan. Tin mà thiếu phó thác. Tâm tình lạnh nhạt, hay nản lòng. Tin giai đoạn, lúc tin, lúc không. Tìm cách trốn chạy đau thương, phiền muộn. Vừa chạy vừa than, trách. Cuống lên, chạy quanh. Chạy quanh chẳng tới đích. Hoạ may gặp đường cùng. Đường cùng không lối thoát nên bất mãn. Vì bất mãn nên coi thường, thờ ơ cầu nguyện. Tất cả đều do yếu kém đức tin gây ra.

Đức tin không trưởng thành so với tuổi đời. Đức tin không lớn so với thời gian tin theo. Đức tin trưởng thành nhờ sống bác ái, yêu thương, sống đời thánh thiện.

Chỉ đạo

Vì có đường nên cần có người chỉ đường, hướng dẫn cách đi, lối đi. Đức Kitô tự nhận Ngài là con đường.

Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Ga 14,6

Chọn con đường Chúa đi, chọn Ngài làm Đấng chỉ đạo bảo đảm chọn đúng đường. Chúa vừa là con đường cho con tiến đi vừa là Đấng chỉ đạo cho con tiến bước. Con đường Ngài chỉ đạo là sự thật. Trong sự thật luôn chứa mầm sống, sự sống. Đường Chúa hướng dẫn là chân lí, sự thật, mang lại sự sống vĩnh cửu.

Mù sương

Niềm tin tôn giáo không thể chết, nhưng có thể lu mờ, sống tình trạng mù sương. Tâm hồn mù sương đáng thương hơn đáng trách vì luôn sống trong tình trạng ngờ vực, lo âu, sợ sệt. Sợ niềm tin Kitô không bảo đảm được hạnh phúc nên nhờ vật chất bảo vệ. Mù sương thường nhập nhằng giữa linh đạo và đường đời. Để quyền lợi, danh vọng, đường đời hướng dẫn, chỉ đạo tâm linh.

Kẻ khai sinh câu ‘tốt đời, đẹp đạo’ tạo hoả mù cho tôn giáo. Hoả mù vì mỗi chính quyền định nghĩa đời một kiểu. Cần phải xác định loại đời nào. Không phải hễ tốt đời là đẹp đạo cả đâu. Kẻ phản đạo vẫn có thể làm tốt đời. Trái lại, tâm hồn thánh thiện không bao giờ làm hại đời. Nếu hại sao có thể gọi là thiện tâm, là lành thánh. Câu nói chính xác là tốt đạo sẽ đẹp đời. Ngược lại đẹp đời chưa chắc tốt đạo.

Tốt đời, đẹp đạo là sai. Câu này không đúng. Nét đẹp của đạo thể hiện một cách trọn vẹn, trong sáng khi tôn giáo có tự do thực sự. Tôn giáo phục vụ, làm tốt hơn đời sống con người. Tôn giáo sống gò bó trong khuôn khổ của đời. Tôn giáo đạt mục đích làm đẹp. Lạm dụng nét đẹp tôn giáo để khoe với đời, với người. Tôn giáo ích chi cho con người.

Một tâm hồn công chính, thánh thiện là nhờ sống niềm tin. Lạm dụng niềm tin chỉ có thể xảy ra cho kẻ thiếu đức tin và kẻ không niềm tin.

20. XIN THƯƠNG XÓT TÔI. Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Suy niệm :

 

Con mắt là một bộ phận hết sức mong manh,
dễ bị tổn thương, dễ bị nhiễm trùng,
nhất là trong điều kiện vệ sinh ngày xưa.
Chúng ta không rõ nguyên nhân khiến anh Báctimê bị mù,
chỉ biết anh không mù từ lúc lọt lòng mẹ.
Anh đã từng được thưởng thức ánh nắng ban mai
hay nhìn ngắm những người thân yêu, bè bạn.
Bây giờ chỉ có bóng tối triền miên.
Anh Báctimê sống bằng nghề hành khất,
ngồi ăn xin bên vệ đường, sống bên lề xã hội.
Danh tiếng của Ðức Giêsu Nadarét, anh đã được nghe nhiều.
Ngài có thể làm người mù bẩm sinh sáng mắt.
Anh tin vào Ngài, thầm mong có ngày được gặp.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc hạnh ngộ ấy.
Rất tình cờ, Ðức Giêsu đi ngang qua đời anh.
Anh mù lòa, ngồi đó như chỉ chờ giây phút này.
Khi nghe biết là Ðức Giêsu cùng với đám đông đi qua,
anh thấy cơ may đã đến.
Tất cả sức mạnh của anh nằm ở tiếng kêu,
tiếng kêu thống thiết bi ai của một người đau khổ,
nhưng cũng là tiếng kêu đầy tin tưởng, hy vọng.
“Lạy ông Giêsu, Con vua Ðavít, xin thương xót tôi!”
Tiếng kêu báo hiệu một sự hiện diện, một cầu cứu.
Nhiều người muốn bịt miệng anh,
nhưng anh chẳng sợ gì đe dọa.
Càng bị đe dọa, anh càng gào to hơn nhiều.
Cuối cùng tiếng của anh đã đến tai Ðức Giêsu.
Ngài dừng lại và sai người đi gọi anh,
vì Ngài cũng chưa rõ anh đang ở đâu.
Khi biết mình được gọi, anh vội vã và vui sướng
vất bỏ cái áo choàng vướng víu,
nhẩy cẫng lên mà đến với Ðức Giêsu.
Anh đi như một người đã sáng mắt,
bởi thực ra mắt của lòng anh đã sáng rồi.
Khi được khỏi, lòng tin của anh thêm mạnh mẽ hơn.
Anh thấy lại mặt trời, anh gặp Ðấng cho anh ánh sáng.
Không ngồi ở vệ đường nữa, anh đứng lên đi theo Ðức Giêsu.
“Xin thương xót tôi. Xin cho tôi nhìn thấy lại”.
Ðây có phải là tiếng kêu của tôi không?
Khả năng thấy là một khả năng mỏng dòn.
Ta có thể thấy điều này mà không thấy điều kia.
Tôi có thể lúc thấy lúc không, hay cố ý không muốn thấy.
Lắm khi tôi không đủ sức để ra khỏi sự mù lòa của mình.
Tôi có kêu gào với Chúa để xin được ơn thấy lại không?
Một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có thể mù lại.
Chính vì thế tôi cứ phải xin cho mình được thấy luôn.
Thấy mình bé nhỏ, thấy Chúa bao la, thấy anh em dễ mến.
Thấy là đi vào một con đường dài hun hút.
Chúng ta phải được Chúa xóa mù suốt đời.
Chỉ trong ánh sáng của Chúa, tôi mới nhìn thấy ánh sáng.

 

 

Cầu nguyện :

 

Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu giãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

21. Niềm tin – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Tiên tri Giêrêmia loan báo tin vui ngày trở về quê hương xứ sở. Ai đi đâu xa, cũng mong có ngày trở về. Nhất là những người bị đi lưu đầy, tù tội hay xa xứ đều mong có ngày được trở về quê hương. Sự trở về mang lại niềm vui lớn. Cuộc sống là một cuộc nối kết những chặng đường trở về. Chúng ta cùng đang lữ hành trên trần gian đầy chông gai thử thách. Mọi cuộc lữ hành cần có cùng đích để hướng tới. Mỗi người được sinh ra đời đều có cội có nguồn, có cha có mẹ, có quê hương xứ sở và có cùng đích để trở về. Cuộc sống vô thường và thay đổi, đổi thay mỗi ngày. Cũng như thời gian đắp đổi, có hợp có tan, có vui có buồn, có đi có về, có xuất có nhập, có sáng có tối và có sinh có tử. Không có ra đi thì cũng không có trở về. Sinh ký tử qui. Cuộc sống con người kết nối bởi những biến cố nhỏ to. Đời sống thiên nhiên cũng thế, vòng xoay bốn mùa xuân, hạ, thu, đông và hai mùa mưa nắng.

Dân Do-thái nhiều năm bị lưu đầy xa xứ sắp được trở về quê hương. Trong niềm vui mừng hân hoan, tiên tri Giêrêmia đã xướng lên: Vì Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân!(Gier 31, 7). Niềm vui ngày trở về là ngày vui của sự xum họp trong tự do và hạnh phúc. Người Do-thái được giải thoát khỏi làm nô lệ tôi đòi cho ngoại bang. Niềm mơ ước được giải phóng trở về quê hương là một niềm mong ước vượt qúa sức của họ. Thiên Chúa đã yêu thương an bài để mọi người cùng được trở về sống chung, không phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ tàn tật và người bất hạnh: Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo (Gier 31, 8).

Thánh Phaolô mời gọi mọi người hãy sống đúng với tư cách của mình là Kitô hữu, ngài nhắn nhủ rẳng: Chuyện gian dâm, mọi thứ ô uế hay tham lam, thì dù nói đến, anh em cũng phải tránh, như thế mới xứng đáng là những người trong dân thánh (Eph 5, 3). Sự xấu có mặt trong đời sống của con người mọi thời, xưa cũng như nay. Những bản năng thú tính kéo lôi con người trở về với cách sống hoang dã. Con người dễ rơi vào những dịp tội của sự ghen tương, thù ghét, oán hờn và gian tham. Sống buông thả theo bản năng thì rất dễ dàng như bèo trôi theo dòng nước. Đi vào con đường hẹp để tu tâm luyện tính đòi hỏi sự ý thức và luyện tập chuyên cần. Tu tâm là xa tránh dịp tội, cải thiện đời sống, giảm bớt tham sân si và tập tành các nhân đức. Muốn nên người tốt, chúng ta phải chuyên tâm tu luyện và thực hành điều thiện trong ý tưởng, lời nói và hành động.

Chúng ta đang sống trong thời đại ‘bấm nút’. Mọi phương tiện khoa học kỹ thuật xử dụng nút bấm và sờ chạm rất thuận lợi, dễ dàng và nhanh chóng. Chúng ta mất dần sự kiên nhẫn và sự kiên trì phấn đấu. Cái gì cũng muốn có kết qủa ngay lập tức như ơn chữa lành các bệnh tật. Vì thế, có sự xuất hiện giữa chúng ta những đáp ứng “mì ăn liền” trong cả niềm tin trong đời sống đạo. Khi xưa thánh Phaolô đã cảnh báo các tín hữu: Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em, chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống những kẻ không vâng phục (Eph 5, 6). Chúng ta đừng dễ cả tin những cách thế trà trộn lẫn lộn thực hư để đưa dẫn chúng ta vào những sự hão huyền. Chúng ta đừng mắc mưu chạy theo các thần tượng và nghĩ rằng họ có thể đáp ứng mọi nhu cầu tâm linh khao khát của chúng ta.

Bài Phúc Âm, kể câu truyện Chúa Giêsu chữa cho anh mù thành Giêricô. Anh bị mù cả hai mắt và phải đi ăn xin. Anh nghe nói về Đức Giêsu Nazarét, anh đã nhận ra Chúa qua con mắt đức tin: Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! "(Mc 10, 47). Có lẽ nhiều lần anh đã lảng vảng nơi đám đông tụ họp để ăn xin và nghe ngóng. Anh đã nghe và nhận diện ra Đấng có đầy lòng thương xót. Anh biết Đấng đó có uy quyền chữa trị bệnh cho anh. Anh bị mù chứ không phải quáng gà hay loạn thị. Các bác sĩ không thể chữa trị những chứng bệnh như mù, điếc, câm và què từ bẩm sinh. Anh đã chạy đến xin Chúa chữa. Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh? " Anh mù đáp: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được." (Mc 10, 51). Chúa đã chữa lành cho anh ta.

Chúa chữa lành cho anh mù và tức khắc anh nhìn thấy. Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh! " Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi (Mc 10, 52). Ngày nay xuất hiện nhiều thầy lang chữa bệnh nhưng chỉ chữa những bệnh cảm cúm, đau nhức và phong thấp thường ngày. Thời tiết đổi thay, nay khỏe mai yếu. Hằng ngày người bệnh dùng cả thuốc bắc, thuốc nam, thuốc tây và thuốc bổ đủ loại, hiệu qủa sớm muộn tùy duyên. Thật khó bề mà lường được nguyên nhân và hậu qủa của các hiện tượng chữa lành xảy ra. Như lời thánh Phaolô phát biểu: Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em. Thời nay có rất nhiều người cả tin, dễ tin và mê tín dị đoan. Những cảm giác, ảo tưởng, tâm sinh lý, ước muốn và môi trường chung quanh cuốn hút chúng ta vào những mê hoặc và giả tưởng. Chúng ta cần thức tỉnh tâm linh và trải nghiệm những diễn tiến thật sự trong thân xác mình. Chúa Giêsu nói với anh mù: Lòng tin của anh đã cứu anh. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cần một niềm tin tuyệt đối vào danh Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Là Kitô hữu, chúng ta tin vào quyền năng của Chúa Giêsu Kitô. Niềm tin cần được hun đúc, trau dồi học hỏi và thực hành trong đời sống. Tin là sự phó thác hoàn toàn vào việc Chúa quan phòng. Chúng ta bắt đầu Năm Đức Tin (the Year of Faith), Đức giáo hoàng Bênêđictô thứ 16 mời gọi các tín hữu hãy ý thức và sống niềm tin của mình cách chân thành. Chúng ta tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin Kính. Tin vào những mầu nhiệm được mạc khải trong đạo. Tin vào những điều Giáo Hội truyền dạy về sự sống đời này và đời sau. Củng cố niềm tin của mình bằng cách học hỏi lời Chúa, suy gẫm gương của các thánh nhân và thực hành sống đạo. Đức tin cần thấm nhập vào tâm trí, ý chí, ý thức và tuyên xưng qua lời nói và việc làm. Thánh Giacôbê nói về đức tin: Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết (Giac 2, 17).

Chúng ta đang trở về với cội nguồn của niềm tin. Cùng với Giáo Hội hoàn vũ, chúng ta tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin của Công Đồng Nicêa năm 325 (The Nicene Creed). Niềm tin mà chúng ta đã tuyên hứa trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Cậy dựa vào gương sáng của các vị tiền bối đã dám sống chết vì niềm tin vào Đức Kitô. Chúng ta cũng phải củng cố và hun đúc niềm tin sống đạo mỗi ngày. Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ: "Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: "rời khỏi đây, qua bên kia! " nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được (Mt 17, 20). Đức tin là nhân đức đối thần. Trong cuộc sống đạo, chúng ta còn yếu đức tin và nhiều ngờ vực. Trau dồi qua tri thức chưa đủ mà cần kết hợp với Chúa Kitô trong nguyện cầu: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con." (Lc 17, 5).

Lạy Chúa, đức tin của chúng con rất hời hợt và nông cạn, xin thêm lòng tin cho chúng con. Đã nhiều lần chúng con mê hoặc chạy theo những lời mời gọi mơ hồ, giả trá, ảo tưởng và mê tín. Chúng con đã đặt niềm tin vào con người và phương tiện khoa học kỹ thuật trần gian hơn là đặt niềm tin nơi Chúa Kitô. Giờ đây, chúng con xin phó thác trọn vẹn cuộc đời trong tay Chúa, xin Chúa nâng đỡ phù trì.

 

22. Ôi lạy Chúa, xin mở cho con đôi mắt

(Suy niệm của Huệ Minh)

Vài ngày trước đây, thức giấc là mắt trái mở không lên vì ướt và ghèn! Khó chịu vô cùng và hỏi thăm bác sĩ quen về mắt để bác sĩ cho thuốc nhỏ đỡ vì chưa có dịp về thành phố. Có công có việc gì mới đi để kèm theo chứ chẳng lẽ con mắt đau một tí là chạy về. Chạy đi chạy về vừa mệt vừa tốn tiền xe nữa.

Con mắt có vẻ thốn và khó chịu vô cùng. Có lẽ, cảm nghiệm này không phải của riêng người bệnh này nhưng là cảm nghiệm của những ai đã hơn một lần đau mắt.

Đau mắt thôi đã thấy khó chịu như vậy mà nếu như khi ta khiếm thị, ta không nhìn thấy đường, không nhìn thấy vật thể trước mặt ta nữa thì khó chịu biết bao.

Mẹ cho đôi mắt sáng ngời, để nhìn đời và để làm duyên

Trời cho em con mắt màu đen để thương để nhớ để ghen để hờn

Đôi mắt em là cửa sổ tâm hồn,

là bài ca hay nhất, là tuyệt tác của thiên thu.

Con mắt chính là cửa sổ tâm hồn, là cửa sổ để thu tất cả những hình ảnh, những cảnh vật vào tâm hồn con người. Và vì thế, con mắt phải nói đóng vai trò rất quan trọng trong cơ thể của con người. Con mắt đui mù quả là khiếm khuyết lớn cũng như làm cho con người bị giới hạn và thiệt thòi nhiều.

Ngày hôm nay, ta bắt gặp hình ảnh anh chàng mù thành Giêricô con ông Timê tên là Bartimê. Anh ta mù nhưng may mắn là anh còn nghe được. Vì mù, chẳng biết làm gì và cũng chẳng làm gì nên chỉ còn cách duy nhất là ăn xin. Đang ngồi ăn xin nhưng anh nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: "Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi".

Thấy anh kêu như vậy và vì anh là người khuyết tật nên người ta ăn hiếp anh và ta bắt gặp nhiều người mắng anh bảo im đi. Trước thái độ của những người sáng mắt ngăn cản, anh càng kêu to hơn: "Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi".

Hẳn nhiên là lời kêu của anh đã đến tai Chúa Giêsu, không chỉ tai mà còn đập vào mắt Chúa Giêsu hình ảnh của một con người khuyết tật để rồi Chúa Giêsu không đi nữa mà đã dừng lại và truyền mọi người gọi anh đến. Đơn giản, Chúa Giêsu nói với anh: "Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh". Nghe Chúa Giêsu nói và anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu.

Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: "Anh muốn Ta làm gì cho anh?" Người mù thưa: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy". Chúa Giêsu đáp: "Được, đức tin của anh đã chữa anh". Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.

Quá tuyệt vời! Anh mù đã thấy và đã đi theo Ngài.

Dừng lại một chút vì ta choáng. Ta phải đưa ta trở về với thực tại Tin Mừng ngày hôm đó ta mới cảm nhận được sức mạnh của Lời Chúa, của phép lạ mà Chúa Giêsu làm.

Quá sức tưởng tượng với niềm tin của anh chàng Bartimê.

Và, ta cũng có dịp nhìn lại niềm tin của ta.

Niềm tin của ta dường như nó sao sao í! Và nhất là khi ta đủ hai con mắt sáng và rất sáng nữa. Giản đơn là Chúa ban cho ta đôi mắt sáng đó nhưng ta có cảm nhận được đó là quà tặng, là ơn của Chúa đâu. Nếu có thì ta đã cảm nhận và cảm tạ chứ đâu có ai oán là sao Chúa để cho con thế này thế kia? Chúa cho sáng mắt, đó phải chăng là một hồng ân, một quà tặng quá lớn của Chúa không?

Sáng con mắt nhưng mù tâm hồn. Chính vì mù tâm hồn nên đâu có nhìn thấy được ơn Chúa.

Bài hát mà Cha Bạch Văn Lộc khi còn sống rất thích hát và mời mọi người cùng hát. Khi đó, còn bé, nghe thì nghe, hát thì hát đó nhưng cũng chưa hiểu tâm tình của Cha cố Henry:

Lạy Chúa, xin mở mắt con

Biết nhìn kỳ công của Ngài

Trời xanh, tinh tú long lanh

Hoa ngàn cùng muôn muông thú

Ðồi kia ai đắp nên non

Sông dài, trùng dương mênh mông

Biết rằng Ngài đã thương con

Thế mà con đâu có hay!

EPHATA Hãy mở! Mở ra!

EPHATA Hãy mở ra!

EPHATA, EPHATA

Ta phải xin Chúa mở con mắt ta để ta thấy kỳ công của Chúa, kỳ diệu của Chúa ít là ngay bên đời ta thôi.

Thử nhìn lại đi, cách đây 10 năm, 20 năm, 30 năm... cuộc sống của ta như thế nào? Ngày nay ta có nhiều lắm đó chứ! Nhìn lên ta không bằng ai nhưng khi nhìn xuống ta lại chợt thấy có nhiều người không may mắn như mình.

Ở gần Mẹ, mỗi tuần lại được nhìn thấy những lời khấn, những lời xin của con cái Mẹ từ khắp nơi về lại thấy có điều gì đó man mác buồn.

Mẹ ơi! Xin Mẹ cho con được ơn, được tiền để trả nợ Mẹ ơi! Chồng của con vướng vào ma túy, xin Mẹ cho anh ơn hoán cải. Mẹ ơi! Con của con mê chơi game, xin Mẹ cho con của con đừng mê game nữa.

Mẹ ơi! Mẹ ơi...

Nhìn lại mình, dĩ nhiên vẫn còn đó những chứng bệnh như rối loạn tiền đình, như viêm tai... nhưng, vẫn may mắn là còn tiền và có tiền để đi khám và chữa bệnh. Cũng như may mắn hơn nữa là có người này người kia là nhân viên ở các bệnh viện thấy khờ khờ từ quê lên tỉnh nên chỉ vẽ, hướng dẫn cho để khỏi bị la. Vào bệnh viện, dễ bị người này người kia ăn hiếp vì khờ khạo lắm vì nhà quê lên tỉnh.

Nhìn lại thì thấy sao Chúa thương mình và không xin cho mình hết bệnh mà xin cho mình đủ sức để gánh bệnh và gánh bệnh cho biết với người ta.

Nói đến đây lại nhớ có vài lần vào bệnh viện, người quen dù biết mình bận rộn, dù cũng thương và lo cho mình đó nhưng lại bảo là cứ chờ để cho biết người người nghèo!

Hay! Đúng! Có khi phải chờ, phải đợi như thế mới có cái cảm của người nghèo chứ không thì không có cơ hội để cảm cái khó khăn của người nghèo khi vào bệnh viện.

Và cũng vui là có lần vào viện, tưởng là được khám ngay nhưng không, bị vịn lại vì huyết áp cao quá. Nhân viên bảo là nhiều khi được thương chưa hẳn là tốt, mấy em nó đưa đi vội vội và lên cầu thang nên huyết áp cao mà cái huyết áp này là huyết áp giả nên rất khó để khám bệnh.

Thế đó, phải chờ, phải đợi để có cái cảm với người nghèo, người khác.

Đời ta, ta may mắn, ta hạnh phúc hơn nhiều người nhưng đôi mắt của ta vẫn không thấy, vẫn chưa thấy. Ngày nào mang nỗi đau tôi mới hổi nỗi đau là gì, ngày nào trong khát khô tôi mới hiểu phận người ăn xin, chỉ cần một ly nước thôi, chỉ cần bát cơm vơi...

Ta còn may mắn, ta con hạnh phúc hơn nhiều người nhưng con mắt đức tin của ta khép lại, mù quáng vì ta chạy theo vất, của thế gian và phù hoa. Khi ta để cho tiền của, quyền lực, danh vọng lâp đầy lòng ta, lấp đầy mắt ta thì khi đó ta không còn thấy Chúa nữa. Và khi đó, ta lại thủ thỉ, thỏ thẻ với Chúa:

Ôi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt,

Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi.

Con mù lòa, bên vệ đường hành khất,

Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài.

 

23. Học hỏi Phúc Âm Chúa nhật XXX Thường niên - Năm B. Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J.

 

Lời Chúa: Mc 10,46-52
46Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê. 47Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!" 48Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!" 49Đức Giêsu đứng lại và nói: "Gọi anh ta lại đây! "Người ta gọi anh mù và bảo: ‘Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!’ 50Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. 51Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?". Anh mù đáp: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được". 52Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!". Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

Học hỏi:

1. Phép lạ ở Mc 10,46-52 là phép lạ thứ mấy trong Phúc âm Máccô? Có mấy phép lạ chữa người mù trong Phúc âm Máccô?
 
2. Bạn biết gì về thành phố Giêrikhô? Đức Giêsu ra khỏi Giêrikhô để đi đâu? Đọc Mc 10,32; 11,11,1.
 
3. Phúc âm Máccô có khi nào nói tên của một người được Đức Giêsu chữa lành không?
 
4. Đức Giêsu được anh mù gọi là "Con vua Đavít", tước hiệu đó nghĩa là gì? Đám đông ở Mc 11,1-11 có nhìn nhận Đức Giêsu là "Con vua Đavít" không? Đức Giêsu có nhận mình là "Con vua Đavít" không?
 
5. Tại sao nhiều người bắt anh câm đi? Tại sao anh lại càng kêu lớn? Bạn có thấy những người muốn được khỏi bệnh đều cần có lòng tin kiên vững không? Đọc Mc 2,4; 5,27-28; 5,35-36; 7,27-29; 9,17-24.
 
6. Khi nghe hai lời kêu xin của anh mù ở Mc 10,47.48, bạn cảm thấy điều gì trong lòng? Lời xin của anh mù có quen thuộc với chúng ta không?
 
7. Đọc Mc 10,51. Anh mù gọi Đức Giêsu bằng tước hiệu gì? Câu hỏi của Đức Giêsu đối với anh mù, ta đã từng gặp ở đâu? Nghe cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và anh, bạn cảm thấy gì?
 
8. Đọc Mc 10,52. Bạn thấy cách chữa anh mù ở đây có khác với cách chữa ở Mc 1,31. 41; 5,27. 41; 7,33-34; 8,22-26 không?
 
9. Theo ý bạn, điểm nổi bật nơi con người anh mù là gì? Sau khi anh mù được sáng mắt, anh đã làm gì? Đâu là sự thay đổi của anh? Anh mù đã được sáng về mặt nào?
 
10. Nếu hôm nay Chúa Giêsu hỏi tôi: "Con muốn Ta làm gì cho con?" tôi sẽ trả lời ra sao? 

24. Người mù.

Đêm nọ, có một người mù đến thăm bạn. Khi về, người bạn sáng mắt tặng cho anh ta một chiếc đèn lồng theo thói quan của người Nhật thời xưa. Thế nhưng anh mù bèn nói: Tôi không cần đèn, vì đối với tôi, tốt và sáng cũng như nhau. Nhưng người bạn trả lời: Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái, thì người khác có thể chạy đụng vào anh, anh nên cầm đi. Nghe hợp lý, anh mù ra về vời chiếc đèn lồng trên tay. Đi được một quãng, đột nhiên anh bị một người đụng phải. Với vẻ tức giận anh nói: Bộ anh không thấy chiếc đèn của tôi đó sao? Người kia liền đáp: Đèn của anh tắt rồi.

Với câu chuyện này, anh mù tưởng mình thấy, còn người kia thì không thấy chiếc đèn. Thế nhưng chính anh mới không thấy rằng đèn mình đã tắt. Con người tưởng mình thấy được nhiều chuyện nhưng lại quên hay cố tình quên nhiều cái mình không thấy.

Từ những ý tưởng trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Anh mù mang tên gọi Bartimê, có nghĩa là con của ông Timê: nghề nghiệp ăn xin, địa chỉ cư trú là lề đường thành Giêricô. Anh vừa nghèo nàn lại vừa tàn tật. Và dưới mắt người Do Thái thì đó là dấu chỉ bị Chúa trừng phạt, vì tội lỗi của bản thân hay vì tội lỗi của cha ông thuở trước. Anh bị bỏ rơi và sống bên lề xã hội. Người ta không cho anh nói ngay cả khi anh lên tiếng kêu cầu Chúa giúp đỡ.

Như thế người Do Thái tưởng rằng mình thấy rõ anh, nhưng thực ra họ lại không thấy mình bị sai lầm, không thấy nhu cầu sáng mắt của anh vượt trên những đồng tiền bố thí. Còn anh mù, tuy không trông rõ vạn vật nhưng lại thấy được chiều sâu của con người. Anh thấy Chúa Giêsu là con vua Đavít là Đấng Messia. Anh thấy quyền năng của Ngài có thể giúp đõ anh một cái gì khác hơn là tiền bạc. Và như thế có một sự trái ngược: người mù đã thấy được nhiều cái mà người sáng mắt không thấy.

Chúng ta có thể phân biệt hai loại mù. Mù thể xác và mù tâm hồn. Mù thể xác thì không thấy được vạn vật, còn mù tâm hồn thì đa dạng hơn, chẳng hạn như không hiểu được những gì cần phải hiểu, không khao khát sự công chính và ơn cứu độ. Không phân biệt đâu là chân thiện mỹ... Và trên tất cả, đó là không thấy mình đang sống như người mù. Có mắt mà không nhìn và có nhìn thì cũng chẳng thấy.

Với chúng ta những người Kitô hữu cũng thế: đừng thấy người nào siêng năng đi lễ đọc kinh, ăn ngay ở lành mà đã vội cho là đủ. Đừng thấy buổi lễ rình rang với trống kèn inh ỏi thì cho rằng lễ đó trang trọng, đạt yêu cầu. Đừng thấy Giáo Hội là một tổ chức chặt chẽ, nhà thờ và tháp chuông được xây cất, vội cho rằng đạo đang được phát triển. Nhưng phải như anh mù xin cho mình được thấy, thấy rõ hơn, thấy chính xác hơn: thấy Đức Kitô là Đấng cứu độ, để rồi như anh mù rời bỏ vệ đường, dứt khoát, tìm đến với Ngài. Mặc dù chúng ta là những người có cặp mắt sáng về thể xác, nhưng biết đâu lại mù loà về tâm hồn, cho nên cùng với người mù qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta hãy kêu cầu: Lạy Chúa, xin thương xót con và cho con được sáng.

 

25. Xin thương xót tôi.

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Con mắt là một bộ phận hết sức mong manh, dễ bị tổn thương, dễ bị nhiễm trùng, nhất là trong điều kiện vệ sinh ngày xưa.

Chúng ta không rõ nguyên nhân khiến anh Báctimê bị mù, chỉ biết anh không mù từ lúc lọt lòng mẹ. Anh đã từng được thưởng thức ánh nắng ban mai hay nhìn ngắm những người thân yêu, bè bạn. Bây giờ chỉ có bóng tối triền miên. Anh Báctimê sống bằng nghề hành khất, ngồi ăn xin bên vệ đường, sống bên lề xã hội.

Danh tiếng của Đức Giêsu Nagiarét, anh đã được nghe nhiều. Ngài có thể làm người mù bẩm sinh sáng mắt. Anh tin vào Ngài, thầm mong có ngày được gặp.

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc hạnh ngộ ấy.

Rất tình cờ, Đức Giêsu đi ngang qua đời anh. Anh mù lòa, ngồi đó như chỉ chờ giây phút này. Khi nghe biết là Đức Giêsu cùng với đám đông đi qua, anh thấy cơ may đã đến.

Tất cả sức mạnh của anh nằm ở tiếng kêu, tiếng kêu thống thiết bi ai của một người đau khổ, nhưng cũng là tiếng kêu đầy tin tưởng, hy vọng. "Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!"

Tiếng kêu báo hiệu một sự hiện diện, một cầu cứu.

Nhiều người muốn bịt miệng anh, nhưng anh chẳng sợ gì đe dọa. Càng bị đe dọa, anh càng gào to hơn nhiều. Cuối cùng tiếng của anh đã đến tai Đức Giêsu. Ngài dừng lại và sai người đi gọi anh, vì Ngài cũng chưa rõ anh đang ở đâu. Khi biết mình được gọi, anh vội vã và vui sướng vất bỏ cái áo choàng vướng víu, nhẩy cẩng lên mà đến với Đức Giêsu.

Anh đi như một người đã sáng mắt, bởi thực ra mắt của lòng anh đã sáng rồi. Khi được khỏi, lòng tin của anh thêm mạnh mẽ hơn.

Anh thấy lại mặt trời, anh gặp Đấng cho anh ánh sáng. Không ngồi ở vệ đường nữa, anh đứng lên đi theo Đức Giêsu.

"Xin thương xót tôi. Xin cho tôi nhìn thấy lại." Đây có phải là tiếng kêu của tôi không?

Khả năng thấy là một khả năng mỏng dòn. Ta có thể thấy điều này mà không thấy điều kia. Tôi có thể lúc thấy lúc không, hay cố ý không muốn thấy. Lắm khi tôi không đủ sức để ra khỏi sự mù lòa của mình. Tôi có kêu gào với Chúa để xin được ơn thấy lại không?

Một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có thể mù lại. Chính vì thế tôi cứ phải xin cho mình được thấy luôn.

Thấy mình bé nhỏ, thấy Chúa bao la, thấy anh em dễ mến.

Thấy là đi vào một con đường dài hun hút.

Chúng ta phải được Chúa xóa mù suốt đời.

Chỉ trong ánh sáng của Chúa, tôi mới nhìn thấy ánh sáng.

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn nghĩ gì về nạn hành khất ở nơi bạn sống? Đâu là nguyên nhân? Đâu là cách giải quyết tốt nhất?

Nhiều người tự giam mình trong sự mù lòa. Họ chỉ thấy điều họ muốn thấy. Họ bị khép kín trong thế giới chủ quan của họ. Có khi nào bạn thấy mình mù lòa về bản thân không? Làm sao bạn được sáng mắt trở lại?

Cầu Nguyện

Như người mù ngồi bên vệ đường xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, những giả hình và che đậy.

Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con cả những khi con không cảm nghiệm được.

Xin cho con thực sự muốn thấy, thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa chiếu dãi vào bóng tối của con.

Như người mù ngồi bên vệ đường xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

 

26. Lòng thương – Lm Giuse Phạm Thanh Liêm

Nỗi khổ của con người

Anh mù ngồi bên vệ đường, ăn xin, sống nhờ lòng thương của con người. Nếu ai đã từng bị sống trong tăm tối hay quan sát người mù, sẽ thấy bị mù cực khổ như thế nào! Phải ăn xin cũng là một nỗi khổ, và hơn nữa phải tùy thuộc người khác trong nhiều lãnh vực: đi lại và những nhu cầu tối thiểu của con người. Hiểu được như vậy, sẽ dễ dàng cảm thông tiếng kêu của anh mù hơn: “Lạy Con Vua Đavit, xin thương xót tôi”.

Không phải chỉ có bệnh mù về thể lý, nhưng còn có mù về thiêng liêng nữa. Mù thể lý ngăn cản người ta thấy những gì là vật chất, còn mù thiêng liêng ngăn cản người ta thấy sự thật. Mù làm khổ mình và khổ cả người khác nữa.

Được sáng, thật hạnh phúc dường bao!

Đức Giêsu thương cảm trước nỗi khổ của con người

Những người đang hiện diện ở đó đòi người mù im lặng, nhưng anh ta lại càng la to hơn. Tại sao những người ở đó đòi anh mù im lặng? Có thể họ nghĩ tiếng kêu của anh mù vô ích, vì chẳng ích lợi gì? Đức Giêsu làm gì có tiền mà bố thí cho anh mù! Và hơn nữa, làm sao Đức Giêsu có thể chữa cho anh mù thấy được? Có lẽ không phải họ không thương anh mù cho bằng họ nghĩ Đức Giêsu chẳng giúp gì được cho anh mù. Anh ta nên im đi thì tốt hơn.

Dù bị ngăn cản và phản đối, anh mù vẫn la, và càng la to hơn. Anh ta hy vọng tiếng kêu của anh ta tới tai Đức Giêsu và được Ngài thương xót: “Lạy Con Vua Đavit, xin thương xót tôi”. Anh ta là người tin vào Đức Giêsu, chờ đợi và hy vọng nơi Đức Giêsu hơn bất cứ ai trong trường hợp này. Và tiếng kêu của anh ta đã lọt vào tai Đức Giêsu, và Ngài đã bị “đáng động” bởi tiếng kêu này. Đức Giêsu rung động trước nỗi khổ của con người.

Thiên Chúa vẫn thương cảm trước nỗi khổ của con người. Ngày xưa dân Do Thái khi bị nô lệ cực khổ bên Ai-cập, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã thương giải phóng họ khỏi Ai-cập. “Những ai vất vả và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho” (Mt.11, 28): Đức Giêsu cũng luôn thương cảm trước nỗi khổ của con người.

Tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, và kêu cầu Ngài, Ngài sẽ đáp cứu.

Hãy thương cảm trước nỗi khổ của con người như Đức Giêsu

Thương cảm trước nỗi khổ của con người, là nét đặc trưng của Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng muốn con người thương cảm trước nỗi khổ của anh em mình như Ngài. Người đầy tớ “không biết thương xót” anh em mình, sẽ không được thương xót (Mt.18, 23-35).

Rung động trước nỗi khổ của anh em mình, là trở nên người hơn, trở nên con Thiên Chúa hơn. Ước gì con người biết thương cảm và yêu thương người khác trong hoàn cảnh khốn khổ của họ. Ngay cả khi không có gì để cho, hoặc có rất nhiều điều để cho người khác, thì tình yêu thương vẫn là món qùa qúy nhất.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Bạn đã rung động trước nỗi khổ của con người chưa? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm.

2. Điểm nào đáng động bạn nhất khi nghe đọc đoạn Tin Mừng Mc.10, 46-52 trên?

3. Đức Giêsu đã bao giờ chữa bệnh mù cho bạn chưa? (Đức Giêsu có giúp bạn thấy rõ một điều gì mà trước đó bạn bị nô lệ bao giờ chưa? Nếu có xin chia sẻ.)

 

27. Tới nguồn sự sáng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Cảnh tượng này cho ta thấy đời anh bị bao phủ bởi nhiều thứ bóng tối.

Trước hết là bóng tối thể lý. Không có đôi mắt, đời anh chìm trong tăm tối. Không biết thế nào là ánh sáng. Không biết thế nào là cảnh thiên nhiên. Không nhìn được khuôn mặt của những người thân. Không tự mình làm gì được. Không tự mình sinh sống được. Chẳng biết có ánh sáng ban ngày. Đời anh chìm ngập một bóng đêm. Bóng đêm dày đặc không một chút ánh sáng. Bóng đêm triền miên không bao giờ chấm dứt. Tất cả là một màu đen. Thế giới màu đen. Quần áo anh mặc màu đen. Khuôn mặt mọi người đều màu đen. Cơm anh ăn hằng ngày cũng màu đen. Một màu đen muôn thủơ.

Kế đến là bóng tối xã hội. Vì tàn tật anh trở thành người dư thừa trong xã hội. Anh bị loại trừ khỏi xã hội. Chỉ còn ngồi bên vệ đường mà ăn xin. Như cây cỏ mọc bên đường thôi. Thậm chí khi Chúa đến, mọi người nô nức đón Chúa. Còn anh chỉ kêu lên thôi cũng đã bị người ta cấm đoán, đe nẹt rồi. Anh không có quyền gì hết. Vì anh chỉ là thân phận sống nhờ ở đậu.

Sau cùng là bóng tối tâm lý. Cuộc đời anh không có lối thoát. Anh bị kết án suốt đời chịu giam cầm trong bóng tối. Làm sao thoát ra được khi anh không thể tự mình làm gì. Khi mọi người kể cả những người thân ruồng bỏ anh. Khi xã hội gạt anh ra bên lề cuộc sống.

Nhưng Đức Kitô đem đến cho anh ánh sáng ngập tràn.

Người chiếu vào đời anh ánh sáng hy vọng. Tuy chưa được gặp Chúa, nhưng chỉ nghe những lời Chúa giảng, những việc Chúa làm anh đã tràn trề hy vọng. Chúa có thể giải thoát anh khỏi định mệnh tăm tối vây bọc cuộc đời anh. Người có thể đưa anh tới miền ánh sáng. Tương lai anh sẽ thay đổi. Cuộc đời anh sẽ tươi sáng. Anh tràn ngập niềm hy vọng. Niềm hy vọng trở thành ánh sáng chiếu soi cuộc đời anh.

Người chiếu vào đời anh ánh sáng đức tin. Tuy chưa gặp Chúa nhưng anh đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Không tin sao được vì chỉ có Chúa là Đấng duy nhất có thể cứu anh khỏi bóng tối. Vì thế thoạt nghe tiếng Chúa anh đã kêu van lớn tiếng xưng tụng Người là Con Vua Đavít nghĩa là Đấng Cứu Thế. Có lẽ những người đi đón Chúa hôm ấy đều có đôi mắt sáng. Nhưng không ai có ánh sáng đức tin. Vì không ai tin Chúa là Đấng Cứu Thế. Trừ anh mù. Mắt anh mù nhưng đức tin của anh sáng. Nên anh là người duy nhất lớn tiếng tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu Thế. Niềm tin của anh thật mãnh liệt. Dù bị mọi người chung quanh ngăn cản, niềm tin ấy không những không bị suy yếu mà còn càng trở nên mạnh mẽ hơn. Bị mọi người đe dọa, cấm cản, niềm tin của anh càng vững vàng không gì có thể lay chuyển được, nên anh càng kêu to hơn.

Người đã chiếu vào đời anh ánh sáng tình yêu. Chúa là tình yêu. Chúa không nghe bằng tai nhưng nghe bằng trái tim. Vì thế giữa đám đông hỗn độn của thành Giêricô phồn hoa, Chúa vẫn nghe được tiếng kêu van của một người con bé nhỏ ngồi bên vệ đường. Không những Chúa nghe thấy tiếng lòng khốn khổ của anh mà Chúa còn ưu ái gọi anh đến. Thật là một cử chỉ ưu ái quá sức tưởng tượng. Giữa đám đông trong một thành phố phồn hoa, Chúa chẳng gọi ai trừ ra người mù ngồi bên vệ đường. Chúa chẳng chờ đợi ai trừ ra chờ đợi người con nhỏ bé tội nghiệp bị bỏ rơi nhất thành phố đến với Chúa. Đời anh chưa được ai yêu thương như thế. Đời anh chưa được ai quan tâm như thế. Đời anh chưa được ai mời gọi như thế. Đời anh chưa được ai chờ đợi như thế. Và Chúa còn hỏi anh muốn gì. Đời anh chưa được ai âu yếm như thế. Tình yêu Chúa làm cho đời anh bừng sáng. Anh tìm thấy tất cả ý nghĩa cuộc đời khi gặp được Chúa.

Chúa đem ánh sáng đến cho anh. Chúa là tất cả đời anh. Anh không cần gì khác nữa. Anh vất bỏ cả áo choàng là tài sản duy nhất. Vì anh đã khám phá ra kho tàng quý giá nhất đời. Anh đứng phắt dậy mà đến với Chúa vì tuy mắt chưa nhìn thấy mà lòng anh sáng như sao băng. Và nhất là anh đi theo Chúa cho đến cùng vì Chúa chính là ánh sáng cho đời anh. Chúa sẽ dẫn đường anh đi. Đi đến sự thật và đến sự sống.

Đời sống tôi có nhiều bóng tối vì tôi chưa tin vào Chúa. Đời sống tôi bế tắc vì tôi chưa đặt niềm hy vọng vào Chúa. Đời tôi mệt mỏi chán chường vì tôi chưa yêu mến Chúa. Hãy tin tưởng vào Chúa. Ánh sáng đức tin sẽ chiếu soi đường đời tôi đi. Hãy hy vọng vào Chúa. Niềm hy vọng là ánh sáng ấm áp cho cuộc đời. Hãy yêu mến Chúa. Tình yêu Chúa là ánh sáng hướng dẫn mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của tôi. Hãy noi gương anh mù thành Giêricô bỏ tất cả mà theo Chúa. Sống bên Chúa đời tôi sẽ ngập tràn ánh sáng.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Hãy kể ra những thứ bóng tối trong đời anh mù thành Giêricô.

2) Hãy kể ra những thứ ánh sáng Chúa đã chiếu vào đời anh

3) Tại sao anh mù sau khi hết mù đã đi theo Chúa?

4) Bạn có bị bóng tối nào bao phủ đời bạn không?

5) Bạn có tìm thấy Chúa là ánh sáng cho đời bạn không?

 

28. Chúa chữa anh mù Bactimê

(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Khảm)

Trong bài hát Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi, chúng ta hát lên: “Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục...” Chúng ta lại hát tiếp: “Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu”.

Lời kinh này không chỉ là một lời cầu nguyện mà còn là một lời kinh diễn tả lối sống đích thực của mỗi người Kitô hữu. Như vậy bổn phận của mình không phải chỉ là đem yêu thương vào nơi oán thù mà còn phải dọi ánh sáng vào nơi tối tăm.

Có một câu chuyện kể như thế này:

Một anh mù đi thăm một người bạn. Đã lâu không gặp nên đôi bạn hàn huyên mãi quên cả thời gian. Khi trời tối mịt thì anh mù mới cáo từ ra về. Anh bạn bảo: “Thôi để tôi thắp cho anh cái đèn, trời tối quá rồi”. Anh mù nghĩ là bạn muốn đùa nên trả lời: “Anh muốn đùa hả? Tôi mù thì ngày và đêm có khác gì nhau đâu”. Anh bạn vội vàng xin lỗi nói: “Tôi đâu có dám đùa với anh, ý tôi là anh nên cầm cái đèn để người ta sẽ thấy sáng và không đụng phải anh”. Anh mù nghe nói có lý liền vui vẻ hiên ngang xách đèn ra về. Đi được một đoạn thì có một người đi ngược chiều đụng phải, làm anh mù ngã xuống vệ đường. Quá tức giận, anh lồm cồm ngồi dậy chửi đổng: “Đồ đui, người ta cầm cái đèn sáng như thế này mà không thấy hả?”. Người kia liền mắng lại: “Mày mới là đồ đui, đèn tắt mẹ từ lúc nào mà còn chửi người ta”.

Coi chừng chúng ta lại rơi vào tình trạng như thế. Nếu mình rơi vào tình trạng đấy thì rất nguy hiểm. Làm sao có thể dọi ánh sáng vào nơi tối tăm khi mà chúng ta không có ánh sáng, hoặc ánh sáng chúng ta đã bị tắt ngấm từ lâu.

Đặt câu hỏi như thế thì chúng ta thấy anh mù Bactimê sẽ trở thành gần gũi với mình hơn. Anh ta không còn là khuôn mặt xa lạ của 20 thế kỷ trước, mà giờ đọc lại mình có cảm tưởng như là đọc truyện cổ tích. Anh ta giờ trở thành một khuôn mặt mời gọi mình suy nghĩ về vấn đề của chính cuộc đời mình.

Ngày nay người ta nói đến mù chữ, vài năm nay lại thêm mù vi tính. Một thứ mù về mặt trí tuệ. Phúc Âm kể cũng có lần Chúa Giêsu mắng các môn đệ: “Các ngươi có mắt mà cũng như mù”. Và đây là một thứ mù về mặt tâm linh.

Khi kể câu chuyện này tôi không nhắm đến mù thân xác, vì thời đó có rất nhiều người mù, nhưng Chúa Giêsu không chữa cho tất cả. Ngài chỉ chữa cho một số người mang tính biểu tượng. Cũng không phải thánh Maccô nói đến mù chữ, vì chúng ta không nghe kể Chúa Giêsu mở lớp tình thương để dạy học. Như vậy chắc chắn là thánh Macco nhấn mạnh mù về mặt tâm linh, mù về mặt tinh thần. Ta có thể hiểu như thế nào về tình trạng mù này?

Có một câu chuyện kể về các người mù rủ nhau đi xem voi. Xem xong thì cùng nhau ngồi lại bàn tán, mô tả xem con voi nó giống như cái gì?

Anh sờ được cái chân thì dõng dạc tuyên bố: con voi nó giống như cái cột nhà.

Anh khác thì oang oang: con voi nó giống như cái quạt. Vì anh này rờ được ngay cái tai của nó.

Còn các anh sờ cái bụng, cái vòi. Ta không biết họ sẽ mô tả con voi giống như cái gì.

Suy nghĩ kỹ chuyện này thì thấy cũng thấm thía lắm. Tôi muốn chia sẻ với anh chị em là: chúng ta có thể rơi vào tình trạng mù về mặt tinh thần, có nghĩa là ta không nhìn thấy được chân lý toàn diện về cuộc sống. Ta chỉ nhìn thấy chân lý phiến diện như anh mù mô tả con voi “nó giống như cái cột nhà”, như thế là rất phiến diện.

Từ 30 năm về trước, một nhà xã hội học Mỹ... đã lên tiếng về con người thời đại. Ông gọi: “Con người một chiều kích”. Tôi thấy nhận xét ấy vẫn đúng cho đến ngày nay và chắc có lẽ càng ngày sẽ càng đúng hơn.

Cuộc sống con người chúng ta được đan kết bằng nhiều chiều kích. Có một chiều kích hướng thượng, mình gọi là chiều dọc trong mối quan hệ với Thiên Chúa. Có một chiều kích ngang nữa, trong quan hệ bình đẳng yêu thương đối với mọi người, và có một chiều quan hệ đối với thế giới vật chất.

Càng ngày con người ta càng quên mất cái chiều hướng thượng, quên mất mối quan hệ hàng ngang với anh em trong tình yêu thương, mà chỉ quan tâm đến quan hệ tình bạn với thế giới vật chất.

“Con người một chiều kích”. Chúng mình không khám phá, không sống được cái chân lý toàn diện về cuộc sống của con người. Nguyên nhân nào có thể dẫn đến tình trạng đó.

Trở lại với hoàn cảnh của những anh em khiếm thị. Hầu hết đều bị mù từ lúc mới sinh. Có một số do tai nạn sau này. Nếu hiểu mù là mình không thấy sự vật thì cũng có lúc mình cũng không nhìn thấy mặc dù mắt mình vẫn sáng. Chẳng hạn như có sự cố cúp điện hay lúc mình bị đau mắt phải lấy khăn che mắt cho đỡ chói, đỡ nhức. Những hình ảnh ấy khiến tôi nghĩ đến tình trạng mù về mặt tinh thần. Nếu bảo về tinh thần mù lòa từ lúc mới sinh thì không thể tin được.

Tất cả mọi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa đều ban tặng cho mọi người khả năng nhận biết chân lý.

Ta có thể rơi vào tình trạng mù tâm linh là do nguyên nhân thứ 2, thứ 3. Nghĩa là mình thiếu ánh sáng. Do những hoàn cảnh và những môi trường sống.

Hiểu như vậy, ta thấy rằng hầu hết chúng ta đều là những người mù đáng thương về mặt tâm linh. Vì vậy, chúng ta hãy khiêm tốn chạy đến với Chúa để người chữa trị. Người sẽ giúp chúng ta nhìn thấy chân lý toàn vẹn. Người sẽ giúp chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Cha của chúng ta và mọi người là anh em của ta. Người sẽ giúp ta nhận ra con đường tiến về nhà Cha trên Trời. Con đường đó là con đường Chúa Giêsu đã đi và đã tới đích. Và đó cũng là con đường hẹp, con đường ngược dốc, con đường thập giá nhưng là con đường dẫn đến sự sống vinh quang và vĩnh cửu. Amen.

29. “Đức tin của anh đã cứu anh” - Yvon Daigneault.

 

Một kinh nghiệm thắm thiết của tôi là chứng kiến đức tin tinh tuyền và trong sáng của một con người. Niềm tin tưởng đạt đến một mục tiêu, dù táo bạo tới đâu đi nữa cũng sinh ra những hậu quả có vẻ lạ lùng. Niềm tin của một số người khuyết tật, mong muốn được giải phóng khỏi những gì giam hãm họ, niềm tin của những nghệ sĩ muốn sáng tạo được một tác phẩm, niềm tin của bao nhiêu người nam người nữ muốn dấn thân vào những sự nghiệp có vẻ tuyệt vọng là những giá trị nhân bản nâng đỡ và khích lệ con người trước mọi khó khăn.

Lớn hơn nữa, đáng phục hơn nữa là đức tin của một người đau khổ khốn cùng tìm đến với Thiên Chúa và van xin Ngài xót thương. Thiên Chúa xúc động vì sự tin tưởng của người ấy nên đã dịu dàng nói với anh ta: “Hãy về đi, đức tin của anh đã cứu anh”.

Tin và gặp gỡ Thiên Chúa.

Đức tin chính là mối tương quan mà Chúa mời gọi chúng ta nối kết với Ngài. Đây không phải là một đòi hỏi xa lạ. Tất cả những mối tương quan của chúng ta đều dựa trên lòng tin và sự tin tưởng: Cuộc sống hôn nhân, việc giáo dục con cái, những tình bạn, sự cộng tác trong công việc. Khi người ta không tin tưởng nhau nữa, thì những mối tương quan sẽ sụp đổ. Trái lại, sự tin tưởng lẫn nhau, sự tôn trọng và lòng kiên nhẫn giúp ta tạo lập những mối liên hệ vốn thuộc hàng những yếu tố tốt đẹp nhất và sáng tạo nhất của cuộc sống.

Đối với Thiên Chúa cũng vậy, Ngài không thiếu tin tưởng nơi chúng ta. Chính chúng ta mới là kẻ nghi ngờ và lo âu trước mặt Ngài: vì một vết nhơ tội lỗi cũ và tính kiêu ngạo nhỏ nhen của chúng ta.

Thiên Chúa kêu gọi chúng ta. Lời đáp trả nảy sinh chậm rãi trong lòng chúng ta. Lúc ban đầu chúng ta không biết, chúng ta không thấy, chúng ta không hiểu rõ. Chúng ta không biết Thiên Chúa muốn gì, tin nơi Ngài là gì? Phó thác cho Ngài là gì? Thế nào là cam kết vâng phục Ngài, đặt lời Ngài ở trung tâm cuộc sống chúng ta, đặt trọn cuộc sống của chúng ta theo ý Ngài? Và lời hứa một mối tương quan hữu nghị cho ta được sống đời đời với Ngài là gì?

Người mù thành Giêricô biết tin tưởng

Bài đọc Tin Mừng Chúa nhật hôm nay cho chúng ta chứng kiến đức tin của một con người như chúng ta. Đức tin không dễ đến với người ấy. Lúc ban đầu dường như đức tin khó khăn đối với anh ta hơn là đối với những kẻ khác, tật mù loà đã loại anh ra khỏi cộng đồng nhân loại và đã đẩy anh vào một nỗi cơ cực lớn. Không có gì là thuận lợi cho đức tin của anh. Xem ra anh ta hy vọng cách hão huyền khi xác tín về một phép lạ có thể xảy đến… Anh sống thực tế nên không tin được rằng người ta có thể làm cho một người mù trở nên sáng mắt.

Chúng ta phải ý thức một thực tại: đức tin được Thiên Chúa ban cho chúng ta chứ không phải nhờ những phương tiện của chúng ta mà đạt được. Ở đây, trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người mù này, Chúa Giêsu đã thu hút anh một cách nhiệm mầu: nhờ uy tín của danh hiệu “Con Vua Đavít” mà dư luận đã thổi vào tai anh. Anh mù này không thể đến với Chúa Giêsu. Điều mà anh không dám mơ tưởng trong lòng đã xảy ra. Chúa Giêsu tiến lại phía anh, và Ngài gọi anh. Ơn đức tin được ban cho anh và anh đáp lại bằng việc hiến dâng mình một cách trọn vẹn, một bước nhảy vọt hướng về Thiên Chúa. Lúc đó anh dám xin Chúa Giêsu điều không thể được. Nhìn thấy, nhìn thấy Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu đã ban cho anh do bởi lòng tin của anh.

Điều quan trọng trong cuộc gặp gỡ này không phải là phép lạ, Chúa Giêsu không nói với anh mù: “Đức tin của anh đã cho anh sáng mắt”, Ngài nói với anh: “Đức tin của anh đã cứu anh”, nghĩa là: vì anh đã tin nên giữa anh và tôi, có một mối liên hệ vững bền, mối liên hệ cứu độ, mối liên hệ của Giao ước mới.

Có quá đáng không khi nghĩ rằng, đối với một số tín hữu, đức tin là một gánh nặng? Tuy nhiên về phía Thiên Chúa ban đức tin cho chúng ta, nó là một ánh sáng, một sự giải thoát, một tình bạn với Ngài, một niềm cậy trông không thể thất vọng được. Tin là đón nhận Thiên Chúa trong đời mình với một niềm tin tưởng của trẻ thơ.

30. Lòng tin của anh đã cứu chữa anh!

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Các đề tài liên quan đến các khuyết tật như câm, điếc, mù lòa… xem ra dễ trình bày và hình như cấu trúc xưa nay ít đổi thay. Trước hết đề cập đến các nổi khổ đau của những người mang khuyết tật về thể lý. Nào là chuyện câm thì không thể, đúng hơn là rất khó giao tiếp với tha nhân, rồi chuyện mù thì không được diễm phúc nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không thấy được vẻ đẹp của hạt sương long lanh trên cành hoa, không thấy được khuôn mặt của người đối diện, vân vân và vân vân. Rồi sau đó lại triển khai nổi khốn khổ của những người mắc các khuyết tật tinh thần hay tâm linh như chuyện có mắt mà như mù, có tai mà chẳng biết nghe hay không thèm nghe…và dĩ nhiên sẽ kéo theo những mối nguy hại cho bản thân họ hay cho xã hội.

Trong văn thơ có thể loại được gọi là “huề vốn” nghĩa là có nói cũng không thêm gì. Một ví dụ: “Đứng bên này sông thấy bờ bên kia sông. Bơi qua bờ bên kia thì thấy bờ sông bên này. Bơi ra giữa sông, hụp đầu xuống thì không thấy bờ sông nào.” Đã là người thì không một ai đành cam chịu cảnh mù lòa khi còn khả năng làm sáng đôi mắt. Cũng chẳng một ai thấy dễ chịu khi đang sáng mắt mà bị chê trách là đui mù. Xin cũng được dùng kiểu nói “huề vốn” để vào thẳng vấn đề, đúng hơn là để luận bàn đôi điều về điều gọi là “thấy”. Ai là người đang bị mù? Thưa đó là những người không thấy.

Đó là những ai không thấy người anh chị em mình đang túng cực, nghèo khổ mong kiếm cho được ba chục ngàn mỗi ngày để sinh sống, chưa kể nếu có người thân phải cưu mang. Đó là những ai không thấy người anh chị em của mình đang bị bóc lột sức lao công do bởi những người lắm tiền, nhiều quyền trong xã hội. Đó là những ai không thấy anh chị em của mình đang bị đối xử bất công do bởi những người nắm quyền bất nhân hay do bởi các luật lệ bất minh. Đó là những ai không thấy nền giáo dục nước nhà đang loay hoay trong ngõ cụt vì những cơ chế phi lý, lạc hậu, lỗi thời…Đó là những ai không thấy con thuyền của một vài Giáo Hội địa phương xem ra đang vất vả lướt sóng không nguyên chỉ vì bão tố thế gian mà còn có thể vì quá nặng nề với các “lễ hội” bên ngoài, để rồi dù không phải là xao lãng, nhưng chưa xem trọng nghĩa vụ sống yêu thương, làm chứng cho sự thật, bảo vệ công lý, loan truyền Tin mừng… Đó là…

Thế nhưng căn cứ vào đâu để xác định rằng ai đó đã và đang không thấy? “Phản ứng hay hiệu ứng” là một trong những biểu hiện cho biết là ai đó đang còn thấy. Với người hấp hối hay người gặp một sự cố nặng về thể lý thì người ta thường lấy đèn soi vào mắt hay một kiểu cách vẩy ngón tay sát mắt nạn nhân để xem phản ứng đôi mắt của họ. Khi thấy được vẻ đẹp một cánh hoa, hay một quang cảnh kỳ lạ thì người ta không thể không có phản ứng cho dù có thể mỗi người một cách khác nhau. Một cái thấy được gọi là thấy, khi và chỉ khi đối tượng được thấy gây được một hiệu ứng nào đó nơi người thấy nó. Cũng thế, chúng ta chỉ có thể gọi là thấy, khi những điều đập vào mắt chúng ta làm phát sinh trong chúng ta những tâm tình như vui, buồn, hoan hỷ, giận dữ, đồng cảm, đồng thuận hay bất bình, phẫn nộ…

Nếu làm thống kê thì con số người không thấy có lẽ là rất ít. Dù không thể đòi hỏi cách tuyệt đối, nhưng thử hỏi trong số những người được gọi là có thấy thì được bao nhiêu phần trăm là thấy đúng sự vật hiện tượng, thấy đúng bản chất của đối tượng như nó là? Mỗi khi đã thấy rõ, thấy đúng thì người ta sẽ dễ có phản ứng chính xác, hợp lý và cả hợp tình. Một nguy hiểm và cũng là vấn đề cần đặt ra, đó là chúng ta chỉ thấy cách phiếm diện, một chiều mà cứ tưởng rằng mình thấy đúng, thấy rõ. Vì thế các phản ứng của chúng ta nhiều khi vừa thiếu chính xác, lại vừa thiếu lý, thiếu tình. Dĩ nhiên với phận phàm hèn, không một ai dám to gan cho rằng mình có thể thấy đúng, chính xác cách hoàn toàn. Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta có thể lơ là việc tìm cách để thấy các sự vật, hiện tượng ngày một đúng đắn và chính xác hơn, vì đây là một tiền đề không thể thiếu để có được những phản ứng hợp lý, hợp tình.

“Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Câu nói của Chúa Giêsu với anh mù Bactimê trong ngữ cảnh bài Tin mừng đề cập trực tiếp đến thái độ cậy trông của anh Bactimê vào tình yêu và quyền năng của Người. Và thái độ cậy trông ấy được thể hiện bằng việc anh ta cương quyết gặp Chúa Giêsu bất chấp mọi trở ngại. Tuy nhiên câu nói ấy cũng cho chúng ta chiếc chìa khóa giải quyết vấn nạn thấy. Để có thể thấy và thấy đúng thì cần có lòng tin. Chúng ta dễ đồng thuận với nhau về sự thật này nếu chấp nhận rằng tin là nhìn với cái nhìn của Thiên Chúa. Thế nhưng lại phải tự hỏi với nhau rằng khi nào thì chúng ta đang nhìn với cái nhìn của Thiên Chúa? Quả thật, để tìm được câu trả lời khả dĩ có tính thuyết phục thì không mấy dễ. Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta biết rằng những ai ở trong ân sủng, tức là có sự kết hiệp mật thiết với Chúa thì sẽ biết cách nhìn như Chúa nhìn. Trong vấn đề này, các nhà tu đức chỉ dạy chúng ta kế sách tuyệt với đó là hãy chuyên chăm cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa ở trong hoàn cảnh này của con, Chúa sẽ thấy sự kiện, vấn đề này ra sao?”. Qua đời sống câu nguyện, nỗ lực kết hiệp với Chúa thì ta sẽ biết nhìn như Chúa nhìn.

Một kinh nghiệm dân gian có thể nói là khá chính xác: “Con chim sắp chết hót tiếng bi ai. Con người sắp chết nói lời lẽ phải”. Để nói được lời lẽ phải, thì người cận kề với cõi đời sau hẳn đã thấy được chân tướng các sự vật hiện tượng cách nào đó. Tin Mừng cho ta hay trong cuộc đời công khai rao giảng, Chúa Giêsu luôn hướng về cái giờ của Người, đó là giờ mà Người sẽ bỏ thế gian này mà về cùng Cha bằng cái chết trên thập giá. Và đây chính là một trong những chìa khóa giúp Chúa Giêsu nhìn thấy các sự vật hiện tượng theo cái nhìn của Cha trên trời, để rồi có được những cách thế phản ứng thuận ý Cha, đẹp lòng Cha (x.Mt 3,17; Mc 1,11).

Vì sao còn có những phản ứng chưa thấu lý và đạt tình nơi Kitô hữu, giáo dân, tu sĩ, giáo sĩ? Một trong những nguyên nhân đó là vì ta chưa thấy đúng sự vật hiện tượng. Vì sao ta chưa thấy đúng sự vật hiện tượng? Vì ta chưa biết nhìn như Chúa nhìn. Chưa biết nhìn như Chúa nhìn, ngoài những lý do khách quan thì rất có thể vì ta chưa thực sự gắn bó thiết thân với Chúa và cũng ít nghĩ đến cái giờ ta rời bỏ thế gian.

 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

ducchasi
 
closedbible
 
suy 5
 
thanhthan06sm 1
 
gdphanxicoxavie
 
lichconggiao2
 
giolecacnhatho adv2 copy
 
giolecacnhatho adv2
 

Tin mới nhất

Kết nối

 

 

 

Thống kê

  • Đang truy cập175
  • Máy chủ tìm kiếm42
  • Khách viếng thăm133
  • Hôm nay24,621
  • Tháng hiện tại680,415
  • Tổng lượt truy cập52,849,363

Copyright © [2018] Giáo phận Nha Trang. All rights reserved.
   Phụ trách: Ban Truyền Thông Giáo Phận Nha Trang
Email: gpnhatrangbtt@gmail.com
Địa chỉ: 22 Trần Phú - HT 42, Tp. Nha Trang - Khánh Hoà
Phone: (84) 258.3523842 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây