Lời Chúa: Gs 24,1-2a.15-17.18b; Ep 5,21-32; Ga 6, 54a. 60-69
MỤC LỤC
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Ai ai cũng công nhận lương thực hằng ngày: cơm, như bánh mang lại cho con người sự sống đời nầy. Thuốc men và các chất bổ dưỡng làm gia tăng sinh lực cho con người, kéo dài sự sống này đó là chuyện thường tình. Thế nhưng Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô trong Tin Mừng hôm nay: “Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời” nghe có vẻ khó thuyết phục, vì lời nói gió bay, chứ có phải là lương thực, là thuốc men đâu mà đem lại sự sống đời đời.
Người ta nói ‘Có lửa mới có khói. Có tích mới dịch ra tuồng chứ’. Cho nên, chắc chắn Phêrô đã thấy, đã biết rõ Chúa Giêsu là con người như thế nào! Lời của Ngài có năng quyền như thế nào vì vậy NgàI mới tuyên bố nây ửa như thế chứ? Qủa thế, Lời Chúa thực sự là những Lời quyền năng, có sức sáng tạo và mang lại sự sống cho muôn vật muôn loài đời này và đời sau nữa. Cụ thể:
Sách Sáng Thế kể: từ nguyên thuỷ, khi tất cả còn hư vô trống rỗng, Thiên Chúa đã dùng Lời để tác thành vũ trụ và sáng tạo muôn vật muôn loài (St 1,1-28). Rõ ràng, mọi sự sống trong hoàn vũ, từ sự sống của các loài sinh vật đơn giản cho đến sự sống loài người đều do Lời Chúa tác thành. Rồi khi xuống thế làm người, Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa cũng đã dùng lời quyền năng của Người mà trục xuất ma quỷ ra khỏi những người bị ám hại (Mc 5,8), khiến cho bão tố dữ dội phải lặng yên (Mc 4, 39), chữa lành nhiều kẻ ốm đau bệnh tật (Lc 4,40). Chúa Giê-su còn dùng Lời để cho kẻ người đã chết sống lại, như: Con trái duy nhất của bà góa Na-im đang đi chôn (Lc 7,14), Anh Ladarô đả chết bốn ngày (Gioan 11, 43). Rồi trên cây thánh giá, Chúa ban Lời để anh trộm lành được sống vĩnh hằng với Ngài trên thiên đàng “Ngay hôm nay anh ở trên thiên đàng với tôi” (Lc 23,43).
Hôm nay trên thị trường có những món ăn được xếp hạng “cao cấp”, ăn vào sẽ giúp khỏe mạnh, thậm chí trẻ ra và kéo dài tuổi thọ, cho nên nhiều người sẵn sàng bỏ tiền triệu để mua cho được, ăn cho được. Chẳng hạn, ngươi ta đau nhau mua con cua hoàng đế 5 triệu-1O triệu vì cua này chỉ sống ở những vùng biển nước rất lạnh và sâu từ 200-400 m. Đây là loại cua hiếm có, ăn con cua này sẽ khỏe mạnh cường tráng. Rồi người ta bỏ ra 20 triệu mua một ký yến hay nhung hươu ăn kéo dài tuổi thọ. Nhưng thử hỏi có thọ thiệt không? Hay là tiền mất và thiệt thân.
Hôm nay Chúa Giê-su tặng ban miễn phí cho chúng ta những Lời ngài chỉ cần chúng ta nghe và tuân giữ Lời ấy thôi cũng đảm bảo cho chúng được sự sống đời đời lẽ nào chúng ta lại thờ ơ. Chúng ta phải cùng với thánh Phê-rô, mà tuyên xưng với tất cả lòng tin rằng: “Thưa Chúa, bỏ Chúa thì chúng con biết đến với ai? Chúa mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Làm thế nào chúng ta sống điều xác tín như thế? Bài đọc I: ông Giôsuê trả lời tự do chọn lựa, mà đã chọn thì phải theo quyết liệt, gắn bó với Thiên Chúa. Vì Chúa luôn hiện diện với chúng ta trong tất cả thăng trầm của cuộc sống, Ngài gìn giữ, che chở và bao vệ ta. Cho nên, Giôsuê tuyên bố tôi và gia đình tôi dứt khóat theo Chúa, trung tín và nghe theo Lời Chúa vì có Lời Chúa là khiêng che thuận đỡ cho đời ta, ta không bao giờ nao núng.
Phần chúng ta, chúng ta ý thức sống được bao nhiêu phần trăm lời tuyên xưng của mình: bỏ Chúa bỏ và Giáo Hội tôi biết theo ai? Trong khi đó, cuộc sống chông chênh, thay đổi chóng mặt: kinh tế càng ngày đi xuống khó khăn, vàng, xăng dâu mỗi ngày tăng nhanh như chớp. Còn thân phận con người quá bấp bênh đảo lộn tứ tung: những người nghèo giờ trở nên giàu, người tri thức hay người giàu có đều có những vụ làm ăn trái lương tâm. Vậy, với cuộc sống chông chênh thế đó, ai có thể nắm chắc về hành vi luân lý của mình hay gia đình mình. Vâng, chỉ có Chúa và Lời của Ngài là điểm tựa vững chắc nhất để chúng ta sống theo trong kiên nhẫn, can trường và trung kiên. Và chỉ khi sống Lời Chúa, mỗi người chúng ta và gia đình và giáo xứ chúng ta mới thật sự trở nên xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền.
Vì thế, trong Hiến Chế tín lý về mạc khải của Thiên Chúa Dei Verbum số 21, Công Ðồng Chung Vaticanô II dạy Giáo Hội luôn tôn kính Lời Chúa như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu. Lời Chúa đã và đang được Giáo Hội xem như là quy luật tối cao hướng dẫn đức tin, được Thiên Chúa linh ứng và đã được ghi chép một lần cho muôn đời. Lời Chúa có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội.
Nhà bác học Galilê nói rằng: Thánh Kinh không dạy chúng ta biết trái đất xoay vần thế nào mà dạy chúng ta biết làm thế nào để lên trời”. Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thấm nhuần Lời Chúa và phải sống Lời Chúa một cách triệt để hằng ngày để nên hoàn thiện ở đời này và sống vĩnh hằng đời sau.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Khởi đi từ tình mục tử ấp ủ đoàn chiên bơ vơ không người chăn dắt (x. Mc 6, 30-34), Chúa Giêsu đã “chạnh lòng thương”, làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng (x. Ga 6, 1-15). Từ của ăn vật chất, Chúa gợi lên nơi họ khát vọng sống trường sinh, muốn được họ phải đi tìm Chúa, tin vào Chúa, ăn chính thịt và uống máu Chúa là bánh hằng sống từ Trời xuống (x. Ga 6, 16-60).
Với diễn từ của Chúa Giêsu về bánh hằng sống tại Hội đường Do thái ở Capharnaum, nhiều người bỏ Chúa, còn các môn đệ không chấp nhận điều ấy, họ nói: “Lời này chói tai quá! Ai nghe được!” (Ga 6, 60) Tại sao họ lại có thái độ khước từ Chúa đến như vậy? Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao?
Có người khước từ
Vấn đề ở đây là “ăn thịt và uống máu” (Ga 6,54) một con người có tên là Giêsu, đồng hương với họ để được sống đời đời. Chúa Giêsu cố tình nói như thế, đây là một vấn đề rất cam go, một khúc quanh trong cuộc đời công khai của Chúa. Dân chúng và cả các môn đệ trước đây rất phấn khởi đi theo Chúa, thấy Chúa làm phép lạ; cả việc hóa bánh ra nhiều cũng là một mạc khải về Ðấng Messia, khiến họ muốn tung hô và tôn Chúa Giêsu làm vua Israel, nhưng chắc chắn ý Chúa Giêsu không như vậy. Với diễn từ dài, Chúa làm dịu bớt sự phấn khởi trong dân và tạo nên sự bất đồng nơi nhiều người. Chúa giải thích hình ảnh bánh ấy chính là Chúa và khẳng định Người đã được Chúa Cha sai đến để hiến mạng sống, ai muốn theo Người, thì phải kết hiệp mật thiết với Người, và tham gia vào hy tế tình thương của Người.
Khi nghe những lời ấy, dân chúng hiểu rằng ông Giêsu này không phải là Đấng Messia như họ tưởng. Người không tìm kiếm sự đồng thuận để chinh phục thành Giêrusalem; trái lại, Người muốn vào Thành để chia sẻ số phận của các vị ngôn sứ: hiến mạng sống trở nên tấm bánh vì Thiên Chúa và cho loài người. Những tấm bánh đó, được bẻ ra cho hàng ngàn người, không muốn khơi lên một hành trình đắc thắng, nhưng tiên báo hy tế trên Thập Giá, trong đó Chúa Giêsu trở thành Bánh được bẻ ra nuôi nhiều người, trở thành mình và máu được dâng hiến để đền tội cho thế gian được sống. Chúa muốn đám đông dân chúng tỉnh ngộ, nhất là khơi lên nơi các môn đệ một quyết định. Và thực tế là: “Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa ” (Ga 6, 66)
Có người quyết tâm theo Chúa
Nếu có môn đệ nói: “Lời này chói tai quá! Ai nghe được!” (Ga 6, 60) trước sự hiến thân trọn vẹn của Chúa, là vì họ không muốn từ bỏ bản thân, để cho mình tham dự và biến đổi đến độ sống nhờ Chúa khi đón nhận hồng ân nay.
“Lời này chói tai quá! Ai nghe được!” (Ga 6, 60), khó nghe vì người ta lẫn lộn tự do với không bị ràng buộc, coi Thiên Chúa như một giới hạn tự do, gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài. Chính ảo tưởng này tạo ra lo âu sợ hãi và dẫn tới sự tiếc nuối quá khứ. Người Do thái trong sa mạc đã nói: “Ước gì chúng tôi được chết vì tay Chúa ở đất Ai Cập…” (Xh 16, 3); còn Êlia thì thưa: “Lạy Chúa, đã đủ rồi, xin cất mạng sống con đi: vì con chẳng hơn gì các tổ phụ con” (1V 19, 4).
Tại thung lũng Sikhem, nơi tổ phụ Abraham và Xara trú ngụ. Giôsua kêu mời dân ra đứng trước tôn nhan Thiên Chúa và làm một quyết định dứt khoát: “Nếu các người không muốn tôn thờ Thiên Chúa, thì cho các ngươi lựa chọn … tôn thờ ai hơn: hoặc là các thần cha ông đã tôn thờ…hoặc các thần của người xứ Amôrê, nơi các ngươi đang ở, về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa”. Dân trả lời “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ những thần Ngoại, Chúa là Thiên Chúa chúng tôi” (x. Jos 24, 15-17).
Bài Tin Mừng hôm nay cũng đòi hỏi thính giả của Chúa Giêsu làm một quyết định tương tự sau khi nghe giảng về Bánh hằng Sống là máu thịt Chúa. Nhưng vì lời chướng tai của mình, họ đã bỏ đi, chỉ còn lại Phêrô và nhóm Mười hai. Phêrô mạnh dạn thưa: “Lạy Thầy chúng con biết sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6, 68).
Hôm nay, chúng ta thưa với Chúa Giêsu rằng, lạy Chúa, trong sự khiêm nhường thẳm sâu, tin tưởng vào Chúa là Lời cuối cùng và chung kết của Thiên Chúa nhập thể, đến gặp gỡ chúng con. Chúa là Lời vĩnh cửu, trở thành manna đích thực, là bánh sự sống (x. Ga 6,32-35), chúng con muốn trung thành với Chúa bây giờ và mãi mãi, cũng như Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6, 68).
Chúa có lời ban sự sống
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II dạy: Những ai ăn Đức Kitô trong Thánh Thể không cần phải chờ đến đời sau mới đón nhận được sự sống vĩnh cửu, nhưng họ đã chiếm hữu sự sống đó ngay đời này, như những hoa quả đầu tiên của sự viên mãn mai sau, sự viên mãn liên quan đến toàn thể con người. Trong Thánh Thể, chúng ta cũng nhận được bảo đảm là thân xác chúng ta sẽ được sống lại trong ngày tận thế: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,54). Sự bảo đảm này về sự sống lại mai sau bắt nguồn từ sự kiện thân xác của Con Người, được trao ban làm của ăn, là chính thân xác trong tình trạng vinh hiển sau khi sống lại. Với Thánh Thể, chúng ta như thể biết được “bí mật” của sự sống lại. Vì thế, Thánh Inhatiô thành Antiokia đã định nghĩa cách xác đáng Bánh Thánh như là “linh dược đem lại sự bất tử, một phương thuốc diệt trừ sự chết”.
Chiều hướng cánh chung được gợi lên trong Thánh Thể…Khi cử hành hy tế của Con chiên, chúng ta được liên kết với “phụng vụ” trên trời và trở nên thành phần của một đoàn người đông đảo lớn tiếng tung hô: “Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta” (Kh 7,10). Thánh Thể quả thật là một thoáng hiện của thiên đàng trên trái đất. Thánh Thể là một tia sáng huy hoàng của Giêrusalem thiên quốc xuyên qua lớp mây mù của lịch sử chúng ta và soi sáng cho cuộc hành trình của chúng ta. (Trích Thông Điệp Ecclesia De Eucharistia số 18-19).
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Từ xưa đến nay, sống trường thọ luôn là mơ ước của toàn nhân loại. Không hiếm các bậc đế vương trong lịch sử hao công tốn của đi tìm kiếm. Hiện nay, dù cho khoa học có rất nhiều tiến bộ, đời sống con người ngày càng phát triển, chất lượng cuộc sống cũng như tuổi thọ được nâng cao, nhưng cái đích cuộc sống bất tử có lẽ còn rất xa con người hay bất cứ ai muốn đạt được điều kỳ diệu ấy. Bất tử, đồng nghĩa với không phải chết, hay sống đời đời.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta một bí quyết, chọn Chúa thì sẽ được sống tự do, sống vui và sống sống hạnh phục (x. Gs 24, 1-2a. 15-17. 18b), theo Chúa, kết hợp với Chúa thì sẽ được sống đời đời, lời thánh Phêrô khẳng định, “chỉ có Chúa mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (x. Ga 6,68).
Chọn Chúa để được sống
Sinh ra sống ở trên đời, con người được đặt trước những lựa chọn. Chọn cho mình một lý tưởng, một hướng đi là điều rất quan trọng nhất, chọn đúng thì hạnh phúc, chọn sai sẽ có điều ngược lại. Ai trong chúng ta cũng phải đối diện với sự chọn lựa ấy, dân Do thái thời được Giôsuê đặt trước những chọn lựa: ” Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ…”. Dân đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Thiên Chúa, mà phụng thờ các thần khác. Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông của chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ…” (Gs 24, 15-17). Dân đã chọn Chúa để được sống trong tự do làm con cái Chúa là Chúa sự sống.
Chọn Giêsu Bánh Hằng Sống
Đoạn Tin Mừng hôm nay dẫn chúng ta về Capharnaum, nơi có rất nhiều người theo Chúa Giêsu vì họ đã thấy phép lạ Chúa làm, đặc biệt sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Về phương diện xã hội, chính tại nơi đây Chúa Giêsu có nguy cơ “chết vì thành công”, như Tin Mừng mô tả, họ muốn tôn Người lên làm vua (x. Ga 6, 15). Đây là thời điểm quan trọng trong cuộc đời rao giảng của Chúa Kitô. Chính thời điểm này, Người bắt đầu mạc khải rõ nét về về Bánh Hằng Sống là chính Người với những lời xác quyết về sự sống siêu nhiên qua điệp của Người.
Khát vọng của con người là được sống trường sinh. Ngay từ thủa ban đầu, Adam va Evà đã hái và ăn trái cấm, vì tin rằng trái này sẽ làm cho mình sống mãi, không phải chết. Bất tử trên đời này là một điều thú vị và ai cũng khao khát, nhưng xem ra không tìm thấy ở trần gian này.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta ăn và uống chính thịt và máu Người để được sống đời đời. Điều này có nghĩa là chúng ta được mời gọi “ăn” và “uống” không phải một sự vật, nhưng là “ăn thịt và uống máu con người có tên Giêsu” một ngôi vị sống động. Người tha thiết mời gọi chúng ta đến với Người, tin vào Người, ở lại trong Người như thánh Phaolô: “Không còn là tôi sống, nhưng Đức Kitô sống trong tôi” (), nghĩa là ai đón rược Chúa vào trong cuộc đời, được Chúa trở thành xương thịt, thành sự sống cho người ấy. Chẳng những thịt máu Chúa nuôi sống mà Lời Chúa cũng mang lại cho chúng ta sự sống đời đời cho những kẻ nghe Người. Thế nhưng không phải ai cũng có thể lĩnh hội được.
Lời từ miệng Chúa phán ra với đám đông dân chúng khiến Chúa gặp rắc rối với họ, đến nhóm môn đệ Chúa cũng còn nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6, 60).
Một ai đó nói rằng, trong lịch sử Giáo hội, những người vĩ đại giống như những những cây cột không thể phá hủy khi đổ xuống: “Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa” (Ga 6,66). Chúng ta có thể gục ngã, “bỏ qua”, ra đi, chỉ trích, hay tiếp thu những Lời Chúa Giêsu nói trên vào trong tâm trí chúng ta. Với sự khiêm nhường và tin tưởng, chúng ta hãy thưa với Chúa Giêsu rằng, lạy Chúa chúng con muốn trung thành với Chúa hôm nay, mai ngày và mãi mãi. Xin Chúa giúp chúng ta hiểu rằng thật vô ích khi tranh luận về lời giảng dạy của Thiên Chúa hay Giáo hội nên chúng ta nói với nhau rằng “Tôi không hiểu”; “Lạy Thầy, chúng ta sẽ đi theo ai?” (Ga 6,68). Chúng ta nên xin một ơn phân định siêu nhiên hơn. Chỉ trong Thiên Chúa và Giáo hội chúng ta sẽ tìm thấy Lời ban sự sống đời đời: “Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68).
Lời Đức Kitô mang lại sự sống đời đời
Giống như Phêrô, chúng ta biết rằng Chúa Giêsu nói với chúng ta bằng ngôn ngữ siêu nhiên, một ngôn ngữ mà chúng ta phải đồng ý và đồng hóa để hiểu ý nghĩa, nếu không chúng ta chỉ nghe thấy những tiếng ồn không mạch lạc và khó chịu. Giống như Phêrô, trong đời sống Kitô hữu chúng ta có những khoảnh khắc, chúng ta phải tự làm mới và bày tỏ chính mình với Chúa Giêsu để thưa với Chúa rằng chúng con ở với Chúa và chúng con muốn tiếp tục theo Chúa. Phêrô yêu mến Chúa Giêsu, và đó là lý do tại sao ông ở lại với Chúa, những người khác yêu Chúa chỉ vì cơm bánh, trẻ em theo Chúa vì “kẹo”, số người khác vì lý do chính trị đã bỏ rơi Chúa. Bí mật của lòng trung thành là tình yêu và sự tin tưởng.
Chúng ta hãy xin Đức Maria là Đức Nữ trung tín thật thà giúp chúng ta từ bây giờ trung thành với Chúa và với Giáo hội.
Có một chàng thanh niên xa rời Giáo Hội. Chàng không đi lễ, không chịu các bí tích nữa. Thế rồi chàng phải lên đường thi hành nghĩa vụ quân sự. Mẹ chàng băn khoăn lo lắng và tự hỏi: Nếu chẳng may chàng chết thì sao? Bởi đó, vào buổi tối trước khi chàng lên đường, người mẹ ấy đã nói với chàng: Con ơi, mẹ muốn con làm cho mẹ một điều. Chàng hỏi lại: Điều gì vậy? Người mẹ trả lời: Mẹ muốn con mỗi ngày hãy đọc một kinh Kính Mừng mà thôi. Chàng do dự nhưng cũng đã nhận lời. Trải qua năm tháng, những bức thư chàng gởi về gia đình cứ thưa dần, rồi một ngày kia bức điện tín ngắn ngủi được trao cho người mẹ: Con bị thương nặng và đã chịu các bí tích. Rất may chàng được bình phục. Trong một dịp về thăm gia đình, chàng đã nói với mẹ: Điều mẹ căn dặn, con đã làm, nhờ đó mà con đã trở về với Chúa.
Từ câu chuyện trên tôi nhận thấy: Một tâm hồn trôi dạt xa lìa Chúa, nhưng nếu họ còn giữ được một liên hệ nào đó với Ngài, dù chỉ là một kinh Kính Mừng mỗi ngày, họ vẫn có hy vọng và có cơ may tìm thấy con đường trở về với Ngài. Như rất nhiều người Công giáo, chàng đã bắt chước các môn đệ trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Lìa bỏ Chúa mà đi. Những môn đệ ấy từ chối, không muốn tin rằng: Đức Kitô có thể lấy thịt Ngài cho họ ăn và máu Ngài cho họ uống. Dẫu rằng họ đã chứng kiến phép lạ năm chiếc bánh hoá nhiều làm cho năm ngàn người được no nê.
Hầu hết những lý do khiến người Công giáo xa lìa Giáo Hội đều liên quan tới vấn đề này. Chẳng hạn như: Thánh lễ không liên hệ gì đến tôi. Họ muốn nói rằng thánh lễ không đem lại cho họ một rung động, một cảm xúc nào cả. Và họ cũng chẳng làm gì để thay vào đó. Kinh nghiệm cho thấy những người như vậy thường không đọc lấy một câu kinh. Điều đó cũng dễ hiểu bởi vì đối với việc quan trọng nhất là bí tích Thánh Thể mà họ còn đối xử như vậy, huống nữa là những phương tiện đạo đức khác.
Trong khi đó, tôi nghĩ rằng mỗi người cần phải làm một cái gì có thể làm được. Chính việc làm nhỏ bé này sẽ đem lại ơn trợ giúp của Chúa. Chẳng hạn như đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng, hay cầu nguyện bằng chính ngôn ngữ riêng tư của mình: Lạy Chúa, xin giúp con làm vui lòng Chúa. Đó chính là khởi điểm cho một sự trở về. Cũng giống như một viên bi rơi trên một triền dốc, nếu không chặn lại, nó cứ lăn mãi lăn hoài cho đến tận cùng con dốc mới thôi. Người khô khan nguội lạnh, bỏ dần những việc đạo đức thì rồi, một lúc nào đó họ sẽ bỏ tất cả. Coi thường một giới răn thì rồi một lúc nào đó họ sẽ gác bỏ tất cả những giới răn khác.
Hãy gượng dậy từ một cố gắng. Hãy khởi đầu đi từ một việc làm nhỏ bé và rồi Chúa sẽ nâng đỡ phù trợ. Hay như một câu danh ngôn đã nói: Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn ngồi đó mà rủa xả bóng tối. Hãy làm những gì mình có thể và rồi hãy thưa lên cùng Chúa như Phêrô ngày xưa: Bỏ Thầy con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có lời ban sự sống.
Một chiếc tàu đánh cá Xô Viết được đưa vào sửa chữa bên cạnh tàu tuần dương hạm của Hoa Kỳ tại bờ biển New England. Các quan chức Mỹ-Xô cùng ngồi trên chiếc tàu Nga bàn luận sôi nổi về kỹ thuật đánh cá. Câu chuyện và mối liên hệ của họ thật tốt đẹp cho đến một đêm nọ một thuỷ thủ người Nga tên là Kudirka lẻn ra khỏi tàu Xô Viết, nhảy xuống biển và bơi qua tàu Mỹ, năn nỉ xin được tị nạn chính trị. Thế nhưng, vị chỉ huy tàu Mỹ đã từ chối. Quyết định này về sau đã bị các thượng cấp quở trách. Chàng thuỷ thủ bị trao lại cho nhà cầm quyền Xô Viết, và bị giam vào ngục. Thời gian ở tù chàng đã nhiều lần tuyệt vọng, nhưng nhờ người bạn đã dạy cho chàng một bài thơ, chính những vần thơ này đã giúp chàng đương đầu với hiện tại và hy vọng tiến đến tương lai. Bài thơ ấy như thế này: Nếu giành được chiến thắng hay gặp phải thất bại mà con vẫn xử sự như nhau. Nếu sự thật con nói ra bị vu khống là gian dối mà con vẫn tỏ ra bình thản. Nếu toàn bộ sự nghiệp đời con tan vỡ, mà con vẫn kiên trì xây dựng lại. Phải, nếu con làm được như thế, thì trái đất và mọi sự trên đó sẽ thuộc về con. Và hơn thế nữa, hỡi con, con sẽ là một con người đích thực.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Trong cuộc đời, có những lúc chúng ta dường như sắp sửa mất tất cả, thì điều quan trọng đó là chúng ta cần phải được giúp đỡ để không thất vọng và nản chí. Các môn đệ cũng vậy, niềm tin của các ông đang bị thử thách. Trước lời xác quyết của Chúa: Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống, thì một số môn đệ đã bỏ Chúa mà đi, vì không thể nào chấp nhận được lời giảng dạy ấy. Số còn lại thì vẫn trung thành với Chúa và Phêrô đã thay mặt cho nhóm còn lại ấy tuyên xưng: Bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Bị dồn vào chân tường, nhóm còn lại vẫn tin tưởng vào Chúa, trong khi đó, nhóm thứ nhất thì chỉ biết chú tâm vào vấn đề của họ mà thôi: Tại sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn? Như thế, một đàng biết chú tâm vào Chúa, còn một đàng chỉ biết chú tâm vào mình. Hai hình ảnh này một lần nữa được diễn tả qua đoạn Tin Mừng kể lại: Đêm khuya, sóng biển nổi lên Chúa Giêsu đi trên mặt nước tiến lại thuyền các môn đệ khiến họ hoảng sợ vì tưởng là ma. Thấy vậy Chúa Giêsu lên tiếng trấn an: Thầy đây, đừng sợ. Phêrô xin Chúa cho mình cũng được đi trên mặt nước tiến đến với Ngài. Thế nhưng khi ông bắt đầu nghi ngờ, thì lập tức ông bị chìm xuống. Lập tức Chúa Giêsu nắm lấy ông vào nói: Sao đức tin của con kém thế. Tại sao con lại hồ nghi? Như thế bao lâu Phêrô biết vững tâm nhìn vào Chúa Giêsu, thì ông được an lành. Nhưng khi ông rời khỏi Người và bắt đầu chú tâm lo vấn đề của riêng mình, thì lập tức ông lâm vào tình trạng nguy hiểm.
Giữa những cơn gian nguy thử thách, giữa những lúc khổ đau cay đắng, hãy tin tưởng vào Chúa để cuộc đời chúng ta tìm thấy được sự bình an và hạnh phúc.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Đề cập đức tin – một trong ba đức đối thần, Thánh LM TS Tôma Aquinô (1225-1274) phân tích: “Mặc dù cái nhìn chúng ta bị giới hạn và mờ nhạt về những sự rất linh thánh, nhưng chỉ thoáng thấy những sự ấy cũng đã là hoan lạc lắm rồi. Có ba điều cần thiết cho phần rỗi con người: hiểu biết điều nào PHẢI TIN; hiểu biết điều nào PHẢI ƯỚC AO; và hiểu biết điều nào PHẢI THỰC HIỆN. Có những điều ta phải nắm giữ bằng ĐỨC TIN, nhưng lý trí vẫn có thể tìm hiểu; nhờ đó, mọi người đều có thể chia sẻ tri thức về Thiên Chúa một cách dễ dàng, không hoài nghi và lầm lạc”.
Cũng liên quan đức tin, Chân phước LM Charles Eugène de Foucauld (1858-1916) cho biết: “Giây phút tôi nhận biết Thiên Chúa hiện hữu, tôi biết tôi không thể làm gì khác hơn ngoài việc sống cho một mình Người. ĐỨC TIN tước lột mặt nạ khỏi thế giới này và tỏ ra Thiên Chúa trong mọi sự. ĐỨC TIN làm cho không còn sự gì là không thể, làm cho những từ ngữ như lo lắng, nguy hiểm và sợ hãi trở nên vô nghĩa. Nhờ đó, tín hữu sống cuộc đời yên hàn thanh thản, với một niềm tin sâu xa – như một con trẻ được mẹ cầm tay”.
Đặc biệt là Thánh GH Gioan XXIII (1881-1963) đã từng nhắn nhủ riêng với Giáo Hội Việt Nam: “Xin mượn lời Thánh Phaolô để nhắn nhủ rằng: ‘Các con hãy tỉnh thức, hãy vững vàng trong đức tin, hãy can trường và mạnh mẽ’ (1 Cr 16:13). Và để biểu dương hơn nữa lòng thương yêu, săn sóc và cảm phục, cha nhắc lại đây lời Thánh Phaolô: ‘Hằng ngày, cha phải cám ơn Thiên Chúa vì các con. Thực thế, đức tin các con mãnh liệt thêm mãi, tình thân ái của các con với tha nhân mỗi ngày một dồi dào, khiến Cha được hãnh diện vì chúng con trước mặt Giáo hội của Chúa, hãnh diện vì các con bền chí, vững lòng tin trong mọi cơn bách hại, trong những giờ gian lao khốn khó: như thế mới xứng đáng vào nước Thiên Chúa, chính vì Ngài mà các con đã chịu đau khổ’ (2 Tx 1:3-5)”.
Đức tin trừu tượng, không thể sờ được, nhưng có thể cảm nhận một cách cụ thể. Thật lạ! Tin hay không tin là “chấp nhận” hoặc “từ chối”. Một “biên độ” rất mong manh. Rất đơn giản, nhưng cũng rất phức tạp. Sự giằng co đó luôn xảy ra, thế nên cần phải có lòng can đảm để có thể đứt khoát mau mắn. Chỉ trong tích tắc mà các vị tử đạo dám dứt khoát khước từ sự sống để bước theo Đức Kitô. Các ngài đã can đảm, và một niềm xác tín rằng “chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5). Bổn phận của chúng ta – Kitô hữu Công giáo – là TIN YÊU và THỜ KÍNH chỉ MỘT THIÊN CHÚA mà thôi, chứ không có bất cứ một thần linh nào khác!
Chúng ta diễm phúc là nhận biết Chúa và tin theo Ngài, nhưng đức tin đó phải được chứng tỏ. Giáo lý Công giáo dạy: “Làm dấu Thánh Giá là tuyên xưng Thiên Chúa”. Đó là đức tin của Giáo hội và của mỗi chúng ta. Hằng ngày chúng ta thể hiện đức tin nhiều lần bằng cách làm dấu: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Cũng cần lưu ý là chúng ta “làm dấu” chứ không “làm giấu” (phát âm gần giống nhau nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác nhau). Tuyên tín một cách đơn giản là “làm dấu Thánh Giá”, thế mà đôi khi chúng ta làm cho xong lần, vội vã như “phù phép”, thậm chí có khi tay “vẽ dấu Thánh Giá” mà miệng còn càm ràm hoặc lầm bầm điều gì đó. Ôi thôi!
Biết rằng con người yếu đuối, dễ thay lòng đổi dạ, nhưng không thể cứ viện cớ đó để tự biện hộ. Miệng thì nói tin Chúa nhưng lại hành động khác, chắc hẳn nên xét lại lắm. Ngày xưa, ông Giôsuê đã quy tụ ở Sikhem mọi chi tộc Israel và triệu tập các kỳ mục Israel, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa. Ông Giôsuê nói với toàn dân về lời tuyên phán của Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel: “Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến Terác là cha của Ápraham và của Nakho, đã phụng thờ các thần khác” (Gs 24:2). Ngày nay, chúng ta gọi họ là những kẻ phản bội hoặc bội bạc, nhưng ngày nay chúng ta cũng có hơn họ, bởi vì chúng ta cũng đã bao lần phạm tội phản nghịch với Thiên Chúa nhân hậu.
Tuy nhiên, ông Giôsuê vẫn không ép buộc mà cho họ tự do chọn lựa: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa thì hôm nay anh em CỨ TUỲ Ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người Emôri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa” (Gs 24:15). Nghe vậy mà họ thấy “rét”. Họ được “đánh động” nên cảm thấy hối hận, và họ đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người Emôri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi” (Gs 24:16-18).
Cũng là phàm nhân với nhau nên cũng giống nhau y chang. Nghĩa là chúng ta cũng đã và đang yếu đuối, nói một đàng làm một nẻo, cứ liên tục qụy ngã rồi lại té lên té xuống, vậy mà vẫn chưa thực sự “nên người”. Chúng ta yếu đuối nhưng không được thất vọng, vì chúng ta may mắn có “sức mạnh vô song của Đức Kitô”. Tội lỗi tày trời, tội lỗi ngập đầu, tội lỗi đỏ như máu, thế mà chúng ta vẫn được Thiên Chúa xót thương mà tha thứ tất cả, không chỉ vậy mà chúng ta còn được phục hồi nguyên trạng cương vị người con. Vì thế, chúng ta phải tự hứa: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Ngài chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” (Tv 34:2-3). Bất kỳ ai cũng phải “làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà” (Tv 34:15). Đó là sống theo huấn lệnh của Thiên Chúa, cũng có nghĩa là chúng ta đã xác tín là tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất.
Tuyệt đối Thiên Chúa là Đấng nhân lành (x. Ga 10:11 & 14), và chỉ có Ngài là Đấng nhân lành (Mt 19:17), vì thế Ngài “đối đầu với quân gian ác, xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời”, nhưng Ngài vẫn luôn “để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu” (Tv 34:16-17). Thật vậy, “họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:18). Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót nên Ngài luôn “gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề. Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi” (Tv 34:19-21). Đặc biệt là “xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gãy” (Tv 34:21). Đó là cách quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Phàm nhân là loài yếu đuối, chúng ta là phàm nhân nên chúng ta cũng yếu đuối, mà càng yếu đuối thì càng cần có đức tin, và chính đức tin làm cho chúng ta nên vững mạnh. Đức tin và đức ái liên quan tinh thần phục vụ – sống cho và sống vì nhau – khởi đầu từ gia đình. Thánh Phaolô nói: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy TÙNG PHỤC LẪN NHAU” (Ep 5:21).
Tùng phục nhau bằng cách nào? Thánh nhân giải thích “dài hơi” một chút: “Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5:22-25). Như vậy là chính Đức Kitô “thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng NƯỚC và LỜI hằng sống, để trước mặt Ngài, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5:26-27). Thiên Chúa là Đấng chí thánh nên những gì thuộc về Ngài đều phải là thánh.
Tương tự, “chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình” (Ep 5:28). Rất hợp lý, bởi vì vợ chồng “tuy hai mà một”, trở nên “một” qua bí tích Hôn phối. Nên một thì không thể là hai hoặc ba, nghĩa là “người này cũng là người kia”. Chẳng có ai ghét thân xác mình bao giờ, chỉ có kẻ ngu xuẩn mới hành hạ chính mình, nhưng “người ta NUÔI NẤNG và CHĂM SÓC thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Ngài” (Ep 5:29-30). Sách Thánh xác định rạch ròi: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ LÌA cha mẹ mà GẮN BÓ với vợ mình, và cả hai sẽ thành MỘT XƯƠNG MỘT THỊT” (Ep 5:31). Và Thánh Phaolô minh định: “Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5:32). Hình ảnh phu thê là hình ảnh Đức Kitô và Giáo Hội – và ngược lại. Do đó, những người sống đời hôn nhân phải cố gắng thể hiện đức tin qua ơn gọi hôn nhân của mình. Hôn nhân là bí tích do Thiên Chúa thiết lập chứ không phải do loài người tạo nên. Thế nên không thể “vui ở, buồn đi” theo ý mình.
Cái gì cũng có tính liên đới, dù đó là điều tốt hay xấu. Tương tự, đức tin cũng có nhiều hệ lụy. Tất cả đều liên kết với nhau một cách mạch lạc và rất kỳ diệu. Thân xác không hơi thở là xác chết – bởi vì “Chúa lấy sinh khí lại, chúng tắt thở ngay” (Tv 104:29), và “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17 & 26). Đó là hai cái chết: chết thể lý và chết tinh thần. Cái chết nào cũng đáng sợ!
Hôm đó, khi Chúa Giêsu giảng dạy trong hội đường ở Ca-phác-na-um, Ngài nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời” (Ga 6:54). Nghe vậy, nhiều môn đệ của Ngài cũng cảm thấy “nóng gáy” nên nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60). Các “đệ tử ruột” mà còn phát biểu vậy đó! Ngài biết tỏng các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, nên Ngài bảo họ: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ KHÔNG TIN” (Ga 6:61-64). Quả thật, vấn đề đức tin là vấn đề thực sự quan trọng. Không phải cứ nói tin là tin, vì lời nói đó có thể chỉ là “hàng giả” – giả vờ vậy thôi. Cách xác tín cho biết “sức khỏe tâm linh” của chúng ta ra sao, khỏe hay yếu, hoặc cứ làng xàng – chẳng khỏe cũng chẳng yếu.
Thật vậy, ngay từ lúc đầu, Chúa Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Ngài. Thế nên Ngài cho biết: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6:65). Từ lúc đó, nhiều môn đệ đã “bỏ của chạy lấy người”, không còn đi theo Ngài nữa. Thấy vậy, Ngài hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6:67). Nhưng ngư phủ Simôn Phêrô nói ngay: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68). Thật tuyệt vời! Ngư phủ Phêrô lâu lâu nói một câu nghe “quá đã”, đúng là “trên cả tuyệt vời”. Ông không dám bỏ Sư phụ Giêsu vì ông đã xác tín. Thật vậy, chính ông đã công khai tuyên tín: “Phần chúng con, chúng con ĐÃ TIN và NHẬN BIẾT chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6:69).
Ôi, lão ngư Phêrô ơi! Xin giúp chúng con cũng được sáng con-mắt-đức-tin để có thể chân nhận Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ duy nhất, và luôn biết tín thác vào chính Thiên-Chúa-Con-Người ấy.
Cũng liên quan đức tin, Thánh LM Piô Năm Dấu (1887-1968) cho biết: “Thiên Chúa muốn kết ước với linh hồn TRONG ĐỨC TIN, linh hồn nào muốn cử hành hôn lễ thiên đàng ấy phải bước đi TRONG ĐỨC TIN tinh ròng, đó là phương thế duy nhất thích hợp cho sự kết hợp tình yêu”.
Lạy Thiên Chúa duy nhất và toàn năng, xin thắp lên ánh sáng đức tin trong mỗi chúng con, xin nâng đỡ để chúng con hãnh diện tuyên tín qua từng ánh mắt và mọi động thái, xứng đáng là môn đệ của Đức Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Ngài, và tất cả chỉ vì Thánh Danh Ngài mà thôi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Tin hay không tin là “chấp nhận” hoặc “từ chối”. Một “biên độ” rất mong manh. Rất đơn giản, nhưng cũng rất phức tạp. Sự giằng co đó luôn xảy ra, thế nên cần phải đứt khoát mau mắn. Chỉ trong tích tắc mà các vị tử đạo dám dứt khoát khước từ sự sống để bước theo Đức Kitô. Bởi vì “chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5). Bổn phận của chúng ta là TIN YÊU và THỜ KÍNH chỉ MỘT THIÊN CHÚA mà thôi!
Giáo lý Công giáo dạy: “Làm dấu Thánh Giá là tuyên xưng Thiên Chúa”. Đó là đức tin của Giáo hội và của mỗi chúng ta. Hằng ngày chúng ta thể hiện đức tin nhiều lần bằng cách làm dấu: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Cũng cần lưu ý là chúng ta “làm dấu” chứ không “làm giấu” (phát âm gần giống nhau nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác nhau).
Con người yếu đuối nên dễ thay lòng đổi dạ. Miệng thì nói tin Chúa nhưng lại hành động khác. Ông Giôsuê quy tụ ở Sikhem mọi chi tộc Ítraen và triệu tập các kỳ mục Ítraen, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa. Ông Giôsuê nói với toàn dân: “Đức Chúa, Thiên Chúa của Ítraen, phán thế này: “Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến Terác là cha của Ápraham và của Nakho, đã phụng thờ các thần khác” (Gs 24:2).
Ông Giôsuê không ép buộc mà cho họ tự do chọn lựa: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người Emôri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa” (Gs 24:15). Họ được “đánh động” nên cảm thấy hối hận, và họ đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người Emôri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi” (Gs 24:16-18).
Chúng ta cũng đã và đang yếu đuối, nói một đàng làm một nẻo, cứ liên tục qụy ngã rồi lại té lên té xuống, vậy mà vẫn chưa nên người. Chúng ta yếu đuối nhưng không được thất vọng, vì chúng ta may mắn có “sức mạnh vô song của Đức Kitô”. Tội lỗi tày trời, tội lỗi ngập đầu, tội lỗi đỏ như máu, thế mà chúng ta vẫn được Thiên Chúa xót thương mà tha thứ tất cả, không chỉ vậy mà chúng ta còn được phục hồi nguyên trạng cương vị người con. Vì thế, chúng ta phải tự hứa: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Ngài chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” [Tv 33 (34):2-3]. Bất kỳ ai cũng phải “làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà” [Tv 33 (34):15].
Thiên Chúa là Đấng nhân lành (x. Ga 10:11 & 14), vì thế Ngài “đối đầu với quân gian ác, xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời”, nhưng Ngài luôn “để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu” [Tv 33 (34):16-17]. Thật vậy, “họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn” [Tv 33 (34):18]. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót nên Ngài luôn “gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề. Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi” [Tv 33 (34):19-21]. Đặc biệt là “xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gãy” [Tv 33 (34):21].
Chúng ta càng yếu đuối càng cần có đức tin. Thánh Phaolô nói: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau” (Ep 5:21). Tùng phục nhau bằng cách nào? Thánh nhân “dài hơi” giải thích: “Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5:22-25). Như vậy là chính Đức Kitô “thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Ngài, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5:26-27).
Cũng thế, “chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình” (Ep 5:28). Rất lô-gích, vợ chồng “tuy hai mà một”, nên một qua bí tích Hôn phối. Mà là một thì “người này là người kia”. Chẳng có ai ghét thân xác mình bao giờ, mà “người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Ngài” (Ep 5:29-30). Sách Thánh có lời chép: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Ep 5:31). Thánh Phaolô xác định: “Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5:32). Hình ảnh phu thê là hình ảnh Đức Kitô và Giáo hội, và ngược lại. Do đó, những người sống đời hôn nhân phải cố gằng thể hiện đức tin qua ơn gọi hôn nhân của mình.
Đức tin có nhiều hệ lụy. Tất cả đều liên kết với nhau một cách mạch lạc và rất kỳ diệu. Thân xác không hơi thở là xác chết, và “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17&26).
Khi giảng dạy trong hội đường ở Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu có nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6:54). Nghe vậy, nhiều môn đệ của Ngài cũng “nóng gáy” nên liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60). Các “đệ tử ruột” mà còn phát biểu vậy đó! Ngài biết tỏng các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Ngài bảo các ông: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ không tin” (Ga 6:61-64).
Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Ngài. Và Ngài nói tiếp: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6:65). Từ lúc đó, nhiều môn đệ đã “bỏ của chạy lấy người”, không còn đi theo Ngài nữa. Thấy vậy, Ngài hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6:67). Ông Simôn Phêrô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68). Ngư phủ Phêrô lâu lâu nói một câu nghe “quá đã”, đúng là “trên cả tuyệt vời”. Ông không dám bỏ Sư phụ Giêsu vì ông đã tin. Thật vậy, ông liền tuyên tín: “Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6:69).
Lão ngư Phêrô ơi! Xin giúp chúng con cũng được sáng con-mắt-đức-tin để có thể chân nhận Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và luôn biết tín thác vào Người Con ấy.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, xin thêm đức tin cho chúng con và xin nâng đỡ chúng con để chúng con can đảm thể hiện đức tin qua từng ánh mắt, lời nói, cử chỉ, động thái,… Nhờ đó mà chúng con xứng đáng là môn đệ của Con Thiên Chúa. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Cứ nhìn vào các nhà thờ đông nghẹt người xem lễ, thì ai cũng nói lòng đạo đức của người tín hữu hôm nay thật là lớn. Tuy nhiên, cuộc sống của họ có đúng là đạo đức hay không? Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay sẽ giúp chúng ta xác định xem mình đang theo Chúa hay là đã xa lìa Ngài?
Thực vậy, nếu chúng ta chỉ dừng lại ở bí tích Thánh Thể mà thôi thì chưa đủ theo đòi hỏi của Tin Mừng. Bởi vì Lời Chúa phải được đem ra thực hiện thì mới trở thành bánh trường sinh được và mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa càng sâu sắc hơn nếu mỗi người biết chia sẻ cho nhau không những của cải vật chất mà còn cả tình thương trong cuộc sống.
Vẫn còn có nhiều người quan niệm đi lễ, giữ chay, đọc kinh, giữ luật đạo, lâu lâu bố thí cho kẻ nghèo hay dâng cúng cho nhà thờ, thì đã thể hiện được lòng đạo đức của mình. Còn ngay trong cuộc sống hằng ngày, họ không cần biết đến người láng giềng đang sống như thế nào? Không cần biết đến xóm làng đang có những vấn đề gì? Họ không cần để ý đến tình người ngay trong mối quan hệ bình thường với kẻ khác. Và như thế vô tình họ đã khoanh vùng hoạt động cho Chúa ở trong nhà thờ mà thôi, họ chưa đưa Chúa vào trong cuộc đời, đang lúc Chúa Giêsu lại sinh hoạt ngay giữa lòng xã hội loài người. Nếu sống đạo như thế, thì làm sao lời Chúa trở thành bán ban sự sống cho được?
Không ít người đã theo Chúa Giêsu chỉ vì phép lạ bánh hoá nhiều, nhưng rồi họ lại vội vã bỏ Chúa mà đi vì lời Ngài thật chướng tai, không thể chấp nhận được. Chỉ riêng nhóm 12 là đã xác tín rằng: Chỉ mình Chúa mới có Lời ban sự sống. Điều xác tín này đã rõ nét trong khi xây dựng cộng đoàn tiên khởi: mọi người bỏ của chung, chăm lo cho nhau và ai cũng no đủ, hạnh phúc.
Giáo Hội kết hợp với Đức Kitô, không chỉ trong các nghi lễ phụng tự mà mỗi người trong Giáo Hội phải sống với tinh thần của Ngài ngay trong cuộc sống hằng ngày. Xã hội vẫn còn những kẻ thiếu ăn, vẫn còn những bất công và áp bức, thì Giáo Hội vẫn còn có những vấn đề được đặt ra cho mình. Làm thế nào để ngày càng đẩy lùi những bất công, đói khổ và lạc hậu. Điều đó đồng nghĩa với làm thế nào để tỏ lộ khuôn mặt Đức Kitô một cách rõ nét nhất trong cuộc sống hiện tại.
Thiên Chúa không thích những của lễ, nhưng Ngài cần lòng nhân ái. Lễ vật nào có ích gì khi sự thù hận đố kỵ vẫn còn trong người tín hữu hay vẫn còn những kẻ đói khổ đau đớn bên cạnh mình. Xác tín đi theo Chúa trên con đường cứu độ là phải mang lấy nỗi ưu tư, ray rứt về một xã hội chưa được an vui hạnh phúc.
Vậy thì chúng ta đã theo Chúa như thế nào và đã thực hiện lời Chúa ra làm sao để lời Chúa thực sự đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu?
Bảo rằng lương thực hằng ngày như cơm, như bánh có thể mang lại cho con người sự sống tạm bợ đời nầy là điều dễ chấp nhận, vì rõ ràng nhờ cơm bánh mà chúng ta có thêm sức mạnh để lao động hằng ngày.
Bảo rằng thuốc men và các chất bổ dưỡng làm gia tăng sinh lực cho con người thì cũng dễ hiểu thôi, vì chúng ta có thể cảm nhận hiệu quả ấy trước mắt.
Thế nhưng Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô trong Tin Mừng hôm nay: “Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời” là những lời khó thuyết phục, vì lời nói thoảng bay trong gió, chứ có phải là lương thực, là thuốc men đâu mà có sức kéo dài tuổi thọ của con người.
Thiên Chúa dùng Lời để tác tạo vũ trụ và thông ban sự sống.
Từ nguyên thuỷ, khi tất cả còn hư vô trống rỗng, Thiên Chúa đã dùng Lời mà tác thành vũ trụ và sáng tạo muôn loài. Mọi sự sống trong hoàn vũ, từ sự sống của các loài sinh vật đơn giản cho đến sự sống của loài người đều do Lời Chúa phán mà ra.
Sáng thế ký chương I viết: “Thiên Chúa phán: “Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc,… liền có như vậy.”
Thiên Chúa phán: “Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại.” Liền có như vậy.
Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta…” Và từ Lời thần thiêng đó, con người đã được tạo thành và được thông ban sự sống. (Stk 1, 20.24.26)
Lời Chúa hồi sinh kẻ chết
Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu cũng dùng Lời thần thiêng của mình để phục hồi sự sống cho những kẻ chết.
Hôm ấy, khi Chúa Giêsu thấy người ta khiêng cậu con trai duy nhất của một bà goá ở thành Na-im đi chôn, người mẹ theo sau xác con gào khóc thảm thiết. Động lòng thương, Chúa truyền cho người khiêng đứng lại và Người dùng Lời của mình ban lại sự sống cho người thanh niên: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho anh hãy chổi dậy” (Lc 7,14), lập tức người chết được hồi sinh.
Rồi đến lượt La-da-rô đã chết đến bốn ngày, xác đã nặng mùi, thế mà Chúa Giêsu cũng chỉ dùng Lời của mình ban lại sự sống cho anh. “La-da-rô, hãy ra ngoài!”. Vừa nghe lời quyền năng đó, người chết đội mồ sống lại. (Gioan 11, 43)
Thế thì rõ ràng là Chúa Giêsu có những Lời truyền ban sự sống, nhưng không chỉ thông ban sự sống sinh vật tạm thời mà còn đem lại sự sống vĩnh cửu trên thiên quốc.
Khi giảng tại Hội Đường Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu khẳng định Người chính là Bánh hằng sống, ai ăn thịt và uống máu Người sẽ được sống đời đời. Lời đó khiến dân chúng và các môn đệ bị sốc, không chấp nhận và tuần tự bỏ đi. Dầu vậy, thánh Phê-rô vẫn kiên vững tuyên xưng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6, 68)
Chúa Giêsu được mệnh danh là Ngôi Lời, đã hiện hữu từ trước muôn đời, “nhờ Người vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Gioan 1, 1-3) thì chắc chắn Người có đủ quyền năng ban sự sống đời đời cho những ai tin nhận Người.
Nếu hôm nay trên thị trường có thuốc trường sinh, chắc chắn sẽ có nhiều người xô đẩy nhau quyết tìm mua bằng mọi giá. Thế mà nay Chúa Giêsu tặng ban miễn phí những Lời đem lại sự sống đời đời cho nhận loại, lẽ nào chúng ta lại thờ ơ.
Vậy thì cùng với thánh Phê-rô, chúng ta hãy tuyên xưng với tất cả lòng tin: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.
Cùng với Mẹ Maria là Đấng hằng ghi nhớ và suy niệm Lời Chúa trong lòng, chúng ta hãy hấp thụ Lời Chúa vào tâm hồn, để Lời Chúa sinh hoa kết quả trong cuộc sống hằng ngày, nhờ đó mỗi người chúng ta được hưởng sự sống hoan lạc đời nầy và sự sống vĩnh cửu mai sau.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Trong suốt bốn tuần qua, Giáo Hội giúp chúng ta suy nghĩ chương 6 của Tin Mừng Gioan: diễn từ về bánh trường sinh. Trọng tâm là câu mà chúng ta vừa nghe đọc: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi, Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết”.
Diễn từ xoay quanh vấn đề bánh hằng sống từ trời xuống. Bánh đó chính là thịt máu Ngài.
Hôm nay cùng với Giáo Hội, chúng ta suy niệm đoạn cuối của chương này.
Tất cả kết thúc trong sự thất bại. Không ai chấp nhận, không ai muốn hiểu những gì Chúa Giêsu nói và mọi người đều bỏ Ngài, kể cả một số môn đệ, chỉ còn lại nhóm Mười Hai đang ngơ ngác nhìn mọi người bỏ đi.
“Lời này chói tai quá! Ai mà nghe được?”
Sao họ nhẹ dạ thế? Sao họ không thấy rằng với năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài đã nuôi năm ngàn người trong hoang địa? Sao họ không nhìn thấy quyền lực lạ lùng của người đã làm được một việc phi thường như thế? Con người chỉ có ăn là đủ sao?
Nhiều người trong chúng ta cũng vậy. Chỉ cần có lợi cho mình, mọi sự khác không cần nghĩ đến, sống chết mặc ai.
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ, những người đang xầm xì về những điều Ngài vừa nói: “Điều đó anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?”
Như thế, Ngài tỏ cho họ biết nguồn gốc thần linh của Ngài. Ngài từ trời xuống. Bánh hằng sống Ngài ban cũng từ trời. Những lời Ngài nói là lời của Thiên Chúa chứ không phải của người phàm. Thế nhưng Ngài chỉ gặp thấy những tâm hồn khép kín, không thể chấp nhận những gì khác hơn là những gì họ nghĩ. Nhưng với đầu óc chắc nịch những vật chất, làm sao họ có thể đón nhận những hồng ân tuyệt diệu của Ngài?
Chúng ta hãy xét lại bản thân. Chúng ta đang sống cho cái gì? Chúng ta đang đi về đâu? Tương lai của chúng ta là gì?
Nếu chúng ta chỉ lo nghĩ đến tiền bạc, của cải, lợi lộc trần gian mà thôi, chúng ta sẽ thất vọng. Chính Chúa nói: “Xác thịt chẳng có ích gì”.Vì nó sẽ tan biến trong giây lát. “Chỉ có Thần Khí mới làm cho sống” Thần Khí mới mở mắt chúng ta vào chân trời của Chúa: “Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”. Ngài mời gọi chúng ta vượt lên trên thế giới vật chất để tìm được những thực tại thiêng liêng, mang lại cho chúng ta sự sống đích thực.
Câu chuyện người đàn bà Samari bên bờ giếng Giacob cũng là một bài học cho chúng ta thấy vũ trụ vật chất chỉ là phương tiện để nhờ đó, chúng ta đạt đến những thực tại thiêng liêng, đạt đến mục đích tối hậu mà chúng ta phải hướng đến.
Từ một miếng nước vật chất đơn thường, Ngài dẫn bà ấy đến nguồn nước trường sinh. Ngài cũng muốn hướng đám dân đang theo Ngài từ bánh trần gian đến bánh hằng sống, nhưng họ không muốn hiểu. Cả những môn đệ cũng không tin và rút lui. Cha trên trời mới có thể đưa họ đến với Ngài khi họ chấp nhận tìm kiếm.
Mọi người đều đả đảo Ngài chỉ còn Nhóm Mười Hai đang ngơ ngác chưa biết nên rút lui hay ở lại.
Ngài hỏi: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”
Một câu hỏi đau lòng!
Ngài không cần một ai. Ngài có thể biến đổi mọi sự theo ý Ngài, nhưng Ngài không muốn ép buộc ai. Ngài là Đấng vô biên không ai dò thấu.
Câu hỏi của Ngài như một cầu cứu khẩn thiết, làm như Ngài mất tất cả. Ngài nắm mọi sự trong tay, nhưng Ngài đã trở nên người ở giữa sa mạc. Ngài đã cho không cuộc đời, nhưng con người vẫn không đón nhận.
Câu hỏi này tiên báo cảnh vườn Ghetxêmani: “Linh hồn Thầy buồn đến chết được. Hãy thức với Thầy”. Ngài vẫn cô đơn giữa đám đông, giữa các môn đệ. Con đường Ngài đi, Ngài chỉ cô độc một mình. Nhưng “khi Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”. Chỉ lúc bị treo lên mà thôi. Giờ này, Ngài vẫn một mình. Ngài báo trước hồng ân tuyệt diệu Ngài ban tặng, nhưng mọi người đều cho rằng: “Khó nghe quá!”
Nhưng may mắn thay! Phêrô đã đại diện cho anh em Nhóm Mười Hai đang lưỡng lự, đã trả lời, một câu trả lời chân thật, rõ rệt, không úp mở, không chịu ảnh hưởng của một yếu tố ngoại lai nào, cũng không do một áp lực nào, có thể nói là hoàn toàn chân thành. Kết quả của một quá trình chung sống gần ba năm đáp: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Những lời Thầy vừa nói mà người ta cho là chướng tai là những lời mang lại sự sống đời đời. Chính Thầy là bánh trường sinh. Ngoài Thầy ra, không còn ai khác.
Chúng ta hãy cùng với Phêrô nói lên tiếng lòng của chúng ta. Không có Thầy, chúng con bám víu vào ai đây? Chung quanh chúng con là một đống đổ nát hoang tàn. Con người đang tận diệt nhau. Bạo lực lan tràn. Tội ác ngập tràn như nước lũ.
Chúng ta không bi quan. Sự thật đã quá rõ ràng không thể chối cải. Thế giới này đang đổ nát. Tương lai của con người đang mịt mờ đen tối. Chỉ có Thầy là ánh sáng duy nhất đang mời gọi.
Hôm qua, Ngài hỏi các môn đệ và cũng chính là câu hỏi cho mỗi người chúng ta hôm nay: “Chúng con cũng bỏ Thầy nữa sao?”
Chúng ta sẽ trả lời sao?
Chắc chắn, chúng ta sẽ cam kết sống chết với Thầy như Phêrô: “Con dám liều mạng cho Thầy!”
Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Lời tuyên xưng này nhắc lại lời tuyên xưng ở Xêdarê-Philipphê: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống”.
Đúng thế! Chúng ta chỉ có Ngài thôi. Gắn bó với Ngài sâu đậm hơn và nhất là ăn lấy Ngài để làm một với Ngài. Đó là ước mong duy nhất của Ngài. Ngài dám trở thành tấm bánh cho chúng ta, nơi đó Ngài chứng tỏ cho chúng ta thấy Ngài yêu chúng ta đến mức độ nào. Chúng ta có thấy được không?
Ngài hiến dâng tất cả cho chúng ta, chúng ta sẽ dâng cho Ngài cái gì? Tất cả hay chỉ một phần nào đó? Tình yêu không chấp nhận sự tính toán, nửa vời. Yêu phải là trọn vẹn. Ngài đã cho chúng ta tất cả, Ngài muốn chúng ta hoàn toàn là của Ngài.
Hãy cho Ngài một miền đất thênh thang để Ngài tự do hoạt động, và chúng ta cũng trở nên tình yêu như Ngài.
Cả chúng con nữa, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?
Câu hỏi Chúa Giêsu đưa ra đòi buộc các môn đệ phải chọn lựa, phải dứt khoát lập trường. Đây không phải là một việc dễ dàng, vì ngay trước đó đã có nhiều môn đệ rút lui, bởi điều Ngài xác quyết một cách mạnh mẽ về thứ lương thực thiêng liêng nuôi sống linh hồn, thật là chói tai không thể nào chấp nhận được theo lẽ tự nhiên: Thịt Ngài là của ăn và Máu Ngài là của uống mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Với lời tuyên bố ấy, chúng ta có thể nghĩ tới bí tích Thánh Thể, chúng ta đã cử hành trong suốt cả cuộc đời người công giáo, mà chẳng có lấy một chút băn khoăn hay do dự. Chúng ta cũng đã từng đón nhận Mình và Máu thánh Ngài một cách quen thuộc theo nghi lễ và chúng ta không còn nhận ra tính cách chói tai và những khó khăn mà các môn đệ đã găp phải.
Sự tuyên xưng của các ông chính là một sự dấn thân, một hành đông liên quan tới vận mạng của một con người. Tuy nhiên, điều đáng cho chúng ta suy nghĩ hơn cả, đó là mặc dầu chúng ta tin tưởng vững chắc vào lời xác quyết của Chúa: Thịt Máu Ngài chính là lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đem đến cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, nhưng trong thực tế, chúng ta lại sống, lại hành động trái ngược với niềm tin tưởng ấy.
Đúng thế, có những người công giáo vốn tự xưng là đạo dòng, đạo gốc… Thế mà cả chục năm không rước Chúa lấy được một lần. Có những người khác, ngày Chúa nhật cũng đến nhà thờ nhưng cho qua lần đoạn lượt mà thôi. Họ đứng ở ngoài sân, vừa nói chuyện, vừa phì phèo điếu thuốc lá và vừa tham dự thánh lễ. Mình không tham dự đã đành, mà còn cả trở và làm cho người khác lo ra, chia trí.
Hơn thế nữa, phần đông chúng ta lại tách biệt thánh lễ ra khỏi cuộc sống.
Chúng ta giữ đạo ở trong nhà thờ như một người công chức tới giờ đến sở làm việc. Có nghĩa là khi đến nhà thờ, chúng ta trang nghiêm sốt sắng. Nhưng khi thánh lễ kết thúc, cửa nhà thờ đóng lại và chúng ta trở về với cuộc sống thường ngày. Lúc bấy giờ chúng ta lại vội vã gian than, độc ác và bất công. Trong nhà thờ chúng ta là những con chiên ngoan, nhưng giữa lòng cuộc đời, chúng ta lại hoá kiếp thành một loài sói dữ. Như vậy, thánh lễ cũng chỉ là một chiếc ngăn kéo rất nhỏ bé giữa những ngăn kéo biệt lập khác của cuộc sống.
Thế nhưng, với những người có đức tin thì khác, cuộc sống phải trờ thành thánh lễ, hay nói cách khác, tinh thần thánh lễ phải thấm sâu vào cuộc sống của họ. Có nghĩa là chúng ta phải biến đổi đời sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài, bằng cách thực thi tinh thần yêu thương và hợp nhất, giúp đỡ những người chung quanh, như một bài hát quen thuộc: Ta về thôi khi thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để làm chứng nhân.
Hãy góp nhặt những hy sinh rải rắc trong đời thường, để làm nên tấm bánh và chén rượu, như những của lễ chúng ta dâng lên Chúa. Từ đó chúng ta đi đến một câu hỏi, một kết luận, đó là chúng ta đã thực sự sống tinh thần thánh lễ giữa lòng cuộc đời của chúng ta hay chưa?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Lời mời gọi tiếp nhận ‘bánh hằng sống’, hay đúng hơn ‘ăn thịt và uống máu’ của Đức Giêsu, đã bị đám thính giả Do Thái nói chung, thậm chí cả một số môn đệ nói riêng, khước từ; “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe cho nổi!… Từ lúc đó nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”. Chắc chắn không phải vì họ không muốn có bánh ăn là thứ mà họ đang kiếm tìm, nhưng họ khước từ ‘ăn thịt và uống máu’ vì là hình thức ghê tởm đối với bất kỳ ai. Điều đó thật ra cũng dễ hiểu thôi, và chẳng có gì đáng chê trách! Tuy nhiên điều làm chúng ta suy nghĩ chính là, từ sự ghê tởm tự nhiên đó, họ đã không còn tin vào Đức Giêsu nữa, “Trong anh em có những kẻ không tin”… và nhiều người quyết định lìa bỏ Người.
Nếu chỉ là vì hình thức ‘ăn thịt và uống máu’ làm họ ghê tởm, thì cách giải quyết cũng nhẹ nhàng thôi: chỉ cần trao bánh và rượu, rồi nói: “này là thịt và máu Ta”, như Người sẽ làm trong bữa ăn ly biệt, là sẽ dễ dàng được chấp nhận ngay. Thế nhưng, trong nhận thức của Đức Giêsu, thì rõ ràng đó không phải là lý do đáng quan tâm nhất để họ từ khước. Đối với Người, các môn đệ đang cần củng cố một điều gì còn thâm sâu hơn nhiều mà Người gọi là đức tin nhờ Thần Khí; “Thần Khí mới làm cho sống chứ xác thịt chẳng có ích gì”, vì cũng chỉ có Thần Khí mới có thể mở miệng Phê-rô thốt lên lời tuyên xưng: “Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”
Ngày nay trong số các Kitô hữu cũng có nhiều kẻ không tin, nhưng vấn đề chúng ta phải giáp mặt có lẽ lại trái ngược hẳn với các môn đệ Do Thái thời xưa. Khi giảng giải về Thánh Thể, người ta nhấn mạnh, bánh và rượu thật là ‘mình và máu’ Chúa (cũng có thể là do phản ứng của Công Giáo trước việc anh em Tin Lành chối bỏ học thuyết ‘biến thể’ transubstantiation). Điều này ngày nay không quá khó chấp nhận, ngay cả đối với các dự tòng, chỉ cần đưa ra một lý luận đơn giản: có điều gì mà Thiên Chúa không làm được? Cũng vậy khi tiến lên rước lễ, chẳng ai trong chúng ta còn có cái cảm giác ghê tởm của ‘ăn thịt và uống máu’. Thế nhưng, như đã từng xẩy ra cho các môn đệ xưa, vấn đề chính của chúng ta sẽ là: tôi có thật sự ‘tin và theo Thầy’ cách triệt để hay không? ‘Uống nước hằng sống’ và ‘ăn bánh trường sinh’ thực chất chỉ là những kiểu nói tượng hình để diễn đạt một điều hệ trọng hơn nhiều. Môn đệ Phê-rô đã biểu lộ niềm tin này qua lời tuyên xưng chân thành: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68).Chính Đức Giêsu cũng chỉ rõ: “… Trong anh em có những kẻ không tin… Vì thế, Thầy bảo anh em: không ai đến với Thầy được nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. Tác giả Gio-an hình như cũng có cùng một nhận định khi nói về các môn đệ: “Quả thực ngay từ đầu đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp người”. Như vậy ‘tin Đức Giêsu’ có nghĩa là lấy cái chết tự hiến thập giá của Người làm sức sống cho đời mình, làm con đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha – sự sống vĩnh cửu; “Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” Chỉ ai tin như thế (= ăn thịt và uống máu) mới bảo đảm cho mình được sống muôn đời; “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.
Xác tín điều này, tôi không hề có ý hạ thấp tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể trong nội dung triết học và thần học; ngược lại là đàng khác. Khi cử hành Thánh Thể, thay vì chỉ suy nghĩ rằng mình đang làm một việc đạo đức tốt lành và thánh thiện bậc nhất (hàng đầu trong số các bí tích hay phụng vụ), tôi cần minh định rõ rằng mình đang tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô cách long trọng nhất, cũng như đang đón nhận ơn cứu độ cách thâm sâu nhất. Đức tin của tôi không đơn thuần chỉ là xác tín bánh và rượu đã trở thành Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Đức tin phải đưa tôi tới việc đón nhận Đấng đã hiến dâng mình trên thập giá để tôi được thông phần vào sự sống từ ái vô biên của Chúa Cha… Và điều này thiết thực tới độ, cho dầu tôi, nếu có chết trước cả khi có dịp ‘ăn thịt và uống máu’ Người nơi bí tích Thánh Thể, và nếu tôi đã từng hết lòng ‘ăn bánh trường sinh’ trong niềm tin phó thác thâm sâu nhất đó, thì chính niềm tin này mới đảm bảo cho tôi “không còn chết nữa, nhưng được sống muôn đời”.
Điều tối quan trọng là đôi lúc tôi cần thật sự duyệt lại niềm tin của mình đạt nơi bí tích Thánh Thể, nhất là trong Thánh Lễ tôi cử hành hàng ngày
Lạy Cha chí ái, mỗi ngày khi con cử hành Thánh Thể, cho dầu có là một thói quen như hầu hết các linh mục khác, xin Cha luôn làm con ý thức rằng, đây chính là lời tuyên xưng đức tin thâm sâu nhất của con. Thánh Thể khi đó sẽ diễn đạt việc con đón nhận ơn cứu độ vô giá của thập giá Chúa Kitô cách trọn vẹn nhất, sẽ trở thành con đường để con đi vào sức sống vô biên của Chúa Cha, và bảo đảm cho con cuộc sống vĩnh hằng. Xin Cha giúp con luôn cử hành Thánh Lễ trong niềm tin như vậy. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Con người thường đổi trắng thay đen. Lòng người thường thay lòng đổi dạ khiến cho nhiều người đã chua chát nhìn đời mà bảo rằng:
“Còn tiền còn bạc còn đầy tớ.
Hết tiền hết bạc hết ông tôi”.
Người ta gắn bó với nhau thường là vì tình, vì tiền và quyền lợi. Và một khi quyền lợi của mình bị lung lay, họ liền thay lòng đổi dạ để rồi “gió chiều nào xuôi theo chiều đó” để được an toàn bản thân. Xem ra tình cảm giữa con người với nhau thật mong manh. Mọi quan hệ đều được liên kết với nhau bằng những quyền lợi và nghĩa vụ phải thi hành với nhau. Tình đời thường thay trắng đổi đen nên mới có chuyện “ông ăn chả bà ăn nem”. Bất trung và phản bội với lời đoan hứa thường là sự mất tín nhiệm nơi nhau và hậu quả là chẳng ai tin ai, ai cũng lo cho chính mình để khỏi bị thiệt hại bản thân.
Lịch sử cứu độ là một chuỗi dài sự tha thứ của Thiên Chúa và sự bất trung, phản bội của dân tộc được tuyển chọn. Họ hứa rồi quên. Họ đứng lên rồi lại ngã qụy. Dân Do Thái đã từng hứa trung thành với Giavê Thiên Chúa, nhưng rồi họ lại tin thờ thần ngoại bang. Mặc dầu Thiên Chúa luôn bảo vệ họ, chăm sóc họ như tình phụ tử dành cho con cái. Ngược lại, họ thường lãng quên ân huệ của Thiên Chúa. Họ năm lần bảy lượt quay lưng lại với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho họ.
Lời Chúa trong bài đọc thứ nhất là bằng chứng về quá khứ đầy thất trung của dân tộc được tuyển chọn. Cha ông họ đã từng thờ thần ngoại bang. Hôm nay họ tuyên hứa chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa Giavê duy nhất, nhưng rồi lời hứa lại đi vào quên lãng chỉ còn lại những thất tín, bội thề. Thiên Chúa đối với họ như là một kho ơn, chỉ đề rút tỉa và một khi không đáp ứng nguyện vọng là họ lại tìm kiếm nơi các thần ngoại bang. Thế nhưng, Thiên Chúa là Đấng tín trung với lời giao ước. Ngài chỉ giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương trọn đời.
Hôm nay, Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ một chọn lựa. Chọn gắn bó với Chúa hay chạy theo thói đời của thế gian “hạnh phúc thì xum vầy, gian nan thì bỏ chạy”. Chúa đòi các môn đệ không lấp lửng, lập lờ “làm tôi hai chủ”, mà phải tỏ rõ lập trường. Bỏ đi hay ở lại. Chọn sự sống đời đời hay sự sống chóng qua đời này. Các môn đệ đã gắn bó với Chúa bao lâu nay nhưng liệu rằng bằng đó thời gian có đủ để niềm tin các ông trưởng thành và có thể nhận ra Thầy là Chúa, là Đấng ban sự sống hay chưa? Trước câu hỏi: “cả anh em, anh em cũng muốn bỏ Thầy đi sao?”. Nhiều môn đệ đã bỏ đi. Và chắc chắn ngay trong số 12 vẫn còn có kẻ muốn bỏ đi. Số còn lại do dự, im lặng, chỉ có một mình Phêrô đã mạnh dạn thưa lên rằng: “bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Vì chỉ có Thầy mới có lời ban lại sự sống đời đời”. Thánh Phêrô đã ở lại với Thầy, vì ông tin vào Thầy mình là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Ông ở lại với Thầy vì chỉ có Thầy mới mang lại sự sống đời đời.
Người xưa thường nói: “Qua gian nan mới biết ai là bạn, là thù”. Chúa Giêsu biết rõ một trong nhóm sẽ nộp mình. Ngài cũng Phêrô sẽ ba lần chối Thầy và đa số sẽ bỏ Thầy cho người ta hành hạ và treo lên thập tự giá, nhưng Ngài vẫn yêu thương. Ngài vẫn tìm mọi cách cho các môn đệ ở lại mãi trong tình yêu của Ngài. Tình yêu của Thiên Chúa đời đời vẫn thế. Tựa như tình yêu của cha của mẹ sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái. Tình yêu của Thiên Chúa vẫn mãi mãi trung thành với tình yêu ban đầu. Ngài vẫn hằng tha thiết mời gọi con người hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Dù rằng đó là đứa ngỗ nghịch, dù rằng đó là đứa thường phạm sai lầm, đôi khi còn bất hiếu bất trung. Ngài vẫn yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn hỏi chúng ta “phần các con có muốn bỏ Thầy không?”. Chúng ta có dám ở lại với Thầy khi mà nhiều người đã không còn tin có thế giới thần linh? Chúng ta có dám gắn bó với Người khi mà cả khối đông nhân loại đang bỏ đi để chạy theo ma lực của đồng tiền và địa vị? Có lẽ phần nhiều chúng ta do dự, phần nhiều chúng ta im lặng. Vì biết bao lần chúng ta cũng bị cám dỗ bỏ đạo để được tiến thân trên đài cao danh vọng. Vì biết bao lần đồng tiền đã làm mờ con mắt, khiến chúng ta chao đảo đức tin, muốn buông xuôi theo thói gian dối của thế gian để tìm mối lợi cho bản thân của mình. Có thể chúng ta đang đóng vai trò một Giuđa vẫn ở xen lẫn với nhóm 12 nhưng chỉ chờ cơ hội để bán đứng Thầy và bán đứng anh em.
Nguyện xin Thiên Chúa tình yêu tha thứ những yếu đuối, nhỏ nhen đầy ích kỷ của chúng con. Xin Mình Máu Thánh Ngài nâng đỡ chúng con thoát khỏi những cám dỗ trần thế để mãi mãi con có thể nói như thánh Phêrô ngày nào: “Bỏ Ngài chúng con biết đến với ai. Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời”. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Ga 6: 60-69: Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả Nhóm nói lên thái độ của họ: ”Lạy Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa “…
Bốn bài giảng liên tiếp về Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu đã tạo ra nhiều phản ứng nơi những cử tọa Do Thái.
– Khi Chúa Giêsu tiết lộ cho họ biết Ngài có Bánh hằng sống, ăn vào sẽ không đói khát nữa, họ bèn xin Ngài cho họ thứ bánh đó.
– Tiến thêm một bước, Ngài cho họ biết Bánh đó chính là Ngài từ trời xuống, họ có phản ứng chống lại ngay vì họ cho rằng Ngài chỉ là con ông Giuse, một bác thợ mộc ở Nazareth, làm sao lại có chuyện đó được?
– Rồi trước lời tuyên bố của Đức Giêsu:”Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống” thì không những đám dân chúng mà nhiều người trong số các môn đệ đã phản ứng như những người Do Thái: ”Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi”(Ga 6,60)?
Cho nên nhiều môn đệ, tuy được sống gần Ngài một thời gian, cũng rút lui, từ giã Chúa như Phúc Âm đã ghi lại: ”Từ bấy giờ, có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Chúa Giêsu nữa”(Ga 6,66).
Họ đã theo Ngài một thời gian, đã tin, đã trở thành môn đệ, nhưng họ không thể đi tới cùng, vì lời nói của Ngài: ”Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống”.
Đứng trước sự tan rã bi đát đó, Chúa Giêsu quay về Nhóm Mười Hai, những người được coi là thân tín nhất, Ngài nói: ”Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không”?
Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả Nhóm nói lên thái độ của họ: ”Lạy Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa “ (Ga 6 , 70).
Đây là cách Gioan nhắc lại lời của Phêrô tại Xêdarê Philipphê (Mc 8,27; Mt 16,13; Lc 9,18). Chính trong một hoàn cảnh như thế, người ta đã thấy lòng trung thành của Phêrô. Đối với Phêrô, có một điều thật đơn giản là chẳng còn có ai đáng cho ông đi theo hơn là Chúa Giêsu. Với ông, chỉ có Ngài mới có lời đem lại sự sống đời đời.
Lòng trung thành của Phêrô căn cứ trên mối liên hệ cá nhân với Chúa Giêsu Kitô. Có nhiều điều Phêrô không hiểu, ông cũng bối rối, lạc lõng như bất cứ ai khác. Nhưng nơi Chúa Giêsu có một cái gì khiến ông sẵn sàng hy sinh tính mạng.
Lạy Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai?
Cha Thành Tâm đã suy diễn câu nói bất hủ của thánh Phêrô thành một bài thánh ca:
“Bỏ Ngài con biết theo ai” với những lời lẽ như sau:
– Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cách chim bơ vơ trong khung trời lộng gió.
– Bỏ Ngài con sẽ theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi.
– Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con thuyền lao đao trên biển cả mênh mông.
– Bỏ Ngài con biết theo ai, thuyền buông lái biết trôi về đâu?
– Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ.
– Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã.
Quả thực, không có Chúa, cuộc đời chúng ta sẽ như một con thuyền lênh đênh trên biển cả. Không có Chúa, cuộc đời chúng ta sẽ cô đơn buồn chán.
Trong lúc cô đơn buồn chán, chúng ta thường chạy đến với người này người nọ, nhưng cũng chẳng giải quyết được gì để rồi cuối cùng đưa chúng ta đến thất vọng. Thất vọng lại càng làm cho chúng ta cô đơn buồn chán hơn.
Chắc chắn chúng ta chúng ta cứ phải loay hoay mãi trong cô đơn, buồn chán và thất vọng
bao lâu chúng ta chưa chạy đến với Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thánh Thể.
Nhưng đến với Ngài bằng cách nào đây?
Nói tới đây tôi xin chia sẻ một kinh nghiệm trong đời sống thiêng liêng: Khi còn ở tiểu chủng viện, trong kỳ hè, được cha linh hướng nhắc nhở. Mỗi ngày phải chầu Thánh Thể ít nhất 30 phút.
Quả thực ban đầu khi bước vào nhà thờ là ngó đồng hồ ngay. 30 phút sao mà nó lâu thế. Rồi cứ thế, kỳ hè qua đi, rồi lại một kỳ hè nữa lại tới.
Cứ cố gắng tập dợt, để rồi tới một ngày nào đó nó đã trở thành những giây phút cần thiết cho cuộc sống. Có lần tự nhiên trước khi đi ngủ sực nhớ lại hình như mình còn quên một điều gì đó, thì ra chính là chưa dành 30 phút trước Chúa Giêsu Thánh Thể.
Nhờ những giây phút như thế tâm hồn tôi luôn được nâng đỡ, ủi an để vượt qua được những quãng đời gian khổ trong cuộc sống.
Ước gì trong cuộc sống, chúng ta luôn lập lại lời của thánh Phêrô:
”Lạy Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai?
Vì Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Mỗi lần tham dự Thánh lễ hôn phối, ta được nghe từng lời của chú rể: Anh… nhận em… làm vợ và hứa sẽ giữ lòng trung thành với em, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như khi mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em suốt đời anh. Đáp lại, cô dâu cũng nói lên lòng trung thành với chồng của cô.
Lòng trung thành dường như là điều cần thiết cho cuộc sống chung. Trong mọi tương quan, trong mọi bậc sống đều cần lòng trung thành, sự chung thủy với nhau. Bạn bè chơi với nhau cần trung thành để không phản bội nhau. Vợ chồng cần trung thành để không có lỗi với nhau. Thầy trò cần lòng trung thành để gắn bó mật thiết với nhau… Và như vậy, chúng ta thấy lòng chung thủy, sự trung thành luôn là điều mà mọi người chúng ta phải gìn giữ trong mọi mối tương quan với nhau.
Nhưng xem ra xã hội chạy theo lợi nhuận đã khiến con người khó giữ lời hứa trung thành. Vì lợi nhuận có người đã thay đổi công ty mỗi năm vài lần, cho dù đó là những ông chủ đã từng cưu mang họ lúc khó khăn. Bạn bè chơi với nhau ngày hôm nay cũng thế! Rất khó kiếm được bạn tri kỷ như thế hệ cha anh. Họ chơi với nhau nhưng dễ dàng đạp đổ nhau vì cái lợi cá nhân, vì công danh của họ. Ngày hôm nay càng khó kiếm những đứa học trò về thăm thầy cô sau khi công thành danh toại, đôi khi còn phản thầy, phản bạn và vu khống nhau…
Điều báo động là lòng trung thành, sự chung thủy trong hôn nhân hôm nay cũng đang bị phá hủy một cách đáng báo động. Ở những thành phố lớn như Sài Gòn người ta tính cứ 3 đôi kết hôn thì 1 đôi không trung thành với nhau trọn đời. Và theo thống kê tại nơi thử máu AND để xác định cha con ruột với nhau thì cứ 10 trường hợp thì có 3 trường hợp nuôi con hàng xóm…
Quả thực, lòng trung thành nói thì dễ nhưng giữ lại chẳng dễ chút nào. Ngay trong tôn giáo có mấy người thực sự giữ lòng trung thành với Thiên Chúa? Ở Việt Nam vào thập niên 1980-1990 của thế kỷ trước rất nhiều người đã ghi vào lý lịch bản thân là không tôn giáo để tìm kiếm công danh cho dễ. Ở đâu đó ta vẫn thấy người Công Giáo nhưng không trung thành giữ luật Chúa, họ vẫn tham ô, lừa gạt, sống thiếu yêu thương…
Lời Chúa hôm nay, ta cũng nghe lời hết sức tình cảm từ môi miệng của Simon Phêrô: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời “. Nhưng Phê-rô thực sự đã không giữ lời hứa. Ông đã ngã đi ngã lại tới 3 lần và cuối cùng bỏ chạy biệt tăm trên đường thập giá mà Chúa phải đi một mình!
Cuộc đời mỗi người chúng ta dường như cũng có nét gì đó giống Simon Phêrô xưa. Nói yêu Chúa thì dễ nhưng khi phải làm chứng thì lại chạy xa. Đi lễ thì đông nhưng giữ trọn luật Chúa còn mấy ai? Ngày nay không còn có những cuộc bách hại đạo tàn khốc nhưng cuộc cạnh tranh cơm áo gạo tiền đã khiến bao người đánh mất lòng trung thành với Thiên Chúa. Và lòng trung thành với nhau của vợ chồng, của bạn bè , của đối tác làm ăn càng khó giữ vì lợi nhuận mà người ta dễ dàng phản bội nhau.
Chúa Giêsu hôm nay nói với các môn đệ và cũng là chúng ta muốn trung thành với Chúa và với nhau không thể dựa vào bản thân mà hãy dựa vào chính Chúa. Chính ơn ban của Chúa Cha mới giúp chúng ta sống trung thành với lời hứa. Thế nên, chúng ta cần khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của mình để trông cậy với ơn Chúa. Hãy gia tăng cầu nguyện, hãy phó thác vào Chúa để Ngài nâng đỡ sự yếu đuối của chúng ta và hoàn thiện chúng ta nên tốt hơn.
Xin ơn Chúa giúp chúng ta giữ lòng trung thành với Chúa và với nhau. Nhất là luôn nhận ra Chúa mới là nguồn sống trường sinh để biết chọn Chúa hơn là của cải trần gian mau qua. Amen.
(Suy niệm của Lm. GB. Văn Hào SDB)
Người ta vẫn thường nói, trên đời này không có gì ghê tởm và đáng cho chúng ta khinh bỉ cho bằng sự phản bội. Trò phản thầy. Con cái phản bội công ơn cha mẹ, nhất là vợ chồng phản bội nhau trong nghĩa tình phu thê,.. tất cả đều đáng bị nguyền rủa và coi khinh. Tuy nhiên, trong đời sống đức tin, đặc biệt trong ơn gọi thánh hiến, chúng ta cũng có nguy cơ dễ rơi vào sự bội phản này. Lời tuyên tín của thánh Phêrô trong trình thuật tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta phải luôn canh tân lòng trung thành và bền bỉ theo Chúa Giêsu từng ngày: “ Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6,68)
Nghịch lý của Lời
Sau khi Đức Giêsu tuyên bố: “ Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”, nhiều môn đệ dị ứng và ngán ngẩm bỏ đi. Có lẽ họ đã theo Chúa một thời gian khá lâu với những động cơ khác nhau, nhưng cuối cùng hầu hết đã thoái lui và đầu hàng vô điều kiện. “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi”(c.60). Họ bỏ của chạy lấy người, vì không thể chấp nhận nghịch lý theo suy luận tự nhiên nơi đầu óc của họ. Lời Đức Giêsu tuyên bố làm sụp đổ hoàn toàn những toan tính trần thế mà họ vẫn đeo bám khi đến với Đức Giêsu. Quả thật, Đức Giêsu vẫn luôn là một mầu nhiệm ẩn kín và khó hiểu. Mầu nhiệm về Ngài và những lời Ngài nói luôn hàm ngậm một nghịch lý, và cao điểm của nghịch lý này là cái chết trên Thập giá. Một con người mà họ mơ tưởng sẽ trở thành thủ lãnh chính trị, khai lập một vương quốc mới đầy oai phong, lại bị kết án như một tên tội phạm, và bị treo thân cách nhục nhã giống hệt một tên cướp đáng sợ. Một số môn đệ bỏ đi cũng dễ hiểu. Lời Đức Giêsu nói ra nghe thật chói tai và nhức nhối. Giả như chúng ta ở vào hoàn cảnh đó, có lẽ chúng ta cũng sẽ hành xử giống như họ. Khi tuyên bố như thế, ông Giêsu đúng là một con người điên điên khùng khùng chẳng giống ai. Ngay cả các thân nhân đồng hương với Chúa cũng đã có lần phải lắc đầu và ngao ngán thốt lên “Ông ấy đã mất trí rồi” ( Mc 3,21).
Nhưng nếu tìm hiểu căn nguyên một cách sâu xa hơn, một số môn đệ bỏ đi, bởi vì họ đã chưa thực sự cắm sâu vào mầu nhiệm Đức Giêsu. Họ chỉ nghe Chúa nói bên ngoài, nhưng bên trong, tâm hồn họ vẫn hoàn toàn đóng khép. Con tim họ chưa mở toang ra để lời Chúa có thể thẩm thấu vào sâu tận nơi con người họ. Thánh Biển Đức cũng dạy các con cái Ngài: “ Chúng con phải siêng năng lắng nghe lời Chúa, nhưng không phải nghe với đôi tai của thân xác mà với đôi tai của cõi lòng”.
Tự bản chất, Đức Giêsu chính là Lời hằng sống được hiến trao cho nhân loại. “ Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Lời Thiên Chúa không phải là một hệ thống những triết ngôn, hay những tư tưởng khuyến thiện để răn đời. Lời Chúa ở trên một mức độ khác cao cả hơn rất nhiều, bởi vì Lời Chúa và duy nhất chỉ có Lời của Thiên Chúa mới đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Đây là lời tuyên tín của Thánh Phêrô, được khởi hứng bởi Thần khí, đồng thời cũng là một mặc khải sâu xa Thiên Chúa ngỏ trao. Những kiến thức khoa học, chúng ta có thể nghiên cứu để sở đắc. Những chân lý triết học, chúng ta có thể dùng lý luận để suy tư. Nhưng lời Chúa không phải là một mớ kiến thức để nhồi nhét, nhằm thỏa mãn sự tò mò nơi đầu óc con người. Muốn đón nhận lời của Chúa để được sống luôn mãi, thái độ căn bản cần phải có chính là “tin” vào Ngài. Trong diễn từ về bánh nơi chương 6 trong Tin mừng Gioan, Đức Giêsu nói khá nhiều về thái độ căn bản này: “Ai tin vào tôi sẽ được sống muôn đời”. Lời khuyến mời của Đức Giêsu cũng tương thích với lời tuyên tín của thánh Phêrô. “ Chỉ Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Ăn thịt và uống máu Chúa, cũng như mở lòng đón nhận nhận Lời của Thiên Chúa sẽ được trường sinh. Đây là hai cách thái giống hệt nhau biểu tỏ một thực tại duy nhất: Tin vào Đức Giêsu.
Canh tân lòng trung thành
Lời của Chúa là nghịch lý luôn hàm ngậm mầu nhiệm tự hủy. Thánh giáo phụ Grêgoriô thành Nysse đã quảng diễn nghịch lý đức tin này khi Ngài viết: “Hành trình đức tin của chúng ta đến với Chúa giống như chúng ta đang dấn bước tìm đến một khoảng tối đầy ánh sáng”. Ánh sáng và bóng tối, sự sống và sự chết, ân sủng và tội lỗi…. là những cặp phàm trù tương phản và đối kháng nhau ẩn chứa nơi nghịch lý của Lời, cũng như trong nghịch lý của mầu nhiệm Đức Giêsu. Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta phải liều lĩnh dấn bước vào bóng tối để tiến đến ánh sáng, phải chấp nhận đi qua Thập giá và cái chết để tiến nhận sự sống và vinh quang. Đối diện trước nghịch lý này, chúng ta sẽ phải chạm mặt với những cám dỗ muốn thoái lui và không muốn chấp nhận điều nghịch thường đó.Vì thế, chúng ta cần phải canh tân lòng trung thành mỗi ngày. Đức tin không phải chỉ đón nhận một lần là xong. Thánh Phaolô cũng đã căn dặn giáo đoàn Rôma: “ Những người có đức tin vững mạnh phải nâng đỡ những người yếu đuối không có niềm tin vững mạnh” (Rm 15,1).
Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã từng cảnh báo chúng ta về ba nguy cơ gây xói mòn đức tin và làm suy giảm căn tính đích thực nơi mọi Kitô hữu, đó là sống theo chủ nghĩa duy vật (materialism), sống theo chủ nghĩa hưởng thụ (consumerism) và sống theo chủ nghĩa tục hóa (secularism). Là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta phải đặt Thiên Chúa vào chỗ tối thượng (in primacy). Điều này ai cũng biết trên lý thuyết, nhưng trong thực tế, chúng ta lại hay sống theo kiểu khác. Khi chúng ta thượng tôn tiền bạc, đặt tiền bạc làm thước đo mọi giá trị theo kiểu sống duy vật, thì đó chính là một sự phản bội. Khi chúng ta chủ trương sống an nhàn với những tiện nghi vật chất để thỏa mãn nhu cầu thể xác theo kiểu sống hưởng thụ, đó cũng là một sự phản bội. Đặc biệt, khi chúng ta mất dần cảm thức linh thánh, không còn thiết tha đến việc cầu nguyện và rơi vào nếp sống tục hóa, thì chắc chắn đó cũng chính là con đường phản bội mà chúng ta đang từ từ đi vào. Chúng ta phải can đảm đạp đổ những “con bò vàng” giống như con bò vàng của những người Do thái năm xưa trong sa mạc Sinai, để từng giờ từng phút, chúng ta luôn lặp lại quyết tâm sống trung thành.
Nguy cơ phản bội
Một đứa bé 12 tuổi ngồi tham dự phiên tòa xét xử vụ án ly dị của bố mẹ, đã viết lại những dòng tâm sự đầy nước mắt sau đây:
“Con nhớ mãi buổi chiều thu ấy, lá rơi nhiều. Bên ngoài trời mưa tầm tã. Bố đến hôn con, một nụ hôn cay đắng và nghiệt ngã. Tâm hồn con tan nát và chết lặng.
Bố ơi, sao bố dùng cái hôn ấy để xé nát gia đình chúng ta. Sao bố dùng nụ hôn giả dối ấy để trao cho con thay vì hôn trên đôi môi của mẹ. Chữ ký ngày xưa trên bàn thờ Chúa ngày bố mẹ thành hôn nay trở thành những nét chữ không hồn.
Mẹ ơi, sao mẹ không đến nhận nụ hôn thay cho con, nụ hôn ngày xưa mẹ đã hạnh phúc lãnh nhận trước bàn thờ Chúa. Sao mẹ vẫn lạnh lùng đứng đó như một kẻ xa lạ nhìn bố hôn con, một nụ hôn như mũi dao nhọn đâm nát trái tim bé bỏng nơi con.
Bố ơi, mẹ ơi, con phải trung thành với ai đây khi con sẽ đứng nhìn những nụ hôn bố trao cho mẹ ghẻ, mẹ sẽ trao cho một người đàn ông khác hoàn toàn xa lạ.
Chúa ơi, con còn quá nhỏ bé, sao Chúa để con phải nhận những nụ hôn Giuđa này?”
Đúng vậy, trên đời này không có gì đáng chúng ta ghê tởm cho bằng sự phản bội.
Nhưng, những nụ hôn Giuđa hình như vẫn đang được lặp lại trong cuộc sống mỗi người chúng ta, qua nhiều dạng thức khác nhau, đặc biệt trong đời sống đức tin, nhất là trong đời sống thánh hiến.
Kết luận
Cha Matthêu King, một linh mục dòng Salêdiêng DonBosco đã qua đời cách đây hơn 7 năm. Ngài được Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II mời sang Rôma để làm cố vấn đặc biệt cho giáo triều về những vấn đề của Trung quốc. Trong những năm tháng cuối đời nằm trên giường bệnh quặn đau với căn bệnh ung thư, Ngài vẫn thường nói: “ Tôi luôn cám ơn Chúa về ba hồng ân Chúa đã ban cho tôi. Trước hết, tôi được biết Chúa và trở nên môn đệ Đức Giêsu ngày tôi lãnh nhận bí tích Thánh tẩy. Thứ đến, Chúa đã chọn tôi trong ơn gọi Salêdiêng và trở nên một linh mục phục vụ Giáo hội. Cuối cùng, Chúa đã gửi đến cho tôi căn bệnh đau đớn này để tôi được thông dự vào những khổ đau với Chúa Giêsu trên Thánh giá. Tôi luôn cảm tạ Chúa vì ba ân huệ quý giá này”. Ngài cũng luôn nói với những ai đến thăm Ngài: “Xin anh em cầu nguyện cho tôi, để tôi được mãi trung thành”.
Đức tin không phải chiếm được một lần là xong. Chúng ta còn phải chiến đấu mãi, phải luôn bươn chải mãi, để với ơn Chúa, chúng ta có thể trung thành đến cùng.
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã ban cho loài người được tự do lựa chọn: hoặc chấp nhận hay khước từ ơn Chúa. Sau khi chu toàn sứ mệnh Môsê trao phó để đưa dân Chúa chọn vào miền đất hứa, ông Giôsuê đã triệu tập các vị đại diện dân chúng tại Si-khem để khẳng định lại niềm tin vào Chúa. Ông nói với họ rằng: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ… Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Gs 24:15). Dân Ít-ra-en cũng đã lựa chọn. Họ quyết định phụng thờ Thiên Chúa vì Người đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai cập, đã làm những việc kỳ diệu và dẫn đưa họ vào miền đất hứa.
Tuy nhiên khi gặp khó khăn và thử thách trong sa mạc, họ lại bất trung, phản nghịch cùng Chúa. Và mỗi lần họ ăn năn sám hối thì Chúa lại giang tay đón nhận họ trở về với lòng bao dung tha thứ. Trong Phúc âm tuần trước, Đức Giêsu dạy họ về việc ăn bánh hằng sống là thịt và uống máu Người thì mới có sự sống muôn đời. Người Do thái liền tranh luận hỏi nhau: làm sao ông này có thể cho họ ăn thịt Người được (Ga 6:52)?
Lớp thính giả thứ hai trong Phúc âm hôm nay là các môn đệ khi nghe Đức Giêsu giảng dạy về việc ăn thịt và uống máu Người để được sống muôn đời, cũng lẩm bẩm cho rằng lời nói thật là chướng tai (Ga 6:60). Và theo Phúc âm thuật lại: Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa (Ga 6:66). Từ ngữ môn đệ được hiểu là người theo Đức Giêsu và con số được ghi là bảy mươi hai môn đệ. Và khi có những môn đệ bỏ cuộc, Đức Giêsu không ngạc nhiên, cũng không buồn giận, và không thay đổi lập trường. Người không giải thích, cũng không rút lại lời giảng dạy để mong bắt được mẻ cá lớn là các môn đệ.
Đến lượt lớp thính giả thứ ba là các tông đồ thì Đức Giêsu còn thách đố các ông thêm nữa. Người đòi hỏi nơi các tông đồ một đức tin không dè dặt, không lưỡng lự. Đức Giêsu gần làm hoảng hồn các tông đồ, khi Người hỏi thêm các ông: Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi không (Ga 6:67)? Hoặc ở lại hay bỏ đi, một câu hỏi mà họ không thể nào tránh né được. Để trả lời câu hỏi, ông Phêrô tiến lên, đóng vai trò lãnh đạo, đáp lại: Thưa Thầy, nếu bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6:68). Ông muốn nói là không có ai khác để mà theo cả. Đức Giêsu đòi hỏi một quyết định nơi các tông đồ. Và Người đã nhận được lời cam kết của thánh Phêrô. Một lời cam kết đã làm tiêu tan những nghi ngờ của các tông đồ khác.
Cũng vậy, tất cả những người đã quyết định theo Chúa qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức đều phải đương đầu với những thử thách về đức tin. Hằng ngày ta gặp nhiều cám dỗ để chối bỏ đức tin công giáo tông truyền. Ta gặp nhiều tiếng gọi dụ dỗ bảo ta điều gì phải tin, điều gì không cần tin, việc gì phải làm, việc gì không nên làm, điều gì cần phải được xét lại. Ta bị cám dỗ để giữ đạo theo xu hướng nhất thời, tuỳ theo hứng khởi: vui thì đi lễ thờ phượng, không thì ở nhà. Ta bị cám dỗ chỉ giữ đạo nếu Giáo hội thay đổi lập trường về một vài nguyên tắc luân lý nào đó, nếu Giáo hội chiều theo ước muốn của ta.
Ta bị cám dỗ chối bỏ đức tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh thể vì không hiểu sao bánh rượu sau khi linh mục đọc lời truyền phép vẫn giống bánh rượu trước khi truyền phép? Và đó chính là mầu nhiệm trong đạo mà loài người không thể dùng lí trí để giải thích và hiểu được. Nếu người ta có thể hiểu được mầu nhiệm trong đạo, thì cái được gọi là mầu nhiệm, không còn phải là mầu nhiệm nữa, mà chỉ là một triết thuyết hay một hệ thống khoa học. Vì thế mầu nhiệm vẫn mãi mãi là mầu nhiệm, nếu không thì đức tin không còn phải là đức tin nữa, mà chỉ là sự hiểu biết thôi. Tuy nhiên, nếu không hiểu, tại sao lại tin? Tin là chấp nhận dựa trên lời nói hay thế giá của người khác. Các tông đồ không hiểu, nhưng vẫn tin vì dựa trên lời nói của Thầy mình.
Khi cảm thấy khó chấp nhận về đường lối giáo huấn chính thức của Giáo hội, là phản ảnh của đường lối Phúc âm, về một vài vấn đề như tính dục, ly dị, phá thai…, đó là lúc mà câu hỏi Chúa đặt ra cho các tông đồ sẽ lại vọng lên bên tai ta: Còn con, con có muốn lìa bỏ Giáo hội mà Thầy đã thiết lập trên nền tảng các tông đồ không? Khi bất đồng ý kiến với Giáo hội về một số chính sách của Toà Thánh Vatican, đó là lúc mà một câu hỏi tương tự sẽ vọng lên bên tai ta: Còn con, con có muốn chấp nhận đường lối của Giáo hội mà Thầy thiết lập không? Khi thấy những gương xấu xẩy ra ngay trong hàng giáo sĩ, câu hỏi khác sẽ vọng lên: Còn con, con có muốn ở lại trong Giáo hội để cầu nguyện và xây dựng Giáo hội của Thầy không?
Khi phải đối chất với những lời giảng dậy chướng tai (Ga 6:60) trong đạo, hoặc giáo lí khó khăn của đạo thì người theo đạo nửa mùa, hoặc mạo nhận theo đạo, toan cắt nghĩa sao cho phiên phiến đi, để cho trở nên dễ dãi, hoặc thay đổi lẽ đạo sao cho phù hợp với ước muốn và quan niệm của họ cũng như của quần chúng. Thính giả trong Phúc âm hôm nay hiểu rõ lời Đức Giêsu giảng dạy, hiểu ý Người muốn nói gì nên mới cho là chướng tai đấy. Vậy mà Chúa cũng không cải chính về sự chướng tai đó đâu. Họ hiểu Chúa không nói đến việc ăn thịt và uống máu theo nghĩa tượng trưng thôi đâu. Khi cảm thấy Chúa mà mình tôn thờ, sao mà khó thế nếu so sánh với những chúa và thần của những đạo khác, đó là lúc mà câu hỏi giả sử của ông Giôsuê cũng vọng bên tai ta: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ (Js 24:15).
Phúc thay cho những gia đình, cộng đoàn giáo xứ và trong Giáo hội mà có được những người nói được những lời bất hủ để bầy tỏ đức tin quả quyết như Thánh Phêrô và ông Giôsuê hầu giúp củng cố đức tin của người khác trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ và trong cả Giáo hội.
Lời cầu nguyện xin cho được giữ vững niềm tin vào Bí tích Thánh Thể:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể.
Con xin cảm tạ Chúa đã lập Phép Thánh Thể
để làm của ăn uống thiêng liêng cho loài người.
Xin Chúa làm no thoả những đói khát của con
khi con lãnh nhận Mình Thánh Chúa
Và xin cho con giữ vững lời Chúa.
Đừng để con nghe theo lời quyến rũ rỉ tai
mà chối bỏ đức tin và xa lìa Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Lịch sử ca tụng Hội nghị Diên Hồng thời vua Trần nhân Tông. Vua đặt ra trước mắt toàn thể bô lão, khanh tướng và dân chúng một sự lựa chọn quyết liệt: Nên hòa hay chiến? Toàn dân hô: Chiến, chiến, chiến. Nhờ đó đã tạo được một sự đoàn kết có một sức mạnh phi thường, đã đánh bại quân Mông Cổ hùng mạnh đã từng bách chiến bách thắng chiếm cả Châu Á và một nửa Châu Âu, thống trị nước Tầu vĩ đại, còn muốn xơi ngon nước Việt nhỏ bé.
Cách đây gần ba ngàn năm, Giosuê đã bảo toàn dân phải dứt khoát chọn lựa: Hôm nay các ngươi hãy chọn hoặc thờ các thần, hoặc thờ Thiên Chúa. Còn tôi và gia đình, chúng tôi chọn thờ Thiên Chúa. Toàn dân thưa: Không đời nào chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà đi thờ các thần khác. Vì Thiên Chúa chúng tôi, chính Người đã đưa chúng tôi và cha ông chúng tôi khỏi nô lệ Ai cập, chính Người đã thực hiện trước mắt chúng tôi những dấu lạ vĩ đại, gìn giữ chúng tôi trên khắp nẻo đường.
Vinh phúc cho dân Do thái thời Giosuê và cho dân Việt thời vua Trần nhân Tông đã biết chọn lựa đúng, nên đã cứu cả dân tộc thoát khỏi nô lệ và khỏi chết nhục nhã.
Đức Giêsu từ trời xuống thế, đã ban phát một của ăn nuôi sống đời đời. Phúc cho ai biết chọn lấy lương thực trường sinh ấy, họ sẽ được sống vinh phúc đời đời.
Để người ta chọn đúng, Đức Giêsu đã phân biệt cho họ biết đâu là của ăn hư nát, đâu là của ăn hằng sống. Người Do thái chỉ biết có hai loại của ăn: một là loại của ăn hằng ngày, hai là loại của ăn lạ thường. Của ăn thường ngày là do hoa mầu ruộng đất và lao công loài người gieo trồng, chăm bón, chăn nuôi để nuôi sống thể xác. Để có của ăn này, con người phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt, tận tâm, tận lực làm việc cực khổ hơn muôn loài mới có của ăn. Nhưng dù có ăn bao nhiêu vẫn còn đói. Họ rất sợ đói. Cái đói đã giết chết hàng triệu người trên thế giới này, mặc dầu Thiên Chúa quan phòng đã dựng nên một vũ trụ phong phú cho loài người. Nếu họ biết khai thác, phát triển và chia sẻ cho nhau, thì chắc chắn chẳng ai bị chết đói. Chiến tranh thế giới thứ hai, người ta đã đổ hàng triệu tấn lương thực xuống biển, trong khi đó có hàng triệu người chết đói. Ở Việt Nam cũng có gần triệu người miền Bắc chết đói, lúc đó ở miền Nam, Phát xít Nhật đốt cháy hàng ngàn tấn lúa gạo.
Của ăn lạ thường do Thiên Chúa làm phép lạ như man-na hay bánh hóa nhiều trong những trường hợp đặc biệt. Bánh man-na đã được Thiên Chúa ban cho tổ tiên Do thái xưa đã biết nghe lời Chúa, từ bỏ Ai Cập, vượt qua sa mạc, trở về Đất Hứa để tôn thờ Thiên Chúa. Đức Giêsu cũng ban bánh hóa ra nhiều cho cả chục ngàn người ăn, vì họ đã sẵn sàng chịu đói để kiên trì theo Chúa đến nơi hoang vắng nhiều ngày.
Người Do thái đã kêu xin Chúa ban cho họ hai thứ của ăn đó, để họ không còn đói, và khỏi phải khổ cực làm ăn. Nhưng Đức Giêsu đã giải thích cho họ thấy: Đó là của ăn hay hư nát. Họ ăn bao nhiêu vẫn còn đói và còn chết, như cha ông họ đã ăn man-na và đã chết.
Đức Giêsu muốn ban cho họ thứ của ăn hằng sống: Đó là lời hằng sống và bánh hằng sống. Lời hằng sống là những giới răn giáo dục con người yêu mến Thiên Chúa, yêu thương nhau và xây dựng đời sống con người tồn tại vĩnh cửu như xây nhà trên đá. Muốn nên người, con cái cần cha mẹ dạy dỗ như thế nào, thì muốn trở nên con Thiên Chúa hằng sống, con người rất cần lời Chúa dạy dỗ như vậy.
Lời hằng sống là hạnh phúc trường sinh khi con người thực hiện được tám mối phúc thật. Lời hằng sống mặc khải cho ta thấy những mầu nhiệm Nước Trời vinh quang, như tiệc cưới hoàng tử, thấy Nước Trời phát triển mạnh mẽ như hạt cải nhỏ bé mọc lên thành cây lớn cho muôn chim trời trú ẩn, thấy tình thương vô biên của Thiên Chúa như người cha hiền đón mừng đứa con phung phá, như mục tử nhân lành đi tìm chiên lạc, như người bạn thí mạng sống cho người mình yêu.
Lời hằng sống còn biểu lộ bằng hành động ban sự sống. Đức Giêsu chỉ phán một lời bão biển phải im lặng để cứu sống các môn đệ. Người chỉ phán một lời, hàng đoàn quỷ phải xuất ra khỏi con người và nhào xuống biển chết. Người chỉ phán một lời đem sự sống cho bao nhiêu bệnh nhân, tội nhân và kẻ chết.
Lời Người đã làm cho nước biến thành rượu, bánh hóa nhiều và nhất là bánh rượu trở nên Mình Máu Người để nuôi sống các linh hồn muôn thuở.
Tại sao lời Đức Giêsu có sức sống quyền năng vô cùng như thế? Người đã giải thích: “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và Sự sống”. Lời Người bởi chính tim, óc, máu, thịt Người, bởi Ngôi Lời từ trời xuống. Lời hằng sống đó là tiếng hô hào vang dội dọn đường trực tiếp đón rước Người: “Kẻ ăn Tôi sẽ sống nhờ Tôi, cũng như Tôi sống nhờ Cha Tôi là Đấng Hằng Sống… Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời … Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống”.
Dù Đức Giêsu đã thương yêu họ, ban cho họ lời hằng sống và Bánh hằng sống, để làm của nuôi sống họ đời đời, nhưng người Do thái chưa có kinh nghiệm gì về Lời Hằng Sống và Bánh Hằng Sống. Họ chỉ biết có hai thứ bánh là của ăn hằng ngày và bánh như man-na và bánh hóa nhiều. Cho nên, ngay từ đầu Đức Giêsu đòi họ phải tin vào Người: “Việc của Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Ngài sai đến” (Ga. 6, 29). Vì thế bắt buộc con người phải lựa chọn, phải tỏ lập trường: tin theo Đức Giêsu hoặc không tin và bỏ đi.
“Cả anh em nữa, cũng muốn bỏ đi sao?”. Một câu hỏi dứt khoát quyết liệt, không phải thách đố, nhưng có mục đích làm sống lại sự cương quyết của bản thân mỗi người phải cam kết gắn bó với Đức Giêsu. Bởi bài giảng này mặc khải về phép Thánh Thể là một hồng ân đặc biệt của Đức Giêsu về bánh hằng sống: Bánh Thịt Máu Người từ trời xuống. Loài người không thể nào cứ sống theo lối sống vật chất hay hư nát, Đức Giêsu nhất quyết nâng con người lên tầm mức siêu việt theo lối sống con cái Thiên Chúa. Vì thế mỗi người phải tự quyết định lấy một là tin vào Đức Giêsu để được sống vinh phúc muôn đời, hai là bỏ đi sống theo lối xác thịt hư nát để phải chết đời đời.
Trước giờ phút long trọng cam kết và quyết liệt này nhiều người đã bỏ đi, Đức Giêsu nhìn sang nhóm mười hai hỏi: “Cả anh em nữa, cũng bỏ đi sao?”. Bầu khí thật ngột ngạt, nặng nề. Nhưng hạnh phúc thay cho Phêrô, ông đã đại diện cho anh em quả quyết đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai bây giờ? Thầy mới có lời hằng sống. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Trước mỗi Thánh lễ, chúng ta cũng được nghe lời hằng sống của Chúa, lời đó cũng hỏi mỗi người chúng ta: Cả anh chị em nữa, cũng muốn bỏ đi hay sao? Nhiều người đã bỏ đi, không muốn đi dâng lễ. Một số người đã đến nghe lời Chúa, nhưng có tin và sống thực thi lời Chúa, hay cũng như dân Do thái thấy chướng tai rồi bỏ đi?
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết quyết tâm mau mắn đáp như thánh Phêrô, và bước lên cung thánh đón rước bánh hằng sống để chúng ta được sống muôn đời.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Trong cuốn Eucharistic Miracles của Carroll Cruz có viết một tích truyện về Bí tích Thánh Thể như sau:
Năm 700, tại tu viện Thánh Lougino ở Lanciano bên Italia, có một linh mục tên là Basilio hoài nghi về mầu nhiệm Chúa hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã làm phép lạ cả thể còn được lưu niệm cho đến ngày nay, như một minh chứng vĩ đại về Phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano.
Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt Máu Chúa đó còn được cô đọng đến ngày nay. Năm 1713 bửu Huyết Chúa đã được lưu giữ trong Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano. Năm 1971, cuộc khảo cứu khoa học đã cho biết Thịt đó là một thớ thịt từ trái tim, và Máu đỏ là máu của con người, thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).
Ngày nay, Thịt và Máu Chúa hiện đang được lưu giữ trong nhà thờ thánh Phanxicô, là trung tâm hành hương nổi tiếng của cả thế giới.
****
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ cũng rơi vào kinh nghiệm khủng hoảng đức tin ấy. Khi Ðức Giêsu tuyên bố, Người sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn, thì lập tức nhiều môn đệ đã phản ứng lại: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe được” (Ga.6,60). Thánh Gioan còn ghi lại: “Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa” (Ga.6,66). Họ đã theo Người một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng.
Tận hiến cho Ðức Kitô không phải là sự lựa chọn một lần, đó là thách thức từng ngày. Trở nên một tín hữu Kitô không là bảo đảm sẽ trung tín đến cùng. Bước theo Ðức Giêsu là bước vào một cuộc mạo hiểm: mạo hiểm của tình yêu, mạo hiểm của lòng tin. Ðã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại, cũng có kẻ không theo được tới cùng.
Tạo sao nhóm thứ nhất bỏ đi, còn nhóm thứ hai lại trung kiên đến cùng? Tại sao nhóm thứ nhất thất bại, còn nhóm thứ hai lại thành công? Có thể nói “để khỏi bỏ cuộc, người ta cần phải bỏ mình”. Ðể theo Ðức Giêsu, cần phải chú tâm đến Người hơn là bận tâm về chính mình. Thánh Phêrô đã làm được điều đó khi Ngài nói: “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai?”. (Ga.6,68)
Ðứng trước lời tuyên bố của Ðức Giêsu xem ra có vẻ “chói tai” thì Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai vẫn không tỏ ra nao núng, vì ngài chỉ nhìn thẳng vào Ðức Giêsu.
Ðứng trước cuộc thử thách, ngài vẫn một niềm tin tưởng, vì ngài chỉ chú tâm vào Chúa: “Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa” (Ga.6,69).
Trái lại, nhóm thứ nhất sở dĩ bỏ cuộc, vì họ chỉ loay hoay bận tâm với những ý nghĩ của mình: “Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?” (Ga.6,52).
Hôm nay vẫn có những câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng, vẫn có những giây phút thử thách làm ta chao đảo, vẫn có những cơn cám dỗ làm ta bỏ cuộc. Hãy đưa mắt nhìn vào Chúa, hãy xác tín lại niềm tin vào Người như Thánh Phêrô đã làm:
****
Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời. Chúng con tin… Người là Ðấng Thánh của Thiên Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Ga 6: 60-69: Chúa muốn chúng ta trung thành và chúng ta cũng muốn trung thành. Nhưng trung thành bước theo Chúa không phải là điều dễ dàng. Quả vậy, có những lúc ta cảm thấy mình quá yếu đuối, tầm thường,quá bé nhỏ mỏng manh trước sức tấn công của thử thách, của cám dỗ, của tiện nghi vật chất, tiền bạc, thú vui, sắc dục, danh vọng, quyền lực…
Cha Maurice Zundel đã kể một câu chuyện: Trong căn phòng chỉ còn lại hai người: linh mục phụ trách tu viện và viên sĩ quan Xô Viết. Viên sĩ quan nói: Hiện giờ chỉ có hai chúng ta. Ông và tôi, không một ai chứng kiến. Vậy ông hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả. Hãy nói cho tôi biết là ông không tin vào tất cả những chuyện về Chúa, Mẹ, trong tôn giáo mà ông vẫn tuyên xưng phải không?
Linh mục đáp: Có, tôi tin chứ!
Viên sĩ quan rút súng ra dí vào đầu linh mục: Nếu ông không chịu nói là ông không tin gì cả, tôi sẽ nổ súng.
Tưởng chừng như trước cái chết, con người sẽ phải khuất phục mọi sự. Nhưng không, linh mục vẫn thanh thản trả lời: Tôi tin chứ!
Viên sĩ quan buông súng xuống, ôm chầm lấy người linh mục. Ông reo lên: Quả thật, đây là điều tôi trông đợi. Đây là người tôi tìm kiếm. Vâng, thưa cha, bây giờ thì tôi cũng thế: Tôi tin Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Có lẽ vị linh mục trong tu viện đó đã từng xác định sự chọn lựa đi theo Chúa của mình, nên cha mới có được một phản ứng dứt khoát, kiên trung, điềm nhiên đến như thế. Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta xác định lại sự chọn lựa của chúng ta.
Bài đọc 1 đã cho ta thấy, bốn mươi năm về trước, dân Do Thái đã cam kết chọn Thiên Chúa trong Giao ước tại núi Sinai. Nhưng hôm nay họ đã đặt chân vào Đất Hứa, những năm tháng rong ruổi trong sa mạc đã qua, những ngày tháng đói khát thiếu thốn đã chấm dứt, và từ nay họ bắt đầu cuộc sống định cư, đất đai phì nhiêu, cuộc sống thoải mái. Trước hoàn cảnh mới này, niềm tin của họ có còn mạnh mẽ sốt sắng như xưa hay đã sớm bỏ quên Chúa để chạy theo các thần địa phương. Ông Giôsuê đã triệu tập đại hội ở Sikem để yêu cầu họ xác định lập trường. Và thật là cảm động, không phải chỉ có gia đình ông Giôsuê, mà cả toàn dân đã nói lên sự chọn lựa dứt khoát: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác”.
Khi Chúa Giêsu làm phép lạ bánh hóa nhiều, dân chúng theo Chúa rất đông. Nhưng từ phép lạ ấy, Chúa dẫn họ đến lương thực hằng sống: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời”. Nhưng họ cho rằng “lời này chói tai quá, ai mà nghe được”. Nên từ lúc đó, có nhiều người rút lui không còn đi theo Chúa nữa. Bấy giờ Chúa đặt thẳng vấn đề với Nhóm Mười Hai: “Cả anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Nhưng Phêrô đã đại diện các tông đồ xác định sự chọn lựa của mình: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh”.
Thưa anh chị em,
Sống trong một thế giới đổi thay không ngừng, con người dễ bị lôi kéo vào thái độ thay lòng đổi dạ. Ngày nay con người gặp nhiều thứ khủng hoảng, trong đó khủng hoảng về lòng trung thành là một vấn đề nghiêm trọng. Các hợp đồng kinh tế bị vi phạm, giao ước hôn nhân bị đổ vỡ, tình bạn bị phản bội. Ngay cả các kitô hữu nhiều lúc cũng bị cám dỗ bỏ Chúa hoặc không sống đúng ơn gọi của mình, nhất là khi đứng trước một biến cố hay một hoàn cảnh; một thử thách hay một cám dỗ; một nỗi buồn hay một niềm vui… Xã hội Việt Nam hôm nay đổi thay từng ngày, và sự đổi thay nhanh chóng ấy đang tác động mạnh trên đời sống đức tin của các kitô hữu. Ảnh hưởng tích cực có, mà tiêu cực cũng nhiều. Khá nhiều kitô hữu trước kia là những người đạo đức, nhưng nay không còn đứng vững trước sức tấn công của nền kinh tế thị trường, của tiền bạc, lạc thú, công việc kinh doanh. Có những người đang từ nghèo thành giàu mà quên Chúa. Và ngược lại, một số khác đang từ giàu thành nghèo cũng bỏ Chúa. Nhiều người không còn muốn bước theo Chúa vì không thể chấp nhận được những nổi ô nhục của thập giá trong đời mình. Cũng như những người không còn muốn trung thành với giáo huấn của Hội Thánh vì “lời này chói tai quá, ai mà nghe cho nổi?” Người môn đệ Chúa Kitô cần xác định lại để trung thành bước theo Chúa.
Từ lòng trung thành với Chúa sẽ dẫn đưa con người đến lòng trung thành với nhau, nhất là trong đời sống gia đình. Đời sống gia đình hôm nay cũng đang gặp khủng hoảng. Người ta cam kết thề hứa trung thành suốt đời, nhưng chỉ đi với nhau một đoạn đường ngắn để rồi sau đó chia tay nhau. Thánh Phaolô hôm nay mời gọi các bậc vợ chồng ngước nhìn lên mầu nhiệm Chúa Kitô yêu thương Hội Thánh để trung thành trong tình yêu hôn nhân.
Anh chị em thân mến,
Chúa muốn chúng ta trung thành và chúng ta cũng muốn trung thành. Nhưng trung thành bước theo Chúa không phải là điều dễ dàng. Quả vậy, có những lúc ta cảm thấy mình quá yếu đuối, tầm thường,quá bé nhỏ mỏng manh trước sức tấn công của thử thách, của cám dỗ, của tiện nghi vật chất, tiền bạc, thú vui, sắc dục, danh vọng, quyền lực… Chỉ có ơn Chúa mới có thể giúp ta trung thành đi theo Chúa: “Thần Khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì… Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. Thánh Phêrô đã nhìn lên Chúa, để tiếp tục chọn lựa đi theo Chúa: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh”. Quả thực, thánh Phêrô đã cảm nghiệm được Lời Chúa là ánh sáng, là niềm vui, là sự sống và Ngài đã an tâm tín nhiệm vào Chúa. Cũng thế, ở đại hội Sikem, dân Do Thái kiên quyết chọn Chúa vì đã nhận biết những việc kỳ diệu Chúa đã làm khi giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập và đưa về Đất Hứa.
Mỗi người chúng ta hôm nay phải đích thân nói lên lời cam kết trong ơn gọi kitô hữu, ơn gọi hôn nhân hay ơn gọi dâng hiến. Chúng ta muốn chọn lựa một cách dứt khoát và vĩnh viễn, dù hôm nay ta chưa biết hết được những gì sẽ đến trong ngày mai. Sự chọn lựa ấy đòi ta tín trung. Và để tín trung trong ơn gọi, ta cần bắt đầu lại mỗi ngày, chỗi dậy mỗi ngày để “trung thành với tình yêu ban đầu” (Kh 2,4).
Chúa Giêsu Thánh Thể tự hiến trên bàn thờ và ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế chính là bằng chứng của tình yêu trung thành. Chúa là nguồn sự sống luôn tươi mới và là nguồn động lực để ta mãi mãi trung thành đi theo Chúa.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu là một thực tại. Ngài hiện hữu như một sự kiện lịch sử. Ngài là người không dễ hiểu tuy dù người ta biết cha mẹ và dòng tộc Ngài. Ngài đã có những lời mà người đương thời không hiểu được, nhưng qua đó những người tin vào Ngài biết rằng Ngài có nguồn gốc thần linh: Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
“Mình Ta là thật của ăn, máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, sẽ được sống đời đời”. Làm sao chấp nhận được câu nói này, khi người ta biết Ngài từ nhỏ đã sống ở Nadarét, khi người ta biết cha mẹ Ngài là Yuse và Maria! Ngài không được học hành gì, không có gì trổi trang hơn người khác khi sống tại Nadarét. Không thể chấp nhận được lời nói này của Ngài, đó là chuyện thường tình. Kể cả một số môn đệ, những người đã từng thán phục lời giảng của Ngài trước đó, cũng không thể chấp nhận lời này: “lời chi sống sượng thế, ai nghe cho nổi”. Họ đã bỏ đi, không muốn làm môn đệ của Ngài nữa.
Đức Giêsu nói với nhóm 12: cả các anh nữa, các anh có muốn bỏ đi không? Phêrô được một ơn riêng nên trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai. Thầy có lời ban sự sống đời đời. Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”. Để chấp nhận lời của Đức Giêsu về chính Ngài, con người phải có ơn đặc biệt từ trên, vì những gì Ngài nói vượt trên cái bình thường. Đức Giêsu cũng biết điều này: “Không ai đến được với Ta, trừ phi được Cha Ta ban ơn đó”. Ngài cũng biết những gì Ngài nói không phải chuyện “thuộc hạ giới”.
Những biểu lộ bên ngoài diễn tả điều gì sâu kín bên trong. Lời nói diễn tả nội tâm và bản tính mỗi người. Đức Giêsu không chỉ là một con người; qua lời Ngài, người ta nhận ra còn cái gì rất đặc biệt nơi Ngài. Làm sao lý giải những gì Đức Giêsu nói về chính Ngài, khi những lời này cho thấy như thể Ngài còn hơn là một con người? Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội, thế mà Ngài lại nói: “Tội con đã được tha” (Mc.2, 7); Abraham là ông tổ của cả dân Do Thái, thế mà Đức Giêsu lại nói: “trước khi có Abraham, Ta là Ta” (Ga.8, 58); Thiên Chúa là Đấng vượt trên tất cả, thế mà có lúc Đức Giêsu lại nói: “Ta và Cha Ta là một” (Ga.10, 30). Nếu không phải là người mất trí, thì ắt hẳn còn một điều gì đó mà người ta chưa hiểu về con người Đức Giêsu.
Biến cố Đức Giêsu phục sinh, giúp những người thân thiết với Đức Giêsu, cụ thể là các tông đồ, hiểu hơn về Đức Giêsu. Nếu Ngài thuộc loại gian dối, phạm thượng, thì Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài. Nếu Ngài được phục sinh, ắt hẳn những gì Ngài nói về Ngài phải là sự thật. Vậy Đức Giêsu là ai? Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa như thế nào? Đức Giêsu là một vấn đề cho con người thời đó, và cho cả con người thời nay nữa.
Với những người đơn thuần nghĩ Ngài là người phạm thượng, cái án tử hình dành cho Ngài thật là chính đáng. Nhưng biến cố phục sinh cho thấy cách nghĩ như vậy là không thỏa đáng và sai lầm. Vậy Ngài là ai? Các môn đệ thân tín, nhóm 12, có câu trả lời về người thầy thân yêu của họ. Ngài là tiên tri và còn hơn một tiên tri, Ngài là Đấng Kitô và còn hơn một Đấng Kitô, Ngài là con Thiên Chúa và còn hơn là con Thiên Chúa như những người công chính từng được gọi là con Thiên Chúa. Vậy Ngài là ai?
Tin Mừng Gioan diễn tả Ngài là Lời đã thành xác phàm (Ga.1, 14). Một số người diễn tả Ngài là con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt. Đức Giêsu cũng thắc mắc về điều người ta nói về Ngài: “người ta bảo Con Người là ai?” Đức Giêsu có vẻ hài lòng với câu trả lời của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Tuy nhiên, điều này cũng không rõ ràng lắm với con người ngày nay, vì có nhiều Đức Kitô, nghĩa là nhiều người được xức dầu, nhiều người là Đấng Thiên Sai, chẳng hạn Môsê, Đavít. Cũng có nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn các thiên thần, những người công chính, các vị vua. Công Đồng Chung Nicea sau này (năm 325) xác định, Ngài là con đồng bản tính với Thiên Chúa. Công Đồng Chung Chalcedoine xác định Ngài có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính con người, Ngài thực sự là người và thực sự là Thiên Chúa. Công Đồng Chung Epheso xác định Ngài là một ngôi vị Thiên Chúa trong hai bản tính. Dù thế nào chăng nữa, những tín điều về Đức Giêsu Kitô của Hội Thánh sau này, là để giúp các tín hữu hiểu đúng những mặc khải đã được tỏ lộ cho các tông đồ. Đức tin của Giáo Hội tựa trên nền tảng các tông đồ. Đức tin của các Kitô hữu, là đức tin tông truyền.
III. Mở lòng đón nhận sự kiện Giêsu Kitô
“Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Không thể hiểu lời này, vì xưa nay chưa có lương thực nào cho con người sự sống vĩnh cửu. Vậy làm sao có thể chấp nhận lời nói này! Hơn nữa, con người Giêsu cũng mong manh như bao người, vậy Giêsu lấy gì để bảo đảm cho lời nói của Ngài là đáng tin, là sự thật?
Đức Giêsu là một sự kiện, một biến cố, và là một mầu nhiệm. Những từ ngữ và lý giải, là để hiểu đúng và hiểu hơn về Đức Giêsu Kitô. Người ta chưa hiểu hết về Ngài, người ta đang cố gắng hiểu và diễn tả về Ngài. Có thể, mỗi một diễn tả giúp con người hiểu hơn về mầu nhiệm Giêsu; và có thể, cũng che khuất Ngài dưới một khía cạnh nào đó. Một điều đáng mừng là ngày nay người ta vẫn còn đang truy tìm về Đức Giêsu Kitô, người ta đang cố gắng diễn tả về Đức Giêsu Kitô với hy vọng giúp con người ngày nay hiểu và chấp nhận Đức Giêsu Kitô hơn. Tất cả những điều này cho thấy, Thánh Thần Thiên Chúa vẫn đang hoạt động nơi con người ngày hôm nay một cách rất sống động.
Xin cho con người ngày nay biết mở lòng và đón nhận mầu nhiệm Giêsu Kitô, và xin cho mầu nhiệm Giêsu Kitô soi sáng mầu nhiệm con người, giúp con người sống an bình và hạnh phúc trên đường trần gian này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Anh chị em thân mến
Ở đời có nhiều cuộc tan rồi hợp và hợp rồi tan: đến với nhau, sống với nhau, rồi bỏ nhau. Nhiều tín hữu cũng đối xử với Chúa như thế: theo Ngài rồi bỏ Ngài. Có lẽ chúng ta đây cũng nhiều lần bị cám dỗ bỏ Chúa.
Hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ lại cuộc hành trình đi theo Chúa, và chúng ta tha thiết xin Chúa đừng để chúng ta bỏ Chúa bao giờ, bởi vì, như lời Thánh Phêrô tuyên xưng: “Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống”
Nhiều lần chúng con đã bỏ Chúa để chạy theo lạc thú thế gian.
Nhiều lần chúng con đã bỏ Chúa vì không muốn vác Thánh giá Chúa trao.
Nhiều lần chúng con có ý muốn bỏ Chúa để tự do sống theo ý riêng của chúng con.
III. Lời Chúa
Khi Môsê qua đời, Giôsuê tiếp tục sứ mạng dẫn dân Do thái về Ðất Hứa. Sau khi đã hoàn toàn chinh phục Ðất Hứa và chia phần cho các chi tộc, Giôsuê triệu tập tất cả 12 chi tộc tại Sikhem. Ông nhắc lại tất cả những điều mà Thiên Chúa đã làm cho họ, và kêu gọi họ hãy chọn lựa dứt khoát: Từ nay nếu họ chọn Chúa thì phải hoàn toàn trung thành với Ngài, từ bỏ mọi tà thần khác.
Những lời ca tụng lòng nhân lành Chúa rất hợp với tâm tình của dân Israel sau khi họ đã được Thiên Chúa giải thoát khỏi bao nỗi gian nguy để cuối cùng được sống trong Ðất Hứa.
Kết quả của bài giảng về Thánh Thể:
Nhiều người cho là chói tai, bỏ đi, trong số đó có cả các môn đệ: “Từ hôm đó, có nhiều môn đệ rút lui không theo Ngài nữa”.
Ðức Giêsu hỏi Nhóm 12. Phêrô thay mặt nhóm tuyên xưng “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”
Giáo huấn của Thánh Phaolô về đạo vợ chồng: (1) Vợ phải phục tùng chồng như Hội Thánh tùng phục Ðức Kitô; (2) Chồng phải yêu thương vợ như Ðức Kitô yêu thương Hội Thánh và như người ta yêu thương thân xác mình.
* 1. Sống là chọn lựa
Trong bài Tin mừng hôm nay, có một câu nói của Thánh Phêrô đã trở thành bất hủ. Phêrô đã thưa với Ðức Giêsu: “Thưa Thầy, Bỏ Thầy thì con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống”. Phêrô đã nói lên câu đó trong một tình thế dằng co: khi ấy người ta đi theo Ðức Giêsu rất đông vì Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ ăn no nê, họ đi theo Chúa để mong lại được cho ăn no như thế mãi. Nhưng rồi Ðức Giêsu đột ngột chuyển hướng: Ngài hứa ban cho họ một thứ bánh khác, đó là Thịt và Máu Ngài. Làm cho dân chúng như bị hổng chân: họ đang mong được ăn bánh phần xác, thì Ðức Giêsu lại hứa cho họ thứ bánh tinh thần. Thành ra nhiều người chán, bỏ Chúa mà đi, họ đã ra đi gần hết. Bấy giờ Chúa mới hỏi nhóm môn đệ thân cận của mình “Còn các con, các con có muốn bỏ Thầy mà đi nữa không?” Lập tức, Phêrô đã nói lên câu nói bất hủ trên. Ông nhất quyết không bỏ Thầy, ông hứa sẽ mãi mãi theo Thầy. Nghĩa là Phêrô đã làm một sự lựa chọn.
Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được (không ai tự do lựa chọn xem có muốn được sinh ra hay không; cũng không ai được tự do lựa chọn xem có muốn chết hay không, và chết kiểu nào, lúc nào), còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính những sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt, sẽ hạnh phúc; còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì cuộc đời sẽ xấu, sẽ bất hạnh.
Ðời sống là như thế, sống là phải lựa chọn luôn. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn. Các bài đọc khác trong Thánh Lễ hôm nay cũng nói đến vấn đề lựa chọn: Bài trích sách Giôsuê thuật chuyện ông Giôsuê bảo dân phải lựa chọn một là thờ Chúa hai là thờ các thần tượng khác, chứ không được làm tôi hai chủ, không được bắt cá hai tay. Còn trong thư gởi tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô khuyên các đôi vợ chồng một khi đã chọn nhau làm bạn đời thì phải suốt đời trung thành với sự lựa chọn đó, nghĩa là phải thuỷ chung, phải tùng phục nhau, và phải hoà thuận với nhau.
Còn nếu nói theo từ ngữ phật giáo, thì chúng ta cũng phải luôn luôn lựa chọn một bên là tham sân si, và một bên là lý tưởng đạo đức của mình. Mỗi ngày chúng ta phải đứng trước biết bao sự lựa chọn như thế:
Một người đến đề nghị cho chúng ta một kiểu làm ăn gian lận, tiền sẽ có nhiều nhưng lại trái đức công bình: ta phải chọn hoặc là lòng tham hay là đức công bình.
Rồi một người hàng xóm làm một điều gì đó không vừa ý ta, ta phải lựa chọn hoặc là buông theo tính nóng của mình để chửi rủa người ta (Phật giáo gọi là cái Sân), hay là nhịn nhục tha thứ.
Và rất nhiều khi ta đứng trước những cơn cám dỗ, buông mình theo nó là buông theo cái Si, hay là phải biết tự chủ kềm chế mình.
Ai chọn lựa tham sân si là chọn sai, cuộc đời sẽ trở thành xấu. Còn ai chọn công bình, bác ái, tự chủ tức là chọn lấy cái tốt, chọn con đường Chúa đã vạch ra.
Nếu ta chọn Chúa thì sẽ ra sao? và nếu ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao? Linh mục nhạc sĩ Thành tâm đã suy diễn câu nói bất hủ của Thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau: “Bỏ Ngài con biết theo ai?
Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cánh chim bơ vơ trong khung trời lộng gió
“Bỏ Ngài con biết theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi”.
Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con thuyền lao đao trên biển cả mênh mông.
“Bỏ Ngài con biết theo ai thuyền buông lái biết trôi về đâu?”
Bỏ Ngài thì đời con sẽ mờ mịt trước tương lai mơ hồ.
“Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ.
Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã.
“Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh”.
Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy cũng vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chim bay trong khung trời lộng gió, cũng như con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình ấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm đi tới bến đò bình an.
Trên đây là một vài gợi ý về những sự lựa chọn trong cuộc đời.
Nhưng điều quan trọng là chính chúng ta phải biết lựa chọn như thế nào trước những hoàn cảnh riêng của cuộc đời mình. Cầu mong cho mỗi người chúng ta biết lựa chọn đúng và lựa chọn tốt.
* 2. Bỏ Thầy con biết theo ai?
Trong cuốn Eucharistic Miracles của Carroll Cruz có viết một tích truyện về Bí tích Thánh Thể như sau:
Năm 700, tại tu viện Thánh Lougino ở Lanciano bên Italia, có một linh mục tên là Basilio hoài nghi về mầu nhiệm Chúa hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã làm phép lạ cả thể còn được lưu niệm cho đến ngày nay, như một minh chứng vĩ đại về Phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano.
Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt Máu Chúa đó còn được cô đọng đến ngày nay. Năm 1713 bửu Huyết Chúa đã được lưu giữ trong Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano. Năm 1971, cuộc khảo cứu khoa học đã cho biết Thịt đó là một thớ thịt từ trái tim, và Máu đỏ là máu của con người, thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).
Ngày nay, Thịt và Máu Chúa hiện đang được lưu giữ trong nhà thờ thánh Phanxicô, là trung tâm hành hương nổi tiếng của cả thế giới.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ cũng rơi vào kinh nghiệm khủng hoảng đức tin ấy. Khi Ðức Giêsu tuyên bố, Người sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn, thì lập tức nhiều môn đệ đã phản ứng lại: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe được” (Ga.6,60). Thánh Gioan còn ghi lại: “Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa” (Ga.6,66). Họ đã theo Người một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng.
Tận hiến cho Ðức Kitô không phải là sự lựa chọn một lần, đó là thách thức từng ngày. Trở nên một tín hữu Kitô không là bảo đảm sẽ trung tín đến cùng. Bước theo Ðức Giêsu là bước vào một cuộc mạo hiểm: mạo hiểm của tình yêu, mạo hiểm của lòng tin. Ðã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại, cũng có kẻ không theo được tới cùng.
Tạo sao nhóm thứ nhất bỏ đi, còn nhóm thứ hai lại trung kiên đến cùng? Tại sao nhóm thứ nhất thất bại, còn nhóm thứ hai lại thành công? Có thể nói “để khỏi bỏ cuộc, người ta cần phải bỏ mình”. Ðể theo Ðức Giêsu, cần phải chú tâm đến Người hơn là bận tâm về chính mình. Thánh Phêrô đã làm được điều đó khi Ngài nói: “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai?”. (Ga.6,68)
Ðứng trước lời tuyên bố của Ðức Giêsu xem ra có vẻ “chói tai” thì Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai vẫn không tỏ ra nao núng, vì ngài chỉ nhìn thẳng vào Ðức Giêsu.
Ðứng trước cuộc thử thách, ngài vẫn một niềm tin tưởng, vì ngài chỉ chú tâm vào Chúa: “Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa” (Ga.6,69).
Trái lại, nhóm thứ nhất sở dĩ bỏ cuộc, vì họ chỉ loay hoay bận tâm với những ý nghĩ của mình: “Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?” (Ga.6,52).
Hôm nay vẫn có những câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng, vẫn có những giây phút thử thách làm ta chao đảo, vẫn có những cơn cám dỗ làm ta bỏ cuộc. Hãy đưa mắt nhìn vào Chúa, hãy xác tín lại niềm tin vào Người như Thánh Phêrô đã làm:
*******
Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời. Chúng con tin… Người là Ðấng Thánh của Thiên Chúa. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 3. Ðức tin “nghĩa địa”
Một món đồ còn mới thì được gọi là đồ “gin”, còn một món đồ đã có người xài trước rồi bán lại thì được gọi là đồ nghĩa địa (tiếng anh gọi là second-hand). Có một người kia một hôm bị rơi vào một tâm trạng vô cùng chán chường vì chợt nhận ra rằng đức tin của anh chỉ là một đức tin “nghĩa địa”.
Anh vừa sinh ra thì đã được rửa tội. Lớn lên một chút anh đến nhà thờ học giáo lý và lần lượt được Rước lễ, Thêm sức và các bí tích khác. Hàng tuần anh đến nhà thờ tham dự Thánh lễ và nghe giảng. Ở nhà anh được cha mẹ và ông bà dạy dỗ cặn kẽ về cách sống đạo. Từ trước tới nay anh vẫn an tâm trong đức tin êm đềm như thế. Nhưng hôm đó anh chợt nhận ra rằng tất cả nội dung đức tin ấy đều là của người khác. Anh nghĩ rằng đức tin của anh giống như chiếc áo cũ mà người anh mặc chật nên chuyển lại cho người em. Một thứ đồ second-hand.
Anh nghĩ rằng bây giờ mình đã trưởng thành, mình phải suy nghĩ về đức tin để có những xác tín của riêng mình; mình cần có những cơ hội thử thách để có những chọn lựa của riêng mình.
Cơn khủng hoảng đức tin của người thanh niên trên hẳn là ray rứt lắm, nhưng thực rất cần thiết. Sinh ra trong đức tin thì chưa đủ, cần phải sinh lại trong đức tin nữa. Có một đức tin “nghĩa địa” cũng chưa đủ, mà cần có đức tin do chính mình xác tín. Chỉ có một đức tin do chính mình xác tín mới có thể giúp ta chọn cho mình một lập trường khi đứng trước những tình thế phải chọn lựa. Như thánh Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay đã mạnh dạn chọn Ðức Giêsu đang khi nhiều người khác bỏ Chúa mà đi: “Lạy Thầy, bỏ thầy thì con biết theo ai, vì chỉ có Thầy mới có những lời hằng sống” (Viết theo Flor McCarthy)
* 4. Chúng con cũng bỏ Thầy mà đi chăng?
Cách đây không lâu vào ngày 6 tháng 3, 1997, một vụ ly dị ở thành phố Bửu Tân (Brockton), bang Mã Sơn Xét (Massachusettes) của Hoa Kỳ gây nên một cảnh tượng hết sức đau lòng. Hai vợ chồng ông Ðặng Danh Mừng (Dana Raymond) và bà Giang thị Dương (Jeanne Ardizoni) đưa nhau ra toà để ly dị, mà cả hai đều không chịu nuôi hai con của họ, khiến cuối cùng toà phải xử cho hai đứa con vào viện mồ côi! Khi toà phán quyết, người ta nghe tiếng khóc nức nở của hai đứa bé tội nghiệp. Thế mà hai bố mẹ vẫn dửng dưng! Cảnh sát được lệnh toà “bắt” hai đứa bé lên xe chở tới viện mồ côi. Chúng vùng vẫy kêu “Cha”, kêu “Mẹ”, nhưng cha và mẹ đều không buồn ngó ngàng tới hai đứa con của mình!
Bài Tin Mừng hôm nay cũng để lộ ra một cảnh thương tâm theo bề sâu, mặc dầu bề ngoài xem ra chỉ là chuyện trò bỏ thầy vì giáo thuyết thầy dạy không lọt được vào tai trò.
Rabbi Giêsu đâu phải như các bậc thầy khác trong đạo Do Thái. Tác giả Tin Mừng thứ bốn, kể như người môn đệ thân thiết nhất của Ðức Giêsu, trong lời tựa đã giới thiệu Người là Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa “và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1) Nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành và “không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (c.3). Và “Ngôi Lời ấy đã trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.” (c.14).
Khi Người xuất hiện ở sông Giođan thì chính ông Gioan Tẩy Giả làm chứng về Người rằng “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Nhưng chính Ðấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy thần khí xuống ngự trên ai, thì người đó chính là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” (cc.32-33).
Người đã đến nhà mình mà người nhà chẳng chịu đón nhận!
Chính ông Gioan Tẩy Giả là người giới thiệu hai trong số môn đệ của ông đến nhận Ðức Giêsu làm thầy (c.37). Nhưng với Ðức Giêsu, ai đó trở nên môn đệ của Người phải được chính Người gọi (xem Mc 1,16-20). Giữa đám đông môn đệ, Người đã chọn và thiết lập nên Nhóm Mười Hai, để họ ở lại với Người và để Người sai họ đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa (xem Mc 3,13-15). Nhưng họ vẫn luôn có tự do nhận hoặc khước từ Ðức Giêsu. Ðiều đó được nói lên ngay ở lời tựa của Tin Mừng Gioan: “Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào Danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.” (Ga 1,10-12).
Niềm tin nơi các môn đệ cũng giống như sức khoẻ, cần được bồi dưỡng và triển nở. Tại tiệc cưới Cana, khi Ðức Giêsu hoá nước lã thành rượu ngon, các môn đệ đã tin vào Người (2,11). Nhưng tại Giêrusalem, khi nghe Ðức Giêsu tuyên bố với người Do Thái: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”, các môn đệ không hiểu lời đó. Khi Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại, các ông mới nhớ lại lời đó và mới tin vào Kinh Thánh và lời Ðức Giêsu đã nói (20-32). Cả lời tuyên bố của Ðức Giêsu với ông Nicôđêmô rằng “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (3,14-15), lời tuyên bố ấy vẫn còn là điều bí nhiệm đối với các môn đệ.
Riêng với Tin Mừng Máccô, các môn đệ khi được loan báo về cuộc thương khó và phục sinh lần thứ hai, các ông không những không hiểu lời đó mà còn sợ không dám hỏi lại Người (xem Mc 9,30-32). Hơn nữa, các ông còn hành xử một cách hoàn toàn không xứng hợp chút nào với cuộc thương khó vừa được loan báo là dọc đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả! (Mc 9,34).
Ðức Giêsu vẫn muốn các môn đệ được tự do nói lên chọn lựa của mình.
Xuyên qua Tin Mừng Gioan chương 6, ta liên tiếp thấy diễn ra cảnh thương tâm là Ngôi Lời làm người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người!
Vậy trước hết ta có đông đảo dân chúng một bên và các môn đệ một bên. Dân chúng mặc dầu được ăn bánh no nê nhờ phép lạ hoá bánh ra nhiều, đã từ khước việc nhìn nhận Ðức Giêsu làm mục tử nhân hậu đến chăm sóc họ. Người biết họ sắp đến bắt Người đem đi và tôn lên làm vua, nên Người lánh mặt đi lên núi một mình (c.15). Còn các môn đệ ở lại trên thuyền như Nhóm Mười Hai được Người thiết lập, thì Người đã đi trên mặt nước mà đến với các ông: ngay lúc ấy Người còn cho thuyền các ông lập tức cập bến Caphácnaum, nơi các ông định đến (c.21).
Kế đến, vào ngày hôm sau, đám đông dân chúng lại tìm đến với Ðức Giêsu tại Caphácnaum. Ðức Giêsu bỏ qua sự cố ngày hôm trước là họ đã muốn bắt Người để tôn làm vua, Người khơi dậy nơi họ ý muốn làm công việc Thiên Chúa muốn họ làm, là tin vào Ðấng Thiên Chúa sai đến (c.29), tức là đón nhận Người mang đến cho họ bánh của Ðức Khôn Ngoan là Lời Chúa. Vậy Người nói với họ: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (c.35). Ðó là lúc người Do Thái xầm xì phản đối vì họ không chấp nhận Người là bánh từ trời xuống, mà chỉ kể Người là ông Giêsu, con ông Giuse mà thôi (cc.41-42).
Căng thẳng lên tới tột đỉnh với lời Ðức Giêsu tuyên bố “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống” (c.51). Thịt nói đây là “sarx” trong Hy ngữ, cũng được dùng trong câu “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Tức là trọn con người cụ thể của Ðức Giêsu được ban cho thế gian để thế gian được sống. Nhưng khi giảng dạy trong hội đường, Caphácnaum, Ðức Giêsu lại còn nói: “Nếu các ông không ăn thịt Con Người các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (cc.53-56)
Chưa nói gì đến dân chúng, ngay giữa các môn đệ của Ðức Giêsu đã xảy ra một phân rẽ giữa kẻ không tin và người tin. Một bên nhiều môn đệ phản ứng: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (c.60). Nhưng Ðức Giêsu vẫn kiên nhẫn khơi dậy nơi họ niềm tin mà họ cần đặt nơi Người là Ðấng từ Thiên Chúa mà đến: “Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (cc.62-63). Ðáp lại là cả một bi kịch. Nhiều môn đệ đã rút lui, không còn đi với Người nữa.
Còn bên kia là Nhóm Mười Hai, tức Nhóm chính Ðức Giêsu đã thiết lập để họ ở lại với Người. Với họ nữa, Ðức Giêsu vẫn muốn họ được tự do nói lên chọn lựa của mình. Cho nên Người đã nêu thẳng vấn đề là: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Ông Simon Phêrô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Ðấng Thánh của Thiên Chúa” (cc.67-69). Nhưng cả giữa nhóm thân cận nhất này của Ðức Giêsu, vẫn không vắng bóng kẻ nộp Chúa, để nhắc nhở loài người phải biết luôn thức tỉnh, “vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1P 5,8) (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
Chủ tế: Anh chị em thân mến, sau khi Ðức Giêsu mặc khải Người là Bánh ban sự sống muôn đời, Người đòi hỏi mỗi người phải có thái độ dứt khoát, tin hay không tin. Chúng ta cùng càu xin với lòng tin tưởng:
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, bỏ Chúa thì chúng con biết theo ai bây giờ, vì chỉ một mình Chúa có lời ban phúc trường sinh; xin cho chúng con luôn vững tin nơi Chúa để giúp mọi người khác cũng tin theo Chúa. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
– Trước lúc rước lễ: Ðức Giêsu đã dạy “Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ được sống muôn đời”. Chúng ta hãy dọn mình cho xứng đáng để rước lấy Mình Thánh Chúa.
VII. Giải tán
Sau khi đã được nuôi dưỡng bằng chính Mình Thánh Chúa và Lời hằng sống của Ngài, chúng ta hãy trung thành theo Chúa suốt đời.
(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Ga 6: 60-69: Khi nghe Chúa Giêsu giảng bài giảng về Bánh Hằng Sống, nhiều môn đệ đã khó chịu vì cho rằng: “Những lời này chói tai quá! Ai nghe được”. Chói tai không phải vì khó hiểu mà vì khó nuốt, khó chấp nhận được…
Bài giảng về Bánh Hằng Sống đưa tới kết luận đòi người ta phải tin hay không tin, chấp nhận hay từ chối. Và cũng đưa tới cao điểm của một cuộc khủng hoảng, từ đó phát sinh cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Không chỉ là một sự chống đối chóng qua, nhưng là cả một số đông người từ chối đi theo Chúa, một sự từ chối quyết liệt của những người không tin, sự phản bội của Giuđa và những âm mưu chống lại Chúa.
Dầu bị nhiều môn đệ cảm thấy chói tai trước lời giảng của mình, từ chối bỏ đi, Chúa Giêsu vẫn kiên định trong đường lối của Chúa Cha, Người không nhân nhượng, không nhượng bộ, không thỏa hiệp. Sau này cho dù bị bắt bớ, đánh đập và bị giết, Chúa Giêsu vẫn một lòng trung thành theo thánh ý Chúa Cha. Đó chính là phẩm chất của vị Thiên Sai, người tôi trung của Thiên Chúa. Người quả thực là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Chiêm ngắm Chúa Giêsu, Người Con luôn trung thành theo thánh ý Chúa Cha, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng quyết tâm sống trung thành với đức tin, quyết tâm thực thi thánh ý Chúa trong mọi biến cố của cuộc sống.
III. GỢI Ý BÀI GIẢNG:
Cùng đích của cuộc đời theo Chúa Giêsu chính là ơn cứu độ. là nên thánh, nghĩa là được sống sự sống đời đời của Thiên Chúa. Sự sống ấy Thiên Chúa đã và đang quảng đại trao ban cho nhân loại nơi Người Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Tin và theo Chúa Giêsu Kitô bằng nỗ lực sống thực thi lời Người, chính là con đường đi tới sự sống của Thiên Chúa.
Mở đầu: Anh chị em thân mến. Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta tin theo Chúa Giêsu Kitô, Đấng có lời ban sự sống đời đời. Trong niềm tin tưởng chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, Đấng ban sự sống đời đời. Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương hiến ban chính mình làm lương thực mang lại sự sống vĩnh cửu cho chúng con. Xin cho chúng con khi đón nhận Mình Máu Thánh Chúa, biết làm cho sự sống của Chúa phát triển nơi cuộc đời chúng con bằng nỗ lực thực thi lời Chúa, dấn thân yêu thương, hy sinh phục vụ mọi người với tất cả đức tin vững vàng. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Ga 6: 60-69: Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn hỏi chúng ta “phần các con có muốn bỏ Thầy không?”. Chúng ta có dám ở lại với Thầy khi mà nhiều người đã không còn tin có thế giới thần linh?…
Trong cuộc đời, ai cũng có những thử thách của riêng mình. Các môn đệ cũng vậy, niềm tin của các ông đang bị thử thách. Trước lời xác quyết của Chúa: Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống, thì một số môn đệ đã bỏ Chúa mà đi, vì không thể nào chấp nhận được lời giảng dạy ấy. Số còn lại thì vẫn trung thành với Chúa và Phêrô đã thay mặt cho nhóm còn lại ấy tuyên xưng: Bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Không ít người đã theo Chúa Giêsu chỉ vì phép lạ bánh hoá nhiều, nhưng rồi họ lại vội vã bỏ Chúa mà đi vì lời Ngài thật chướng tai, không thể chấp nhận được. Chỉ riêng nhóm 12 là đã xác tín rằng: Chỉ mình Chúa mới có Lời ban sự sống. Điều xác tín này đã rõ nét trong khi xây dựng cộng đoàn tiên khởi: mọi người bỏ của chung, chăm lo cho nhau và ai cũng no đủ, hạnh phúc.
Chúa Giêsu hóa bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi và mừng vui. Họ tin Người chính là Đấng Cứu thế đến cứu dân tộc Do Thái. Thế nhưng khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời”, khi nghe nói như thế thì đám đông và một số môn đệ bỏ Chúa mà đi. Đức tin tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước, nay đã tan biến. Đức tin gặp thử thách và họ không thể vượt qua. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín.
Chúa Giêsu đã mạc khải về bánh ban sư sống bởi trời là thịt và máu Chúa, có nhiều người khó chịu về giáo lý này. Họ nói rằng: Lời này chói tai qúa! Ai nghe được. Chúa Giêsu biết rõ lòng họ nhưng Chúa không rút lại lời đã nói. Chúa không ngại để họ được tự do ra đi. Ngay cả các tông đồ, Chúa đã hỏi: Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không? Phêrô thưa: Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Chúa không muốn mị dân để làm vừa lòng mọi người. Chúa cho chúng ta được tự do chọn lựa thái độ. Chúng ta không thể đi nước đôi theo kiểu bắt cá hai tay.
Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ một chọn lựa. Chọn gắn bó với Chúa hay chạy theo thói đời của thế gian “hạnh phúc thì xum vầy, gian nan thì bỏ chạy”. Chúa đòi các môn đệ không lấp lửng, lập lờ “làm tôi hai chủ”, mà phải tỏ rõ lập trường. Bỏ đi hay ở lại. Chọn sự sống đời đời hay sự sống chóng qua đời này. Các môn đệ đã gắn bó với Chúa bao lâu nay nhưng liệu rằng bằng đó thời gian có đủ để niềm tin các ông trưởng thành và có thể nhận ra Thầy là Chúa, là Đấng ban sự sống hay chưa? Trước câu hỏi: “cả anh em, anh em cũng muốn bỏ Thầy đi sao?”.
Chúa Giêsu nói với nhóm 12: cả các anh nữa, các anh có muốn bỏ đi không? Phêrô được một ơn riêng nên trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai. Thầy có lời ban sự sống đời đời. Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”. Để chấp nhận lời của Đức Giêsu về chính Ngài, con người phải có ơn đặc biệt từ trên, vì những gì Ngài nói vượt trên cái bình thường. Đức Giêsu cũng biết điều này: “Không ai đến được với Ta, trừ phi được Cha Ta ban ơn đó”. Ngài cũng biết những gì Ngài nói không phải chuyện “thuộc hạ giới”.
Những người còn ở lại với Chúa vì đã chấp nhận Lời Chúa và tin vào sự hiện diện đích thực của Người trong “bánh hằng sống”. Họ đã hiểu Lời Chúa dưới lăng kính Thần khí. “Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô.” (Rm 8:9) Đó là lý do tại sao “nhiều môn đệ rút lui” (Ga 6:66) và nhiều người “lấy làm chướng” và “xầm xì về vấn đề ấy.” (Ga 6:61) Thần Khí sẽ làm im bặt mọi tiếng xầm xì và nghi hoặc, vì Người chính là sức mạnh của Chúa Cha kéo ta lại gần Đức Kitô. Thần Khí không pha chút vẩn đục mới thấy hết được chiều sâu Lời Chúa. Xác thịt không có độ trong suốt đó để thấy tất cả sự thật. Thách đố chính là cuộc đối đầu giữa Thần Khí và xác thịt. Người môn đệ Đức Giêsu luôn bị đặt trước sự lựa chọn.
Cuộc đời con người là một chuỗi dài những sự chọn lựa. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không có quyền lựa chọn, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Nếu chọn đúng, thì đời mình sẽ tốt đẹp và hạnh phúc, còn nếu chọn sai thi đời sẽ bất hạnh. Sống là phải lựa chọn luôn. Đời là vậy. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn.
Giáo Hội kết hợp với Đức Kitô, không chỉ trong các nghi lễ phụng tự mà mỗi người trong Giáo Hội phải sống với tinh thần của Ngài ngay trong cuộc sống hằng ngày. Xã hội vẫn còn những kẻ thiếu ăn, vẫn còn những bất công và áp bức, thì Giáo Hội vẫn còn có những vấn đề được đặt ra cho mình. Làm thế nào để ngày càng đẩy lùi những bất công, đói khổ và lạc hậu. Điều đó đồng nghĩa với làm thế nào để tỏ lộ khuôn mặt Đức Kitô một cách rõ nét nhất trong cuộc sống hiện tại.
Thiên Chúa không thích những của lễ, nhưng Ngài cần lòng nhân ái. Lễ vật nào có ích gì khi sự thù hận đố kỵ vẫn còn trong người tín hữu hay vẫn còn những kẻ đói khổ đau đớn bên cạnh mình. Xác tín đi theo Chúa trên con đường cứu độ là phải mang lấy nỗi ưu tư, ray rứt về một xã hội chưa được an vui hạnh phúc.
Khi giảng tại Hội Đường Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu khẳng định Người chính là Bánh hằng sống, ai ăn thịt và uống máu Người sẽ được sống đời đời. Lời đó khiến dân chúng và các môn đệ bị sốc, không chấp nhận và tuần tự bỏ đi. Dầu vậy, thánh Phê-rô vẫn kiên vững tuyên xưng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6, 68)
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã ban cho loài người được tự do lựa chọn: hoặc chấp nhận hay khước từ ơn Chúa. Sau khi chu toàn sứ mệnh Môsê trao phó để đưa dân Chúa chọn vào miền đất hứa, ông Giôsuê đã triệu tập các vị đại diện dân chúng tại Si-khem để khẳng định lại niềm tin vào Chúa. Ông nói với họ rằng: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ… Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Gs 24:15). Dân Ít-ra-en cũng đã lựa chọn. Họ quyết định phụng thờ Thiên Chúa vì Người đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai cập, đã làm những việc kỳ diệu và dẫn đưa họ vào miền đất hứa.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn hỏi chúng ta “phần các con có muốn bỏ Thầy không?”. Chúng ta có dám ở lại với Thầy khi mà nhiều người đã không còn tin có thế giới thần linh? Chúng ta có dám gắn bó với Người khi mà cả khối đông nhân loại đang bỏ đi để chạy theo ma lực của đồng tiền và địa vị? Có lẽ phần nhiều chúng ta do dự, phần nhiều chúng ta im lặng. Vì biết bao lần chúng ta cũng bị cám dỗ bỏ đạo để được tiến thân trên đài cao danh vọng. Vì biết bao lần đồng tiền đã làm mờ con mắt, khiến chúng ta chao đảo đức tin, muốn buông xuôi theo thói gian dối của thế gian để tìm mối lợi cho bản thân của mình. Có thể chúng ta đang đóng vai trò một Giuđa vẫn ở xen lẫn với nhóm 12 nhưng chỉ chờ cơ hội để bán đứng Thầy và bán đứng anh em.
Chúa Giêsu được mệnh danh là Ngôi Lời, đã hiện hữu từ trước muôn đời, “nhờ Người vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Gioan 1, 1-3) thì chắc chắn Người có đủ quyền năng ban sự sống đời đời cho những ai tin nhận Người.
Với những người có đức tin thì khác, cuộc sống phải trờ thành thánh lễ, hay nói cách khác, tinh thần thánh lễ phải thấm sâu vào cuộc sống của họ. Có nghĩa là chúng ta phải biến đổi đời sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài, bằng cách thực thi tinh thần yêu thương và hợp nhất, giúp đỡ những người chung quanh, như một bài hát quen thuộc: Ta về thôi khi thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để làm chứng nhân.
Là người Công Giáo, khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, chúng ta quyết định chọn Chúa và đi theo Chúa, chúng ta tôn nhận Chúa là Thiên Chúa và chỉ tôn thờ, phụng sự, yêu mến duy một mình Người. Đó chỉ là sự chọn lựa của đức tin. Tuy nhiên, trong cuộc sống của mình, chúng ta đứng trước nhiều cơ hội để chọn lựa hơn nữa, để sống và làm chứng cho đức tin. Chúng ta hãy triệt để thi hành những điều phù hợp với ý Chúa, đó là cách chọn lựa thích hợp nhất theo bản vẽ mà Chúa đã thiết kế cho đời chúng ta. Vì thế, chọn sống theo ý Chúa và thực hành theo đức tin là một việc làm liên tục, thường xuyên cho đến chết. Đó là một đòi hỏi của đức tin.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Mỗi lần tham dự Thánh lễ hôn phối, ta được nghe từng lời của chú rể: Anh… nhận em… làm vợ và hứa sẽ giữ lòng trung thành với em, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như khi mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em suốt đời anh. Đáp lại, cô dâu cũng nói lên lòng trung thành với chồng của cô.
Đời sống nào cũng thế, bậc nào cũng thế và tương quan nào cũng thế, tất cả đều cần với nhau lòng trung thành, sự chung thủy với nhau.
Tham dự Thánh lễ hôn phối, ta vẫn thường cầu chúc cho đôi hôn nhân không chỉ là trung thành mà còn chung thủy với nhau cho đến ngày răng long đầu bạc! Bạn bè chơi với nhau thì ai ai cũng muốn người bạn của mình trung thành.
Và như vậy, chúng ta thấy lòng chung thủy, sự trung thành đó luôn luôn là điều mà mọi người chúng ta phải gìn giữ trong mọi mối tương quan với nhau.
Tương quan giữa con người với Thiên Chúa, nhìn lại lịch sử cứu độ, ta sẽ thấy mối tương quan đó như thế nào đó. Tương quan đó nhiều lần đổ vỡ vì lẽ con người vì chạy theo tà thần, chạy theo ngẫu tượng để rồi quay lưng lại và thất tín bất trung với Chúa. Với Chúa thì ngược lại, dù con người thất tín bất trung đó nhưng Thiên Chúa vẫn nhẫn nại và nhẫn nại.
Bằng chứng rõ nét nhất là hôm nay, chúng ta vừa nghe lời của ông Giosuê nói với toàn dân như: “Nếu các ngươi không muốn tôn thờ Thiên Chúa, thì cho các ngươi lựa chọn: hôm nay, các ngươi hãy tuỳ ý chọn phải tôn thờ ai hơn: hoặc là các thần cha ông các ngươi đã tôn thờ ở Mêsôpôtamia, hoặc các thần của người xứ Amôrê, nơi các ngươi đang ở. Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa”.
Nghe lời của Giosuê, dân chúng đáp lại với vẻ khẳng khái và hết sức tự tin và thêm tình thống thiết xem ra rất tình cảm: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ những thần ngoại. Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, chính Người đã dẫn chúng tôi và cha ông chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Người đã làm những việc kỳ diệu cả thể trước mắt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt con đường chúng tôi đã đi, giữa tất cả mọi dân chúng tôi đã đi qua. Chúa đã trục xuất tất cả những dân đó cũng như người Amôrê trên phần đất chúng tôi đã tiến vào”.
Nghe những lời ấy, ta cũng thấy đi vào lòng người bởi những lời ấy hết sức tình cảm, hết sức gắn bó với Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, ta cũng nghe lời hết sức tình cảm từ miệng của ông Simon Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa”.
Những lời của ông Simon Phêrô xem ra cũng thống thiết, cũng tình cảm như lời của dân Do Thái ngày xưa. Thế nhưng, sau những lời thống thiết ấy, những lời xác tín ấy, ông Simon Phêrô lại cứ ngã lên ngã xuống và có những lúc đã bỏ thầy và cũng sẵn sàng chối Thầy.
Hành trình theo Chúa của mỗi người chúng ta dường như cũng có nét gì đó giống dân Do Thái ngày xưa hay cũng giống như ông Simon Phêrô vậy. Chúng ta đã thiếu lòng trung thành với Thiên Chúa. Nói về Thiên Chúa, có vẻ hơi xa, ta nhân cơi hội này nên nhìn lại lòng trung thành của chúng ta với vợ, với chồng, với bạn bè thân tín của ta, với đồng nghiệp, với công ty của ta.
Ngày hôm nay, cũng không thể nào phủ nhận sự tiến bộ quá nhanh chóng của xã hội, của cuộc sống để rồi đôi khi đâu đó ta nghe người này người kia trong một năm đã “nhảy” đến 3 công ty! Hẳn nhiên họ có quyền để tìm cho mình một công việc thuận lợi, một đồng lương phù hợp nhưng đàng sau đó, có những trường hợp thiếu lòng trung thành với cái nơi mà đã cưu mang mình mà cưu mang trong khoảng thời gian đặc biệt mới ra trường.
Ngày xưa đi làm cũng vậy, trong phòng của tôi, những anh em được lãnh đạo cưng chiều cũng như nâng đỡ lại là những người thiếu lòng trung thành cũng như biết ơn với những người đã cưu mang họ. Bi đát hơn nữa là họ đã lập công ty khác để cạnh tranh với chính người chủ của mình. Đàng rằng họ có quyền tự do để làm chuyện đó nhưng xem ra không có nhân có nghĩa. Khởi đầu tất cả cũng do sự thiếu trung thành với nhau.
Không chỉ là công việc, ngày hôm nay phải nói là hơn lúc nào hết, lòng trung thành, sự chung thủy trong đời sống hôn nhân đang ở mức báo động đỏ. Người ta thống kê được rằng cứ 2 đôi cưới nhau rồi thì sau đó không lâu 1 đôi bỏ nhau hay hơn nữa mà trong đó người Công Giáo chiếm số lượng không nhỏ. Cũng khởi đầu từ sự bất trung bất tín với nhau.
Bạn bè chơi với nhau ngày hôm nay cũng thế! Chơi với nhau như có chơi vậy thôi nhưng họ sẵn sàng đạp đổ nhau vì cái lợi cá nhân, vì sự ích kỷ của họ.
Là con người mà người ta còn coi thường lòng trung thành, sự chung thủy với nhau thì cũng dễ hiểu sao với Thiên Chúa họ cũng thất tín bất trung như vậy.
Như tâm tình của Thánh Phaolô nói thật hay: Ðức Kitô yêu thương Hội Thánh và phó mình vì Hội Thánh, để thánh hoá Hội Thánh, khi Người dùng nước và lời hằng sống rửa sạch Hội Thánh, ngõ hầu bày tỏ cho mình một Hội Thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo hay phải điều gì khác tương tự, nhưng thánh thiện và vẹn tuyền.
Đức Kitô mãi mãi yêu thương chúng ta, Đức Kitô chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống để rồi chỉ mình Đức Kitô mới là cùng đích của chúng ta. Chúng ta xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày ta luôn giữ lòng trung thành với Chúa và ta luôn nói với Chúa rằng: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Chúng ta vẫn thường hay nghe nói người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Chính bản thân nhiều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống, đến những vấn đề quan trọng nhất, người ta đều có thể bất trung thất tín. Ví dụ: Ai cũng biết, hôn nhân là mối dây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp diễn. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả.
Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản bội, cũng bất trung không kém. Từ thuở bình minh của nhân loại, thế giới, theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài. Nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm hai ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó, mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.
Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường nếm đủ mùi vị của khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn…, đã làm cho dân của Chúa mất kiên nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron. Không dừng ở đó, họ còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc để giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu?… Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn…” (Ds 11, 12tt). Trong sa mạc, lòng dân quên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại, nhiều lần họ đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.
Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất trung của dân Người. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ các thần khác”, và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi bậc lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoan dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba động từ: phản bội – nổi giận – tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.
Đó là bài đọc I trích trong sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của thánh Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm, cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá… Chính những giờ phút quan trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quên mất lời tuyên xưng mới đó, tính cho đến thời điểm diễn ra cuộc thương khó của Thầy, chưa được bao lâu. Vì một chút sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!
Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Hội Thánh mời gọi ta suy niệm các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành trong ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một lòng khoan dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi vẫn có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không hy vọng nữa mà thôi. Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính mình đã đánh mất.
Tin mừng Ga 6: 60-69: Chúa Giêsu cũng chấp nhận sự thật phủ phàng ấy, Người liền nói với nhóm Mười Hai rằng: “Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?” Chúa Giêsu không muốn kéo số đông về mình vì chân lý không thuộc về số đông…
Suy niệm
Rất thường trong cuộc sống, chúng ta nghe người ta quan niệm rằng “Đạo nào cũng là đạo, đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành”. Thưa như thế là đang nói về phương diện đời sống luân lý của đạo. Việc “đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành” là hệ quả của của lòng tin. Đó là phương tiện để nâng con người lên. Nhưng để có thể ý thức ăn ngay ở lành thì điều quan trọng là cần có phương diện tâm linh, có tin thì mới sống được.
Cốt lõi của niềm tin Kitô giáo dạy về một Thiên Chúa yêu thương trao ban tất cả cho con người, thậm chí cả mạng sống mình. Nhưng cũng chính điều ấy lại trở nên nguyên cớ cho người ta tỏ vẻ khó chịu: “Lời này chói tai quá, ai mà tin được”. Điều này đã khiến một số người quay lưng lại với Chúa.
Và Chúa Giêsu cũng chấp nhận sự thật phủ phàng ấy, Người liền nói với nhóm Mười Hai rằng: “Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?” Chúa Giêsu không muốn kéo số đông về mình vì chân lý không thuộc về số đông. Người không muốn dùng quyền lực và vị thế mình để ảnh hưởng trên sự chọn lựa của người khác. Người để cho từng người tự chất vấn lương tâm mình, để sự chọn lựa riêng theo tự do mới là sự lựa chọn trưởng thành. Và Phêrô đại diện nhóm Mười Hai thưa Người: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Vâng, sẽ có lúc trong cuộc sống, ở những ngã rẽ, chúng ta phải thực hiện cho mình những chọn lựa. Lựa chọn ấy quyết định hướng đi, hành động và lối sống của mình. Và sự chọn lựa đẹp nhất, đáng trân trọng nhất lại chính là sự chọn lựa trong những giờ phút cực kỳ khó khăn, tăm tối và gian khổ. Cũng vậy, trong khi người này người kia bỏ Chúa, quay lưng lại với Chúa, trong khi niềm tin của các môn đệ đang bị thử thách mà các ngài vẫn chọn Thầy và tin rằng “Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa” thì chính sự lựa chọn này sẽ nâng đỡ niềm tin cho các môn đệ.
Ngạn ngữ có câu: “Người bạn chân thành nhất là người bạn bên cạnh trong lúc hoạn nạn của bạn mình”. Chính khi các môn đệ chọn Chúa làm bạn mình thì rồi trong những khó khăn, các ngài sẽ cảm nghiệm được sự đồng hành của Chúa. Việc chọn lựa ấy còn nói lên sự trưởng thành trong đức tin, nhờ đó các ngài mới có thể được nâng đỡ và vượt qua những lúc khó khăn nhất trong cuộc sống. Cũng chính sự lựa chọn quyết liệt ấy mới cho các ngài có đủ sức mạnh bước theo Thầy đến giây phút tàn hơi.
Gần đây, một số bài báo trên truyền thông đưa tin giật gân về việc Hoa Kỳ đang bị những tai tiếng khiến nhiều người tỏ ra thất vọng về Giáo hội. Dẫu vậy, cùng lúc ấy, cũng xuất hiện những dòng bình luận trên internet như sau: “Bạn nghĩ bạn muốn chạy trốn khỏi Giáo Hội. Bạn nghĩ bạn sẽ tìm được một nơi không còn giả hình, không tội lụy à? Tôi không chắc bạn sẽ tìm ra được một nơi như thế. Nhưng điều chắc chắn rằng bạn sẽ không tìm được ở đấy một vị Thiên Chúa khóc lóc, chảy máu và chịu chết, Đấng đã nhận lấy tội lỗi vào cõi lòng Người, nuốt nó trọn khối, để nó bừng bừng trong dạ cho đến khi cháy tàn mới thôi. Bạn chỉ tìm thấy một Thiên Chúa như thế trong Thánh Hội Công Giáo Rôma. Giáo hội không thối rữa đến tận trái tim vì Chúa Giêsu là trái tim nó”.
Vâng, chính khi chúng ta đặt niềm tin tưởng vào Chúa với lời tuyên xưng khẳng khái như Phêrô, vị Tông đồ Cả rằng “Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa”, đức tin ấy giúp biện chứng cho việc Thiên Chúa có khả năng khơi lên ngọn lửa từ đống tro tàn, Ngài có khả năng biến sự dữ thành sự lành, biến cuộc khổ nạn với thập giá trên đồi Calvariô trở nên Thánh giá cứu đời. Và cũng bởi tin vào một Thiên Chúa duy nhất và quyền năng, chúng ta mới có được sự sống đời đời, sự sống Thiên Chúa trao ban cho con người, như thánh Irênê giáo phụ đã cho biết và được Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 460 trích lại: “Đây là lý do tại sao Ngôi Lời đã làm người, và Con Thiên Chúa đã trở thành Con Người: để con người, qua việc bước vào sự hiệp thông với Ngôi Lời và nhờ đó nhận được quyền làm con Thiên Chúa, có thể trở thành một người con của Thiên Chúa” (Adversus haereses, 3,19,1: PG 7,939; x. GLHTCG, 460).
Lạy Chúa, xin cho con cũng mạnh mẽ trong quyết định của mình khi trở nên một Kitô hữu, khi chọn Chúa làm cùng đích đời con, vì con tin rằng chỉ ở nơi Chúa, con mới có được sự sống đời đời. Amen.
Sau khi ông Môisen qua đời, ông Joshua, con của ông Nun, lên kế vị dẫn dân Do-thái vượt qua sông Jordan vào miền Đất Hứa. Toàn dân và gia đình ông Joshua đến trước Thiên Chúa ở giữa công đường, ông Joshua gợi ý cho dân chọn lựa tôn thờ Thiên Chúa hay tôn thờ các thần dân ngoại:Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Jos 24, 15). Dân chúng và gia đình ông Joshua đã chọn Thiên Chúa làm phần gia nghiệp. Ông Joshua đã trở thành người lãnh đạo tín trung và can đảm dẫn đưa dân vào miền đất chảy sữa và mật như lời đã hứa.
Dân Do-thái đã chọn đi theo Chúa tiến vào miền Đất Hứa nhưng rồi chẳng được bao lâu, dân chúng quên lời đã thề hứa. Họ bỏ Chúa, chạy theo các thú vui trần thế, tôn thờ các tà thần và sống theo thói tục của dân ngoại. Chúa phạt tội lỗi của họ, nhưng rồi Chúa lại tha thứ. Lịch sử cứu độ cứ thế lập đi lập lại với hết dòng dõi này sang dòng dõi khác. Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn đợi chờ. Qua các thử thách, Thiên Chúa hé mở những mầu nhiệm cao siêu trong cuộc sống bình thường. Từ những biến cố xảy ra hằng ngày, Thiên Chúa lại mở thêm những cánh cửa để dẫn con dân đi tìm về nguồn yêu thương. Không có một sự cố nào xảy ra mà không ghi dấu ấn tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa. Con đường cứu độ là con đường tình yêu và tha thứ. Yêu thương là ban tặng và dâng hiến. Thiên Chúa trao cho nhân loại bánh hằng sống, chính là Con Một của Thiên Chúa.
Sau khi Chúa Giêsu đã mạc khải về bánh ban sư sống bởi trời là thịt và máu Chúa, có nhiều người khó chịu về giáo lý này. Họ nói rằng: Lời này chói tai qúa! Ai nghe được. Chúa Giêsu biết rõ lòng họ nhưng Chúa không rút lại lời đã nói. Chúa không ngại để họ được tự do ra đi. Ngay cả các tông đồ, Chúa đã hỏi: Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không? Phêrô thưa: Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Chúa không muốn mị dân để làm vừa lòng mọi người. Chúa cho chúng ta được tự do chọn lựa thái độ. Chúng ta không thể đi nước đôi theo kiểu bắt cá hai tay. Tông đồ Phêrô đại diện cho anh em tuyên xưng niềm tin một cách xác tín: Thầy mới có lời ban sự sống đời đời.
Thái độ của Chúa Giêsu khác biệt thái độ của nhiều nhà lãnh đạo. Các lãnh tụ thế gian muốn mình trở thành số một, có quyền hành và muốn được người khác phục vụ. Người cầm quyền dùng nhiều thủ đoạn tìm vinh quang và thu gom cho mình mọi thứ ở trần gian. Họ thường dùng những lời hứa suông vượt trên khả năng và quyền hạn của họ để bảo đảm sự an toàn cho người khác. Họ muốn giới hạn tự do và ngay cả quyền thiêng liêng của con người để phục vụ cho chính sách và đường lối chính trị của phe nhóm họ. Trái lại, Chúa Giêsu không tìm vinh quang cho chính mình. Ngài qui mọi vinh quang và danh dự về Chúa Cha.
Khi Chúa chữa lành cho người phung hủi. Chúa nói với anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết (Mc 1, 44). Chúa chối từ sự tôn vinh của người đời. Khi Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no nê, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã từ chối. Chúa Giêsu từ trời hạ sinh làm người, nhưng Chúa lại chọn con đường phục vụ từ dưới thấp đi lên. Chúa khiêm hạ trong phục vụ. Chúa cúi xuống rửa chân cho các tông đồ. Khi Chúa xua đuổi qủy ám ra khỏi người đàn ông Gerasene, ông ta muốn ở lại với Chúa: Nhưng Chúa không cho phép, Người bảo: “Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào (Mc 5, 19). Chúa mời gọi mọi người đi theo Chúa để được lãnh nhận ơn cứu độ, nhưng Chúa không ép buộc hay cưỡng bức. Chúa để họ được hoàn toàn tự do lựa chọn.
Chúa Giêsu là thủ lãnh, là chủ chiên tốt lành và là Chúa đầy lòng xót thương. Chúa đã thí mạng sống vì đàn chiên. Trong vườn Cây Dầu, trước lúc bị bắt trói và dẫn đi, Chúa đã yêu cầu quân lính cho các tông đồ được tự do.Đức Giêsu nói: “Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi (Ga 18, 8). Chúa còn có những sứ mệnh khác cho các tông đồ. Các Ngài sẽ nên nhân chứng cho sự đau khổ, sự chết và sự sống lại của Thầy. Chúa không hứa một cuộc sống sung túc, đầy đủ, an bình và hưởng lạc, nhưng là con đường thánh giá có nhiều chông gai. Chúa đáp lời môn đệ muốn đi theo: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu (Lc 9, 58).
Lời Chúa là thần trí và là sự sống. Tác giả thơ Do-thái đã viết: Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử (Dt 1, 1-2). Qua Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta về tình yêu của ơn cứu độ. Lời của Chúa Giêsu là lời hằng sống. Lời Chúa có uy quyền tác động biến đổi và có hiệu qủa ngay: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy (Ga 6, 56). Chúa Giêsu đã từng chữa lành các bệnh nhân qua lời của Ngài.Người bảo anh bại tay: “Anh giơ tay ra! ” Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường (Mc 3, 5). Khi Chúa Giêsu đang ngủ trên tàu gặp sóng gió:Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi! ” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ (Mc 4, 39). Thánh Phêrô chỉ cho chúng tabiết rằng Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô đã khuyên dạy chúng ta: Anh em hay phục tùng nhau trong sự kính sợ Thiên Chúa (Eph 5, 21). Phaolô dùng hình ảnh của Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội để nói về việc vợ chồng phục tùng lẫn nhau trong đời sống hôn nhân gia đình:Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy (Eph 5, 25). Giáo Hội luôn gắn kết với Chúa Kitô là đầu. Lời Chúa là kim chỉ nam và là nguồn sống của Giáo Hội. Thánh Kinh và Thánh Truyền là hai nguồn bảo chứng giúp Giáo Hội tồn tại.Giáo Hội tin tưởng vào quyền năng thánh hóa qua lời hằng sống:Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống (Eph 5, 26).
Chúng ta lắng nghe, học hiểu, nhận biết và thực hành lời Chúa. Lời Chúa là lời quyền năng giúp chúng ta biến đổi nội tâm. Chúng ta cần học hỏi để có những kiến thức về đạo, nhưng điều quan trọng là tri và hành. Giống như chúng ta cầm được tấm bản đồ, chúng ta học biết các vị thế và nơi chốn nhưng chúng ta chỉ ngồi một chỗ thì sẽ chẳng bao giờ tới nơi. Lời của Chúa Giêsu mở cửa tâm hồn dẫn chúng ta đến hạnh phúc. Thực thi lời Chúa là chúng ta đang đi trên con đường chính thật. Chúng ta không thể đốt giai đoạn, mà hãy suy niệm và sống lời Chúa trong từng giây phút và qua từng cách ăn nết ở trong cuộc sống hằng ngày. Dấu chỉ của người môn đệ của Chúa là:Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau (Ga 13, 35).
Lạy Chúa, bỏ Chúa, chúng con biết theo ai. Chỉ có Chúa là Đấng Cứu Độ và là nguồn an lạc cho đời chúng con. Chúng con xin chọn Chúa làm gia nghiệp và là nơi chúng con nương náu ẩn thân. Chúng con xin chúc tụng và ngợi khen danh Chúa đến muôn ngàn đời.
Đó là tiếng kêu người ta thốt ra khi không còn kiên nhẫn được nữa. Hồi nhỏ, khi chúng ta cãi lộn nhau dữ dội, cha mẹ chúng ta hết kiên nhẫn nổi và quát: “vừa vừa thôi chứ!”. Những lời như thể biểu lộ sự phản đối. Người ta cảm thấy bị tấn công bởi những điều thái quá nơi kẻ khác như nói năng, hoạt động, đòi hỏi quá mức. Đây là dấu hiệu cho hay đã tới cùng tận chịu đựng rồi, gần giống như phải chịu những tiếng ồn làm nức tai nhức óc. Trong Tin Mừng, các môn đệ nói một câu tương tự: “Lời này chướng tai quá!”. Các ông bực bội, bị tấn công bởi điều các ông xem như là thái quá trong lời lẽ của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đối diện với những hạn chế.
Sau diễn từ về Bánh hằng sống, trong đó Chúa Giêsu tuyên bố Ngài từ trời mà đến và Ngài sẽ ban thịt Ngài làm của ăn, nhiều môn đệ thấy những lời này là không thể chịu nổi. Vì, vốn là con ông Giuse, mà Ngài tự xưng mình từ trời xuống. Điều này vượt quá mức chịu đựng. Các ông không dám la hét phản đối, nhưng các ông lẩm bẩm chống lại Ngài. Chúa Giêsu đã đẩy họ đến mức tận cùng của sự chịu đựng. Có một giới hạn cho những gì các ông có thể chấp nhận được.
Chúa Giêsu sẽ phản ứng thế nào? Ngài có giữ vững lập trường hay là Ngài sẽ tìm cách giảm nhẹ lời nói của mình khi bảo rằng người ta đã hiểu lầm Ngài? Câu trả lời của Ngài thật tế nhị: Ngài không rút lại những lời Ngài đã nói, nhưng Ngài mời gọi các môn đệ của Ngài nhìn xa hơn và cho các ông thấy thái độ cần phải có. Ngài nói về việc Ngài lên trời: “Và nếu các con thấy Con Người lên nơi Ngài ở trước kia thì sao?”. Như thể Ngài muốn nói: “Khi các con nhìn thấy Ta lên Trời lúc đó các con sẽ hiểu rằng Ta từ trời xuống và điều đó sẽ không còn là cớ vấp phạm cho các con nữa”. Ngài yêu cầu các ông nhìn xa hơn tình hình hiện tại đang thử thách các ông và làm cho các ông vấp ngã. Sau đó, Chúa Giêsu gợi ý cho các ông về cách giải quyết: Đừng xét đoán Ngài theo xác thịt, theo dáng vẻ bên ngoài và những tiêu chuẩn của loài người, nhưng theo Thần Khí, tức là tin vào lời Ngài nói: “Những lời Thầy nói với các con là Thần Khí và sự sống”. Từ những dấu chỉ mà họ đã nhìn thấy: Phép lạ hóa bánh, việc đi trên mặt biển, Chúa Giêsu thúc giục các môn đệ tin lời Ngài cách vô điều kiện. Thật quá tầm mức các ông. Các ông quyết định không đi theo Ngài nữa.
Nhóm Mười Hai vô điều kiện.
“Các con cũng muốn bỏ đi nữa không?”. Chúa Giêsu không muốn gây áp lực trên Nhóm Mười Hai hoặc thu hút lòng thương hại của các ông. Chúa đòi hỏi nơi các ông một quyết định của ý chí, một lời tuyên xưng ý định của các ông. Phêrô nhân danh những anh em khác trả lời một cách vô điều kiện, không đặt một giới hạn nào cho sự gắn bó của mình: “Bỏ Thầy chúng con biết đi với ai?”. Câu hỏi này là một sự khẳng định mạnh mẽ niềm thán phục của ông đối với Chúa Giêsu: “Chúng con không có ai xứng đáng hơn Thầy để theo cả. Không có sự lựa chọn nào khác đáng giá cả. Chỉ mình Thầy mới mang lại cho cuộc đời chúng con một ý nghĩa mà thôi”.
Phêrô đưa ra những lý do của việc lựa chọn vô điều kiện này, đó là lời của Chúa Giêsu và căn tính của Ngài. Quả thật, nếu Nhóm Mười Hai gắn bó với Ngài, là vì Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Những môn đệ bỏ đi nhận thấy những lời này quá đòi hỏi và các ông cảm thấy không thể sống nhờ chúng được. Tuân giữ những lời này sẽ thực sự khó mà sống được. Đối với Nhóm Mười Hai thì ngược hẳn lại. Hơn nữa, nhờ lắng nghe Chúa Giêsu các ông mới nhận ra được căn tính của Ngài, các ông đã nhận ra được Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa: “Về phần chúng con, chúng con tin và chúng con đã biết…”. Đức tin đi trước việc hiểu biết. Các ông tin để hiểu, trong lúc những người bỏ đi muốn hiểu trước đã, vì họ không tin tưởng nơi Chúa Giêsu. Như vậy, Nhóm Mười Hai đã nhận ra nơi Chúa Giêsu một con người mà Thiên Chúa đã thánh hóa để thi hành một sứ vụ như các ngôn sứ ở Israel, trong lúc những người kia chỉ nhìn thấy nơi Ngài “Con ông Giuse mà chúng tôi biết cha mẹ” (c.42). Đức tin dẫn đưa Nhóm Mười Hai đến chỗ nhận ra ý định của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Chúa Giêsu.
Trở thành những kẻ vô điều kiện.
Cũng như các môn đệ, chúng ta có thể trải qua thử thách về đức tin. Cuộc sống sẽ mang đến cho ta những thử thách này: “Thất bại cá nhân, bệnh tật, bất công, vấn đề đói kém. Thiên Chúa làm gì vậy? Chúng ta không hiểu và chúng ta bị cám dỗ buông thả hết. Chúa Giêsu nhắc lại với chúng ta “Các con có muốn bỏ đi không?”. Lúc đó chúng ta được mời gọi trở thành những kẻ vô điều kiện của Chúa Giêsu, làm một bước nhảy vọt trong đức tin.
Thánh Thể tưởng niệm Chúa Giêsu trong tư cách là Đấng vô điều kiện của Chúa Cha: “Không theo ý con, nhưng theo ý Cha”. Theo mức độ chúng ta tin vô điều kiện, Thánh Thể cũng tưởng niệm chúng ta nữa.
Cuộc đời con người là một chuỗi dài những sự chọn lựa. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không có quyền lựa chọn, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Nếu chọn đúng, thì đời mình sẽ tốt đẹp và hạnh phúc, còn nếu chọn sai thi đời sẽ bất hạnh. Sống là phải lựa chọn luôn. Đời là vậy. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn.
Trong bài đọc I hôm nay, chúng ta nghe ông Giôsuê triệu tập toàn thể dân chúng lại, truyền cho họ đứng trước nhan Chúa, rồi ông nói với họ: “Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần?”. Dân Do Thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã cứu họ thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Mặc dù họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại phụng thờ Ngài. Toàn dân đã biết hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đã đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài. Họ thưa với Giôsuê: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi”. Đó là một sự lựa chọn của dân Do Thái quyết tâm theo Chúa Giavê.
Trong Bài Phúc âm hôm nay kể lại việc sau khi dân chúng được ăn no nê, họ được Chúa giảng về Bánh Hằng Sống và lương thực bởi trời; Ngài tự xưng mình là Bánh Hằng Sống và quả quyết với họ rằng: “ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”. Đứng trước lời mời gọi này có những kết quả chọn lựa khác nhau, có nhiều người chọn giải pháp không đi theo Ngài nữa và cũng nhóm những tâm hồn thành tâm thiện chí chọn đi theo Chúa Giêsu. Nhiều người cho rằng “lời gì mà nghe chói tai quá” và họ quyết định không đi theo.
Vì thế, sau khi họ bỏ Chúa Giêsu ra đi, Ngài quay lại hỏi các Tông Đồ: “Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy ra đi không?” Thánh Phêrô đại diện các Tông Đồ thưa với Chúa rằng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Đó là sự chọn lựa của Phêrô. Như thế, dân Do Thái chọn bỏ Chúa còn Phêrô thì chọn theo Chúa Giêsu, chọn Chúa Giêsu là gia nghiệp đời mình.
Là người Công Giáo, khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, chúng ta quyết định chọn Chúa và đi theo Chúa, chúng ta tôn nhận Chúa là Thiên Chúa và chỉ tôn thờ, phụng sự, yêu mến duy một mình Người. Đó chỉ là sự chọn lựa của đức tin. Tuy nhiên, trong cuộc sống của mình, chúng ta đứng trước nhiều cơ hội để chọn lựa hơn nữa, để sống và làm chứng cho đức tin. Chúng ta hãy triệt để thi hành những điều phù hợp với ý Chúa, đó là cách chọn lựa thích hợp nhất theo bản vẽ mà Chúa đã thiết kế cho đời chúng ta. Vì thế, chọn sống theo ý Chúa và thực hành theo đức tin là một việc làm liên tục, thường xuyên cho đến chết. Đó là một đòi hỏi của đức tin.
Vì thế, đức tin này là một con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một con đường dài mà ta sẽ phải đi suốt cuộc đời. Con Đường đức tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ, ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ Chúa, được Chúa an ủi, mọi sự diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải trải qua những quãng đường gian nan đầy sóng gió không còn êm trôi. Có khi ta gặp khó khăn thử thách, gặp đau khổ, thất bại. Đôi khi chúng ta không tìm đâu ra lối thoát như chìm trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh sáng nào soi đường dẫn lối. Lúc đó, chúng ta sẽ cảm thấy mệt mỏi chán chường, muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác, bị cám dỗ tìm con đường dễ dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn. Đó là trường hợp của những người Do Thái và một số môn đệ hôm nay.
Thật thế, Khi Đức Giêsu hóa bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi và mừng vui. Họ tin Người chính là Đấng Cứu thế đến cứu dân tộc Do Thái. Thế nhưng khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời”, khi nghe nói như thế thì đám đông và một số môn đệ bỏ Chúa mà đi. Đức tin tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước, nay đã tan biến. Đức tin gặp thử thách và họ không thể vượt qua. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín.
Đức tin phải trải qua thử thách. Chỉ có những người bạn trung thành qua những khó khăn mới là những người bạn đích thực. Chỉ có niềm tin kiên vững bất chấp mọi thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Giữa cơn khủng hoảng ấy, thánh Phêrô đã đại diện nhóm 12 tuyên xưng niềm tin sắt đá vào Đức Kitô. Dù chưa hiểu những điều Đức Giêsu nói, nhưng các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào Người. Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều và sau khi chứng kiến Người đi trên mặt nước, các môn đệ có cơ sở để đặt niềm tin nơi Người. Lời tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có giá trị trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng. Nhưng vẫn gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách.
Hành trình đức tin và sự chọn lựa của chúng ta chắc chắn sẽ không khác của các tông đồ. Có những lúc thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt. Khi đó Lời Chúa êm ái ngọt ngào. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng. Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa, chúng ta dễ dàng chọn Chúa. Nhưng rồi tới những ngày tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy lời Chúa làm cho ta mất bình an. Lời Chúa đánh vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Phúc âm hôm nay, không còn muốn chọn Chúa nữa. Vì thế, trong những giờ phút gặp gian nan thử thách như thế, ta hãy nhớ đến lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên xưng trong đau đớn thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Sự trung tín vượt qua được những cơn khủng hoảng mới minh chứng một tình yêu chân thực. Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh dạn thưa với Chúa như thánh Phêrô: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời”. Đó là cách chọn lựa phù hợp ý Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khôn ngoan và sáng suốt để biết chọn Chúa là gia nghiệp đời mình. Cho dù chọn Chúa thì chúng con phải can đảm sống đức tin, biết theo Chúa, phụng sự Chúa suốt cuộc đời con. Tuy nhiên, đó là cách chọn lựa bảo đảm sự sống đời đời cho chúng con. Xin cho chúng con biết đáp trả bước đi theo Chúa suốt cuộc đời chúng con. Amen.
Anh chị em thân mến.
Trong thời gian gần đây, nếu anh chị em có dịp đi đến Châu đốc để vía bà, hay đi Cà Mau viếng mộ Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp. Quang cảnh của những nơi đó hết sức tưng bừng náo nhiệt, người tới lui tấp nập. Đi vòng quanh, có nhiều bia tạ ơn, bông hoa, nhan, đèn không bao giờ ngớt. Nhìn lại thì thấy đủ mọi hạng người, thuộc đủ mọi thành phần, đủ mọi tôn giáo. Họ đến đây vì nhu cầu riêng tư của cuộc sống: kẻ đã được đáp ứng, đến để tạ ơn, kẻ khác thì đến van xin. Nhìn lại, tất cả đều vì mối lợi riêng tư cho bản thân, vì cuộc sống riêng của mình.
Tôi suy nghĩ: nếu một người nào đã đi đến đó hai, ba lần mà nhu cầu của họ không được đáp ứng, thử hỏi họ có còn can đảm để đến thăm viếng và cầu xin nữa không. Tất cả chỉ vì nhu cầu của cuộc sống, vì quyền lợi riêng tư. Một khi quyền lợi bị đụng chạm, hay nhu cầu không còn cần thiết nữa thì chắc là họ sẽ không đến đó nữa.
Những người Do Thái, đi theo Chúa Giêsu vì Ngài đã đáp ứng nhu cầu của họ. Ngài cho họ ăn, giảng dạy, nói những lời mới lạ họ thích nghe. Nhưng khi Ngài nói những lời không hợp ý họ, họ liền chống đối và rời xa Ngài. Kể cả những người thân tín, những kẻ được gọi là môn đệ cũng bỏ Ngài. Còn lại nhóm 12, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn và hỏi:” Còn các con, các con có muốn bỏ đi không?”
“Lạy Thầy, chúng con biết đi theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Phêrô đại diện cho cả nhóm nói lên như thế. Ông nhìn thấy được sự sống thật trong vị Thầy mà ông đang theo, ông nhìn thấy được sự cần thiết khi có Thầy bên cạnh. Chính vì thế các ông đã theo Thầy cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, các ông đã đạt được sự sống đời đời.
“Còn các con, các con có muốn bỏ đi không?”
Chúa Giêsu cũng hỏi từng người trong chúng ta như thế. Không phải chỉ một lần, nhưng rất nhiều lần trong cuộc sống. Nhưng nào chúng ta có nghe thấy gì đâu để mà trả lời cho Ngài, vì chúng ta đã bỏ đi trước khi nghe Ngài hỏi như thế. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta chán nản thất vọng, không kiên nhẫn đủ để chờ đợi Thiên Chúa ban ơn cho mình. Chúng ta quay ra phiền trách Thiên Chúa, vì Ngài không phục vụ cho nhu cầu riêng tư, phục vụ cho lợi ích cá nhân của mình. Chúng ta cầu xin, đòi hỏi, nhưng ít khi nào suy nghĩ rằng: điều mình cầu xin có thật sự cần thiết và hợp thánh Ý Thiên chúa không? Nếu đó là điều tốt đẹp, thì Thiên Chúa của chúng ta có bị bắt buộc phải vâng lời và thi hành ngay những điều chúng ta đòi hỏi hay không. Thiên Chúa nhìn thấy và Ngài cũng biết trước chúng ta đang nghĩ gì và làm gì. Thế là chúng ta rời bỏ Thiên Chúa của mình vì không đủ kiên nhẫn chờ đợi, hay đúng hơn là không có một con tim chân thành để theo Ngài.
Có khi nào trong cuộc sống, chúng ta lắng nghe và trả lời như Phêrô: “Chúng con biết đi theo ai, Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời”. Nói được như thế là khi chúng ta biết để cho Thiên Chúa làm chủ cuộc sống của mình. Còn phần chúng ta biết lắng nghe và vâng theo những gì Ngài đặt để cho chúng ta trong cuộc sống. Chúng ta biết chấp nhận và chu toàn cách tốt đẹp hoàn cảnh sống của mình. Đó là sống kề cận bên Chúa và đó cũng là sự sống đích thực mà Thiên chúa ban cho những kẻ thành tâm theo Ngài.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe và luôn sống kề cận bên Chúa, để xứng đáng là môn đệ trung thành của Ngài.
Kết thúc bài giảng về bánh trường sinh, Chúa Giêsu mời gọi ta: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6:56). Lời mời gọi này đòi người ta phài dứt khoát quyết định: hoặc bỏ Người mà đi, hoặc trung thành theo Người. Đó là đề tài của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay được quảng diễn qua sự kiện dân Chúa trong Cựu Ước quyết tâm phụng thờ Đức Chúa và sự kiện các Tông đồ trung thành làm môn đệ của Chúa Giêsu. Bài học trung thành ấy được áp dụng vào mối quan hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội.
Sau khi hoàn tất nhiệm vụ đưa dân Chúa vào đất hứa và nhận thấy ngày cuối đời đã gần kề, ông Giô-suê triệu tập đại hội toàn dân tại Si-khem. Nói với họ, ông nhắc lại những điều Thiên Chúa thực hiện cho Ít-ra-en, kể từ thời các tổ phụ tới thời gian sống nhờ bên Ai-cập, cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ của Pha-ra-ô và trở về đất hứa. Rồi ông yêu cầu họ dứt khoát quyết định phụng thờ Chúa hay phụng thờ các thần ngoại. Ông cũng không ngại cho dân chúng biết ông và gia đình nhất quyết phụng thờ Thiên Chúa. Toàn dân đồng thanh đáp lời kêu gọi của ông: “Chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi” (Gs 24:18b).
Quả thực đây là một trang sử đẹp của dân Ít-ra-en. Cảm nghiệm về quyền năng của Thiên Chúa còn đậm nét và những biến cố lịch sử mới xảy ra không lâu đã giúp cho họ dễ dàng nhận ra “Người là Thiên Chúa” thật của họ và họ quyết tâm phụng thờ Người. Nhưng lịch sử dân Ít-ra-en lại hầu như đầy dẫy những bất trung của họ trong quan hệ với Chúa. Họ bị lôi cuốn theo lối sống của dân ngoại thay vì theo Lề Luật. Họ đã lấy các thần ngoại để thay thế chỗ đứng của Thiên Chúa, thí dụ như “các thần cha ông họ đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc các thần của người E-mô-ri” (Gs 24:15). Câu truyện cha ông họ đúc con bê bằng vàng để tôn thờ (Xh 32) cũng chỉ là một trong rất nhiều câu truyện được ghi lại trong Cựu Ước về sự bất trung của Ít-ra-en. Trong tình huống này, “ông Mô-sê đứng ở cổng trại và hô: “Ai thờ Đức Chúa thì theo tôi!” Tất cả con cái ông Lê-vi đều tập họp bên ông Mô-sê” (Xh 32:26).
Dân Chúa bất trung như thế đó, vậy mà ngược lại, Thiên Chúa luôn trung thành với dân Người. Người tìm đủ mọi cách để giúp họ thức tỉnh và sám hối sau những sa ngã tày trời ấy. Khi thì Người dùng hình phạt, chiến tranh, lưu đày để làm cho họ gắn bó với Người. Khi khác Người thiếu điều “năn nỉ ỉ ôi”, nhắc lại những việc tốt lành Người đã thực hiện cho họ, để xin họ hãy trung thành với Người. Câu truyện hôn nhân của ngôn sứ Hô-sê (Hs 1-3) là một biểu tượng sống động diễn tả sự quan tâm và lòng trung thành của Thiên Chúa dành cho Ít-ra-en. Cho dù Thiên Chúa có phải dùng đến hình phạt để đưa họ về đường ngay nẻo chính thì cũng là yêu cho roi cho vọt mà thôi, giống như cha mẹ một tay đánh con, một tay gạt nước mắt.
Lịch sử bất trung của Ít-ra-en tuy là một sự kiện cụ thể, nhưng cũng là lịch sử tái diễn nơi tâm hồn ta. Nhìn vào cuộc sống thiêng liêng của ta, ta dễ dàng nhận thấy những bất trung lớn có, nhỏ có, trong mối quan hệ với Chúa. Những lúc quyết tâm phụng thờ Chúa thật quá ít so với những lỗi lầm ta xúc phạm đến Chúa và anh chị em. Vậy mà Chúa vẫn một lòng yêu thương ta, như Chúa Kitô đã yêu thương những người tội lỗi và khốn khổ, hoặc như suy niệm của thánh Phao-lô qua bài đọc thứ hai về lòng yêu thương và chăm sóc của Chúa Kitô đối với Giáo Hội.
Bài Tin Mừng ghi lại phản ứng của những người nghe Chúa giảng về Bí tích Thánh Thể và lời mời gọi “chướng tai” của Người. Lời ấy là: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6:54a). Nghe thế, có nhiều môn đệ không tin và bỏ đi, mặc dù Người đã giải thích: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống” (Ga 6:63). Giải thích như vậy, Chúa Giêsu muốn nhắc lại sứ mệnh của Người. Người là Ngôi Lời nhập thể để trở nên thần khí và sự sống đời đời cho ta nếu ta tiếp nhận Người.
Tuy nhiên điều mà bài Tin Mừng muốn nhắm đến hôm nay là sự kiện các Tông đồ đã quyết tâm ở lại với Chúa Giêsu, cho dù nhiều môn đệ và dân chúng đã bỏ Người. Ông Phê-rô thay mặt anh em, tuyên bố một câu bất hủ: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68). Đúng là cùng một niềm tin, cùng một sự trung thành giống như ông Mô-sê và ông Giô-suê. Trước hết, ông Phê-rô tuyên xưng sự độc tôn đối với Chúa Giêsu. Dân Ít-ra-en đã thề hứa trước mặt ông Giô-suê là họ sẽ phụng thờ duy một Đức Chúa mà thôi. Cũng vậy, Phê-rô muốn phát biểu rằng Chúa Giêsu là Đấng duy nhất ta phải đến, phải gặp gỡ, phải để cho Người biến đổi cuộc sống ta. Ông đã nhìn nhận chân lý: chỉ có Chúa Giêsu mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Sứ mệnh và vai trò của Chúa Giêsu thật vô cùng quan trọng đối với tương lai của nhân loại. Sau khi nói lên chỗ đứng không thể thay thế của Chúa Giêsu, Phê-rô nói về chính mình và các bạn: “Phần chúng con, chúng con tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6:69).
Ta nhận ra sự xác tín của ông Phê-rô, sự xác tín mạnh mẽ giữa lúc bị giao động do việc bỏ đi của những người khác. So sánh với việc tuyên xưng đức tin của ông tại Xê-da-rê Phi-líp-phê, là tuyên xưng theo sự mặc khải của Thiên Chúa (Mt 16:13-20), thì lần tuyên xưng này mới thực sự là những lời phát ra từ đáy lòng của những người quyết tâm làm môn đệ Chúa. Ông nhấn mạnh đến hành vi “tin” và “nhận biết” rằng Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Kết thúc câu truyện bài giảng về Bí tích Thánh Thể của Chúa Giêsu dầu sao cũng là kết thúc có hậu. Ít ra còn có những người quyết tâm theo Chúa và gắn bó với Người giống như ông Phê-rô và các bạn Tông đồ đã làm. Tuy nhiên kết thúc ấy cũng là lời mời gọi hoặc thách thức Kitô hữu mọi thời hãy đáp lại lời tha thiết của Chúa Giêsu “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”.
Ta được kêu gọi hãy tiếp nhận Chúa Kitô và trung thành theo Người. Đó là để đáp lại lòng trung thành yêu thương của Chúa Kitô dành cho ta. Thánh Phao-lô đã cho ta những dòng suy niệm rất sâu xa về lòng trung thành yêu thương và chăm sóc của Chúa Giêsu đối với Giáo Hội.
Thực ra trong đoạn thư gửi tín hữu Ê-phê-xô 5:21-32, thánh Phao-lô bàn về những cách cư xử trong đời sống gia đình của Kitô hữu. Ngài đem mẫu gương Chúa Giêsu yêu thương và chăm sóc Giáo Hội áp dụng vào đời sống gia đình, đặc biệt là cách vợ chồng đối xử với nhau. Vậy thánh Tông đồ đã nhấn mạnh đến những điểm nào trong cách Chúa Kitô đối xử với Giáo Hội? Ở đây, ta đọc được nhiều điều Chúa Kitô đã và đang làm cho Giáo Hội. Người đã “cứu chuộc Hội Thánh” (câu 23), “yêu thương và hiến mình vì Hội Thánh” (c. 25), “thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước (Bí tích Rửa tội) và lời hằng sống” (c, 26), làm cho Hội Thánh “xinh đẹp lộng lẫy…, thánh thiện và tinh tuyền” (c. 26), “nuôi nấng (Bí tích Thánh Thể) và chăm sóc Hội Thánh” (c. 29). Tất cả những nghĩa cử này của Chúa Giêsu chứng tỏ lòng trung thành yêu thương của Người đối với Giáo Hội. Mà Kitô hữu là chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô, được bao bọc bằng tình yêu của Đầu là Chúa Kitô, nên ta phải trung thành theo Chúa, tùng phục Người, “như Hội Thành tùng phục Đức Kitô” (c. 24).
Qua lịch sử Giáo Hội, mặc dù có những giai đoạn đen tối, ta vẫn thấy thái độ căn bản của Giáo Hội đối với Chúa Kitô, đó là sự tùng phục và trung thành. Thái độ ấy không hẳn chỉ được biểu lộ qua những công thức tuyên tín hoặc những văn kiện chính thức của Giáo Hội, nhưng còn phải là lòng trung thành của mỗi phần tử trong Giáo Hội, cố gắng sống đúng với căn tính Kitô và với niềm xác tín: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Niềm xác tín ấy không phải chỉ của riêng Phê-rô, nhưng cũng phải là xác tín của mỗi người Kitô hữu nữa.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến lòng trung thành theo Chúa. Theo Chúa là điều không dễ dàng, như Chúa Giêsu đã nói: “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. Quả thực, khi ban cho ta Con Một để chứng tỏ lòng yêu thương ta, thì Thiên Chúa Cha đã ban cho ta ơn đến với Đức Kitô rồi. Vậy ý thức chân lý yêu thương ầy và xác tín vai trò “lời đem lại sự sống đời đời” của Chúa Giêsu, ta hãy mạnh dạn đến với Người và nhất là trung thành đi theo làm môn đệ Người.
Suy nghĩ: “Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”. Điều này có bao giờ xảy ra cho tôi không? “Lúc đó” là những hoàn cảnh nào trong đời tôi? Tôi đã xử trí như thế nào? Kinh nghiệm “rút lui” dạy tôi bài học nào và có giúp tôi trung thành hơn không?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới làm cho chùng con nên một lòng một ý; xin cho tất cả chúng con biết yêu luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa, để dầu sống giữa cảnh thế sự thăng trầm, chúng con vẫn một lòng thiết tha với cõi phúc chân thật. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 21 mùa Thường niên).
“Đối với loài người thì không có thể,
nhưng đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể”.
Chúa Giêsu đã đưa ra mô hình sau để chúng ta kiểm nghiệm: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa.
Chúa Giêsu không lên án những người giàu, bởi vì giàu có hay nghèo khó đều là của cải Chúa ban trên mặt đất này. Bản thân của cải chưa nói lên điều gì, sở hữu của cải cũng chưa phải là tội hay là phúc. Điều quan trọng, người ta dùng của cải để giúp đỡ anh em hay là họ ham mê của cải đến mức độ tích trữ, thậm chí tìm mọi cách tham lam mưu mô để chiếm đoạt của cải của người khác. Tội hay phúc từ đó mới phát sinh.
Những người mà lòng tham vô đáy, tìm mọi mưu mô và chiếm đoạt của mọi người, để làm giàu cho mình dù là họ không đạt được ý nguyện, có khi trong tay cũng chẳng có tiền của nữa nhưng lòng tham vẫn là lòng tham, giàu có vẫn là giàu có. Những hạng như vậy: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn những người giàu có kiểu đó mà vào được Nước Trời.
Có những người của cải Chúa ban có thể họ được rất nhiều nhưng họ có cơ hội để giúp đỡ anh em, chị em, hoặc là những công việc từ thiện, những công việc truyền giáo, họ có rất nhiều tiền của mà họ vẫn là những người có tinh thần nghèo khó.
Như vậy Chúa Giêsu đề cao tinh thần nghèo khó và Chúa kết án lòng tham vô độ của con người khi chỉ muốn hưởng thụ và đam mê đời này. Một kiểm nghiệm trên để cho chúng ta thấy rằng tiền của hay thế giới vật chất chưa phải là điểm đến của chúng ta, lời mời gọi mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta cao hơn, xa hơn và vì thế khi Phêrô hỏi Chúa Giêsu: “Chúng con đã bỏ mọi sự mà đi theo Thầy, chúng con được gì”. Đức Giêsu không ngần ngại cho chúng ta thấy một hoa trái thật là lớn lao: “Thầy nói thật với các con: không ai đã bỏ cha mẹ vợ con ruộng nương vì Thầy, vì Phúc âm mà không được gấp trăm ngay ở đời này và ngày sau được ngự trên tòa xét xử mười hai chi tộc Israel”(Mt 19,29); Khi Giacôbê và Gioan xin được ngồi bên tả bên hữu trong Nước Thầy, Chúa Giêsu từ chối. Thế nhưng hôm nay Chúa Giêsu lại hứa cho tất cả những ai từ bỏ mọi sự mà theo Chúa sẽ được ngồi trên tòa xét xử mười hai chi tộc Israel, tức là ở nơi vinh dự cao sang, nhưng đó là vinh dự cao sang của Nước Trời, mặc dầu thế, ngay ở đời này họ cũng được gấp trăm. Chúa không nói ai bỏ ra một nghìn đồng Chúa sẽ cho một trăm nghìn đồng, ai bỏ ra một triệu đồng Chúa sẽ cho trăm triệu đồng. Nhưng Chúa nói gấp trăm về nhiều phương diện: sự bình an, niềm vui, hạnh phúc… Họ là những người được chúc phúc ngay ở đời này, họ cảm thấy về ý nghĩa đời sống, về sự may lành, về những gì mà Thiên Chúa gìn giữ yêu thương quan phòng dẫn dắt họ, nghĩa là họ đi trong ánh sáng, trong niềm vui, những điều đó gấp trăm gấp nghìn lần những gì mà của cải hứa hẹn hưởng thụ trong mệt mỏi, trong rã rời, trong âu lo thậm chí trong chán nản và thất vọng.
Hôm nay, với mô hình Chúa đưa ra để cho chúng ta lựa chọn và rõ ràng là có những người đã lựa chọn sai cho nên có những kẻ trước hết danh vọng, chức quyền, của cải ngất trời ở đời này thì lại lên sau hết. Còn có những người đã dám hy sinh từ bỏ đến cả mạng sống của mình, từ bỏ của cải, từ bỏ đam mê, từ bỏ hưởng thụ, họ là những người nghèo khó, thậm chí là những người hành khất, họ nên giống Chúa Giêsu lang thang nhưng họ sẽ là những người ở đời này là bé mọn là rốt hết sẽ lên trước nhất.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đưa ra mô hình mà chúng con thấy khó thực hiện quá!
Tất cả đều là đảo ngược so với những suy nghĩ,
những bước đi tự nhiên của chúng con.
Nhưng chúng con đã thấy các thánh là những người thực hiện
theo những bước đi lội ngược dòng mà Chúa đề ra.
Các thánh đã đạt tới đỉnh điểm của hạnh phúc,
Các thánh đã đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của Nước Trời.
Xin cho chúng con ngày hôm nay dám từ bỏ,
dám lội ngược dòng để chúng con là những người rốt hết,
sẽ được nên những người trước nhất trong ngày sau hết.
Xin đừng để chúng con leo lên bậc trước nhất
để rồi ngày sau hết ngã xuống bậc rốt hết.
Chúa gọi chúng con đi ngược dòng
chính là trở về với cội nguồn ơn cứu độ.
Xin Chúa ban ơn để chúng con đạt tới ơn cứu độ đời đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Cả bốn bài Tin Mừng của bốn Chúa nhật trước đây và cả bài Tin Mừng hôm nay, đã kể lại bài giảng của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống đời đời; đồng thời cũng lần lượt cho biết thái độ và phản ứng của các thính giả. Riêng bài Tin Mừng hôm nay cho biết phản ứng của các môn đệ nói chung và của Nhóm Mười Hai nói riêng. Mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giài thích thêm.
Suốt cuộc nói chuyện, hay đúng hơn, suốt bài giảng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa không ngừng mời gọi người ta đến với Ngài, tin vào Ngài, đón nhận Ngài làm của ăn thức uống. Nhưng không những dân chúng mà nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người Do thái khác: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”. Họ lẩm bẩm với nhau như thế. Nhưng Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải thích thêm cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu hơn vào bản thân và sứ mạng của Ngài. Ngài nói Ngài lên nơi Ngài đã ở trước, nghĩa là lên cùng Chúa Cha, vào trong vinh quang của Chúa Cha, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Chúa Con từ muôn thuở.
Khi nghe Chúa nói như vậy, nhiều môn đệ rút lui, không đi với Chúa nữa. Như vậy, không những dân chúng chán ngán mà cả đến các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm mười hai tông đồ, những người được coi là thân tín nhất của Chúa. Phản ứng của họ thế nào? Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: họ không bỏ Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Như vậy, thánh Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên một lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, tin vào sứ mạng của Ngài: Ngài có những lời đem lại sự sống đời đời. Do đó, những lời tuyên bố, quả quyết và khẳng định trong bài giảng về bánh hằng sống này thực sự là theo nghĩa đen thông thường nói về phép Thánh Thể.
Nhìn về chúng ta, đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta đều phải đích thân chọn lựa đứng lại với Chúa hay không? Đứng lại với Chúa không phải chỉ vì thấy người khác còn đứng lại hay vì chưa gặp dịp thuận tiện để tháo lui. Nhưng đứng lại với Chúa vì tin rằng Ngài là Đấng có lời ban sự sống đời đời, không còn ai khác để mình đi theo.
Chúng ta là Kitô hữu, tức là chúng ta là người chấp nhận đi theo Chúa Giêsu, là Đấng không những ban cho chúng ta sự sống đời này mà còn ban cho chúng ta sự sống đời đời nữa. Sống ở đời, ai cũng có niềm tin, và bởi thế, có nhiều thứ niềm tin khác nhau, chẳng hạn các vận đông viên thể thao tin ở sức mạnh của bắp thịt và sự dẻo dai của họ. Các chính trị gia đặt tất cả niềm tin nơi đảng phái của họ. Những người hoạt động theo một ý thức hệ cũng tin tưởng ở sự toàn thắng của lý tưởng mà họ đang theo đuổi…
Ngay trong cuộc sống thường ngày, chúng ta cũng bị bắt buộc phải có niềm tin, chẳng hạn: đau bệnh, chúng ta tìm đến thầy thuốc, chúng ta đặt niềm tin nơi khả năng và thiện chí của thầy thuốc. Đi mua hàng, chúng ta cũng phải tin tưởng nơi người bán hàng. Giao tiếp với nhau, chúng ta cũng phải tin tưởng nhau…Đối với chúng ta, những người Kitô hữu, chúng ta không những có niềm tin vào cuộc sống mà chúng ta còn có đức tin nữa. Làm sao có được đức tin? Triết gia Pát-can nói: “Nếu bạn muốn có đức tin, bạn hãy quỳ gối xuống và cầu nguyện”.
Mẹ Têrêxa cũng nói như thế. Người ta kể rằng: một lần kia, Mẹ Têrêxa nói với một phóng viên báo chí: “Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin”. Người ấy hỏi: “Tôi phải làm gì để có đức tin?”. Mẹ Têrêxa đáp: “Ông hãy cầu nguyện”. Người ấy nói: “Tôi không biết và không thể cầu nguyện”. Mẹ Têrêxa nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho ông, phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh. Một nụ cười có thể đánh động người khác. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống”.
Chúng ta lãnh nhận được đức tin khi chịu phép rửa tội. Như vậy, tất cả chúng ta đều đã có đức tin. Nhưng cũng như mọi thứ tài năng khác nơi con người, đức tin cần phải được triển nở, cần phải được nuôi dưỡng. Một tài năng không được nuôi dưỡng sẽ mai một với thời gain. Một đức tin không được vun trồng cũng sẽ chết dần chết mòn. Chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm những việc đạo đức là chúng ta nuôi dưỡng đức tin của mình. Ngoài ra, cả cách sống quảng đại, vị tha và yêu thương cũng là cách để nuôi dưỡng đức tin như lời Mẹ Têrêxa khuyên trên đây: mỉm cười với mọi người. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống. Một nụ cười còn có giá trị như thế phương chi những lời nói, những việc làm còn giá trị hơn biết bao.
Trên bước đường theo Chúa, các môn đệ gặp rất nhiều thách đố từ ngoại cảnh hay nội tâm. Có bao giờ họ có thể tưởng tượng chính Chúa lại trở thành thách đố lớn nhất? Thế mà hôm nay, khi lên tiếng đòi hỏi một niềm tin lớn lao về quyền năng Thiên Chúa, chính bản thân Đức Giêsu đã trở thành một vấn đề khó vượt nhất, vấn đề có tính cách quyết định cho cả định mệnh con người, vì liên quan tới chính sự sống nhân loại.
Nguồn sống
Trước bao nhiêu đe dọa mạng sống, con người cảm thấy bất lực. Những sản phẩm tử thần phơi bày nhan nhản khắp nơi. Trươc tình cảnh ấy, Đức Giêsu xuất hiện như một nguồn sống: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời.” (Ga 6:54a) Lời đề nghị vô cùng lạ lùng, chưa từng nghe thấy bao giờ. “Nghe vậy nhiều môn đệ của Người liền nói: ‘Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60) Người trở thành đối tượng của lời xầm xì. Kết quả nhiều môn đệ đã theo Người lâu năm, cũng đành giũ áo ra đi (x. Ga 6:66). Tưởng việc ra đi đó sẽ khiến Người đổi thái độ. Nhưng không, Người vẫn không hề nao núng, dù chỉ còn ít người ở lại: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6:67) Thật là căng thẳng! Thật là một thách đố lớn!
Trước sự im lặng đến ngộp thở, ông Phêrô lên tiếng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” (Ga 6: 68-69) Chính Chúa Cha đã mạc khải tất cả sự thật về Chúa Con. Thật vậy, “Không ai đến được với Thầy, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.” (Ga 6:65) Bởi đó, niềm tin là một ân sủng vô cùng cao quí. Đến với Đức Giêsu tưởng như một hành vi đơn giản. Thực tế phải có một sức mạnh nội tại phát xuất từ Thiên Chúa, chúng ta mới có thể tin vào Lời Chúa và sự hiện diện đích thực của Chúa nơi con người Đức Giêsu và nhất là trong bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu hiện diện thật trong bí tích Thánh Thể. Nhưng sự hiện diện đó vẫn khác với sự hiện diện trong thân xác tại thế của Đức Giêsu. Nói khác, “thịt và máu” chỉ hiện diện một cách bí tích trong “bánh hằng sống”. Đây là một sự hiện diện sâu xa và đích thực. Bên ngoài chỉ là một tấm bánh hay một chén rượu. Nhưng dấu chỉ bên ngoài đó nói lên sự thật lớn lao bên trong. Đức Giêsu trở thành của ăn thức uống nuôi sống muôn dân khỏi cơn đói khát thiêng liêng. Bởi đó lấy sự hiểu biết bình thường để đo thực tại Thiên Chúa, con người sẽ bất lực. Trái lại phải có sức mạnh Thần khí mới có thể hiểu nổi Lời Chúa. Thực vậy, “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.” (Ga 6:63) Bản chất Lời Chúa là thần khí mà lại lấy con mắt xác thịt để nhìn, thật là không cân xứng. Xác thịt chỉ dẫn đến xác thịt, hoàn toàn bất lực trước những đòi hỏi của Thần khí. “Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống.” (2 Cr 3:6)
Những người còn ở lại với Chúa vì đã chấp nhận Lời Chúa và tin vào sự hiện diện đích thực của Người trong “bánh hằng sống”. Họ đã hiểu Lời Chúa dưới lăng kính Thần khí. “Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô.” (Rm 8:9) Đó là lý do tại sao “nhiều môn đệ rút lui” (Ga 6:66) và nhiều người “lấy làm chướng” và “xầm xì về vấn đề ấy.” (Ga 6:61) Thần Khí sẽ làm im bặt mọi tiếng xầm xì và nghi hoặc, vì Người chính là sức mạnh của Chúa Cha kéo ta lại gần Đức Kitô. Thần Khí không pha chút vẩn đục mới thấy hết được chiều sâu Lời Chúa. Xác thịt không có độ trong suốt đó để thấy tất cả sự thật. Thách đố chính là cuộc đối đầu giữa Thần Khí và xác thịt. Người môn đệ Đức Giêsu luôn bị đặt trước sự lựa chọn.
Ngày xưa, dân Do thái cũng đứng trước lựa chọn lớn lao đó. Ông Giôsuê đã lên tiếng trước toàn dân: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ… Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa.” (Gs 24:15) Giữa bao nhiêu cám dỗ, dân Do thái đã có lúc nghiêng ngả. Đã đến lúc họ phải dứt khoát. Oâng Giôsuê “đã cho họ một cơ hội để canh tân giao ước Sinai (Xh 19-24)” (Faley 1994:557) Họ đã nhớ lại tất cả sự nghiệp hiển hách Chúa đã làm trên đường về Đất Hứa. Tất cả đều lặp lại lời tuyên xưng đức tin như ông Giôsuê: “Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.” (Gs 24:18b) Tất cả lịch sử Do thái đều xây trên lời tuyên tín này. Như vậy ông Giôsuê đã chinh phục được toàn dân về cho Chúa. Nhưng suốt lịch sử không phải lúc nào niềm tin cũng trong sáng như vậy. Cuộc thách đố không bao giờ chỉ đến một lần. Trái lại, cuộc phấn đấu dai dẳng suốt bốn mươi năm trên sa mạc là cuộc phấn đấu với niềm tin.
Những sự kiện trái ngược
Các môn đệ Đức Giêsu còn phải phấn đấu cam go hơn nữa khi Đức Giêsu đòi hỏi phải tin “ai ăn thịt tôi và uống máu tôi…” (Ga 6:54) Ngày xưa, sau khi Người công bố về bánh hằng sống, “nhiều môn đệ rút lui.” (Ga 6:66) Đức Giêsu đã dám đánh đổi cả sự nghiệp lấy niềm tin đó. Giả sử lúc đó Chúa cũng chiều theo thị hiếu quần chúng, thử hỏi hôm nay Người còn độ hấp dẫn không?
Chính vì niềm xác tín lớn lao đó, ngày nay Giáo hội vẫn còn là điểm thu hút giới trẻ về với Đức Giêsu. Bằng chứng gần 3 triệu bạn trẻ khắp thế giới đã tề tựu về Roma trong ngày Quốc Tế Giới Trẻ từ ngày 15 đến 20 tháng 8 năm 2000 để lắng nghe Lời Chúa và tìm kiếm Đức Giêsu. Một biến cố lớn lao vượt ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Các bạn trẻ đã tuốn về Roma với niềm phấn khởi hân hoan. Họ đã đi bộ hằng chục cây số để vác tượng thánh giá theo gót Đức Giêsu. Họ đã quì gối giữa phố xá để cùng đọc kinh Truyền tin lúc 12 giờ trưa giữa những tiếng chuông nhịp nhàng nơi kinh thành ánh sáng đó. Để chuẩn bị cho ngày Đại Hội, hằng chục ngàn bạn trẻ đã phải làm việc mệt nhọc hằng tháng hay hằng năm trước. Các bạn trẻ hoàn toàn thoải mái vì được ăn uống ngủ nghỉ hoàn toàn miễn phí. Đại hội đã chuẩn bị 9 triệu bữa ăn cho các bạn trẻ. Có đủ dịch vụ y tế và vệ sinh đáp ứng nhu cầu của các bạn. Các nhà dân chúng ở Roma đã mở rộng cửa đón tiếp các bạn. Cả Đức Giáo Hoàng cũng đón tiếp 15 bạn trẻ vào ở chung với Người. Nhiều bạn trẻ thuộc thế giới thứ ba đã được bao vé máy bay về Roma. Các ân nhân đã đóng góp 3.5 triệu đô la giúp đỡ các bạn trẻ. Thật là một ngày vui lớn có tầm mức quốc tế. Niềm vui có thể đo lường được bằng những màn hội diễn văn nghệ, nhảy múa, ca hát. Tất cả đều tìm thấy nhau trong niềm vui hòa hợp với nhau và nhất là với Thiên Chúa. Có khoảng 2.000 linh mục sẵn sàng đáp ứng nhu cầu hòa giải nơi 300 tòa cáo giải ngay tại quảng trường Colossê.
Cũng trên chính quảng trường đó, trước đó hơn một tháng, nghĩa là ngày 8 tháng 7 năm 2000, một cảnh tượng trái ngược đã diễn ra. Cũng một Đại Hội Giới Trẻ. Cũng vào đầu thế kỷ 21. Những chuẩn bị cũng rất công phu. Ước vọng cũng rất lớn. Người ta hi vọng một triệu người trẻ đồng tính luyến ái sẽ qui tụ về Roma để biểu tình phản đối Tòa Thánh Vatican. Kết quả sau những ngày kêu gọi ầm ĩ và chuẩn bị rầm rộ, chỉ non 7000 bạn trẻ tham dự. Còn đâu hứa hẹn tự do đáp ứng mọi nhu cầu ăn chơi của tuổi trẻ bằng thế giới những người đồng tính luyến ái? Các bạn trẻ không nghe thấy tiếng kêu gào của những người tổ chức hay sao? Trong khi đó, một tiếng kêu gọi của một cụ già 80 tuổi đã được các bạn trẻ đón nhận nồng nhiệt. Gần 3 triệu bạn trẻ nghe tiếng nói của lẽ phải. Chưa tới 7000 nghe theo những hò hét điên cuồng. Nguyên con số cũng cho thấy thất vọng về tuổi trẻ là một sai lầm. Tuổi trẻ là niềm hi vọng lớn lao!!!
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” – Charles E. Miller).
Những quyết định hằng ngày là một phần của đời sống: như mặc đồ thế nào, ăn cái gì và khi nào thì đi ngủ. Với những vấn đề này, những quyết định của chúng ta thì thường thay đổi nhưng có một số quyết định mà bản tính của chúng kéo dài mãi đến đời đời. Những chọn lựa căn bản mà chúng ta đã làm bằng chính ý chí tự do của chúng ta, một thí dụ tuyệt hảo cho vấn đề này đó là quyết định kết hôn. Hôn nhân là một Giao Ước vĩnh viễn, một quan hệ tình yêu và trung thành giữa một người nam và một người nữ, để họ trở nên một.
Thiên Chúa đã mời gọi dân của Người trong Cựu Ước trở thành bạn tình của Người, bằng một Giao Ước mang hình thức của hôn nhân thiêng liêng. Giosuê là một người lãnh đạo của dân Thiên Chúa sau cái chết của Môisê, đã hiểu được tầm quan trọng của Giao Ước này. Ông đã thách thức dân chúng: “Nếu các ngươi không hài lòng phục vụ Chúa thì hãy quyết định trong ngày hôm nay, các người sẽ phục vụ ai, còn tôi và người nhà của tôi sẽ phục vụ Thiên Chúa” Giosuê đã làm một quyết định với chính mình.
Những thế kỷ sau, Chúa Giêsu đã đối đầu với những kẻ đã nghe người rao giảng. Người thách thức họ làm một quyết định về chính Người. Ngài đã tuyên bố một giáo lý mà họ có thể hiểu một cách rõ ràng: “Bánh mà Ta sẽ ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống. Những ai đã ăn Thịt của Ta và uống Máu Ta sẽ được sống đời đời và Ta sẽ cho nó sống lại ngày sau hết”. Họ hiểu điều Chúa Giêsu nói nhưng họ đã chối bỏ: “Những lời này nghe chói tai quá, ai mà nghe cho được”.
Họ đã hiểu một cách chính xác những gì mà Chúa Giêsu đòi hỏi. Khi họ từ bỏ và quay lưng với Ngài để bỏ đi, Ngài đã để cho họ đi. Đó là một ngày quyết định. Không thể tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu mà cùng lúc đó lại chối bỏ lời hứa của Ngài về bí tích Thánh Thể. Tiếp đó, Chúa Giêsu đã thách thức những người thân cận nhất của Ngài với nhóm 12: “Các ngươi có muốn rời bỏ Ta luôn không?” Phêrô đã tuyên xưng lòng trung thành mà lời đó đã được lặp lại qua muôn thế hệ bởi những người nam và những người nữ sống theo đức tin: “Lạy Chúa, bỏ Ngài con biết theo ai? Chỉ có Ngài mới có Lời ban sự sống đời đời. Chúng con tin rằng Người là Con Thiên Chúa, Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô thì không hề bị cưỡng bách, ngài đã nhận được ân sủng mà ân sủng đó không giống như là một đề nghị kết hôn. Ân sủng này Ngài được tự do đáp trả. Ngài đã làm một quyết định nối kết thân mật chính Ngài với Đức Kitô, mặc dù sau đó ngài đã bị sa ngã, nhưng ngài luôn luôn trung thành đức tin với Đức Kitô. Thật vậy, ngài nói rằng, ngài muốn bước vào mối quan hệ yêu thương và vĩnh viễn trung thành với Đức Kitô.
Chúng ta có cùng ân sủng, điều đó có nghĩa là chúng ta cũng có cùng thách đố, có cũng những quyết định phải làm. Đức Kitô làm cho đức tin vào Thánh Thể của chúng ta như là một thử thách tuyệt đối của đức tin vào chính Người. Nhận biết Thánh Thể là một bí tích của Giao Ước mới đời đời. Sẵn sàng yêu mến bí tích Thánh Thể và cử hành bí tích này tại trung tâm điểm cuộc sống của chúng ta, là thi hành mối quan hệ yêu thương và vĩnh viễn, làm cho Đức Kitô và chúng ta là hai trở nên một xác thịt.
Vì sao chúng ta tin vào bí tích Thánh Thể? Vì sao chúng ta lại thấy bí tích này một bí tích tuyệt diệu? Vì sao Thánh Lễ là diễn tả cao nhất của sự thờ phượng Công giáo? Bởi vì Đức Kitô là Lời có sự sống đời đời mà chúng ta tin rằng Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, làm các phép lạ và dân chúng lũ lượt đi theo Ngài. Thế nhưng những kẻ đi theo Ngài là một đám đông ô hợp, đủ hạng người. Tin Mừng cho chúng ta thấy ít là có 4 hạng người đi theo Chúa.
– Hạng người theo Chúa vì tính hiếu kỳ:
Thấy Chúa Giêsu giảng dạy lôi cuốn, giáo lý mới mẻ hấp dẫn, nhất là được chứng kiến một loạt các phép lạ lớn lao phi thường, họ đi theo. Đây là hạng người theo Chúa chỉ vì tính hiếu kỳ của mình: “Dập dìu người đi, tớ cũng đi”; “Thấy hay thì vỗ tay vào”. Chính vì thế khi nghe Chúa Giêsu nói những lời chói tai, khó hiểu, họ đã nghi ngờ không biết ông Giêsu này có thật là Đấng Tiên Tri phải đến hay không; hay ông ta chỉ là người hâm hẩm. Thậm chí có lần người nhà đã từng cho rằng Ngài bị mất trí, nên đi tìm đẩ bắt ngài về. Và một khi lòng hiếu kỳ bị thương tổn, họ đã bỏ Chúa mà không một chút luyến tiếc.
– Hạng người theo Chúa vì mục đích kinh tế:
Đây là những người có lối sống thực dụng. Mối quan tâm của họ chỉ là cơm áo gạo tiền và những nhu cầu đời tạm này, một hình thức “đạo gạo” của thập niên 60, 70 tại Việt Nam chúng ta. Đối với họ, Chúa Giêsu xuất hiện như một vị cứu tinh với vai trò giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ và nghèo đói của kiếp người, qua những phép lạ: hoá bánh ra nhiều, làm nên những mẻ cá lạ lùng, tay không chữa bệnh, phục sinh kẻ chết… Điều này lý giải tại sao họ đã ùn ùn đi theo Chúa Giêsu tựa đàn kiến phát hiện được con mồi. Đơn giản vì theo Chúa Giêsu, họ sẽ không lo vất vả làm lụng, không sợ hạn hán lụt lội, hay kinh tế khủng hoảng,… Theo Chúa Giêsu, họ sẽ có bảo hiểm y tế cả đời. Dịch cúm H1N1 cũng chẳng ngán, nan y Siđa cũng chẳng tè, v.v… Cứ trực chỉ lương y Giêsu là được chữa lành hết, chẳng phải tốn một đồng nào. Tắt một lời, Giêsu đem lại cho họ qúa nhiều lợi lộc về mặt kinh tế.
Thế nhưng, cũng chính vì “Chúa tể họ thờ là cái bụng”, nên khi thấy Đức Giêsu suốt ngày chỉ nói đến một thứ lương thực thiêng liêng trừu tượng, đến một thứ của ăn linh hồn đâu đâu, họ đành phải ngậm ngùi giã từ Ngài. Giã từ Ngài để trở về với “án phạt của tổ tông xưa”: đổ mồ hôi sôi nước mắt hầu có của nuôi thân. Lơ tơ mơ, vợ con ở nhà chết đói như chơi!
– Hạng người theo Chúa vì động cơ chính trị:
Danh vọng, quyền lực trần thế là điểm nhắm của những người này khi men theo dấu chân của Đức Giêsu. Bởi đó, khi thấy Đức Gêsu ban đầu xuất hiện như một Mêsia trần thế, làm nhiều điều hiển hách phi thường, họ tưởng Ngài sẽ làm một cuộc đại cách mạng lật đổ thế lực Rôma ngoại bang, đem lại hưng thịnh cho đất nước. Dù chưa dám nói ra, nhưng trong lòng họ vẫn nuôi hy vọng một ngày nào đó họ sẽ được đổi đời, sẽ thoát khỏi cái kiếp làm “phó thường dân” dài dài, nhờ vào cái ô dù to tướng của ông Giêsu này. Nói cách khác, đi theo Chúa Giêsu, chắc chắn sẽ kiếm được một chổ đứng, một địa vị nào đó để lên hương với đời và lên mặt với người.
Tuy nhiên, khi nghe Chúa Giêsu chỉ thao thao diễn giải về một thứ đạo lí phục vụ hi sinh, hiến thân quên mình…, họ cảm thấy thất vọng và đành rút lui trong trật tự.
– Hạng người theo Chúa vì xác tín rằng Chúa mới có Lời ban sự sống đời đời:
Tiêu biểu cho hạng người này là Nhóm Mười Hai. Dẫu rằng ban đầu, động cơ đi theo Chúa cũng còn rất trần tục: họ muốn kiếm “chút cháo” cho gia đình và “chút công danh sự nghiệp” cho bản thân… Nhưng khi được Chúa Giêsu thanh tẩy, gạn lọc, họ đã dần xác tín vào Ngài và đã đón nhận mạc khải của Ngài với trọn cả tâm hồn. Họ đã nhận ra Lời của Chúa Giêsu có khả năng mang lại sự sống đời đời và họ cũng tin nhận nguồn gốc thần linh của Chúa Giêsu, qua vị đại diện là Phêrô: “Bỏ Thầy con biết theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Chính Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa.” Và từ niềm xác tín đó, các ông đã chân thành tín thác đi theo Chúa trọn đời dù có phải chịu nhiều thử thách gian truân trong cuộc đời. Tất nhiên vòng nguyệt quế mà Chúa Giêsu hứa ban cho người chiến thắng đã thuộc về họ. Sự sống đời đời chính là phần thưởng lớn lao mà họ đã giành được nhờ Đấng đã ban sức mạnh cho họ.
Phần tôi thì sao? Tôi có được niềm xác tín như các tông đồ là “Bỏ Thầy con biết theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời” hay không?
Thực tế, nhiều người đã tự nguyện bỏ Chúa, bỏ ngày Chúa Nhật để đi theo tiếng gọi của tình ái, tiếng gọi của tiền tài, tiếng gọi của đủ thứ thú vui hưởng thụ… Hậu quả là một khi bỏ Chúa thì đời họ sẽ bơ vơ như cánh chim trong khung trời lộng gió. Một khi bỏ Chúa thì đời họ sẽ như chiếc thuyền dật dờ trên biển cả mêng mông. Một khi bỏ Chúa thì tương lai đời họ sẽ trở nên mịt mờ vô định. Và một khi bỏ Chúa thì đời họ sẽ như một cuộc hành trình cô đơn buồn bã.
Chớ gì trong mọi hoàn cảnh, chúng ta luôn chọn Chúa, chọn Chúa làm gia nghiệp đời mình. Để cuộc đời mình dẫu vẫn là một cuộc hành trình dài, vẫn là cánh chim trong khung trời lộng gió, vẫn như chiếc thuyền giữa biển cả mêng mông; nhưng trong cuộc hành trình đó, đã có Đức Giêsu Kitô đồng hành, cánh chim biết hướng bay, con thuyền có người lèo lái và cuộc đời chúng ta chắc chắn sẽ về tới bến bờ bình an hạnh phúc.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Chẳng nên ngạc nhiên nếu có lúc đức tin gặp khủng hoảng.
Cả lịch sử Cựu Ước đong đưa giữa tin và không tin.
Khi Đức Giêsu đến, người ta phải đứng trước một lựa chọn: tin hay không tin vào Lời Ngài, vào con người Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một kinh nghiệm về khủng hoảng đức tin nơi chính các môn đệ. Kinh nghiệm ấy thật gần gũi với con người hôm nay.
Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?
Đó là phản ứng của các môn đệ ngày xưa khi nghe Thầy Giêsu vén mở căn tính của Thầy. Thầy khẳng định mình từ trời mà xuống (Ga 6,38), và Thầy sẽ trở lại nơi Thầy đã ở trước kia (c.62), sau khi hiến mình chịu chết cho nhân loại (c.51) và nuôi nhân loại bằng chính máu thịt mình (c.53).
Hôm nay chúng ta vẫn có thể thấy chúng chướng tai. Mầu nhiệm Nhập thể, mầu nhiệm Tử nạn của Con Thiên Chúa, bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm Chúa về trời: đó vẫn là và mãi mãi là những mầu nhiệm khôn dò.
Phải yêu mến mới hiểu được, mới chấp nhận được.
Hôm nay vẫn có câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng, vì chướng tai, chướng cả với suy nghĩ và tình cảm của ta. Lời Chúa đòi tôi đi xa hơn và bắt tôi điều chỉnh lại mối tương quan đã có với Chúa.
Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Ngài nữa. Họ đã đi với Ngài một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng cuộc phiêu lưu này.
Trở nên môn đệ hay trở nên một Kitô hữu không phải là một bảo đảm chắc chắn mình sẽ trung tín mãi mãi với Đức Kitô.
Trở nên môn đệ là bước vào cuộc phiêu lưu, là khám phá ra một Đức Kitô luôn luôn mới, là để Ngài từ từ đưa ta đi sâu vào mầu nhiệm hơn.
Cuộc phiêu lưu nào cũng có chút rủi ro, cũng đòi chút liều lĩnh, vì đây là cuộc phiêu lưu của tình yêu, của lòng tin.
Đã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại cũng có kẻ phản bội. Để khỏi bỏ cuộc, cần bỏ mình…
Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?
Đại diện Nhóm Mười Hai, Phêrô bày tỏ thái độ ở lại. Không phải vì ông và các bạn hiểu được lời Thầy Giêsu, nhưng vì họ tin vào con người của Thầy, tin Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng đã cho dân ăn no nê, Đấng đã đi trên biển. Lòng tin này khiến họ chấp nhận cả những lời chướng tai.
Lời chướng tai là lời đem lại sự sống đời đời.
Nhiều bạn trẻ hôm nay cô đơn, nhưng không biết đến với ai. Hãy cùng nhau đến với và ở lại bên Thầy Giêsu, Ngài sẽ không làm chúng ta thất vọng.
Gợi Ý Chia Sẻ
“Giới trẻ hôm nay khó tin vào Thiên Chúa, vào Đức Kitô, vào tương lai tươi sáng, vào tình bạn bền lâu, vào tình yêu chung thủy…” Bạn nghĩ gì về nhận xét này? Nhận xét này có đúng cho giới trẻ ở Việt Nam không?
Ở một số nước phương Tây, đang rộ lên cả ngàn giáo phái. Người trẻ bị mê hoặc đến độ cuồng tín bởi các vị tự xưng là giáo chủ. Bạn nghĩ gì về hiện tượng này? Đâu là nguyên nhân và cách giải quyết?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa. Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa. Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái. Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
Đức tin là một con đường: con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một con đường dài. Vì ta sẽ phải đi suốt cuộc đời mới hết. Đường đức tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ và tiếng chim hót véo von. Đó là những khi niềm tin dâng đầy. Ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ Chúa, được Chúa an ủi, mọi sự diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải trải qua những quãng đường gian nan đầy chông gai sỏi đá. Ta gặp khó khăn thử thách. Ta gặp đau khổ thất bại. Ta không tìm đâu ra lối thoát. Ta như chìm trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh sáng nào soi đường dẫn lối. Đó là khi niềm tin bị thử thách, bị nghiêng ngả chao đảo. Ta cảm thấy mệt mỏi chán chường. Ta muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác. Ta bị cám dỗ tìm con đường dễ dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn.
Đó là trường hợp của những người Do Thái và một số môn đệ hôm nay.
Khi Đức Giêsu hoá bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi mừng vui. Họ tin tuyệt đối rằng Người chính là Đấng Cứu Thế đến cứu dân tộc Do Thái. Niềm tin của họ mạnh mẽ đến nỗi khi Đức Giêsu trốn đi, họ vẫn đuổi theo sát nút với ý định tôn Người lên làm vua cai trị họ.
Thế mà hôm nay, khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”, đám đông đã bỏ Chúa. Một số môn đệ cũng bỏ Chúa mà đi. Đức tin bồng bột tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước nay đã tan tành như mây khói. Sự gắn bó tưởng chừng như không gì chia cắt nổi bỗng trở nên nhạt nhẽo lạnh lùng. Đức tin gặp thử thách và họ đã không đủ mạnh tin để vượt qua thử thách. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín. Người không vì thế mà nói những lời nhẹ nhàng hơn. Đức tin phải trải qua thử thách. Lửa thử vàng, gian nan thử lòng trung tín. Chỉ có những người bạn trung thành qua những khó khăn mới là những người bạn đích thực. Chỉ có niềm tin kiên vững bất chấp mọi thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa.
Giữa cơn khủng hoảng ấy, thánh Phêrô đã đại diện nhóm 12 tuyên xưng niềm tin sắt đá vào Đức Kitô. Dù chưa hiểu những điều Đức Giêsu nói, nhưng các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào Người. Thế mới gọi là tin. Vì chưa thấy nên mới cần tin. Đã thấy rõ, đã biết rõ thì đâu cần tin nữa. Tuy nhiên niềm tin không phải là cái gì vô lý. Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều và sau khi chứng kiến Người đi trên mặt nuớc, các ông hoàn toàn có cơ sở để đặt niềm tin nơi Người. Đó là hai khía cạnh trái ngược của niềm tin. Tin là một ngọn đèn soi cho ta bước đi trong đêm tối. Ngọn đèn chỉ sáng đủ cho ta bước đi từng bước nhỏ trong niềm tin. Nhưng màn đêm vẫn tăm tối đủ cho ta nghi ngại. Chính vì thế mà niềm tin mới có giá trị và cần thiết.
Lời tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có giá trị trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng. Nhưng vẫn tin tưởng gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách đó mới thật sự là niềm tin chân chính.
Hành trình đức tin của chúng ta chắc chắn sẽ không khác hành trình đức tin của các Tông đồ. Có những thời gian thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt. Khi ấy Lời Chúa là những lời êm ái ngọt ngào làm phấn chấn lòng ta. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng. Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa.
Nhưng rồi tới những ngày u ám tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy Lời Chúa làm cho cuộc đời ta mất bình an. Lời Chúa gõ vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta. Lời Chúa gõ vào sức khoẻ ta. Lời Chúa gõ vào gia sản ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Tin Mừng hôm nay.
Trong những giờ phút gặp gian nan thử thách như thế, ta hãy nhớ đên những lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên xưng trong đau đớn thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Sự trung tín vượt qua được những cơn khủng hoảng mới minh chứng một tình yêu chân thực.
Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh dạn thưa với Chúa như thánh Phêrô: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời”. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đã có khi nào bạn cảm thấy niềm tin chao đảo, lung lay? Bạn đã làm gì để vượt qua những giờ phút khó khăn đó?
2- Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Bạn có xác tín điều đó không?
3- Sau khi những khó khăn qua đi, bạn nhìn thấy tất cả đều là ơn Chúa. Bạn có kinh nghiệm đó không?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Đoạn kết diễn từ của Chúa về Bánh ban sự sống dẫn ta tới đỉnh cuộc khủng hoảng, mà từ đó, sự Thương khó Đức Kitô sau này sẽ diễn ra. Chúa đã phán ra tất cả những lời buộc chúng ta phải chọn lựa, hoặc tin vào Người hoặc từ chối theo Người. Đoạn Phúc âm rất phong phú này đưa ta đến hai suy tư (trong các suy tư khác):
1) Tiếng xầm xì của một số môn đệ, sự vấp phạm, sự từ chối không tin của họ, được giải thích ở đây qua lý do cách thức họ hiểu Lời Chúa Giêsu. Dầu là họ từ chối không tin hay là đối với một số người ‘giờ’ chưa đến, họ cũng là những kẻ không hiểu được Lời Chúa trong Thánh Linh. Họ không vượt quá lên được một sự hiểu biết vật chất và xác thịt về các Lời đó. Tại sao? Tại vì lòng họ chưa ở trong tình trạng sẵn sàng đón nhận. Trí óc họ đóng cửa lại trước những gì mới lạ. Họ tự giam mình trong thế giới các sự việc ‘có thể’ đối với họ. Điều mà Chúa Giêsu nói đối với họ là ‘không có thể được’, nên họ gạt bỏ. Điều bất hạnh cho họ nằm ở trong một câu hỏi: có gì là ‘không thể được’ đối với Thiên Chúa? Ở đây, họ tỏ ra thiển cận, tự mình xét đoán lấy việc có thể hay không có thể. Họ không có được ý kiến phải tìm hiểu quan điểm người khác, những người thật đơn sơ thôi, song tức khắc đã nhận ra lối thoát đưa tới miền vô biên của thực tại, thực tại của Thiên Chúa. Nơi họ, chúng ta tìm thấy một trường hợp điển hình của óc tự mãn ngoan cố, hẹp hòi, xuất phát từ chối không muốn biết đến ‘bên kia’ của chân trời thấy được.
Các Tông đồ may mắn có thứ phản ứng đã cứu thoát họ. Được ân sủng bên trong của Thánh Linh hỗ trợ, họ khắc phục mọi khó khăn về hiểu biết bằng đức tin trung kiên của họ đối với Chúa Giêsu, bởi lẽ Chúa Giêsu là ‘Đấng Thánh của Thiên Chúa’.
2) Thái độ của phần đông các môn đệ đã bỏ Chúa, gợi lên cho chúng ta một vấn đề. Người ta đã nói rất nhiều đến não trạng ‘giảm thiểu’ về việc cắt nghĩa Thánh kinh hay kinh Tin Kính của Giáo hội. Nhất là sự hiện diện của Đức Kitô trong Thánh Thể lại là đối tượng của nhiều suy diễn đưa tới sự từ chối không nhận sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu.
Trong các loại suy diễn ấy, người ta gặp lại đúng cái não trạng của các môn đệ đã bỏ Chúa, vì họ cho rằng những điều Chúa nói là không thể nào quan niệm được. Não trạng ấy khổ sở vì sự bất lục không ra khỏi được những vùng của những cái gọi là có thể đối với con người, để tiến vào những vùng cao trọng hơn của những cái gọi là có thể đối với Thiên Chúa. Do đó, có những nỗ lực hăng say để ‘giảm thiểu’ sự hiện diện của Đức Kitô trong phép Thánh Thể thành một thứ gì mù mờ bao bọc bằng uy tín của các đại danh từ triết học.
Phần chúng ta, chúng ta thử ở lại bình tĩnh và cương quyết trong đức tin của chúng ta. Điều cần thiết là chúng ta phải biết tìm cách soi sáng đức tin ấy và phát biểu nó ra bằng thứ ngôn ngữ hiện đại. Nhưng sự thể là cuối cùng, chúng ta phải đi tới cho chấp nhận giáo huấn rất cương nghị của Giáo Hội và chúng ta chỉ có thể thực hiện điều này nếu chúng ta đón nhận giáo huấn ấy ‘trong Thánh Linh’, ở trình độ mà quan niệm nhân sinh cho là ‘không thể được’…
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cha Maurice Zundel đã kể một câu chuyện: Trong căn phòng chỉ còn lại hai người: linh mục phụ trách tu viện và viên sĩ quan Xô Viết. Viên sĩ quan nói: Hiện giờ chỉ có hai chúng ta. Ông và tôi, không một ai chứng kiến. Vậy ông hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả. Hãy nói cho tôi biết là ông không tin vào tất cả những chuyện về Chúa, Mẹ, trong tôn giáo mà ông vẫn tuyên xưng phải không?
Linh mục đáp: Có, tôi tin chứ!
Viên sĩ quan buông súng xuống, ôm chầm lấy người linh mục. Ông reo lên: Quả thật, đây là điều tôi trông đợi. Đây là người tìm kiếm. Vâng, thưa cha, bây giờ thì tôi cũng thế: Tôi tin Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Có lẽ vị linh mục trong tu viện đó đã từng xác định sự chọn lựa đi theo Chúa của mình, nên cha mới có được một phản ứng dứt khoát, kiên trung, điềm nhiên đến như thế. Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta xác định lại sự chọn lựa của chúng ta.
Bài đọc 1 đã cho ta thấy, bốn mươi năm về trước, dân Do Thái đã cam kết chọn Thiên Chúa trong Giao Ước tại núi Sinai. Nhưng hôm nay họ đã đặt chân và Đất Hứa, nhưng năm tháng rong ruổi trong sa mạc đã qua, những ngày tháng đói khát thiếu thốn đã chấm dứt, và từ nay họ bắt đầu cuộc sống định cư, đất đai phì nhiêu, cuộc sống thoải mái. Trước hoàn cảnh mới này, niềm tin của họ có còn mạnh mẽ sốt sắng như xưa hay đã sớm bỏ quên Chúa để chạy theo các thần địa phương. Ông Giôsê, mà cả toàn dân đã nói lên sự chọn lựa dứt khoát: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác”.
Khi Chúa Giêsu làm phép lạ bánh hoá nhiều, dân chúng theo Chúa rất đông. Nhưng từ phép lạ ấy, Chúa dẫn họ đến lương thực hằng sống: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời”. Nhưng họ cho rằng “lời này chói tai quá, ai mà nghe được”. Nên từ lúc đó, có nhiều người rút lui không còn theo Chúa nữa. Bấy giờ Chúa đặt thẳng vấn đề với nhóm Mười Hai: “Cả anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Nhưng Phêrô đã đại diện các Tông Đồ xác định sự chọn lựa của mình: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh”.
Thưa anh chị em,
Sống trong một thế giới đổi thay không ngừng, con người dễ bị lôi kéo vào thái độ thay lòng đổi dạ. Ngày nay con người gặp nhiều thứ khủng hoảng, trong đó khủng hoảng về lòng trung thành là một vấn đề quan trọng. Các hợp đồng kinh tế bị vi phạm, giao ước hôn nhân bị đổ vỡ, tình bạn bị phản bội. Ngay cả các Kitô hữu nhiều lúc cũng bị cám dỗ bỏ Chúa hoặc không sống đúng ơn gọi của mình, nhất là khi đứng trước một biến cố hay một hoàn cảnh; một thử thách hay một cám dỗ; một nỗi buồn hay một niềm vui… Xã hội Việt Nam hôm nay đổi thay từng ngày, và sự đổi thay nhanh chóng ấy đang tác động mạnh trên đời sống đức tin của các Kitô hữu. Ảnh hưởng tích cực có, mà tiêu cực cũng nhiều. Khá nhiều Kitô hữu trước kia là những người đạo đức, nhưng nay không còn đứng vững trước sức tấn công của nền kinh tế thị trường, của tiền bạc, lạc thú, công việc kinh doanh. Có những người đang từ nghèo thành giàu mà quên Chúa. Và ngược lại, một số khác đang từ giàu thành nghèo cũng bỏ Chúa. Nhiều người không còn muốn bước theo Chúa vì không thể chấp nhận được những nỗi ô nhục của thập giá trong đời mình. Cũng như những người không còn muốn trung thành với giáo huấn của Hội Thánh vì “lời này chói tai quá, ai mà nghe cho nổi?” Người môn đệ Chúa Kitô cần xác định lại để trung thành bước theo Chúa.
Từ lòng trung thành với Chúa sẽ dẫn đưa con người đến lòng trung thành với nhau, nhất là trong đời sống gia đình. Đời sống gia đình hôm nay của đang gặp khủng hoảng. Người ta cam kết thề hứa trung thành suốt đời, nhưng chỉ đi với nhau một đoạn đường ngắn để rồi sau đó chia tay nhau. Thánh Phaolô hôm nay mời gọi các bậc vợ chồng ngước nhìn lên mầu nhiệm Chúa Kitô yêu thương Hội Thánh để trung thành trong tình yêu hôn nhân.
Anh chị em thân mến,
Chúa muốn chúng ta trung thành và chúng ta cũng muốn trung thành. Nhưng trung thành bước theo Chúa không phải là điều dễ dàng. Quả vậy, có những lúc ta cảm thấy mình quá yếu đuối, tầm thường, quá bé nhỏ mỏng manh trước sức tấn công của thử thách, của cám dỗ, của tiện nghi vật chất, tiền bạc, thú vui sắc dục, danh vọng, quyền lực…. Chỉ có ơn Chúa mới có thể giúp ta trung thành đi theo Chúa: “Thần Khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì… không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơi ấy cho”. Thánh Phêrô đã nhìn lên Chúa, để tiếp tục chọn lựa đi theo Chúa: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh” Quả thực, Thánh Phêrô đã cảm nhiệm được Lời Chúa là ánh sáng, là niềm vui, là sự sống và Ngài đã an tâm tín nhiệm vào Chúa. Cũng thế, ở đại hội Sikem, dân Do Thái kiên quyết chọn Chúa vì đã nhận biết những việc kỳ diều Chúa đã làm khi giải phóng họ khỏi nô lệ Ai Cập và đưa về Đất Hứa.
Mỗi người chúng ta hôm nay phải đích thân nói lên lời cam kết trong ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi hôn nhân hay ơn gọi dâng hiến. Chúng ta muốn chọn lựa một cách dứt khoát và vĩnh viễn, dù hôm nay ta chưa biết hết được những gì sẽ đến trong ngày mai. Sự chọn lựa ấy đòi ta tín trung. Và để tín trung trong ơn gọi, ta cần bắt đầu lại mỗi ngày, chỗi dậy mỗi ngày để “trung thành với tình yêu ban đầu” (Kh 2,4).
Chúa Giêsu Thánh Thể tự hiến trên bàn thờ và ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế chính là bằng chứng của tình yêu trung thành. Chúa là nguồn sự sống luôn luôn tươi mới và là nguồn động lực để ta mãi mãi trung thành đi theo Chúa.
John là một người thanh niên, chàng lần lần rời xa Giáo Hội. Chàng không đi lễ nữa, không chịu các bí tích. Trong thế chiến thứ hai, khi chàng đăng ký nhập ngũ, sự lo âu của mẹ chàng tăng thêm: Nếu chàng bị chết thì sao? Linh hồn chàng sẽ ra sao? Khi chàng chuẩn bị lên đường. Mẹ chàng nói với chàng: “John ơi, mẹ muốn con làm cho mẹ một việc”. John hỏi: “Cái gì đó, mẹ?”. “Mẹ muốn con đọc ít nhất mỗi ngày 1 lần kinh Kính Mừng. Hãy đọc, bất kể con bận hay con mệt tới mức nào”. Một chút do dự, John đã hứa.
Trải qua năm, tháng. Những bức thơ của John thưa dần. Một ngày kia một bức thơ của cha tuyên úy cho hay John bị thương nặng và chàng đã xin chịu các phép bí tích. May mắn, John bình phục. Trong bức thơ đầu về nhà, chàng viết: “Mẹ ơi, cám ơn mẹ đã bảo con làm lời hứa ấy. Con đã giữ. Mỗi lần có dịp con đi lễ và rước lễ”.
Mỗi vị linh mục đều đã nghe những câu chuyện như thế. Nó làm tôi nghĩ ngay: Dẫu một linh hồn trôi dạt xa Chúa bao xa. Nếu họ giữ một liên hệ nào đó với Chúa dù chỉ một kinh Kính Mừng một ngày, có hy vọng và có cơ may linh hồn ấy sẽ dần tìm đường trở về với Chúa.
Như rất nhiều người Công giáo ngày nay, John đã bắt chước những người môn đệ trong Tin Mừng hôm nay: Họ không đến với Chúa nữa. Những môn đệ ấy từ chối tin rằng Đức Kitô có thể lấy thịt sống của riêng Ngài cho họ ăn, Máu Ngài cho họ uống. Dẫu rằng họ đã thấy với 5 cái bánh, Đức Giêsu đã làm cho 5.000 người ăn no và họ đã thấy Người đi trên mặt nước.
Hầu hết những lý do người Công giáo xa lìa Giáo Hội có liên quan tới điều này. Thí dụ: “Thánh Lễ không liên hệ đến tôi”. Họ muốn nói Thánh Lễ không cho họ một rung động thể lý hay xúc cảm. Họ làm gì thay vào đó? Không làm gì cả. Kinh nghiệm cho thấy những người như vậy thường không đọc lấy một kinh, điều đó không lạ. Họ phải nói điều các Tông đồ đã nói với Chúa Giêsu: “Chúng con biết theo ai?”. Điều này áp dụng đặc biệt cho người Công giáo kết hôn ngoài Giáo Hội, và họ không thể lãnh các bí tích. Hầu hết mọi nơi, họ chẳng làm gì cả.
Quan điểm của tôi là người ta phải làm cái gì họ có thể làm được, điều này đem lại sự nâng đỡ và ơn của Chúa.
Đây là mấy đề nghị: Hãy đọc kinh “Lạy Cha”, kinh “Kính Mừng”. Hãy cầu nguyện bằng ngôn ngữ của riêng bạn như: “Lạy Chúa, xin giúp con làm mọi cái con có thể, để làm vui lòng Chúa”.
Bạn để ý cho con em của bạn để chỉ dạy về tôn giáo. Chính bạn phải dạy chúng. Hãy tham gia công việc của họ đạo. Bố thí cho người nghèo, người túng thiếu. Hãy giữ luật Chúa, những luật bạn có thể giữ được.
Rất thường xảy ra là một người Công giáo, khi họ nghĩ họ không thể giữ một giới răn nào đó của Chúa, họ sẽ gác bỏ tất cả mọi giới răn của Chúa qua một bên.
Bạn hãy làm những gì bạn có thể làm được, nhất là cố gắng tham dự Thánh Lễ mỗi ngày Chúa Nhật. Nếu bạn không thể rước lễ, bạn hãy rước lễ thiêng liêng. Nghĩa là bạn hãy thưa với Chúa Giêsu rằng bạn muốn rước Người vào trái tim bạn. Hãy thưa với Người rằng bạn hối hận vì tội lỗi của bạn, bạn ước ao Người đến với bạn một cách thiêng liêng. Bạn đón tiếp Người.
John trong câu chuyện chỉ làm một việc rất nhỏ là đọc mỗi ngày một kinh Kính Mừng. Chúa đã thưởng anh. Bạn hãy làm những gì bạn có thể làm được. Chúa sẽ thưởng bạn.
Xin Chúa chúc lành bạn.
Một người vô tín ngưỡng dừng chân ở một nông trại bên Hòa Lan, anh lớn giọng với ông chủ trại:
– Chẳng bao giờ tôi tin điều gì tôi không hiểu.
Ông chủ nông trại nói:
– Điều này khó đấy. Này nhé, thí dụ trong trại này, cậu có thấy đống cỏ không? Ngựa của tôi ăn cỏ, lớn lên lông nó mọc khắp mình. Con cừu ăn cỏ, thế là nó có len. Con ngỗng của tôi ăn cỏ, cả mình nó đầy lông vũ. Cậu có hiểu tại sao không nào?
Thực vậy, cho dù thông minh uyên bác đến mấy, người ta cũng không thể hiểu rõ toàn bộ những hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên. Một số kiến thức khoa học, chúng ta cũng chỉ nghe nói lại chứ đâu phải ta đích thân thí nghiệm và biết cặn kẽ chính xác. Vậy mà chúng ta vẫn tin. Chúng ta tin có vi trùng, tin trái đất tròn, tin nước gồm hai thành phần khí hợp lại…
Từ lãnh vực tự nhiên bước sang siêu nhiên cũng vậy. Không ai hiểu được các mầu nhiệm trong đạo. Chúng ta tin là vì Chúa dạy, vì Chúa thấu suốt mọi sự và cũng vì yêu thương ta, Chúa đã tỏ bày cho chúng ta. Đó là căn bản của mọi niềm tin.
Mầu nhiệm Thánh Thể là mầu nhiệm mà Chúa Giêsu đích thân dạy dỗ. Thánh Gioan đã nghe và tường thuật cho chúng ta khá đầy đủ. Nhưng chính Gioan cũng như đa số người nghe Chúa, không ai hiểu hết được. Họ đã chia ra làm hai phe. Một phe tỏ ra khó chịu, cho rằng những lời này làm chói tai, họ đã bỏ đi. Một phe thiểu số còn lại cũng không hiểu gì mấy, nhưng vẫn tin vào Chúa vì tin Ngài là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa hằng sống. Chúa biết trình độ hiểu biết hữu hạn của con người, kể cả những nhà hiền triết Đông Tây, nên Chúa đòi hỏi phải có lòng tin, tin vào Lời Ngài.
Thầy nhiều người bỏ đi, Chúa buồn lắm, nhưng Chúa không rút lại lời đã khẳng định. Chúa cũng không níu kéo họ, vì lòng tin phải được biểu lộ hoàn toàn tự do. Niềm tin đòi hỏi ta vượt trên ánh sáng khoa học. Không phải chỉ học hỏi về lòng tin mà là dấn thân, là thực hành trong cầu nguyện, trong việc đón nhận lời mạc khải từ Thiên Chúa. Lắng nghe Lời Chúa và làm theo Lời Chúa dạy, từ đó sẽ có lòng tin, một lòng tin chính Chúa ban tặng cho. Lòng tin vào Thánh Thể, có thể nói được là lòng tin trung tâm của đời sống Kitô hữu đến nỗi người ta thường gọi người giữ đạo là những người có đi lễ. Lòng tin vào Thánh Thể gồm hai khía cạnh rõ rệt: thứ nhất là ăn bánh sự sống; thứ hai là chia sẻ sự sống Đức Kitô, Ngài là tình yêu hiện thực.
Lòng tin như thế, nhất thiết phải xây dựng trên Lời Chúa, phải tiếp nhận Lời Chúa với lòng mến yêu tôn kính. Vì “Lời Chúa là Thần Trí và là Sự Sống”. Đó là một tâm tình cần phải có khi đọc Tin Mừng. Chúa Giêsu thường được kể là một vĩ nhân, một học giả, một ngôn sứ, một nhà giải phóng… Nhưng còn hơn thế nữa, Chúa là Thiên Chúa yêu thương.
Lạy Chúa, bỏ Ngài, chúng con biết theo ai? Vì Ngài có những lời hằng sống. Chúng con tin nhận Ngài là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Xin thêm lòng tin cho chúng con và giúp chúng con chia sẻ tình thương Chúa cho mọi người trong cuộc sống bác ái hôm nay.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
* Biết theo ai bây giờ?
Trong phần cuối diễn từ về bánh trường sinh, Ðức Giêsu vẫn tiếp tục khẳng định: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6,54; x. 6,55-58). Câu nói này không chỉ làm cho người Do-thái bực mình, mà ngay cả các môn đệ cũng cảm thấy bối rối. Các ông sửng sốt vì lời tuyên bố của Ðức Giêsu. Các ông cũng lấy làm chướng tai, và các ông cũng phản đối. Một số người không muốn nghe những lời như thế nữa, họ rút lui.
Tại sao thế?
Ðiều này cũng dễ hiểu. Từ lâu họ vẫn hy vọng sẽ được chứng kiến những giây phút vinh quang của Thầy lẫn trò, nhưng Ðức Giêsu đã bỏ qua cơ hội ấy. Ðang khi dân chúng vui mừng vì được ăn bánh no nê và muốn tôn Người làm vua, Ðức Giêsu đã chẳng lợi dụng lòng nhiệt thành ấy để đăng quang: Người đã giải tán dân chúng và cả các môn đệ nữa.
Lúc này, câu nói của Ðức Giêsu tạo nên phản ứng không chỉ nơi dân chúng mà cả các môn đệ nữa. Các ông có cảm tưởng như gió đã xoay chiều, và các ông cảm thấy chán nản.
Về phần Ðức Giêsu, Người vẫn kiên định với những điều Người vừa tuyên bố. Người hỏi những người thân đang vây quanh: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”
Ðức Giêsu là ai mà vẫn cương quyết không lùi bước ngay cả khi nhìn thấy sự cô đơn hoàn toàn, tức là thất bại?
Trước câu hỏi của Ðức Giêsu, ông Phê-rô đã thay mặt cho Nhóm Mười Hai để trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?” Câu trả lời này chẳng làm sáng tỏ thêm mầu nhiệm sâu xa vừa được tỏ bày. Có thể coi câu trả lời ấy diễn tả rõ thái độ bối rối. Nếu như giữa Ðức Giêsu và các tông đồ không có những tương giao vốn được kiến tạo dần dần, thử hỏi rằng câu trả lời ấy còn cho thấy tình trạng bi đát như thế nào?
Tuy vậy, câu trả lời của ông Phê-rô cũng xuất phát từ lòng khiêm tốn, nên do đó còn là tiếng nói của lòng tin. Ðây không phải là lòng tin mù quáng vì dựa trên xác tín những lời của Ðức Giêsu phải có một ý nghĩa nào đó, mặc dù người nghe chưa hiểu. Thế nhưng lòng tin này phải lần lần bước trong bóng tối, phải trải qua những thử thách mới đạt tới mức hoàn hảo.
Như thế, ngày nay cũng như ngày xưa, con người luôn có những lý do để nghi ngờ, để đặt thành vấn đề. Ðối với những ai Người muốn lôi kéo về phía mình, Thiên Chúa không bao giờ làm cho con đường trở thành dễ dàng hơn. Ai muốn viện cớ những khó khăn để trốn tránh, để che giấu chính mình, người ấy làm một điều vô ích. Nhưng liệu mỗi người, với những kinh nghiệm đã trải qua, có thể nói lên như ông Phê-rô: “Chúng con biết theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.”
* Sự chọn lựa gay gắt
“Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa.”
Lạ lùng quá! Tại sao Ðức Giêsu lại nói với đám đông những lời lẽ như thế? Hôm qua, họ là năm ngàn người, họ sẵn sàng làm thành một đạo binh đi theo Người. Còn Người lại nói cho họ rằng thân xác Người là của ăn và máu Người là của uống. Chẳng lẽ Người coi họ là những kẻ ăn thịt người?
“Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”
Thái độ của Ðức Giêsu lạ quá! Người đến để loan báo lời ban sự sống, và Người nói lên như một lời mời. Vậy mà những kẻ thân cận với Người lại không hiểu được lời ấy, và những ai nghĩ rằng Người là Ðấng Mê-si-a, là Ðấng cứu độ Ít-ra-en lại lấy làm chướng tai.
Hôm trước, Người đã làm cho bánh hoá ra nhiều. Một hành động rất lạ, đám đông chưa bao giờ được chứng kiến. Tất cả đám đông được ăn no. Họ không rời bỏ Người, cứ bám riết lấy Người. Người đi đâu, họ đi theo đó. Nếu ngày nào Người cũng làm như thế thì tuyệt biết mấy. Phải rồi, Người là Vua.
Thế nhưng, vương quyền của Ðức Ki-tô khác hẳn điều họ vẫn mong ước: “Thật tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi… vì các ông được ăn bánh no nê.” Người có ý nói: bánh tôi đem đến là điều gì khác chứ không phải thứ bánh các ông ăn hôm qua. Lời Người nói làm một số người tức giận, số khác lại thất vọng. Tuy vậy, lời của Người buộc họ phải đáp trả, phải chọn lựa, hoặc là “tôi không tin và tôi bỏ đi”, hay là “tôi tin và tôi ở lại!”
Một số môn đệ đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai ở lại. Các ông ở lại, nhưng phải chăng các ông đã hiểu được Ðức Giêsu và lời Người nói? Có thể các ông không hiểu, nhưng ít là các ông cảm thấy vấn đề Ðức Ki-tô nêu lên thật thiết yếu. Sau này, vấn đề trên sẽ được đặt ra lại theo một hình thức khác: “Phần anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Khi đó ông Phê-rô đã nhân danh những người khác thưa lại: “Thầy là Ðấng Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống.”
Ðức Giêsu vẫn tiếp tục nêu lên câu hỏi ấy với mỗi người: Anh em có ở lại không? Anh em sẽ đi đâu? Anh em chọn bánh đem lại sự sống hay chọn bánh lúa mì?
Chọn lựa này chính là cao điểm trong cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và loài người. Họ đã đọc Tin Mừng, nhưng liệu họ có sẵn sàng mở rộng tâm hồn để Thần Khí làm cho sống? Họ biết rằng con đường phải đi qua thập giá, phải xuyên qua việc trao tặng cuộc sống của chính mình trong suốt mọi ngày. Họ cũng biết rằng con đường ấy bao hàm nhiều niềm vui đồng thời cũng đòi buộc nhiều từ bỏ. Nhưng họ có dám bước đi trên con đường đó?
Thật không gì rõ ràng hơn! Quả là một thử thách lớn chứ không phải chỉ là chấp nhận ở đầu môi mà không liều mạng. Câu hỏi Ðức Ki-tô nêu lên thật cấp thiết. Câu hỏi ấy đã làm cho một số môn đệ rút lui. Câu trả lời của mỗi người cũng rất quyết liệt: nó đưa cả cuộc sống của mỗi người vào đó.
* Vẫn có những khoảng tối
Nói cho cùng, Ðức Giêsu quả là một vị Thầy làm cho các môn đệ phải lúng túng. Từ trước đến giờ, Người đặt tất cả lý lẽ trên từ ngữ “thịt”. Phải ăn thịt Người mới được sống đời đời. Lúc này, Người lại kết luận: “Chính tinh thần mới làm cho sống, xác không ích lợi gì.” Rồi cả xác thịt lẫn máu huyết cũng không thể đưa đến lời tuyên xưng: “Thầy là Ðấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
Như thế, phải đợi đến khi Ðức Giêsu phục sinh, thịt và máu mới đạt được ý nghĩa chung cuộc, mới được đón nhận trong lòng tin dứt khoát, “khi anh em thấy Con Người ngự trên nơi Người vẫn ngự trước kia…”
Vì vậy, chúng ta phải đối diện với mầu nhiệm lớn lao này. Tất cả đều tùy thuộc vào lòng tin của chúng ta, vào thái độ của chúng ta đối với Tin Mừng cũng như vào cuộc chiến đấu của chúng ta chống lại những thói quen, những xơ cứng trước bí tích thịt và máu Ðức Giêsu. Nếu không ý thức, cuộc gặp gỡ của chúng ta với Ðức Giêsu sẽ rất nhạt nhẽo, vô vị, và chúng ta sẽ cảm thấy ngại ngùng trước những lời tuyên bố của Ðức Giêsu.
Chấp nhận làm môn đệ Ðức Giêsu là chấp nhận đi trong lòng tin. Chấp nhận Mình và Máu Ðức Giêsu là chấp nhận đi theo Ðức Kitô, trong khi vẫn được bổ dưỡng nhờ bánh Người ban tặng, và chỉ nương tựa vào một mình Người. Mỗi người Ki-tô hữu vẫn có những khoảng tối, nhưng đó lại là một tiếng kêu hướng lên Chúa Cha, là một lần xác tín vào Ðức Giêsu, Ðấng có lời “đem lại sự sống đời đời.”
(Suy niệm của Như Hạ, OP)
Trên bước đường theo Chúa, các môn đệ gặp rất nhiều thách đố từ ngoại cảnh hay nội tâm. Có bao giờ họ có thể tưởng tượng chính Chúa lại trở thành thách đố lớn nhất? Thế mà hôm nay, khi lên tiếng đòi hỏi một niềm tin lớn lao về quyền năng Thiên Chúa, chính bản thân Ðức Giêsu đã trở thành một vấn đề khó vượt nhất, vấn đề có tính cách quyết định cho cả định mệnh con người, vì liên quan tới chính sự sống nhân loại.
NGUỒN SỐNG
Trước bao nhiêu đe dọa mạng sống, con người cảm thấy bất lực. Những sản phẩm tử thần phơi bày nhan nhản khắp nơi. Trươc tình cảnh ấy, Ðức Giêsu xuất hiện như một nguồn sống: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời.” (Ga 6:54a) Lời đề nghị vô cùng lạ lùng, chưa từng nghe thấy bao giờ. “Nghe vậy nhiều môn đệ của Người liền nói: ‘Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60) Người trở thành đối tượng của lời xầm xì. Kết quả nhiều môn đệ đã theo Người lâu năm, cũng đành giũ áo ra đi (x. Ga 6:66). Tưởng việc ra đi đó sẽ khiến Người đổi thái độ. Nhưng không, Người vẫn không hề nao núng, dù chỉ còn ít người ở lại: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6:67) Thật là căng thẳng! Thật là một thách đố lớn!
Trước sự im lặng đến ngộp thở, ông Phêrô lên tiếng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Ðấng Thánh của Thiên Chúa.” (Ga 6: 68-69) Chính Chúa Cha đã mạc khải tất cả sự thật về Chúa Con. Thật vậy, “Không ai đến được với Thầy, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.” (Ga 6:65) Bởi đó, niềm tin là một ân sủng vô cùng cao quí. Ðến với Ðức Giêsu tưởng như một hành vi đơn giản. Thực tế phải có một sức mạnh nội tại phát xuất từ Thiên Chúa, chúng ta mới có thể tin vào Lời Chúa và sự hiện diện đích thực của Chúa nơi con người Ðức Giêsu và nhất là trong bí tích Thánh Thể.
Ðức Giêsu hiện diện thật trong bí tích Thánh Thể. Nhưng sự hiện diện đó vẫn khác với sự hiện diện trong thân xác tại thế của Ðức Giêsu. Nói khác, “thịt và máu” chỉ hiện diện một cách bí tích trong “bánh hằng sống”. Ðây là một sự hiện diện sâu xa và đích thực. Bên ngoài chỉ là một tấm bánh hay một chén rượu. Nhưng dấu chỉ bên ngoài đó nói lên sự thật lớn lao bên trong. Ðức Giêsu trở thành của ăn thức uống nuôi sống muôn dân khỏi cơn đói khát thiêng liêng. Bởi đó lấy sự hiểu biết bình thường để đo thực tại Thiên Chúa, con người sẽ bất lực. Trái lại phải có sức mạnh Thần khí mới có thể hiểu nổi Lời Chúa. Thực vậy, “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.” (Ga 6:63) Bản chất Lời Chúa là thần khí mà lại lấy con mắt xác thịt để nhìn, thật là không cân xứng. Xác thịt chỉ dẫn đến xác thịt, hoàn toàn bất lực trước những đòi hỏi của Thần khí. “Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống.” (2 Cr 3:6)
Những người còn ở lại với Chúa vì đã chấp nhận Lời Chúa và tin vào sự hiện diện đích thực của Người trong “bánh hằng sống”. Họ đã hiểu Lời Chúa dưới lăng kính Thần khí. “Ai không có Thần Khí của Ðức Kitô, thì không thuộc về Ðức Kitô.” (Rm 8:9) Ðó là lý do tại sao “nhiều môn đệ rút lui” (Ga 6:66) và nhiều người “lấy làm chướng” và “xầm xì về vấn đề ấy.” (Ga 6:61) Thần Khí sẽ làm im bặt mọi tiếng xầm xì và nghi hoặc, vì Người chính là sức mạnh của Chúa Cha kéo ta lại gần Ðức Kitô. Thần Khí không pha chút vẩn đục mới thấy hết được chiều sâu Lời Chúa. Xác thịt không có độ trong suốt đó để thấy tất cả sự thật. Thách đố chính là cuộc đối đầu giữa Thần Khí và xác thịt. Người môn đệ Ðức Giêsu luôn bị đặt trước sự lựa chọn.
Ngày xưa, dân Do thái cũng đứng trước lựa chọn lớn lao đó. Ông Giôsuê đã lên tiếng trước toàn dân: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Ðức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ… Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa.” (Gs 24:15) Giữa bao nhiêu cám dỗ, dân Do thái đã có lúc nghiêng ngả. Ðã đến lúc họ phải dứt khoát. Ông Giôsuê “đã cho họ một cơ hội để canh tân giao ước Sinai (Xh 19-24)” (Faley 1994:557) Họ đã nhớ lại tất cả sự nghiệp hiển hách Chúa đã làm trên đường về Ðất Hứa. Tất cả đều lặp lại lời tuyên xưng đức tin như ông Giôsuê: “Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.” (Gs 24:18b) Tất cả lịch sử Do thái đều xây trên lời tuyên tín này. Như vậy ông Giôsuê đã chinh phục được toàn dân về cho Chúa. Nhưng suốt lịch sử không phải lúc nào niềm tin cũng trong sáng như vậy. Cuộc thách đố không bao giờ chỉ đến một lần. Trái lại, cuộc phấn đấu dai dẳng suốt bốn mươi năm trên sa mạc là cuộc phấn đấu với niềm tin.
NHỮNG SỰ KIỆN TRÁI NGƯỢC
Các môn đệ Ðức Giêsu còn phải phấn đấu cam go hơn nữa khi Ðức Giêsu đòi hỏi phải tin “ai ăn thịt tôi và uống máu tôi…” (Ga 6:54) Ngày xưa, sau khi Người công bố về bánh hằng sống, “nhiều môn đệ rút lui.” (Ga 6:66) Ðức Giêsu đã dám đánh đổi cả sự nghiệp lấy niềm tin đó. Giả sử lúc đó Chúa cũng chiều theo thị hiếu quần chúng, thử hỏi hôm nay Người còn độ hấp dẫn không?
Chính vì niềm xác tín lớn lao đó, ngày nay Giáo hội vẫn còn là điểm thu hút giới trẻ về với Ðức Giêsu. Bằng chứng gần 3 triệu bạn trẻ khắp thế giới đã tề tựu về Roma trong ngày Quốc Tế Giới Trẻ từ ngày 15 đến 20 tháng 8 năm 2000 để lắng nghe Lời Chúa và tìm kiếm Ðức Giêsu. Một biến cố lớn lao vượt ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Các bạn trẻ đã tuốn về Roma với niềm phấn khởi hân hoan. Họ đã đi bộ hằng chục cây số để vác tượng thánh giá theo gót Ðức Giêsu. Họ đã quì gối giữa phố xá để cùng đọc kinh Truyền tin lúc 12 giờ trưa giữa những tiếng chuông nhịp nhàng nơi kinh thành ánh sáng đó. Ðể chuẩn bị cho ngày Ðại Hội, hằng chục ngàn bạn trẻ đã phải làm việc mệt nhọc hằng tháng hay hằng năm trước. Các bạn trẻ hoàn toàn thoải mái vì được ăn uống ngủ nghỉ hoàn toàn miễn phí. Ðại hội đã chuẩn bị 9 triệu bữa ăn cho các bạn trẻ. Có đủ dịch vụ y tế và vệ sinh đáp ứng nhu cầu của các bạn. Các nhà dân chúng ở Roma đã mở rộng cửa đón tiếp các bạn. Cả Ðức Giáo Hoàng cũng đón tiếp 15 bạn trẻ vào ở chung với Người. Nhiều bạn trẻ thuộc thế giới thứ ba đã được bao vé máy bay về Roma. Các ân nhân đã đóng góp 3.5 triệu đô la giúp đỡ các bạn trẻ. Thật là một ngày vui lớn có tầm mức quốc tế. Niềm vui có thể đo lường được bằng những màn hội diễn văn nghệ, nhảy múa, ca hát. Tất cả đều tìm thấy nhau trong niềm vui hòa hợp với nhau và nhất là với Thiên Chúa. Có khoảng 2.000 linh mục sẵn sàng đáp ứng nhu cầu hòa giải nơi 300 tòa cáo giải ngay tại quảng trường Colossê.
Cũng trên chính quảng trường đó, trước đó hơn một tháng, nghĩa là ngày 8 tháng 7 năm 2000, một cảnh tượng trái ngược đã diễn ra. Cũng một Ðại Hội Giới Trẻ. Cũng vào đầu thế kỷ 21. Những chuẩn bị cũng rất công phu. Ước vọng cũng rất lớn. Người ta hi vọng một triệu người trẻ đồng tính luyến ái sẽ qui tụ về Roma để biểu tình phản đối Tòa Thánh Vatican. Kết quả sau những ngày kêu gọi ầm ĩ và chuẩn bị rầm rộ, chỉ non 7000 bạn trẻ tham dự. Còn đâu hứa hẹn tự do đáp ứng mọi nhu cầu ăn chơi của tuổi trẻ bằng thế giới những người đồng tính luyến ái? Các bạn trẻ không nghe thấy tiếng kêu gào của những người tổ chức hay sao? Trong khi đó, một tiếng kêu gọi của một cụ già 80 tuổi đã được các bạn trẻ đón nhận nồng nhiệt. Gần 3 triệu bạn trẻ nghe tiếng nói của lẽ phải. Chưa tới 7000 nghe theo những hò hét điên cuồng. Nguyên con số cũng cho thấy thất vọng về tuổi trẻ là một sai lầm. Tuổi trẻ là niềm hi vọng lớn lao!!!
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Bốn bài giảng liên tiếp về Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu đã tạo ra nhiều phản ứng nơi những cử toạ Do thái. Khi Ngài tiết lộ cho họ biết Ngài có Bánh hằng sống, ăn vào sẽ không đói khát nữa, họ bèn xin Ngài cho họ thứ bánh đó. Tiến thêm một bước, Ngài cho họ biết Bánh đó chính là Ngài từ trời xuống, họ có phản ứng chống lại ngay vì họ cho rằng Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giuse ở Nazareth, làm sao lại có chuyện đó được? Nhưng khi Đức Giêsu cho họ biết Bánh Hằng sống đó chính là thịt máu Ngài, phải ăn thì mới có sự sống trong mình, thì họ có phản ứng kịch liệt vì họ cho đây là một việc tởm gớm, không thể chấp nhận được. Thậm chí cả một số môn đệ cũng có phản ứng tương tự: ”Lời này chướng tai quá, ai mà nghe được”. Kết quả là một số môn đệ bỏ đi, không theo Ngài nữa.
Sau thất bại tàn tệ đó, Đức Giêsu quay sang nhóm Mười Hai, là những người thân tín nhất, xem họ có thái độ thế nào? Rất may, ông Phêrô đã thay mặt cho nhóm Mười Hai thưa ngay với Ngài rằng:”Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Như vậy, các Tông đồ đã tin vào lời Chúa và quyết tâm theo Ngài.
Ngày nay, trước mầu nhiệm Thánh Thể, vẫn còn có những người có thái độ như dân Do thái và một số môn đệ xưa: họ không tin nhận phép Thánh Thể vì họ cho là một việc phi lý, một sự bầy đặt. Còn chúng ta, chúng ta hãy học theo gương thánh Phêrô và các Tông đồ mà tuyên xưng đức tin và quyết tâm theo Chúa đến cùng, mặc dầu việc tin theo đó đòi hỏi nơi chúng ta nhiều từ bỏ, nhiều hy sinh.
+ Bài đọc 1: Gs 24,1-18.
Sau khi ông Maisen qua đời, ông Giosuê lãnh nhận trách nhiệm lãnh đạo dân chúng và đưa họ vào Đất Hứa. Sau khi chinh phục được Đất Hứa và chia phần đất cho từng chi tộc, ông Giosuê tập họp dân chúng lại tại Sikem và đòi họ phải tuyên bố dứt khoát lập trường: tin theo Đức Chúa và trung thành với Giáo ước của Ngài hay tin theo các thần của dân ngoại ở Babylon hay các thần của xứ sở mà họ vừa chiếm cứ?
Toàn dân dứt khoát và đồng bộ chọn Thiên Chúa, Đấng đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập. Từ nay họ sẽ trở thành dân riêng của Đức Chúa, trung thành thi hành giao uớc đã ký kết với Ngài; và từ nay sự hiệp nhất sẽ phát xuất từ một niềm tin chung vào Giavê Thiên Chúa.
+ Bài đọc 2: Ep 5,21-32.
Bài đọc hai chỉ là đề tài phụ nhưng nói lên mối dây chặt chẽ giữa các tín hữu với Chúa Kitô. Chắc chắn thánh Phaolô biết đề tài Kinh Thánh về lễ cưới giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và một cách tự nhiên, ngài nói sang hôn lễ giữa Đức Kitô và Hội thánh để nhấn mạnh rằng chính nơi Đức Kitô mà tình yêu Thiên Chúa đối với dân Ngài đã đến mức viên mãn.
Theo đó, giáo huấn của thánh Phaolô về đạo vợ chồng có 2 điểm:
Kiểu nói của thánh Tông đồ Dân ngoại có thể gây ngỡ ngàng cho người nghe, nhưng sẽ không gây khó chịu và có thể chấp nhận được khi qui chiếu về Tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội thánh.
+ Bài Tin mừng: Ga 6,60-69.
Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống với lời khẳng định quyết liệt của Đức Giêsu: ”Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống”(Ga 6,55), sự cứng lòng tin của người Do thái lây sang cả nhóm các môn đệ. Họ cảm thấy chướng tai vì những lời quá táo bạo, đảo lộn hết cả mọi quan niệm của họ từ trước đến giờ.
Bị đặt trước giờ phút phải lựa chọn: tin hay không tin, theo hay rời bỏ? Nhiều người Do thái không tin và cùng với một số môn đệ cũng rời bỏ Ngài. Nhưng Đức Giêsu không rút lại điều gì trong lời khẳng định của Ngài.
Nhưng một câu hỏi được đặt ra một cách đột ngột cho các Tông đồ: ”Cả các con nữa, các con cũng muốn bỏ đi hay sao” (Ga 6,67)? Thánh Phêrô đã đại diện cho nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin một cách tuyệt vời: ”Lạy Thấy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”(Ga 6,68).
Bỏ Ngài con biết theo ai?
Cả bốn bài Tin mừng của bốn Chúa nhật trước và bài Tin mừng hôm nay là phần cuối bài giảng của Đức Giêsu về Bánh hằng sống. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết thái độ và phản ứng của các thính giả, cách riêng của các môn đệ và đặc biệt của các Tông đồ.
Bài đọc 1 hôm nay thuật lại cho chúng ta biết: vào khoảng năm 1200 trước kỷ nguyên, dân Do thái đã vượt qua sông Giorđan để vào đất hứa dưới sự hướng dẫn của ông Giosuê. Sau khi chia đất đai cho các chi tộc, ông cảm thấy phải đau lòng truớc sự ngỗ nghịch phản bội của dân Do thái, ông đã triệu tập toàn thể dân chúng lại, truyền cho các kỳ lão, thủ lãnh các gia tộc, các quan án, các sĩ quan đến trước tôn nhan Chúa, rồi ông nói với họ: ”Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần”? Toàn dân đã biết hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài, khi thưa với ông Giosuê: ”Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi”.
Dân Do thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã cứu họ thoát ách nô lệ Ai cập. Ngài đã làm biết bao việc kỳ diệu, những phép lạ do cánh tay hùng mạnh của Ngài; Ngài đã thi thố biết bao ơn phúc khi dẫn đưa dân tộc họ vào Đất hứa, đất chảy sữa và mật mà Chúa đã hứa với cha ông họ. Mặc dầu họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại để tôn thờ Ngài. Chúa đã chấp nhận lòng sám hối của họ khi họ đồng tâm từ bỏ tà thần, trở lại chọn Chúa để tôn thờ Ngài. Dân Do thái đã quyết định và lựa chọn đúng.. Nhưng thực sự, dân Do thái có trung thành với lời giao ước mà họ đã ký kết khi quyết định chọn Chúa để tôn thờ Ngài hay không? Lịch sử dân Do thái đã trả lời cho câu trả lời này.
Trong suốt bài giảng Đức Giêsu nói về Bánh hằng sống, chúng ta thấy các thính giả có những phản ứng như sau:
– Khi Đức Giêsu nói với họ phải tin vào Ngài thì dân chúng thưa với Ngài: ”Vậy thì ông làm dấu gì cho chúng tôi thấy mà tin ông? Ông làm gì nào” (Ga 6,30).
– Khi Ngài hứa ban bánh sự sống thì dân chúng thưa Ngài: ”Thưa Ngài, hãy luôn luôn cho chúng tôi bánh ấy”(Ga 6,34).
– Khi Ngài tự xưng là Bánh bởi trời thì họ kêu ca: ”Ông ấy lại không phải là Giêsu con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết ! Làm sao bây giờ ông ấy dám nói: Ta từ trời xuống”(Ga 6,40-42)?
– Khi Ngài phán: ”Bánh Ta sẽ ban, chính là thịt mình Ta”. Lúc này người Do thái mới la lối rùm beng lên: ”Làm sao ông ấy có thể cho chúng ta ăn thịt mình được”(Ga 6,52).
Đọc tất cả những cảm nghĩ đó ta thấy rằng trong giới thính giả, một số người lưỡng lự, một số dứt khoát bỏ Chúa, không nghe Ngài nữa (Trần văn Khả).
Trước lời tuyên bố của Đức Giêsu: ”Thịt Ta là của ăn, máu Ta là của uống” thì không những đám dân chúng mà nhiều trong số các môn đệ đã phản ứng như những người Do thái khác:”Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi”(Ga 6,60)? Khi nghe Đức Giêsu nói vậy, nhiều môn đệ, tuy được sống gần Ngài một thời gian, cũng rút lui, từ giã Ngài: ”Từ bấy giờ, có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Ngài nữa”(Ga 6,66). Họ đã theo Ngài một thời gian, đã tin, đã trở thành môn đệ, nhưng họ không thể đi tới cùng.
Đứng trước sự tan rã bi đát này, Đức Giêsu quay về Nhóm Mười Hai, những người được coi là thân tín nhất của Ngài. Vậy phản ứng của họ thế nào trước câu hỏi của Đức Giêsu: ”Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không”? Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả Nhóm nói lên thái độ của họ: ”Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa “ (Ga 6, 70).
Như vậy, thánh Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên một lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Do đó, những lời tuyên bố, quả quyết và khẳng định trong bài giảng về Bánh Hằng Sống này thực sự là theo nghĩa đen thông thường nói về phép Thánh Thể.
Ngày nay người ta nói nhiều đến dân thân. Dấn thân, nhập cuộc là thân phận của con người. Sống là lựa chọn. Mà chọn lựa là liều lĩnh, vì không bao giờ ta nắm chắc được một cách rành rọt như 2 với 2 là 4 tất cả những lý do lựa chọn và những điều tương lai dành cho sự lựa chọn của ta. Nhưng không vì thế mà ta không dám liều mình. Khi đã dùng trí khôn suy nghĩ, cân nhắc theo như ta có thể, rồi ta cứ tiến bước.
Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt, sẽ hạnh phúc; còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì cuộc đời sẽ xấu, sẽ bất hạnh.
Nói đến lựa chọn là giả thiết phải có sự tự do trong đó. Nếu ai bị ép buộc phải làm một việc gì ngoài ý muốn thì không còn là tự do lựa chọn nữa, mà là sự bó buộc. Chính sự tự do trong lựa chọn làm cho chúng ta phải suy nghĩ, phải day dứt vì phải có trách nhiệm trong việc lựa chọn, phải nhận lấy hậu quả của việc lựa chọn ấy.
Truyện: thần Hercule.
Theo truyện thần thoại của Hy lạp, Hercule là một vị thần, một lần đứng giữa ngã ba đường và tự hỏi xem đi về đâu. Hai người chỉ đường đến với ông. Một người nói:
– Hãy theo tôi, đây là con đường thoải mái, hạnh phúc và lối đi dễ dàng.
Người thứ hai nói:
– Đây là con đường cố gắng, nỗ lực, khó khăn. Tuy là đường khó khăn, nhưng đưa tới hạnh phúc.
Hercule đã chọn con đường khó khăn và quả thực ông khôn ngoan, ông đã thành công.
Bất cứ cách nào, lựa chọn là phải liều, phải chấp nhận một tương lai bấp bênh, phải chấp nhận hậu quả của việc lựa chọn ấy, mặc dầu phải hy sinh rất nhiều. Trong chọn lựa việc kết hôn, chúng ta sẽ thấy rõ đặc tính của sự lựa chọn ấy:
Nhà anh chẳng chiếu chẳng giường,
Chỉ ấm ổ ra, nàng thương chăng là?
– Yêu nhau chẳng quản cửa nhà,
Chuồng chim cũng lấy, chuồng gà cũng theo.
Đức Gioan Phaolô II thường khuyên những người đến với Ngài rằng: Chúng con phải lựa chọn. Chọn là một quyết định lớn và quan trọng của đời người. Chúng ta đã chọn. Và chúng ta còn phải tiếp tục chọn, vì đời là một tiến trình, đời là một cuộc đổi mới không ngừng nghỉ. Khẩu hiệu của Đức Gioan 23 là: Giờ đây tôi mới khởi sự. Mỗi ngày chúng ta phải khởi đầu với sự lựa chọn.
Mà sự lựa chọn căn bản và quan trọng nhất của cuộc sống là chọn Đấng chúng ta tôn thờ. Chúng ta phải chọn Chúa là thần tượng vì Ngài là một vị thần siêu việt, tuyệt đối đáng tôn thờ. Ta không được bắt chước dân Do thái xưa thờ con bò vàng thay vì Ngài. Chính Đức Giêsu cũng khuyên: ”Không ai có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”(Mt 6, 24).
Nhưng Thiên Chúa là Đấng vô hình, ta không thể tiếp cận với Ngài, ta cần phải có một thần tượng nào gần chúng ta hơn, vị thần ấy đã nói: ”Ai thấy Thầy là thấy Cha” và Đấng ấy đã nói: ”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”(Ga 14,6).
Có một người suốt 2000 năm đã được bao nhiêu người hâm mộ tin theo, thậm chí còn nhận lấy cái chết để tỏ ra trung thành với vị thần ấy !
Vị thần đó là ai?
Đó là Đức Giêsu Kitô.
Sự lựa chọn của chúng ta sẽ mang lại phần thưởng mà thánh Phêrô và các tông đồ xưa đã nhận lãnh, đó là được chia sẻ tấm bánh hằng sống, Mình và Máu Đức Kitô. Được chết đi với Chúa mỗi ngày để được sống lại với Chúa trong hạnh phúc và vinh quang. Đó là niềm vui của mỗi chúng ta. Đây là một lựa chọn quan trọng có liên quan đến cuộc đời mai hậu của ta.
Chúng ta đã chọn Đức Giêsu làm thần tượng, làm Chúa của mình, điều đó chứng tỏ không những chúng ta phải có niềm tin và còn hơn nữa chúng ta phải có đức tin. Mà giả như chúng ta chưa có đức tin cho đủ thì hãy theo lời khuyên của triết gia Blaise Pascal: ”Nếu bạn muốn có đức tin, hãy qùi xuống và cầu nguyện”.
Sống theo đức tin là đi trong đêm tối, vì đức tin là “khước từ cách hiểu biết thông thường, nhờ giác quan và lý trí, lý luận“ để “tin vào một người khác”, đó là tin mà không thấy, như thánh Gioan sẽ nói rất nhiều lần.
Đối với Đức Giêsu, như chúng ta đã thấy, luôn gây đụng chạm ! Đức tin không hẳn nhiên là thế. Đức tin luôn luôn cho ta thấy chướng. “Đức tin” không phải là một bài học được lặp đi lặp lại “nhưng” là một “dấn thân” trong cuộc sống, là một thôi thúc phải chấp nhận từ bỏ ánh sáng riêng của mình, được coi là có tính khoa học, để đón nhận mạc khải của một người khác mà không thể kiểm chứng được bằng những phương thế nhân loại. Chính Thánh Thể là cớ vấp phạm cho các môn đệ khiến họ từ bỏ Chúa, và ngày nay cũng có những người không chấp nhận được mầu nhiệm này.
Đức tin cũng đòi hỏi phải có thử thách. Qua câu chuyện được kể trong bài Tin mừng hôm nay, tức câu chuyện Đức Giêsu nói với các môn đệ Ngài về bí tích Thánh Thể. Trong cuộc sống cũng sẽ có những giây phút chúng ta cũng bị thách đố như các môn đệ, và có thể chúng ta cũng bị cám dỗ từ bỏ Chúa, không theo Ngài nữa. Những lúc đó, chúng ta đừng để mình vấp phạm những lỗi lầm giống như các môn đệ xưa đã vấp phải, nghĩa là đừng chỉ lo chú tâm đến những vấn đề xẩy đến cho chúng ta, mà hãy đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta hãy xác nhận lại niềm tin vào Ngài như thánh Phêrô đã làm: ”Lạy Thầy, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”.
III. TRUNG THÀNH VỚI SỰ LỰA CHỌN.
Trong ngày chịu phép Rửa tội, Linh mục hỏi chúng ta có từ bỏ ma qủi và những việc làm của chúng không? Cha mẹ chúng ta hay chính chúng ta đã quả quyết thưa từ bỏ. Ta lại còn tuyên xưng và tin theo Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Chúng ta đã chọn Thiên Chúa là gia nghiệp của mình. Rồi trong mỗi dịp lễ Phục sinh, từng người chúng ta lại có dịp bầy tỏ sự lựa chọn của mình một lần nữa khi tuyên xưng đức tin và lại tuyên bố từ bỏ ma qủi và các việc của của chúng.
Chúng ta đã chọn Chúa và chỉ chọn một mình Chúa chứ không thể chọn cả hai, không được thờ hai chủ. Lựa chọn một lần chưa đủ, còn phải lặp đi lặp lại nhiều lần, nó phải được thể hiện qua những lựa chọn nho nhỏ trong mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta chỉ có một sự lựa chọn duy nhất: chọn Chúa. Chọn lựa đúng thì được sống và chọn lựa sai thì chết.
Ở đô thị Jaffa xứ Palestina, có một khu đất gọi là khu đất quyết định. Các sông ngòi chảy vào khu đất ấy lưỡng lữ một lúc rồi mới chảy sang một trong hai hướng. Những sông ngòi theo một hướng thì chảy vào khu vườn Sharon xinh đẹp. Còn những sông ngoài theo hướng kia thì chảy vào Biển Chết, biển này không có một sinh vật nào sống nổi. Cuộc đời chúng ta cũng thế. Chúng ta phải chọn một hướng, không ai có thể làm tôi hai chủ:
Một nhà hai chủ không hoà,
Hai vua một nuớc ắt là không yên.
Chọn lựa tự do, nhưng chọn lựa lại là giới hạn. Khi đã có một chọn lựa là chúng ta phải biết tự giới hạn mình. Chính Đức Giêsu khi chọn con đường cứu độ nhân loại, Ngài cũng đã phải chấp nhận thân phận giới hạn con người, và cả cái chết nhục nhã trên thập giá như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2: ”Đức Kitô yêu thương Hội thánh, và phó mình vì Hội thánh, để thánh hóa Hội thánh,… ngõ hầu bầy tỏ cho mình một Hội thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo…, nhưng thánh thiện và tinh tuyền”.
Phải chăng chọn Chúa và theo Chúa là một nghịch ly vì Chúa chỉ hứa cho những sự mất mát? Người ta thuật lại câu chuyện của một ông tướng kỳ lạ, đó là đại tướng Garibaldi. Một ngày kia, ông nhóm họp quân đội ăn mặc rách rưới mà hiểu dụ rằng: ”Ta cho các ngươi sự đói khát, lạnh lẽo, thương tích và chết trận. Ai vui lòng nhận các điều ấy thì hãy theo ta”. Kết quả: chẳng ai chịu rời bỏ hàng ngũ của mình.
Chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của vị đại tướng ấy? Có kỳ lạ không? Có vô lý không? Có điên khùng không? Và chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của Đức Giêsu: ”Ai gìn giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai vì Ta mà mất mạng sống mình thì lại tìm lại được”(Mt 10,39)?
Và để kết thúc, chúng ta phải đặt ra câu hỏi: Nếu ta chọn Chúa thì sẽ ra sao? Và nếu ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao? Linh mục nhạc sĩ Thành Tâm đã suy diễn câu hỏi bất hủ của thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau:
“Bỏ Ngài con biết theo ai”
– Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cách chim bơ vơ trong khung trời lộng gió.
– Bỏ Ngài con sẽ theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi.
– Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con tuyền lao đao trên biển cả mênh mông.
– Bỏ Ngài con biết theo ai, thuyền buông lái biết trôi về đâu?
– Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ.
– Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã.
Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh.
Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy cũng vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chim bay trong khung trời lộng gió, cũng như một con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình ấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm đi tới bến đò bình an (Lm Carolô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 606-607)
Chọn Chúa, đi theo Chúa, trước mắt là một sự hy sinh, một sự mất mát và bị người đời coi như một sự điên rồ, nhưng như thánh Phaolô nói thì đó là sự khôn ngoan trước mặt Chúa. Có lẽ người ta nói đúng: ”Khôn thế gian làm quan địa ngục, dại thế gian làm quan thiên đàng” !
Truyện: vua Charles V.
Vua Charles một lần kêu hoàng tử đến và cho hoàng tử được chọn. Trên bàn vua đặt một thanh kiếm và một vương miện (Triều thiên), Vua nói:
– Con chọn cái nào?
Ngần ngừ một lúc hoàng tử cầm lấy thanh kiếm.
Vua cha hỏi:
– Sao con lại chọn thanh kiếm?
Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào vương miện đáp:
– Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được vương miện kia.
Chúng ta đã quen với khẩu hiệu: ”Per crucem ad lucem”: qua thập giá để tới vinh quang. Bước theo Chúa là phải đi vào con đường khổ giá, phải qua cửa hẹp, nhưng chính con đường hẹp hòi khắc khổ lại đem đến vinh quang. Theo gương hoàng tử, chúng ta cũng phải nhờ thanh kiếm đau khổ để có thể chiếm được triều thiên vinh phúc muôn đời, thánh giá phải đi trước triều thiên
Xả thân nếu muốn theo Thầy,
Vác cây khổ giá hằng ngày mà theo. (Mt 16,24)
(Suy niệm của Giuse Nguyễn Văn Hội)
Kính thưa cộng đoàn,
Mỗi lần được tham dự thánh lễ cùng với cộng đoàn, đặc biệt trong những ngày lễ trọng như Giáng Sinh, Phục Sinh, tôi thầm cám ơn Chúa. Cám ơn Chúa vì Người vẫn hằng thúc giục bao tâm hồn đến cùng Người. Có thể nói, tại Việt Nam ta, số người đến với Chúa vẫn luôn đông đảo. Trong khi tại các nước phương tây như Pháp, Canada, những nước được xếp vào hàng cha mẹ hay ông bà của chúng ta vế số tuổi nhận biết đạo thánh Chúa, thì các nhà Dòng cũng như nhà thờ chẳng còn được mấy người lui tới, có chăng một số rất nhỏ các cụ già.
Nhưng tôi cũng phải cám ơn Chúa vì sự lựa chọn của chính ông bà, anh chị em. Vì có ai trong chúng ta khi chọn đến đây đã không phải hy sinh hay từ bỏ điều gì? Chắc hẳn là không. Từ những hy sinh nhỏ bé tưởng như không đáng kể, không là gì như giấc ngủ, xem phim, đi chơi,… đến những hy sinh như công việc, nghề nghiệp, tình cảm. Bởi theo tôi được biết, rất nhiều người đã sẵn sàng chọn công việc tầm thường hơn, lương tháng ít hơn, để có được ngày chủ nhật tương đối rảnh rỗi mà đến vơi Chúa; có nhiều bạn trẻ cũng đã mạnh mẽ dám khước từ lời mời gọi của tình yêu khi người bạn của mình không chấp nhận việc tin nhận Chúa.
Kính thưa cộng đoàn, dường như mỗi người, trên mỗi bước đường đời, đều được đặt trước một sự chọn lựa, một ngã ba đường. Có khi chọn lựa ấy là nhẹ nhàng, đơn giản. Có khi chọn lựa ấy là phức tạp, khó quyết. Có khi chọn lựa ấy đem lại hạnh phúc, nhưng có khi chọn lựa ấy đem lại khốn cùng. Có khi chọn lựa ấy như lẽ đương nhiên của một giai đoạn, nhưng có khi chọn lựa ấy lại nghiêm trọng liên quan đến sinh mệnh của đời người. Người ta phải luôn chọn lựa và đôi khi nếu không chọn lựa và quyết định, người ta chỉ có một con đường chết.
Nói đến đây tôi nhớ câu chuyện trong kho tàng chuyện cười dân gian Việt Nam. Chuyện kể rằng:
Tại một khúc sông nọ, quang cảnh thơ mộng, hai bên bờ sông có hai ngôi chùa, các sư sãi trong chùa có cuộc sống khá sung túc. Cũng tại khúc sông ấy, có một con chó, nó không thuộc chùa bên này cũng chẳng thuộc chùa bên kia. Bởi mỗi khi nghe tiếng chuông nhà cơm bên chùa nào vang lên nó lại bơi sang chùa đó để đánh chén no nê. Rồi đến ngày kia, có lẽ là ngày rằm, người ta trẩy đến chùa rất đông, mang theo đủ thứ lễ cúng. Chó ta bắt đầu chảy nước miếng. Giờ cơm hôm đó như dài hơn. Cuối cùng thì tiêng chuông cũng vang lên. Con chó vội nhảy xuống sông và bơi sang chùa có tiếng chuông. Nhưng khi nó vừa bơi đến giữa sông thì tiếng chuông chùa bên này cũng đã điểm. Con chó phân vân: Thôi ta quay lại, vì có lẽ cơm bên chùa này nhiều món ăn ngon hơn. Và nó quyết định bơi trở lại. Bơi được một đoạn, nó lại tự nhủ: biết đâu chùa bên kia có nhiều món ăn ngon hơn thì sao. Và nó lại quay đầu bơi sang chùa bên kia. Nhưng cũng bơi được một đoạn, nó lại tự hỏi: nếu chùa bên này có nhiều món ăn lạ hơn thì tiếc lắm. Và nó lại bơi trở lại. Cứ thế, con chó bơi trở đi trở lại không biết bao lần, cho đến khi không còn bơi được nữa vì kiệt sức, và nó bị dòng nước cuốn đi.
Hai bài đọc hôm nay đều hướng chúng ta đến hay đúng hơn đặt chúng ta trước một chọn lựa, một quyết định. Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe ông Giô-suê nói với toàn dân và ông đưa ra cho họ những chọn lựa: Các ngươi không bằng lòng chọn Gia-vê thì hôm nay cứ chọn lấy ai mà thờ, hoặc là những thần tổ tiên các ngươi đã phụng thờ bên kia sông cả; hoặc là các thần của dân Amori… Phần ta và cả nhà ta, chúng ta sẽ phụng thờ Gia-vê…
Còn trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu hỏi nhóm mười hai: Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? Ông Phê-rô đã nhanh nhẹn đại diện cho cả nhóm thưa: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai, Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.
Sự chọn lựa và quyết định luôn là vấn đề hiện tại, lúc này và ở đây. Tuy nhiên, sự chọn lựa lại thường được nương vào quá khứ, lấy sự kiện quá khứ làm nền cho chọn lựa hiện tại. Dân Ít-ra-en xưa, trước câu hỏi của Giô-suê, đã trả lời: Quái gở thay nếu chúng tôi từ bỏ Gia-vê để phụng thờ những thần khác. Và họ đưa ra những lý do: Vì Gia-vê đã đem chúng tôi cùng cha ông lên khỏi đất Ai Cập; Vì Gia-vê đã gìn giữ chúng tôi trên đường đi, vì đã đuổi đằng trước chúng tôi hết mọi dân, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.
Còn Phê-rô, tại sao ông lại có thể đáp lại Chúa cách tức thời như thế? Như ta đã nghe trong các chúa nhật vừa qua, Phê-rô và các môn đệ đặc biệt là nhóm 12, đã luôn đi sát Chúa, cùng ăn cùng uống với Chúa, đã chứng kiến phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều, Chúa đi trên mặt biển, cùng những lời giảng dạy đầy uy quyền của Chúa. Vậy cứ theo lẽ thường, ông có đủ cơ sở để tiếp tục đi theo Ðức Kitô. Ông đã có một chọn lựa và quyết định dựa vào quá khứ.
Tuy nhiên ta có thể đặt câu hỏi tại sao nhiều môn đệ đã cùng đi với người từ lúc đầu, cũng chứng kiến tất cả những việc Chúa làm mà sao họ lại bỏ Chúa mà đi, sao họ không có cùng chọn lựa như nhóm 12? Một sự thật đau đớn như lời thánh Gio-an ghi lại:Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người.
Tuần trước ta đã nghe người Do Thái tranh luận sôi nổi với nhau “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được”, khi họ nghe Ðức Giêsu nói: Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống. Người Do Thái tranh luận sôi nổi, còn các môn đệ hôm nay có phản ứng liền: Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi. Quả thật, có lẽ ta cũng phải thừa nhận rằng lời của Ðức Giêsu quá “sống sượng”, quá chướng tai, bởi từ trước đến nay có ai dám nói với môn đệ và người ta rằng: hãy ăn thịt và uống máu tôi để được sống. Tuy rằng trong truyền thuyết hay trong thực tế cũng có những trường hợp lấy thịt hay máu của mình mà cho người thân ăn hay uống, như trong chuyện Thoại Khanh Châu Tuấn: Thoại Khanh vì hiếu thảo với mẹ chồng, nên khi mẹ muốn ăn thịt mà không kiếm đâu ra, nàng đã cắt thịt của mình mà nấu cho mẹ ăn. Hay trường hợp của một người mẹ, tôi không nhớ rõ đã đọc trên số báo nào, khi bị kẹt trong một căn nhà cùng đứa con nhỏ do động đất, sau mấy ngày không còn thức ăn nước uống, đứa bé khóc vì khát, vì đói, người mẹ vì thương con đã lấy mảnh chai cắt tay mình cho con mút, cũng may nhân viên cứu hộ đã tìm thấy kịp thời và cứu sống được cả hai mẹ con.
Nhưng đó là những trường hợp hy hữu. Ðàng này, Ðức Giêsu cứ thẳng thắn nói đi nói lại rằng hãy ăn thịt và uống máu Ngài, Ngài còn như đe doạ rằng nếu không sẽ không có sự sống, trong khi Ngài vẫn sống sờ sờ ra đấy. Những kinh nghiệm quá khứ đã không đủ mạnh, không đủ căn cứ để cho nhiều môn đệ có một sự chọn lựa và quyết định trước một sự thật quá phũ phàng, một sự thật mà các ông không thể chấp nhận được. Nhiều môn đệ đã bỏ đi, chỉ còn lại nhóm 12, và Ðức Giêsu đã buộc các ông phải có một thái độ dứt khoát trong chọn lựa.
Ta hãy trở lại câu hỏi trên kia: tại sao nhiều môn đệ cũng đã từng chứng kiến bao việc Chúa làm mà lại không có cùng quyết định như nhóm 12? Nhóm 12 đã có chọn lựa và quyết định dựa vào những sự kiện đã qua, dựa vào những lời nói và những việc Ðức Giêsu làm. Nhưng ta cũng có thể nói rằng kinh nghiệm của các ông có lẽ không đủ mạnh khiến các ông có một chọn lựa và quyết định dứt khoát như thế, khi vừa nghe những lời sống sượng và chói tai. Ðiều quan trọng hơn và có tính quyết định trong chọn lựa của các ông, đó là việc các ông nhận ra Ðức Giêsu là Ðấng thánh của Thiên Chúa, đó là điều do chính Ðức Giêsu nói ra: Thầy đã bảo anh em, không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho. Như thế việc chọn lựa và quyết định đi theo Ðức Giêsu là một ơn ban nhưng không, một ơn ban không dựa vào hiện tại, quá khứ hay tương lai.
Nhưng phải chăng tất cả các môn đệ không được cùng ban ơn ấy? Nếu có thì nhiều môn đệ đã không bỏ Chúa mà đi! Mỗi người đều được ban ơn ấy, vì chắc chắn Thiên Chúa không thiên vị khi ban ơn có sức cứu độ người ta. Nhưng nhiều môn đệ đã bỏ đi, và ta có thể nói, họ bỏ đi vì họ muốn thế, họ tự quyết như thế. Họ dùng tự do mà quyết định. Chắc chắn Chúa rất đau lòng khi phải chứng kiến bao môn đệ đã từng theo Người bấy lâu nay bỏ Người mà đi. Nhưng Người vẫn tôn trọng quyết định và chọn lựa của họ. Bởi chỉ trong tự do, con người mới có thể đi vào trong mối tương quan tình yêu với Người. Ta không dám lên án hay phán xét những môn đệ bỏ Chúa mà đi, nhưng có lẽ họ đã có một quyết định, một chọn lựa dẫn đến cõi chết.
Mong sao mỗi người chúng ta luôn có được những quyết định sáng suốt trên mỗi bước đường, và trong từng giây phút. Mong sao quyết định đi theo Ðức Kitô sẽ luôn là điểm qui chiếu của mọi quyết định và chọn lựa của ta trong đời sống. Và mong sao khi đứng trước một vấn đề gì, dù vượt quá tầm trí hiểu và có sức lôi cuốn ta bỏ Chúa thì lời thánh Phê-rô hôm nay lại vang lên trong mỗi người chúng ta: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai, Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Amen.
(Suy niệm của GB. Nguyễn Tuấn Dũng, OP)
Hành trình của mỗi con người luôn chất chứa những điều kỳ diệu. Từ khi sinh ra cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, con người luôn hướng đến điều hạnh phúc. Ngay khi lọt lòng mẹ, em bé đã được yêu thương bồng ẵm, chăm sóc của người mẹ, người cha. Và bé được cưu mang trong vòng tay ấm êm của gia đình. Lớn lên em đến với trường lớp, nơi ấy có thầy cô, bạn bè quan tâm, nâng đỡ. Khi trưởng thành, người thanh niên, thanh nữ ấy hội nhập với xã hội, với con người, với môi trường sống vươn tới những ước mơ của cuộc đời, cho đến lúc trở về với cát bụi.
Nếu chỉ dừng lại cuộc sống ở đời này thì điều đó thật vô nghĩa. Con người cũng như cỏ cây, những loài thảo mộc, những loài động vật vô tri khác… Niềm tin của người Ki-tô hữu trả lời cho thế giới về một niềm hy vọng, đó là niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương con người, ban cho con người những hồng ân đặc biệt hơn các loại thụ tạo khác. Và như vậy, người Ki-tô hữu tin tưởng, phó thác cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Cả cuộc hành trình nơi dương thế này họ luôn được bàn tay Chúa dẫn dắt, đưa đường.
Tin mừng theo Thánh Gioan chúng ta vừa nghe đưa chúng ta vào câu chuyện giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Các môn đệ hãnh diện và an tâm về Thầy của mình. Các ông đã dám bỏ mọi sự để theo Người – Một Con Người không có nơi gối đầu. Các ông đi theo Chúa để lắng nghe, để được cùng sống với Người. Các ông nở mày nở mặt với mọi người khi vị Thầy của mình làm nhiều dấu lạ: chữa lành người bệnh tật, đau yếu, người què đi được, người phong hủi được sạch, người mù được thấy, người chết sống lại… Các môn đệ theo chân Chúa Giêsu cũng với nhiều mục đích, trong đó hẳn là các ông đi theo Chúa để tìm được hạnh phúc, trước hết ở đời này. Chúa Giêsu quả là vui khi có nhiều môn đệ theo Người, chưa kể đến nhóm Mười Hai mà Người đã chọn gọi.
Nhưng không phải lúc nào niềm vui ấy cũng được tràn trề. Các môn đệ theo Chúa không hẳn lúc nào cũng tìm thấy được sự bình an, niềm vui nơi vị Thầy của mình. Bằng chứng rằng khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6, 54a) đã có nhiều môn đệ không chịu nổi khi nghe những lời nói ấy của Đức Giêsu. Đối với họ, lời nói đó thật chướng tai, không thể tưởng tượng nổi.
Các môn đệ đã cảm thấy bị sốc khi đón nhận một lời giảng dạy thật mới mẻ, vượt ra ngoài những suy nghĩ đơn giản của họ. Họ không thể chấp nhận! Có lẽ mỗi người chúng ta nhiều khi vẫn cảm thấy ngỡ ngàng, chưa thật sự vững tin khi đứng trước Mầu Nhiệm Thánh Thể. Có thể cũng như các môn để xưa kia, chúng ta sẽ rút lui, thiếu niềm tin vào Chúa. Nhiều lúc trên bước đường trần gian, ta cảm thấy lạc lõng, gặp thử thách gian truân ta ngã lòng, không còn theo Chúa nữa. Một cơn bạo bệnh; một tai nạn bất ngờ; Hoặc công ăn việc làm không thuận buồm xuôi gió; Có khi gặp lừa đảo, gian dối nơi thương trường… Lúc ấy, dường như ta chẳng thấy bàn tay Chúa đâu cả. Làm sao để ta luôn có được một niềm tin vững mạnh như Thánh Tông đồ Phê-rô: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai?”. Rồi mạnh dạn tuyên xưng: Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới có những lời ban phúc trường sinh. Xin cho chúng ta biết một lòng khiêm tốn, để đón nhận ân sủng Chúa Cha ban cho hầu có thể đến được với Thầy Giêsu Chí Thánh.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin nhìn đến chúng con là những Ki-tô hữu yếu đuối và hèn kém trong đức tin, chưa vững vàng trong đức cậy, và lửa mến còn leo lét. Xin tuôn đổ muôn ơn thiêng dạt dào, thấm đượm tâm hồn, thể xác chúng con, để chúng con có được sức mạnh đích thực của Chúa, dám thưa rằng: Chỉ có Ngài mới đem lại sự sống đời đời – là gia nghiệp chúng con mãi mãi.
Ước gì nơi Lương thực thần lương Chúa mà chúng con rước lấy mỗi ngày, bổ dưỡng linh hồn chúng con. Để nhờ Thần lương trợ lực giúp chúng con kiên vững trên đường trần dù gặp thử thách, gian truân.
Lạy Chúa, xin dẫn chúng con đi theo Đường Chân lý của Ngài. (Tv 24, 5) Amen.
Sau khi rao giảng về Bí tích Thánh Thể, dân chúng và ngay cả một số đông môn đệ đã lấy làm chướng tai gai mắt và khó nghe, nên đã lìa bỏ Chúa. Thấy vậy, Chúa bèn quay về với nhóm Mười Hai. Ngài đòi các ông phải có thái độ và lập trường dứt khoát, Ngài hỏi các ông:
– Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?
Và như thế chúng ta đã thấy, Phêrô thay mặt cho tất cả anh em trong nhóm đã thưa lên cùng Chúa:
– Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Hẳn chúng ta còn nhớ, một lần khác, khi thầy trò tới địa hạt xứ Cêsarêa Philipphê, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ:
– Người ta bảo con người là ai?
Các ông đã lượm lặt dư luận đó đây và thưa lên cùng Chúa:
– Người thì bảo là Êlia, người thì bảo là Giêrêmia, người thì bảo là một tiên tri nào đó và kẻ khác lại nói là Gioan tẩy giả.
Có lẽ lúc bấy giờ, Chúa Giêsu đã nhìn các ông và đặt một câu hỏi nòng cốt, đòi các ông phải bày tỏ lập trường:
– Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Và Phêrô cũng thay mặt cho anh em trong nhóm tuyên xưng đức tin:
– Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.
Xuyên qua những lời giảng dạy, Chúa Giêsu bao giờ cũng đòi hỏi nơi những người muốn bước theo Ngài một thái độ dứt khoát, một lập trừờng rõ rệt. Ngài bảo:
– Ai yêu thương cha mẹ, vợ con, tiền bạc nhà cửa hơn Ta, thì không xứng đáng làm môn đệ Ta. Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì nếu yêu chủ này thì sẽ ghét chủ kia, cũng vậy không thể làm tôi vừa Thiên Chúa vừa tiền bạc. Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Sở dĩ như vậy là vì tinh thần của Chúa thì trái với tinh thần của thế gian như lửa với nước, như ánh sáng và bóng tối. Theo Chúa là theo trót cả tâm hồn, chứ không thể trung lập, lửng lơ, đi nước đôi và bắt cá hai tay.
Cựu ước có kể lại một mẩu chuyện như sau: Ngày ấy, Giosuê triệu tập tất cả các chi tộc lại ở Sikem và ông nói với họ:
– Hôm nay các ngươi hãy lựa chọn, một là thờ phượng Đức Giavê, hai là thờ phượng các thần của dân ngoại. Riêng phần tôi và gia đình, chúng tôi nhất quyết chỉ thờ phượng một mình Đức Giavê mà thôi.
Bấy giờ dân chúng trả lời rằng:
– Không hề có chuyện chúng tôi lìa bỏ Đức Giavê mà tôn thờ những thần dân ngoại. Đức Giavê là Thiên Chúa của chúng tôi, chính Ngài đã dẫn chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, đã làm những việc kỳ diệu trước mặt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt những con đường chúng tôi đã đi qua. Chúng tôi chỉ phụng thờ Đức Giavê vì chỉ mình Ngài là Thiên Chúa chúng tôi.
Có lẽ giờ đây Chúa Giêsu cũng nhìn mỗi người chúng ta và muốn chúng ta tỏ bày cái thái độ dứt khoát. Thế nhưng, có lẽ chúng ta đã phải cúi mặt xuống, bởi vì mặc dù mang tiếng là người có đạo, là kẻ đã tin theo Chúa, nhưng cuộc đời chúng ta vẫn còn chồng chất quá nhiều tội lỗi, bản thân chúng ta vẫn thường xuyên nhượng bộ cho những cám dỗ, những khuynh hướng xấu xa. Chúng ta vừa muốn phụng thờ Chúa, vừa muốn phụng thờ ma quỷ. Vừa muốn bước theo Chúa lại vừa muốn phạm tội.
Chúng ta giống như người tân tòng khi được ghìm xuống nước để lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thì ông cứ giơ một bàn tay lên cao. Vị linh mục bèn hỏi tại sao, thì ông trả lời:
– Con muốn tin theo Chúa thật đấy, nhưng lại muốn dành bàn tay này cho tội lỗi, để khi bàn tay này ăn trộm ăn cắp, gây gỗ đánh lộn thì nó không thuộc về Chúa.
Hãy có một thái độ và một lập trường dứt khoát. Hãy dâng hiến cho Chúa trọn vẹn cả tâm hồn lẫn thể xác bởi vì nếu chúng ta nói rằng mình yêu mến Chúa, mà còn giữ lại một xó góc con tim cho tội lỗi, dù là một xó góc nhỏ bé nhất, thì đó là một dấu chỉ chắc chắn nhất chứng tỏ chúng ta chưa hề yêu mến Chúa.
MINH HỌA LỜI CHÚA
Trong các tướng lãnh phục vụ Vua Louis XIV của Pháp, có tướng Turenne là can đảm nhất và được mọi người trong triều đình kính nể. Tuy nhiên ông theo phái Calvin. Vua và vị giám mục hùng biện là Bossuet đều khuyên bảo, nhưng ông nhất định không hồi tâm hối cải. Ông còn có nhiều thành kiến chống Giáo hội. Đặc biệt ông chống lại việc Chúa Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Ông cho là không thể tin được, dù ông công nhận niềm tin nầy đẹp và an ủi những người có lòng tin. Ông thường nói:
– Nếu ai làm cho tôi tin vào sự hiện diện gủa Chúa Giêsu trong Thánh thể, thì có phải quỳ xuống đất để tôn thờ, tôi cũng quỳ.
Dầu tướng Turenne cố chấp như thế, Đức Cha Bossuet vẫn kiên trì, khuyên bảo ông về niềm tin này. Với mục đích ấy, hai vị thường gặp nhau trong lâu đài Louvre, nơi triển lãm nghệ thuật. Một trong những lần gặp nhau, một phòng triển lãm bị cháy. Lửa đe dọa tàn phá hết các tác phẩm nghệ thuật. Turenne vội vàng chạy tới điều khiển công việc dập tắt, nhưng mọi cố gắng đều vô ích. Đức Cha thấy sức lửa quá mạnh, và như có sự thúc giục của Chúa, ngài hới hả chạy vào nhà nguyện gần đó, lấy bình thánh đựng Mình Thánh mang đến lâu đài. Ngàu tới ngọn lửa, đọc lời chúc lành. Ngay lập tức, ngọn lửa dịu xuống và rồi tắt hẳn. Xúc động trước phép lạ cả thể, các công nhân chữa lửa đều quỳ xuống hát kinh tạ ơn Chúa. Tướng Turenne cũng quỳ gối thờ lạy Thánh Thể.
Và từ đó đến lúc qua đời, ông vẫn hết lòng tin kính mến yêu Chúa cứu thế hiện diện trong Thánh Thể. (“Những phép lạ Thánh Thể”).
Năm 700, tại tu viện thánh Lougino ở Lanciano nước Ý, có một linh mục tên Basiliô hoài nghi về Chúa Giêsu hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã lám một phép lạ cả thể còn được lưu niệm cho đến nay.
Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt máu Chúa đó còn được lưu giữ trong hào quang quý giá, gọi là hào quang phép lạ Thánh Thể Lancianô.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy một số môn đệ rơi váo cơn khủng hảng đức tin về việc Chúa Giêsu tuyên bố Thịt Máu Người là của ăn của uống ban sự sống muôn đời, các môn đệ đó phản ứng: “Lời nầy chói tai quá, ai mà nghe được … và từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa” (Ga 6:60-66). Họ đã tin Chúa Giêsu và theo Người một thời gian, nhưng họ không thể đi tới cùng!
Dấn than theo Chúa Giêsu là phải chịu thách thức từng ngày. Trở nên tín hửu Kitô không phải được bảo đảm sẽ trung tín đến cùng. Đây là cuộc mạo hiểm: mạo hiểm của tình yêu, mạo hiểm của lòng tin. Đã có những môn đệ không tin được nữa và bỏ đi. Ngay trong nhóm còn ở lại, cũng có kẻ không tin theo được đến cùng.
Tại sao nhóm thứ nhất bỏ đi, còn nhóm thứ hai trung tín đến cùng? Có thể nói: để khỏi bỏ đi, cần phải bỏ mình. Để theo Đức Giêsu, cần phải chú tâm đến Ngài hơn là bận tâm về chính mình. Cần nhìn Ngài hơn là nhìn lại bản thân. Thánh Phêrô đã làm được điều đó khi ông nói “Bỏ thầy, chúng con biết theo ai. Thầy mới có lời ban phúc trường sinh.” Do đó khi đứng trước thử thách là “lời nói chói tai” của Chúa Giêsu, ông vẩn một niềm tin kiên vững, vì ông chỉ chú tâm vào Chúa, “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.”
Trái lại, nhóm thứ nhất bỏ cuộc rút lui, vì họ mãi loay hoay bận tâm với những ý nghĩ về mình “Sao ông nầy lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?” Ngày nay vẫn có những Lời Chúa làm chúng ta choáng váng, vẫn có những thử thách làm đức tin chúng ta chao đảo, vẫn có những cơn cám dỗ làm chúng ta có thể bỏ cuộc rút lui. Hãy đưa mắt nhìn vào Chúa. Hãy sác tín vào Ngài như Thánh Phêrô (Trích “Như Thầy đã yêu”).
Một chiếc tàu đánh cá Liên Xô được đưa vào sửa chữa bên cạnh chiếc tàu tuần dương Hoa Kỳ tại bờ biển New England. Một thủy thủ người Nga tên Simas Kudirka lén lút đến tàu Mỹ xin được tỵ nạn chính trị. Các viên chức Mỹ từ chối. Và người thủy thủ nầy đã bị giao lại cho nhà cầm quyền Xô Viết, và bị cầm tù.
Trong lúc bị thử thách như thế, Kudirka buồn sầu tuyệt vọng, không còn muốn sống nữa. Một tù nhân khác thấy anh chán nản quá như thế thì dạy cho anh những vầng thơ của thi sĩ Ruydyard Kipling, để giúp anh lấy lại tinh thần và can đảm đương đầu với thử thách gian lao, cương quyết làm lại cuộc đời. Trong những vần thơ đó có câu, “Nếu nhìn thấy toàn bộ sự nghiệp đời mình tan vỡ, và con vẫn bình tâm tin tưởng xây dựng lại, thì trái đất và mọi sự trên đó sẽ thuộc về con, và con sẽ là con người đích thực.”
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy rõ điểm trọng yếu trong Tin mừng hôm nay. Có những lúc cuộc sống chúng ta như bị dồn vào chân tường như các môn đệ Chúa Giêsu. Niềm tin của các ông bị thử thách vì Lời Chúa, “Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được sống muôn đời.” Có số trong các ông cho rằng “lời đó chói tai quá, làm sao nghe được,” và họ đã rút lui, không tin theo Chúa nữa. Nhóm còn lại thắng được thử thách, nên trung thàng tin theo Chúa.
Nhờ đâu mà nhóm nầy đã thắng được thử thách? Câu trả lời do thánh Phêrô nói thay cho cả nhóm, “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai. Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh … Chúng con tin và nhận biết chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” Những lời Chúa Giêsu nói không làm cho nhóm nầy chao đảo, vì họ tin tưởng Chúa, dán mắt vào Chúa. Còn nhóm kia thì ngược lại, họ chỉ chú tâm vào vấn đề của họ, thắc mắc của họ, “Sao ông nầy lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?” Thế nên đức tin của họ chao đảo và tất nhiên họ bỏ Chúa dễ dàng.
Trong cuộc sống, chắc chắn có những lúc chúng ta bị thách thức như các môn đệ, và chúng ta bị cám dỗ lìa bỏ Chúa, không tin tưởng Chúa. Những lúc đó, chúng ta đừng lầm lạc như số các môn đệ đã mất niềm tin vì chỉ nghĩ về mình, về những vấn đề của mình. Trái lại, chúng ta hãy nhìn Chúa Giêsu, tin tưởng Người, phó thác vào Người, xác nhận lại lòng tin như thánh Phêrô, “Chúng con tin Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Theo “Sunday homilies”).
Một vị khổ tu sống rất nhiệm nhặt, hằng ngày ông ra sức chiến đấu chống lại tình dục và mọi thói hư tật xấu. Có thể nói suốt đời ông luôn chống trả các chước cám dỗ của ma quỷ xác thịt thế gian là ba kẻ thù của tín hữu Chúa.
Đến tuổi già, ông phải nhắm mắt lìa đời như mọi người. Cái chết của ông khiến mọi người thương tiếc, nhưng cũng an ủi vì tin chắc rằng ông sẽ được Chúa thưởng. Và một đệ tử của ông không chịu nổi sự ra đi của ông nên cũng ngã bệnh và chết theo ông.
Bên kia thế giới, người đệ tử nầy chứng kiến cảnh tượng rất hài lòng. Anh thấy bên cạnh thầy đáng kính có người đàn bà tuyệt vời. Anh tin thầy mình đã được Chúa thưởng xứng đáng, vì những chay tịnh và việc kiên tâm chống lại các chước cám dỗ lúc còn sống. Anh mon men đến gần thầy chúc mừng:
– Thưa Thầy, thật Chúa là Đấng công minh chính trực. Người đã thưởng công Thầy xứng với công lao Thầy đã lập lúc còn sống ở thế gian.
Thế nhưng anh ngạc nhiên thấy thầy không lộ chút vui mừng nào, mà còn buồn bả thốt lên:
– Đây không phải là thiên đàng. Ta chưa được thưởng. Và người đàn bà nầy cũng bị trầm luân như ta.
Câu chuyện trên đây do nhà tu đức học người Ấn độ là cha Anthony de Mello kể. Ý cha muốn nói sự thánh thiện không hệ ở lối sống khắc khổ bề ngoài. Đạo chúng ta cốt yếu là một Con Người. Con Người đó chính là Chúa Giêsu. Đó là sức sống và là sức sống muôn đời cho những ai tin theo Người.
Chính trong Tin mừng hôm nay, Người đã tuyên bố rõ, “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời … Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và sự sống.” Đối lại với việc giữ đạo hình thức của người Do thái nhất là các biệt phái xưa, Chúa Giêsu đã chỉ dạy cách sống đạo đích thực. Sống đạo đích thực không phải chỉ chu toàn lề luật, nhưng cốt yếu là tin theo Chúa Giêsu. Tin theo Chúa trước hết là sống siêu thoát như Người. Tin theo Chúa là sống phó thác như Người, sẵn sàng đón nhận và thực thi ý Chúa Cha trong từng biến cố của cuộc sống, dù phải trăm chiều gian lao thử thách và cả phải chết đi. Tin theo Chúa cũng có nghĩa là sống bằng sức sống của Người ban, qua Lời Người và Thịt Máu Thánh Người. Cần học hỏi thực hiện Lời Người, cần siêng năng dọn mình rước lấy Thánh Thể Người (theo “Truyện vui suy niệm”).
Khắp nước Phi Luât Tân, đâu đâu bạn cũng thấy những dòng chữ nói về Chúa, đặc biệt những câu trích nguyên văn Lời Chúa trong Tinh mừng, nhắc nhở mọi người sống và thực hành Lời Chúa trong đời sống hằng ngày. Có thể nhờ đó mà chín mươi phần trăm người Phi Luật Tân đã tin thờ Chúa. Những Lời Chúa khắp nơi đó khích lệ, động viên, nhắc nhở, cảnh tỉnh mọi người can đảm hướng thiện hành thiện trong mọi hoàn cảnh và từng giây phút trong cuộc sống. Lời Chúa là sức mạnh cải biến con người, phát sinh hiệu quả như ngôn sứ Isaia xác quyết:
“Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời, không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn. Lời Ta cũng thế, một khi phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở về với Ta, nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.”
Khắp nước Phi Luât Tân, đâu đâu bạn cũng thấy những dòng chữ nói về Chúa, đặc biệt những câu trích nguyên văn Lời Chúa trong Tinh mừng, nhắc nhở mọi người sống và thực hành Lời Chúa trong đời sống hằng ngày. Có thể nhờ đó mà chin mươi phần trăm người Phi Luật Tân đã tin thờ Chúa. Những Lời Chúa khắp nơi đó khích lệ, động viên, nhắc nhở, cảnh tỉnh mọi người can đảm hướng thiện hành thiện trong mọi hoàn cảnh và từng giây phút trong cuộc sống. Lời Chúa là sức mạnh cải biến con người, phát sinh hiệu quả như ngôn sứ Isaia xác quyết:
“Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời, không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn. Lời Ta cũng thế, một khi phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở về với Ta, nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.”
Ba bài Tin Mừng của ba Chúa nhật trước đã thuật lại bài giảng của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống và cho biết thái độ cũng như phản ứng của dân chúng. Mặc dầu được thấy các sự lạ, được ăn bánh hóa nhiều, nhưng khi nghe Chúa nói Ngài là manna mới, là bánh bởi trời đích thực, Ngài bởi trời xuống, thịt Ngài thật là của ăn, máu Ngài thật là của uống, ai ăn thịt Ngài và uống máu Ngài thì sẽ được sự sống đời đời… họ lẩm bẩm với nhau, xô xát nhau và phản đối Chúa dữ dội, họ đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và cũng chính là ý nghĩa mà Chúa muốn nói, nên chẳng những Chúa không cải chính mà còn giải thích rõ hơn và nhấn mạnh hơn, nên có nhiều người đã bỏ đi không nghe Chúa nói nữa.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại phản ứng của các môn đệ nói chung và của nhóm 12 tông đồ nói riêng, mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giải thích thêm. Trước hết, nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người Do Thái khác: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”, họ lẩm bẩm với nhau như thế. Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải thích thêm cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu xa hơn vào bản thân và sứ mạng của Ngài. Nhưng có nhiều môn đệ đã rút lui không đi theo Chúa nữa. Như vậy, không những dân chúng chán ngán vì những lời Chúa Giêsu tuyên bố với họ, mà cả các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm 12, những người được coi là thân tín nhất của Chúa. Những người này đã có thái độ thế nào hay phản ứng của họ ra sao? Ông Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: Họ không bỏ Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Như vậy, ông Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, tin vào sứ mạng của Ngài, Ngài có những lời đem đến sự sống đời đời.
Như vậy, qua bài giảng về Bánh Hằng Sống, chúng ta thấy đám đông dân chúng vì thấy Chúa không đáp ứng nguyện vọng của họ, nên lẩm bẩm, không tin và bỏ đi. Ngay cả các môn đệ cũng bỏ Ngài, vì không chấp nhận nổi những lời tuyên bố của Ngài, họ cũng thất vọng và bỏ đi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn còn một niềm an ủi, đó là các tông đồ thân tín, vẫn cương quyết đi theo Ngài và tin vào lời Ngài.
Nhìn về chúng ta, đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người phải đích thân chọn lựa. Đành rằng cộng đoàn đức tin nâng đỡ mỗi người sống đức tin, nhưng mỗi người phải đích thân dứt khoát: đứng lại với Chúa không phải chỉ vì thấy người khác còn đứng lại hay vì chưa gặp dịp thuận tiện để tháo lui. Nhưng đứng lại với Chúa vì tin rằng Ngài là Đấng có lời ban sự sống đời đời, không còn ai khác để mình đi theo, tức là đòi hỏi chúng ta phải luôn trung thành với Chúa dù gặp hoàn cảnh nào cũng vậy, chẳng hạn như ông Ma-ranh trong câu chuyện sau:
Thời vua Ga-liên bách hại đạo, trong quân đội Rôma có một sĩ quan tên là Ma-ranh, xuất sắc, lừng danh, bách chiến bách thắng. Ai cũng biết Ma-ranh sắp được thăng đại tướng, chính ông cũng rất hy vọng như thế. Nhưng Ma-ranh là người Công giáo tốt, suốt đời ông chỉ xin ơn trung thành với lời hứa ngày chịu phép Rửa tội. Khi ấy, một trong các đại tướng Rôma chết bất ưng. Hôm sau, vị toàn quyền mời Ma-ranh đến vui vẻ nói: “Tôi vừa được lệnh nhà vua gọi ngài lên chức đại tướng, và tôi được hân hạnh trao quyền tổng chỉ huy cho ngài, nhưng nghe đâu ngài là người Công giáo, mà nhà vua thì không chịu để một người Công giáo nào trong sĩ quan quân đội hoàng gia, vậy xin ngài nói cho biết ngài có phải là người Công giáo không?”. Ma-ranh quả quyết: “Thưa, đúng thế, tôi là người Công giáo”. Viên toàn quyền nghiêm nghị nói: “Tôi cho ngài ba tiếng đồng hồ để nghĩ lại, nếu chối Giêsu thì làm đại tướng, nếu không ngài phải chết”. Ma-ranh ra về, đến gặp vị giám mục và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vị giám mục cầm tay Ma-ranh đưa vào nhà thờ, dẫn lên cung thánh, là chính nơi ngày xưa Ma-ranh đã thề trọn đời trung thành với Chúa Kitô. Rồi vị giám mục rút thanh gươm bên hông của Ma-ranh đặt bên cạnh sách Tin Mừng trên bàn thờ và nói: “Này ông Ma-ranh, dễ giải quyết lắm, phải chọn một trong hai, xin ông nhớ lại ngày rửa tội, rồi tùy ý ông”. Ma-ranh mạnh mẽ cầm sách Tin Mừng nói: “Con thề trung thành với Chúa, con xin trung thành”. Vị giám mục âu yếm nhìn Ma-ranh nói: Con hãy đi bình an, ngày hôm nay sẽ là ngày vinh quang của đời con, ngày hôm nay là ngày con đại thắng”. Và ngày hôm đó, Ma-ranh đã đổ máu vì đức tin Công giáo.
Trong những thế kỷ đầu của Giáo hội, dân ngoại bỡ ngỡ khi thấy người có đạo anh dũng chịu chết vì Chúa. Đâu là lý do của sự can đảm lạ lùng ấy? Thánh Síp-ri-a-nô trả lời: “Chính nhờ Mình Thánh Chúa gìn giữ mà người có đạo mới ra pháp trường một cách anh dũng như vậy”. Đời vua Tự Đức, tổ tiên chúng ta cũng không thua kém các vị tử đạo đầu tiên ở Rôma, nhờ đâu? Nhờ rước Mình thánh Chúa, trong một sắc lệnh cấm đạo của vua Tự Đức có một điều sau: “Không được để cho người ta đem đến cho kẻ có đạo một thứ bánh mầu nhiệm gì đó, vì thứ bánh ấy làm cho họ không biết sợ và vui vẻ chịu chết”.
Trong cuộc sống, có thể chúng ta không phải lựa chọn như ông Ma-ranh hay không bị bách hại như các vị tử đạo, nhưng rất có thể có nhiều lựa chọn khác hay những thử thách khác, đòi hỏi chúng ta phải sống ngay thẳng, công bình, bác ái. Xin Mình Thánh Chúa mà chúng ta rước lấy, tăng thêm sức mạnh để chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách ở đời này, nhất là về phương diện đức tin.
Bài Tin mừng hôm nay cho biết phản ứng của các môn đệ nói chung và của nhóm mười hai nói riêng. Mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giả thích thêm. Suốt cuộc nói chuyện, chúng ta thấy Chúa không ngừng mời gọi người ta đến với Ngài, đón nhận Ngài làm của ăn thức uống. Nhưng không những dân chúng mà nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người Do Thái khác: Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe cho nổi. Họ lẩm bẩm với nhau như thế. Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải thích cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu hơn vào bản thân và sứ mạng của Ngài. Ngài nói Ngài lên nơi Ngài đã ở trước, nghĩa là lên cùng Chúa Cha, vào trong vinh quang của Chúa Cha, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Ngài từ muôn thưở.
Khi nghe Chúa nói như vậy, nhiều môn đệ rút lui, không đi với Chúa nữa. Không những dân chúng chán ngán mà cả đến các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm mười hai tông đồ, những người được coi là thân tín nhất của Chúa. Phản ứng của họ thế nào? Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: họ không bỏ Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Như vậy Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: Ngài là con Thiên Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta đều phải đích thân chọn lựa Chúa. Là Kitô hữu, tức là chấp nhận đi theo Chúa, Đấng không những ban cho chúng ta sự sống đời này, mà còn ban cho chúng ta sự sống đời đời nữa.
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta phải có niềm tin. Chẳng hạn đau bệnh, chúng ta tìm đến thày thuốc, chúng ta đặt niềm tin nơi khả năng và thiện chí của ông ta… Là Kitô hữu, chúng ta không những có niềm tin vào cuộc sống mà còn phải có đức tin nữa. Vậy làm sao có được đức tin? Pascal nói: Muốn có đức tin, bạn phải quì gối xuống và cầu nguyện.
Mẹ Têrêsa cũng nói như thế. Người ta kể lại rằng: lần kia mẹ nói với một phóng viên báo chí: tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin. Người ấy hỏi: tôi phải làm gì để có được đức tin? Mẹ đáp: ông hãy cầu nguyện. Người ấy nói: tôi không thể cầu nguyện. Mẹ bảo: tôi sẽ cầu nguyện cho ông, phần ông, hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh. Một nụ cười có thể đánh động người khác. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống.
Chúng ta nhận được đức tin khi chịu phép rửa tội. Nhưng cũng như mọi thứ tài năng khác nơi con người, đức tin cần phải được nuôi dưỡng. Một tài năng không được nuôi dưỡng sẽ mai một với thời gian. Một đức tin không được vun trồng cũng sẽ chết dần chết mòn. Chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm những việc đạo đức là chúng ta nuôi dưỡng đức tin của mình. Ngoài ra, cả cách sống quảng đại, vị tha và yêu thương cũng là cách nuôi dưỡng đức tin như lời mẹ Têrêsa đã khuyên trên đây: Mỉm cười với mọi người. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống. Một nụ cười còn có giá trị như thế, phương chi là những lời nói, những việc làm còn có giá trị hơn biết bao.
Chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Hẳn chúng ta còn nhớ, Chúa Giêsu vào trong hoang địa và bị cám dỗ. Lúc bấy giờ ma quỉ hiện ra và nói với Ngài:
– Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy biến những hòn đá này trở nên bánh mà ăn.
Sở dĩ ma quỉ cám dỗ Ngài như thế là vì nó biết sau 40 ngày đêm ăn chay cầu nguyện, hẳn Ngài phải đói. Thế nhưng, Ngài đã thẳng thắn trả lời ma quỉ:
– Con người ta không phải chỉ sống bởi bánh, mà còn sống bởi những lời từ miệng Thiên Chúa phán ra.
Và qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng đã thấy: Sau phép lạ bánh hóa nhiều nuôi năm ngàn người trong hoang địa, lợi dụng biến cố đó, Chúa Giêsu đã giới thiệu với họ một thứ lương thực thiêng liêng bổ dưỡng cho tâm hồn, đó là Mình Máu Thánh Ngài như lời Ngài đã phán:
– Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời và Ta, ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.
Trước những lời giới thiệu đầy trang trọng ấy, một số các môn đệ đã lấy làm chướng tai, không thể chấp nhận được, và thế là họ đã bỏ Chúa mà đi. Bấy giờ Chúa Giêsu quay lại vànói với nhóm mười hai:
– Còn các con, các con không bỏ Thầy mà đi hay sao?
Phêrô bèn thay mặt cho nhóm nhỏ ấy mà tuyên xưng:
– Lạy Thầy, bỏ Thầy, chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Tuân giữ và thực thi lời Chúa truyền dạy là điều Ngài luôn luôn nhấn mạnh và đòi buộc mỗi người chúng ta. Thực vậy, có lần Ngài đã phán:
– Không phải những kẻ nói rằng Lạy Chúa tôi mà được vào nước trời, nhưng là những người tuân giữ những điều Ta truyền dạy.
Trước khi về trời, Ngài cũng đã căn dặn các môn đệ:
– Các con hãy đi giảng cho muôn dân, dạy họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho các con và đây Thầy ở cùng các con cho đến tận thế.
Sở dĩ, lời Chúa dẫn chúng ta tới cuộc sống vĩnh cửu vì lời Chúa vạch ra cho chúng ta con đường phải đi và chính con đường ấy sẽ dẫn đưa chúng ta trở về với Chúa. Như thế, việc tuân giữ lời Chúa sẽ là một bảo đảm chắc chắn nhất cho chúng ta ơn cứu rỗi, cũng như niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Để kết luận, tôi xin kể lại một mẩu chuyện nho nhỏ:
Trong một xưởng thợ, người ta bàn tán và cho rằng tôn giáo, nhất là Thiên Chúa giáo làm mê muội trí khôn, bức hiếp lẽ phải và làm sai lạc phán đoán.Một anh công nhân nghe thế bèn góp ý:
– Đúng thế, đạo Chúa và lời Ngài đã làm cho tôi mất đi tất cả.
Mọi người ngạc nhiên, sững sờ đưa mắt nhìn anh. Anh nói tiếp:
– Các bạn có biết không, tôi là người rượu chè be bét, nhưng đạo Chúa và lời Ngài giúp tôi chừa bỏ được rượu. Tôi là người thích cờ bạc, nhưng đạo Chúa và lời Ngài giúp tôi xa tránh được tật này. Xưa kia gia đình tôi luôn cãi vã xô xát nhau, nhưng đạo Chúa và lời Ngài, làm tôi mất đi cái địa ngục ấy và đem vào đó một bầu khí cảm thông và hạnh phúc. Và còn nhiều thứ khác nữa, đạo Chúa và lời Ngài đã làm mất đi nơi tôi và gia đình tôi. Các bạn hãy thực hành lời Ngài và sống đức tin của mình chắc chắn, các bạn sẽ không bao giờ phải hối hận đâu.
Hãy lắng nghe Lời Chúa, hãy suy gẫm Lời Chúa và nhất là hãy sống Lời Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ đạt tới niềm hạnh phúc Nước Trời.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu không phải chỉ chữa lành và nuôi dưỡng phần xác, nhưng quan tâm chính của Ngài là nuôi dưỡng và chữa lành tâm hồn họ. Đó chính là điều mà Phêrô đã gọi một cách thật thích đáng: Lời đem lại sự sống đời đời. Lời của Ngài thật sự đem lại sự sống. Chúng ta sẽ đưa ra một vài thí dụ về những lời Ngài đã nói.
Con hãy đi bình an, tội con đã được tha. Với lời này, Ngài trả lại tự do cho bệnh nhân. Thày đây, anh em đừng sợ. Với lời này, Ngài trán an nỗi sợ hãi của các tông đồ khi họ nghĩ rằng mình sáp chết đuối. Ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát. Với lời này, Ngài làm dịu đi cơn khát trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Với lời này, Ngài làm cho tâm hồn chúng ta được no thỏa. Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo tôi sẽ không còn bức đi trong bóng tối, nhưng sẽ luôn có ánh sáng sự sống. Với lời này, ánh sáng của Ngài không những không có bóng tốt, mà còn không có cả sự chết, bởi vì chính Ngài đã chiến thắng sự chết. Tôi là mục tử tốt lành, tôi biết chiên tôi và chúng biết tôi, tôi cho chúng sự sống đời đời. Với lời này, Ngài khuyến khích chúng ta bước theo Ngài để tiến tới đồng cỏ Nước trời. Tôi là sự sống lại và là sự sống, ai tin tôi sẽ không chết muôn đời. Với lời này, Ngài an ủi chúng ta khi gặp phải những khổ đau buồn phiền. Anh em đừng sợ hãi, Thày đi để dọn chỗ cho anh em. Với lời này Ngài khích lệ chúng ta khi gặp phải những băn khoan lo lắng trên đường đời.
Có lần các nhà lãnh đạo tôn giáo sai các vệ binh trong đền thờ đến bắt Ngài, nhưng họ không bao giờ đặt tay lên Ngài được. Trái lại, họ say mê giáo huấn của Ngài. Họ thừa nhận rằng lời Ngài giảng dạy thật lạ lùng, họ trở về với các ông chủ của họ và nói: Không có ai giảng dạy giống như Ngài. Quả thật, Chúa Giêsu có lời đem lại sự sống đời đời. Và những lời của Ngài được gìn giữ cho chúng ta trong Tin mừng.
Anh em cũng muốn bỏ đi sao? Giờ đây, Ngài cũng muốn nói với mỗi người chúng ta như thế. Không phải Ngài lìa bỏ chúng ta, nhưng chúng ta có thể lìa bỏ Ngài. Và qua dòng thời gian, nhiều người đã làm như thế. Chúng ta cần tuyên xưng lại lời tuyên xưng đang của thánh Phêrô: Bỏ Thày chúng con biết theo ai. Thày mới có lời đem lại sự sống đời đời.
Liệu chúng ta đã thực sự tuyên xưng và sống lời tuyên xưng của mình như vậy hay chưa?
Trong những năm gần đây, chúng ta thấy xuất hiện nhiều giáo phái. Một trong những điều gây xáo trộn nhiều nhất của các giáo phái là ảnh hưởng chúng gây ra cho những người đi theo chúng. Các thủ lãnh luôn là những kẻ có tham vọng khống chế người khác. Và các thành viên thường là những người sợ hãi, dao động và nhu nhược, dễ làm mồi cho những lãnh tụ như thế.
Có một sự khác biệt lớn giữa cách giao tiếp của Đức Kitô và của các thủ lãnh giáo phái. Thực vậy, trong các giáo phái chúng ta thấy có sự tôn vinh cá nhân lãnh tụ. Còn Đức Kitô không bao giờ tìm kiếm vinh quang cho chính mình. Ngài quy hướng mọi việc về Chúa Cha, bởi vì Ngài đến để thi hành thánh ý Cha Ngài. Ngài làm cho mình trở thành tôi tớ của mọi người. Các tiên tri giả thường hứa hẹn cho các môn đệ một thiên đàng trần gian dưới một hình thức nào đó. Điều này trở thành một cách chiêu dụ. Đức Kitô không hứa hẹn như thế cho các môn đệ. Trái lại, Ngài nói với họ rằng họ phải vác thập giá và chịu bách hại khi bước theo Ngài.
Khi các lãnh tụ giáo phái nhìn thấy con tàu đang chìm, họ thường cố gắng bảo đảm rằng phi hành đoàn sẽ chết theo tàu. Trong khi đó, Đức Kitô, vị mục tử nhân lành, đã hiến mạng sống mình để cứu đoàn chiên.
Bằng việc kết hợp chiêu dụ với truyền thụ, những thành viên mới của giáo phái không khác gì những con ruồi bị mắc vào lưới nhện. Tự do của họ hoàn toàn bị lấy mất. Nhưng tự do lại là điều cao quí nhất mà chúng ta có được. Điều duy nhất có giá trị đạo đức và giúp chúng ta trưởng thành phải được thực hiện một cách tự do. Đức Kitô không cưỡng bách một ai đi theo Ngài. Chúng ta có một thí dụ rõ ràng về điều đó trong Tin mừng hôm nay.
Thập giá bắt đầu phủ bóng lên Ngài. Các môn đệ của Ngài phải đối diện trước một quyết định: Ở lại với Ngài hay lìa bỏ Ngài. Có những người ở lại với Ngài khi nào việc giảng dạy của Ngài còn tiến triển, nhưng ngay khi thấy bóng dáng của thập giá, họ liền lìa bỏ Ngài. Có những người đến với Ngài để được Ngài ban cho một ơn huệ nào đó, nhưng khi phải chịu đau khổ với Ngài và hiến thân cho người khác, họ liền bỏ đi. Dù khó tin, nhưng một trong nhóm mười hai đã âm thầm nuôi ý định phản bội Ngài.
Thế nhưng, có một số người còn ở lại với Chúa Giêsu, Phêrộ đã nói thay cho họ. Quyết định ở lại của ông dựa trên lòng trung tín của bản thân ông đối với Đức Kitô. Kế đến dựa trên giáo huấn của Ngài. Mặc dù có nhiều điều ông chưa hiểu, nhưng ông biết rằng Đức Kitô có những lời đem lại sự sống đời đời.
Nếu chúng ta đi theo Đức Kitô, chúng ta được tự do, không phải khi chúng ta làm bất cứ điều gì chúng ta thích, nhưng khi chúng ta làm điều phải. Bấy giờ, chúng ta giống như một dụng cụ được dùng đúng vai trò, đúng công việc mà mình phải thực hiện.
Trước khi đặt chân vào miền đất hứa, ông Giôsuê đã kêu gọi dân Do thái phải có một chọn lựa dứt khoát: phục vụ Thiên Chúa của cha ông họ hay phục vụ những thần tượng gỉa tạo khác. Ông đưa ra một lời cảnh cáo nghiêm trọng: nếu họ chọn đi theo những thần tượng giả tạo, họ sẽ bị chúc dữ. Còn nếu họ chọn Thiên Chúa, họ sẽ được chúc lành. Đây là một chọn lựa nghiêm túc và quả quyết, đúng hơn nó biểu hiện một nền đạo đức cấm đoán. Chúa Giêsu đã đưa ra một viễn cảnh khác: vâng lời không phải dưới sự đe dọa bị trừng phạt, nhưng xuất phát từ tình yêu. Dẫu sao các chi tộc Israen cũng đã tuyên bố: chúng tôi sẽ phụ vụ Thiên Chúa.
Một trong những quà tặng cao quí mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta, đó là tự do lựa chọn. Chắc chắn chúng ta sẽ có một đời sống dễ dàng hơn nếu Thiên Chúa điều hành mọi sự, nhưng bấy giờ chúng ta chỉ là những con rối bị giật dây. Dù chúng ta chỉ có những chọn lựa đúng, nhưng điều đó biến chúng ta trở thành nhưng người máy. Tội lỗi không thể có được, nhưng đồng thời đức hạnh cũng chẳng phát sinh.
Sự kiện Thiên Chúa tôn trọng tự do của chúng ta là một dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Thiên Chúa khg chiếm hữu và cố tình làm chủ chúng ta. Ngài cho chúng ta được tự do lựa chọn giữa tốt và xấu, tự do lựa chọn cái này hoặc cái kia.
Dầu chúng ta không vâng theo những giới răn của Ngài, Ngài vẫn không ngừng yêu thương chúng ta. Nhưng điều đó không có nghĩa là Ngài dễ dãi. Vấn đề ở đây không phải là chúng ta làm gì, mà là một số phận đáng sợ đang chờ đón. Thiên Chúa nhìn thấy mỗi người hành động. Ngài không bỏ qua tội lỗi và những việc làm sai trái.
Khi chúng ta tự do, chúng ta có trách nhiệm về sự lựa chọn của mình cũng như về những hậu quả của sự lựa chọn ấy. Tuy nhiên, Thiên Chúa không để chúng ta phải xoay xở một mình. Ngài ban cho chúng ta ơn sủng để giúp chúng ta thực hiện những chọn lựa đúng.
Cùng với Giáo hội, hôm nay chúng ta suy niệm đoạn tin mừng cuối chương 6 Tin mừng theo thánh Gioan. Sau một diễn từ dài về Bánh Hằng Sống kết quả từ hơn năm ngàn người theo Chúa Giêsu giờ đây chỉ còn lại nhóm Mười Hai.
Những người bỏ đi cho rằng: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6, 60) vì tại hội đường Capharnaum Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống” (Ga 6, 54 – 55)
Có thể, nói những cố gắng của Chúa Giêsu như đổ sông đổ biển. Người muốn dân chúng đến với Người bằng cả lòng tin hơn là bằng thái độ thực dụng. Tiếc thay, động cơ theo Chúa của họ chưa được tinh ròng.
May mắn là còn lại nhóm Mười Hai. Chúa Giêsu hỏi họ: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6, 60). Phêrô thay mặt anh em trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” (Ga 6, 68 – 69). Một lời tuyên xưng đức tin một cách mạnh mẽ.
Lời tuyên xưng này không phải có giá trị ngay hôm nay nhưng sẽ có giá trị trong suốt cuộc đời của các ông. Thật vậy, sau biến cố Phục sinh của Chúa Giêsu các ông đã sống triệt để lời tuyên xưng này. Mỗi người làm chứng cho Chúa bằng cả mạng sống của mình mà chẳng sợ nguy hiểm hay bắt bớ.
Nhân dịp này mỗi người chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của mình. Chúng ta đã đón nhận hồng ân đức tin ngày chịu phép Rửa tội nhưng chúng ta có sống tốt đức tin của mình chưa.
Trong khung cảnh năm giáo dục gia đình những bậc phụ huynh nhìn lại đời sống đức tin của mình có làm gương sáng cho con cái mình chưa. Nếu tôi nhớ không lầm sau khi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan 23 được bầu làm Giáo Hoàng, ngài trở về nhà và khoe với mẹ của mình về chiếc nhẫn Giáo hoàng của mình. Mẹ của ngài liền đưa tay của bà lên và nói: không có chiếc nhẫn này làm sao có chiếc nhẫn đó.Nghĩa là nhờ đời sống đức tin của bà mà ngài mới có được như ngày hôm đó.
Chúng ta cũng vừa cùng với toàn thể Giáo hội mừng trọng thể lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời – một trong 4 đặc ân cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho Mẹ. Chắc chắn Mẹ đã được thừa hưởng đời sống đức tin từ Thánh Gioakim và Thánh Anna nên đời sống đức tin của Mẹ mới được mạnh mẽ như thế. Nhờ đời sống đức tin mạnh mẽ mặc dù gặp không biết bao nhiêu khó khăn thử thách nên Mẹ mới được trọng thưởng như thế.
Hãy noi gương các Tông đồ và Mẹ Maria sống đức tin trong đời sống của mình. Nhất là các bậc phụ huynh hãy tích cực sống đức tin để làm gương sáng cho con cái của mình.
Nhìn thấy một số môn đệ bỏ đi, Chúa Giêsu liền hỏi nhóm mười hai: còn các con, các con có muốn bỏ Thày mà đi nữa không? Lập tức Phêrô đã trả lời: Thưa Thày, bỏ Thày chúng con biết theo ai, vì chì mình Thày mới có Lời ban sự sống đời đời. Qua câu trả lời này, ông đã nhất quyết không bỏ Thày, ông hứa sẽ mãi mãi theo thày, nghĩa là ông đã làm một sự chọn lựa.
Cuộc đời chúng ta là một chuỗi những sự chọn lựa. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính những sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt đẹp và hạnh phúc. Còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì đời sẽ xấu xa và bất hạnh. Sống là phải lựa chọn luôn. Đời là vậy. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cũng nói đến vấn đề lựa chọn. Trong bài đọc một ông Giôsuê đã bảo dân Do Thái phải chọn lựa: thờ Thiên Chúa hay thờ các thần tượng khác. Trong bài đọc hai, thánh Phaolô khuyên các đôi vợ chồng một khi đã chọn nhau làm bạn đườn, thì phải suốt đời trung thành với sự lựa chọn ấy,nghĩa là phải thủy chung, phải tùng phục và phải hòa thuận với nhau.
Còn nếu nói theo từ ngữ Phật giáo, thì chúng ta cũng phải luôn lựa chọn một bên là tham sân si và một bên là lý tưởng đạo đức của mình. Mỗi ngày chúng ta phải đứng trước biết bao sự lựa chọn như thế. Một người đến đề nghị cho chúng ta một kiểu làm ăn gian lận, tiền sẽ có nhiều nhưng lại trái đức công bình: chúng ta phải chọn lòng tham hay là đức công bình. Rồi một người hàng xóm làm điều gì đó không vừa ý chúng ta, chúng ta phải lựa chọn buông theo tính nóng của mình hay nhịn nhục tha thứ. Ai chọn lựa tham sân si là chọn sai, cuộc đời sẽ trở thành xấu xa. Còn ai chọn công bình, bác ái, tự chủ là chọn lấy cái tốt, chọn con đường Chúa đã vạch ra.
Nếu chúng ta chọn Chúa thì sẽ ra sao? Và nếu chúng ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao. Linh mục nhạc sĩ Thành Tâm đã suy diễn câu nói bất hủ của thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau: Bỏ Ngài con biết theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi? Bỏ Ngài con biết theo ai, thuyền không lái biết trôi về đâu? Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ? Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh.
Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chịm bay trong khung trời lộng gió, cũng vẫn như con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình aấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm tới bến bình an. Trên đây là một vài gợi ý về sự lựa chọn trong cuộc đời. Điều quan trọng đó là chúng ta phải biết chọn lựa như thế nào trước những hoàn cảnh riêng của cuộc đời mình. Cầu mong mỗi người chúng ta biết chọn lựa đúng và chọn lựa tốt.
Chắc bạn vẫn nghe thường xuyên về người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Hoặc chính bản thân nhều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống đến những vấn đề quan trọng nhất, người ta đều cóp thể thất trung, bất tín. Ví dụ: Ai cũng biết, hôn nhân là mối giây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp diễn từng ngày. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả của nó.
Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản bội, cũng bất trung không kém. Từ thủơ bình minh của nhân loại, thế giới theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người thôi: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài, nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống lại Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường hết được: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.
Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường, nếm đủ mùi vị của khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn…, đã làm cho dân của Chúa mất kiên nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron đã vậy, họ còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: ” Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu, có phải con sinh ra nó đâu?… Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn…” (Ds 11, 12 tt). Trong sa mạc, lòng dân quyên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại nhiều lần đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.
Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về sự bất trung và lòng thương xót ấy. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: ” Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác”, và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính vì sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần phải chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi bật lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoang dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba động từ: phản bội – nổi giận – tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.
Đó là bài đọc I trích sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của thánh Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm, cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá… Chính những giờ phút quan trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quyên mất lời tuyên xưng mới đó, tính cho đến nay chưa được bao lâu. Vì một chúc sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!
Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Giáo Hội mời gọi ta suy niệm các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành của ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một lòng khoang dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi vẫ có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không còn hy vọng nữa mà thôi. Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính mình đã đánh mất.
Đời người là một chuỗi liên kết giữa những chọn lựa và quyết định. Chọn lựa luôn đi kèm theo một trách nhiệm, sự liên đới với những người khác. Chọn lựa đúng, đời sẽ hạnh phúc, nếu không sẽ là bất hạnh. Những người Do Thái không chọn Chúa, vì họ không tin Ngài. Các môn đệ cũng vậy, một số bỏ đi khi Chúa nói về Bí Tích Thánh Thể. Chỉ một số ở lại, vì họ tin Chúa Giêsu có Lời ban sự sống.
Thử thách trong chọn lựa
Có một chủ nông trại nọ thuê một người thanh niên đến nhặt khoai tây cho nông trại. Công việc hết sức đơn giản, hằng ngày anh này chỉ có một việc là ngồi phân loại các củ khoai tây và cho vào sọt. Lớn theo lớn, trung bình theo trung bình và nhỏ theo nhỏ. Sau một thời gian, anh thanh niên đến gặp ông chủ và xin nghỉ việc. Được hỏi lý do, anh ta giải thích: công việc ông giao phó không phải là công việc nặng nhọc, nhưng điều làm cho tôi nhức óc đó là phải chọn lựa.
Dân Do Thái chọn Chúa
Cách đây gần ba ngàn năm, Giôsuê cũng bảo tòan dân Israel phải dứt khóat chọn lựa: Hôm nay các ngươi phải chọn, hoặc thờ các thần, họăc thờ Thiên Chúa (Gs 24,15). Thú vật dường như không có chọn lựa và quyết định, chúng chỉ sống theo bản năng. Con người có lý trí và tự do, nhất là con người biết chọn lựa hướng đi cho cuộc đời của mình. Thánh Phêrô là người đã mạnh mẽ nói lên chọn lựa căn bản và dứt khóat của mình: “Ông Si-mon Phêrô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Quả vậy, sai lầm lớn lao của con người là thay vì chọn Thiên Chúa để tôn thờ, họ lại đi chọn các thụ tạo để suy tôn. Danh vọng, tiền tài, lạc thú, chúng chỉ là những phương tiện, giúp cho con người hoàn thành sứ mạng của mình trên trần gian này. Chúng không phải là cứu cánh, càng không phải là đích điểm của cuộc đời.
Con người chọn lựa
Chọn lựa bao giờ cũng phải mất mát và hy sinh.Khi tôi quyết định chọn cuộc đời sống độc thân để tôn thờ Thiên Chúa, và phụng sự anh em, thì đồng thời tôi phải hy sinh cả một đời sống gia đình bình thường như bao người khác. Hoặc khi anh chọn một người phụ nữ làm vợ mình thì anh phải dứt khóat với những người đàn bà khác, nếu không gia đình sẽ tan vỡ và hôn nhân trở thành đại họa. Thiên Chúa ban cho con người có tự do, chính vì điều đó mà con người có quyền chọn thiên đàng hay hỏa ngục. Một khi khước từ Thiên Chúa, con người sẽ không còn xem người khác là anh em mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết chọn Chúa làm gia nghiệp của đời mình. Chọn Chúa chứ không phải là công việc hằng ngày. Bởi nếu chọn công việc của Chúa thì lúc thất bại con sẽ dễ dàng bỏ Chúa. Còn khi con chọn Chúa, thì không gì có thể làm con xao động. Mục vụ thì đầy ắp những công việc, bề bộn những chương trình, kế họach thì đan kín thời gian. Sẽ là vô ích, nếu như con không nhận ra thánh ý Ngài là tất cả, có Ngài đời sẽ tràn trề niềm hoan lạc tuổi xuân. Như các môn đệ không bỏ ra đi, con cũng xin thân thưa cùng Chúa: “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga. 6, 68-69).
Trong đời sống con người trên trần gian, chúng ta thấy có biết bao thứ phải lựa chọn. Ngoài những lựa chọn thông thường hằng ngày như lựa chọn đồ dùng tốt xấu, nơi ăn chốn ngủ, xe cộ, áo quần… Còn có những thứ lựa chọn liên hệ đến cả vận mệnh của một dân tộc, làm đảo lộn lịch sử các quốc gia. Chẳng hạn Napoléon, vị tướng lãnh tài ba của Pháp Quốc, có lần phải mất năm phút để lựa chọn gấp rút nên tiến quân hay rút quân. Ông đã quyết định tiến quân và ông đã chiến thắng. Tổng Thống Lincoln đã phải chiến đấu để thắng chính bản ngã riêng tư của ông, để trả tự do cho người nô lệ. Ông đã quyết định hợp lý. Lịch sử đã tặng cho ông danh hiệu người giải phóng nô lệ. Người dân Nga Sô, dân Trung Hoa và các nước chư hầu của Nga Sô và Trung Hoa đã lầm lẫn khi lựa chọn theo thuyết cộng sản vô thần như một quốc sách, nên đã làm cho các dân tộc của họ ngày càng lùi dần về thời ăn lông ở lỗ, nghèo túng, đói rét, lạc hậu và cái mộng ước thiên đàng trần gian của chủ thuyết Kart Mark, Lénine đã trở thành mây khói hão huyền, gây nên bao đau thương đổ nát và tuyệt vọng.
Còn có thứ lựa chọn quan trọng và cần thiết hơn bội phần, như lựa chọn ơn gọi, sống Bậc Hôn Nhân giữa trần gian hay sống Bậc Thánh Hiến phụng sự Chúa trong đời sống tu trì; hoặc phải lựa chọn giữa điều thiện và điều ác, lựa chọn lên Thiên Đàng hay xuống hỏa ngục… Những lựa chọn này rất quan trọng vì nó không những chỉ liên quan đến hạnh phúc của cuộc sống trần gian mà còn liên hệ tới cứu cánh của cuộc sống vĩnh cửu trong đời sống mai hậu. Henry VIII, vua Anh Quốc đã chọn một người đàn bà bất hợp pháp làm vợ, tạo nên Anh Giáo, một giáo phái ly khai với Giáo Hội Công Giáo… Trước những lưỡng lự, ngã ba, ngã tư của cuộc đời, con người cần phải biết khôn ngoan lựa chọn và quyết định thế nào cho hợp với thánh ý Thiên Chúa. Có thể nói: Hạnh phúc cho những ai biết quyết định và lựa chọn đúng với thánh ý Thiên Chúa; nhưng trái lại, vô phúc cho những ai quyết định và lựa chọn phản lại thánh ý Ngài.
Bài đọc I hôm nay thuật lại việc ông Giosuê phải đau lòng trước sự ngỗ nghịch phản bội của dân Do Thái, ông đã triệu tập toàn thể dân chúng lại, truyền cho các kỳ lão, thủ lãnh các gia tộc, các quan án, các sĩ quan đến đứng trước nhan Chúa, rồi ông nói với họ: “Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần?” Toàn dân đã biết hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đã đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài, khi thưa với ông Giosuê: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi”.
Dân Do Thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã cứu họ thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Ngài đã làm biết bao việc kỳ diệu, những phép lạ do cánh tay hùng mạnh của Ngài; Ngài đã thi thố biết bao ơn phúc khi dẫn đưa dân tộc họ vào Đất Hứa, đất chảy sữa và mật mà Chúa đã hứa với cha ông của họ. Mặc dầu họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại phụng thờ Ngài. Chúa đã chấp nhận lòng sám hối của họ khi họ đồng tâm từ bỏ tà thần, trở lại chọn Chúa để tôn thờ Ngài. Dân Do Thái đã quyết định và lựa chọn đúng. Nhưng thực sự, dân Do Thái có trung thành với lời giao ước mà họ đã ký kết khi quyết định chọn Chúa để tôn thờ Ngài hay không? Lịch sử dân Do Thái đã đủ chứng minh cho câu trả lời này.
Thánh Phaolô đã dùng một hình ảnh cụ thể trong đời sống hôn nhân, với một tình yêu thương khắng khít và sự lệ thuộc giữa vợ chồng, để dạy cho chúng ta một bài học, nói lên sự lệ thuộc và tình yêu mến chúng ta phải có đối với Thiên Chúa. Đồng thời, ngài cũng nhắc chúng ta tưởng nhớ lại biết bao ơn phúc Chúa đã ban cho chúng ta, khi nói đến tình Chúa yêu thương Hội Thánh, đã hiến thân chịu chết vì Hội Thánh là thân mình mầu nhiệm của Chúa. Mỗi người chúng ta là phần tử làm nên Hội Thánh là Nhiệm Thể của Chúa Kitô, chúng ta cũng phải hoàn toàn sống cho Chúa, chỉ chọn Chúa và tôn thờ Người, tuyệt đối lệ thuộc vào Chúa và hết lòng phụng sự Người.
Thánh Phaolô đã kết luận: “Bởi thế, người ta lià bỏ cha mẹ để kết hợp với bạn mình và cả hai nên một huyết nhục. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh”. Còn chúng ta, chúng ta có từ bỏ mọi sự để kết hợp nên một với Chúa, hết lòng yêu mến, phụng sự, tôn thờ Người không?
III. CHÚA LÀ MỌI SỰ CỦA CON
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại: Sau khi Chúa giảng cho dân chúng về Bánh Hằng Sống và lương thực bởi trời; Ngài tự xưng mình là Bánh Hằng Sống và quả quyết với họ rằng: “Đây là ý muốn của Chúa Cha, Đấng đã sai Ta: Hễ ai xem thấy Chúa Con và tin kính Ngài, sẽ được đời đời hằng sống và Ta sẽ khiến kẻ ấy được sống lại trong ngày sau hết” (Jn 6:40). Người còn quả quyết: “Thật vậy, Ta nói thật với các ngươi; kẻ tin kính Ta sẽ được sống đời đời. Ta là Bánh Hằng Sống” (Jn 6:47).
Có nhiều môn đệ khi nghe lời quả quyết đó, họ cho là chói tai, khiến họ tức giận từ bỏ Chúa ra đi. Chúa biết truyện đó, nên hỏi họ: “Điều đó làm các ngươi khó chịu ư? Vậy nếu các ngươi thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính Thần Trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Những lời Ta nói với các ngươi là Thần Trí và Sự Sống. Nhưng trong các ngươi có một số kẻ không tin”… Sau khi họ bỏ Chúa ra đi, Chúa quay lại hỏi các Tông Đồ: “Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy ra đi không?” Thánh Phêrô đại diện các Tông Đồ thưa với Chúa rằng: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Ngày chúng ta lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta tuyên thệ từ bỏ Satan, từ bỏ tội lỗi, từ bỏ mọi sự thuộc về Satan và tội lỗi… Chúng ta tôn nhận Chúa là Thiên Chúa và chỉ tôn thờ, phụng sự, yêu mến duy một mình Người.
Hơn nữa, ngày chúng ta tuyên lời khấn, thánh hiến chọn cuộc đời cho Chúa, tự nguyện tuân giữ ba lời khuyên của Tin Mừng, chúng ta đã tôn nhận Chúa làm gia nghiệp đời đời, làm Bạn Tâm Phúc của chúng ta, là chúng ta làm mới lại, thêm xác tín vững mạnh hơn, thêm thánh thiện hơn lời chúng ta đã long trọng tuyên thệ ngày chúng ta lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, tôn nhận Chúa và chỉ phụng sự yêu mến duy một mình Ngài.
Kết Luận
Không như dân Do Thái chọn Chúa, nhưng lại đã bất trung với lời giao ước, phản bội Chúa, không tôn thờ Ngài; còn chúng ta, chúng ta có trung thành với lời tuyên thệ chọn Chúa, tôn thờ, phụng sự, yêu mến Chúa là cùng đích, là hạnh phúc, là gia nghiệp đời đời của chúng ta chưa? Vì, được Chúa là được mọi sự, mất Chúa là mất tất cả.
Câu hỏi gợi ý:
Suy tư gợi ý:
Khi nghe Đức Giêsu nói: «Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời», chẳng những người Do-thái nghe không lọt tai, mà ngay cả các môn đệ cũng có những người không chấp nhận được. Họ đã hiểu câu Ngài nói theo nghĩa vật chất, theo mặt chữ, mà không chịu hiểu theo nghĩa tâm linh, theo Thần Khí. Thế là «nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa». Ngài đã để mặc họ bỏ Ngài, vì thấy họ không thích hợp với công việc của Ngài, vốn mang nhiều tính chất «thần khí» hay tâm linh.
Trong Tin Mừng có nhiều trường hợp tương tự như trường hợp này. Nhiều lần, Đức Giêsu nói xong, người ta không hiểu, Ngài chẳng những không giải thích thêm, lại còn nói: «Ai có tai thì nghe» (nghĩa là ai hiểu được thì hiểu) (Mt 11,15; 13,9; 13,43; Mc 4,9; 4,23; 7,16; Lc 8,8). Vì chân lý không phải là ai cũng có thể hiểu và sẵn sàng đón nhận, như Ngài đã nói: «Thế là đối với họ, lời sấm của ngôn sứ Isaia đã ứng nghiệm: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, vì lòng dân này đã ra chai đá» (Mt 13,14). Một hình thức của chai đá tâm trí là chỉ hiểu được lời Chúa theo nghĩa vật chất mà không thể hiểu theo nghĩa tâm linh, chỉ biết chấp vào lời mà không chịu hiểu ý, nhất là khi lời đó diễn tả những chân lý thâm sâu về Thiên Chúa và đời sống tâm linh.
Khi thấy có những môn đệ không chấp nhận vì hiểu sai, Ngài đã soi sáng thêm: «Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?» Ngài gợi ý cho họ thấy hai cách hiện hữu của Ngài: cách hiện tại là hiện hữu trong xác thịt, còn cách hiện hữu trước kia là hiện hữu trong thần khí. Nhắc tới hai cách hiện hữu ấy, Ngài gợi ý cho các ông hiểu rằng: lời của Ngài cần hiểu theo nghĩa tâm linh, chứ không thể hiểu theo nghĩa thể chất. Câu nói kế tiếp của Ngài lại càng khai sáng vấn đề hơn: «Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống». Lời Ngài nói là thần khí chứ không phải xác thịt, nên phải hiểu theo nghĩa tâm linh chứ không phải nghĩa thể chất. Hiểu theo nghĩa thể chất thì những từ «thịt» và «máu» Ngài vừa nói chính là thịt và máu vật chất, tức xác thịt. Ngài đã loại bỏ cách hiểu này: «Xác thịt chẳng có ích gì». Ngài đề cao cách hiểu theo nghĩa tâm linh qua câu: «Thần khí mới làm cho sống».
Thánh Phaolô cũng so sánh hai cách hiểu ấy: «Giao Ước Mới không phải là Giao Ước căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống» (2Cr 3,6). Chữ viết là vật chất, ai chỉ biết hiểu lời Chúa theo nghĩa vật chất của chữ viết, thì cách hiểu ấy sẽ giết chết tâm linh của người ấy. Lời Chúa cần được hiểu theo nghĩa tâm linh, nghĩa là «dựa vào Thần Khí», cách hiểu này mới «ban sự sống». Sự sống ở đây là sự sống tâm linh chứ không phải thể chất. Về vấn đề giữ luật, thậm chí luật cắt bì là một luật hết sức quan trọng trong Cựu Ước, thánh Phaolô chủ trương phải giữ theo tinh thần của lề luật chứ không phải theo chữ viết: «Phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật» (Rm 2,29). Vậy, khi đọc Kinh Thánh, đặc biệt sách Khải Huyền, những chân lý thâm sâu cần được hiểu theo nghĩa tâm linh. Hiểu theo nghĩa vật chất nhiều khi dẫn tới sự phi lý và không đem lại «sự sống» hay lợi ích thực tế.
Khi nghe Đức Giêsu nói câu khó hiểu, thậm chí có vẻ phi lý và chướng tai ấy, tôi nghĩ, chắc hẳn ngay lúc ấy chẳng ai trong các môn đệ đủ trình độ để hiểu được ý nghĩa lời của Ngài. Nhưng các môn đệ đã phản ứng theo hai cách: một số rút lui và số còn lại vẫn trung thành theo Ngài.
Những môn đệ từ bỏ Ngài, không chịu làm môn đệ Ngài nữa, là vì họ nghe Ngài nói điều mà họ thấy là phi lý không thể chấp nhận được. Họ hoàn toàn có lý của họ. Nhưng phải nói họ là những người đã bị chai đá về mặt lý trí. Hễ điều gì họ đã cho là đúng, mà có ai nói ngược lại, nói những điều không lọt tai họ, thì họ tiên thiên cho là sai, và không thèm nghe, suy nghĩ hay tìm hiểu thêm. Những người này sẽ không bao giờ tiếp nhận được những kiến thức mới, những khám phá mới về chân lý. Vì chân lý thì vô tận, con người khám phá không ngừng và không bao giờ hết. Những khám phá mới nhiều khi phủ nhận hoặc vượt qua những khám phá cũ. Chẳng hạn nếu các em học sinh cấp I cứ chấp cứng vào kiến thức mà các em thu thập được ở trường lớp là: không được lấy số lớn trừ số nhỏ vì đó là một sự phi lý, thì các em sẽ cho các thầy dạy cấp II là dạy bậy. Vì ở cấp II, việc lấy số nhỏ trừ số lớn để ra một số âm là chuyện bình thường. Hay ở cấp II và III, việc đặt số âm trong một căn hiệu là phi lý, nhưng ở đại học, khi học về số ảo, thì một số âm vẫn luôn luôn có căn số.
Đức Phật có đưa ra một minh họa về vấn đề này: Một người có duy nhất một đứa con mà ông rất thương yêu. Khi ông đi vắng để đứa con ở nhà thì kẻ cướp đến đốt làng cướp bóc và bắt con ông đi. Khi về, ông thấy thi hài một đứa bé cháy đen bên căn nhà mình. Ông tin ngay là con mình và chôn cất trong sự thương tiếc. Mấy tháng sau, con ông tìm cách thoát được bọn cướp, tìm về đến nhà lúc nửa đêm và gõ cửa xin vào. Nhưng ông không chịu ra mở cửa vì cứ nhất định là con ông đã chết rồi, và cho rằng đứa gõ cửa là một thằng mất dạy nào đó trêu chọc ông. Rồi ông nhất quyết không nhận nó là con, bất chấp những bằng chứng hợp lý trước mắt.
Người ta nói: «Khoa học là mồ chôn những giả thuyết», vì giả thuyết mới phủ nhận giả thuyết cũ. Sự vật thì không thay đổi, nhưng khi ta biết 10 điều, ta nghĩ về sự vật thế này. Khi biết 100 điều, ta lại nghĩ thế khác. Khi biết 1000 điều, ta lại nghĩ hoàn toàn khác nữa. Ta nên tiếp tục nghĩ rằng khi biết 2000, 3000… điều, ta cũng sẽ tiếp tục nghĩ khác. Vậy trong đời sống tâm linh, hãy luôn luôn tỉnh thức để đón nhận những đổi mới của Thánh Thần trong cả cách nhìn về Thiên Chúa và về những chân lý cao sâu. Các tư tế và kinh sư Do-thái chính vì chấp vào những hiểu biết dựa trên Kinh Thánh và thần học của họ mà đã lên án và giết Đức Giêsu!
Còn những môn đệ khác mà điển hình là Phêrô, tuy cũng thấy phi lý và chói tai, nhưng nghĩ rằng mình chưa hiểu được hết ý của Ngài. Qua những sự kiện thấy được nơi Đức Giêsu, họ tin Ngài là người nắm được những chân lý cao siêu, là «Đấng Thánh của Thiên Chúa». Vì thế, dù Ngài nói điều gì nghe không lọt tai, họ vẫn tạm chấp nhận để tiếp tục theo Ngài, mong có cơ hội sau này hiểu được điều ấy. Và đương nhiên sau này họ đều hiểu. Đó là thái độ khiêm nhường nhưng rất hợp lý: cho rằng khả năng hiểu biết mình còn non kém thì đúng hơn là cho rằng Thầy mình nói sai.
Tất cả những hiểu biết của nhân loại – kể cả của Giáo Hội – đều là những hiểu biết tương đối, phù hợp với số lượng những khám phá của họ. Khi khám phá ra nhiều sự kiện hơn nữa, ắt nhiên mọi người sẽ phải thay đổi quan niệm hay hiểu biết của mình. Trong đời sống tôn giáo hay tâm linh, điều quan trọng là chúng ta phải sẵn sàng đổi mới quan niệm và sẵn sàng từ bỏ những kiến thức cũ của mình thì mới theo kịp Thánh Thần. Ngài là Đấng luôn luôn «đổi mới mặt đất này» (Tv 104,30) và sẽ dẫn chúng ta «tới sự thật toàn vẹn» (Ga 16,13). Nên nhớ cách hành động của Thiên Chúa là: «Khi Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới, Người làm cho giao ước thứ nhất hoá ra giao ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi, thì sẽ tan biến đi» (Dt 8,13). Nếu ta cứ chấp vào giao ước cũ, làm sao ta đón nhận được giao ước mới? Nên nhớ, chỉ một mình Thiên Chúa là không thay đổi, còn mọi hiểu biết của con người về Thiên Chúa thì phải thay đổi theo trình độ trí thức và tâm linh con người. Cứ chấp vào hiểu biết cũ làm sao đón nhận những hiểu biết mới?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, Thánh Thần của Cha luôn luôn đổi mới mọi sự trong thế gian này. Xin cho chúng con biết thích ứng với Thánh Thần, sẵn sàng từ bỏ quan niệm cũ, cách hiểu biết cũ để theo quan niệm và cách hiểu biết mới mà Thánh Thần hướng dẫn. Đừng để chúng con đi vào bánh xe đã đổ của các kinh sư Do-thái: cứ chấp vào hiểu biết cũ nên không theo kịp cái mới của Thánh Thần, để cuối cùng bị đào thải về mặt tôn giáo. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Cả anh em nữa, anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không? Chúa Giêsu không hỏi: anh em có tiếp tục theo Thầy không mà lại hỏi thẳng thừng: anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không. Một câu hỏi không thuộc dạng mời gọi như trước đây mà là đặt vấn đề chọn lựa rõ ràng, dứt khoát.
Kitô hữu chúng ta theo đạo không phải là theo một học thuyết mang tính triết lý hay thần học nào đó, nhưng là theo một “con người”, theo một “ai đó”, một “Đấng nào đó”. Đấng hay con người mà chúng ta lựa chọn đi theo, lựa chọn để gắn bó, đó là Đức Giêsu Kitô. Phụng Vụ Lời Chúa ngày Chúa nhật XXI TN B đặc biệt lưu ý chúng ta đến hành vi lựa chọn. Chọn lựa một công việc để làm kế sinh nhai quả không mấy dễ. Chọn lựa một bậc sống thật lắm phân vân đủ bề. Chọn lựa một con người để làm bạn đời trăm năm cũng lắm sự nhiêu khê. Và chọn lựa Đấng để trao gửi hạnh phúc hôm nay và vĩnh cửu chắc chắn sẽ khó khăn hơn nhiều. Vì thế, khi phải chọn lựa trong một vấn đề quan trọng, chúng ta cần có đủ cơ sở một cách nào đó.
Sau khi nhắc lại cho dân tình yêu của Thiên Chúa qua các kỳ công Người đã thực hiện để bảo vệ dân, Giosuê khẳng khái trước toàn dân rằng: “Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa” (Gs 24,15). Và dân đã đáp lại rằng họ không hề có ý định bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Họ sẽ thờ phụng Thiên Chúa, vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của họ dùng quyền năng thực hiện những dấu lạ lớn lao để đem họ cùng với cha ông họ ra khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ mà vào đất hứa. Như thế, cơ sở để dân Chúa xưa chọn thờ phụng Người đó là vì Người quyền năng đã đưa họ ra khỏi nhà nô lệ.
Trước câu hỏi của Chúa Giêsu, một kiểu đặt vấn đề đòi hỏi có sự chọn lựa dứt khoát thì Phêrô đã thay mặt nhóm Mười Hai trả lời: ” Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Không kể trường hợp một phần tử trong nhóm không tin, thì câu trả lời của Phêrô nói lên sự chọn lựa của cả nhóm Tông Đồ. Và sự chọn lựa ấy đặt cơ sở trên điều này: vì Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Để nói lên được những lời này, chắc chắn cùng với các bạn, Phêrô đã từng chứng kiến uy quyền của Thầy khi khiến nước lã hóa thành rượu ngon (x.Ga 2,1-12). Các vị đã từng nghe Thầy nói với viên sĩ quan cận vệ nhà vua rằng: “Ông cứ về đi, con ông sống” và đứa con trai của ông ta đang đang hấp hói đã đuợc cứu sống (x. Ga 4,46-54). Và các ngài chưa thể quên lời tạ ơn mới đây của Thầy đã giúp cho năm ngàn người đàn ông chưa kể đàn bà và con trẻ no nê chỉ từ năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá (x. Ga 6,1-15).
Không ai tự nguyện dấn thân theo một lý tưởng, thực hiện một trách vụ hay gắn bó với một con người mà không ấp ủ một hoài bão, một ước mơ hay niềm hy vọng nào đó. Xưa, dân Do Thái chọn tôn thờ Thiên Chúa là để một mặt khỏi bị Người giáng họa, trừng phạt, mà trái lại sẽ được Người chúc phúc và che chở trước các “kẻ thù” lân bang (Gs 24,19-20).
Cái hoài bão, uớc mơ, đúng hơn là cái mục đích việc Phêrô thay mặt anh em chọn gắn bó với Thầy đó là vì “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Sự sống đời đời là một ước mơ của con người, mọi thời và mọi nơi. Dù đủ đầy của cải vật chất, dù nắm trong tay quyền sinh sát của bậc đế vương thì con người vẫn cảm nhận cái hữu hạn của cuộc sống đời này. Danh vọng quyền lực, của cải hay tiền tài không thể giúp ta kéo dài cuộc sống đến vô tận. Một thanh niên có nhiều sản nghiệp đã đến tham vấn Chúa Giêsu: Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời? Sau khi biểu anh ta giữ các giới răn, Chúa Giêsu đã mời gọi anh ta hãy bán của cải, phân phát cho người nghèo rồi đến mà theo Người (x. Mt 19,16-22; Mc 10,17-22; Lc 18,28-30).
Chọn lựa là hy sinh. Một câu nói cho thấy một lẽ tất yếu của việc chọn lựa, Chọn ra đi thì phải hy sinh chuyện không ở lại, chọn việc cất tiếng nói thì đương nhiên phải mất thái độ giữ im lặng, đã chọn tôn thờ Thiên Chúa thì phải bỏ các thần của dân ngoại (x. Gs 24,23)… Tuy nhiên sự hy sinh trong việc chọn lựa không chỉ dừng lại ở các nội dung xem như đối lập của sự chọn lựa mà còn có đó sự hy sinh ngay trong chính hành vi chọn lựa. Sự hy sinh ở đây được hiểu như một sự đánh cược, một sự dân thân, một sự “liều lĩnh” nào đó. Vì chưng, chúng ta vốn khó có được các cở sở một cách chắc chắn kiểu trăm phần trăm khi chọn lựa một điều gì đó. Chúng ta dễ nhận ra ngay hiện thực này qua việc các bạn thanh niên nam nữ chọn bạn đời hay chọn ơn gọi tu trì. Như thế, sự hy sinh ở đây có thể hiếu như sự can đảm dấn thân, chấp nhận nhiều “cái giá” phải trả khi chọn lựa.
Cái giá mà chúng ta phải trả khi chọn lựa đi theo Chúa Giêsu, gắn bó với Người đó chính là “vác thập giá”. “Ai không các thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,27). Cái giá mà Phêrô sẽ phải trả được Đấng Phúc sinh báo trước: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đế nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi Người bảo ông: “Hãy theo Thầy” (Ga 21,18-19).
“Thiên Chúa dựng nên tôi không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà cần có tôi” (thánh Augustinô). Tự do là một quà tặng cao quý Chúa ban cho loài người, loài cao trọng nhất trong các loài hữu hình Người dựng nên. Tự do là một ân ban cao quý và cũng là một thử thách ắt có của tình yêu. Được sống đời đời hay phải chết đời đời có nghĩa là được hạnh phúc bất diệt hay bị trầm luân mãi mãi, các khả thể này đang tùy ở sự lựa chọn của chúng ta. Ai lại không muốn được sự sống đời đời, được hạnh phúc bất diệt, nhưng vấn nạn khó vượt qua đó là chúng ta thường e ngại phải trả giá.
Anh Vũ Thành Tâm là một thanh niên tuổi quân dịch. Anh đã bỏ nhà thờ từ lâu. Anh chẳng còn đi lễ, chẳng còn chịu các phép Bí Tích nữa. Khi nhập ngũ, Mẹ anh lo lắm. Mẹ anh sợ anh bị chết ngoài trận chiến bất kỳ lúc nào. Vì thế trước khi lên đường, mẹ anh soăn xúyt bên con, vồn vã nói với con: “Tâm con, mẹ muốn con làm cho mẹ một điều”. “Điều gì đó mẹ?” Anh hỏi lại. Con đi xa nhà, đời binh nghiệp trôi nổi bôn ba, cái chết như tầu lá rơi trước gió, vì thế mẹ muốn con hứa với mẹ: Dù con có bận bịu mệt mã đến đâu đi nữa, mỗi ngày con hãy đọc một kinh kính mừng dâng phó linh hồn con cho Đức Mẹ. Có được không? Tâm suy đi nghĩ lại, lời mẹ như đưa chàng vào thế kẹt: Mình đã bỏ đạo từ lâu rồi nên không chấp nhận. Nhưng mình là người con có hiếu chả lẽ từ chối! Thôi thì chấp nhận cho mẹ vui. Tấm tức giữa hai ngả. Sau cùng Tâm chấp nhận sẽ làm như mẹ xin. “Con làm sao bỏ được lời mẹ trối”. Mấy năm trời trôi qua. Tâm bận bịu với việc quân ngũ nên cũng chẳng biên thư về nhà. Rồi một hôm, mẹ anh nhận được thư cha Tuyên Úy cho biết anh bị trọng thương và đã xin chịu các phép Bí Tích. Ít lâu sau anh Tâm bình phục và viết thư về cho mẹ: “Mẹ ơi, con cám ơn mẹ đã bảo con hứa với mẹ là sẽ đọc một kinh kính mừng mỗi ngày. Con đã giữ lời hứa đó và nay con đã bắt đầu đi lễ và chịu lễ mỗi chúa nhật”.
Bài Tin Mừng ngày hôm nay cũng là một thách đố cho các môn đệ. Niềm tin của các ngài cũng bị thử thách trầm trọng vì trong bài giảng ngài nói: “Ngài sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn”. Có nhóm không chấp nhận được lời Chúa Giêsu tuyên bố cũng như anh Tâm đã bỏ Chúa lâu rồi làm sao có thể chấp nhận đọc kinh được. Nhưng nhóm còn lại chấp nhận thử thách và trung thành với Chúa Giêsu “Bỏ thầy con biết theo ai. Thầy mới có lời hằng sống”. Như anh Vũ thành Tâm trung thành với lời “Con làm sao bỏ được lời mẹ trối”.
Chúng ta có thể tin rằng một linh hồn dù có xa Chúa đến mấy đi nữa mà còn giữ được một cái gì nối kết với Chúa, dù cái đó chỉ là một câu kinh lạy Cha, kinh kính mừng mỗi ngày thì vẫn còn hy vọng sẽ tìm lại được đường về. Anh Tâm cũng như rất nhiều người công giáo đã bắt chước các môn đệ thành tâm trong bài tin mừng hôm nay. Họ không thể tin Chúa Giêsu có thể cho họ Mình và Máu Ngài để họ ăn và uống. Nhưng ít là họ đã chứng kiến việc Chúa dùng 5 cái bánh và 2 con cá để nuôi 5000 người ăn no. Nhiều người thường lấy lý do “Đi dự lễ không thấy phấn khởi, đọc một câu kinh không thấy được ơn ích gì…” Nhưng họ làm ít ra còn tin vào lời Chúa nói. Cứ làm đi rồi Chúa sẽ hỗ trợ, sẽ ban ơn.
Như Anh Vũ Thành Tâm trong câu chuyện, mỗi người chúng ta hãy cố làm những gì có thể được, càng nhiều càng tốt để đáng được Chúa thương cứu giúp.
Chắc bạn vẫn nghe thường xuyên về người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Hoặc chính bản thân nhều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống đến những vấn đề quan trọng nhất, người ta đều cóp thể thất trung, bất tín. Ví dụ: Ai cũng biết, hôn nhân là mối giây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp diễn từng ngày. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả của nó.
Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản bội, cũng bất trung không kém. Từ thuở bình minh của nhân loại, thế giới theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người thôi: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài, nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống lại Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường hết được: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.
Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường, nếm đủ mùi vị của khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn…, đã làm cho dân của Chúa mất kiên nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron đã vậy, họ còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: “Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu, có phải con sinh ra nó đâu?… Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn…” (Ds 11, 12 tt). Trong sa mạc, lòng dân quyên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại nhiều lần đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.
Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về sự bất trung và lòng thương xót ấy. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác”, và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính vì sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần phải chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi bật lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoang dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba động từ: phản bội – nổi giận – tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.
Đó là bài đọc I trích sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của thánh Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm, cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá… Chính những giờ phút quan trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quyên mất lời tuyên xưng mới đó, tính cho đến nay chưa được bao lâu. Vì một chúc sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!
Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Giáo Hội mời gọi ta suy niệm các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành của ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một lòng khoang dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi vẫ có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không còn hy vọng nữa mà thôi. Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính mình đã đánh mất.
1.- Ngữ cảnh
Với bản văn hôm nay, độc giả đi tới đỉnh cao của Diễn từ về Bánh trường sinh, đỉnh cao của cuộc “khủng hoảng” báo trước cuộc Thương Khó của Đức Giêsu: các thính giả phản ứng lại các lời của Đức Giêsu; họ bị đặt trước một chọn lựa là tin hoặc không tin vào Người.
Thứ lương thực lạ lùng và Bài Diễn từ về Bánh khác các dấu lạ và các diễn từ khác của Đức Giêsu do sự kiện là trong vấn đề này, các môn đệ lấy lập trường. Tại đây Đức Giêsu đã mạc khải các ân ban đặc biệt của Người và các ân ban này chính là thịt máu của Người. Các môn đệ của Người chia rẽ về điểm này: bỏ đi vì không thể chấp nhận các lời Đức Giêsu nói, hoặc ở lại với Người, vì tin rằng chỉ Người mới có “những lời đem lại sự sống đời đời”.
2.- Bố cục
Bản văn phụng vụ có thể chia thành ba phần:
1) Một câu tóm nội dung bài giảng về Bánh hằng sống (6,54a);
2) Những môn đệ bỏ đi (6,60-66);
3) Nhóm Mười Hai ở lại (6,67-69).
3.- Vài điểm chú giải
– Nghe rồi, […]: “Ai mà nghe nổi? (60): Động từ “nghe” (akouein) được dùng hai lần với nghĩa khác nhau: lần đầu, từ này có nghĩa là “nghe” mà không có sắc thái một sự chấp thuận; lần sau, có nghĩa là “nghe” với sự chấp thuận.
– nhiều môn đệ của Người (60): Bản văn không nói là các “môn đệ” này có hàm chứa cả Nhóm Mười Hai hay không. Tuy nhiên, vì Phêrô đã lấy lập trường mà nói nhân danh Nhóm Mười Hai, rất có thể Nhóm Mười Hai không được kể vào số các “môn đệ” càm ràm, xầm xì này (có lẽ ngoại trừ Giuđa, vì Đức Giêsu gọi ông là “quỷ”, x. c. 70).
– lên nơi đã ở trước kia (62): tức lên với Chúa Cha (x. Ga 17,5).
– Lời Thầy nói với anh em (63): dịch cho nổi bật các sắc thái là: “Những lời mà Thầy đây, Thầy đã nói với anh em”. Chủ từ egô được viết ra trong bản văn để tạo sự cường điệu.
– là Thần Khí và là sự sống (63): Đây là một “phép thế đôi”[1], nên cần dịch diễn ra là “lời Thầy nói với anh em là Thần Khí ban sự sống”.
– Nhóm Mười Hai (67): Ga 6,67-71 là nơi duy nhất trong TM IV mà tác giả minh nhiên nói đến Nhóm Mười Hai (ngoại trừ một hoạt cảnh khác chỉ được nhắc tới trong TM này, ở Ga 20,24). Hai lần nhắc tới “Nhóm Mười Hai” (hoi dodeka) ở cc. 67 và 71 “đóng khung” phân đoạn ngắn này thành một đơn vị văn chương. Tác giả ghi nhận rằng Nhóm Mười Hai đã được Đức Giêsu chọn (Ga 6,70), dù không cho biết vào dịp nào và trong những hoàn cảnh nào. Do sự trung tín của họ với Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai ở vào thế tương phản với những môn đệ đã sa sút. Không giống với các môn đệ đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai ở lại với Đức Giêsu. Đối với các ông, các ông không còn chỗ nào khác mà đi. Phêrô đã nói thay anh em: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68).
Đoạn Ga 6,67-71 là nơi duy nhất trong TM mà tác giả minh nhiên nói đến Nhóm Mười Hai (ngoại trừ một hoạt cảnh khác chỉ được nhắc tới trong TM IV, ở Ga 20,24). Hai lần nhắc tới “Nhóm Mười Hai” (hoi dodeka) ở cc. 67 và 71 “đóng khung” phân đoạn ngắn này thành một đơn vị văn chương.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Một câu tóm nội dung bài giảng về Bánh hằng sống (54a)
Sau các vòng giới thiệu, đây là khẳng định tối hậu Đức Giêsu nêu ra về mầu nhiệm bản thân Người: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (c. 54a). Các động từ được chọn để diễn tả tính hiện thực của ân ban là thịt máu Đức Giêsu đã đạt mục tiêu: các môn đệ sẽ phản ứng.
* Những môn đệ bỏ đi (60-66)
Phần lớn các môn đệ không thể chấp nhận được các lời Đức Giêsu đã nói, đến mức không còn có thể lắng nghe được nữa. Và thật sự các lời của Đức Giêsu không thể chịu nổi, nếu Người chỉ là một người phàm. Các lời Đức Giêsu đã nói quả không thể chấp nhận được, nếu người ta chỉ đón nhận theo cảm xúc và hời hợt, nếu người ta chỉ để ý đến các chi tiết chứ không thấy bối cảnh tổng quát. Đức Giêsu tìm cách cung cấp cho các môn đệ một điểm hỗ trợ hầu có thể hiểu, nhưng Người cũng nói rõ ra lý do đích thực của phản ứng khó chịu của họ: họ thiếu đức tin. Trước hết, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng Người không nói như một người thường, nhưng như là Con Người, đã từ Thiên Chúa mà đến và sẽ quay về với Thiên Chúa. Trong bài Diễn từ về Bánh trường sinh, Đức Giêsu đã nhiều lần nêu bật điều này là Người được Thiên Chúa cử đến và có sự sống phát xuất từ Thiên Chúa (x. Ga 6,27.57). Điều kiện tiên quyết để hiểu được các lời của Đức Giêsu, đó là hiểu và nhìn nhận bản thân Người.
Thế rồi Đức Giêsu đi vào một điểm đặc biệt trong Bài Diễn từ. Các môn đệ dường như cảm thấy bị vấp phạm nhất về sự kiện Người ban thịt làm của ăn và máu làm thức uống. Đức Giêsu đảm bảo với họ rằng nếu đi từ “thịt” hiểu là con người phàm trần – kể cả nhân tính của Đức Giêsu – người ta chẳng có gì để mong đợi, vì “thịt” thì hư hoại và tiến về cái chết; đi từ “thịt”, ta không thể chờ đợi sự sống bất hoại. Sự sống này chỉ đến từ Thánh Thần, từ quyền lực không bao giờ cạn kiệt ban sự sống của Thiên Chúa (x. Ga 3,6). Nhưng Đức Giêsu cũng nhấn mạnh rằng toàn thể các lời Người là Thần Khí và sự sống. Người không chỉ trình bày một vài suy tư về Thánh Thần và sự sống, về quyền lực không bao giờ cạn kiệt ban sự sống của Thiên Chúa và về sự sống bất hoại, nhưng Thần Khí và sự sống hiện diện trong chính các lời nói của Người và Người cho một chứng minh rõ ràng nhất về điểm này. Kể cả các lời Người nói về thịt và máu Người là Thần Khí và là sự sống, theo nghĩa là các lời ấy nói về Đấng không chỉ là thịt, mà là Ngôi Lời trở thành xác thịt (x. 1,14). Người ta chỉ hiểu Đức Giêsu đúng đắn nếu để ý đến chuyện Người là ai và bản chất các lời Người nói là thế nào. Nhưng người ta lại đáp lại bằng sự thiếu lòng tin, sự từ khước, sự ngờ vực đối với Người và đối với lời Người. Đức tin là một ân ban của Thiên Chúa (x. 6,37-44); nhưng đồng thời vẫn còn nguyên trách nhiệm của những người không tin và xa lìa Đức Giêsu. Nhiều môn đệ lãnh trách nhiệm này khi “rút lui, không còn ở với Người nữa” (c. 66).
* Nhóm Mười Hai ở lại (67-69)
Mẩu đối thoại của Đức Giêsu với nhiều môn đệ đã khởi đầu bằng lời phản đối của họ và bằng cách họ đánh giá các lời của Người theo cảm xúc. Bây giờ Đức Giêsu ngỏ lời với nhóm thứ ba bên trong đám đông, Nhóm Mười Hai, một nhóm rất gần gũi với Người, nhưng cũng bị cám dỗ, bị lay động, bị thách thức bởi những lời đòi hỏi của Người. Mẩu đối thoại của Người với Nhóm Mười Hai bắt đầu bằng một câu hỏi Người đặt ra: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67). Câu hỏi này không hề có đặc tính gây hấn, như thể Đức Giêsu muốn nói: “Anh em cứ việc bỏ đi!”, trái lại câu hỏi này hàm chứa một lời mời ở lại. Đức Giêsu đặt câu hỏi và để cho các môn đệ tự do quyết định. Nhưng Người không rút lại bất cứ điều gì Người đã nói. Simôn Phêrô đã nhân danh nhóm (“chúng con”) nói lên một câu trả lời có suy ngẫm và nêu ra ba lý do khiến các ông ở lại với Đức Giêsu chứ không đi theo đa số: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
Lý do thứ nhất là một suy tư sáng suốt: ‘Chúng con không thể bỏ đi kiểu mù quáng. Khi bỏ đi, chúng con cần phải biết chúng con muốn bỏ ai, và gặp được điều gì tốt hơn và thuyết phục hơn nơi người nào. Chỉ đơn giản bỏ đi thì không có ý nghĩa’. Suy tư này giúp tránh những quyết định vội vã, theo tình cảm. Bởi vì không tìm được một vị thầy nào dứt khoát khá hơn, thì khôn ngoan là ở lại với Đức Giêsu.
Lý do thứ hai nhắc đến đặc tính của các lời Đức Giêsu. Chính Người đã nói: “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (6,63). Bây giờ Phêrô chấp nhận điều ấy: “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (c. 68). Ông đã hiểu rằng ân ban cao trọng nhất của Đức Giêsu là sự sống đời đời và nhận biết rằng Đức Giêsu nói về điều đó trong tư cách đáng tin nhất; Đức Giêsu không chỉ nói về điều đó, Người còn mang sứ điệp chắc chắn về sự sống đời đời và mở đường vào sự sống đó.
Lý do thứ ba liên hệ đến việc nhận biết bản thân Đức Giêsu. Phêrô nói về con đường giúp nhận biết như thế và nói về nội dung của nhận thức này. Nhóm Mười Hai đã ký thác và tín nhiệm hoàn toàn vào Đức Giêsu. Trên nền tảng của thái độ này, các ông đã hiểu và nhận biết rằng Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (c. 69). “Thánh” chính là điều thuộc về Thiên Chúa. Nếu Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, điều này có nghĩa là Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và được kết nối với Thiên Chúa trọn vẹn. Chính vì Đức Giêsu có một tương quan đặc biệt với Thiên Chúa, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, mà Người có những lời ban sự sống vĩnh cửu, và do đó, thật là điên rồ nếu xa lánh Người.
Qua câu trả lời ấy của ông, Phêrô đề cập đến ba chủ đề lớn của TM IV: (1) “sự sống đời đời” (36 lần; các TMNL: 14 lần); (2) “tin” (98 lần; toàn bộ Tân Ước còn lại: 145 lần); (3) “[nhận] biết”(56 lần; các TMNL: 58 lần). Lời tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu cũng chính là lời tuyên xưng tình yêu đối với Người.
+ Kết luận
Các lập trường đã rõ, các phe đã được xác định. Giuđa và những người Do-thái có thể chuẩn bị vụ xét xử Đức Giêsu. Trong thực tế, chính Con Người mới sắp xử dân bị Thiên Chúa loại trừ, ngay giữa niềm hân hoan của Lễ Lều và lễ Cung hiến Đền Thờ, là hai ngày lễ quy tụ Dân Thiên Chúa (Ga 7–10). Các môn đệ của Đức Giêsu cũng sẽ “bị xét xử”: các hoàn cảnh sống của Đức Giêsu buộc các ông phải chọn lựa dứt khoát. Chỉ có một trong hai cách: bỏ đi hoặc ở lại với Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
BÁNH HẰNG SỐNG
Đức Giêsu đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời… Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”.
Chúng ta đã đọc đến đoạn cuối của diễn từ “Bánh hằng sống”. Chúng ta sẽ tìm hiểu hiệu quả bài giảng của Đức Giêsu đối với thính giả, qua ngòi bút của một nhân chứng đã đích thân tham dự buổi diễn giảng này. Có hai hiệu quả:
Đó là sự vấp phạm và khước từ của đa số cử tọa.
Nhưng cũng là sự trung thành, khiêm tốn đầy tin cậy của nhóm nhân tố “Mười Hai”.
Ở đây chúng ta có chứng tích lịch sử bậc nhất về cuộc sống của Đức Giêsu. Ba thánh sử kia cũng đã ghi lại rõ ràng khúc quanh quan trọng này trong sứ vụ của vị tiên tri làng Nagiaret: Đó là cơn khủng hoảng! Cho tới bây giờ, đám đông đã đi theo và tìm kiếm Người: Ở đây Gioan đã gọi họ là “môn đệ”. Nhưng các “môn đệ” này, những người đã bắt đầu đi một đoạn đường với Đức Giêsu, đang từ bỏ Người. Sự mạc khải mầu nhiệm Thánh Thể bắt đầu làm cho đa số thính giả chán ngán vào cuối chương này, chúng ta có thể đếm số môn đệ nhỏ nhoi còn lại.
Tin Mừng đã thẳng thắn không che giấu chúng ta rằng Chúa đã thất bại trong ý định giúp ta hiểu về “bánh” của Người, “Bánh đích thực”. Bởi vì nói cho cùng thì ai có thể hơn Đức Giêsu để giải thích cho chúng ta vấn đề này? Hai mươi thế kỷ qua đi, chúng ta vẫn tiếp tục ngạc nhiên khi thấy những con người nam nữ già trẻ từ chối bước theo Đức Giêsu để “nhận lấy mà ăn bánh và cầm lấy mà uống rượu của Người, và như Người tuyên bố thì đó là thịt và máu của Người”. Và có thể chúng ta vẫn lên án Giáo Hội về điểm đó: “ôi giá kể Giáo Hội đã không thay đổi nhanh hơn… ôi, nếu Giáo Hội có lập trường như lập trường của tôi”.
Thực ra chính “đức tin” là nguyên nhân của sự việc này, chứ không phải là một truyền thống phụng vụ, văn hóa, xã hội nào đó, và Đức Giêsu sẽ nói lại điều này với chúng ta một cách rõ ràng, không chút nhượng bộ.
Nhưng Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy.
Các bạn thấy không? Đức Giêsu không cần nghe những lời lẩm bẩm đó. Người biết trước, Người không ngạc nhiên, Người đang chờ đợi những lời đó. “Đức tin” khó khăn biết bao! Vì đức tin là “khước từ cách hiểu biết thông thường, nhờ giác quan và lý trí, lý luận” để “tin vào một người khác” đó là “tin mà không thấy”, như Thánh Gioan sẽ nói rất nhiều lần.
Người bảo các ông: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?”.
Vâng lạy Thầy, điều đó làm chúng con vấp phạm. Và Thầy biết rõ như thế. Từ Hy Lạp là động từ “Scandahzô” Ở đây dịch là vấp phạm, có nghĩa là điều đó làm các ngươi bất bình, các ngươi vấp phải ta như vấp phải một hòn đá chướng ngại. Chúng ta thường có khuynh hướng làm cho đức tin trở thành một thứ giáo huấn. Nếu giảng hay, những người trẻ sẽ đi dự lễ. Họ sẽ hiểu, họ không còn “biết” gì thêm nữa. Nhưng đối với Đức Giêsu, như chúng ta đã thấy đức tin luôn gây đụng chạm! Đức tin không hẳn nhiên là thế? Đức tin luôn luôn cho ta thấy chướng. “Đức tin” không phải là một bài học được lặp đi lặp lại, “nhưng” là một dấn thân trong cuộc sống”. Đức tin là một “thực hành có hiệu quả”. Đức tin là một sự “thúc hối” phải chấp nhận từ bỏ ánh sáng riêng của mình, được coi là có tính khoa học, để đón nhận mạc khải của một người khác mà không thể kiểm chứng được bằng những phương thế nhân loại. “Tuyên xưng đức tin” thực sự, không phải là đọc kinh Tin kính hay một “công thức” nào hay nhất do bộ óc văn minh của chúng ta, mà là thực hành không gì Chúa đã dạy. Mầu nhiệm trung tâm của đức tin, chắc chắn là Bí tích Thánh Thể. Khi ta nói “Người Kitô hữu là người đi dự lễ”, thì ta chưa nói hết. Nhưng ta đã nói một phần nào cốt yếu, nếu ta hiểu Thánh lễ như chúng ta đang cố cử hành với chính Chúa Giêsu. Đức tin đó là một “quyết định”. Quyết định này bao gồm hai khía cạnh:
1 “An bánh hằng sống”.
Thế khi anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?
Làm sao người này có thể cho thịt của mình để chúng ta ăn? Chính vì người này không chỉ là một con người. Đức Giêsu, thay vì rút lại lời khẳng định của mình hay là giải thích hoặc làm giảm nhẹ chúng, Người lại nhấn mạnh bằng cách gợi cho chúng ta một “mầu nhiệm” khác mà mầu nhiệm Thánh Thể chỉ là sự diễn dịch. Chúng ta đang thực sự ở trong đề tài Nhập Thể của Thiên Chúa. “Thần Khí” trở thành xác phàm.
Đây thực là một mầu nhiệm “thần linh” (không ai đã thấy Chúa) và vì thế con người không thể tự sức riêng mà hiểu được. Đức Giêsu ám chỉ rõ ràng “hữu thể thần linh của Người”. Người nói Người sẽ trở về nơi mà trước kia Người đã ở. Chúng ta hãy lưu ý tới giọng nói hạch hỏi của Đức Giêsu này. Câu nói của Người hầu như chưa dứt: “Và khi anh em sẽ thấy Con Người lên nơi mà Người đã ở trước thì sao?”.
Vâng, xuyên qua sự tối tăm, vẻ tầm thường, sự thân mật nơi thân phận con người hiện tại của Đức Giêsu, cần phải tiến đến sự khám phá vinh quang của Chúa Ba Ngôi. Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha, trong sự sống động của Thần Khí, mà Người đã lãnh nhận từ Chúa Cha. “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi và Tôi sống nhờ Chúa Cha, thế nào thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy”.
Thực sự chúng ta không biết sự sống là gì: sự sống bình thường của thảo mộc, cũng như động vật, không ai, không một nhà bác học nào đã có thể nói sự sống là gì?
Vậy thì “sự sống” của Thiên Chúa thì sao? Những phương tiện để hiểu biết mà con người có được đều bất lực, không thể giúp hiểu mầu nhiệm này. Người ta không thể giải thích Bí tích Thánh Thể chỉ bằng lý trí con người: Mầu nhiệm này thật vĩ đại, khôn dò, đó là mầu nhiệm đức tin.
Thần khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì
Lạy Chúa, xin lặp lại cho con những lời đó. Ước chi những lời này không làm cớ cho con vấp phạm và nghi ngờ.
Những lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ không tin. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người.
Hơn mọi lời khác, lời Chúa, nói về phép Thánh Thể, đã giả định trước tác động của Chúa thánh Thần. Chúng ta thực sự đang ở trung tâm điểm của Tin Mừng. Làm sao có thể giản lược Tin Mừng vào những giải thích luân lý: Đức Giêsu con người vĩ đại nhất, nhà hiền triết, vị ngôn sứ nhà cách mạng, là phong trào xã hội, là giải phóng… tất cả đều đúng, nhưng không phải là bản chất riêng của Chúa. Có một khía cạnh nổi bật khác, không thể thu nhỏ được mà chúng ta gọi là thần linh! Tức là vô hình, vượt trên tất cả. Chúng ta chỉ thấy được một phần nào siêu việt qua con người hữu thể của Người, mà phải mất một chút đoán nhận ra “ngang qua xác thể” nhưng đó vẫn thuộc về trật tự Thần khí và Sự sống.
Người nói: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”.
Chúng ta đang ở trong mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa, sự sống của Ba Ngôi. Hình trạng Chúa Ba Ngôi của Rublev đã diễn tả mầu nhiệm này cách kỳ diệu.
Ba nhân vật ngồi chung quanh một “cái bàn” và chỉ dùng một “chén”. Tam vị nhất thể được tiếng trưng bằng một vòng tròn mà chu vi bên ngoài của ba ngôi vẽ nên cách ăn khớp tuyệt hảo. Là 3 hình nhưng để tạo nên một vòng duy nhất. Đó là một vòng tròn sống động luôn vận chuyển. Chúa Cha chủ tọa bên kia bàn. Người nhìn bằng cái nhìn tình yêu xuyên suốt trái tim, lồng ngực của Chúa Con. Còn Chúa Con lại nhìn sang Chúa Thánh Thần. Nhưng ta hãy nhìn kỹ dung mạo của Ngôi Ba và cử động bàn tay phải của người: Cả mặt và tay hướng xuống đất! Hình tròn được mở về phía chúng ta là những người đang đứng phía trước bàn, để ngắm nhìn “hình” này. Vâng, sự sống của Ba Ngôi được ban cho chúng ta, tại chiếc bàn này: Thần khí là sự sống được ban cho chúng ta, được dâng tặng cho chúng ta. Thiên Chúa, vì là Tình yêu, nên rõ ràng Người không thể ép buộc ai.
Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa. Nên Đức Giêsu mới hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”.
Dường như Chúa nói’: “Tôi không giữ anh em, anh em được tự do”. Trong cuộc xung đột đang xảy ra giữa những “môn đệ ra đi” và những người ở lại với Chúa, trong cuộc xung đột giữa cha mẹ và con cái chẳng hạn… chúng ta hãy nhớ lời của Chúa: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? “ông Simon Phêrô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh, phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Đây là những lời đầy khiêm hạ và đơn thành: “Bỏ Thầy, thì chúng con biết đến với ai bây giờ”. Lời nói chứa chan tình yêu và sự phó thác, vì đối với họ, Đức Giêsu là Đấng “không ai có thể thay thế được”. Tuy nhiên chúng ta nên ghi nhớ, Nhóm Mười Hai đêm trước đã có một kinh nghiệm có thể soi sáng cho họ: Giữa phép lạ hóa bánh ra nhiều và diễn từ về Bánh hằng sống là thịt của Người các ông đã thấy thân thể đó “bước đi trên mặt nước hồ đang nổi sóng dữ dội trong cơn bão tố” (Ga 6,16-21). Thân thể này không có trọng lượng như chúng ta. Đó là Thánh Thể Đấng Thánh của Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại giới hạn Thiên Chúa vào trong khả năng hiểu biết của chúng ta? Thiên Chúa vượt mọi khả năng của chúng ta. Điều đó thật hiển nhiên!
THẦN KHÍ TỐI QUAN TRỌNG (Ga 6,59-65)
Chúng ta không mấy ngạc nhiên khi thấy các môn đệ cho rằng bài giảng của Chúa Giêsu thật khó lãnh hội. Từ Hy Lạp skleros không có nghĩa là khó hiểu, nhưng có nghĩa là khó chấp nhận. Các môn đệ biết rất rõ Chúa Giêsu tự xưng là sự sống từ Thiên Chúa đến trần gian. Chẳng có ai có thể sống hoặc đối diện với cõi đời đời nếu không tin nhận và tùng phục Ngài.
Đến đây chúng ta gặp một chân lý nổi bật trong mọi thời đại. Nhiều khi người ta khước từ Chúa Kitô vì không đáp ứng nổi tiêu chuẩn đạo đức mà Ngài đòi hỏi, chứ chẳng phải vì không biết Ngài. Khi thành thật suy nghĩ về vấn đề này, chúng ta bắt buộc nhìn nhận lại tâm điểm của mọi tôn giáo đều phải có mầu nhiệm, lý do đơn giản vì trung tâm của mọi tôn giáo đều có Thiên Chúa. Tâm trí loài người chẳng bao giờ hiểu được đầy đủ trọn vẹn về Thiên Chúa. Bất cứ một nhà tư tưởng chân chính nào cũng phải chấp nhận mầu nhiệm.
Chỗ khó thật sự của Kitô giáo gồm hai phương diện: Một là đòi hỏi tùng phục Chúa Kitô, nhận Ngài có quyền uy tối hậu, hai là đòi hỏi tiêu chuẩn đạo đức cao nhất. Các môn đệ vốn hiểu rất rõ Chúa Giêsu tự xưng chính Ngài là sự sống, là thần trí của Thiên Chúa xuống thế gian. Cái khó của họ là chấp nhận điều đó là đúng, với tất cả những gì tiềm ẩn trong đó. Đến nay có nhiều người chấp nhận giáo lý, nhưng có những người lại không theo nổi tiêu chuẩn sống của Ngài.
Cho nên Chúa Giêsu tiếp tục –không nhằm cố gắng chứng minh cho lời tự xưng của Ngài- mà Ngài nói rõ sẽ có ngày các biến cố xảy ra chứng minh điều đó. Ngài nói: “Các ngươi thấy khó tin Ta là bánh, là phần thiết yếu cho sự sống, từ trời xuống. Rồi các ngươi không còn thấy khó tin nữa, khi chứng kiến Ta trở lên trời”.
Đây là lời báo trước sự thăng thiên. Điều đó có nghĩa là Phục Sinh bảo đảm cho tất cả các lời tuyên bố của Ngài. Chúa Giêsu không phải là một người sống cao quý và chết dũng cảm cho một chính nghĩa bị thất bại. Ngài là Đấng mà những lời tự xưng được ứng nghiệm bởi sự kiện Ngài chết rồi sống lại. Chúa Giêsu tiếp tục dạy rằng điều tối quan trọng là quyền ban sự sống của Thần Khí, xác thịt chẳng ích gì cả. Thật đơn giản để hiểu phần nào ý nghĩa của nó – điều quan trọng hơn hết, đó là tinh thần ở trong mọi hành động. Giá trị của bất cứ vật gì là tùy ở mục đích của nó. Nếu chỉ ăn để mà ăn thì chúng ta trở thành kẻ tham ăn, như thế có hại hơn là lợi. Nếu chúng ta ăn để bảo tồn sự sống, để làm việc tốt hơn, để giúp thân thể thích ứng với đỉnh cao nhất của nó thì thức ăn mới có ý nghĩa đích thực. Nếu một người dành thì giờ để chơi thể thao chỉ vì thể thao mà thôi, thì trong phạm vi nào đó anh ta đã phí thời giờ của mình. Nhưng nếu người ấy chơi thể thao để thân thể tráng kiện, nhờ đó, có thể phục vụ Thiên Chúa và loài người đắc lực hơn thì thể thao lại trở thành quan trọng. Mọi điều liên hệ đến xác thịt có giá trị hay không tùy thuộc vào tinh thần nó được thực hiện.
Chúa Giêsu tiếp: “Lời Ta là Thần Khí và là sự sống”. Chỉ một mình Chúa Kitô cho chúng ta biết sự sống là gì, đặt trong chúng ta phần tinh thần hướng dẫn cuộc đời và ban cho chúng ta năng lực để sống cuộc đời ấy. Sự sống có giá trị hay không là tùy chủ đích, mục tiêu nó nhắm tới. Chỉ một mình Chúa Kitô định cho chúng ta mục địch, chủ đích thực của đời sống, và cũng chỉ một mình Ngài ban cho chúng ta năng lực để thực hiện mục đích ấy, chống lại những nghịch cảnh bên ngoài.
Nhưng Chúa Giêsu biết rõ nhiều người không chỉ khước từ suông lời đề nghị của Ngài, mà còn chối bỏ với lòng đố kỵ, thù ghét nữa. Không ai có thể tin nhận Chúa Giêsu trừ phi được Thánh Thần tác động. Nhưng con người cũng có thể chống lại Thánh Thần cho đến ngày cuối cùng. Một người như thế không phải bị Thiên Chúa loại ra, nhưng chính người ấy đã tự loại mình ra.
NHỮNG THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI CHÚA KITÔ (Ga 6,66-71)
Đoạn này được viết theo linh tính về thảm họa sắp xảy ra, vì đây là phần bắt đầu của giai đoạn cuối cùng. Nhiều người kéo đến theo Chúa Giêsu, lúc Ngài dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem. Họ đã thấy các phép lạ Ngài làm và tin danh Ngài, số người kéo đến xin các môn đệ làm phép rửa thì đông, không kể xiết (2,23; 4,1-3). Tại Samari, nhiều việc lớn đã xảy ra (4,1.39.45). Tại Galilê, mới ngày hôm trước dân chúng hãy còn kéo theo Ngài rất đông (6,2), nhưng bây giờ giọng văn mô tả đã thay đổi. Từ nay trở đi, sự oán ghét ngày càng chồng chất cho đến khi đạt đến tột đỉnh là thập giá. Gioan đã hé mở màn cuối của thảm kịch. Chính trong những hoàn cảnh này, người ta mới thấy rõ lòng người và hiểu được bộ mặt thật của họ. Và trong những hoàn cảnh như thế, đã có ba thái độ khác nhau đối với Chúa Giêsu.
Nếu theo Ngài mà thơ mộng, huy hoàng, chắc họ bám sát Ngài, nhưng khi đường đi trở thành khó khăn, theo Ngài đòi hỏi một điều khó làm thì họ bỏ Ngài. Việc họ tìm thầy học đạo hoàn toàn do những động lực ích kỷ. Thật ra chẳng có ai ban cho chúng ta nhiều hơn Chúa Giêsu. Nhưng nếu chúng ta chỉ đến với Ngài nhằm mục đích thu vào chứ chẳng cho ra, chắc chắn chúng ta phải trở lui. Những ai muốn theo Chúa Giêsu phải nhớ đường theo Ngài là thập giá.
Lòng trung thành của Phêrô căn cứ trên mối liên hệ cá nhân với Chúa Giêsu Kitô. Có nhiều điều Phêrô không hiểu, ông cũng bối rối, lạc lõng như bất cứ ai khác. Nhưng nơi Chúa Giêsu có một cái gì khiến ông sẵn sàng hy sinh tính mạng. Nói cho cùng, Kitô hữu không phải là một triết lý mà chúng ta chấp nhận hoặc một lý thuyết buộc chúng ta phải trung thành. Nó là sự đáp ứng cá nhân với Chúa Giêsu Kitô. Đó là lòng trung thành và tình yêu mà một người hiến dâng, vì tấm lòng người ấy không cho phép người ấy làm gì khác hơn nữa.
– Tiếng kêu người ta thốt ra khi không còn kiên nhẫn được nữa
1* Mấy đứa con cái cãi nhau: cha mẹ không còn kiên nhẫn được, nổi giận la rầy: “Vừa vừa thôi chứ” (biểu lộ một phản đối). 2* Một ai đó cảm thấy mình bị tấn công bởi nhiều điều thái quá do kẻ khác gây ra như nói năng, đòi hỏi quá mức “Vừa vừa thôi chứ” (biểu lộ đã tới cùng tận mức chịu đựng rồi) 3* Một ai đó gây ra tiếng ồn quá mức, ta không chịu đựng nổi “Vừa vừa thôi chứ —- Các môn đệ Chúa “Lời này chướng tai quá”! Các ông bực bội vì các ông coi như bị Chúa tấn công bởi Chúa tuyên bố điều thái quá
Chúa Giêsu đối diện với những hạn chế: Sau diễn từ về Bánh Hằng Sống, trong đó Chúa Giêsu tuyên bố Ngài từ trời mà đến và Ngài ban thịt máu mình làm của ăn. Các môn đệ thấy những lời này không thể chịu nổi. Vì, Chúa Giêsu là con ông Giuse thế mà dám tự xưng mình từ trời xuống. ‘Quá sức chịu đựng, các ông không dám la hét phản đối, nhưng lẩm bẩm chống lại’. Chúa Giêsu đã đẩy họ tới mức tận cùng của sự chịu đựng.
Chúa Giêsu phản ứng thế nào? Có giữ vững lập trường khg? Ngài có làm giảm nhẹ lời nói của mình khg? Thí dụ như bảo họ rằng: họ đã hiểu lầm lời Ngài? Câu trả lời của Chúa Giêsu thật tế nhị: Ngài khg rút lại lời Ngài đã nói nhưng MỜI GỌI CÁC ÔNG ĐI XA HƠN và chỉ cho các ông THÁI ĐỘ CẦN PHẢI CÓ. “Nếu các con thấy Con Người lên nơi Ngài đã ở trước kia thì sao?”. Ngài muốn nói: Khi các con nhìn thấy Ta lên trời lúc đó các con sẽ hiểu rằng Ta từ trời xuống và điều đó sẽ không còn là cớ vấp phạm cho các con nữa. Ngài mời các ông nhìn xa hơn tình hình hiện tại đang thử thách các ông và làm cho các ông vấp ngã. Ngài đưa ra cho các ông cách giải quyết: Đừng xét đoán Ngài theo xác thịt, theo dáng bề ngoài, theo tiêu chuẩn của loài người. Nhưng hãy theo Thần Khí tức là tin vào lời Ngài nói: “Những lời Thầy nói với các con là Thần Khí và là Sự Sống”. Từ nhữg dấu chỉ mà họ nhìn thấy: Phép lạ bánh hoá nhiều, đi trên mặt biển, Chúa thúc các ông tin lời Ngài một cách vô điều kiện. Điều này vượt tầm mức của các ông. Một số quyết định: không theo Ngài nữa. Còn NHÓM MƯỜI HAI: “Các con có muốn bỏ đi khôg?”. Chúa Giêsu không muốn gây áp lực trên nhóm 12 hoặc thu hút lòng thương hại của các ông. Chúa đòi các ông đưa ra một quyết định, một quyết định của ý chí, một sự tuyên xưng. Pet nhân danh nhóm đáp trả một cách vô điều kiện, không giới hạn: MUỐN GẮN BÓ VỚI THẦY. “Bỏ Thầy…”. Câu nói này khẳng định mạnh mẽ sự thán phục của ông đvới Chúa Giêsu: “Chúng con không có ai xứng đáng hơn Thầy để theo cả. Không có sự chọn lựa nào khác. Chỉ nơi Thầy, cuộc đời chúng con mới có ý nghĩa.
Phêrô đưa ra lý do của việc chọn lựa vô điều kiện này: “Lời Chúa Giêsu và căn tính của Chúa Giêsu. 1) Nhóm 12 gắn bó với Chúa vì Chúa mới có những lời ban sự sốg đời đời. Nhữg mdệ bỏ đi vì những lời này quá đòi hỏi và các ông cảm thấy không thể sống nhờ chúng được. Tuân giữ nhữg lời này sẽ thực sự khó mà sống được. Đvới nhóm 12 thì ngược hẳn lại. 2) Nhờ lắng nghe lời Chúa mà các ông nhận ra căn tính của Chúa. Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa. “Về phần chúng con, chúng con tin ….”. ĐỨC TIN đi trước việc HIỂU BIẾT. Các ông TIN ĐỂ HIỂU, trong lúc nhữg người bỏ đi thì muốn HIỂU trước đã, vì họ khôg tin Chúa. Như vậy, nhóm 12 đã nhận ra nơi Chúa Giêsu một con người mà Thiên Chúa đã thánh hoá để thi hành sứ vụ cứu độ nhân loại. Trong lúc nhữg người kia chỉ nhìn thấy nơi Chúa Giêsu là “con ông Giuse mà chúg tôi biết rõ cha mẹ”.
NƠI CHÚNG TA: Chúg ta cũng trải qua những thử thách về đức tin. Cuộc sống mang đến cho chgta thử thách này: thất bại, bệnh tật, bất công, hiểu lầm, nghi kỵ, đói kém, khỗ đau. Thiên Chúa đang làm gì? Chúg ta khg hiểu, chgta bị cám dỗ buông thả. Chúa Giêsu nhắc chúng ta: “Các con có muốn bỏ đi khg? Lúc đó chgta phải đáp trả. Đáp trả ra sao?
Theo gương Chúa Giêsu: “Không theo ý con, nhưng theo ý Cha”. Chta hãy đáp trả theo hướng đó.
Câu chuyện: Một vụ thảm sát tại nhà trường
Cách đây ít lâu, một vụ thảm sát ở tiểu ban Côlôrađô Hoa kỳ không những làm người Mỹ, mà còn làm cho cả thế giới phải sửng sốt bàng hoàng. Bàng hoàng vì đây không phải là vụ thảm sát đầu tiên xảy ra như thế tại một trường học ở Mỹ, mà trong mấy năm qua, các vụ bạo động tại trường học đã từng xảy ra nhiều lần. Riêng trong vụ này, hai cậu học sinh trung học đã có thể tính toán trước các chi tiết về diễn tiến của vụ thảm sát này. Một điều tồi tệ hơn nữa là thái độ của hai tên sát nhân: Trước khi bị bắt, hai tên này đã dùng súng tiểu liên điên cuồng bóp cò, nhắm vào các thầy cô giáo trong lớp và các bạn học sinh cùng trường. Bọn chúng đã tỏ ra lạnh lùng, dửng dưng trước thảm trạng chết chóc do chúng gây ra.
Suy niệm:
+ Trong bức thư chung Mùa Chay năm 1994, Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã lên tiếng báo động về một nền văn hoá bạo động kích dục, được khuyến khích bằng các phương tiện truyền thông như các phim ảnh đồi trụy kích động bạo lực, được trình chiếu trên các kênh truyền hình, các băng đĩa và sách báo khiêu dâm bày bán công khai tại các nơi công cộng mà giới thanh thiếu niên dễ dàng mua ở bất cứ nơi nào trên đất Mỹ. Quả thật, nhân loại ngày nay đang đứng trước nguy cơ diệt vong, khi họ chọn lựa phương pháp một cuộc chiến tranh bạo động vì thiếu lòng khoan dung tha thứ. Thay vì phải ngồi vào bàn hội nghị để thương thảo bình tĩnh ôn hoà, thì người ta lại thích sử dụng bạo lực để giải quyết các mâu thuẫn và tranh chấp về tài sản, đất đai… do sự khác biệt nhau về trình độ văn hoá, về sắc tộc, màu da, giai cấp hay tôn giáo…
+ Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta về sự khủng hoảng đức tin, không những nơi các môn đệ Chúa thời xưa, mà ngay cả nơi các tín hữu chúng ta hôm nay. Nhiều môn đệ Chúa đã bị giao động đức tin, trở nên nghi ngờ Đức Giêsu khi nghe Người giảng về bản thể Thần Linh của Người: “Đấng từ Trời mà xuống” (x Ga 6,38), và sẽ lên nơi đã ở trước kia (x Ga 6,62), sau khi đã chịu chết đền tội thay cho nhân loại (x Ga 6,51), và sẽ ban Bánh Trường Sinh là máu Thịt Người để nuôi dưỡng đức tin của chúng ta (x Ga 6,53). Một số khá đông các môn đệ Chúa đã xì xầm phản đối: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” và đã rút lui không đi theo Người nữa. Họ là những người trước đó đã đi theo Thầy một thời gian, trở thành Môn Đệ của Người. Nhưng khi gặp khủng hoảng, họ đã ngã lòng và bỏ cuộc nửa chừng. Sự khủng hoảng đức tin thể hiện qua thái độ thiếu dứt khoát, chọn làm điều xấu hơn là điều tốt, lười biếng trong công tác phục vụ công ích, làm ngơ trước những người nghèo khổ bất hạnh, những người thấp cổ bé miệng và cô thế cô thân…
+ Nguyên việc chịu phép Rửa tội để trở nên tín hữu hay môn đệ Đức Giêsu cũng không đảm bảo là ta sẽ trung thành với Chúa mãi mãi. Muốn trung thành với niềm tin của mình thì trước hết phải tìm kiếm Đức Kitô, và để Người dẫn ta đi sâu vào mầu nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh của Người. Đã có nhiều môn đệ Đức Kitô bị khủng hoảng đức tin khi họ không tin Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, không tin nhận lời dạy của Người liên quan đến mầu nhiệm Thánh Thể, và cuối cùng đã không theo làm môn đệ của Người. Ngay trong Nhóm Mười Hai Tông Đồ chấp nhận ở lại, vẫn còn một Giuđa phản bội: Vì không tin Thầy là Đấng Thiên Sai theo quan niệm trần gian và nhất là cảm thấy nguy cơ Thầy sắp thất bại hoàn toàn: sắp sửa bị bắt và chịu khổ nạn như đã tiên báo, nên anh ta đã chọn thái độ khôn ngoan theo thế gian, là bí mật liên lạc với các đầu mục Do Thái để bán nộp Thầy! Làm như vậy, Giuđa vừa có lợi là có ba mươi quan tiền, lại vừa tránh khỏi bị bắt chung với Thầy!
Đặt vấn đề: Còn chúng ta, hôm nay chúng ta phải làm gì để đức tin của chúng ta được củng cố vững chắc và ngày một lớn lên? Nhờ đức tin, chúng ta có quyết tâm trung thành với Đức Giêsu và bước theo chân Người, cùng chịu đau khổ và chịu chết với Người, hy vọng sẽ được phục sinh với Người đời sau hay không?
Đáp: Muốn cho đức tin vào Đức Giêsu được củng cố và lớn lên, mỗi người chúng ta phải thực hành mấy điều sau: Một là phải cầu xin Chúa ban ơn có đức tin vững mạnh, noi gương các Tông Đồ xưa đã cầu nguyện: “Xin Thầy hãy củng cố đức tin yếu kém của chúng con”; Hai là lắng nghe Lời Chúa, suy nghĩ tìm hiểu ý Chúa và quyết tâm thực thi ý Chúa; ba là sẵn sàng từ bỏ ý riêng, vác thập giá mình là chu toàn bổn phận hằng ngày mà theo chân Chúa; Bốn là luôn chọn đi theo đường hẹp, leo dốc là chặng đàng Thánh Giá, chấp nhận hy sinh và âm thầm phục vụ tha nhân, quảng đại chia sẻ tình thương, cụ thể là giúp đỡ tinh thần vật chất cho những người đói khát cơm ăn áo mặc, bị tật bệnh và cô thế cô thân…
Câu chuyện: Dân Ítraen chọn tin theo Đức Chúa:
Bài đọc một trong sách Gio-su-ê là một bản tường thuật với nhiều ý nghĩa quan trọng. Vào khoảng năm 1200 trước Công Nguyên, Dân Do Thái đã được Môsê đưa dẫn qua sa mạc và đã đến bờ sông Giôđan, giáp ranh giới xứ Ca-na-an là Miền Đất Thiên Chúa đã hứa ban cho Ap-ram và dòng dõi ông đến muôn đời. Sau đó, Môsê trao quyền cho Gio-suê lãnh đạo dân tiếp tục đánh chiếm xứ chiếm xứ Ca-na-an. Được Đức Chúa ban ơn hổ trợ, dân Ítraen đã chiếm được miền đất này. Cuối cùng, Gio-su-ê đã triệu tập các chi tộc Ítraen và các đầu mục trong một Đại Hội tại Si-khem. Ong cho dân được tự do chọn lựa: Hoặc là tôn thờ yêu mến Một Đức Chúa duy nhất; Hoặc tin theo các tà thần của chư dân. Dân được tự do chấp nhận hay từ chối Lề Luật; Được chọn trung thành hay chống lại Giao Ước mà họ đã ký với Đức Chúa tại núi Khô-rép vùng Si-nai… Bấy giờ toàn dân thưa lại rằng: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc mà chúng tôi đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mo-ri” (x. Gs 24,16-18).
Suy niệm:
+ Như dân Ítraen xưa, hôm nay các tín hữu chúng ta cũng có tự do lựa chọn khi chịu phép Thánh Tẩy. Bấy giờ, vị Chủ Lễ hỏi các dự tòng rằng: “Anh chị em có từ bỏ ma quỉ không? Có tin vào Thiên Chúa toàn năng không?…Với lời tuyên bố từ bỏ ma quỉ, tuyên xưng đức tin vào mọi chân lý mà Giáo Hội dạy trong kinh tin kính, các dự tòng sẽ được đổ nước trên đầu hoặc được bước vào giếng dìm mình trong nước Rửa Tội, như xưa dân Do Thái đã vượt qua nước sông Giôđan để vào Đất Hứa là xứ Ca-na-an.
+ Trong đời sống thường ngày, cũng như dân Ítraen xưa, các tín hữu chúng ta cần năng nhắc lại lễ Giao Ước với Thiên Chúa và cần xác tín khi thưa với Chúa rằng: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Đức Chúa, mà tôn thờ các tà thần của dân ngoại”. Sự lựa chọn này đòi hỏi dân Ítraen phải hồi tâm sám hối không ngừng.
+ Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đòi Nhóm Mười Hai Tông Đồ phải dứt khoát lập trường đối với mầu nhiệm Thánh Thể: “Thịt Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống!”. Phêrô đã đại diện anh em tuyên xưng đức tin vào Người như sau: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Phêrô xác tín như vậy không phải vì ông đã hiểu được lời giảng của Thầy, nhưng vì ông đã tin vào con người của Thầy. Ong tin Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng đã cho dân ăn no nê, Đấng đã từng đi trên mặt biển. Chính nhờ có lòng tin này mà Phêrô và các bạn trong Nhóm Mười Hai đã chấp nhận cả những Lời chướng tai, vì tin rằng Lời ấy sẽ đem lại hiệu quả là sự sống đời đời.
Quyết tâm: Nhiều người trong chúng ta hôm nay cũng rơi vào tình trạng buồn sầu cô đơn, nhưng lại không biết chạy đến với ai để được giúp đỡ cụ thể. Qua bài Tin Mừng hôm nay, thánh Phêrô đã làm gương và chỉ dạy chúng ta là: hãy dứt khoát lựa chọn làm môn đệ Đức Giêsu, để được người nâng đỡ, ủi an và bổ sức cho. Vì “Chỉ mình Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Nhất là các bạn trẻ, các bạn hãy đến gặp gỡ Đức Giêsu và ở lại bên Người. Chắc chắn Người sẽ không để chúng ta phải thất vọng hổ ngươi bao giờ. Hãy đặt trọn niềm tin vào Chúa. Hãy dâng cho Chúa tất cả những khó khăn của cuộc sống, và xin Người soi sáng mở lòng cho biết ta phải làm gì trong từng hoàn cảnh cụ thể? Mỗi lần không biết mình phải làm gì, bạn hãy mở Kinh Thánh và chắc sẽ tìm thấy lời Chúa dạy dỗ ta phải làm gì?
HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. Khi Chúa làm phép lạ nhân bánh ra nhiều nuôi sống phần xác thì dân chúng lũ lượt rủ nhau đi theo Chúa. Nhưng Chúa đến trần gian đâu phải chỉ để giải quyết vấn đề cơm bánh thể xác, mà để “ban ơn cứu rỗi chúng con”, giúp chúng con khỏi những bất hạnh và đau khổ do ma quỷ và tội lỗi gây ra. Chúa có ban bánh và cá nuôi sống thể xác thì cũng chỉ là để có dịp mời gọi chúng con đến lãnh nhận Bánh Trường Sinh là Thánh Thể nuôi dưỡng linh hồn chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, dân Do Thái xưa theo Chúa khi được ban bánh nuôi xác, và đã bỏ Chúa khi Chúa hứa ban cho họ Bánh Hằng Sống nuôi sống linh hồn. Lạy Chúa, loài người chúng con là như thế đó: tìm kiếm thoả mãn cái đói thể xác bao nhiêu, thì lại dửng dưng coi thường sự thiếu thốn tinh thần bấy nhiêu. Hôm nay xin Chúa giúp con sẵn sàng từ bỏ những đam mê tội lỗi, những quyến luyến đối với của cải vật chất ở đời này, để nhìn lên Chúa, nhận ra những giá trị của những của cải thiêng liêng đời sau, để con luôn chọn theo Chúa, sống lời dạy của Chúa, dù lời đó khó nghe, không đáp ứng những ước mong đời thường trong con, để con thực sự trở thành môn đệ của Chúa.
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con
2) Lạy Mẹ Maria, trong việc thực thi đức tin, con thấy mình còn rất nhiều sai sót trên con đường theo làm môn đệ của Chúa: Khi cầu nguyện, con hay xin Mẹ và các thánh cầu bầu cùng Chúa ban cho chúng con giải quyết những khó khăn trong chuyện làm ăn sinh sống như: Xin được buôn may bán đắt, xin có công ăn việc làm, xin thi đậu, xin được khỏi bệnh… Chẳng mấy khi con cầu xin những ơn phần hồn như xin chừa các thói hư tật xấu, xin cho các tội nhân được sớm ăn năn trở về cùng Chúa, xin cho gia đình được hoà thuận thương yêu nhau, xin cho Nước Cha mau trị đến trên quê hương con…
Lạy Mẹ Maria, nhiều lần khi cầu xin mà chưa được Chúa nhậm lời, con thường nản lòng thất vọng, bỏ đi dự lễ, chẳng còn tin vào Chúa nữa. Bấy giờ con dễ dàng làm theo lời mách bảo của người khác, để đến với thầy bói, thầy bùa ngải, đồng cốt và làm những điều mê tín khác… Lạy Mẹ, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã ngán ngẩm trước thái độ theo Chúa chỉ vì vụ lợi của đám đông dân chúng và các môn đệ: Theo Chúa khi được ăn bánh no nê và thất vọng bỏ Chúa ra đi khi không được toại ý. Có lẽ hôm nay Chúa cũng đang ngán ngẩm khi thấy con chỉ bận tâm tìm kiếm của ăn phần xác, còn phần hồn là điều Chúa quan tâm thì con lại dửng dưng hững hờ. Vậy xin Mẹ giúp con biết: Ưu tiên tìm kiến Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn mọi sự khác như ăn gì mặc gì thì tin tưởng Chúa sẽ thêm cho.
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Chọn tin và sống theo Lời Chúa về bí tích Thánh Thể
Ý CHÍNH:
Sau khi nghe Đức Giê-su giảng về Bánh Hằng Sống, là bí tích Thánh Thể mà Người sẽ ban, thì thính giả chia thành hai phe: Một số khá đông, trong đó có cả các môn đệ của Người, cho rằng lời ấy chói tai, không thể chấp nhận được và đã bỏ không còn đi theo Người nữa (c. 66). Riêng Nhóm 12, khi được hỏi ông Si-mon Phê-rô đã đại diện Nhóm tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (c. 68).
CHÚ THÍCH:
– C 54a.60: + Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời: “Thịt và Máu” Đức Giê-su là Bánh Thánh Thể sẽ được Người ban trong bữa tiệc Vượt Qua (x Mt 26,26). Do đó Thịt và Máu Đức Giê-su nói đây chính là Thánh Thể của Người, sẽ trải qua cuộc khổ nạn và phục sinh, như một hy lễ đền tội để ban sự sống cho trần gian. + Nhiều môn đệ của Người: Môn đệ là những người nhận Đức Giê-su làm Thầy (Ráp-bi), nghe và thực hành Lời Chúa, tích cực cộng tác với Người thi hành sứ vụ tông đồ. Đức Giê-su có hai nhóm môn đệ là nhóm bảy mươi hai (x. Lc 10,1) và Nhóm mười hai (x Ga 6,66). + “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?”: Khi nghe Đức Giê-su nói sẽ lấy Thịt Máu mình cho người ta ăn uống, thì các môn đệ cũng như đám đông dân Do Thái không chấp nhận. Phần vì không ai xẻ thịt mình ra cho người khác ăn, hay lấy máu mình cho người khác uống! Đàng khác, Luật Mô-sê cấm ăn máu huyết, vì máu được coi là sinh khí tụ lại, được dành riêng cho chủ tể của sự sống là Đức Chúa như Luật Mô-sê: “Các ngươi không được ăn máu huyết của bất cứ xác thịt nào, vì mạng sống của mọi xác thịt là máu của nó. Bất cứ ai ăn máu huyết sẽ bị khai trừ” (x. Lv 17,14).
– C 61-62: + Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?: Ba điều người Do Thái và môn đệ xầm xì không chấp nhận: Một là Đức Giê-su tự nhận mình là Bánh hằng sống, đang khi cha ông họ xưa dù đã ăn Man-na mà vẫn phải chết (x. Ga 6,49). Hai là Người tuyên bố mình từ trời mà đến, đang khi họ biết rõ tông tích của Người (x Ga 6,42). Ba là Người khẳng định: “Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống” (Ga 6,55), đang khi luật Mô-sê cấm uống máu và ăn thịt các con vật chết ngạt, vì còn có máu trong thịt (x. Lv 17,10). + Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?: Đức Giê-su cho các môn đệ bằng chứng để tin Người là Đấng Thiên Sai và tin lời Người giảng là sự thật. Bằng chứng ấy là Người sẽ từ cõi chết sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Ga 3,13), như thị kiến về vai trò và sứ mệnh của Con Người trong sách Ngôn Sứ Đa-ni-en (x. Đn 7,13).
– C 63-64): + Thần khí: Là một từ ngữ mang nhiều ý nghĩa như sau: Một là gió, với đặc tính vô hình (x Ga 3,8). Gió có khi trở thành bão để Đức Chúa trút cơn lôi đình hủy diệt những kẻ gian ác (x. Ed 13,13). Hai là hơi thở: Tuy yếu ớt, nhưng lại là sức mạnh nâng đỡ và là điều kiện giúp thân xác sống động. Con người sẽ chết khi không còn hơi thở do Thiên Chúa phú ban (x. St 2,7; 6,3). Ba là linh hồn: Bao lâu Thần khí còn ở với con người, nó biến xác thịt bất động thành sống động, Thần Khí ấy gọi là linh hồn (x. St 2,7). Chết là khi con người trút hơi thở trả linh hồn về cho Thiên Chúa (x. Tv 31,6; Lc 23,46). Bốn là một đặc tình của Thiên Chúa: “Thiên Chúa là Thần Khí” (Ga 4,24) nên người ta phải thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và Sự Thật (x. Ga 4,24). + Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì!: Việc tạo dựng con người đã được sách Sáng Thế thuật lại như sau: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Như vậy xác thịt chỉ là bụi đất, không thể sống động nếu không được Thiiên Chúa phú ban thần khí là linh hồn. Chính thần khí ấy mới làm cho con người sống động. Khi thân xác ngừng thở là lúc thần khí xuất ra khỏi thân xác, và khi ấy thân xác trở thành xác chết, nên chẳng còn ích gì! + Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống: Lời Chúa chính là Thần Khí thiêng liêng, là Lời phát xuất từ Thiên Chúa, nhằm mặc khải các mầu nhiệm và các việc làm của Thiên Chúa cho loài người (x. Xh 20,2), các giới răn và các điều sắp xảy đến (x. St 15,13-16). Lời Chúa sẽ ban Sự Sống đời đời cho con người (x. Ga 6,68), nếu họ biết lắng nghe (x. Mt 13,23), tìm hiểu và xin vâng (x. Lc 1,34.38), tuân giữ (x. Lc 8,15), và nhất là đem ra thực hành (x. Lc 6,47.49). + Ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người: Ngay từ đầu, Đức Giê-su đã có cái nhìn tiên tri và thấy trước sự bất tín của Giu-đa (x. Mt 26,14-16). Tin mừng Gio-an viết như sau: “Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói “Không phải tất cả anh em đều sạch” (Ga 13,11).
– C 65-66: + Không ai đến với Thầy được nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho: Đức tin là một ơn do Thiên Chúa ban cho loài người, để họ tin Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng Sống” (x. Mt 16,16), lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy để được vào Nước Trời và sẽ được sống muôn đời (x Ga 6,44.47). + Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa: Lý do nhiều môn đệ bỏ Đức Giê-su là do họ không tin Người là Đấng Thiên Sai (x. Ga 6,29.40), không tin Người là Bánh Trường Sinh từ trời mà đến (x. Ga 6,32-38), không chấp nhận lời tuyên bố Người sẽ lấy Thịt mình cho họ ăn (x. Ga 6,52). + Nhóm Mười Hai: Đức Giê-su đã lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn (x. Mc 3,13) Sau khi cầu nguyện suốt đêm, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ (x. Lc 6,12-13). Nhóm Mười Hai này tượng trưng cho mười hai chi tộc dân Ít-ra-en Mới là Hội Thánh. Sau này các ông sẽ được ngồi trên mười hai tòa, mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en (x. Mt 19,28). Các ông sẽ được sự sống đời đời (x Mt 19,29), được “quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1; Lc 9,1), “Người sai các ông đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9,2).
– C 67-69: + Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?: Trước mặc khải về bí tích Thánh Thể, Đức Giê-su đòi Nhóm Mười Hai phải tỏ thái độ dứt khoát: Tin hay không tin, thể hiện qua việc tự do chọn ở lại với Thầy hay bỏ đi. + Ông Si-mon Phê-rô liền đáp: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời”: Dù chưa hiểu hết ý nghĩa của Lời Chúa, nhưng Si-mon vẫn đại diện Nhóm 12 chọn ở lại làm môn đệ Thầy và khẳng định niềm tin Lời Thầy là sự thật và sẽ mang lại sự sống đời đời cho những ai đón nhận (x. Ga 5,24). + “Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”: Trước đó, Si-mon đã tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Ở đây, Si-mon lại công nhận Đức Giê-su là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x Ga 6,69) giống như sứ thần Gap-ri-en khi truyền tin đã cho Đức Ma-ri-a biết về trẻ Giê-su như sau: “Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35).
1) Dân Ítraen đã chọn tin vào Đức Chúa và tuân giữ lề luật của Ngài:
Bài đọc một trong sách Gio-su-ê là một bản tường thuật mang nhiều ý nghĩa quan trọng.
– Vào khoảng năm 1200 trước Công Nguyên, con cháu Gia-cóp đã được Mô-sê cứu khỏi ách nô lệ cho người Ai Cập để vào sa mạc tiến về hứa địa. Họ đã được Đức Chúa thanh luyện từ một dòng tộc con cháu Gia-cóp trở thành một dân tộc Ít-ra-en, ký kết giao ước với Đức Chúa.
– Sau 40 năm lưu lạc trong hoang địa, dân Ít-ra-en đã đến được sông Giô-đan, giáp ranh xứ Ca-na-an; Đây là Hứa Địa, được Đức Chúa hứa ban cho Áp-ra-ham và dòng dõi đến muôn đời. Mô-sê trao cho Gio-su-ê quyền lãnh đạo dân Chúa để đánh chiếm lại Hứa Địa Ca-na-an. Được Đức Chúa hỗ trợ, dân Ít-ra-en đã chinh phục được các dân địa phương và chiếm được Hứa Địa.
– Cuối cùng, Gio-su-ê đã triệu tập các chi tộc Ít-ra-en và các đầu mục trong Đại Hội tại Si-khem. Ông cho dân Ít-ra-en tự do chọn lựa: Hoặc là tôn thờ Một Đức Chúa duy nhất, hoặc tin theo các tà thần của chư dân. Dân cũng được tự do chấp nhận hay từ chối Lề Luật, được chọn trung thành hay chống lại Giao Ước mà họ đã ký với Đức Chúa tại núi Khô-rép miền Si-nai…
– Bấy giờ toàn dân thưa lại rằng: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc mà chúng tôi đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mo-ri” (x Gs 24,14-28).
2) Sẵn sàng chấp nhận cái chết để bày tỏ lòng trung thành với đức tin:
Thời vua Ga-liên bách hại đạo, trong quân đội Rôma có một sĩ quan xuất sắc lừng danh là MA-RANH, bách chiến bách thắng. Ai cũng biết Ma-ranh sắp được thăng đại tướng và chính ông cũng nghĩ như thế. Nhưng Ma-ranh là một người Công giáo có đức tin vững mạnh. Ông luôn xin Chúa ban ơn trung thành với đức tin khi chịu phép rửa tội. Lúc đó, có một viên đại tướng của quân đội Rô-ma bị chết bất ưng. Hôm sau, vị toàn quyền cho mời Ma-ranh đến và nói: “Tôi vừa được lệnh nhà vua để gọi ngài lên chức đại tướng, và tôi được hân hạnh trao quyền tổng chỉ huy cho ngài, nhưng có người cho biết ngài là người Công giáo, mà nhà vua thì không muốn để bất cứ người Công giáo nào trong hàng ngũ sĩ quan quân đội hoàng gia. Vậy xin ngài cho biết ngài có phải là người Công giáo không?”. Ma-ranh đã khẳng định: “Thưa ngài, đúng thế, tôi là người Công giáo”. Viên toàn quyền nghiêm nghị nói: “Tôi cho ngài ba tiếng đồng hồ để nghĩ lại, nếu chối Giê-su thì ngài sẽ làm đại tướng. Bằng không ngài sẽ phải chết”. Ma-ranh ra về, đến gặp vị giám mục và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vị giám mục cầm tay Ma-ranh đưa vào nhà thờ, dẫn lên cung thánh, là chính nơi ngày xưa Ma-ranh đã thề trọn đời trung thành với Chúa Ki-tô. Rồi vị giám mục rút thanh gươm bên hông của Ma-ranh đặt bên cạnh sách Tin Mừng trên bàn thờ và nói: “Này Ma-ranh, dễ giải quyết lắm, ông phải chọn một trong hai. Xin ông nhớ lại ngày rửa tội, rồi tùy ý ông quyết định”. Ma-ranh can đảm chọn cầm sách Tin Mừng và nói: “Con xin thề trung thành với Chúa”. Vị giám mục âu yếm nhìn Ma-ranh và nói: Con hãy đi bình an, ngày hôm nay sẽ là ngày vinh quang của đời con, ngày hôm nay là ngày con đại thắng”. Và hôm đó, Ma-ranh đã bị đổ máu vì đức tin Công giáo.
Trong cuộc sống, có thể chúng ta không phải lựa chọn như ông Ma-ranh hay không bị bách hại như các vị tử đạo, nhưng rất có thể chúng ta phải chọn giữa nhiều thử thách, đòi chúng ta phải sống ngay thẳng, công bình, bác ái. Xin Mình Thánh Chúa mà chúng ta rước lấy, tăng thêm sức mạnh để chúng ta vượt qua những khó khăn thử thách ở đời này, nhất là về đức tin.
3) Gương tín thác và vâng lời Cha:
Ngày xưa có một ông vua, ông có hai người con. Ông muốn thử xem con nào là đứa con khôn để ông trao lại quyền cai trị của ông sau khi ông qua đời. Ông lấy một viên kim cương thật quí gói trong một chiếc túi giấy xấu – còn viên kim cương giả bằng thủy tinh thì ông bỏ vào một cái hộp trang trí rực rỡ. Sau đó ông cho gọi 2 đứa con lại. Ông cho người con cả chọn trước, cậu con cả nhìn hai gói, thấy túi giấy xấu nên đã bỏ qua và chọn cái hộp đẹp.
Sau đó đến phiên người con út. Anh ta quan sát hai món đồ. Sau một phút suy nghĩ anh nhìn cha và nói: “Thưa cha, xin cha lựa giúp con”. Và đức vua đã tìm ra người sẽ kế vị mình. Sau đó đức vua đã truyền mở gói quà được bọc trong túi giấy xấu ra khiến mọi người đều ngỡ ngàng. Sau đó đức vua truyền cho thợ kim hoàn thiết kế một mũ triều thiên thật đẹp và viên kim cương thật đã được đính lên mũ triều thiên đó. Rồi đức vua cho chiếc triều thiên này vào một chiếc hộp bằng vàng đẹp hơn chiếc hộp kia ngàn lần. Cuối cùng đức vua đã tuyên bố với thần dân rằng: “Mai sau con út trẫm sẽ lên nối ngôi trẫm và trong ngày đăng quang sẽ đội chiếc vương miện quý giá này”. Sở dĩ người em được chọn vì anh ta đã biết tín thác vào cha và luôn làm theo ý cha.
4) Phép lạ Bí tích Thánh Thể ở Lanxianô:
Năm 700, tại tu viện Thánh Lou-gi-no ở Lan-xi-a-nô bên I-ta-li-a, có một linh mục tên là BA-SI-LI-Ô hoài nghi về mầu nhiệm Chúa Giê-su hiện diện thực sự dưới hình bánh rượu sau lời truyền phép trong thánh lễ. Chúa Giê-su Thánh Thể đã làm một phép lạ lớn lao còn lưu truyền đến ngày nay, như một bằng chứng hùng hồn về bí tích Thánh Thể. Đó là phép lạ LAN-XI-A-NÔ. Hôm ấy sau khi linh mục Ba-si-li-ô đọc lời truyền phép trong thánh lễ, tấm bánh miến liền biến thành Thịt Chúa và rượu nho trong chén thánh liền biến thành Máu Chúa Giê-su Vào năm 1713. Từ đó đến nay Thịt Máu Chúa vẫn luôn tồn tại. Thịt Máu Chúa đã được lưu giữ trong một chiếc Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang Thánh Thể Lan-xi-a-nô. Đến năm 1971, tòa thánh đã cho phép các nhà khoa học được xét nghiệm phép lạ này. Kết quả xét nghiệm cho thấy Thịt đó là một thớ thịt trái tim, và Máu đó là máu người nhóm AB. Nên nhớ vết máu trên chiếc khăn liệm thành Tu-ri-nô cũng thuộc về nhóm máu AB. Ngày nay, Thịt và Máu Chúa tiếp tục được lưu giữ trong nhà tạm tại nhà thờ thánh Phan-xi-cô, một trung tâm hành hương nổi tiếng của thế giới.
Trong Tin Mừng hôm nay, sở dĩ nhóm môn đệ thứ nhất đã bỏ đi không còn theo Thầy vì chỉ nghĩ đến bản thân: “Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?”(Ga 6,52), đang khi nhóm Tông Đồ chỉ nghĩ đến Chúa qua lời tông đồ Phê-rô: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68).
1) Tự do chọn “tin hay không tin”:
Như dân Ít-ra-en xưa, ngày nay mỗi tín hữu chúng ta cũng có quyền tự do chọn tin hay không tin vào Đức Giê-su để đức tin có giá trị giúp đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Khi chịu phép Thánh Tẩy, các dự tòng cũng phải công khai chọn thái độ từ bỏ ma quỉ tội lỗi và tuyên xưng đức tin vào các chân lý đức tin như Hội Thánh dạy, trước khi được chủ sự đổ nước trên đầu hoặc dìm mình họ trong giếng nước rửa tội để được Thánh Thần tái sinh làm con Thiên Chúa.
Trong đời sống thường ngày, các tín hữu chúng ta cũng cần khẳng định đức tin như dân Ít-ra-en xưa đã khẳng định niềm tin vào Đức Chúa: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Đức Chúa, mà tôn thờ các tà thần của dân ngoại”. Sự chọn lựa tin theo Chúa đòi các tín hữu chúng ta không ngừng hồi tâm sám hối để thanh luyện đức tin của mình.
2) Cần dứt khoát chọn tin theo Chúa:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su cũng đòi Nhóm Mười Hai Tông đồ phải dứt khoát chọn tin hay không khi đối diện với bí tích Thánh Thể do Người thiết lập: “Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống!”. Khi nghe mầu nhiệm này, nhiều môn đệ đã phản đối và rút lui không còn đi theo Người nữa. Riêng ông Phê-rô khi được Thầy hỏi, đã đại diện Nhóm Mười Hai tông đồ tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Qua câu này, ông Phê-rô đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin dù ông chưa hiểu rõ nội dung mầu nhiệm bí tích Thánh Thể Thầy vừa mặc khải. Ông tin vì dựa vào Lời Thầy và vào thế giá của Thầy.
Hôm nay, Chúa Giê-su cũng đòi chúng ta khẳng định lập trường tin Chúa hay không? Chúng ta có chọn ở lại với Thầy đang khi nhiều bạn bè khác bỏ Chúa qua việc không đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật, hành xử theo ý riêng mình chứ không theo Lời Chúa và lề luật Hội Thánh? Chúng ta có trung thành chọn làm điều tốt trong khi đại đa số bạn bè chọn theo lối sống dễ dãi phù hợp với tính xác thịt và làm theo các đam mê lạc thú bất chính, chọn chối bỏ Chúa trong lý lịch để hy vọng được hưởng các đặc quyền đặc lợi và địa vị xã hội? Có lẽ phần đông chúng ta đã chọn thái độ lim lặng. Phải chăng thái độ đó đồng nghĩa với sự phản bội của Giu-đa, được Tin Mừng Gio-an cho biết: “Quả thật ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người” (Ga 6,64b). Tuy trong thâm tâm Giu-đa đã không tin Thầy và quyết tâm phản Thầy, nhưng vẫn ở lại Nhóm Mười Hai là để chờ cơ hội! (x. Ga 13,21-27; Mt 26,14-16).
3) Đức tin vào bí tích Thánh Thể phải dựa trên Lời Chúa:
Khi tuyên xưng đức tin thì không phải ông Phê-rô đã hiểu biết mầu nhiệm bí tích Thánh Thể, nhưng chỉ vì ông đã tin “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, tin Thầy là Đấng quyền năng đã từng nhân bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no; Đã từng đi trên mặt biển và phán một lời là dẹp yên sóng gió; Đã từng xua trừ ma quỷ ra khỏi nhiều người bị ám; Đã từng đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân và phán một lời là kẻ chết sống lại… Chính nhờ đức tin vào quyền năng của Chúa, mà Phê-rô và Nhóm Mười Hai đã tin cả những điều khó nghe, khó hiểu và khó chấp nhận về bí tích Thánh Thể:“Ai ăn thịt và uống máu Tôi sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,54a).
4) Cần làm gì để tin vào bí tích Thánh Thể?:
“Đây là mầu nhiệm đức tin”, vượt trên sự hiểu biết khả giác của lòai người, nên để tin vào bí tích này, mỗi tín hữu chúng ta cần có ba điều kiện như sau:
– Một là phải lắng nghe và suy niệm Lời Chúa như tông đồ Phao-lô dạy: “Có đức Tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Ki-tô” (Rm 10,17). Do đó, để tin vào mầu nhiệm bí tích Thánh Thể, chúng ta cần lắng nghe Lời Chúa khi tham dự thánh lễ hoặc dự các buổi họp nhóm học sống Lời Chúa, rồi còn phải “suy niệm Lời Chúa trong lòng” noi gương Mẹ Ma-ri-a xưa (x Lc 2,51).
– Hai là phải xác tín vào Lời Chúa Giê-su như ông Phê-rô đã thưa với Chúa:“Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
– Ba là phải ý thức đức tin là do ơn Chúa ban như lời Đức Giê-su: “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6,65). Do đó, để tin vào mầu nhiệm Chúa Giê-su hiện diện trong bí tích Thánh Thể, chúng ta cần năng cầu xin Chúa Giê-su ban thêm đức tin cho mình, như lời cầu của người cha có con bị quỷ ám:”Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,24).
Lạy Chúa Giêsu. Nhiều lần khi xin các ơn phần xác mà chưa được nhậm lời, con đã nản lòng thất vọng, thể hiện qua việc bỏ dự lễ Chúa Nhật và không còn tin tưởng cầu xin Chúa nữa, mà chạy đến với thầy bùa thầy ngải của lương dân. Tin mừng hôm nay cho thấy: Chúa đã ngán ngẩm trước đức tin vụ lợi của đám đông dân chúng và các môn đệ. Có lẽ hôm nay Chúa cũng đang ngán ngẩm khi thấy con cũng chỉ biết lo tìm kiếm lợi lộc tiền bạc vật chất, và dửng dưng trước những ơn ích thiêng liêng phần hồn. Xin Chúa giúp con thực thi theo Lời Chúa dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
ĐỨC TIN VÀ SỰ TỪ KHƯỚC NƠI CÁC MÔN ĐỆ (cc. 60-71)
Phản ứng:
+ Nhiều môn đệ liền nói: không thể tiếp tục nghe Người (c. 60).
+ Nhiều môn đệ rút lui và không còn đi với Người nữa (c. 66).
+ Chúa Giêsu hỏi nhóm Mười Hai: Anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?
+ Thưa Thầy, chúng con biết đến với ai?
+ Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời.
+ Phần chúng con, chúng con tin và nhận biết.
+ Thầy là Đấng Thánh, vị Thánh của Thiên Chúa.
+ Chúa Giêsu đáp: Thế mà một người trong anh em lại là quỷ.
Trong tiểu đoạn này xuất hiện những kết quả thảm khốc, từ bài diễn từ của Chúa Giêsu: không phải là những người Do Thái xa rời Chúa Giêsu nữa, mà là các môn đệ chính hiệu; và có đến hai lần, có “nhiều” môn đệ không đi theo Chúa Giêsu nữa. Một cuộc khủng hoảng như thế trong mối tương quan giữa Chúa Giêsu và các môn đệ được cả bốn sách Tin Mừng nhắc đến. Các sách Nhất Lãm đặt cuộc khủng hoảng này vào lúc Phêrô tuyên xưng đức tin ở Xêdarê (Mc 8, 27-33). Trên thực tế cả hai cảnh huống đều có điểm chung với nhau. Gioan, vẫn theo thói quen, trình bày cảnh huống cách thoải mái hơn. Trong khi sử dụng từ “môn đệ”, thánh sử muốn nhắc đến hoàn cảnh khủng hoảng tại cộng đoàn của ông. Tuy nhiên ông cũng tạo điều kiện cho mỗi độc giả, một khi được mời gọi trở thành môn đệ, nên lượng định những yêu sách của đức tin và vị trí trung tâm của Thánh Thể trong thời điểm của Giáo Hội.
Việc nhấn mạnh vào thực Thánh Thể được nhắc đến trong tiểu đoạn 53-59 không nên hiểu theo cách giải thích phù phép của bí tích: “Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì” (c. 63). Sự hiệp thông do bí tích có mục tiêu cuối cùng đưa đến sự hiệp thông với Chúa Giêsu.
Trong sự thử thách vì lẽ phải khiến nhiều người bỏ đi, Chúa Giêsu yêu cầu những kẻ thân cận nhất của Người thực hiện lại việc lựa chọn của mình ông Simon Phêrô, người phát ngôn của nhóm Mười Hai, công bố sự gắn bó của mình bằng đại từ ở ngôi thứ nhất số nhiều: “Thưa Thầy, chúng con biết đến với ai? – Cùng với các đồng nghiệp của mình, ông ở lại bởi vì Chúa Giêsu có “những lời đem lại sự sống đời đời”. Nhờ ông, nhóm Mười Hai long trọng tuyên xưng đức tin của mình, qua một tước hiệu chưa được nói đến: “Đấng Thánh của Thiên Chúa”, có nghĩa là Đấng chiếm hữu chính sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thế nhưng bài trần thuật lại kết thúc bằng việc nhắc đến kẻ phản bội. Như vậy, chương 6 quan trọng này chấm dứt bằng một báo hiệu bi thảm, để hiểu rằng không bao giờ chiếm hữu được sự trung thành, cũng như sự trung thành có thể ngã nhào trong sự phản bội.
THẦY CÓ NHỮNG LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Ở Capharnaum, diễn từ về bánh hằng sống kết thúc bằng sự khủng hoảng công khai. Sau “người Do thái” là những người đầu tiên bỏ đi, đến lượt “nhiều môn đệ” của Đức Giêsu xầm xì và đả kích Ngài giống như con cái Israel trong thời kỳ băng qua sa mạc (vào đất hứa). Họ nói: “Lời này chướng tai quá, ai mà tiếp tục nghe nổi?”.
Không làm dịu bớt bầu không khí căng thẳng, Đức Giêsu còn đặt ra cho những người nghe mình một câu khó trả lời. Sau khi đã loan báo cái chết của mình là nguồn mạch sự sống cho thế gian, bây giờ Ngài đề cập đến việc Ngài trở về với Cha. Ngài nói với họ: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?”.
Lần này thì quá lắm rồi! Tác giả Tin Mừng viết tiếp: “Từ lúc đó rất nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa”.
– Chính lúc đó, lúc mà hầu như mọi người bỏ rơi mình, Đức Giêsu quay sang “nhóm mười hai” (hạt nhân của một dân mới) là tên mà Tin Mừng thứ bốn gọi lần đầu tiên. Ngài nói với họ, thúc ép họ phải có một chọn lựa dứt khoát: hoặc bỏ đi hoặc ở lại và theo Ngài cho tới Lễ Vượt Qua của Ngài, như Ngài đã hỏi họ tại miền Cêsarê Philipphê (Mt 16,15; Mc 6,14-15; Lc 9,7-8): “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi sao? “
Simon-Phêrô nhân danh “nhóm mười hai” (ông xưng hô ở ngôi nhất số nhiều) tuyên bố sự gắn bó của các ông với Đức Giêsu: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”
+ Thánh Phêrô bắt đầu: “Chúng con biết đi với ai?”. Tác giả Tin Mừng đặt trên môi Phêrô động từ “đi” là động từ đã được dùng trước đó để chỉ sự “rất nhiều môn đệ” bỏ rơi Thầy.
Rõ ràng, ngược lại với đám đông môn đệ đó, “nhóm mười hai” đã dấn thân theo Thầy.
+ Chính việc mạnh mẽ tuyên xưng đức tin đã làm tan biến mọi do dự; tuyên xưng đức tin không phải là gắn bó với những chân lý trừu tượng, nhưng với con người Đức Giêsu: “Thầy có…Thầy là”. X. Léon-Dufour chú giải: Lời tuyên xưng đức tin của “Phêrô vọng lại điều Đức Giêsu vừa mạc khải: Lời Ngài là “sự sống đời đời”. Phêrô mặc nhiên hoàn toàn chấp nhận tất cả nội dung của diễn từ mà các môn đệ khác xét là không thể nhận được. Chắc chắn, theo tình hình câu chuyện được kể lại trong Tin Mừng, ông vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa trọn vẹn những lời Đức Giêsu, nhưng ông đã tin tưởng vào điều chính yếu nhất, đó là sứ điệp của Đức Giêsu đem đến sự sống đời đời. (“Lecture de Evangile selon Jean”, tập 2, Seuil, tr. 1 88)
Và trong lời tuyên xưng đức tin, Phêrô đã dành cho Đức Giêsu một danh hiệu chưa từng có: “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, nghĩa là Đấng mang trong chính mình một cái gì thánh thiện của chính Thiên Chúa.
X Léon-dufour đặt câu hỏi: “Đấng Thánh của Thiên Chúa nói lên điều gì? Đây là một tên gọi hãn hữu, khó giải thích. Phêrô không dừng lại một tên nào mà Đức Giêsu đà sử dụng trong diễn từ để chỉ chính Ngài (Con, Bánh trường sinh, Đấng Thiên sai, Con Người); thậm chí ông cũng không dùng một danh hiệu truyền thống nào về sự mong đợi Đấng Cứu Thế trong đạo Do thái… Điều đặc biệt ở đây là Phêrô đã diễn tả Đức Giêsu là ai theo cách của riêng ông. Phải chăng ông lập lại danh hiệu này theo thánh vịnh 16, trong đó có nói đến danh hiệu “Đấng Thánh của Ngài”, theo bản dịch Bảy mươi? (xem Tông đồ công vụ 2,27). Thánh vịnh này ca tụng tình thân mật sâu xa giữa Thiên Chúa và người cầu nguyện; phải chăng Phêrô cũng muốn nói đến tình thân mật sâu xa giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa? Đức Giêsu đã công bố sự kết hợp giữa Ngài với Chúa Cha (5, 19-30), sau đó, Ngài còn loan báo mình đã được “Thiên Chúa thánh hiến” (10,6; 17,19). Danh hiệu “Đấng Thánh Của Thiên Chúa” cao vượt hơn danh hiệu “Thiên Sai” rất nhiều và thích hợp với danh hiệu “Con Thiên Chúa” mà Simon-Phêrô tuyên xưng trong Mátthêu 16, 16″ (Sách đã dẫn, tr. 189)
– Trong cơn khủng hoảng Giáo hội hiện phải đương đầu, các Kitô hữu ngày nay cũng đang đứng trước câu hỏi cốt yếu xưa kia Đức Giêsu đã đặt ra cho các môn đệ Ngài: câu hỏi về căn tính con người của Ngài, về sứ vụ của Ngài và về sứ vụ của Giáo Hội. Dựa trên đức tin của Simon-Phêrô và nhóm Mười Hai, chúng ta có cương quyết chọn đi theo Đức Giêsu để trở nên nhân chứng cho Tin Mừng mà thế giới đang mong đợi không?
BÀI ĐỌC THÊM
(H.Vulliez, “Thiên Chúa rất gần, năm B”, DDE3, tr.141-142)
“Cuộc khủng hoảng rất trầm trọng. Nó lan tới cả những người thân cận với Đức Giêsu. Đây là một khủng hoảng về niềm tin đưa đến mọi đổ vỡ. “Diễn từ bánh trường sinh”, một trong những đỉnh cao của sứ điệp, mang dáng dấp một thất bại thảm não. Đủ rồi! không hiểu biết, thất vọng, bối rối vọng lên từ những tiếng xầm xì… Trước đám người lạc hướng hoặc thù nghịch này, sao Đức Giêsu không bớt giọng một chút? Ngài có thể nắm họ trong tay nếu làm họ cảm động. Nhưng không thế! Không có một nhượng bộ nào! Không có một dễ dãi nào để người ta dễ tin vào chân lý hơn.
Đức Giêsu thậm chí đã sẵn sàng để nhìn cảnh các tông đồ bỏ đi Đối với Ngài, trung tín với Chúa Cha, với Lời, nguồn mạch của tất cả hiện hữu, là trên hết. Chính Ngài là Ngôi Lời trở thành xác thể; là Lời Thiên Chúa hiện thân trong xác phàm. Rõ ràng chính đó mới là điều không thể chấp nhận được.
“Còn anh em, anh em có muốn bỏ đi không?” Bỏ đi, không ở lại là một tình huống rất có thể xảy ra, ngay cả đối với những người bạn thân nhất. Ngài còn đưa ra câu hỏi lấp lửng như thế chất vấn thính giả của mình: “Thế thì khi anh em thấy Con người lên nơi ở trước kia thì sao?”
Nicôđêmô đã không còn chỗ bám víu để rồi cuối cùng hiểu được ông phải “sinh lại” cách nào. Ông đã tin. Chỉ có Đức tin mới soi sáng cho chúng ta hiểu xa hơn những gì từ ngữ nói lên, những gì chúng ta nghĩ rằng mình đã hiểu, những gì chúng ta tưởng tượng, kể cả những gì chúng ta tin rằng mình đã tin. Xa hơn? ‘Người ta ngừng bước… hãy đi xa hơn. Người ta ngừng bước khi không còn lắng tai nghe… hãy vượt xa hơn. Người ta bám lấy những ý kiến riêng, kể cả những thành kiến riêng. Người ta từ chối không chịu nhúc nhích, không chịu để mình bị thúc ép.
Tin, chính là nhận ra ánh sáng le lói bên kia những từ ngữ, bên kia những nghi lễ. Tin cũng còn là ‘cảm’ Lời và được nuôi dưỡng bằng Lời.
(J. Guillet. trong “Đức Giêsu trong niềm tin của những môn đệ đầu tiên”, Desclée de Brouwer. 1995, tr.82-84).
“Giữa sự tuyên xưng đức tin tại Capharnaum và tại Cêsarê có những điểm giống nhau lạ lùng, tuy nhiên giống về hoàn cảnh và nội dung hơn là ngôn từ (…) Đó là lúc khủng hoảng, là giây phút chọn lựa (…)
Chịu ảnh hưởng của Maccô nên ngay khi bắt đầu câu chuyện, các tác giả Tin Mừng nhất lãm đã cho thấy một câu hỏi nổi cộm về nhân vật Giêsu. Đứng trước uy thế phát xuất từ lời Người nói, sức mạnh từ các phép lạ Người làm, và nhất là lời Người khẳng định mình là Bánh Hằng Sống, mọi người thắc mắc hỏi nhau: Đức Giêsu là ai? Câu hỏi này có liên quan trực tiếp đến số phận của dân Do thái và số phận của chính Đức Giêsu, bởi vì sự chúc phúc mà Abraham lãnh nhận đã gắn liền số phận của Israel với số phận của tất cả mọi dân tộc. Đó là vấn đề phần rỗi của cả nhân loại. Trung tâm của vấn đề trọng đại và lớn rộng này là nhân vật Giêsu và sự đón tiếp Người. Đây cũng là vấn đề đức tin: dưới ánh sáng của Thiên Chúa, các tác giả Tin Mừng nhất lãm trình bày làm thế nào Phêrô là người đầu tiên đã biết trả lời cho Đức Giêsu và nhờ đó dẫn Giáo Hội vào con đường cứu rỗi.
Nơi Gioan. với cách trình bày khác, câu trả lời của Phêrô chứa đựng cùng một nội dung và phát xuất từ cùng một niềm tin: Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Thầy từ Thiên Chúa mà đến, Thầy thuộc về một thế giới mà loài thụ tạo không thể tiếp được thế giới của mọi ước vọng, thế giới của Thiên Chúa Cực Thánh. Tất cả mọi hình thức đức tin đều giống nhau về điểm này. Nhưng theo cách riêng của mình, Tin Mừng Gioan đã đem đến cho lời tuyên xưng đức tin này một tầm mức hết sức quan trọng. Lời tuyên xưng đó được đặt vào một bối cảnh hết sức rộng lớn. Bối cảnh đó là số phận dân Israel và lịch sử của họ. Suốt chương VI, rất nhiều chi tiết cho thấy những diễn tiến từ lúc Đức Giêsu sang bờ bên kia biển hồ Galilê (6, 1) cho đến lúc Phêrô tuyên xưng đức tin và Đức Giêsu khen ông đều diễn ra song hành với những biến cố lớn của sách Xuất hành diễn tả sự ra đời của dân tộc Israel.
Những điểm tương cận đó mang một ý định rõ rệt. Đàng sau những trùng hợp này, Gioan lưu ý đến mối liên hệ sâu xa giữa biến cố Xuất Hành, giải phóng dân riêng, vượt biển Đỏ, băng qua sa mạc, và kinh nghiệm mà Đức Giêsu muốn các môn đệ Người trải qua. Theo Môsê ngày xưa và theo Đức Giêsu hôm nay tự căn bản, tiến trình cũng là một. Giữa những đồng bào thù nghịch và trong một tương lai đen tối, vấn đề là nhận ra, nơi con Người mà bề ngoài như bất lực kia, sự hiện diện của Thiên Chúa và quyền năng Người, cũng như nhận ra sự đảm bảo một tương lai hạnh phúc. Vấn đề cũng là bước theo Người, và sống niềm tin như Abraham xưa kia và Đức Giêsu Kitô ngày nay.
(Thư Hội Đồng Giám Mục gởi cho người công giáo Nước Pháp, Cerf, tr. 19-21)
“Vào cuối thế kỷ XX này, người công giáo Pháp ý thức rằng mình đang phải đối đầu với một tình thế nghiêm trọng. Triệu chứng của tình thế này thì nhiều và đôi khi đáng ngại. Dĩ nhiên, không được quá thổi phồng cơn khủng hoảng hiện nay: báo cáo của Hội đồng Giám mục về “trình bày đức tin cho thế giới hôm nay” cho thấy ngay giữa những khó khăn, nhiều tín hữu đã đương đầu với thử thách đức tin. Họ là những người đã tìm thấy nơi Giáo hội những lý do để tin, để đối đầu với những khó khăn trong cuộc sống, và để dấn thân lãnh nhận trách nhiệm trong đời sống xã hội.
Nhưng không phải vì thế mà chúng ta bưng bít những dấu hiệu đáng lo, đó là số người đi lễ nhà thờ giảm sút, ký ức Kitô giáo phần nào mất đi, và sự phục hồi khó khăn. Ngày nay, trong xã hội chúng ta, chính chỗ đứng và tương lai của đức tin bị đặt thành vấn đề.
Chính trong bối cảnh xã hội này, từ Tin Mừng, chúng ta có thể chọn lựa những gì phù hợp để giúp thế giới phát triển, nhưng cũng không quên Tin Mừng có thể phản bác lại trật tự của thế giới và xã hội khi trật tự này trở nên vô nhân.
Tóm lại, chúng tôi nghĩ rằng thời buổi hiện tại không bất lợi cho việc loan báo tin Mừng hơn những thời kỳ trước đây. Trái lại, tình thế nghiêm trọng hiện nay càng thúc đẩy chúng ta trở về nguồn của đức tin cũng như thúc đẩy chúng ta trở nên những môn đệ và chứng nhân cho Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô một cách cương quyết hơn và dứt khoát hơn”.
QUYẾT ĐỊNH CỦA ĐỨC TIN
CÂU HỎI GỢI Ý
Các Tin Mừng Nhất lãm cũng nhận rằng một khủng hoảng như thế đã được khai mào trong quê hương Chúa Giêsu ngay giữa bà con Người, sau khi Người giảng dạy trong các hội đường của họ (Mt 13-54; Mc 6,1; Lc 4,15). Ở đó cũng vậy, bác luận căn bản phát xuất từ chỗ người ta biết quá rõ nguồn gốc của Người (6,42).
Gioan đã mô tả khủng hoảng này cho đến cao điểm của nó. Ông thấy trong đó không phải chỉ là một sự chống đối thoáng qua. Luôn luôn cái trước trình thuật, ông rút ra từ hoàn cảnh đang mô tả những triệu chứng của sự chối từ quyết liệt, của sự bội phản Giuđa và của âm mưu người Do thái. Con Người đến loan báo thời đại cánh chung, nên thái độ người ta đối với Người mang một giá trị vĩnh cửu. Ngay từ giai đoạn hôm nay, các lập trường đã có tính cách quyết định và Tin Mừng, một cách nào đó, có thể trực tiếp nhảy qua chương 13, qua chứng từ về “Giờ”nhưng chương ở giữa 7-12. chỉ đề cập đến những giờ cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu là Chúa Giêsu quá biết rõ là việc mặc khải của mình cho người Do thái hầu như sẽ vô ích (9,4; 11,9; 12.35). Căn cứ vào những điều đã nhận xét, Người có thể lên án người Do thái ngay bây giờ (8,26.50). Sở dĩ Người không làm chuyện đó và vẫn tiếp tục công việc mặc khải, ấy chỉ vì ngày giờ của Người đã được ấn định bởi Chúa Cha. Dân cứng tin sẽ chỉ bị phán xét khi nào giờ của Người đến (12,31). Trên nguyên tắc, bản án đã được tuyên bố rồi, song chưa có uy lực quyết tụng (9,39). Việc mặc khải của Con Người, đáng lẽ phải là một sự trao ban sự sống vĩnh cữu, thì thực tế lại trở nên một phán quyết truất hữu, không xâm nhập được vào tận đầu óc của người Do thái luôn khép kín trước mặc khải thần linh và cánh chung đó. Thế mà sự từ chối mặc khải cánh chung tất yếu bao hàm một phán quyết cánh chung. Do đấy, nảy sinh một sự mâu thuẫn: một đàng, đây là cơ may cuối cùng của người Do thái, đàng khác hạn kỳ để chọn lựa sẽ chỉ hết vào Giờ Chúa Giêsu.
Đúng! Sau này cũng vậy, mặc dù đã được báo trước (16,1), họ vẫn coi cái chết của Người là một cớ vấp phạm (Mc 14,27; Mt 26,31). Chúa Giêsu đã làm gì với mức độ phát triển của đức tin họ như thế? Người có tìm cách trấn an họ bằng cách giải thích sao cho vấn đề trở nên dễ chấp nhận hơn chăng? Chắc chắn đó không phải là thói quen hành động của Chúa Giêsu trong Tin mừng thứ tư. Trái lại, đứng trước thính giả không hiểu lời Người, Chúa Giêsu thường phản ứng bằng cách ám chỉ đến một mặc khải quan trọng hơn là mặc khải về tận cùng của cuộc sống bản thân. Trước đó, trong diễn từ về bánh, người ta cũng đã tìm được một ám chỉ về cái chết của Người (6,51) và chính lời ám chỉ này đã gây nên cuộc bàn cãi dẳng dai giữa người Do thái. Lời ám chỉ thứ hai chỉ là để xác nhận lời ám chỉ thứ nhất. Không rút lời lại, cũng chẳng nhượng bộ trước bác luận của họ, Chúa Giêsu đưa ra một ám chỉ mới liên quan đến một giai thoại cuối đời Người: Thăng thiên. Và lời ám chỉ này nặc khải yếu tố thần linh mà ta phải giả thiết là có nếu muốn hiểu ý nghĩa cứu sống của cái chết Chúa Giêsu. Như thế, hai khía cạnh của Giờ được đưa ra ánh sáng: khía cạnh mặc khải cũng như khía cạnh cứu chuộc (3, 13-15). Và đồng thời cái lý do cuối cùng của việc “từ trời xuống” cũng được giải bày minh bạch trong chương 6 Gioan. Bởi vì việc lên trời mang lại mặc khải hoàn toàn về Con người xuống thế là về nguồn gốc thần linh của Người: vào lúc đó Chúa Giêsu mới đảm nhận chức vụ Con Người, lúc đó nguồn gốc thiên giới của người mới hoàn toàn tỏ lộ. Vì Người lại lên nơi đã ở từ trước. Như vậy Thăng Thiên vừa là mặc khải về Con Người (1,51; 3,13; 6,62) vừa là mặc khải về Con (20, 17). Đối với Phaolô cũng vậy: giây phút cuối đời Chúa Giêsu, hay đúng hơn sự Phục sinh của Người, là lúc mà Chúa Giêsu trở nên hay lại trở nên thực sự chính Người: bấy giờ Người trở nên Chúa, Con Thiên Chúa quyền năng (Rm 1,4) thu hồi lại những ưu phẩm của thần tính Người (Pl 2,6-11) Sự cứu rỗi là nhận biết Chúa Giêsu ấy (2Cr 5,16). Việc giải thích các câu 53-63 như vậy thật rất chặt chẽ.
Một vài nhà chú giải đã tìm cách giải thích các câu này theo một đường hướng khác bằng cách xem mấy chữ “Và khi các ngươi thấy Con Người lên nơi Người đã ở trước” như một lời tiên báo việc đóng đinh trên thập giá (Cyrille, Maldonat, Tolet, Schanz) vì xét rằng, đối với Gioan. Giờ của Chúa Giêsu là giờ Người bị nâng cao trên thập giá và được vinh hiển. Nhưng ở đây, lối giải thích này ít xác đáng vì hai lý do:
1/ Động từ amabainein “lên” không bao giờ tương đương với động từ hupsôthênai “giương cao” trong Tin mừng thứ tư cả (3,14; 12,32-34)
2/ Việc gương cao trên thập giá không đặt Chúa Giêsu vào nơi mà Người đã ở trước. Vì thế, hình như bắt buộc phải hiểu nghĩa Thăng thiên.
Ý kiến này được đa số chấp nhận. Người ta cỏn có thể tranh luận về cách thức bổ túc câu này, là câu chưa chấm dứt và do đó có vẻ tối nghĩa, có lẽ do chủ ý. Nhưng dầu sao, chính mầu nhiệm Thăng Thiên sẽ đưa ra giải đáp đúng nhất cho các khó khăn.
Phải chăng những lời này muốt bảo: chỉ có Thần khí mới ban sự sống còn xác thịt của Con Người thì không có ích chi? Thế tại sao lại nhấn mạnh đến việc cần thiết phải ăn thịt ấy trong diễn từ về bánh? Câu này thật là một skandalon, một chướng ngại cho nhiều nhà chú giải.
Người ta năng gặp cách chú giải câu đó như sau: “Xác thịt không ích gì” có nghĩa là xác thịt vật chất của Chúa Giêsu sẽ chẳng có một công hiệu cứu rỗi nào nếu không có “thần khí tác sinh”; điều này giả thiết sự sống lại của Chúa Giêsu, việc Người vượt qua tình trạng vinh hiển và thiêng liêng, và việc Thần khí can thiệp trên các yếu tố được thánh thể hóa để làm thành thịt và máu của Đấng Sống lại. Nhưng lối giải thích này không lưu ý đến sự mạch lạc toàn bộ của diễn từ. Thật vậy từ c.53 đến 56, Chúa Giêsu nói về thịt Người hoặc thịt của Con Người một cách rất minh nhiên và quả quyết không chút dè dặt rằng đó thật là một của ăn (c.55) cung cấp sự sống vĩnh cửu (c 54). Người ta khó mà hiểu làm sao nơt c.63a, Người nhắc lại cùng một thực tại ấy khi nói về thịt mà chẳng xác định là thịt Người, và liều mình tương đối hóa lời tuyên bố của Người trước đó mấy câu. Sau hết, ngay tiếp theo c.63a Người bảo: “Lời Ta đã nói với các ngươi là Thần khí và là sự sống”. Câu này cho thấy rõ ràng quyền lực Chúa Giêsu đang có khi Người tuyên bố nó ra. hình như không chắc là ở đây Người bảo thịt Người chẳng lợi ích gì cả, vì như thế thì không còn mạch lạc giữa lời nầy với các lời trước.
Thật ra, hợp lý hơn khi giả thiết rằng trong c.63, không còn vấn đề thịt Chúa Giêsu, thịt được hy tế cho chúng ta, dấu chỉ hữu hiệu của tình thương Người và lương thực nuôi sống chúng ta nữa, nhưng là xác thịt nói chung, là nhân tính chúng ta, nhân tính bất lực trong việc cứu rỗi chính mình cũng như đón nhận ơn cứu rỗi và chân lý do Chúa Giêsu mang đến (x. Mt 16;17). Bản văn không bàn tới sự đối nghịch giữa “Thịt Ta -Thần Khí”, nhưng tới sự đối nghịch, theo quan niệm sêmita, giữa Thần khí – xác thịt là ngày nay ta đến tả dưới hai ý niệm nhân loại thần linh (x. 3,6). Các người Do thái bực tức trước những lời nói của Chúa Giêsu. Vì, noi theo người đại tiện nổi tiếng của họ là Nicôđêmô, họ chỉ xét mọi sự dưới khía cạnh phàm trần mà không để ý gì đến những khả hữu tính thần linh. Khi phê phán những lời của Chúa Giêsu trong ý nghĩa nguyên thủy của chúng cũng như trong lối giải thích của Gioan trên những nền tảng nhân loại, thì những lời nói ấy hiển nhiên là phi lý. Nhưng đọc những lời nói đến sự sống vĩnh cửu trong một viễn tượng nhân loại thì lại còn phi lý hơn.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Nhiều môn đồ nói…”
Tiếng Hy lạp pelloi có thể hiểu là ‘nhiều’ hay ‘khá nhiều’, nghĩa đầu mạnh hơn nghĩa sau; ở đây cũng như ở chỗ khác, không thể nào xác định được. Cũng chẳng rõ là số “môn đồ” ấy có bao hàm nhóm Mười hai hay không. Tuy nhiên, dựa vào việc Phêrô xem ra nhân danh nhóm Mười hai để minh định lập trường, nên có lẽ không được liệt nhóm Mười hai vào số các môn đồ lẩm bẩm kêu ca Chúa Giêsu, ngoại trừ Giuđa, vì Chúa Giêsu đã gọi y là “quỷ sứ” (6,70).
“Lời chi mà sống sượng thế”
Không phải là khó hiểu, nhưng đúng hơn là khó nuốt, khó chấp nhận.
“Vì chưng ngay từ đầu, Chúa Giêsu đã biết kẻ sẽ nộp Người là ai”
Không chắc Gioan muốn nói với độc giả là Chúa Giêsu đã biết sự bội phản tương lai của Giuđa ngay khi Người gọi ông làm sứ đồ. Tiếng từ đầu không buộc phải hiểu như vậy; hơn nữa một sự hiểu biết như thế của Chúa Giêsu sẽ khiến việc chọn Giuđa thành khó giải thích, đó là chưa kể nó không mấy phù hợp với bản tính nhân loại thực sự của Chúa Giêsu. Nếu cho rằng Chúa Giêsu chỉ khám phá ra là Giuđa không đáng tin cậy sau khi đã sống thân mật với ông một thời gian, thì tiếng ngay từ đầu mới có thể biện minh được.
“Từ đó”
Thành ngữ ektoutou, ngoài nghĩa thời gian, còn có thể có nghĩa nguyên nhân (như trong các chỉ cảo): Gioan muốn bảo rằng sự đào ngũ đông đảo mà ông đang đề cập có nguyên nhân trực tiếp là giáo thuyết mà Chúa Giêsu vừa đề ra.
“Ngài có những lời đem đến sự sống đời đời”
Nói cho đúng, phải dịch câu này như sau: “Ngài có nhiều lời ban sự sống đời đời” (TOB). Nhưng ở đây, như thường thấy trong Gioan, việc thiếu quán từ có lẽ là do ảnh hưởng của căn ngữ sêmita. Do đó, cách dịch của BJ có thể bào chữa được.
KẾT LUẬN
Các lập trường đã chọn lựa xong, các phe nhóm đã phân chia rõ ràng. Giuđa và người do thái có thể chuẩn bị vụ án Chúa Giêsu. Thật ra, chính Con người sắp xử án dân bị loại bỏ của Thiên Chúa, giữa niềm vui của ngày lễ Lều Trại và lễ Đền thờ là hai đại lễ của dân “được tập họp” của Thiên Chúa (Ga 7-10).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn