CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XVII này là “Dân Thiên Chúa hiệp nhất trong cùng một bàn tiệc của Chúa” ở đó, Đức Giê-su chia sẻ tận cùng với chúng ta, bánh mà Ngài ban tặng chính bản thân Ngài.
2V 4: 42-44
Phép lạ bánh hóa nhiều đã là ân ban của ngôn sứ Ê-li-sa trong thời kỳ đói kém ở miền Pa-lét-tin, vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên. Số người được thụ hưởng thành quả phép lạ bánh hóa nhiều này thì khiêm tốn.
Ep 4: 1-6
Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô ca ngợi sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu theo cùng khuôn mẫu sự hiệp nhất của Một Chúa Ba Ngôi: chỉ có một Thân Thể, một Thánh Thần, một Chúa, một niềm tin và một phép rửa…
Ga 6: 1-15
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là ân ban của Đức Giê-su nuôi đông đảo dân chúng ăn no nê mà còn dư đến mười hai thúng đầy. Đây là dân mà trước đó Ngài đã nuôi họ bằng Lời Hằng Sống của Ngài. Ân ban bánh hóa nhiều này loan báo “ân ban Thánh Thể”.
BÀI ĐỌC I (2V 4: 42-44)
Ngôn sứ Ê-li-sa là môn đệ chân truyền của ngôn sứ Ê-li-a. Ông tiếp tục sự nghiệp của thầy mình vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên trong vương quốc miền Bắc. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu dưới triều đại vua Giô-ram (852-841 B.C.).
Sách Các Vua quyển thứ nhất và quyển thứ hai sưu tập những triều đại của các vua (19 vua Ít-ra-en và 20 vua Giu-đa), đồng thời dành một chỗ rộng lớn cho vai trò của các ngôn sứ: về tôn giáo, các ngôn sứ là những người bảo vệ phụng tự tinh tuyền của Đức Chúa và lên án mọi hình thức thờ ngẫu tượng; về luân lý, các ngài tố cáo bạo lực và bất công xã hội; về chính trị, các ngài là những nhà cải cách các triều đại thối nát.
Trong số các tác phẩm Cựu Ước, hai sách Các Vua là những cuốn sách chứa đựng nhiều chuyện tích ý nhị nhất về các ngôn sứ. Trong hai tác phẩm này, ngôn sứ Ê-li-sa được phác họa chân dung kém huyền nhiệm hơn chân dung ngôn sứ Ê-li-a. Ông gần với phàm nhân hơn, dù không kém thần thông biến hóa.
1.Thời kỳ đói kém:
“Hồi ấy, trong miền có nạn đói”. Sự cố nầy không phải là chuyện hi hữu. Cựu Ước nhiều lần trích dẫn những trường hợp đói kém ở miền Pa-lét-tin: chính vì lý do đó mà ông Áp-ra-ham xuống Ai-cập và sau nầy các anh em ông Giu-se cũng xuống đất nước của các Pha-ra-on này. Đôi khi hạn hán xảy ra nhiều năm liên tiếp. Sách Sa-mu-en trích dẫn một nạn đói kéo dài ba năm và sách Các Vua quyển thứ hai kể lại một nạn đói khác kéo dài bảy năm. Có lẽ câu chuyện hôm nay được kể vào thời gian nạn đói kéo dài bảy năm này.
“Có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem biếu ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, sản phẩm đầu mùa…”. Đây là lễ phẩm đầu mùa. Vào đầu mùa thu hoạch, người ta trích ra một phần để biếu tặng các tư tế hoặc “những người của Thiên Chúa”, tức “các ngôn sứ”. Sách Lê-vi viết: “Cho đến chính ngày đó, khi các ngươi mang lễ phẩm của Thiên Chúa các ngươi đến, các ngươi không được ăn bánh, ăn gié lúa rang và hột lúa mới” (Lv 23: 14).
Chúng ta lưu ý rằng mối quan tâm của chuyện tích nầy rõ ràng tập trung vào phép lạ, vì thế truyền thống đã không lưu giữ tên của người biếu tặng: “có một người”; cũng không cho biết địa danh nơi biến cố xảy ra nhưng chỉ nói trống “trong miền”.
2.Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ:
Vị ngôn sứ không giữ riêng cho mình, nhưng liền chia sẻ ngay quà biếu này với những người túng thiếu và quà tặng nầy sẽ hóa nhiều. Qua tấm lòng chia sẻ quảng đại của vị ngôn sứ, chính Thiên Chúa làm cho tặng phẩm phàm nhân trở nên phong phú. Chính đó là cách thức mà Thiên Chúa thường sử dụng.
Chuyện tích về ngôn sứ Ê-li-sa làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” từ hai mươi chiếc bánh lúa mạch có nhiều điểm tương đồng với những bài tường thuật Tin Mừng về việc Đức Giê-su làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” từ năm chiếc bánh lúa mạch.
-Ngôn sứ Ê-li-sa bảo: “Hãy cho người ta ăn”. Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi” (Mc 6: 37; Mt 14: 16; Lc 9: 13).
-Đầy tớ của vị ngôn sứ thưa: “Có bằng nầy, thì làm sao con có thể cho cả trăm người ăn được?”. Một trong các môn đệ của Đức Giê-su thưa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu !” (Ga 6: 9).
-Vị ngôn sứ nói: “Cứ cho người ta ăn! Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Các thánh ký viết: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Người ta thu lại những mẫu bánh được mười hai thúng đầy”.
-Ngôn sứ Ê-li-sa làm no thỏa nhu cầu vật chất của những người túng thiếu. Quả thật, Đức Giê-su cũng làm no thỏa nhu cầu thể lý của đám đông đang mệt và đói, nhưng cử chỉ của Chúa Giê-su chất chứa biết bao ý nghĩa. Chính Ngài là “dấu chỉ”, dấu chỉ của chiếc bánh khác, “Bánh Trường Sinh”: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói; ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ !” (Ga 6: 35).
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 1-6)
Thánh Phao-lô viết bức thư này khi thánh nhân bị cầm tù ở Rô-ma vào những năm 61-63. Lời mở đầu thư rất tổng quát: “Kính gởi các thánh, là những người tin vào Đức Giê-su Ki-tô”, khiến nhiều nhà chú giải nghĩ rằng bức thư nầy không chỉ viết riêng cho cộng đoàn Ê-phê-xô, nhưng nhằm luân lưu giữa các cộng đoàn miền Tiểu Á.
Bức thư được chia thành hai phần: phần thứ nhất về đạo lý (ch. 1-3) và phần thứ hai về luân lý và khích lệ (ch. 4-6). Cả hai phần liên kết chặc chẽ với nhau bất khả phân. Đoạn trích hôm nay là đoạn mở đầu của phần thứ hai.
1. “Tôi là người đang bị tù vì Chúa”:
Để tăng thêm sức mạnh cho những lời khích lệ của mình, ngay từ đầu của phần thứ hai, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng ngài đang bị giam cầm; như vậy, thánh nhân muốn nói rằng ngài không chỉ là vị tông đồ rao giảng về Đức Ki-tô, nhưng còn là một nhân chứng chịu thương chịu khó vì Đức Ki tô.
2.Ơn gọi làm người Ki tô hữu:
Trong phần thứ nhất về đạo lý, thánh Phao-lô đã chú tâm trình bày “mầu nhiệm cứu độ” mà thánh nhân đã được chính Đức Ki-tô mặc khải và truyền cho thánh nhân phải thông truyền cho Giáo Hội của Ngài, đó là trong kế hoạch của Thiên Chúa, mọi người, dù Do thái hay lương dân, đều được mời gọi hưởng nhận cùng một ơn cứu độ. Từ đó, thánh nhân nhắc nhở với hết mọi người Ki-tô hữu, dù họ xuất thân từ đâu, hãy sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ.
Thánh nhân khuyến khích họ hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền hòa và nhẫn nại; hãy lấy đức ái mà chịu đựng lẫn nhau. Chúng ta ghi nhận rằng thánh nhân đặt lên hàng đầu những nhân đức mà chính Đức Giê-su là mẫu gương: “Tôi hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. Đoạn, thánh nhân mời gọi họ hãy hiệp nhất với nhau qua việc “ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau”. Trước đó, thánh nhân đã gợi lên sự bình an mà Đức Giê-su mang lại: “Thật vậy, chính Người là sự bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tương ngăn cách là sự thù ghét” (2: 14).
Lời kêu gọi “sống yêu thương thuận hòa với nhau” không là nét đặc thù trong các thư của thánh Phao-lô. Việc chung sống giữa những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô gốc lương dân đã là vấn đề trong lòng Giáo Hội tiên khởi.
3.Lời tuyên xưng đức tin:
Đoạn, trong lúc hưng phấn, thánh Phao-lô công bố lời tuyên xưng đức tin xoay quanh chủ đề hiệp nhất: chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một niềm hy vọng, một Chúa, một niềm tin, một phép rửa, vân vân.
Biểu thức nguyên thủy có thể là một lời tuyên xưng phụng vụ mà những người chịu phép rửa công bố khi khẳng định niềm tin của mình, và chắc chắn được thánh Phao-lô quảng diễn. Ngôn từ của lời tuyên xưng nầy rõ ràng đã có ảnh hưởng trên kinh Tin Kính của công đồng Ni-xê-a.
TIN MỪNG (Ga 6: 1-15)
Vào Chúa Nhật tuần trước, Tin Mừng Mác-cô tường thuật cho chúng ta phần đầu của câu chuyện phép lạ “hóa bánh ra nhiều”, trong đó Đức Giê-su đã động lòng thương dân chúng đến với Ngài như “đàn chiên bơ vơ không người chăm sóc”. Vì thế, Ngài đã đáp ứng nhu cầu của họ, trước tiên bằng Lời Hằng Sống của Ngài, và tiếp đó bằng phép lạ “hóa bánh ra nhiều”. Cả hai đều báo trước “bàn tiệc Thánh Thể”.
Tuy nhiên, Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay không tiếp tục câu chuyện bỏ dỡ của Tin Mừng Mác-cô. Thay vì đó, phụng vụ đề nghị cho chúng ta câu chuyện của Tin Mừng Gioan thuật lại cùng một biến cố với Tin Mừng Mác-cô: phép lạ hóa bánh ra nhiều. Thánh Gioan sử dụng câu chuyện hóa bánh ra nhiều nầy để mở đầu bài diễn từ dài của Đức Giê-su về “Bánh Trường Sinh”, mà chúng ta sẽ đọc bốn tuần Chúa Nhật liên tiếp sau đó.
Như vậy, các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm và tác giả Tin Mừng Gioan đều khẳng định cùng một chân lý: Trong mỗi Thánh Lễ, Đức Giê-su tiếp tục làm như vậy qua suốt nhiều thế kỷ sau đó, chăm lo những nhu cầu của chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta bằng những thần lương của Ngài, tức là Lời Hằng Sống và Thánh Thể của Ngài, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu người, mỗi phút giây và khắp hoàn vũ, cho đến ngày tận thế. Công Đồng Vatican II đã khẳng định: “Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng Vụ thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để trao ban cho các tín hữu” (Mk, 21).
1.Nơi chốn:
Phép lạ bánh hóa nhiều là một phép lạ duy nhất được cả bốn thánh ký thuật lại; thêm nữa, thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô thuật lại đến hai lần: một lần từ năm chiếc bánh hóa nhiều nuôi năm ngàn người ăn no nê tại đất Do thái, và một lần khác từ bảy chiếc bánh hóa nhiều nuôi bốn ngàn người ăn no nê tại đất dân ngoại. Quả thật, phép lạ hóa bánh ra nhiều cho thấy Đức Giê-su là Mục Tử nhân lành, Ngài không chỉ chăm lo dân Do thái mà cả dân ngoại nữa. Sau này, Giáo Hội bao gồm cả người Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn người Ki-tô hữu gốc lương dân.
Thánh Gioan mở đầu bài tường thuật của mình thật bất ngờ: “Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê”. Trong bài tường thuật trước, Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem, đoạn Ngài trở về miền Ga-li-lê, sau đó, Ngài băng qua biển hồ Ti-bê-ri-a, nhưng từ đâu mà Ngài đến đây? Chúng ta khó xác đinh nơi diễn ra phép lạ hóa bánh ra nhiều. Thánh Lu-ca nói về các làng mạc chung quanh thành Bết-xai-đa, thành phố được định vị ở đông bắc biển hồ, phía bên bờ sông Giô-đan đối với thành Ca-phác-na-um.
Đức Giê-su không lưu lại trên bờ hồ: “Ngài lên núi và ngồi đó với các môn đệ”. Núi là nơi ưu tiên đánh dấu một sứ điệp siêu việt: núi của các Mối Phúc, núi của cuộc Biến Hình, núi của phép lạ hóa bánh ra nhiều, vân vân.
2.Thời điểm:
“Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do thái”. Thời điểm này rất quý. Trước tiên, nó giải thích tại sao đám đông dân chúng đông đảo đến như thế. Chính ở Ca-phác-na-um và trong các thành phố ven biển mà những người hành hương đến từ khắp nơi quy tụ lại và rồi từ đó khởi hành thành từng nhóm lên thành thánh Giê-ru-sa-lem để tham dự đại lễ Vượt Qua. Nhưng nhất là, lễ Vượt Qua sắp đến đem lại một cung điệu sâu xa cho cử chỉ của Đức Giê-su. “Đại lễ của người Do thái” nầy làm cho cử chỉ của Ngài trở thành cử chỉ ngôn sứ, loan báo lễ Vượt Qua mới, “lễ Vượt Qua của người Ki-tô giáo”, ở đó một phép lạ hóa bánh ra nhiều khác được thực hiện, bàn tiệc Thánh Thể.
3.Không có bất kỳ giải pháp nào từ phía con người:
Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, chính các môn đệ lưu ý với Đức Giê-su là giờ đã khá muộn nên giải tán đám đông nầy để “họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn” (Mc 6: 35-36). Trong Tin Mừng Gioan, chính Đức Giê-su ý thức hoàn cảnh và đề xuất sáng kiến.
Đức Giê-su ngỏ lời với ông Phi-líp-phê. Nhờ Tin Mừng Gioan chúng ta biết ông Phi-líp-phê là một con người rất năng động và thực tiển. Khi ông Na-tha-na-en chất vấn ông Phi-líp-phê về Đức Giê-su, ông trả lời: “Cứ đến mà xem!” (Ga 1: 46). Khi Đức Giê-su gợi lên mối tương quan thân mật của Ngài với Chúa Cha, ông thưa ngay: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14: 8). Ở trong câu chuyện bánh hóa nhiều nầy, vấn nạn Đức Giê-su đặt ra cho ông: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” hàm chứa một thực trạng: nếu một môn đệ có tài xoay xở nhất trong các môn đệ mà cũng không thể gặp thấy một giải pháp, chính vì hoàn cảnh bế tắc, lúc đó phép lạ sẽ là thích đáng nhất. Mặt khác, chúng ta không thể không lưu ý rằng chỉ có hai môn đệ can dự vào câu chuyện là ông Phi-líp-phê và ông An-rê, cả hai đều xuất thân từ Bết-xai-đa, nơi mà hai ông biết rõ nhất để giải quyết vấn đề.
Dù thế nào, Đức Giê-su nêu câu hỏi cho ông Phi-líp-phê chỉ để thử ông. Ngài muốn ông ý thức rằng nếu chỉ nhờ vào những phương tiện nhân loại, người ta đành bất lực không thể nào tìm thấy bất kỳ giải pháp nào cho vấn đề, lúc đó người ta nhận ra rằng không có gì khác ngoài việc đặt trọn niềm tin tưởng vào Đức Giê-su.
Ông Phí-líp-phê tính toán một cách chính xác: “Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc bánh, cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Tiền công của một ngày làm việc là một đồng bạc (chúng ta biết điều nầy nhờ dụ ngôn người làm thuê vào giờ thứ mười một), vậy thì hai trăm đồng bạc mua được bao nhiêu bánh lúa mạch. Ấy vậy, ba Tin Mừng Nhất Lãm nói cho chúng ta biết có “năm ngàn người, không kể đàn bà và trẻ con”. Vì thế, ông Phí-líp-phê nhận ra rằng về phương diện nhân loại không thể đáp ứng nhu cầu cho một đám người đông đảo như thế.
4.Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ:
“Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”. Em bé biếu tặng khẩu phần ăn của em, cũng như ngôn sứ Ê-li-sa chia sẻ quà biếu của mình và quà tặng của ông sẽ hóa nhiều. Chính cũng một bài học. Phải nói thêm, Đức Giê-su không bao giờ làm phép lạ từ hư không; ở nơi nền tảng của một phép lạ luôn luôn có một yếu tố vật chất. Giáo Hội cũng sẽ thực hiện các bí tích theo cùng một cách như vậy.
5.Tấm lòng của vị Mục Tử Thiên Sai:
Thánh Gioan nói: “Chỗ ấy có nhiều cỏ”. Thánh Mác-cô xác định “Cỏ xanh” (6: 39). Đây là cỏ xanh non vào thời điểm mùa xuân ở miền Pa-lét-tin. Phải chăng điều nầy hàm ý rằng Đức Giê-su là vị mục tử nhân lành mà các ngôn sứ loan báo Ngài dẫn đàn chiên của mình vào đồng cỏ xanh tươi? Thánh Mác-cô gợi ra điều nầy. Đối diện với các vị mục tử Ít-ra-en chỉ biết đến mình, Đức Giê-su hành xử như vị Mục Tử Thiên Sai tận tình chăm lo cho dân Ngài.
6.Dấu chỉ bàn tiệc Thánh Thể:
Không ai có thể phủ nhận rằng phép lạ hóa bánh ra nhiều làm sáng tỏ việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Các Tông Đồ đã hiểu như vậy, các thánh ký cũng đã ghi lại như vậy: “Vậy, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát…”. Lời nói và cử chỉ nầy tương tự như lời nói và cử chỉ của Chúa Giê-su ở Tiệc Ly khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Bánh hóa nhiều trên đồi Ga-li-lê loan báo bánh hóa nhiều khác, bánh Thánh Thể, tức là hóa nhiều thân thể vinh quang của Đức Ki-tô, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu, đồng một lúc, và trong khắp hoàn vũ, cho đến thời cánh chung.
7.Mười hai thúng đầy những mẫu bánh thừa:
Như rượu được ban một cách dồi dào ở tiệc cưới Ca-na, bánh cũng được ban một cách dư dật, phần dư được thu lại đến mười hai thúng đầy. Con số mười hai đại diện mười hai chi tộc Ít-ra-en, cũng như mười hai Tông Đồ đại diện dân Thiên Chúa mới. Không phải những phần dư này muốn nói rằng có đủ chỗ cho nhiều người khác được mời vào bàn tiệc Thiên Chúa sao?
Quả thật, sự dồi dào dư dật là dấu chỉ bữa tiệc Thiên Sai. Các sấm ngôn (Am 9: 13; Is 49: 10; 55: 1-3; Ge 4: 18), các Thánh Vịnh (Tv 132; 15: 78; 24-27), các sách minh triết đã loan báo rồi: triều đại Thiên Sai sẽ được đóng ấn bởi một dấu chỉ của sự phú túc và mãn nguyện, hình ảnh báo trước bàn tiệc cánh chung mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho tất cả những người được chọn trong vương quốc của Ngài, biểu tượng niềm hoan lạc thiên giới và mọi của cải tinh thần. (Bàn tiệc Thiên Sai và bàn tiệc cánh chung thường được định vị trong cùng một viễn cảnh).
8.Phản ứng của dân chúng:
Phấn khởi trước Đức Giê-su là vị Mô-sê mới, Đấng đã cho họ ăn dư dật “ở nơi hoang vắng nầy”, đám đông đã không hiểu ra được dấu chỉ vương quốc Thiên Chúa, nhưng chỉ nghĩ đến vương quốc trần thế, vì thế, họ muốn “bắt Ngài đem đi mà tôn làm vua”. Đức Giê-su không muốn một chút nào chủ nghĩa Thiên Sai chính trị hẹp hòi và nông cạn nầy, nên “Ngài lại lánh mặt, đi lên núi một mình”.
Thánh Gioan là thánh ký duy nhất trong các thánh ký tường thuật phản ứng nầy của dân chúng. Còn các môn đệ, nhờ Mác-cô, chúng ta biết rằng lòng trí các ông vẫn còn ngu muội. Vì cũng chính đêm tiếp theo sau phép lạ hóa bánh ra nhiều là đêm Đức Giê-su đi trên mặt biển, thánh Mác-cô nói “các ông thấy bàng hoàng sửng sốt, vì các ông không hiểu ý nghĩa phép lạ hóa bánh ra nhiều” (Mc 6: 52).