Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường nẻo của Ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo của các ngươi bấy nhiêu.
Như chúng ta đã biết Thiên Chúa là Tình yêu. Chính tình yêu đó đã thúc đẩy Ngài thực hiện những hành động mà tâm trí loài người chúng ta cho là nghịch lý. Thực vậy, nghịch lý của một Thiên Chúa vô cùng mà lại làm người hèn mọn. Nghịch lý của cội nguồn sự sống mà lại chấp nhận cái chết tức tưởi. Nghịch lý của Đấng thánh tuyệt vời mà lại gánh lấy tội lỗi của nhân loại và còn nhiều điều nghịch lý khác nữa được tìm thấy trong Phúc Âm. Chẳng hạn cả Nước Trời vui mừng vì một kẻ tội lỗi trở lại hơn là 99 người công chính không cần sám hối ăn năn. Hoặc những kẻ tội lỗi cùng với phường đĩ điếm sẽ vào Nước Trời trước cả những luật sĩ và biệt phái, vốn được coi là hàng đạo đức trong dân Do Thái. Hoặc ai vả ngươi má này thì hãy đưa cả má kia. Ai lấy áo trong hãy cho cả áo ngoài. Ai muốn làm lớn, hãy trở nên đầy tớ. Chính vì thế thánh Phaolô đã thốt lên: Thiên Chúa đã dùng sự điên rồ của loài người để mạc khải sự khôn ngoan của Ngài.
Và qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta cũng thấy: Không phải chỉ có những người thợ vào giờ đầu ban sáng mới có những thắc mắc với ông chủ, mà hầu như ai trong chúng ta rơi vào trường hợp ấy, cũng đều có chung một phản ứng tương tự. Làm sao có thể chấp nhận được lối cư xử nghịch lý như thế? Vậy mà tình thương của Thiên Chúa đã mang lại lời giải đáp khiến chúng ta đi từ chỗ ngỡ ngàng đến khâm phục, vì ai mà chẳng trông mong được hưởng nhờ tình thương ấy. Chính tình thương ấy đã vượt lên trên sự công bằng phải lẽ và đã xoá tan đi hố ngăn cách giữa người lành và kẻ dữ. Thiên Chúa không muốn xoá sổ một ai cả, Ngài sẵn lòng kêu gọi sự hợp tác của con người, từ kẻ làm giờ thứ nhất đến người làm giờ sau cùng, hoàn toàn không phải do công lao của con người, nhưng là khởi nguồn từ sáng kiến đầy lòng thương xót của Ngài.
Không ít người trong chúng ta cũng tự hào vì đã đóng góp nhiều tiền của vào việc xây cất thánh đường, thức khuya dậy sớm tham dự những việc đạo đức, nhưng lại không muốn thấy ai hơn mình và lấy làm vui khi người khác thấp kém hơn ta. Chính vì mối ganh tỵ hẹp hòi đó mà con người sẵn sàng dốc toàn lực để mưu tìm cho bản thân chỗ đứng vững chắc trong xã hội, những mánh mung làm ăn đem lại nhiều lợi nhuận, cho dù phải giẫm lên người khác để mà tiến tới. Và cho đó là khôn ngoan, là hợp lý. Chúng ta có ngờ đâu chính cái khôn ngoan và hợp láy ấy lại đi ngược lại với đường lối đầy tình thương của Thiên Chúa. Thật đáng tiếc khi chúng ta đã làm méo mó bộ mặt của Thiên Chúa. Đã đến lúc chúng ta phải tự vấn xem chúng ta suy nghĩ như thế nào về Thiên Chúa, về tha nhân, về chính mình.
2. Sự công bằng của Chúa
Qua tiên tri Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định: tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường nẻo của Ta cũng không phải là đường nẻo của các ngươi. Với dụ ngôn những người thợ giờ thứ mười một, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa đường lối và cách cư xử của Chúa.
Thật vậy, một người chủ thuê thợ vào làm trong vườn nho của mình. Những người thợ này được thuê vào những giờ giấc khác nhau. Những người được thuê vào sáng sớm với giá thoả thuận là một quan tiền một ngày. Những người thợ khác thì được thuê vào giờ thứ ba, giờ thứ sáu và giờ thứ chín. Nhưng cũng có những người được thuê vào giờ thứ mười một, nghĩa là vào một thời điểm rất muộn. Tuy được thuê vào các giờ khác nhau, nhưng họ lại kết thúc công việc trong cùng một lúc. Như thế, số giờ làm việc có khác nhau, nhưng số tiền mọi người lãnh được lại bằng nhau, kẻ đến sớm cũng như người tới muộn, mỗi người đều nhận được một quan tiền, theo sự thoả thuận giữa ông chủ và những người thợ được thuê sớm nhất. Cách đối xử của ông chủ đã làm cho những người đến muộn vui mừng, nhưng lại tạo nên sự bất mãn nơi những kẻ được thuê từ sáng sớm. Bất mãn vì không được hơn người tới muộn, mà cũng có thể là bất mãn vì người tới muộn cũng được lãnh như mình. Và ông chủ đã trả lời cho những kẻ bất mãn về lý do hành động của ông như sau: Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn hay sao?
Những ám chỉ của dụ ngôn thật rõ ràng: Ông chủ tượng trưng cho Thiên Chúa. Những người thợ được thuê từ sớm là những người Do Thái. Còn những người thợ giờ thứ mười một là tất cả các dân tộc khác, được gọi là dân ngoại. Dụ ngôn là câu trả lời của Chúa Giêsu cho những người biệt phái và Do Thái, từng kêu trách về sự ưu đãi của Chúa đối với những người họ gọi là dân ngoại. Đồng thời qua đó Chúa Giêsu còn cho chúng ta thấy rõ lòng nhân từ của Thiên Chúa thì vượt lên trên tất cả những loại trả công của nhân loại. Tuy nhiên, không phải vì thế mà hành động của Ngài lại mang tính cách tuỳ tiện và bất chấp sự công bằng. Đối với Nước Trời, không có vấn đề buôn bán hay trả giá, mà hoàn toàn chỉ vì lòng nhân từ và thương xót của Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Là những người thuộc về một gia đình đạo gốc và bản thân vốn lại là người siêng năng sốt sắng, trung thành tuân giữ mọi điều răn, có thể là từ nhỏ cho tới lớn, chúng ta nhiều khi tự cho mình cái quyền được hưởng những ân huệ của Chúa hơn những người khác, nhất là những người chẳng hề biết đạo và thực hành đạo như chúng ta. Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý một điều: Thiên Chúa là Đấng yêu thương và Ngài đối xử với mỗi người chúng ta quá lượng chúng ta có thể mong ước và mường tượng ra được. Bởi đó thái độ căn bản sẽ là cõi lòng biết ơn và vui mừng trước những gì Thiên Chúa ban cho người khác, cũng như ban cho chính bản thân chúng ta.
3. Chủ vườn nho.
Chúa Giêsu có thói quen dùng những sự kiện cụ thể xuất phát từ đời sống để xây dựng những câu chuyện có tính cách giáo huấn: Nào là mùa nho tới cần phải hái mau. Nào là những người thất nghiệp không có công ăn việc làm. Nào là số tiền lương một đồng tươi xứng với mức sống tối thiểu. Từ đó, Chúa Giêsu đã kể lại câu chuyện dụ ngôn ngày hôm nay, và qua câu chuyện này Ngài muốn làm cho chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ theo kiểu các ông chủ trên trái đất này. Họ có bổn phận giữ sự công bằng với thợ thuyền. Còn Thiên Chúa, Ngài không có một bổn phận như thế đối với loài người vì Ngài đứng ở bên kia sự công bằng của loài người, một sự công bằng được giới hạn bởi những gì chúng ta mắc nợ.
Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có một số tiền công tương xứng của một ngày và không có gì hơn. Đồng thời với sức cố gắng của một giờ, lẽ công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương xứng với một giờ, và cũng không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng nhân từ. Và lòng nhân từ thì không có giới hạn nào hơn là khả năng ban phát.
Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, Ngài có khả năng vô biên. Lòng nhân từ thì đi xa hơn lẽ công bằng. Và lòng nhân từ của Chúa còn đi xa hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa cần tới các tay thợ để hái quả trong vườn nho của Ngài. Một sự công bằng tối thiểu được bảo đảm nếu họ quyết tâm ở lại trên bình diện ấy. Nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm nữa nếu họ có tấm lòng rộng lớn.
Dụ ngôn này nhắc cho chúng ta tránh đi cách suy nghĩ về Thiên Chúa theo cách thức của loài người, nhất là trong thời buổi hiện nay, một thời buổi đang cố gắng kéo Phúc Âm xuống ngang hàng với những tư tưởng của loài người. Sứ điệp của Tin Mừng là tình yêu, là lòng nhân từ, và khía cạnh chính yếu của nó là sự tự do. Trong khi đó sự công bằng thì bị ràng buộc bởi bổn phận và những gì chúng ta mắc nợ người khác.
Thực vậy, tình yêu và lòng nhân từ thì không bị ràng buộc bởi kết ước. Điều chính yếu đó là ban phát mà không cần đáp trả, một sự ban phát hoàn toàn có tính cách nhưng không. Chỉ cần chúng ta biết đón nhận mà thôi. Hơn nữa, sứ điệp của Phúc Âm đã làm xáo trộn cách thức suy nghĩ cũng như nếp sống của con người. Dụ ngôn trước hết làm cho bọn biệt phái sửng sốt vì nó đặt người ngoại giáo, những kẻ đến sau, ngang hàng với con cái Israel trong Nước Trời. Đồng thời dụ ngôn cũng làm cho chính chúng ta phải ngạc nhiên, bởi vì chính chúng ta cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình công nghiệp, quyền lợi, và nhiều đòi hỏi. Hãy khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản duy nhất của lòng nhân từ Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta cũng như cho những anh em ngoại giáo, không phải những gì tương xứng với sự công bằng, mà còn những gì do lòng nhân từ của Chúa gợi ra.
4. Ganh tỵ, căn bệnh mãn tính của con người.
(Suy niệm của Anmai, CSsR)
Nếu có giờ, mỗi người chúng ta mở lại trình thuật ông bà nguyên tổ trong sách Sáng Thế Ký xem, thật là hay. Trong trình thuật đấy, tác giả Sáng Thế Ký cho chúng thấy một mối tình thật tuyệt vời, thật đẹp, thật nên thơ giữa Thiên Chúa và hai ông bà nguyên tổ. Trình thuật ấy kể lại rằng: "Chiều chiều gió hiu hiu thổi, Thiên Chúa cùng đi dạo với hai ông bà trong vườn địa đàng!". Thế đấy! Cứ mỗi buổi chiều, thì mối tình thắm thiết giữa Thiên Chúa và hai ông bà cứ tái diễn. Thiên Chúa cho hai ông bà được thừa hưởng tất cả những cây trái trong vườn nhưng chỉ trừ một cây biết lành biết dữ.
Một ngày kia, khi Thiên Chúa chưa đến, vì tò mò, người đàn bà nguyên tổ của chúng sinh, đã mon men đến cái cây biết lành biết dữ đấy để tìm hiểu. Cay đắng thay khi bước đến, bỗng dưng con rắn trên cái cây biết lành biết dữ đã ngon ngọt dụ dỗ bà rằng: "Nếu bà ăn vào thì bà sẽ ngang bằng Thiên Chúa!". Chắc có lẽ, bà cảm thấy được hưởng trái cây trong vườn địa đàng là chưa thoả mãn, chưa bình an và phải tìm mọi cách sao cho ngang bằng Thiên Chúa. Không chỉ ăn một mình, bà còn rủ rê thêm ông chồng của mình ăn nữa. Ăn xong rồi thì quả thật quá cay đắng cho cuộc đời. Kết quả, không phải như lòng mong ước là bằng Thiên Chúa nhưng bi đát thay là bất tuân lệnh Chúa truyền. Kể từ ngày đó, hai ông bà đã vi phạm "hợp đồng" tình cảm, tương quan giữa Thiên Chúa và hai ông bà nên hai ông bà đã phải bị phạt!
Tội căn bản của sự vi phạm hợp đồng ấy chính là do tính kiêu căng, lòng ganh tỵ, ghen ghét muốn làm sao mình phải bằng Thiên Chúa mới chịu. Nếu như không bằng Thiên Chúa thì tìm đủ mọi cách cho bằng Thiên Chúa, nhưng làm sao mà bằng Thiên Chúa được khi Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá còn mình chỉ là thụ tạo nhỏ nhoi trong lòng bàn tay của Ngài.
Lòng ganh tỵ ấy như là chứng bệnh di truyền, ăn vào máu của con người mỗi khi con người cất tiếng khóc chào đời. Bằng chứng là: cái tội bất tuân, cái tội ganh tỵ, cái tội kiêu ngạo ấy tưởng là bài học kinh nghiệm xương máu cho thế hệ mai sau, nhưng cứ đặt chân bước vào trần gian thì con người lại nhiễm trong mình dòng máu của ông bà nguyên tổ.
Lòng ganh tỵ nổi lên khi một người ý thức được rằng mình không có được những điều mà người khác có. Tại sao chúng ta ganh ghét một người nào đó? Nó không dính dáng gì đến người đó cả. Tại sao người đó phải chịu khiển trách vì cuộc sống chúng ta không được như ta mong muốn, hay sự không vừa lòng hay sự không biết ơn của chúng ta? Đâu có phải là lỗi của họ đâu, tuy nhiên họ phải gánh chịu những bức xúc, áp lực vì sự không vừa ý, hay bực bội của chúng ta gây ra bởi lòng ích kỷ về lợi ích cá nhân hay lòng tham lam của mình.
Lòng ganh tỵ phát sinh khi chúng ta không bằng lòng cái tính chất đặc biệt mà mỗi chúng ta có được, vì không có một ai giống một ai về hành động hay suy nghĩ cả. Lòng ganh tỵ phát sinh khi chúng ta từ chối, không chấp nhận sự thật rằng mỗi một cá nhân, có hoàn cảnh khác nhau, phản ảnh đúng với những ơn lành mà Chúa ban cho chúng ta. Vì thế hoàn cảnh của chúng ta sẽ có cái gì đó không bằng người khác. Lẽ ra, chúng ta nên vui vẻ đón nhận nhưng chúng ta lại ganh tỵ.
Mỗi lần lòng ganh tỵ nổi lên, chúng ta nên tự nhìn vào chính mình và nhắc nhở chúng ta về những gì mà mỗi một chúng ta có được, và bằng lòng với những thứ đó thay vì ganh tỵ với người khác về những điều mà mình không có.
Tâm trạng ganh tỵ ấy ngày hôm nay bộc lỗ rõ nét nhất ở trang Tin Mừng, mà chúng ta vừa nghe thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta đậm nét về lòng ganh tỵ mà Chúa Giêsu muốn dạy mỗi người chúng ta. Nói quá một chút là sự vô duyên và vô lý! Đã thoả thuận với nhau mức lương từ ban đầu khi vào nhận việc. Đến trưa, đến chiều thấy có người vào làm việc thì đó là chuyện giữa ông chủ và người làm thuê chứ mắc mớ gì đến anh mà anh phải bận tâm?
Tưởng chừng như dụ ngôn này quá quen thuộc, quá cũ với chúng ta nhưng thật sự ra nó vẫn cứ mới và cứ mãi mới trong cuộc đời chúng ta. Chẳng hiểu sao trong chúng ta đa phần mang trong mình cái tâm trạng của người làm công vào giờ thứ ba vậy! Thử nhìn lại thấy nó lộ lên làm sao ấy cái tính xấu, cái tính ganh tỵ ấy trong lòng chúng ta.
Nhìn vào người xung quanh chúng ta, thấy họ hơn chúng ta một chút về tri thức là chúng ta điên tiết lên, chúng ta tìm đủ mọi cách để nói này nói nọ để hạ danh dự của họ nhưng rồi có hạ được đâu? Tại sao không cố gắng học hành, nghiên cứu, nghiền ngẫm để có kiến thức bằng họ mà chúng ta cứ loanh quanh, luẩn quẩn trong sự ganh tỵ, hơn thua!
Đời sống vật chất cũng thế. Ngày nay hơn lúc nào hết, con người ta cứ mãi bận tâm vào chuyện vật chất. Người ta thành công trong cuộc đời, người ta làm lụng vất vả thì người ta được hưởng là chuyện đương nhiên. Ấy thế mà khi chúng ta nhìn vào những người ấy chúng ta lại lườm, lại nguýt họ vì họ sang trọng hơn chúng ta.
Bi hài nhất mà chúng ta không bao giờ nói ra cho người khác biết đó là chúng ta không bao giờ muốn ai bằng chúng ta cả. Chúng ta là nhất! Còn thiên hạ chẳng là gì cả. Thật lòng mà hỏi tận đáy lòng, tận đáy lương tâm của ta thử xem một người nào đó trong gia đình, họ hàng, dòng tộc hay cộng đoàn tu của chúng ta đang sống xem. Mấy ai chung vui thật lòng với người thành công trong gia đình hay trong cộng đoàn tu? Có chăng là những lời đầu môi chót lưỡi chúc mừng cho sự thành công của thành viên trong gia đình, trong cộng đoàn nhưng bên dưới lời chúc mừng ấy là cả một sự ganh tỵ, hơn thua với người ấy. Sự ganh tỵ, hơn thua này khó mà kiểm chứng được.
Thử hỏi trong một vụ kiện nào đó, nếu nó thất bại thì mọi người quay lưng lại trách nhau rằng do người này người kia đã gây cho sự thất bại đó. Còn nếu như thành công thì lại mỗi người, chẳng ai bảo ai cứ cố tranh cho được một phần danh dự là do công lao của tôi.
Chúng ta quên rằng, tất cả những danh dự, những thành công đấy trong cuộc sống rồi cũng sẽ qua đi. Tại sao chúng ta lại cứ mãi đi tìm hư danh để mà cắn xé, để mà ghen ghét, để mà giận hờn, để mà ganh tỵ anh chị em đồng loại. Tại sao chúng ta không cố tìm một chỗ đứng trong lòng Thiên Chúa mà chúng ta cứ mãi miết đi tìm chỗ đứng phù vân trong lòng người đời.
Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philipphê vừa nói với chúng ta: "Và tôi biết chắc rằng tôi sẽ lưu lại và ở bên mà giúp anh em hết thảy tiến tới và được sự vui mừng của lòng tin, ngõ hầu anh em được tràn đầy vinh quang trong Đức Kitô Yêsu, vì cớ tôi, nhân dịp tôi được tái ngộ với. Chỉ có điều này là anh em hãy cư xử sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô, ngõ hầu - hoặc tôi đến và được thấy, hoặc tôi vắng mặt mà được nghe biết - anh em cứ đứng vững trong một Thần khí, cùng nhau chiến đấu, với một tâm hồn, vì đức tin do Tin Mừng đem đến" (Pl 1, 25-27). Ngài dặn chúng ta là hãy cư xử sao cho xứng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô chứ không phải chúng ta cư xử theo cảm nghĩ, tình cảm xác phàm của chúng ta. Ngôn sứ Isaia trong bài đọc thứ nhất đã khẳng định cho chúng ta điều ấy: "Tư tưởng của Ta không phải tư tưởng của các ngươi!".
Thế đấy! Chúng ta vẫn cứ cư xử với nhau theo cái thói của người đời, những người không biết Chúa.
Đoạn cuối trang Tin Mừng mà chúng ta nghe: "Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn về của cải của tôi sao? Hay mắt bạn lườm nguýt vì tôi tốt lành?" Đau đớn lắm nếu như Chúa Giêsu nói với chúng ta như vậy. Chúng ta vẫn thường lườm nguýt sự tốt lành, sự nhân hậu của người khác để rồi chúng ta chúng ta đi nói hành nói xấu và lên án họ. Con mắt thể xác chúng ta vẫn nhìn thẳng nhưng con mắt lòng của chúng ta luôn luôn bị cái chứng bệnh là lườm nguýt khi người khác hơn chúng ta. Chúng ta phải xin Chúa để Chúa chữa con mắt lòng chúng ta bớt đi cái thói xấu là lườm nguýt, là ganh tỵ với anh chị em đồng loại.
Hôm nay, nhân dịp Chúa nhắc nhớ cho chúng ta về thái độ sống của những người ganh tỵ, chúng ta bỏ chút thời gian để lòng nhủ lòng, dạ hỏi dạ trước mặt Chúa thái độ sống của chúng ta. Chúng ta có vui với người vui, có khóc với người khóc hay không? Hay là chúng ta bực bội, ganh tức với người vui còn với người hoạn nạn, đau đớn khóc than ta lại mỉm cười?
Chuyện căn cốt như Thánh Phaolô mời gọi chúng ta đó là thái độ sống hợp với Tin mừng, hợp với những gì Chúa dạy và chúng ta nên nhớ rằng tư tưởng của chúng ta khác Chúa nhiều lắm. Chúa thì yêu thương, bao dung, rộng rãi còn chúng ta thì ghen ghét và ganh tỵ.
Nguyện xin Chúa Giêsu là ông chủ tốt bụng trong câu chuyện mà Chúa Giêsu kể hôm nay, luôn yêu thương và thông chuyển lòng tốt bụng của Chúa đến với mỗi người chúng ta, để lòng chúng ta bớt đi một chút ganh tỵ, bớt đi một chút hơn thua và tăng thêm một chút lòng mến, tăng thêm một chút tình yêu, tăng thêm một chút lòng bao dung với anh chị em đồng loại. Amen.
5. Chiến thắng lòng ghen tị – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Cuối ngày, những người thợ vườn nho đi làm từ sáng sớm, đã được lãnh tiền công đúng như đã thoả thuận với chủ từ đầu, thế nhưng họ vẫn không hài lòng, lại còn lẩm bẩm kêu trách chủ vườn đã cho những người đến làm sau được hưởng đồng lương bằng họ. Họ tỏ ra bất bình và ghen tị với các đồng nghiệp chỉ vì những người nầy ít tốn mồ hôi hơn mà cũng được hưởng tiền lương bằng mình.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Cain ghen tị với Aben là người em yêu quý của anh chỉ vì lễ vật của Aben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật của anh thì bị Thiên Chúa khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Ca-in đánh chết em.
Theo sách Samuen, Đavít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh liệt, cứu nguy cho dân quân Israel bằng cách giao chiến một-chọi-một với tên Gô-li-át khổng lồ thuộc phe Phi-li-tinh, hạ gục y chỉ bằng một phát ná bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Israel thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Phi-li-tinh thù nghịch.
"Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Israel kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát rằng: "Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn".
Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un, khiến nhà vua phóng giáo vào Đavít đang khi Đavít gảy đàn cho vua nghe. May thay Đavít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua lùng sục Đavít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (Samuen I, chương 17-18)
Qua trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu ám chỉ đến lòng ghen tị của những người biệt phái đối với những người thu thuế và tội lỗi vì những người nầy được Chúa Giêsu yêu thương và tiếp đón.
Người ta không muốn cho người khác trội hơn mình và thậm chí không muốn cho người khác được bằng mình. Ai cũng muốn mình nổi bật hơn, chói sáng hơn, vinh quang hơn người khác. Khi khát vọng nầy không được thoả mãn, và nhất là khi thấy người khác thành công, thắng lợi hơn mình, thì lòng ghen tị phát sinh.
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển.
Làm sao dập tắt được lòng ghen tị? Nó vẫn chế ngự và tiếp tục khống chế con người cho tới khi nhắm mắt tắt hơi.
Muốn thoát ra khỏi sự khống chế của lòng ghen tị, chúng ta cần sáng suốt nhận thức hai điều nầy:
1. Sự may lành của người, sự thành công của người khác luôn mang lại lợi ích cho chúng ta.
Thế giới nầy cần phải có nhiều người tài giỏi hơn bạn và tôi, càng nhiều càng tốt. Nếu ai cũng chỉ có khả năng bằng bạn và tôi thôi thì làm gì có máy bay, có TV, có điện thoại di động và máy tính!...
Xã hội nầy cần phải có nhiều người giàu có hơn bạn và tôi. Nếu ai cũng nghèo như bạn và tôi thì lấy đâu ra vốn để đầu tư và phát triển và thế là quốc gia còn lâu mới thoát cảnh lạc hậu nghèo nàn.
Đất nước nầy cần có nhiều người trí thức hơn, thông thái hơn, khôn ngoan hơn bạn và tôi. Nếu ai cũng nông cạn và thiển cận như tôi thì làm gì có văn minh và tiến bộ.
Vậy thì hãy cầu mong cho có nhiều người trỗi vượt hơn ta về nhiều phương diện chứ đừng cầu mong người khác thua ta hoặc bằng ta, bởi vì: "con hơn cha thì nhà có phúc; sau hơn trước thì nước văn minh".
2. Tất cả mọi người làm nên một thân thể.
Qua Thánh Phaolô, Thiên Chúa bày tỏ cho nhân loại biết rằng muôn người trên thế gian cũng chỉ là một:
"Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể" I Cr 12, 12-13)
"Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể" (I Cr 10, 17)
"Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người biết mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa." (Ep 3, 5-6)
Xin cho mọi người hiểu rằng mỗi người là một tế bào trong cùng một thân thể lớn lao là nhân loại. Nói khác đi, mỗi người chúng ta là một bộ phận trong thân mình nhân loại. Người nầy là tim, người khác là gan, người kia là phổi... Nếu trong thân thể nầy, quả tim mạnh lên thì các bộ phận khác phải mừng cho tim và mừng cho toàn thân, hà cớ gì phải buồn, vì nhờ tim mạnh mà toàn thân được khoẻ. Tim suy yếu hay ngừng đập thì toàn thân còn gì?
Tương tự, nếu như phổi mạnh lên thì toàn thân phải mừng cho phổi, sao lại ghét ghen, vì nhờ thế mà cả cơ thể khoẻ mạnh an lành; chứ nếu phổi lủng, phổi nám thì toàn thân cũng phải liên quan.
Vì thế, thay vì ghen tị trước những thành công của người khác, ta hãy vui mừng hân hoan, vì sự thành công của họ đem lại nhiều lợi ích cho ta và cho toàn thể mọi người;
Vì thế, thay vì buồn phiền khi có nhiều anh chị em bè bạn chung quanh vượt lên khỏi ta mà tiến tới, ta hãy thành thật chúc mừng vì nhờ thế đất nước nầy sẽ được tiến bộ, văn minh hơn.
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Chuyện xảy ra vào thế kỷ thứ 16 tại Ấn Độ. Trong triều đình có hai vị sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tỵ, một người thì tham lam.
Ngày kia, nhà vua có sáng kiến rất độc đó để sửa đổi những tính xấu ấy. Ông cho triệu tập hai viên sứ quan vào giữa triều đình, loan báo sẽ tưởng thưởng họ vì đã phục vụ trong nhiều năm qua. Họ có thể xin gì tùy thích, xong người đầu tiên mở miệng xin chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Nhiều phút trôi qua, không ai mở miệng nói trước. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tỵ lý luận: thà tôi không được gì còn hơn mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi. Vì thế, không ai muốn lên tiếng trước.
Cuối cùng, vua yêu cầu người ganh tỵ nói trước. Người này lại nghĩ, thà không được gì còn hơn để tên tham lam được gấp đôi. Hắn liền tuyên bố: “tôi xin được chặt đứt một cánh tay…”. Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
***
Người ghen tỵ thà chịu mất một cánh tay còn hơn nhìn thấy người kia được của cải gấp đôi mình. Người ghen tỵ trước khi tiêu diệt kẻ khác, họ đã tụ hủy diệt chính mình.
Dụ ngôn trong Tin mừng hôm nay kể lại, người đi làm vườn nho từ sáng sớm ghen tỵ với người chỉ làm mộ tiếng, mà cũng được trả một quan như mình. Giá như ông chủ trả cho người làm một tiếng ít tiền hơn, thì người làm từ sáng sớm đâu có bực tức khó chịu. Chúng ta thấy ông chủ đâu có xử bất công, vì ông đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền. Ông trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng, là vì ông tốt bụng, ông có quyền làm điều đó chứ!
Qua dụ ngôn “Ông chủ vườn nho”, Đức Giêsu muốn mời gọi chúng ta nhìn sâu vào cõi lòng của Thiên Chúa. Người không chỉ là Thiên Chúa công bình, mà còn là một người Cha đầy yêu thương. Người đã không hành xử theo luật lệ, nhưng lại dựa trên tiêu chuẩn của tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta đổi mới cái nhìn về Thiên Chúa. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra Người là Thiên Chúa tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được lòng tốt của Thiên Chúa nơi bản thân mình, chúng ta mới không còn ghen tỵ với anh em.
Chúng ta nhớ lạ lời ông chủ vườn nho nói với người ghen tỵ: “Hay vì thấy tối tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20,15). Anh ta ghen tỵ vì anh ta chỉ thấy lòng tốt của ông chủ nơi người khác. Sao anh ta không nghĩ rằng ông chủ tốt bụng này đã thuê anh làm và trả lương cho anh xòng phẳng không thiếu một xu. Sao anh ta không nghĩ rằng anh đã rất an tâm vì chắc chắn đến cuối ngày là anh có một tiền; còn người kia vì không có ai thuê làm nên phải chờ đợi cả ngày trong lo âu chán chường, vì tối nay vợ con anh sẽ phải lên giường mà không có gì cho vào bụng.
Cứ nghĩ đến muôn ngàn phúc lộc Chúa đã ban cho chúng ta, cứ nhìn xem bao niềm đau nỗi khổ của anh em, chúng ta sẽ không còn lý do nào để mà ghen tỵ. Chính vì không cảm nghiệm được Thiên Chúa yêu thương, không nhận ra hồng ân của Người trong cuộc đời mình, mà Cain đã ghen tỵ và giết chết Aben, người anh cả ghen tỵ với đứa em đi hoang nên không nhìn nhận người em lỡ lầm, người Pharisiêu ghen tức với người tội lỗi được Chúa tha thứ, ngươì làm sáng sớm ghen tỵ với kẻ làm chỉ một giờ.
Ai cứ nghĩ mình xứng đáng được Chúa ban ơn, mà đi ghen tỵ với những ơn lành Chúa ban cho người tội lỗi, chính là kẻ bất hạnh nhất. Họ hãy nghe lại lời Kinh Thánh: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hang đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót” (Mt 20,16a). Thông điệp của dụ ngôn hôm nay muốn loan báo rằng: nước Trời là phần thưởng nhưng không của Thiên Chúa, hoàn toàn do long quảng đại yêu thương của Người, chứ không do công nghiệp của chúng ta. Thiên Chúa ban ơn cho con người chỉ vì lòng yêu thương của Người mà thôi.
Đừng bao giờ ghen tỵ, đố kỵ nhỏ nhen khi thấy kẻ khác được nhiều ơn, mà muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Đừng bao giờ tính toán sòng phẳng theo lẽ công bình giao hoán: có công thì được hưởng, có tội thì bị phạt. Vì nếu Thiên Chúa tính toán lại, chắc chắc số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc, và người thiệt thòi nhất không ai khác chính là chúng ta.
***
Lạy Chúa, Chúa là một người Cha đầy yêu thương, luôn ban ơn cho mọi con cái, cả những đứa con không đáng thương, vì Chúa không muốn một ai phải hư mất.
Xin cho chúng con một tâm hồn quảng đại như Chúa, không hẹp hòi ghen tỵ với những ai được Chúa ban nhiều ơn, nhưng luôn biết “vui với kẻ vui”, để chúng con được nên giống Chúa nhiều hơn. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một lần người thầy của tôi đã nói: “Nếu ai có tính ghen tỵ là tự hành hạ và tự đầy đọa chính mình. Nó giống như có một con rắn độc trong tim, nên không bao giờ có thể yên vui để thưởng thức mọi niềm vui và hạnh phúc trên đời”
Đó cũng là nỗi đau của bà dì ghẻ của nàng Bạch Tuyết năm xưa. Bà đã sống trong đau khổ khi cố dùng mọi mưu trí hèn hạ để hại người, nhưng rút cuộc “gậy ông lại đập lưng ông”, chính bà nuốt nỗi khổ đau của sự thất bại suốt đời.
Nhưng đáng tiếc, sự ghen ghét, đố kỵ hầu như có mặt ở mọi nơi. Sự ghen ghét có thể ở trong mọi thành phần, mọi giai cấp. Sự ghen ghét thể hiện rất rõ trong những lần trà dư tửu hậu. Trong các quán café. Trong những quán cóc ven đường. Khi có vài người tụ tập thường là có sự ghen ghét nảy sinh. Vì dường như ai cũng có tính ghen ghét người khác hơn là khâm phục, khích lệ lẫn nhau.
Khi ai đó bàn luận về một người nào đó vừa đẹp, vừa tài năng lại vừa hạnh phúc, thì sẽ có ngay kẻ phán rằng, hạnh phúc đó là tạm thời, giả tạo. Và rồi, là tìm hiểu, moi móc, rêu rao khiếm khuyết của họ.
Sự ghen ghét khiến chúng ta không muốn người khác bằng mình và đương nhiên không bao giờ chấp nhận người khác hơn mình. Đôi khi còn đạp đổ để ai đó không có cơ hội phát triển thêm.
Sự ghen ghét còn ẩn chứa trong cả lời cầu nguyện khi không muốn người khác gặp may lành, và điều tệ hại là còn muốn anh em gặp sự dữ như câu chuyện vui sau:
Chuyện kể rằng có người đàn ông rất may mắn, được Trời cho ước gì được nấy. Tuy nhiên, đi kèm với sự may mắn đó là điều kiện: Bất cứ điều gì ông ta ước, người hàng xóm sẽ có gấp đôi. Thế là khi ông ta sở hữu ngôi nhà đẹp, người hàng xóm liền có một dinh thự lỗng lẫy. Ông ta ước mình giàu có, người hàng xóm có hẳn một mỏ vàng… Không chịu được sự "bất công" đó, người đàn ông may mắn liền ước mình bị mù một mắt để người hàng xóm bị mù cả hai!
Chính lòng đố kỵ đã tạo nên sự nhỏ nhen, biến thành cảm giác hận thù và suy nghĩ mù quáng cho ông ta: thà kém may mắn hơn một chút để người khác đau khổ hơn mình thay vì chọn điều ngược lại.Hôm nay, Chúa trách những người làm công vườn nho: “chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay là các ông vì thấy tôi tốt bụng mà đâm ra ghen ghét?
Chúa trách là đúng. Vì ai Chúa cũng ban cho có phần, nhưng lại không muốn người khác được phần bằng mình. Khi tính ích kỷ ghen ghét đã lấn át. Cái tôi ngự trị, người ta chỉ còn nghĩ đến mình, thu vén mọi lợi ích cho mình mà quên đi nhu cầu của tha nhân. Ai cũng cần cuộc sống được khá hơn, được thoải mái hơn, nhưng chúng ta lại không chúc phúc cho họ mà còn dèm pha và đạp đổ họ.
Thiên Chúa thì không như vậy. Tình yêu của Chúa vượt qua mọi tính toán thiệt hơn theo kiểu con người. Ngài không ban phát theo lẽ công bằng thường tình mà do lòng thương xót bao la của Chúa. Ngài ban phát cho người thợ giờ thứ nhất cũng bằng người thợ thứ mười một, miễn là họ đã hoàn thành công việc được giao, với tất cả trách nhiệm và thiện chí của mình.
Điều này còn là dấu chỉ cho tình thương cứu rỗi của Thiên Chúa. Ngài sẽ cứu độ mọi người. Ngài dành tình thương cho mọi người. Tuy nhiên, không phải ai cũng được cứu rỗi. Tình thương Chúa vẫn dành cho mọi người, nhưng điều quan yếu là họ đã đáp lại lời Chúa. Họ đã sống lời Chúa. Dù chỉ là thời gian ngắn thì họ vẫn được Chúa ban phúc thiên đàng cho họ như bao người tín hữu khác. Họ phải luôn khoác trong mình chiếc áo của ân sủng, chiếc áo của hiệp nhất trong Chúa thì không bị loại ra khỏi bàn tiệc.
Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào tình thương của Chúa để ăn năn trở về với Chúa. Ước gì chúng ta cũng nhận ra tình thương của Chúa vẫn dành cho chúng ta, dù rằng chúng ta không xứng đáng để nhờ đó mà sống tâm tình tạ ơn Chúa. Ước gì chúng ta cũng biết vui với người vui, khóc với người khóc trong tinh thần tương thân tương ái thay cho tính ghen tương, ích kỷ nhỏ nhen thường tình. Amen.
8. Ganh tỵ – Lm. Vũ Đình Tường
Dường như ganh tị xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo lứa tuổi mà ganh tị biến đổi. Nó biến đổi mà không phải là biến mất. Nó lui vào hậu trường nằm chờ cơ hội để cho mối ganh tị khác chiếm hữu trên sân khấu cuộc đời. Bằng chứng rõ ràng là có những ganh tị xảy ra lúc còn nhỏ, sau này thành người lớn nó lại xuất hiện và ngay cả tuổi cao niên nó vẫn còn tái diễn, trình làng. Nhiều vụ kiện cáo vì tranh nhau miếng cơm, manh áo. Nhiều người ham quyền cố vị vì ganh nhau ăn trên, ngồi trên, có cơ hội đọc diễn văn, tuyên bố, phát ngôn.
Cuộc sống Đông Tây đều có những điểm giống nhau như lúc nhỏ hay ganh ăn. Lớn hơn chút ganh chơi. Tuổi thiếu niên ganh nói. Tuổi thanh niên ganh xe mới. Tuổi sắp sửa lập gia đình ganh bồ nhí. Tuổi vào đời ganh nhà cao, cửa rộng, ganh chức tước, ganh tiền, hám danh. Có đủ ăn mặc, ganh đi đây đó. Khi về già ganh viện dưỡng lão và khi chết ganh đám táng lớn, mồ cao, mả rộng.
Ganh về tâm lí phát xuất do tự kiêu. Cho là mình hơn người mà không được trọng dụng. Cờ không đến tay không được phất. Chỉ trích, phê bình cho tài người xuống đề cao tài mình lên. Ganh trong trường hợp đó thường hay có phản ứng ngược vì càng cố khoe tài càng vạch ra nhiều kẽ hở bất tài.
Về của cải vật chất ganh tị nói lên điều không hài lòng, còn thiếu. Nếu hài lòng đã không ganh. Ganh vì tự thấy còn thiếu, muốn có hơn, nhiều hơn. Ganh vì lòng tham cũng có mà vì nghĩ về mình cũng nhiều. Nhiều người vay công, mượn nợ để trang hoàng nhà cửa, trưng đeo trên người để tỏ ra mình cũng như người hoặc hơn người.
Ganh ăn chính là trường hợp của người công nhân phàn nàn với ông chủ sau khi đã thoả thuận tiền công nhật là một đồng. Ông ta than phiền là phải vất vả nắng nôi suốt ngày. Người thợ thuê giờ sau hết cũng chịu nắng nôi giữa chợ suốt ngày. Cộng thêm cái lo lắng gia đình lấy của đâu ra cho bữa ăn tối. Đang lúc anh tuyệt vọng thì ông chủ đến cứu vớt anh. Không phải chỉ mình anh được ấm no, hạnh phúc mà cả gia đình anh, chung bữa cơm tối, được tụ họp xum vầy. Điều này cho thấy thực thi bác ái cho người nào đó thì không phải mình người đó hưởng mà cả người thân được hưởng nhờ việc tốt lành.
Nhóm thợ thuê buổi sáng sớm còn được bàn thảo giá cả thuê mướn công nhật. Nhóm thợ thuê vào giờ sau cùng không hề dám hé môi đặt vấn đề lương bổng. Có người thuê là mừng rồi. Còn đâu cơ hội để bàn định giá cả. Làm nguyên ngày có bữa cơm ngon; làm nửa ngày mong chén cháo lỏng. Dẫu thế, có vẫn hơn không. Nhóm thợ đầu tiên biết tiền công nhật một đồng một ngày. Nhóm thợ thứ hai nhận lời hứa được trả công xứng đáng. Nhóm thợ thứ ba không được hứa gì cả chỉ biết thế nào cũng được trả công. Ít nhiều hoàn toàn tuỳ thuộc vào tốt của chủ vườn nho. Chủ vườn nho thuê thợ không phải vì cần mà vì lòng thương họ bơ vơ, không công việc làm nuôi thân. Chính ông xác định điều này. Nếu cần thợ cho vườn nho có lẽ ông đã thuê sáng sớm. Ông thuê vào giấc giữa trưa, gần tối vì thấy thợ chờ suốt ngày không ai thuê nên ông thuê. Thuê vì thương hại hơn là nhu cầu. Như thế việc ít, thợ nhiều. Nếu tính lợi người ta đã chọn thợ giỏi, lành tay nghề. Ông chủ vườn nho không tính lợi cho mình mà nghĩ đến an sinh của thợ nhiều hơn. Làm như thế ông thiệt về tài chánh nhưng lợi về đàng nhân đức, đàng nhân lành.
Người thợ lên tiếng phàn nàn nếu có lòng thương người hẳn phải nhìn biết ông chủ là người tốt và mang lòng cám ơn. Đàng này điều anh ước mong không thoả nên anh lên tiếng phàn nàn. Anh thấy lòng tham của anh mà không thấy lòng tốt của ông chủ vườn nho. Cách nhìn này khá thông dụng giữa các Kitô hữu. Chúng ta hay than phiền về cuộc sống, về đau khổ, về bệnh tật, về rủi ro mà không nhìn thấy Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu. Chúng ta cũng hay ghen với người này, bì với người khác mà không biết đem lòng cảm tạ những ơn Chúa ban. Chúng ta không dùng khả năng phát triển tài năng Chúa ban mà phí phạm tài năng vào việc tìm tòi, để ý phê bình, ghen với người khác. Người mình phê bình thường là người quen, người từng làm ơn hay là bạn chân tình. Chúng ta thử áp dụng câu ông chủ vườn nho nói với chính mình. Đặt mình vào chỗ người ghen tị với bạn bè, bà con để xét xem việc mình ganh tị xứng đáng hay mình đang chê trách lòng nhân từ của ông chủ.
Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?
9. Ghen tương – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ca dao Việt Nam có câu:
"Ớt nào mà ớt chẳng cay
Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng"
Ghen tương, tị hiềm là một mầm giống bệnh tật nằm trong bản tính con người. Từ nguyên thủy đã có ghen tị. Cain vì ghen mà giết Aben, bởi em cậu đẹp lòng Thiên Chúa. Các anh em con của Giacob ghen với Giuse vì em được cha thương nên bán em qua Ai cập làm nô lệ. Vua Saolê ghen với Đavít vì dân chúng tín nhiệm Đavít, nên Saolê hai lần lấy đao phóng đâm vào Đavít. Đavít ghen với Uria. Vì ông có vợ đẹp nên Đavít đã hãm hại Uria để chiếm đoạt vợ của ông.
Có nhiều người ghen và cũng có nhiều chuyện để ghen. Ghen tương thường đi đến kết thúc thật bi thảm. Thù oán, giận hờn và đôi khi giết hại lẫn nhau mà vẫn không áy náy lương tâm.
Chắc hẳn chúng ta còn nhớ vụ kiện hai bà mẹ giành nhau đứa con trước tòa của Salômôn. Một bà nói: Hai chúng tôi ở cùng một nhà, nhưng con của bà ta bị chết vì bà nằm đè phải đứa con nên nó bị chết. Nửa đêm bà này thức dậy đánh tráo con tôi". Nhà vua vung gươm sáng loáng ra lệnh chặt đôi bé còn sống để chia cho mỗi bà một nửa. Nghe vậy, người mẹ thứ hai thưa rằng: "Xin bệ hạ trả cháu nhỏ cho bà kia, đừng giết cháu tội nghiệp". Bà thứ nhất thưa: "Cháu bé không phải của chị cũng không phải của tôi. Cứ phân đôi là công bằng". Nhà vua liền trao cho người mẹ xin đừng giết đứa bé, vì đó là người mẹ thật.
Quả thực lòng ghen đánh mất tính người: "Không ăn thì hắt đổ đi". Lòng ghen tương cũng mất tình liên đới với tha nhân, không chấp nhận người khác hơn mình. Và càng không chấp nhận người khác có mà mình lại không có."Trâu buộc ghét trâu ăn" là thế. Kẻ ghen tị không hề nghĩ tới trách nhiệm về lời mình nói, việc mình làm có tổn hại đến tha nhân hay không? Kẻ ghen tị càng không có công lý và tình thương, họ chỉ mưu toan hạ bệ, chà đạp và làm hại người khác. Với cá nhân, ghen tị biến thành kẻ ác nhân, nơi đoàn thể biến thành kẻ giả hình. Bề ngoài niềm nở tay bắt mặt mừng... nhưng trong lòng lại "một bồ dao găm", chỉ toan tính hại người.
Ở Ấn Độ có dụ ngôn như sau: Trong triều đình có hai vị quan. Một người thì ganh tị, một người tham lam.
Để chữa trị những tật xấu ấy, vua cho triệu vời cả hai vào triều đình. Nhà vua loan báo sẽ thưởng công xứng đáng cho cả hai người vì đã có công phục vụ nhà vua nhiều năm qua. Họ xin gì được nấy. Tuy nhiên người nào mở miệng trước thì sẽ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Cả hai viên sĩ quan lặng thinh ngẫm nghĩ. Kẻ tham lam thầm nghĩ rằng. Nếu tôi nói trước thì sẽ được ít hơn, còn người ganh tị thì lý luận, tội vạ gì mà mình xin trước để tên kia lãnh gấp đôi. Cứ như thế chẳng ai dám xin trước. Cuối cùng nhà vua phải yêu cầu người ganh tị nói trước. Hắn bèn dõng dạc tuyên bố: "Nếu thế thì xin vua cho tôi được chặt đứt một cánh tay để tên kia bị gấp đôi". Sự ganh tị đã đánh mất tình người. Con người dễ dàng trở thành kẻ thù của nhau chỉ một miếng ăn, một chén gạo...
Dụ ngôn hôm nay muốn nói với chúng ta rằng đừng có ganh tị tham lam ích kỷ. Hãy tập "có sao chịu vậy" và tốt nhất là hãy vui mừng vì sự thành công của tha nhân. Đây là cách chiến thắng lòng tham lam, bất mãn, càm ràm than phiền vô cớ. Hãy tập nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan, vui tươi hơn là soi mói, tọc mạch chuyện người khác, rồi bất mãn đời, bất mãn người mà nguyên nhân chính chỉ vì ghen tương.
Hãy coi người thợ làm từ đầu giờ và người thợ được mời vào giờ cuối cùng ai xứng đáng được thưởng một quan tiền. Người thợ từ giờ đầu chịu nắng nôi vất vả, cực nhọc, còn người được gọi vào giờ cuối thì âu lo thất nghiệp, vợ con cằn nhằn. Ai cũng có nỗi khổ riêng. "Thuyền càng to sóng càng lớn". Mỗi người đều có mối lo lắng riêng. Điều quan yếu Chúa muốn chúng ta là hãy nhìn vào tình thương của Chúa đang dành cho bạn, cho tôi. Mỗi người Chúa ban một khả năng. Mỗi người một hoàn cảnh. Mỗi người một cuộc sống khác nhau hãy biết nhận ra ân huệ và tình thương của Chúa đang che phủ trên cuộc đời chúng ta. Amen.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng ngạc nhiên trước cách ứng xử của ông chủ vườn nho mà Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho nay không ai khác hơn là hình ảnh của chính Chúa Giêsu mà Đức Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta. Thiên Chúa không chỉ công bằng nhưng mà còn là Thiên Chúa xót thương.
Người chủ vườn nho thật hào phóng, ông ta vượt lên trên lẽ công bằng mà đúng hơn ông ta muốn thể hiện lòng xót thương. Ông ta xót thương cho số phận người ta, số phận của người thất nghiệp. Ông ta xót thương người ta nên đã thuê những người thợ. Vì xót thương nên ông ta quảng đại thuê luôn kẻ làm giờ thứ mười một, một người có thể gọi là thất nghiệp. Đối với người thất nghiệp này, ông chủ không hề tính toán so đo, không hề nghĩ ngợi lợi ích công việc cho mình, ông xót thương số phận người thất nghiệp, thương người thất nghiệp nhiều hơn, vì chiều nay rất có thể người thất nghiệp sẽ trở về nhà với đôi bàn tay trắng, không có tiền thì gia đình anh có thể sẽ chết đói, vợ con sẽ lên giường ngủ với cái bụng cồn cào vì không có tiền mua thức ăn.
Giống các người được thuê theo giá thoả thuận vào giờ thứ nhất, chúng ta cũng có lý không đồng ý với lòng xót thương của chủ vườn nho. Chúng ta có lý khi mình đã đến sớm và thoả thuận công việc và tiền công với ông chủ. Chúng ta có lý vì chúng ta đã vất vả đến sớm, nhọc nhằn vì công việc suốt ngày không mấy dễ dàng... chúng ta dễ so đo tính toán hơn thua với người thợ làm vào giờ thứ mười một, chúng ta không mấy thiện cảm cho những người bê trễ, lười biếng thậm chí ghét luôn với những người vào giờ chót ăn năn trở lại, vào giờ chết mới vào đạo, xin được rửa tội... lắm khi chúng ta vừa làm việc vừa than trách, kêu ca công việc nặng nhọc, vừa giữ đạo vừa phàn nàn Chúa, than thở các vị mục tử...không đáp ứng theo ý mình. Giữ đạo nhưng chúng ta dễ quên thậm chí không nhận ra Chúa đang thương chúng ta, nâng đỡ, che chở, chúc lành và thậm chí chúng ta quên ngay việc Chúa quá thương chúng ta nên tha thứ tội lỗi cho chúng ta, quên luôn không còn nhớ lỗi lầm dĩ vãng. Nếu chịu khó nhìn lại một chút, nhìn lại cuộc đời mình, chắc chắn chúng ta sẽ giật mình khi thấy mình giống người thợ làm vườn nho vào các giờ đầu tiên, đến sớm hễ đói thì được nuôi cơm sáng, có khi còn có bánh lót dạ thêm, rồi còn có càfê, có thuốc lá mà hưởng...Khi đến buổi trưa nếu đã làm cho chủ này thì ắt hẳn phải có được bữa cơm no nê, chưa kể hưởng thêm chế độ nước trà và bánh ngọt nữa chứ. Thế mà giống như những người này kêu ca, chúng ta ở trong Hội Thánh, hưởng nhờ ân sủng Chúa qua Hội Thánh, đón nhận nhiều thật nhiều hồng ân của Chúa, mỗi bí tích chúng ta lãnh nhận, mỗi Thánh lễ mà chúng ta cùng nhau cử hành, mọi phước lành của Chúa qua tay Mục tử mà chúng ta đang hưởng nhờ, tình yêu và lòng thương xót của Chúa mà chúng ta đang thụ hưởng, sự nhiệt tình và lòng quảng đại của Hội Thánh trao ban cho chúng ta hằng ngày,..và còn rất rất nhiều thứ khác nữa mà chúng ta không kể xiết. Chúng ta có biết trân trọng và biết ơn về điều đó không?
Đang khi chúng ta có còn những người khác thì chưa chắc họ có được như chúng ta. Nếu một người ăn năn trở lại vào giờ chót, hay một người mới biết Chúa rồi chết, một người vừa được rửa tội rồi qua đời...thử hỏi xem họ được đón nhận như chúng ta không. Từ cái nhìn, lối suy nghĩ dẫn chúng ta đi đến một thái độ ứng xử thiếu tình thương, thiếu tình người, thiếu tình của Chúa yêu thương chúng ta.
Quả thật, chúng ta nhìn nhận lòng thương xót của ông chủ này vô bờ bến. Hẳn nhiên, nếu người ta làm ăn theo kiểu này thì thất bại là cái chắc, và việc "phá sản" công ty là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, lòng ông chủ thương xót người, lo cho mọi người bằng chứng là ông trả tiền công nhật đúng theo như đã thoả thuận, ông lo cho ăn uống chu đáo bằng chứng là họ không phàn nàn gì hết mà họ chỉ thắc mắc lòng thương xót của ông chủ đối với người thợ làm vào giờ chót.
Chúng ta cũng hiểu được phần nào ông chủ này là hình ảnh mà Chúa Giêsu muốn nói đến chínhn là Thiên Chúa. Thiên Chúa đối xử không giống con người nhưng Ngài đối xử theo lòng thương xót và tình yêu vô biên của Ngài. Vì thế chúng ta cũng không lạ gì Isaia đã nói về Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta: "Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu".
Nếu cứ theo lẽ công bằng thường tình của loài người chúng ta: người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều thì người làm một giờ cuối trong câu chuyện trên có đủ lương nuôi sống cả gia đình không, hay con cái của họ đang túng thiếu, nghèo đói,...Chính vì lòng thương xót, vì thông cảm hoàn cảnh nghèo đói của người ta, hơn nữa vì muốn cho mọi người có công ăn việc làm mà ông chủ đã mời gọi mọi người thất nghiệp vào làm vườn nho cho mình vào bất cứ giờ nào và trả tiền cho họ bằng nhau, người đến sau cũng bằng với người đến trước. Rõ ràng ông chủ không muốn đối xử với người ta theo tương quan mua bán, tính toán nhưng theo tương quan tình thươn và lòng nhân hậu. Điều này cũng nhắc nhở chúng ta cũng hãy bắt chước để đối xử với đồng loại như chính ông đã đối xử.
Chúng ta không mong mình là người đến sau. Chúng ta đã là người đến trướcnên chúng ta hãy biết cảm tạ ơn Chúa và quyết tâm làm tròn bổn phận của mình đối với Chúa và cũng biết thể hiện tình yêu, lòng thương xót và sự chia sẻ cho tha nhân của mình.
Cách ứng xử của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn chính là cách ứng xử của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta hành động như thế đó. Thật là rộng lượng, nhân từ! Ngài mời gọi những người thu thuế, những người bị xã hội loài người khinh chê, loại trừ, những người tội lỗi vào Nước Trời một cách rộng rãi, cho không, chẳng phải vì công trạng gì xứng đáng cho họ. Người công chính đạo đức, đừng vì thế mà ganh tị và kêu trách Chúa bất công, giống như những người Biệt Phái Pharisêu đã kêu ca trách móc Chúa. Lòng thương xót của Chúa đón nhận tất cả mọi người không trừ một ai, vì bản chất của Ngài là Tình Yêu.
Thiên Chúa chúng ta thật là rộng lượng, nhân từ. Quả thật đường lối của Ngài khác hẳn đường lối nhỏ bé, hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta hay so đo, tính toán, đánh giá từ sự so sánh của chúng ta. Chúng ta nhìn người khác với những cái họ có hơn mình hay cài mình không có, để bực tức ghen ghét. Nhiều khi chúng ta nhân danh công bằng để đối xử hẹp hòi, khắt khe, độc ác với kẻ khác. Công bằng là mức độ thấp nhất của bác ái. Công bằng mà không có bác ái là tàn nhẫn, là vô nhân đạo. Phải vượt trên mức tối thiểu của công bằng, chúng ta mới có thể đối xử bác ái, tình nghĩa với nhau được, cuộc sống mới chan hoà tình người, đầy niềm vui và hạnh phúc.
Với những ai rộng rãi, biết thương xót người, thì sẽ được Ngài xét xử theo lòng nhân từ xót thương. Thiên Chúa luôn luôn tuyệt vời hơn những gì con tim nghèo nàn của chúng ta có thể tưởng tượng. Ước gì con tim nghèo nàn của chúng ta trở nên giống như trái tim của Thiên Chúa Tình Thương. Chính trong tình thương, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có trái tim của Chúa, biết xót thương mọi người và sống yêu thương mọi người. Amen.
11. Ca tụng hay kêu trách
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc – SJ.)
Dụ ngôn của Đức Giêsu, về những nhóm thợ khác nhau được mời gọi đi vào làm việc trong vườn nho, mặc khải cho chúng ta một cách tuyệt vời về cung cách hành động của Thiên Chúa, và về khó khăn sâu xa có nơi mỗi người chúng ta, khi đối diện với cung cách hành động này.
1. “Nước Trời giống như chuyện chủ nhà kia…”
Trước hết, Thiên Chúa được ví như ông chủ vườn nho, hành động giống như bao ông chủ vườn nho khác: sáng sớm ra khỏi nhà để đi tìm thợ, thỏa thuận về thời gian và tiền công (mỗi ngày một quan tiền) và sai họ đi vào làm việc trong vườn nho của mình. Ở bước này, cho dù là tương quan giữa ông chủ vườn và người làm công xem ra rất bình thường và công bằng, nhưng những người làm công vẫn được mời gọi nhận ra việc làm của mình là một điều may mắn, thậm chí là một ơn huệ, và nhất là nhận ra lòng tốt của ông, khi ông đich thân ra khỏi nhà để đi tìm người thợ, thay vì người thợ đi tìm ông chủ đề “xin việc”.
Chúng ta có nhận ra hiện hữu, cuộc đời, ơn gọi gia đình hay tu trì của chúng ta là một ơn huệ không? Chúng ta có nhận ra lòng tốt của Chúa để luôn tạ ơn và ca tụng Ngài không? Và để sống và làm việc trong tâm tình tạ ơn và ca tụng không? Hay chúng ta coi tất cả những ơn huệ nhưng không này như một thứ “quyền lợi”, để đòi hỏi Thiên Chúa, để so bì và ganh tị với nhau? Nhưng khi đòi hỏi và ganh tị, chúng ta dựa vào điều gì, phải chẳng là công lao hay thành tích của chính chúng ta?
2. “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho” (c. 3-7)
Thực vậy, phần tiếp theo của dụ ngôn, mỗi lúc một mạnh mẽ và vượt quá cách hành động thông thường của một người chủ, có thể có trong kinh nghiệm sống của chúng ta, nhấn mạnh đặc biệt đến chiều kích ơn huệ và lòng tốt khác thường của ông chủ: giờ thứ ba (9 giờ sáng), ông lại ra khỏi nhà đi tìm thợ; giờ thứ 6 (12 giờ trưa), ông lại đi nữa; rồi giờ thứ 9 (3 giờ chiều), ông lại đi nữa; và đây là tột đỉnh của sự khác thường, vào giờ thứ 11 (5g chiều), ông vẫn ra khỏi nhà đi tìm thợ làm việc!
Nếu trong những trường hợp trước, ông chủ chỉ hứa trả công một cách hợp lí: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng”, thì trong trường hợp sau cùng, ông chỉ mời gọi đi làm việc: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho”. Như thế, được hiện diện trong vườn nho là một ơn huệ hoàn toàn nhưng không, diễn tả lòng tốt của ông chủ; và điều này cũng đúng với những trường hợp trước và phải được nhận ra và được ngợi khen bởi những người thợ đi vào trước, và kể cả những người vào làm việc đầu tiên nữa.
Tuy nhiên, câu chuyện của dụ ngôn, vốn diễn tả sự thật về chính chúng ta, lại diễn biến theo hướng lòng ghen tị và lời kêu trách, thay vì theo hướng chúc mừng và ca tụng. Dân Chúa đã kêu trách và ghen tị trong sa mạc (x. Ds 21,4-9, bài đọc I của ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá); và loài người và mỗi người chúng ta được mời gọi nhận ra bản thân mình nơi Dân Chúa.
Như thế, đúng ra những trường hợp trước phải được hiểu dưới ánh sáng của trường hợp sau cùng, để nhận ra lòng tốt của ông chủ được thể hiện từ đầu đến cuối. Vì, nếu hiểu ngược lại, nghĩa là các trường hợp sau được hiểu dưới ánh sáng của trường hợp đầu tiên, người ta sẽ hiểu lệch lạc về ông chủ và về người khác: từ đó, phát sinh thái độ kêu trách và ganh tị.
3. “Bắt đầu từ những người vào làm sau chót…”
Và dường như ông chủ cố ý làm cho lòng ghen tị và lời kêu trách lộ diện, khi ông trả công, đúng hơn là ban phát, cách quảng đại cho người đến làm việc sau cùng, trước mắt mọi người:
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.
Bởi vì, làm cho cái xấu lộ diện, chính là cách tốt nhất để chữa lành. Thực vậy, khi đến lượt nhóm thợ đầu tiên đến lãnh tiền công, họ được nhận đúng với lời thỏa thuận của ông chủ và của họ và điều này làm bật lên sự khác biệt giữa họ và những người khác. Nhưng thay vì họ chúc mừng những người đến sau (vì họ làm ít hơn mình, nhưng lại nhận được nhiều như mình) và ca ngợi lòng tốt của ông chủ (ông chủ không chỉ trà công sòng phẳng, nhưng còn ban phát rộng rãi cho người khác, theo lòng tốt của mình), họ vừa lãnh công và vừa cằn nhằn:
Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.
Trong lời này, hàm chứa hai thái độ: so sánh mình với người khác: “mấy người sau chót này”, và kêu trách ông chủ: “thế mà ông lại…”. Lời kêu trách của họ dựa trên những sự kiện rất khách quan và rất đúng: họ làm việc nhiều hơn và vất vả hơn người khác; nhưng người khác lại được hưởng bằng họ! Nhưng rất tiếc, những điều rất đúng và rất khách quan này lại được nhìn bằng con mắt ghen tị! Và vì ghen tị, nên trở nên mù quáng, không mở ra để nhận ra những sự kiện lớn hơn và đúng hơn: người khác thật may mắn và ông chủ thật tốt lành, để chúc mừng họ và ca ngợi ông chủ, đê đi vào trong niềm vui của người ban phát và của người lãnh nhận. Và vì ghen tị, nên cũng mù quáng với chính những gì mình đang có, bởi lẽ điều mình dang có không phải là quyền lợi, nhưng là ân huệ, và vì người lãnh nhận không chỉ là người khác, nhưng cũng là chính bản thân mình. Mình có niềm vui, nhưng lại tự biến niềm vui của mình thành nỗi buồn, gây chết chóc, cho mình và cho người khác.
* * *
Xin cho Lời Chúa, là Lời sẽ dẫn chúng ta đến “Lời Thập Giá” (x. 1Cr 1,18) chữa lành đôi mắt của chúng ta, khi chúng ta “nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19,37); bởi vì nơi Thập Giá, chúng ta vừa nhìn thấy hệ quả khủng khiếp của thái độ ghen ghét (nhìn thấy để được chữa lành), và vừa nhận ra tình yêu đến cùng của Chúa dành cho loài người và từng người chúng ta (để ca tụng Chúa, thay vì kêu trách).
12. Đấng nhân lành
"Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa"(Lc 18,19). Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ và tốt lành vô cùng, Ngài đối xử khoan hồng với con người, không tính thiệt hơn cho mình như loài người thường làm. Vì yêu thương nhân loại, Ngài vui lòng trao ban cho loài người ngay cả người Con Một yêu dấu của mình. Loài người chỉ có thể đáp trả bằng tấm lòng biết ơn và vâng giữ lời Ngài dạy.
Trong cuộc sống hằng ngày, quan niệm "tiền trao cháo múc", "bánh ít đi bánh qui mới lại", công khó phải được đo lường là bình thường. Thiên Chúa thì khác, Ngài đối xử rất tốt với con người. Ngài luôn tỏ ra quãng đại, cho đi nhưng không, không chấp lỗi loài người một chỉ muốn loài người được những điều tốt đẹp nhất. Ngài muốn cho loài người điều quí giá nhất là sự sống đời này và đời sau, Ngài ghi nhận mọi việc làm tốt của chúng ta ở đời này để thưởng công cho. Tuy nhiên, Ngài rất nhân từ, một người vừa mới được Rửa tội, hoặc mới trở lại cũng được Chúa hứa ban cho nước Thiên Đàng vì thực ra Chúa ban phần thưởng thiên đàng vì lòng thương chứ không phải vì công trạng của chúng ta.
Chúa biết rõ lòng mỗi người chúng ta chứ không theo lẽ bề ngoài mà xét đoán. Thật ra, tôi giữ đạo bao nhiêu năm nay nhưng đức tin, cậy mến đã tiến triển bao nhiêu? Tôi thường tự hỏi mình: tôi có làm mọi việc vì yêu mến Chúa chưa hay chỉ cậy sức mình. Sau khi làm xong việc gì, tôi có nhận ra tất cả là nhờ ơn Chúa hay tôi lại qui mọi thành quả về mình. Khi tôi làm việc lành, Chúa có phải nói với tôi câu: con đã được thưởng công rồi! (Mt 6,2.5)
Thiên Chúa muốn cho chúng ta được cộng tác vào công việc của Ngài: thăng tiến xã hội loài người, phát triển bản thân và chinh phục vũ trụ này. Chúa không cần chúng ta ca ngợi hay làm cho Chúa điều gì nhưng vì Chúa muốn con người càng ngày càng trở nên giống chúa hơn, xứng đáng hơn trong địa vị làm con Chúa và được ơn cứu độ.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào Giáo hội cũng vì thương chúng ta, không phải vì bản thân Ngài, cũng không phải công lao của chúng ta nhiều hay ít. Chúng ta không có quyền đòi Chúa phải cho mình nhiều hơn những người khác nhưng biết phục vụ và Chúa sẽ ban phần thưởng xứng đáng. Chúa rất nhân từ nhưng cũng rất công bằng, không để ai phải thiệt thòi. Ông chủ trong dụ ngôn đã làm đúng theo thoã thuận với những người làm công. Sở dĩ chủ trả cho người đến sau ngang bằng những người kia vì Chủ có lòng nhân hậu chứ không bỏ lời đã hứa với những người đến trước. Chúa muốn dạy chúng ta học biết lòng nhân từ của Chúa, đừng dùng suy đoán của loài người mà đánh giá công việc Chúa làm.Vấn đề không phải chúng ta làm trước hay sau nhưng là làm đúng lúc Chúa mời, khi chúa gọi chúng ta có đáp trả hay không?
Trong cuộc sống, chúng ta thường phải chịu đựng tật xấu của người khác nhưng đôi khi những ưu điểm hay những đặc ân và sự may mắn của những người khác cũng làm chúng ta khó chịu đến ghen tương. Chúng ta phải loại bỏ tật xấu này và rèn luyện tâm hồn mình trở nên nhân từ quãng đại theo gương Thiên Chúa của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống quãng đại, tha thứ yêu thương, phục vụ theo gương Ngài, biết sống vui tươi với mọi người, không ganh tỵ, so đo nhưng biết cho đi bản thân vì lòng yêu mến Chúa.
13. Sự công bằng trong Nước Thiên Chúa
(Suy niệm của Barbara E. Reid OP – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn” (Mt 20,13)
Thoạt nghe qua, chúng ta dễ có cảm tưởng rằng dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay có vẻ không được hợp tình hợp lý cho lắm. Những người thợ làm việc lâu giờ hơn, vất vả hơn, vẫn không được trả lương cao hơn. Tại sao ông chủ vườn nho lại trả lương đồng đều cho tất cả các thợ, khi họ bắt đầu làm việc vào những thời khắc khác nhau. Theo lẽ thường tình, điều này xem ra có vẻ như ông chủ chơi không đẹp, không “fair play” chút nào.
Vấn nạn này chắc chắn sẽ được khơi lên, nếu chúng ta ở vào vị thế của những người thợ đã cực nhọc nắng nôi suốt cả ngày mà cũng chỉ nhận được một đồng giống như những người khác. Xét theo lô gíc thông thường, ông chủ đã sử xự một cách bất công .
Trong đám tang của ông ngoại tôi, lần đầu tiên, tôi được nghe giải thích ý nghĩa của dụ ngôn. Vị linh mục nói về người đã chết, một tân tòng mới gia nhập đạo Công giáo trên giường bệnh trước khi ông nhắm mắt xuôi tay, giống hệt như người thợ được mướn làm vườn nho lúc xế chiều. Vị linh mục đó cũng vay mượn một hình ảnh khác rất giản đơn để so chiếu. Ví dụ như nhiều người đi xe lửa đã đặt vé từ trước khá lâu, và họ đã có chỗ. Một số khác lại mua vé vào phút chót, cuối cùng cũng có chỗ dành cho họ, và họ cũng đến được nơi giống những người đã đặt vé rất lâu từ trước. Ông của tôi cũng vây, ông cũng đã đạt đến quê trời vào những giây phút muộn màng trong cuộc đời mình. Điều này khiến chúng tôi là những lớp trẻ hàng con cháu cảm thấy rất an lòng.
Thiết nghĩ, điểm nhấn của dụ ngôn, là Đức Giêsu muốn những người được gọi mướn đầu tiên, phải biết quảng diễn lòng thương cảm đối với những thợ khác được gọi mướn trễ hơn. Nhưng làm cách nào để có thể khơi dậy lòng yêu thương này, vẫn còn là một vấn đề nhức nhối và khó chịu đối với chính cá nhân tôi.
Một phụ nữ cùng học Kinh Thánh với tôi trong nhiều năm, đã giúp tôi hiểu dụ ngôn dưới một góc cạnh khác. Chị ta là một phụ nữ đơn độc, một mình nuôi 3 đứa con nhỏ sau khi ông chồng bỏ rơi chị. Chị ta ít học, lại không có kinh nghiệm quán xuyến gia đình và ít khả năng giao tiếp. Ngày này sang ngày khác, tại văn phòng xin việc làm, chị ta vẫn kiên nhẫn xếp hàng đợi chờ, mặc dù hy vọng của chị rất mong manh.
Khi đọc dụ ngôn hôm nay, chị ta mới khám phá ra một điều, là những người thợ đứng đó suốt cả ngày để chờ được thuê mướn, không phải là những con người biếng lười. Họ sẵn lòng đi làm nếu có người đến thuê họ. Nhưng họ phải chịu đứng không và vẫn chờ, vẫn đợi, có lẽ vì họ già yếu, không đủ sức khỏe, lại ít khả năng, và không thể đảm nhận những công việc nặng nhọc như những người khỏe mạnh khác. Những người thợ đứng đội nắng cả ngày không tìm được việc làm, giống như trường hợp của chị ta, một con người đã trải nghiệm sự nghiệt ngã khi cứ phải lặng lẽ đứng xếp hàng rồng rắn tại văn phòng xin việc làm, hết ngày này sang ngày khác, đầy kiên nhẫn.
Khi suy tư phần cuối của dụ ngôn, chị ta nghiệm ra rằng nếu ông chủ vườn có trả công cho người thợ đợi chờ suốt cả ngày, đồng đều như những người khác, điều đó cũng rất hợp lý. Như trường hợp của chị, làm sao chị có tiền để nuôi 3 đứa con? Những người thợ đã làm suốt cả ngày từ sáng đến chiều, họ cũng hài lòng vì họ đã được trả lương sòng phẳng để họ có đủ tiền trang trải chi phí, nuôi sống gia đình. Sự công bằng trong trật tự Nước Trời, chị ta suy luận, chính là ở chỗ tất cả mọi người vào giây phút cuối cùng trong ngày, đều có tiền để sống, không cần xem khả năng của họ ra sao. Sự công bằng của Thiên Chúa không phải là điều chúng ta đắc thủ được do công cán hay sức lực, và việc Thiên Chúa thưởng công cũng không phải được cân đo theo khả năng làm việc của từng người.
Cách giải thích này, xem ra gần sát với cái nhìn của những khán giả khi nghe Đức Giêsu giảng dạy. Họ là những con người đang đói, đang khát, đang phải đấu tranh để được sống. Lời khẳng định của ông chủ vườn nho, là ông ta đã không hành xử bất công đối với những người thợ đầu tiên, là một thách đố đối với những ai đang giữ những vị thế đặc quyền trong xã hội bấy giờ, để giúp họ giám định lại cảm thức của họ về sự công bằng xem như thế nào. Những người thợ làm từ sáng đâu có thiệt thòi gì, đâu có lỗ lã gì, nếu những người làm sau hết cũng được trả lương giống như họ.
Câu hỏi của ông chủ vườn nho trong câu 15 của bài Tin mừng hôm nay, đã nêu bật sự ghen tương, chính là đầu mối gây ra biết bao đổ vỡ trong đời sống cộng đoàn. Ông chủ đã nêu câu hỏi “ Hà cớ gì mà mắt bạn ghen tị khi thấy tôi đối xử tốt lành (agathos) như thế? Câu hỏi đó gợi nhắc lòng nhân hậu của Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên mọi người cách đồng đều, không loại trừ ai. Nó cũng đá động đến khó khăn thường xảy ra nơi chúng ta, vì con người chúng ta bản tính hay ghen tị khi thấy người khác cũng được hưởng nhận sự tốt lành từ nơi Thiên Chúa, ngay cả khi cuộc sống chúng ta đã đầy ắp ân huệ được Thiên Chúa ban trao một cách nhưng không, chỉ do lòng tốt của Ngài mà thôi. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng, sự công bằng mà Thiên Chúa thực thi hoàn toàn không theo nguyên tắc quy phạm và đường lối xét định của con người. Thiên Chúa yêu thương con người, không phải vì con người xứng đáng hưởng nhận tình yêu ấy. Nhưng tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa yêu thương, chỉ vì Thiên Chúa muốn yêu thương con người.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Sao tôi lại làm người trong thân phận này? Vóc dáng không cao, khuôn mặt không dễ nhìn, sắc tộc vào hàng thiểu số, gia cảnh thì nghèo hèn, hoàn cảnh xã hội quá khó khăn...Rất nhiều nổi băn khoăn, đúng hơn là nổi bất bình cho số phận mình, số phận bị chiếu bởi ngôi sao xấu nào đó. Chập chửng vào tuổi thanh niên, nhiều bạn trẻ không ít lần phiền trách số phận bản thân với hiện trạng đang là của họ. Nhiều giấc mơ xuất hiện như một sự giải tỏa khát mong thầm kín: giá như tôi là thế này, giá như tôi được như kia...Trời xanh có công mình chăng khi có kẻ sinh ra đã là con vua, còn rất nhiều kẻ lại mang kiếp con nhà chùa?
Cùng với những người làm vườn nho từ sáng sớm hay gần cả ngày, chúng con lắm khi tự hỏi rằng chúng con cum cúp giữ đạo, chịu nhiều thua thiệt ở đời này so với rất nhiều bà con khác đạo và bà con không tôn giáo để rồi lại cũng sẽ lãnh mỗi người một đồng tiền lương sao? Nói gì đến bà con lương dân hay bà con khác đạo sống ngay lành, người thu thuế Chúa kể chuyện chỉ đấm ngực và xin: Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội, chưa hết, cái anh tử tội năm nào bị treo trên thập giá cạnh Chúa, chỉ với lời cầu xin: "lạy Ngài khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi" thì đều được công chính hóa, được phúc thiên đàng. Thế thì sự công bình ở đâu?
"Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy." (Is 55,8-9).
Tư tưởng của Ta: Mọi người đều là hình ảnh của Ta, đều là con cái của Ta. Tất cả mọi người, ngươi và người khác đạo hay người chưa biết Ta, thậm chí người đang không nhận Ta, hết thảy không phải là cái gì xa lạ nhưng chính là hình ảnh của Ta, hết thảy không phải là là người nô lệ, kẻ làm thuê nhưng là con cái của Ta. Ta là người Cha nhân hậu, thiện toàn, cho mưa rơi đều xuống trên người con lành thánh lẫn đứa con bất lương, cho mặt trời mọc lên soi người con công chính lẫn đứa con tội lỗi. Ta chẳng hề muốn một đứa con nào phải hư mất. Ta kiên nhẫn và tạo dịp thuận lợi để những đứa con hư hỏng biết ăn năn sám hối và được sống. Đã là con cái, thì với Ta, đứa nào cũng là quý giá và không có gì sánh được, thậm chí Ta vui mừng vì tìm được đứa con lạc đường, xa nhà, hơn là chín mươi chín đứa con đang ở trong gia đình.
Vấn đề là ngươi cố tìm hiểu tư tưởng của Ta, tấm lòng của Ta. Hiểu được lòng trí của Ta thì ngươi sẽ nhận ra người đồng loại, dù đó là người tội lỗi, người khác niềm tin, người khác chính kiến...họ thảy đều là anh chị em của ngươi. "Anh em như thể tay chân". Ước gì ngươi cảm nhận được chân lý này.
Đường lối của Ta: Ta xử với con cái không như chúng đã làm, mà như chúng đang là. Ông chủ vườn nho đã đối xử với với đám nhân công không như họ đã làm được những gì, mà như họ là công nhân của ông ta. Có thế thôi. Vậy, Ta vốn là người Cha giàu lòng thương xót lại không đối xử với đàn con như chúng là con của Ta, những đứa con mà ta đã nhận làm dưỡng tử qua chính Con Một Ta hay sao?
Chính các ngươi là người cha, người mẹ trần gia,n còn vương nhiều điều gian ác mà còn biết lấy của tốt mà trao cho con cái, còn biết lo lắng cho đứa con trong nôi chưa làm được sự gì, một lẽ tất yếu là vì chúng là con cái các ngươi. Thế thì sao các ngươi lại bực mình khi Ta tỏ lòng nhân hậu với những người hèn kém, những người tội lỗi...vì chúng nó là con cái của Ta, cũng như các ngươi.
Tư tưởng của các ngươi và đường lối của các ngươi tuy có bị tội lỗi làm sai lệch nhưng tiên vàn vẫn là do Ta đặt để ngay từ đầu buổi tạo dựng. Chính vì thế, tư tưởng của Ta và đường lối của Ta tuy có cao xa hơn tưởng và đường lối các ngươi nhưng vẫn có nét nào đó nơi tư tưởng và đường lối các ngươi, dĩ nhiên là chúng cần phải được chỉnh hướng.
Một vài cách thế chỉnh hướng tư tưởng và đường lối của các ngươi: Hãy mở lòng đế lắng nghe lời Con Một của Ta, Giêsu Kitô:
1. Lạy Cha chúng con ở trên trời (Mt 6,9): Lời kinh nguyện duy nhất mà Con Một của Ta chỉ dạy các ngươi khi cầu nguyện, nhắc nhở các ngươi hãy xác định đúng vị thế các ngươi trước mặt Ta và trước tha nhân, bất kể họ là người thế nào. Ta là người Cha duy nhất và tất cả các ngươi đều là anh chị em với nhau cùng với người anh cả là Con Một của ta nhập thể làm người, Giêsu Kitô. Các người đừng quên rằng sự thường trong các buổi cử hành Phụng vụ, các người đều có cất lên lời kinh nguyện này: Lạy Cha chúng con ở trên trời...
2. Những gì các ngươi muốn người ta làm cho mình thì hãy làm những điều ấy cho người ta (Mt 7,12). Không dừng lại ở thái độ tiêu cực là đừng làm cho tha nhân những gì mình không muốn tha nhân làm cho mình mà cần phải tích cực làm những điều tốt đẹp cho tha nhân. Vì tất cả lề luật và lời Ngôn sứ đều quy về đó. Điều này sẽ thành hiện thực khi các ngươi chân nhận tha nhân là huynh đệ nghĩa thiết của các ngươi.
Đã là huynh đệ nghĩa thiết, tình như thủ túc, như chân tay mình, như chính bản thân mình thì chuyện ganh tị, đố kỵ sẽ chẳng còn lý do gì để tồn tại.
Trở lại với sự băn khoăn hay nổi bất bình về số phận xem ra chẳng may của nhiều người thì thú thật sẽ khó có lời giải thích thỏa lòng. Cùng tốt nghiệp cử nhân hạng ưu như nhau, nhưng một bạn trẻ xuất thân từ gia đình nghèo hèn, thiếu điều kiện, sẽ có niềm vui khác xa một bạn trẻ con nhà giàu có, đủ đầy điều kiện. Một thực tế của cuộc sống, hy vọng có thể giúp nhiều người thoạt sinh ra đã ở trong hoàn cảnh thiếu may mắn, xét dưới nhãn quan nhân loại. Dù Hy Lạp hay Do Thái, dù nô lệ hay tự do thì cái đích đến là được làm con cái Chúa, được hưởng hạnh phúc Nước Trời, thì đều ở trong tầm tay của mọi người. Hơn nữa dưới nhãn quan Tin Mừng thì những người xem ra kém may mắn, lại có nhiều thuận lợi để đạt đến hạnh phúc Nước Trời hơn. Chúa Kitô đã khẳng định chân lý này qua các mối phúc, cũng như các mối họa (x. Lc 6,20-26).
Dù ta ở trong hoàn cảnh thuận lợi hay không thuận lợi theo nhãn quan nhân loại hay theo nhãn quan Tin Mừng thì mọi sự tốt đẹp đều là có thể, nếu như chúng ta xem nhau như anh chị em. Xin được kết thúc những dòng chia sẻ này bằng câu chuyện sau: Trong một cuộc thi điền kinh môn chạy đường dài (Maraton), có hai anh em ruột cùng tham gia thi chạy với nhiều người khác. Còn khoảng một trăm mét là đến đích, về nhất. người anh ngoái đằng sau thấy em mình cũng bỏ đoàn chạy phía sau khá xa, nhưng dường như đạng bị chấn thương nào đó nên phải khập khểnh trên đoạn đường cuối. Người anh dừng lại chờ người em đến và dìu người em chạy nốt đoạn ngắn còn lại. Đứng trước vạch đích, hai anh em cùng hô một hai ba: chạm đích. Ban tổ chức hôm ấy đã phải trao hai huy chương vàng, dù không thể tiên liệu. Mọi sự đều là có thể trong tình yêu, vì "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1 Ga 4,8).
15. Đừng so sánh.
Tại các thành phố hiện nay, cơn sốt về nhà đất mỗi ngày một gia tăng. Một mảnh đất hôm qua chẳng có giá trị gì, thế mà hôm nay có thể trở thành tài sản lớn.
Có một bác nông dân sống ở ven đô, bác nhẩm tính trong đầu rằng: Theo thời giá, miếng đất của bác có thể bán được hai mươi cây vàng. Nhưng rồi có người đến trả cho bác những hai mươi lăm cây. Bác mừng rỡ bán vội.
Liền sau đó, người bên cạnh bán miếng đất chỉ bằng nửa miếng đất của bác mà cũng được hai mươi lăm cây. Bác tiếc ngẩn tiếc ngơ và lên tiếng cự lại người mua hai miếng đất ấy. Và người mua đã trả lời bác:
- Này bác, bộ tôi phỉnh gạt bác à. Bác đã chẳng thỏa thuận với tôi hai mươi lăm cây sao? Hay là bác ganh tị vì tôi đã rộng lượng.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay và tự hỏi: Chúa Giêsu muốn đưa ra bài học nào? Và trong cuộc sống, đám thợ trước được sánh ví với ai? Còn đám thợ sau được tượng trưng cho hạng người nào?
Chúng ta có thể trả lời: Những kẻ được thuê sau là những kẻ tội lỗi vào thời Chúa Giêsu, họ đã lắng nghe lời Chúa và đã sám hối ăn năn. Còn những người được thuê trước là bọn Biệt phái. Họ giận dữ vì thấy những kẻ tội lỗi sám hối được vào nước trời, và cũng lãnh nhận phần thưởng y như họ. Thái độ của họ có thể sánh ví với thái độ của một ai đó đã lên tiếng chỉ trích Chúa, vì Ngài đã tha thứ cho tên trộm lành trên thập giá vào những giây phút cuối cùng:
- Hôm nay anh sẽ lên thiên đàng cùng Ta.
Từ thái độ của bọn Biệt phái, chúng ta nhận thấy: rất nhiều lần chúng ta cũng đã cư xử với những người chung quanh giống như họ. Chúng ta cảm thấy bực bội tức tối khi người khác giàu hơn chúng ta, đẹp hơn chúng ta, giỏi hơn chúng ta và gặp nhiều may mắn hơn chúng ta. Chúng ta đã ghen tị với họ.
Khi cư xử như thế, chúng ta đã phạm phải một sai lầm lớn là đã xét đoán họ theo những tiêu chuẩn thế gian, chứ không phải theo những tiêu chuẩn của Chúa. Đường lối của Chúa không giống với đường lối của thế gian, như lời thánh Phaolô diễn tả:
- Thiên Chúa đã cố ý chọn những gì thế gian xem là vô nghĩa để làm bẽ mặt đám người thông thái, và Ngài đã chọn những gì thế gian cho là yếu nhược để khiến đám thế lực phải hổ thẹn. Ngài đã chọn điều thiện họ chê bai, khinh bỉ để tiêu hủy những gì thiên hạ cho là quan trọng.
Trong bàn tay của Thiên Chúa, thì một chiếc màng nhện cũng có thể trở nên một bức tường thành bảo đảm an toàn cho chúng ta ẩn náu. Và như thế, đoạn Tin mừng mời gọi chúng ta đừng so sánh mình với người khác mà hãy chấp nhận hiện trạng của mình, như lời thánh Phaolô:
- Mỗi người nên suy xét về cách cư xử của mình. Nếu là tốt thì có thể hãnh diện về điều mình làm, nhưng chớ nên so sánh với điều người khác đã làm. Xét cho cùng, điều quan trọng trong cuộc sống hiện tại không phải là những gì thiên hạ nghĩ về chúng ta, hoặc chúng ta đã làm việc thế nào trong vườn nho của Chúa, nhưng điều quan trọng đó là, Thiên Chúa sẽ nghĩ gì về chúng ta và nhất là về tình yêu mà chúng ta đã dành cho Ngài trong suốt dọc cuộc đời chúng ta.
16. Lý lẽ của trái tim – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Khi nghe dụ ngôn này có nhiều người thắc mắc: Chúa có công bằng không khi ban thưởng cho người làm ít cũng bằng người làm nhiều? Hỏi như thế là chưa hiểu rằng đây chỉ là một dụ ngôn. Dụ ngôn không phải là một chuyện có thật. Nhưng chỉ là một câu chuyện dùng làm hình ảnh để giải nghĩa giáo lý của Chúa. Trong dụ ngôn, Chúa không có ý dạy về những kiến thức trần gian, nhưng muốn nói về những chân lý Nước Trời. Những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua dụ ngôn ‘Người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một’ này là:
1) Chúa yêu thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ. Vườn nho tượng trưng cho Nước Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê là người được mời gọi vào Nước Chúa. Tiền lương là sự sống trong Nước Chúa. Hình ảnh ông chủ ngày ngày ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh của Chúa yêu thương. Không phải ta đi tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm ta. Không phải tìm một lần mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người, thì những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Việc Chúa thuê hết mọi người từ sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, tất cả nói lên lòng yêu thương của Chúa. Chúa muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.
2) Hạnh phúc Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể được vào vườn nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban hạnh phúc Nước Trời thì chẳng ai có thể tự mình chiếm lấy được. Việc Chúa ban thưởng cho những người được thuê mướn cuối cùng trước những người được thuê mướn đầu tiên làm nổi bật chân lý này: Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Ân huệ phát xuất từ tình thương của Chúa chứ không do công đức của ta. Vì thế chẳng ai có quyền đòi hỏi. Hơn nữa, ơn Chúa ban vượt quá sức, quá lòng mong ước của ta. Hiểu biết điều này, ta sẽ không ngừng tạ ơn Chúa.
3) Chúa yêu thương và mong ta biết yêu thương như Chúa. Những người thợ làm từ sáng sớm không có gì để kêu trách Chúa về tiền lương, vì đã được thỏa thuận từ trước. Họ chỉ kêu trách vì thấy người làm ít cũng được như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ của Chúa. Đó là điều vô lý. Và Chúa đã nêu rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách vì tôi tốt bụng? Phần mình đã được rồi, tại sao không vui mừng vì những anh em kém cỏi, kém may mắn cũng được ân huệ vào phút chót. Qua điều này Chúa muốn dạy ta hãy biết yêu thương những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn. Một xã hội muốn tốt đẹp phải biết giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội chỉ thực sự văn minh khi biết quan tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật đẹp đẽ vì chan chứa tình người.
Qua dụ ngôn này ta thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng của con người. Cách cư xử của Nước Trời khác hẳn cách cư xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Không tìm lợi lộc cho bản thân nhưng lo tìm hạnh phúc cho người khác. Không trọng sang khinh hèn, nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của con tim, một con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người. Chúa mong con cái Chúa cũng hãy có tư tưởng của Chúa, cư xử như Chúa và yêu thương như Chúa. Như thế mới có thể làm cho Nước Chúa mau lan rộng.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu được đường lối Chúa và cho con luôn đi trong đường lối của Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Công bình tuyệt đối có làm cho con người hạnh phúc không, hay là còn cần tới bác ái nữa?
2) Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy tôi điều gì?
3) Nếu bạn là người tàn tật, yếu ớt, thất bại, bạn mong chờ điều gì nơi xã hội: công bình hay bác ái?
17. Suy niệm của Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
TA CÓ CHẤP NHẬN ĐỂ CHO
PHÚC ÂM LÀM TA SỬNG SỐT HAY KHÔNG?
Chúa Giêsu theo thói quen thường dùng dữ kiện trực tiếp có sẵn trước mắt các môn đệ để xây dựng một câu chuyện. Những dữ kiện đó là mùa nho chín cần phải hái mau, là hiện tượng thất nghiệp trong một xã hội đang gặp khủng hoảng kinh tế, là số tiền lương một đồng tương xứng với mức sống tối thiểu. Bắt nguồn từ đấy, Chúa Giêsu tưởng tượng ra một dụ ngôn và qua đó Chúa muốn luồn vào một lời giáo huấn. Ngài muốn làm cho người ta hiểu rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ theo kiểu các chủ nhân trên trái đất này. Những người này có bổn phận giữ sự công bằng đối với thợ thuyền. Còn Thiên Chúa, Người không tự nhận là có một bổn phận như thế đối với loài người, vì Người đứng ở bên kia sự công bằng của loài người. Sự công bằng được giới hạn ở những gì chúng ta mắc nợ. Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có một số tiền công tương xứng của một ngày, không có gì hơn. Và với sức cố gắng của suốt một giờ, lẽ công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương xứng với một giờ, cũng không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng nhân từ. Và lòng nhân từ không có giới hạn nào hơn là khả năng ban phát. Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, Người có khả năng vô biên, Người không có giới hạn. Lòng nhân từ đi xa hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa muốn cần tới các tay thợ để hái quả trong vườn nho của Người. Một sự công bằng tối thiểu được bảo đảm, nếu họ quyết tâm ở trên bình diện ấy, nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm nữa nếu họ có tấm lòng khá rộng lớn. Dụ ngôn này nhắc lại cho ta là phải tránh suy nghĩ về Thiên Chúa theo kích thước của loài người. Sự nhắc lại này thích đáng một cách đặc biệt ở thời đại ta, lúc mà những khối óc cho mình là Kitô hữu đang cố gắng lôi kéo Phúc âm xuống ngang hàng với tư tưởng của loài người trong lúc cần phải nâng cao nhân tính lên tới trình độ của Phúc âm.
1) Trình độ của Phúc âm là trình độ của Tình yêu, mà một trong những dấu hiệu bên ngoài là lòng nhân từ. Dụ ngôn nhấn mạnh ở một khía cạnh chính yếu của lòng nhân từ, đó là sự tự do. Chớ thì tôi không được sử dụng của cải như sở thích của tôi sao? Sự công bằng không được tự do, nhưng bị ràng buộc do bổn phận và những gì ta nợ người khác. Lòng nhân từ, trái lại, không bị ràng buộc bởi khế ước. Nó chỉ biết một điều tất yếu duy nhất, phát xuất từ chính lòng nhân từ và thúc giục phải ban phát, nó không muốn tạo ra nơi người thụ hưởng của ban phát bổn phận phải đền trả. Nó ban phát nhưng không. Điều này không có nghĩa là nó không chờ đợi một sự đáp ứng nào. Nó chờ đợi người ta nhìn nhận, nghĩa là chờ đợi ở con người một hành động ý thức và tự do là nhận biết từ đâu và do kẻ nào mà có những ân huệ mà con người đang thụ hưởng, một lòng biết ơn được diễn tả cách thông thường qua những lời cám ơn lòng tri ân và những lời ca ngợi. Lòng nhân từ của Chúa nói lên sự tự do của Chúa lúc ban phát và sự tự do của con người lúc đón nhận.
2) Trình độ Phúc âm còn làm xáo trộn cách thức suy nghĩ của loài người. Dụ ngôn làm người Biệt phái phải sửng sốt vì nó đặt người ngoại giáo, những kẻ đến sau, ngang hàng với con cái Israel trong Nước Trời. Mục đích của dụ ngôn là làm cho cả ta cũng phải ngạc nhiên, bởi lẽ trong cộng đoàn Kitô giáo và ngay cả trong sự cố gắng hàng ngày của ta để sống trung thành, có lẽ ta cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình công nghiệp, quyền lợi và nhiều đòi hỏi. Hãy để ý và khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản độc nhất của lòng nhân từ Thiên Chúa. Hãy xin Chúa ban cho ta cũng như cho anh em ngoại giáo không phải những gì tương xứng với sự công bằng, nhưng những gì mà lòng nhân từ của Người gợi ra.
Anh chị em thân mến.
Sự ích kỷ và lòng ghen tỵ, làm cho con người mất hết lý trí nên đưa đến sự tàn ác. Câu chuyện cổ tích Tấm và Cám nói lên điều đó.
Trong một gia đình, đôi vợ chồng trẻ có được một người con gái xinh đẹp, nhưng người vợ không may mất sớm. Người chồng kết hôn với một người đàn bà khác, bà ta cũng có một người con gái. Tưởng rằng con mình có người để chơi đùa vui vẻ, nhưng không ngờ, những ngày gian khổ đến với tuổi thơ quá sớm. Người cha lo bận rộn công việc bên ngoài không biết con mình cực khổ như thế nào. Còn đứa con thì không dám nói điều gì: trước hết vì thương cha, không muốn cho cha phải lo lắng, đồng thời cô cũng bị hai mẹ con của nhà kia răn đe, nếu cho cha biết, họ sẽ hành hạ trả thù.
Việc gì đến cũng phải đến. Sự ích kỷ, lòng ghen tỵ thì lãnh phần của sự ích kỷ ghen tỵ. Sự nhẫn nại ngay thẳng thì được phần thưởng xứng đáng với những gì đã làm. Hai người làm điều ác hại người thì lãnh phần những gì mình gây ra. Còn người con gái nhân hậu thì lãnh phần thưởng xứng đáng của lòng nhân hậu.
"Nầy bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy lãnh phần của bạn mà đi về".
Những người đã thoả thuận, nhưng giờ đây họ muốn hơn những gì mình thoả thuận, họ muốn hơn những gì mình đáng được. Họ nhìn vào người khác và họ tự cho mình có công hơn người khác. Họ nhìn vào những gì người khác được, nên họ muốn mình phải hơn những gì người khác có, vì họ cho mình có quyền như thế. Khi họ không được những gì mình muốn, họ tự cho mình quyền phê bình, chỉ trích, phán đoán người khác, ngay cả người có quyền trên họ mà họ cũng không hay biết. Khi đó họ chỉ còn nhìn thấy có bản thân mình, đòi hỏi lợi lộc riêng tư cho mình mà không cần biết đến người khác như thế nào. Họ phê bình người khác không công bình theo như họ muốn. Những gì họ thoả thuận, họ không còn biết đến. Họ muốn hơn cái mình đáng được, họ cũng muốn mình được hơn những gì người khác được, mà không cần biết mình có xứng đáng hay không.
"Nầy bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy lãnh phần của bạn mà đi về. Hay mắt bạn ghen tỵ vì tôi nhân lành chăng?"
Lời phiền trách của ông chủ trong dụ ngôn đối với những người ghen tỵ, cũng là lời phiền trách chung cho mọi người của mọi thời đại. Sự ích kỷ và lòng ghen tỵ vẫn tồn tại mãi trong con người, cả chúng ta nữa cũng không bị loại trừ ra cái thường tình của con người như thế.
Mỗi người trong chúng ta tự nhìn vào chính mình, nhìn qua những gì mình đã được, những gì chưa được mà đang ước muốn, nhìn vào cả những thực tại mà mình đang toan tính để đạt được. Có những điều mà mình quyết tâm đạt cho được những lợi nhuận, danh dự, những điều để thoả mãn tính tự phụ, nên dùng mọi thủ đoạn, mọi hành vi bất chính để đạt kết quả. Những lúc đó chúng ta có nói đến sự công bình trong cuộc sống không? Hay chúng ta không dám nói đến. Những lúc nhìn thấy người khác thành công mà mình thất bại, chúng ta cảm thấy khó chịu, bực mình. Càng khó chịu hơn khi thấy người khác không đạo đức, không tài năng, không có công trạng bằng mình, mà họ lại được ưu đãi hơn thì không thể nào chấp nhận được. Những lúc đó nếu chúng ta chịu bình tâm suy nghĩ và nhìn lại để đừng thốt nên những lời kêu ca phiền trách, thì thật là phúc cho chúng ta. Nếu chúng ta phiền trách thì coi chừng sẽ nhận được lời nói cứng rắng như trong dụ ngôn: "Nầy bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy nhận phần của bạn mà đi về".
Những lúc chúng ta nhận được hồng ân Chúa, được thành công, đươc niềm vui bất ngờ, nếu chúng ta cảm nhận được mà biết tạ ơn Chúa thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Nếu chúng ta nhận ra được con người của chính mình không đáng là chi với những hồng ân Chúa ban, thì chắc là trong cuộc đời chúng ta không bao giờ dám kèo nài, trả giá và phiền trách Thiên Chúa của chúng ta được. Những lúc chúng ta không đạt được những gì như ý muốn, nếu chúng ta biết nhìn lại để cố gắng hơn với tất cả lòng chân thành, thì Thiên Chúa không bao giờ từ chối những gì phát xuất từ lòng chân thành.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết vui lòng chấp nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời.
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương)
Theo quan niệm thông thường, thì ai làm nhiều sẽ hưởng tiền lương nhiều, ai làm ít thì hưởng ít. Thế nhưng câu chuyện trong Tin mừng hôm nay không như vậy. Người làm suốt ngày chỉ nhận được một đồng và người làm chỉ một giờ thôi cũng nhận được một đồng. Xem ra có vẻ bất công! Chủ vườn nho đó lại là chính Thiên Chúa. Điều này làm cho chúng ta ngạc nhiên. Ngay cả những người thợ làm từ giờ thứ nhất cũng đã lẩm bẩm trách chủ như thế là không đúng. Nhưng đó là cách thức hành động của Thiên Chúa. Thiên Chúa hành động khác với con người. Nói như ở bài đọc I là: "Vì tư tưởng của ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của ta".
Vậy thì dụ ngôn chủ vườn nho nói với chúng ta điều gì?
Trước hết dụ ngôn muốn nói với chúng ta rằng: - Thiên Chúa hành xử với chúng ta phải dựa trên sự công bằng nhưng là dựa trên tình yêu. Những người làm giờ thứ nhất được trả một đồng là theo tiêu chuẩn công bằng mà họ đã thỏa thuận. Nhưng những người làm giờ cuối cũng nhận được một đồng là theo tiêu chuẩn tình yêu.
- Dụ ngôn còn muốn nhận mạnh rằng: Nước Trời, Ơn cứu độ và ân sủng không phải là phần thưởng, là công trạng do công sức chúng ta làm nên, nhưng là quà tặng, là hồng ân của Thiên Chúa cho tất cả không có loại trừ ai.
Những người do thái thời Chúa Giêsu nghĩ rằng họ là những người thợ đầu tiên đáng hưởng một đồng, nghĩa là ơn cứu độ, còn những người khác thì không xứng đáng. Chúa Giêsu mang đến một sự mới mẽ qua dụ ngôn này là: Nước Trời, ơn cứu độ được ban tặng cho tất cả, kể cả những kẻ đến sau cùng, những kẻ tội lỗi và cả những người nhỏ mọn nhất nếu họ biết lắng nghe lời mời gọi trở về và cộng tác với Thiên Chúa.
Sự "vô lý" của Thiên Chúa là cơ hội cho chúng ta
Như thế, cách thức hành động của Thiên Chúa có vẽ là ngược đời, là vô lý, khác với lí luận của chúng ta. Hay như Đức Hồng Y Thuận nói cách dí dõm là: Thiên Chúa không biết tính toán! Nhưng chính sự "vô lý" của Thiên Chúa lại là cơ hội, là lối vào đưa chúng ta tới Thiên Chúa.
Nếu Thiên Chúa chỉ xét xử chúng ta theo sự công bằng thì chắc chắn chúng ta phải chết rồi vì chúng ta đã đắc tội với Ngài, chúng ta chẳng được quyền hưởng gì, vì chúng ta chẳng có công trạng gì với Ngài.
Nhưng nếu Thiên Chúa hành xử với chúng ta theo tiêu chuẩn tình yêu và lòng từ bi của Người, thì đó lại là hy vọng, là cơ hội cho chúng ta được cứu độ.
Vì thế, bất kỳ lúc nào, dù là giờ cuối cùng, bất kỳ hoàn cảnh nào, Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta trở về, cộng tác với Ngài trong vườn nho của Ngài, và dù làm nhiều hay làm ít Thiên Chúa cũng ban ơn cứu độ, ân sủng cách dồi dào cho chúng ta theo lượng từ bi nhân hậu của Ngài.
Tất cả chúng ta cũng được mời gọi đi vào logic của Thiên Chúa, logic của Tinh Yêu, của lòng quảng đại. Nghĩa là hãy vươn tới tầm nhìn của Thiên Chúa, hãy mặc lấy tâm tình và cách cư xử của Đức Kitô, như thánh Phaolô hôm nay nói: "Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô", để lượng giá cuộc đời, để nhìn đời và để đối xử với nhau cách lạc quan và vui tươi, hơn là dựa theo tiêu chuẩn tính toán, hẹp hòi ích kỷ, như những người thợ đầu tiên, thấy người khác thành công, được ưu đãi, may mắn là sinh ra ghanh tị và tìm cách đạp đổ. Vì bác ái là biết vui với người vui và khóc với người khóc.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Ngày nay có một điều khẳng định lớn lao mà mọi người thợ, dù là nam hay nữ, nếu họ cùng làm một công việc như nhau, cùng một chất lượng như nhau sẽ được trả bằng nhau. Đó chỉ là sự công bằng. Ngay cái nhìn đầu tiên vào người chủ nợ trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, người đã trả cho các người thợ cùng một mức lương dù có người chỉ làm có nửa giờ. Bạn sẽ trả cho những người thợ cùng một mức lương nếu bọn họ làm cùng một thời gian.
Một cách để cắt nghĩa hành động lạ lùng của người chủ này, không hề có sự bất công trong việc trả lương cho những người thợ, từ lúc bắt đầu cho đến khi chấm dứt, họ đã đồng ý chấp nhận mức lương công nhật rồi. Không có sự bất công khi trả lương cho những người thợ làm đầu tiên vì họ nhận đúng những gì họ đã đồng ý. Và phần lớn chúng ta đều không cảm thấy thoải mái về dụ ngôn này. Chúng ta đã không thấu đáo vấn đề.
Một bước nữa để chúng ta nhận ra mình phải thích ứng thế nào với dụ ngôn này. Không có lý do nào để chúng ta nghĩ rằng, chúng ta là những người đã làm việc lâu giờ và nhiệt thành cho Chúa mà chúng ta lại được giới thiệu như những người làm giờ thứ nhất, khi họ nói: “Chúng tôi đã làm suốt cả ngày dưới cái nóng gay gắt”. Thật sự chúng ta đã làm gì cho Chúa nếu chúng ta so sánh chúng ta với những vị thánh lớn trong suốt nhiều thế kỷ vừa qua? Và như vậy chúng ta sẽ không có gì phàn nàn về dụ ngôn này nữa.
Vẫn còn có nhiều ý nghĩa hơn ẩn chứa trong dụ ngôn này, hơn những gì chúng ta có thể khiêm tốn và thận trong áp dụng cho chính mình. Ý nghĩa đó được tỏ lộ qua những lời của vị chủ vườn. Khi người thợ làm vào giờ thứ nhất phàn nàn với ông. Ông đã trả lời cách mạnh mẽ “Tôi không hề để cho anh bị thiệt hại”. Và tiếp đó ông thêm một câu hỏi khó trả lời: “Không phải tôi được tự do sử dụng tiền theo ý tôi sao?” Đối với câu hỏi này, những người công nhân sẽ không có cách trả lời nào khác ngoài việc gật đầu xác nhận. Nhưng người chủ vườn còn nói thêm một câu tỏ lộ điều cốt yếu của dụ ngôn này: “Hay là anh ghen tị vì tôi quảng đại chăng?”
Tóm lại, dụ ngôn này nói về sự quảng đại của Thiên Chúa. Thật sự là tất cả những người thợ, ngoại trừ người cuối cùng, không biểu thị cho một nhóm người nào trong dân chúng. Chúa Giêsu bao gồm những người thợ làm sớm trong dụ ngôn chẳng qua vì người muốn nhấn mạnh rằng, Thiên Chúa luôn luôn công bình nhưng quan trọng hơn là Người rất quảng đại. Thiên Chúa quảng đại với hết thảy mọi người cuối cùng vào vườn nho biểu thị cho hết thảy chúng ta.
Thiên Chúa ban phát ân sủng của Người cho mọi người. Chúng ta không cần phải cố gắng tìm hiểu tại sao một số người có vẻ như coi thường ân sủng của Thiên Chúa. Nỗ lực của chúng ta sẽ đặt vào việc nhận biết những ân sủng quảng đại của Thiên Chúa ban xuống trên chúng ta. Người đã ban cho chúng ta đời sống, gia đình, thế giới mà chúng ta đang sống và Người đã ban cho chúng ta đức tin công giáo. Tất cả những điều này đều là ân sủng, là đặc ân đến từ Thiên Chúa. Không có gì dù đơn sơ mặc lòng mà chúng ta có thể làm để đáng được hưởng phúc lành của Thiên Chúa.
Sự quảng đại của Thiên Chúa được biểu lộ trong suốt phụng vụ hy tế Thánh Thể. Người nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt và Máu của người con Thần linh của người. Chúng ta thú nhận sự bất xứng của mình: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con”, những vị thánh cao cả nhất cũng không xứng đáng với Thánh Thể, và các ngài còn không được hưởng dồi dào bí tích ấy như chúng ta. Sau khi chúng ta thú nhận sự bất xứng của mình. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến với Người để lãnh nhận Mình và Máu Người trong đức tin.
Và nhờ đức tin đó mà chúng ta không bao giờ phàn nàn với Thiên Chúa như những người thợ đã làm đầu tiên, nhưng luôn luôn biết dâng lời tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa, Đấng cao vượt hơn cả trí tưởng cuả chúng ta là sự quảng đại của người dành chúng ta.
21. Đường lối của Thiên Chúa
(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55,8).
Đường lối của Thiên Chúa là gì? Suy tư về câu hỏi này, chúng ta thấy có hai nguy cơ trước mắt. Nguy cơ đầu tiên, là nhiều người sẽ cảm thấy khó chịu và không lý giải được, khi họ muốn biết xem Thiên Chúa hành xử thế nào, hoặc đòi hỏi điều gì nơi họ. Từ đó dễdẫn họ đến thái độ vô tín, không còn tin vào Thiên Chúa nữa. Bởi lẽ, nếu đường lối của Thiên Chúa đưa ra nhằm đánh đố con người, hay để lừa lọc những kỳ vọng nơi con người chúng ta, thì thử hỏi, còn tin vào Thiên Chúa để làm gì nữa. Nguy cơ thứ hai, là nhiều người khác lại quá cứng nhắc để dấn bước, tuyệt đối tin tưởng rằng đường lối Thiên Chúa đã vạch dẫn một cách quá rõ ràng qua mạc khải của Thánh Kinh, qua truyền thống của Hội Thánh, hoặc qua những chỉ huấn của Giáo hội. Họ không cần phải khám phá và tìm tòi. Họ cũng chẳng cần phải thắc mắc làm gì, vì đường lối của Thiên Chúa đã quá hiển nhiên và rõ ràng.
Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta đang toan tính quay lưng lại với Thiên Chúa, chúng ta vẫn bị cám dỗ muốn tinh giản đường lối Ngài qua một vài điều mà chúng ta nghĩ rằng chắc chắn Thiên Chúa sẽ thực hiện thánh ý Ngài giống như vậy. Khi chúng ta xác tín là mình đã thấu tỏ đường lối của Thiên Chúa một cách rõ ràng, chúng ta thường dễ dị ứng với ý tưởng cần phải sáng tạo hoặc cần mở lòng để Thiên Chúa có thể thực hiện một điều gì đó mới mẻ nơi chúng ta. Đồng thời, chúng ta hay có khuynh hướng giản lược mối thân tình của chúng ta với Ngài bằng một vài định thức có sẵn, chẳng cần phải phát huy sáng kiến hay tìm tòi. Ngôn sứ Isaia đã khuyên mời các đọc giả hãy sửa đổi quan niệm này. Ông nói “Hãy tìm Đức Chúa khi Ngài còn cho gặp, hãy kêu cầu Chúa khi Ngài còn ở gần bên. Kẻ gian ác hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương hãy bỏ tư tưởng mình đang có”. Trong mạch văn này, vị ngôn sứ có dụng ý nói về kế hoạch của Thiên Chúa muốn cứu Israel, và Thiên Chúa khẳng định “Tư tưởng của Ta, không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta”.
Khi đề cập đến việc đừngnên biến tướng đường lối của Thiên Chúa, và đừng cố tìnhlàm méo mó ý định của Ngài, Isaia muốn nhắc nhở dân Israel năm xưa, cũng như nhắn gửi chúng ta hôm nay một điều rất quan trọng. Đó là, khi chúng ta không thấu hiểu được cách thức Thiên Chúa hành động trong thế giới hay trong cuộc cuộc sống hiện sinh của chúng ta hôm nay, đan xen giữa bao hỗn độn và mơ hồ, chúng ta vẫn phải tin tưởng tuyệt đối rằng Thiên Chúa đang lèo lái, và dẫn dắt cuộc đời củachính chúng ta. Ngài vẫn đang thực hiện những kế hoạch mang lại thiện ích cho thế giới, và kéo mọi sự dữ ra khỏi cuộc sống của ta. Liệu chúng ta có xác tín như thế không? Đối với tất cả những ai nắm bắt được Thiên Chúa, đấng là căn nguyên mọi sự, thì họ sẽ cảm nhận ra Ngài luôn hiện diện và hành động trong cuộc đời này, ngay cả khi chúng ta không am hiểu đường lối Ngài.
Thánh Phaolô đã bị tống ngục, và chúng ta cũng không biết chính xác Ngài bị giam cầm ở đâu. Ở trong tù, Ngài đã viết một lá thơ cho giáo đoàn Philip. Trong thơ, Ngài đối diện với vấn đề là phải luôn tin tưởng vào Thiên Chúa, ngay cả khi Ngài không hiểu Thiên Chúa muốn dẫn dắt Ngài đi đâu và đi như thế nào. Việc Ngài ngồi tù rồi sẽ ra sao, Ngài không biết. Những hành hạ và khổ nhục chốn lao tù xảy ra khiến Ngài có thể phải chết, nhưng Ngài vẫn tin tưởng rằng cái chết đối với Ngài là cửa ngõ dẫn đưa Ngài vào sự thông hiệp trọn vẹn với Đức Kitô, nên Ngài đã diễn tả “ Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”. Tuy vậy, dù Ngài mong muốn “chết để được nên một với Đức Kitô”, Ngài vẫn hy vọng “còn ở lại trong thân xác”, và Ngài thấy điều đó “cần thiết hơn, vì thiện ích của anh em”. Mong ước sâu xa nhất của Thánh Phaolô là Ngài muốn hoàn toàn quy thuận đường lối của Thiên Chúa, cho dù Ngài không hề biết thánh ý của Thiên Chúa muốn thánh nhân phải dấn bước theo nẻo đường nào.
Đặc biệt giữa cơn khủng hoảng và chao đảo trong tù ngục, sự khôn ngoan của Thánh Phaolô lại càng trổi trang hơn.Ngài đã nhắn nhủ giáo đoàn Philip một phương thức sống rất giản đơn, là“Anh em hãy ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng Đức Kitô” (Phil 1,27). Để thực hiện điều đó, chúng ta phải chuẩn bị hầu biết chấp nhận dấn bước trên những nẻo đường dẫn đến những nơi mà chúng ta không muốn đến, nhưng những nơi đó vẫn luôn vang vọng lời mời gọi của Thiên Chúa gửi trao cho chúng ta.
Tin mừng Matthêu kể lại dụ ngôn về Nước Trời, qua hình ảnh ông chủ vườn nho đi tìm thợ đến làm vườn cho mình. Vài người thợ được mướn vào buổi sáng từ 6 giờ, hay từ 9 giờ. Một số khác được mướn trễ hơn, vào ban trưa, hoặc xế chiều, lúc 3 hoặc 5 giờ chiều. Tất cả đều được trả công đồng đều, giống hệt nhau, cho dù họ bắt đầu làm việc vào nhữngthời điểm khác nhau. Dụ ngôn có đá động đến việc Thiên Chúa đối xử không công bằng. Lời cằn nhằn của những người thợ được mướn từ sáng sớm, nêu bật ý nghĩa trọng yếu của dụ ngôn: Đó là, lòng quảng đại của Thiên Chúa trao ban cho những người thợ bắt đầu làm việc vào lúc muộn giờ, không tương hợp với cách xử trí thông thường theo kiểu cách người đời. Nhưng nếu đọc kỹ dụ ngôn, chúng ta có thể trách cứ những người thợ đến làm từ sáng sớm. Họ ghen tỵ không đúng cách, vì những người thợ được mướn rất muộn màng, cho dù hầu như suốt cả ngày họ không làm gì, song thực chất họ vẫn đứng đó để chờ đợi trong sẵn sàng. Họ xứng đáng được thưởng công, bởi vì họ vẫn chăm chú đợi chờ, ngay cả khi niềm hy vọng của họ chỉ còn rất mong manh.
Đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người. Tư tưởng của Thiên Chúa không phải là tư tưởng của chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta luôn biết sẵn sàng trải lòng mình ra để Thiên Chúa thực hiện những điều mới mẻ, theo cách thế của Ngài, chúng ta sẽ tìm ra được lối bước mà Thiên Chúa muốn dẫn đưa chúng ta đi vào.
22. Tôi đâu có bất công.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong dụ ngôn người cha nhân hậu (Lc 15), chúng ta đã từng thấy thái độ của người con cả nổi giận không chịu vào nhà, vì anh thấy cha tỏ ra quá bao dung đối với đứa em hư đốn, chẳng những cha tha thứ mà còn mở đại tiệc ăn mừng.
“Đã bao năm con hầu hạ cha? thế mà chưa bao giờ? còn thằng con của cha đó... Vậy mà...”
Anh thấy mình bị cha đối xử bất công!
Trong dụ ngôn trên đây, người làm sớm cũng cằn nhằn vì ông chủ trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng.
Cả hai dụ ngôn đều phản ánh một căng thẳng có thực do việc Đức Giêsu thường giao du với tội nhân. Ngài quý trọng từng con chiên lạc, đem đến cho họ niềm vui sống và sự tự tin. Ngài mời họ hoán cải và hứa ban cho họ Nước Trời.
Như thế, rốt cuộc những người Do Thái tội lỗi cũng được hưởng hạnh phúc như các ông Pharisêu suốt đời tuân giữ chi li Lề Luật.
Người Pharisêu bị sốc vì thái độ của Đức Giêsu. Họ cảm thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm.
Khi nhìn thái độ bực bội của người làm từ sớm, chúng ta hiểu được thế nào là ghen tỵ.
Người làm sớm cằn nhằn ông chủ vườn nho không phải vì ông đã đối xử bất công đối với họ (họ vẫn được trả đủ tiền lương mà), nhưng vì ông đã trả cho người làm sau ngang hàng với họ, là những kẻ vất vả suốt ngày. Nếu ông trả cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu.
Người ghen tỵ không vui được với người vui vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không phải là bạn, nên sự thành công của ai đó trở thành nỗi đe dọa.
Đức Giêsu mời chúng ta đổi cái nhìn về Thiên Chúa.
Ngài công bình, nhưng không cứng nhắc trong luật lệ.
Ngài có trái tim để tự do yêu, có lòng tốt để bất ngờ trao tặng, Thiên Chúa là Thiên Chúa của người trộm lành, là chủ của người thợ chỉ làm có một tiếng.
Thiên Chúa công bình lại là người cha đầy yêu thương.
Đức Giêsu cũng mời ta đổi cái nhìn về tha nhân, bớt tự hào về mình, thêm trân trọng người khác, phá bỏ những hàng rào của nhỏ mọn, ghen tương.
Đến khi nào người con cả mới chịu vào nhà để niềm vui của cha, của em là của anh?
Đến khi nào người làm từ sáng sớm biết chia vui cùng người mới làm buổi chiều?
Đến khi nào tôi mới thật sự vui với người kế bên chỉ vì người ấy là bạn tôi?
Gợi Ý Chia Sẻ
Cain vì ganh tỵ đã giết em là Aben. Người ganh tỵ vừa hủy diệt người khác, vừa huỷ diệt chính mình. Có khi nào bạn nuôi lòng ganh tỵ, ghét ghen không? Làm sao để ra khỏi thái độ đó?
Bạn thấy “vui với người vui” dễ hay khó? Có khi nào bạn vui trước thành công của một người bạn hay của một người mà bạn không ưa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù ghét con.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong cuốn sách mang tựa đề: “Người đó, chính là bạn”, cha Louis Evely đã kể một câu truyện sau đây:
Trong một vở kịch, nhà đạo diễn Jean Anouilb đã dàn dựng cảnh ngày phán xét chung theo như ông tưởng: Những kẻ lành đang đứng trước cửa vào thiên đàng, chật ních, chen lấn để vào, chắc chắn thế nào cũng có chỗ sẵn. Hồi hộp, sốt ruột… Nhưng, bỗng nhiên, người ta bắt đầu xì xầm với nhau: “Hình như Thiên Chúa cũng tha thứ cho mấy người đứng bên kia nữa”. Thế là họ lại phải một mẻ ngẩn người ra. Họ nhìn nhau, không thể hiểu được. Họ la ó, phản đối. Họ bất mãn… “Vậy thì cần gì phải hy sinh khó nhọc cả đời…”. “Tôi mà biết vậy thì tôi đã ăn chơi cho đã đời…”. Gan mật họ sôi lên. Họ bắt đầu kêu la trách móc Thiên Chúa và cũng chính lúc đó, họ bị đày xuống hỏa ngục.
Cha Louis Evely giải thích: ‘Giờ phán xét đã điểm: họ đã tự xét xử lấy họ, đã tự tách mình ra khỏi hạnh phúc của Chúa. Tình yêu đã biểu hiện cho họ, nhưng họ đã từ chối không nhận tình yêu: “Tôi từ chối không chấp nhận cái thứ thiên đàng mà người ta vào như chợ. Tôi phản đối Thiên Chúa đã tha cho hết mọi người. Tôi không thích Thiên Chúa yêu thương cách mù quáng như thế”. Vì họ không thích Tình Yêu nên họ không nhận ra được Tình Yêu. Chỉ có Tình Yêu mới làm những chuyện như thế. Với Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng để đón nhận những chuyện bất ngờ như vậy”.
Cũng thế, thưa anh chị em, có lẽ ai trong chúng ta cũng bị chưng hửng trước cách ứng xử của ông chủ vườn nho mà Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta. “Tại sao ông chủ lại trả công cho mọi người bằng nhau, người chỉ làm có một giờ cuối ngày cũng được lãnh tiền bằng người đã làm trọn ngày nắng nôi nặng nhọc? Có phải ông chủ bất công hay không?”. Câu trả lời của ông chủ làm cho những công nhân và chúng ta phải ngạc nhiên thán phục: “Này anh, tôi đâu có xử bất công với anh. Anh đã chẳng thỏa thuận với tôi công nhật là một đồng sao? Cầm lấy phần của anh mà đi đi! Tôi không muốn cho người làm sau chót cũng được bằng anh. Tôi không có quyền làm thế sao? Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi tốt lành với những người khác?”. Quả thật, Thiên Chúa hành xử không theo sự công bằng của con người, nhưng theo lòng thương xót và tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Qua đó, chúng ta khám phá được một điều quan trọng là suy nghĩ và hành động của Thiên Chúa khác xa với suy nghĩ và hành động của chúng ta. Ngôn sứ Isaia đã nói rõ: “Chúa phán: tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta: Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu”.
Thưa anh chị em,
Nếu cứ theo lẽ công bằng thường tình của loài người chúng ta: người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều, người làm ít sẽ lãnh lương tí, thì hỏi rằng, người làm một tiếng đồng hồ sẽ được bao nhiêu tiền để đủ nuôi sống gia đình, con cái, đang túng thiếu, nghèo đói? Chính vì thương xót, thông cảm cảnh nghèo đói, thất nghiệp của các công nhân và vì muốn cho mọi người có công ăn việc làm, mà ông chủ đã mời gọi mọi người thất nghiệp vào làm việc bất cứ giờ nào, và đã trả lương cho mọi người bằng nhau, người đến sau cũng như người đến trước. Câu trả lời của ông chủ vườn: “Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi, tốt lành với người khác?”đã vạch ra tâm địa ích kỷ, hẹp hòi của nhóm công nhân làm từ đầu ngày. Lời đó cho thấy chính họ mới là kẻ bất công, vì không chấp nhận cho người khác có quyền sống hạnh phúc như họ. Tâm địa xấu xa của họ càng làm nổi bật lòng nhân nghĩa cao vời của ông chủ. Ông không đối xử với người ta theo tương quan buôn bán, tính toán, nhưng theo tương quan tình nghĩa và mời gọi người ta bắt chước cách đối xử tình nghĩa của ông.
Anh chị em thân mến,
Cách ứng xử của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn chính là cách ứng xử của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta hành động như thế đó. Thật là rộng lượng, nhân từ! Ngài mời gọi những người thu thuế, những người bị xã hội loài người khinh chê, loại trừ, những người tội lỗi, vào Nước Trời một cách rộng rãi, cho không, chẳng phải vì công trạng gì xứng đáng của họ. Người công chính, đạo đức, đừng vì thế mà ganh tị kêu trách Chúa bất công, giống như những người Biệt Phái Pharisêu đã kêu ca trách móc Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa đón nhận tất cả mọi người không trừ mộ ai, vì bản chất của Ngài là Tình Yêu. Chúng ta thường làm ngạc nhiên và bị “sốc”trước cách hành xử Thiên Chúa. Đôi khi chúng ta cũng có những phản ứng như những công nhân làm việc giờ đầu tiên hoặc như những kẻ lành trước cửa Thiên Đàng trong vở kịch Ngày phán xét chung của nhà đạo diễn Jean Anouilh: “Sao! Những tên đã sống một cuộc đời bừa bãi, bê bối, lung tung kia cũng được Chúa tha sao? Thậm chí những kẻ đã bách hại đạo Chúa, nếu sau này ăn năn hối cải, cũng xứng đáng được hưởng Nước Trời như người Kitô hữu nhiệt thành cả đời sao? Tên gian phi bị treo trên thập giá bên cạnh Chúa Giêsu cũng được vào Thiên Đàng sao?” (x.Lc 23,43).
Thiên Chúa chúng ta như thế đó! Thật rộng lượng, nhân từ. Quả thật đường lối của Ngài khác hẳn đường lối ti tiện, hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta hay so đo, tính toán, đánh giá từ sự so sánh của chúng ta. Chúng ta nhìn người khác với những cái-họ-có-hơn-mình hay cái-mình-không-có, để bực tức, ghen ghét. Nhiều khi chúng ta nhân danh công bằng để đối xử hẹp hòi, khắt khe, độc ác với kẻ khác. Công bằng là mức độ thấp nhất của bác ái. Công bằng mà không có bác ái là tàn nhẫn, là vô nhân đạo. Phải vượt hơn mức tối thiểu của công bằng, chúng ta mới có thể đối xử bác ái, tình nghĩa với nhau được, cuộc sống mới chan hòa tình người, đầy niềm vui và hạnh phúc.
Với những ai hay so đo, tính toán với anh em, Thiên Chúa sẽ cứ theo luật công bằng mà xét xử; còn những ai rộng rãi, biết thương xót người, thì sẽ được Ngài xét xử theo lòng nhân từ xót thương. Thiên Chúa luôn luôn tuyệt vời hơn những gì con tim nghèo nàn của chúng ta có thể tưởng tượng. Ước gì trái tim chúng ta trở nên giống như trái tim của Thiên Chúa Tình Thương. Chính trong tình thương, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa.
24. Công bằng hay lòng thương xót?
Anh chị em thân mến,
Bài dụ ngôn chúng ta vừa nghe, kể lại chuyện ông chủ vườn nho sáng sớm ra chợ để mướn người vào làm cho ông. Một chuyện khá lạ là: không phải tất cả thợ đều được gọi vào làm ngay từ sáng sớm. Có nguời vào lúc giữa trưa; có người đến xế chiều mới vào làm, chỉ làm một giờ trước khi kẻng báo giờ nghỉ thôi. Vậy mà mọi người đều được lãnh như nhau: một đồng. Ta phải nói rõ: lương một ngày công của thợ là tương đương một đồng. Vậy nên những người làm ít giờ vừa khỏe lại có lợi, vì vẫn được một đồng. Còn nguời làm quần quật từ sớm cũng chỉ được như vậy. Do đó họ cằn nhằn cho là ông chủ không công bằng. Thực ra ông chủ cắt nghĩa thế nào? Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Có hai hạng người chúng ta cần lưu ý:
* Ông chủ mướn công thợ: Bài dụ ngôn cho thấy, ông chủ rất quan tâm chuyện kêu gọi thợ đến làm vườn nho cho mình. Rõ ràng từ sáng sớm, ông đã ra đón thợ, mời họ vào làm vườn nho cho ông. Ông đã thỏa thuận với họ lương một ngày công là một đồng. Sau đó, lúc trưa, lúc xế ông lại ra, và gặp ai ông cũng mời họ vào làm cho ông. Rồi lúc 5g chiều, ông lại ra nữa, cũng thấy có mấy người đứng không đó, không có công ăn việc làm. Ông ngạc nhiên hỏi: Sao các anh ở không nhưng cả ngày như vậy? Họ trả lời: vì không ai mướn chúng tôi cả. Nghe vậy ông lại mời họ vào làm cho ông, dù họ chỉ làm có một giờ mà thôi. Cuối cùng khi hết giờ làm việc, ông cho phát tiền công; mỗi người đều được một đồng như nhau. Chính vì chuyện trả tiền công đồng đều như thế mà ông chủ bị phàn nàn...
Ở đây ta lại nhận thấy việc này: điều ông chủ quan tâm không phải là công việc, mà là những người khốn khổ, những người thiếu sống. Rõ ràng ông chủ quan tâm họ, vì họ không có việc làm, và ông sợ họ không kiếm đuợc tiền hàng ngày, để nuôi sống gia đình họ. Chuyện gọi họ vào làm công cho ông, chỉ là cái cớ, để ông trợ giúp kẻ thất nghiệp không công ăn việc làm. Như vậy ông chủ vườn nho cư xữ theo lòng thương xót, không phải theo lối công bằng sòng phẳng ở đời....
* Các người làm công ganh tị: Như trên đã nói, vì ông chủ thương xót nguời thất nghiệp, nên đã trả công cho một đồng, bằng lương cả ngày công lao động; tuy họ chỉ làm có một giờ thôi. Lối cư xử đầy lòng thương xót này đã vấp phải lời dị nghị của những con người chỉ quen thứ công bằng gắt gao, vị kỷ, sẵn sàng loại trừ kẻ yếu thế, cô thân. Rõ ràng lòng thương xót của ông chủ vượt xa lẻ công bằng; nó không cần đong đo xem có tương xứng không, giữa cái cho và cái nhận, cũng không cần nhìn đến sự thiệt hơn, chỉ nghĩ đến sự khốn cùng của con người, để cứu giúp không so đo tính toán...
b/. Chúa Giêsu muốn nói gì qua dụ ngôn này?
Dĩ nhiên, ông chủ ở đây chính là hình ảnh của Thiên Chúa; các người làm công ganh tị, là hình ảnh các pharisêu, luật sĩ. Họ đang phẩn nộ vì Chúa quan tâm đến hạng thu thuế, gái điếm, dân ngoại, đó là những người bị họ liệt vào hạng tội lỗi; trong khi xem ra Chúa đánh giá các luật sĩ, biệt phái thấp quá... Qua dụ ngôn này, Chúa nhắc khéo họ như lời Thánh vịnh: "Chúa công minh trong mọi đường lối, đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm". Thiên Chúa không phải là ông quan tòa thưởng phạt chính xác, cũng không phải ông chủ tính toán chi li, cũng không phải ông thầu trả lương sòng phẳng, mà Người là Thiên Chúa lấy tình thương mà đối xử với con cái. Con cái nào Chúa cũng thương, nhưng đứa con Chúa thương hơn chính là vì nó bệnh tật, yếu ớt, đần độn...Cha thương con vì đó là con của Cha, không vì con đã làm cho Cha điều này điều nọ. Đứa con bệnh hoạn tật nguyền, Cha lại yêu hơn... Dụ ngôn này là một mạc khải sâu xa về lòng nhân hậu của Thiên Chúa, vì "tình yêu thì vượt xa lẽ công bằng..."
Câu chuyện: Có một người giáo dân hỏi cha sở: Thưa cha, con phân bì với anh trộm lành, người cùng chết với Chúa trên đồi Golgotha đó, vì Chúa hứa cho anh ta về thiên đàng ngay ngày hôm đó với Chúa. Anh trộm lành rõ ràng là một tên cướp với đủ thứ tội. Vậy mà Chúa hứa cho anh ta lên thiên đàng ngay với Chúa. Con không phục đâu. Cha sở cười hỏi lại: Vậy có phải nếu anh là Chúa, anh sẽ nói với anh trộm lành: "Tôi không quên anh đâu; nhưng còn vào thiên đàng hả? Chắc còn lâu quá! Vì anh phải đền tội trong luyện ngục cái đã chứ! Rồi sau đó mới lên thiên đàng đuợc." Có phải anh muốn nói thế không?: - Anh giáo dân cười nói: "Dạ phải vậy chứ! Anh ta là tay cướp khét tiếng, tội nào mà không có.." Cha sở nói: "Vậy rõ ràng anh không phải là Chúa rồi, cho nên anh đâu hiểu được đường lối của Chúa. Người ta thì đòi công bằng, nhưng Thiên Chúa lại cư xử bằng tình yêu. Chính tôi cũng không hiểu được Chúa nhiều về điểm này; nhưng tôi chỉ biết tình yêu và lòng thương xót của Chúa thì vượt xa lẽ công bằng mà thôi...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Mỗi người kitô hữu chúng ta đều được Chúa mời gọi vào làm cùng chung một việc là: làm trong vườn nho của Chúa, vào các thời điểm khác nhau. Thực ra Chúa không cần ta làm nhiều hay ít; điều quan trọng là ta có sẵn lòng làm cho Chúa trong tin yêu, khiêm tốn, quảng đại không ganh tị, cộng tác với mọi người không?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
“Mấy người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”.
Câu nguyện dụ ngôn về tiền công trả cho các người làm vườn nho, nói gì thì nói, vẫn khó nuốt trôi, nhất là khi ta tự đặt mình vào tư thế các lao động nhóm một đã làm lụng vất vả suốt 12 tiếng ròng. Lời ông chủ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn…” xét về diện pháp lý thì không ai chối cãi được, nhưng vẫn còn đó một điều gì không mấy ổn, đăng đắng trong ruột gan… Ít nhiều ta vẫn còn thấy lời phàn nàn của đám thợ làm sớm có phần nào chính đáng. Nếu Nước Trời giống như câu chuyện này thì quả thật nó hàm chứa một điều gì quá bất thường và có phần nào khó hiểu lắm đấy.
Hầu như mọi tôn giáo đều tuân thủ cặn kẽ qui luật nhân quả, có nguyên nhân thì phải có hậu quả, ai làm thiện thì gặp lành, còn ai làm ác thì phải gặp dữ. Kể cả người Công giáo cũng thường được dạy, và đi tới xác tín như đinh đóng cột: nếu làm việc lành phước đức nhiều thì công phúc trên thiên đàng sẽ rất lớn, còn nếu sống tội lỗi và làm điều dữ thì sẽ bị trầm luân trong hỏa ngục đến muôn đời muôn kiếp. Đó là lẽ công bằng, đó là luật nhân quả quá hợp lý đã in sâu vào tâm khảm không dễ gì xóa nhòa; ngay cả đôi lúc nếu có xuất hiện một vài luật trừ ra ngoài định luật này, ta cũng còn thấy khó chấp nhận.
Khi kể câu chuyện dụ ngôn về ông chủ trả lương các người làm công theo cách thức đó, chắc hẳn Đức Giêsu chủ tâm cho thấy: một đàng công bằng vẫn được tôn trọng, “Tôi đâu có xử bất công với bạn…”, trong khi đó có một yếu tố ‘cào bằng’ rất lạ xuất hiện để trở thành nét đặc trưng của Nước Trời đang đến; “Tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng bằng bạn đó…” Thoạt tiên ‘cào bằng’ xem ra như đạp đổ tính công bằng của luật nhân quả, thưởng phạt, và đó là lý do của sự giận dữ kêu trách của những kẻ lẽ ra phải được coi trọng hơn. Tuy nhiên chính sự vô lý đó lại mời gọi ta khám phá ra nét độc đáo có một không hai đứng đàng sau Tin Mừng: “Tôi tốt bụng”, Thiên Chúa nhân lành, Ông Chủ đầy từ tâm.
Qua câu chuyện dụ ngôn Đức Giêsu đang vẽ lên hình ảnh một Thiên Chúa - Cha của Người khác xa hình ảnh Đức Chúa của Cựu Ước, khác xa với Ngọc Hoàng truy xét con người với tầm sét Thiên Lôi. Sự công bằng của Tin Mừng là công bằng của lòng từ nhân và thương xót. Nếu không thấu hiểu và chấp nhận sự công bằng này, sự công bằng mà chỉ một mình Đức Giêsu mới có thể mạc khải bằng cả cuộc sống và cái chết của Người, thì có thể cả tôi nữa cũng sẽ phải cằn nhằn ghen tức Thiên Chúa mà thôi: “Mấy người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. Và nếu Nước Trời chính là công bằng của lòng từ ái (tốt bụng) thì đúng là lúc đó tôi sẽ bị liệt vào hạng ‘những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót…’ Thật đáng tiếc, những người thợ của giờ thứ nhất đã không khám phá ra điều này để phải cằn nhằn với chủ và ghen tức với đồng bạn. Lẽ ra họ đã phải rất tự hào và sung sướng vì đã được diễm phúc làm lụng cho Ông Chủ tốt bụng suốt 12 tiếng, trong khi tiếc cho các bạn khác vì chỉ được gần gũi phục dịch Ngài trong một thời gian quá ngắn ngủi như thế.
Nếu không khám phá ra Thiên Chúa ‘tốt bụng’ của Đức Ki-tô, niềm tin và việc giữ đạo của Ki-tô hữu chúng ta cũng có nguy cơ trở thành một chuỗi những ‘công việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. Chúng ta cũng sẽ rất dễ dàng phàn nàn và ghen tức khi thấy rằng mình, bất chấp các nỗ lực sống luân lý cách gương mẫu, cũng chẳng được ưu đãi hay nhận được ân huệ gì hơn những kẻ ‘tội lỗi và dân ngoại’ khác.
Khi áp dụng qui luật này vào chính mình, nhiều khi tôi cũng cảm thấy vui sướng và hãnh diện tạ ơn vì nhận được các ân huệ đặc biệt như trở thành tu sĩ, linh mục... vì cho rằng đó là phần thưởng xứng đáng cho những cố gắng tu luyện của mình; đồng thời những khi gặp thử thách gian nan tôi cũng dễ dàng chao đảo và mất lòng trông cậy. Thi thoảng khi thoáng nhận ra Thiên Chúa tốt bụng với kẻ khác... tôi cũng rơi vào tình trạng “hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” Chính vì thế mà tôi vẫn thấy rất lý thuyết và xa vời cái tâm tình tạ ơn không ngừng của Ki-tô hữu; ‘tất cả đều là hồng ân’ không gì hơn một khẩu hiệu đầu môi chóp lưỡi… vì nhiều lúc tôi đâu có tìm thấy một lý do nào để mà cảm tạ. Ôi thật đáng thương cho tôi nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài, và Tin Mừng tôi sống sẽ chỉ là một nửa dang dở!
Lạy Chúa từ nhân, con không muốn là người thợ ‘đứng hàng đầu sẽ phải xuống hàng chót’. Xin ban cho con ơn huệ vĩ đại là không ngừng nhận biết Chúa là Ông Chủ công bằng giầu lòng xót thương, nhờ đó con sẽ có khả năng cảm tạ Chúa không ngừng trước bất cứ điều gì xảy ra trong đời sống mình; và vui mừng vì nhận ra Chúa xót thương hết thảy mọi người, nhất là những kẻ thấp hèn và tội lỗi. Xin hãy giúp con luôn biết khiêm tốn dâng lời ca khen lòng nhân hậu Chúa không ngừng. Amen.
26. Tất cả đều lãnh mỗi người một đồng
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm nay chúng ta bắt đầu chu kỳ ba dụ ngôn về vườn nho của Chúa Giêsu. Chúa nhật 25, những người thợ sẽ vào làm vườn nho. Chúa nhật 26, hai người con trai được cha sai đi làm vườn nho, và Chúa nhật 27, những người tá điền muốn giết con ông chủ vườn nho.
Bước vào trong sự thân tình của Chúa
Trong Kinh Thánh, cây nho có một ý nghĩa sâu sắc. Nó là biểu tượng của giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài (Is 5, 1-7; Gr 2, 21; Ez 15, 4). Câu "hãy đi làm vườn nho ta" (Mt 20, 4) được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại trong ba dụ ngôn, theo truyền thống câu này muốn nói: "Hãy đi vào trong Giao ước…Hãy đến chia sẻ Giao ước với ta".
Chúa Giêsu tự khẳng định mình là cây nho: "Thầy là cây nho thật" (Ga 15, 1-5). Chúng ta được mời gọi vào làm vườn nho của Chúa, được sẻ chia công việc với Chúa, có ý nói, chúng ta dù sớm hay muộn cũng bước vào trong thân tình với Chúa, sống với Chúa. "Hãy đi làm vườn nho ta" còn có nghĩa là "Hãy vào hưởng niềm vui của chủ ngươi" (Mt 25, 21). Từ đây chúng ta mới hiểu được một đồng mà ông chủ trả cho người đến trước cũng như người đến sau là đồng nào.
Đồng lương yêu thương
Dụ ngôn những người làm thuê được mướn làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau, tất cả lãnh lương giống như nhau là một đồng bạc, đã gây nên một khó khăn cho những người đọc Tin Mừng. Chúa nói với những người làm công: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng" (Mt 20, 4). Có người hỏi: Xứng đáng ở đây là xứng với cái gì? Khi có hai cái bằng nhau, hoặc cái này xứng với cái kia được coi là xứng đáng. Vậy đâu là tiêu chuẩn để Chúa Giêsu trả công xứng đáng? Nhiều người không khỏi ngạc nhiên, nhất là những người đến làm việc trước hết vì tiêu chuẩn trả công của ông chủ. Cách hành xử của ông chủ có chấp nhận được không? Không xúc phạm đến nguyên tắc đền bù xứng đáng sao?
Khó khăn phát xuất từ một sự sai lầm. Vấn đề đền bù được qui chiếu về sự đời đời, Thiên Chúa "sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm" (Rm 2, 6). Thiên Chúa nhân lành, Ngài có cách tính không giống chúng ta: "Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta" (Is 55, 8). Thiên Chúa ban cho con người cái mà Ngài cho là tốt nhất. Tiêu chuẩn của Ngài là tấm lòng, tiêu chuẩn của chúng ta thường là lý trí, và dĩ nhiên không luôn luôn đúng.
Trong dụ ngôn, mức lương được trả là một đồng. Đây là đồng đracmơ; hay đồng đờ-nhê, là thuế mà mỗi Người Do Thái phải nộp vào Đền Thờ Giêrusalem mỗi năm cho việc bảo trì, hoặc đồng "xtate" tiền cổ Hy-lạp là đồng được thánh Phêrô dùng để nộp thuế Đền thờ, phần của ngài và của Chúa Giêsu. Mỗi người nhận được một đồng, có ý nói đến mức lương của một ngày làm việc, một cái gì đó để sống trong ngày như bánh mì chẳng hạn.
Để nhận ra "điểm chính" trong dụ ngôn, chúng ta phải để ý đến qui chiếu của Chúa Giêsu ở đây về một tình huống cụ thể. Đồng bạc duy nhất được trả cho tất cả là nước Chúa, Chúa Giêsu đã mang xuống thế vì yêu thương thế gian. Dụ ngôn bắt đầu: "Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình" (Mt 20, 1). Như vậy, Nước Trời là chủ đề chính và là bối cảnh của dụ ngôn.
Đồng lương ơn cứu độ phổ quát
Một lần nữa, vấn đề về ơn cứu độ của người Do thái và dân ngoại, hay của kẻ lành và những người tội lỗi được đặt ra, trước ơn cứu rỗi do Chúa Giêsu mang đến. Mặc dầu chỉ vì nghe huấn giáo của Chúa Giêsu mà người dân ngoại (những kẻ tội lỗi, những người thu thuế, những người đĩ điếm, v.v.) quyết định theo Chúa, trong khi trước lúc đó họ còn đứng đàng xa (nhàn rỗi). Vì ý định theo Chúa mà họ sẽ không có chỗ bậc hai trong vương quốc. Họ cũng sẽ ngồi cùng một bàn như những người khác và hưởng đầy đủ những của cải thời cứu thế.
Chúa Giêsu không cung cấp chúng ta một bài học về đạo đức xã hội, nhưng là bài học về tình yêu của Thiên Chúa với hết mọi người: "Từ sáng sớm, cho đến giờ thứ ba, giờ thứ sáu và thứ chín".
Không có ai là quá muộn để vào Nước Trời. Tất cả những ai chưa khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa vẫn được Ngài mời gọi mọi người nam nữ trong mọi giờ và ở mọi lứa tuổi đi làm vườn nho của Chúa! Đây là lời kêu gọi phổ quát. Đó là vấn đề kêu gọi hơn là vấn đề thưởng. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về ơn cứu độ đời đời của chúng ta.
Có nhiều người cần cù, chịu khó, luôn sẵn sàng làm việc nhưng "không ai thuê"; họ nhàn rỗi vì thiếu việc làm và không có người mướn, lòng nhiệt thành đang có sẵn, có tiếng gọi thuê, họ lên đường mà không có sự mặc cả giá tiền như những người trước. Ông chủ đánh giá công việc của họ cách khôn ngoan và trả công cho họ bằng những người khác. Ý muốn nói, dù hoán cải vào "buổi sáng, giờ thứ ba … và thứ mười một giờ" đi chăng nữa, thì hết thảy mọi người đều được đón nhận … anh trộm lành được lên Thiên đàng "vào giờ thứ mười một" anh thực sự là người được mời gọi vào giờ sau hết và trở thành người đầu tiền vào Nước Trời: "Thật hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng với ta" (Lc 23, 43). Chúa không kết án kẻ trộm, Chúa bày tỏ lòng nhân lành của mình; họ đi làm, nhưng "không ai thuê" (Mt 20, 7), nếu người ta không thuê anh, anh "hãy đi làm vườn nho ta" (Mt 20, 4).
Điều mà chúng ta gán cho Thiên Chúa là không xứng đáng với Thiên Chúa, và điều Thiên Chúa ban cho chúng ta vượt quá công trạng của chúng ta: "từ người đến sau hết tới người đến trước hết đều lãnh mỗi người một đồng". Chúng ta không thể trách lòng tốt của ông chủ, vì không thấy gì sai trái trong cách ông hành xử. Ông trả cho mỗi người theo như thỏa thuận và thể hiện lòng thương xót như ông muốn: "Nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao?"
Một huấn giáo khác có thể rút ra từ dụ ngôn. Ông chủ biết rằng những người làm thuê giờ cuối cũng có những nhu cầu như bao người khác, họ cũng có con cái phải nuôi ăn, như những nguời làm thuê giờ thứ nhất. Khi trả cho mọi người đồng lương y nhau, ông chủ chứng tỏ rằng ông không xét theo công trạng cho bằng theo nhu cầu. Ông chứng tỏ rằng ông không những công bằng, mà còn "tốt lành", quảng đại và nhân đạo.
27. Vì tôi tốt bụng – Lm Nguyễn Cao Siêu.
Suy niệm:
Sau khi anh thanh niên giàu có từ chối lời mời của Đức Giêsu
ông Phêrô đã đại diện anh em hỏi Thầy:
“Chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?”
Thầy Giêsu đã đáp lại bằng một câu trả lời khá dài.
Họ sẽ được xét xử các chi tộc Israel, được gấp trăm về mọi sự,
và nhất là được hưởng sự sống đời đời (Mt 19, 27-30).
Như thế ở đây Nước Trời được coi như một phần thưởng,
một sự trả công Chúa dành cho những ai dám từ bỏ hy sinh.
Các môn đệ cho đi, và rồi họ sẽ được lại.
Bài Tin Mừng hôm nay nằm ngay sau câu chuyện trên.
Dưới một góc độ nào đó thì cả hai có nội dung rất khác nhau,
nhưng bổ túc cho nhau, để ta có một cái nhìn quân bình về Thiên Chúa.
Thiên Chúa không phải chỉ là Đấng công bằng,
thưởng công cho những gì chúng ta đã vất vả cố gắng.
Người còn là Đấng quảng đại, tốt lành và giàu lòng xót thương.
Dụ ngôn về “người thợ giờ thứ mười một” cho thấy điều đó.
Thật ra phải gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về “Ông chủ độ lượng”.
Trong thế giới thời Đức Giêsu, người ta mướn thợ buổi sáng
và trả công cho thợ buổi chiều theo lề luật (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15).
Lương công nhật là một quan tiền (denarius),
tiền này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản.
Dụ ngôn hôm nay có nhiều nét khác thường mà không có lời giải thích.
Ông chủ vườn nho tự mình ra chợ mướn người, thay vì viên quản lý.
Những người thợ đứng suốt ngày ngoài chợ (c.6)
lại không được ông chủ thấy và mướn từ đầu, dù ông ra chợ nhiều lần.
Chỉ nhóm thợ đầu tiên mới được thuê với tiền công rõ ràng,
còn ba nhóm sau chỉ được hứa sẽ trả “hợp lẽ công bằng” (c.4).
Cuối cùng ba nhóm giữa bị bỏ rơi, để chỉ tập trung vào nhóm đầu và cuối.
Dụ ngôn này trở nên hết sức khác thường
với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước.
Những người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều)
cả ngày làm có một tiếng, được trả một quan tiền.
Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã làm từ sáng sớm,
“đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại bị nắng nôi thiêu đốt” (c.12).
Nhưng rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền.
Chúng ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ
để xem họ sẽ sửng sốt, thất vọng, buồn bực, tức giận và cằn nhằn ra sao.
Có lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện như vậy.
Phản ứng này cũng là phản ứng giận dữ của người anh cả
khi biết cha mình đã tiếp đón linh đình sự trở về của đứa con hư hỏng.
Đối với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất công.
Bất công nằm ở chỗ làm nhiều, làm ít, nhận lương như nhau.
Nhưng ông chủ không cho đây là một sự bất công,
vì ông đã trả cho nhóm thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.
Những câu cuối của dụ ngôn là những câu đẹp nhất,
những câu nói lên bản chất sâu xa của tấm lòng Thiên Chúa.
“Tôi muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c. 14).
Tôi muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh, tôi muốn họ bằng anh:
đó là ước muốn, là chọn lựa của Thiên Chúa.
Tình thương của Người phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối,
người làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít.
“Chẳng lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn
với tài sản của tôi sao?” (c. 15).
Thiên Chúa giàu sang nên có quyền rộng rãi thi ân cho kẻ Người muốn.
Chẳng ai có thể bắt Người phải đối xử công bình theo kiểu con người.
Chẳng ai có quyền hạch hỏi Người vì Người quá sức độ lượng (c.12).
“Hay mắt của anh xấu xa vì tôi tốt lành” (c. 15).
Con mắt xấu xa là con mắt khó chịu vì kẻ khác bằng mình, dù không đáng,
ghen tỵ với may mắn và hạnh phúc bất ngờ của người khác.
Đức Giêsu khẳng định mình là người tốt lành,
đặc biệt trong cách cư xử của Người đối với những tội nhân.
Anh trộm lành trên thập giá cũng là người thợ giờ thứ mười một.
Anh được hưởng những gì mà người khác phải nỗ lực cả đời.
Nói cho cùng, vấn đề không phải là đáng hay không đáng.
Chẳng ai xứng đáng để vào thiên đàng, kể cả các thánh.
Hạnh phúc Nước Trời là một ơn ban
hơn là một sự trả công hay phần thưởng.
Thiên Chúa vượt lên trên sự sòng phẳng có tính mua bán của con người.
Người không phải là nhà buôn, nhưng là người cha tốt lành.
Cha thương cả hai con, cả đứa ở nhà phục vụ lẫn đứa bỏ đi bụi đời.
Thậm chí đứa hư hỏng hay tật nguyền lại được quan tâm hơn.
Ông chủ vườn nho thương cả những người
đứng ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn.
Có thể vì họ kém khả năng, kém may mắn hơn những người khác chăng?
Người thợ giờ thứ mười một đã làm được gì cho vườn nho của ông chủ?
Chắc chẳng được bao nhiêu.
Nhưng anh ấy đã đứng chờ suốt ngày.
Thế giới này lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một,
“những người không được ai mướn” (c.7),
những người cứ đứng chờ vậy thôi, suốt ngày, suốt đời,
những người được nhận trễ, chẳng biết mình sẽ được trả lương ra sao.
chỉ biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.
Những người này khác với những người làm từ sáng,
biết chắc mình sẽ được trả công một quan tiền.
Dụ ngôn không nói đến việc người làm cuối reo lên vì được trả công hậu hĩ.
Nhưng chắc là đã có những tiếng reo.
Thiên đàng đầy ắp những tiếng reo như thế,
kinh ngạc, ngỡ ngàng, thán phục, tri ân…
Chẳng có ai vào thiên đàng mà lại không reo lên
vì thấy những gì gọi là công đức của mình chỉ là chuyện nhỏ,
quá nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng.
Người ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của những người
mà ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được.
Thiên Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho.
Người còn thấy cả thời gian chờ.
Nhiều khi chờ còn mệt hơn làm việc.
Đừng cằn nhằn! hãy vui với niềm vui của Thiên Chúa,
Đấng hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ,
vì lòng tốt của Ngài không sao hiểu được.
Hãy vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá khứ của họ.
Chúng ta không có quyền buồn như người con cả, khi cha đang vui.
Hãy đổi cái nhìn của mình về Thiên Chúa.
Như thế chúng ta cũng sẽ thay đổi cách cư xử với anh em.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Thánh Gioan Phaolô II đã viết trong Tông huấn “Christi Fideles Laici” về ơn gọi và và sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới: “Những thành phần giáo dân trong dân tín hữu Chúa Kitô… hình thành nên Dân Chúa có thể được so sánh với những người làm trong vườn nho được nhắc tới trong Tin Mừng Matthêu…“Anh cũng đi vào vườn nho”…Tiếng gọi là một quan tâm không những cho các Mục tử, các giáo sĩ, những người nam và nữ tu sĩ. Tiếng gọi được gởi tới mọi người; những người giáo dân thường cũng được Chúa kêu gọi đích danh, từ Người họ nhận lãnh một sứ vụ vì Giáo Hội và vì thế giới” (số 1-2).
Dụ ngôn “ thợ làm vườn nho” với hình ảnh ông chủ vườn nho năm lần đi kiếm người làm vườn vào những thời điểm khác nhau chứa đựng một huấn giáo thiêng liêng: lòng quảng đại vượt trên lẽ công bình,Thiên Chúa kêu gọi mọi người vào hưởng hạnh phúc là do lòng tốt của Ngài.
“Quả thế, về Nước Trời thì cũng như một gia chủ kia, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông...”. Giữa một “chợ người” ít việc nhiều người, các ông chủ ra thuê thợ làm việc và trả công nhật.
Chúa Giêsu đã quan sát và lấy hình ảnh cụ thể này ở Do thái để mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Người kể dụ ngôn ông chủ vườn nho với các thợ làm việc các giờ khác nhau trong ngày.
Tiền công nhật là 1 đồng, giá thỏa thuận đôi bên.Gia chủ thuê thợ làm vườn nho vào các giờ giấc khác nhau.
Ở Do thái một ngày bắt đầu từ lúc 6 giờ chiều:
- 3 giờ là 9 giờ sáng
- 6 giờ là 12 giờ trưa
- 9 giờ là 3 giờ chiều
- 11 giờ là 5 giờ chiều
1. Lòng ghen tị
Theo lệ thường, công nhật sẽ chấm dứt lúc 12 giờ tức là 6 giờ chiều. 5 giờ chiều ông chủ còn ra thuê nhân công. Những người làm từ giờ 11, họ chỉ làm việc 1 giờ là nghĩ. Trong khi đó người làm từ sáng, lao động 12 giờ. Vậy mà cuối ngày khi trả lương, ông chủ lại trả bắt đầu từ người sau hết là 1 đồng. Những người làm trước tưởng là được nhiều hơn, nhưng cũng chỉ 1 đồng mà thôi. Họ phản đối, họ trách móc vì họ bị hai thiệt thòi: kẻ khác làm 1 giờ mà họ 12 giờ, kẻ khác làm lúc trời đã mát mẻ, họ làm cả ngày dưới trời nắng gió nóng của miền Địa Trung Hải. Họ hụt hẫng và khó chịu với chủ. Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc là họ vui vẻ và biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và ghen tị. Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không là bạn. Vì vậy, sự thành công của ai đó đã trở thành mối đe dọa, ghen tức.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Cain ghen tị với em trai là Aben chỉ vì lễ vật của Aben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật của Cain bị khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Cain giết em. Đavít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh liệt, cứu nguy cho dân quân Ítraen bằng cách giao chiến một chọi một với tên Gôliát khổng lồ thuộc phe Philitinh, hạ gục y chỉ bằng một phát ná bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Ítraen thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Philitinh thù nghịch. "Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Ítraen kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Saun, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát rằng: "Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn". Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Saun, khiến nhà vua phóng giáo vào Đavít đang khi Đavít gảy đàn cho vua nghe. May thay Đavít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua lùng sục Đavít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (1Sam 17-18).
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển.
2. Lòng tốt
Ông chủ trả lương như vậy có bất công không? Chắc chắn là không vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận là 1 đồng. Vì người ghen tị lầm bầm than phiền nên ông trả lời: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao? Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức?
Đây là điểm chính của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành.Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng.
Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài người nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau. Thợ làm giờ thứ 11 là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thực thi luật pháp Nước Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pharisiêu, Luật sĩ. Họ ghen tương vì Chúa Giêsu đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, ngày hôm nay là công dân Nước Trời.
1 đồng là vé vào Nước Trời. Kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Đức Giêsu nhấn mạnh là Thiên Chúa rộng rãi vô cùng. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người. Đặc biệt đối với dân ngoại là những người được gọi vào Giáo hội qua những giờ sau hết. Đối với những người này, Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái là những kẻ được gọi từ đầu. Thiên Chúa nhìn nhận sự việc theo lòng lân tuất của Ngài. Con người nhìn theo quyền lợi, tính toán hơn thiệt. Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo lòng tốt của Ngài. Thiên Chúa trả công không làm thiệt hại ai, luôn công bằng.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng: trong cách thức hành động của mình, Thiên Chúa không đi theo những qui tắc lề luật của sự công bình hạn hẹp, cứng nhắc. Ngài chỉ thực thi theo sự tốt lành của mình, theo thúc đẩy bởi tình yêu của mình. Ngài hào phóng trong tình thương xót và hoàn toàn tự do trong các việc thiện hảo.
3. Sứ điệp
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho”, cho thấy rõ sự trái ngược giữa lòng tốt của gia chủ và lòng ghen tị của những người thợ vào vườn nho từ sáng sớm. Thiên Chúa mở rộng vòng tay đón nhận mọi người, còn chúng ta thì khép chặt lại không muốn tiếp nhận ai. Thiên Chúa nhìn thấy sự đáng thương của những người chưa được làm con cái Ngài, còn chúng ta chỉ nhìn những người anh chị em này một cách tiêu cực và vênh vang cho rằng mình tốt hơn họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đối xử nhân hậu với người khác. Hãy tránh xa lối nhìn thiển cận theo cảm tính, theo tính vị kỷ, theo quyền lợi cá nhân. Không nên ghen tị khi người khác có tài đức hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn. Hãy bằng lòng với cái mình đang có và cố gắng phát triển nó lên. Ai cũng được Chúa ban cho những khả năng khác nhau. Người 5 nén, người 2 nén, người 1 nén. Ngày ra trước mặt Chúa, Chúa không hỏi: con đã làm những gì, làm ông này hay bà nọ. Chúa chỉ hỏi về lòng mến, mến Chúa và yêu thương tha nhân. Con đã yêu mến Thầy và tha nhân không? Chính tình yêu trong công việc là thước đo mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta. Đó là cung cách sống đạo đền đáp hồng ân.
Hồng ân là một ơn ban dựa vào lòng tốt của người ban ơn. Hồng ân làm cho người lãnh nhận tràn đầy lòng biết ơn. Công lao là tính toán dựa trên công sức người làm việc. Công lao thì cần phải đòi lại điều gì tương xứng bằng tiền lương, bằng đền bù, bằng trả lại theo lẽ công bằng.
Như thế, có một sự khác biệt lớn giữa kiểu sống đạo dựa trên hồng ân và kiểu giữ đạo nhằm vào công trạng. Người ta có thể chấp nhận "giữ đạo" để được "lên thiên đàng". Nhưng người ta cũng có thể "sống đạo" chỉ vì muốn đền đáp một chút nào hồng ân bao la của Thiên Chúa. Kiểu giữ đạo theo công trạng sẽ làm cho người Kitô hữư trở thành "nô lệ", thành "kẻ làm công". Cách sống đạo như một hồng ân làm cho người Kitô hữu trở thành con cái hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhờ đó Kitô hữu sẽ nhận ra hồng ân của Chúa nơi mọi sự, khắp mọi nơi, trong mọi lúc, tràn ngập cuộc đời, để biết hân hoan ca tụng Chúa, biết vui mừng vì hồng ân Chúa nơi anh chị em của mình.
Những người thợ được thuê làm vườn nho vào những giờ khác nhau, đó là hình ảnh những người được mời vào Giáo hội qua Bí Tích Rửa Tội vào những tuổi đời khác nhau. Sống trong Giáo hội, mọi người đều là con cái của Chúa, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Ai cũng được Thiên Chúa yêu thương. Đã là yêu thương thì không còn đứng trong ranh giới công bình.Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy lòng tốt của Ngài. Cùng nhau làm việc Tông Đồ Truyền Giáo là bổn phận mỗi người Kitô hữu. Phần thưởng là do lòng tốt Chúa ban. Như thế chúng ta sẽ xây dựng được Nước Trời giữa trần gian.
29. Nếu bạn yêu thương bạn sẽ biết Thiên Chúa
Làm sao không ghét ông chủ là người nhạo báng những người thợ can đảm khi trả công (trước mặt họ!) cùng một số tiền với những người chỉ làm việc có một tiếng đồng hồ được? May thay các nhà chú giải giúp chúng ta nhận ra hai bài học của dụ ngôn khó hiểu nhưng đẹp đẽ này.
Trước tiên dụ ngôn này cho thấy lòng tốt của Thiên Chúa, một lòng tốt vô cùng, không tính toán và làm cho phỉ nguyện. Thiên Chúa muống trao ban Tin Mừng cho tất cả mọi người, Ngài muốn mở rộng cuộc sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người. Thí dụ cuối cùng về người thợ vào giờ thứ mười một chính là ngươì trộm lành trên thánh giá nhận được mức lương rất lớn: “Hôm nay ngươi sẽ được ở cùng ta trên thiên đàng”.
Nhưng dụ ngôn cũng nhằm vào chúng ta: “Bạn hãy coi chừng khi người ta nói rằng Thiên Chúa tốt lành đến mức đó. Nếu bạn khó hiểu thì có lẽ chính bạn là người không tốt”.
Cốt lõi của dụ ngôn này nằm ở câu hỏi của ông chủ nói với kẻ không bằng lòng: “Có phải anh ganh tỵ hay không?”. Cái nhìn của người thợ lành nghề đối với những người bạn quá may mắn thì không có thiện cảm: “Đừng đối xử với những người đến trễ như đối xử với chúng tôi”.
Một lần nữa, Chúa Giêsu muốn thay đổi những người Pharisêu. Ngài biết họ nghĩ rằng: “Chúng tôi làm việc nhiều vì Thiên Chúa”. Điều đó không sai, nhưng từ trên sự tin chắc này họ xét rằng việc Chúa Giêsu quan tâm đến những kẻ xấu xa, những người thu thuế và những người mại dâm là điều không thể chịu đựng được. “Làm sao ngài dám đối xử với họ cũng tốt và thậm chí còn hơn cả chúng ta nữa? Một luât sĩ hay lui tới với hạng người này thì có gì để nói với chúng ta về Thiên Chuá cơ chứ? Người đó biết gì về Thiên Chúa?”
Này nhé, thật sự kẻ nào đó biết đến lòng tốt của Thiên Chúa thì biết tất cả về Ngài. Chúa Giêsu muốn mạc khải lòng tốt này và Ngài đụng chạm với những người nói với Ngài: “Không, không phải hiểu Thiên Chúa như thế đâu”. Có lẽ có điều gì đó kỳ lạ trong phản ứng này, nhưng nếu chúng ta suy nghĩ về thái độ của chúng ta thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng tin vào lòng tốt tuyệt vời và phổ quát của Thiên Chúa thì khó hơn là chúng ta nghĩ.
Không gì ngăn nổi, nhúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa yêu thương những người tốt lành nhiều nhất, ghét những người hoài nghi, và thế là chúng ta xét đoán nhân danh Ngài vị linh mục này hoặc người nọ thì độ lượng. “Quan tâm đến những người liêm chính tốt hơn là lân la trong gia đình này hoặc nơi những kẻ vô lại kia”.
Một người ly dị tái hôn nói với tôi: “Trong những cộng đoàn Kitô giáo chúng ta không có nhiều tình thương bao nhiêu”. Một phụ nữ đã lập gia đình với một linh mục không thể chịu đựng nổi: “Nếu bạn biết được tôi bị ruồng bỏ như thế nào”. Và trong chính trị, có cái nhìn kỳ cục về những “người không suy nghĩ cho đúng đắn” biết bao!
Một số người sẽ nói hoan hô, chúng ta sẽ chấp nhận bất cứ cái gì. Hoan hô những người đến vào giờ thứ mười một và những tên trộm lành! Thiên Chúa yêu thương mọi người chứ? Thế thì chúng ta đừng mất công tuân giữ đạo đức làm cái gì nữa.
Còn phải bỏ công sức, cần phải có những người thợ vào giờ thứ nhất. Họ thật may mắn đã được Thiên Chúa nhanh chóng tuyển dụng một cách bình thản. Nhưng Ngài yêu thương những người đến cuối cùng làm sao! Họ sẽ chứng tỏ rằng việc luôn luôn ở gần Chúa đã làm cho họ nhận biết Ngài và tình yêu của Ngài. Than ôi! nếu họ cứng rắn đối với những người đến trễ và những người lầm lạc, họ cố gắng không bao giờ bỏ lễ, thì họ vẫn ở xa Thiên Chúa. Thánh Gioan nói: “Ai không yêu thương, kẻ ấy không nhận biết Thiên Chúa”.
"Có qua có lại mới toại lòng nhau hay bánh ích đi thì bánh quy lại". Đó là cách cư xử bình thường của con người với nhau. Nói vắn gọn là công bằng và sòng phẳng. Đây là điều mà những người chủ cần biết quan tâm nhiều hơn với người của họ. Một người chủ sáng suốt và tài giỏi sẽ biết trả lương đúng với thực lực nhân viên của mình.
Với cái nhìn này, chúng ta sẽ thấy ông chủ trong dụ ngôn của đoạn Tin mừng hôm nay thật lạ lùng. Trước nhất là thông thường việc đi kiếm người làm thì do người quản gia. Còn ở đây chính ông chủ lại đi kiếm người làm. Chẳng những ông đi kiếm một lần trong ngày mà nhiều lần.
Lạ thứ hai là cách trả lương của ông chủ. Ông chỉ giao kèo với những người được mướn từ những giờ đầu. Còn những người vào làm những giờ gần cuối ngày thì không. Đến khi trả lương, ông lại trả cho những người vào làm cuối ngày trở lên. Lạ nhất là tất cả mọi người đều được hưởng lương như nhau. Do đó họ mới phàn nàn: "Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt." (Mt 20, 12). Nếu như với thời buổi hiện nay, chắc chắn những người làm này sẽ tổ chức đình công ngay.
Hình ảnh ông chủ trong dụ ngôn này có lẽ chúng ta sẽ hiểu ngay Chúa Giêsu muốn nói về ai. Đó chính là Thiên Chúa của chúng ta. Không phải chúng ta đi tìm Thiên Chúa mà chính Người đi tìm chúng ta. "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Người Con" (Dt 1, 1 - 2)
Ơn cứu độ mà chúng ta được nhận lãnh là ơn ban hoàn toàn nhưng không chứ chẳng phải do công sức của chúng ta. Vì thế, Thiên Chúa có toàn quyền ban phát tuỳ theo ý muốn của Người. Thiên Chúa bao giờ cũng muốn cho mọi người đều được hạnh phúc. Thánh Phaolô đã nói: "Hãy vui với người vui và khóc với người khóc" (Rm 12, 15). Cho nên lẽ ra khi thấy anh chị em cùng được hạnh phúc thì chúng ta phải vui lên chứ không được phân bì. Phần chúng ta khi cảm nhận được mình đang được hưởng những ân huệ nhưng không thì hãy biết sống tốt hơn nữa. Có như thế chúng ta mới thật sự là những đứa con có hiếu.
31. Tự do Thiên Chúa
Dụ ngôn nói lên một tính chất chung giữa chủ nhà và Chúa tể vũ trụ: Đó là sự tự do tối thượng.
1) Đây là sự tự do của chủ vườn nho: Ông đã gọi vì ông muốn, khi ông muốn và gọi những ai ông muốn, sau khi đã quyết định phần thưởng và phân công.
Thiên Chúa cũng thế. Ngài hoàn toàn tự do khi lên tiếng kêu gọi. Không một tạo vật nào tự hào có quyền trước mặt Chúa. Mà khi nói đến ơn gọi là nói đến tự do. Giáo hội là một cộng đồng ơn sủng. Sau khi phạm tôi, tạo vật lại được nghe thấy tiếng gọi ân sủng mà đáng lẽ tạo vật đã bị vất bỏ: Tạo vật không hy vọng trở lại nữa: Đó là chân lý hiển hiện trong hình ảnh sứ thần cầm gươm canh cửa vườn địa đường. Thánh Phaolô cũng daỵ như thế trong thư gửi giáo đoàn Roma: Không có gì tuỳ thuộc vào ý chí hay hành động nhân loại, nhưng tất cả đều tuỳ thuộc vào lòng từ ái Thiên Chúa.
Thiên Chúa có thể tự do gọi những kẻ Ngài muốn. “Ta thương Giacob và ghét Esau”. Thánh Phaolô so sánh hành động của Thiên Chúa với người thợ gốm muốn tuỳ ý nặn nên một vật gì tầm thường hay quí giá. Người thợ hoàn toàn tự do. Thiên Chúa cũng thế. Ngài gọi kẻ nào Ngài muốn: Người thì được gọi từ trong lòng mẹ như gọi một Tiên tri, người khác được gọi từ buổi thiếu thời, người khác khi đã đứng tuổi hay về già. Thiên Chúa quyết định thời gian.
Thiên Chúa tự do chọn lựa nơi nào Ngài muốn. Đức Kitô tuyên bố với Phêrô: “Người khác thắt lưng con, rồi dẫn con đến nơi mà con không muốn”. Mức độ ân sủng khác nhau tuỳ theo từng người. Người thì được gọi vào giờ đau khổ để được cứu rỗi. Kẻ khác được gọi để nên thánh. Người thì được gọi cứu linh hồn mình. Kẻ khác được gọi để cứu tha nhân. Những người khác nữa nhất là các thánh nhân được Thiên Chúa uỷ thác một sứ mệnh giữa Giáo hội chẳng hạn, các vị lập dòng, những người tiên phong, khởi xướng phong trào canh tân và các nhà tư tưởng…
Thiên Chúa tự do thưởng công: Ta chỉ nói về công nghiệp và phần thưởng theo cách bất toàn, và chính Đức Kitô theo sự tự do tuyệt đối của Ngài đã gọi phần thưởng là ân huệ được tham dự vào vinh quang Thiên Chúa.
Tất cả những tính toán, những dự liệu pháp lý, những đòi hỏi, những tham vọng, phải tan biến trước oai nghiêm và tự do của Tạo hoá.
Các tông đồ của Chúa Giêsu phải học biết điều đó bằng kinh nghiệm riêng. Nếu họ đã không được gọi, họ đã sống cuộc đời vô nghĩa giống như các ngư phủ khác và bọn thu thuế tại Galilêa. Ngay cả sau khi đã được gọi làm môn đệ, họ cũng chỉ như những người vô danh khác, nếu Đức Kitô không phân biệt họ khỏi những người khác. Trong số các môn đệ, Simon đã chẳng trở thành Phêrô nếu Chúa không tự ý thánh hiến ông thành vị thủ lãnh. Mặt khác, dù ngã quỵ trước cơn thử thách nặng nề ngày thứ sáu tuần thánh, tất cả đã đánh mất ơn gọi, nếu sau khi sống lại, Chúa đã không tụ tập lại, và sai đi truyền giáo, nhất là đối với Phêrô; vì ba lần chối Chúa, ông đã đánh mất chức vụ thủ lãnh, nếu Chúa không ban lại sau ba lần tuyên xưng lòng mến. Nhờ ba lần tuyên xưng lòng mến này, Ngài lại trao cho ông quyền chăn dắt đoàn chiên. Đức Kitô hừa cho họ ngồi trên mười hai toà xét xử mười hai chi họ Israel. Đó là phần thưởng đổi lại lấy những gì họ đã từ bỏ vì Chúa. Tất cả đều là ơn huệ nhưng không. Nếu tất cả Kitô hữu ý thức về những ân huệ đã nhận được do Thiên Chúa tự ý ban cho, thì mười hai tông đồ và những ai sống giữa cộng đồng được lựa chọn, đã thụ hưởng một ơn gọi đặc biệt, là phải nhận biết ơn huệ Thiên Chúa và không ngừng nhớ tới.
2) Dụ ngôn này còn có một giá trị giáo huấn nữa. Thiên Chúa dùng tự do của Ngài để thực thi lòng nhân hậu. Thêm vào lời quyết đáp: “Ta lại không được quyền làm điều ta muốn ư?” Ngài nói: “Mắt các ngươi xấu vì thấy ta tốt ư?”.
Thiên Chúa tỏ ra nhân hậu và tự do, khi mời gọi tất cả moị người. Trước kia chỉ có một dân tộc duy nhất, một dân tộc nhỏ bé và được tuyển chọn. Nay nhờ Tin Mừng được loan báo cho tất cả các tạo vật, tất cả mọi quốc gia trở thành môn đệ Ngài (Mt 28, 16-20). Những tội nhân cũng sẽ được gọi đúng như lời Thánh Phaolô dạy: “Thiên Chúa đã để mọi người phạm tội để có thể thương xót mọi người”.
Lòng thương xót của Chúa thực là cao cả. Mọi người đều được mời gọi chung hưởng. Suốt đời, con người được tham dự vào vinh quang Thiên Chúa. Được nâng lên bên trên bản tính tự nhiên, con người sẽ trở thành hình ảnh đích thực của Thiên Chúa, bước đi trong ánh sáng của Ngài, tiến nhanh nhờ sức mạnh của Ngài, tham dự vào bản tính thần linh của Ngài. Do đó, tội nhân được gia nhấp cộng đoàn thánh nhân.
Lòng nhân hậu tự do của Thiên Chúa thực là cao cả, nên mới quyết giữ ơn gọi được miên trường. Ơn gọi không phải là một dịp tốt duy nhất, sẽ mất đi, nếu người ta không đáp lại. Ơn goị của Thiên Chúa theo dõi con người không ngừng và con người có thể đáp lại bất cứ lúc nào.
Như thế, chỉ khi nào ý thức về ơn sủng, con người mới hiểu được sự cao trọng của Thiên Chúa. Mỗi người có thể xử dụng tự do tuỳ ý. Thiên Chúa cũng sử dụng tự do để tha thứ, vì muốn thể hiện trọn vẹn tình yêu. Thiên Chúa ban phát mà không tính toán. Đến lượt con người họ cũng không được tỏ ra là người ganh tị hay ti tiện, trái lại, hãy mở rộng lượng của Đấng Tối cao. Các tông đồ đã nhận được nhiều sứ mệnh nặng nề. Phải ý thức điều đó để hoan hỉ trao ban những gì đã nhận lãnh. Những công nhân bất mãn đã cằn nhằn vì chịu khó nhọc nóng nực cả ngày mà không nhận được vào nước Chúa. Khi bắt chước Đức Kitô, những thử thách này là một đặc ân chứ chưa phải là một việc đền tội, một ơn huệ hơn là một bổn phận. Đó là cơ hội để chứng tỏ lòng yêu mến sâu xa và ưu tiên. Vì ta đã được gọi từ sớm để làm việc nhiều hơn. Con người phải từ bỏ tiêu chuẩn nhân loại để học biết suy nghĩ và phán đoán cách khác. Từ đây, mức độ là chính tình yêu. Nhưng tình yêu không bao giờ tính toán. Ai biết phó thác cho thánh ý Thiên Chúa theo tình yêu Ngài, sẽ tình nguyện tận hiến tình yêu cho Ngài. Vậy dụ ngôn này có một giá trị đặc biệt để giúp Kitô hữu suy nghĩ đúng đắn. Dụ ngôn này dạy ta phải hiểu biết cách hành động của Thiên Chúa, Ngài dùng tự do để bày tỏ tình yêu của Ngài.
32. Đeo mặt nạ
Sự giả dối dường như mỗi ngày một gia tăng và con người dường như thích đeo mặt nạ trong cuộc sống. Thực vậy, mặt nạ là cái mà người ta dùng để che dấu bộ mặt đích thực của mình.
Vậy thì công dụng của nó như thế nào? Với mặt nạ, trước hết người ta muốn lừa gạt kẻ khác. Đúng thế, bề trong có khi thù oán, tức tối, nhưng bề ngoài lại tỏ ra hòa nhã, dễ chịu. Mặt nạ của chúng ta thường thì không xấu, nhưng có những nét đẹp và lôi cuốn, để nhờ đó tìm được những cảm tình và lợi lộc nào đó. Người đeo mặt nạ đạo đức để dối gạt kẻ khác, thì tư tưởng không đi đôi với lời nói và lời nói lại không đi đôi với việc làm. Nói một đàng làm một nẻo như tục ngữ vốn diễn tả: Miệng nam mô bụng bồ dao găm. Khẩu phật tâm xà. Bề ngoài thì thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không gươm. Trong khi đó Chúa đòi chúng ta phải thành thực: có nói có, không nói không, thêm ra bớt vào là do ma quỉ.
Tiếp đến, với mặt nạ, chúng ta lừa dối chính bản thân chúng ta. Thực vậy, chúng ta cố gắng tạo ra cho mình những ảo tưởng. Chúng ta bao quanh mình những huyền thoại, tưởng rằng mình có nhân đức này, nhân đức kia như một đám mây rực rỡ bao phủ. Để rồi từ đó, chúng ta lên mặt kênh kiệu. Chúng ta tưởng rằng mình kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, nhưng vào giây phút cuối cùng ta sẽ vô cùng sửng sốt khi thấy sự thật không phải là như thế. Chúng ta tô vẽ cho Thiên Chúa theo như những ý tưởng và ước muốn riêng tư của chúng ta. Và lúc đó Thiên Chúa trở nên một tượng thần nhảm nhí do tay người phàm làm nên như Kinh Thánh đã trách cứ. Đang khi chúng ta phải trở nên giống Ngài thì chúng ta lại bắt Ngài trở nên giống chúng ta. Miệng chúng ta không ngừng đọc lời kinh Chúa dạy: Vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời, nhưng trong thực tế, chúng ta lại luôn tìm thỏa mãn cho những ước muốn và dục vọng riêng tư. Chúng ta bằng lòng với những dáng bộ đạo đức bên ngoài, nhưng một khi chiếc mặt nạ bị rớt xuống, chúng ta sẽ phải bẽ bàng như lời Chúa phán với bọn biệt phái: chúng giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng toát, nhưng bên trong thì lại đầy dòi bọ cùng mọi thứ hôi thối. Nhưng nguy hiểm hơn là chúng ta lại muốn dùng chiếc mặt nạ ấy để dối gạt chính Thiên Chúa. Đây quả thực là một việc làm điên khùng và dại dột, đây cũng là một việc làm xưa như trái đất mà con người luôn cố gắng thực hiện.
Adong Eva ngay sau khi phản bội cùng Thiên Chúa, liền ẩn náu nơi bụi rậm. Ngày nay chúng ta cũng ẩn náu dưới nhiều danh hiệu khác nhau. Nào là vẻ hào nhoáng bề ngoài, nào là những ý thức hệ đạo đức, nào là những hành động khua chiêng gõ mõ ầm ỉ. Phải chăng đó cũng là cái moden của thời đại. Tuy nhiên chúng ta cần phải nhớ rằng, có một cặp mắt thấu suốt mọi điều bí ân, đó là cặp mắt của Thiên Chúa. Ngài đòi chúng ta phải chịu trách nhiệm về những hành động của mình. Mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm dù bí ẩn đến đâu cũng không thể qua khỏi tầm mắt của Ngài. Trong ngày thẩm phán cuộc đời chúng ta như một trang sách mở rộng trước tôn nhan Ngài. Hãy chấm dứt trò chơi đeo mặt nạ để lừa gạt kẻ khác, bản thân và Thiên Chúa. Hãy sống thành thực, kẻo chúng ta phải bẻ bàng, khi cuộc sống giả tạo ấy bị phanh phui…
Câu chuyện dụ ngôn thuê mướn thợ làm vườn nho hình như có vấn đề gây thắc mắc: làm sao ông chủ có thể trả công đồng đều cho tất cả những người thợ làm việc ở các thời điểm khác nhau? Ông chủ có công bằng chăng khi đối xử với những người chỉ làm một giờ ngang bằng với những người làm vất vả cả ngày?
Thật ra ông chủ đã đối xử sòng phẳng với những người làm việc từ sáng sớm. Ông ta đã trả mỗi người một đồng đúng như đã thoả thuận. Ông ta không bóc lột sức lao động của ai cả: có làm có trả lương tương xứng, nếu ông ta không gọi thêm thợ thì mọi chuyện bình thường, chẳng có vấn đề gì, nhưng vì có nhóm thợ làm ít giờ hơn cũng được trả lương bằng mình, nên có việc ganh tị, và nhất là đánh giá tiêu cực về ông chủ.
Câu chuyện này chúng ta thấy nổi bật hai vấn đề: Cách đối xử của ông chủ và phản ứng của những người thợ. Ông chủ vườn nho đây là hình ảnh Thiên Chúa, Ngài tốt lành vô cùng, lòng nhân từ của Ngài vượt lên trên tất cả những thứ trả công mà người đời sử dụng với nhau trong cuộc sống, Ngài rất công bằng và thương yêu vô tận. Vì vậy, ngoài sự công bằng, Ngài còn yêu thương chúng ta theo tự do và tình yêu của Ngài. Trước lời phàn nàn của những người thợ làm từ sáng sớm mà cũng lãnh công như những người làm sau, Ngài đã khẳng định quan điểm của Ngài, Ngài hoàn toàn tự do làm theo ý định của mình, Ngài muốn làm cách nào, lúc nào, chọn ai đều tuỳ ý Ngài mà không phải lệ thuộc ai cả. Tuy có quyền tự do của mình, nhưng Thiên Chúa không dùng tự do đó mà làm thiệt hại cho người khác: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn”. Thiên Chúa luôn công bằng, chỉ có con người mới đối xử bất công với nhau vì thiếu lòng nhân từ, vì cách nhìn ghen tị của mình.
Quả thật, ông chủ vườn nho được tự do dùng tiền của mình, thì tại sao Thiên Chúa lại không được tự do trong việc yêu thương? Ông chủ trả lương rộng rãi với nhóm người này mà vẫn giữ công bằng với nhóm kia, thì Thiên Chúa trải rộng tình thương của Ngài đến mọi người mà không cần theo tính toán của người đời. Cách xử sự của Thiên Chúa khác xa với cách xử sự của mọi người. Có lẽ khó gặp được chuyện này trong cuộc sống hằng ngày, nhưng lại xảy ra hằng ngày trong đời sống thiêng liêng: Thiên Chúa ban ơn nhiều hơn lòng mong đợi của con người.
Thiên Chúa rất nhân từ và tốt lành, Ngài ban ơn cho mỗi người và mọi người mà không tính toán thời điểm, tuổi tác. Chỉ có con người là hẹp hòi, ích kỷ đối với nhau qua hình ảnh những người thợ làm vườn nho. Những người làm từ đầu, làm nhiều giờ hơn, không vui mừng khi thấy ông chủ trả lương cho những người vào làm sau, làm ít giờ hơn cũng bằng họ, họ đã ghen tị đến đấu tranh với ông chủ, đó là tâm trạng chung của con người chúng ta: hay so đo, tính toán, thắc mắc, phân bì, ghen tị, ganh ghét.
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội nặng. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những thành công của người khác. Người ta ghen tị về đủ mặt: của cải, tài ba, nhan sắc, thành công, nhân đức. Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị những gì mình có, không thoả mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế của mình, lúc nào cũng thấy núi khác cao hơn. Người ta ghen tị nhau vì kiêu ngạo, vì ích kỷ, không muốn ai thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ hơn mình. Càng liên hệ thân thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới ghen tị nhau, chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt, hàng cá… ghen tị nhau.
Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ ghen tị và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con, nhưng chính chúng ta cũng nên phản tỉnh lại xem: chúng ta có hơn trẻ con không? Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi, giúp đỡ họ. Cho nên, thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là đi chia vui. Có ai vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn, thành công chăng? Hay là chúng ta tủi thân, rồi mỉa mai, bôi bác họ?
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen tị sinh ra ghen ghét, ghen ghét sinh ra oán thù. Ghen tị thường đi đến chỗ nói xấu, nói hành, dèm pha, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm mất tình bác ái và gây nên bao gương mù gương xấu. Vì thế, chúng ta phải tốp ngay, phải ngưng ngay cái tật xấu ghen tị này. Chúng ta phải biết đánh giá trị đúng của anh em mà vui cùng kẻ vui. Chúng ta phải tránh sự ghen tị như tránh rắn độc.
Tóm lại. Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, chúng ta phải luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không là gì cả, lúc nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là do Chúa ban, Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Thứ hai, mỗi người hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và gây nên những gương mù gương xấu. Xin Chúa cho chúng ta biết đánh giá trị đúng về mình và về anh em, để chúng ta không phân bì, kể công với ai và cũng không phân bì, ghen tương ai.
Có lẽ bài học đầu tiên chúng ta biết về lẽ công bình đã xảy ra ở trên bàn ăn khi người mẹ phân chia những miếng bánh cho các con mình. Con mắt ganh tị của chúng ta đã phân biệt từng chi tiết nhỏ xem miếng nào lớn hơn, ngon hơn, và đáng giành hơn, rồi than phiền: “Mẹ, mẹ cho em miếng bánh lớn hơn miếng của con!” Chúng ta đã không biết nhiều về lẽ công bình, nhưng chỉ biết đến nó khi nhận phần bánh nhỏ hơn. Nếu khôn ngoan, người mẹ có thể giải thích: “Con ơi, sớm muộn gì con cũng sẽ phải học để biết rằng cuộc đời không luôn luôn công bằng đâu!” Điều này trẻ con chưa thể hiểu được, nhưng sau này lớn lên chúng sẽ hiểu.
Đúng như vậy! Cuộc đời không luôn luôn công bằng. Và nhận ra được điều này cũng không phải là dễ, Có lẽ phải mất một thời gian khá lâu trước khi chúng ta biết được rằng người mẹ hay Thiên Chúa có những lý do chính đáng để hành động, và những lý do này thường căn cứ trên tình yêu, lòng nhân từ và quảng đại.
Trước hết, người mẹ đã làm ra chiếc bánh và có thể cho theo ý người mẹ muốn. Thứ đến, nếu người em của tôi có vẻ bệnh – đây là điều khi còn bé tôi không bao giờ nghĩ đến – người mẹ có thể cho nó thêm một tí nữa để có sức khoẻ, mau khỏi bệnh. Nhưng chắc chắn một điều là người mẹ hay Thiên Chúa, Đấng đã làm nên mọi sự, không bắt buộc phải cắt nghĩa cho chúng ta biết lý do. Khi chúng ta lớn lên, chúng ta sẽ nhận ra rằng người mẹ và Thiên Chúa thường có những lý do riêng dựa trên tình yêu. Các ngài nhìn thấy điều chúng ta cần.
Điều này được diễn tả trong bài Phúc âm hôm nay, dụ ngôn thợ làm vườn nho. Đối với công đoàn lao động, việc người chủ vườn trả tiền mướn cho các nhân công làm việc chỉ một giờ hay vài giờ cùng số tiền lương trả cho những người làm việc suốt ngày từ sáng đến tối là điều bất công. Nhưng trước khi chúng ta nói người chủ hay Thiên Chúa bất công, xin hãy đọc kỹ những lời người chủ nói với những người than phiền trong Phúc âm: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?”
Tại sao người chủ đã trả cho những người đến sau cùng số lương bằng với những người làm việc suốt ngày? Thưa vì tình thương! Tất cả các công nhân đều có gia đình, cần tiền để nuôi vợ con. Thứ đến, người chủ biết những người đến vào giờ phút cuối đã đi tìm việc làm suốt ngày mà không có. Đối với người chủ cả hai lý do đều tốt lành để hành động và không ai có lý do gì để phê bình ông cả. Nhưng không may, những con mắt ganh tị do lòng ích kỷ đã làm họ trở nên bất mãn.
Cuốn phim “Amadeus” kể về cuộc đời của thiên tài âm nhạc, Wolfgang Amadeus Mozart (1756 – 1791). Câu chuyện diễn tả Mozart như một con người khá kỳ dị, gần như bị bệnh loạn thần kinh, nhưng lại là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác rất tài ba.
Một trong những nhân vật đáng chú ý nhất trong cuốn phim, bên cạnh Mozart, là nhạc sĩ Solieri. Solieri là nhạc sĩ của hoàng cung đã nổi giận với Mozart vì ông tự cho mình là xứng đáng và giỏi hơn Mozart. Solieri đã khinh ghét và coi Mozart chỉ là một tên trẻ con, suồng sã, kiêu căng và khả ố. Tại sao Mozart lại có thể là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác tài ba như vậy được trong khi tư cách của Mozart không xứng đáng? Trái lại, Solieri là đầy tớ của Thiên Chúa, vâng phục Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Chính ông mới là con người tốt hơn và xứng đáng hơn, vậy tại sao Thiên Chúa đã không ban cho ông món quà tài năng này mà lại ban cho Mozart?
Ngoài tính nết trẻ con, Mozart còn quá lố hơn nữa, dám vượt ra ngoài những giới hạn cổ truyền có thể chấp nhận được. Tuy vậy, vua Joseph II Ao Quốc vẫn thích Mozart. Mozart xin phép vua được sáng tác một vở nhạc kịch bằng tiếng Đức. Vào lúc đó, chưa có ai được phép sáng tác nhạc kịch bằng tiếng Đức cả. Tất cả nhạc kịch đã được sáng tác và trình diễn đều bằng tiếng Ý. Solieri, một người Ý, vừa bị sỉ nhục về tài năng, vừa bị đe doạ về chức nghiệp vì vở nhạc kịch bằng tiếng Đức của Mozart.
Solieri rất ganh tị và buồn bực vì bản nhạc kịch của Mozart đã thành công rực rỡ. Khắp nơi đều vang lên những lời ca ngợi về nhạc của Mozart cho đến nỗi chính Solieri cũng phải yêu thích nó. Tuy nhiên, ông lại muốn là chính ông đã sáng tác ra nó. Solieri biết rằng Thiên Chúa đã ban cho Mozart một thiên tài âm nhạc mà chính ông mới xứng đáng chứ không phải Mozart. Trong giây phút phẫn uất và tuyệt vọng, Solieri cảm thấy Thiên Chúa đã bỏ rơi ông, ông gỡ ảnh thánh giá treo trên tường xuống, đem đi đốt. Ông muốn không có sự thiên vị và đòi hỏi sự công bằng. Ông muốn được Thiên Chúa ban cho tài năng để làm việc phục vụ Ngài. Tuy nhiên như chúng ta thấy trong bài Phúc âm hôm nay, tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa rất khác với những nguyên tắc của con người về lẽ công bằng!
Pascal đã nói: “Con tim có lý lẽ riêng của nó”. Khi yêu ai người ta dám hy sinh tất cả mọi sự, ngay cả mạng sống mình cho người mình yêu. Sự kiện Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi đã ban Con Một Người xuống trần gian, chịu chết trên thập giá vẫn là một mầu nhiệm khó hiểu của tình yêu Thiên Chúa.
Trong cuốn tiểu thuyết được soạn thành nhạc kịch “Những Kẻ Khốn Cùng” (Les Miserables), của Victor Hugo, nhân vật chính là Jean Valjean, đã được thả ra sau 19 năm chịu khổ sai trong tù. Anh bị tù vì tội ăn cắp một ổ bánh mì cho những người con của bà chị ăn qua cơn đói. Sau khi được tự do, anh bước đi lang thang cả ngày để tìm thức ăn và chỗ ngủ qua đêm, không một ai trong làng dám chứa chấp một người đã có án tù ở trong nhà. Sau cùng, một vị giám mục tốt lành đã mở cửa đón tiếp Valjean với một bữa ăn tối và chỗ ngủ qua đêm. Tại bữa ăn tối, bà giúp việc cực lực phản đối giám mục đã ra lệnh cho bà phải dọn bàn ăn với bộ muỗng dĩa bằng bạc mà toà giám mục thường dùng để tiếp khách. Đêm hôm đó, valjean đã ăn cắp toàn bộ muỗng dĩa bằng bạc, rồi trốn ra khỏi nhà.
Ngày hôm sau trên đường tẩu thoát, anh nói dối với cảnh sát rằng Đức giám mục đã ban cho anh những món đồ quý giá làm kỷ niệm. Nghi ngờ, cảnh sát đem anh trở lại toà giám mục với những món đồ đã bị ăn cắp. Khi họ vừa đến toà giám mục, Đức giám mục đã nói ngay rằng ngài rất vui mừng gặp lại Valjean, vì ngài muốn tặng thêm cho anh những cái chân đèn bằng bạc nữa. hành động tha thứ và nhân từ đáng kính phục này đã gây ảnh hưởng lớn lao trên cuộc đời của Valjean tới nỗi anh đã thay đổi hoàn toàn, và trở thành một con người mới. Sau cùng anh đã dâng hiến cuộc đời còn lại để phục vụ tha nhân với lòng nhân từ hơn là lẽ công bằng.
Người chủ vườn nho đã cư xử với các công nhân theo định luật của tình yêu và lòng nhân từ, không phải luật lệ của kinh tế hay toán học nhắm vào tư lợi.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo ZENIT ngày 3/12/2000, Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận đã diễn tả những kinh nghiệm của ngài về 13 năm tù tội. Với những bạn tù không Công giáo, tọc mạch muốn biết làm cách nào ngài có thể giữ vững niềm hy vọng của ngài, ngài trả lời: “Tôi đã bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu, bởi vì tôi yêu những khuyết điểm của Chúa Giêsu”. Tồng giám mục, lúc đó nói: “Trong lúc hấp hối trên thánh giá, người trộm cướp xin Chúa nhớ đến hắn khi Chúa vào Vương Quốc của Người. Nếu là tôi, tôi sẽ trả lời: “Tôi sẽ không quên anh, nhưng anh phải đền các tội ác của anh trong luyện ngục”. Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi”. Chúa đã quên tội lỗi của người này. Cũng một sự việc đã xảy ra với bà Mary Magdalene, và với người con trai phung phí. Chúa Giêsu không nhớ tí nào, Người tha thứ cho toàn thế giới”.
“Chúa Giêsu không biết toán học”, ngài nói thêm: “Điều này được thấy rõ trong dụ ngôn người mục tử tốt lành. Người có 100 con chiên, một con bị thất lạc và không ngần ngại Người đi kiếm nó, để 99 con khác trong chuồng, đối với Chúa Giêsu, một con giá trị bằng 99 con, hay là có khi hơn nữa.
Dụ ngôn người thợ làm vườn nho được bắt đầu bằng chữ “Nước Trời”. Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa và luật lệ của Nước Trời. Trong cuốn “The Divine Trap”, Ric-hard Hoefler nói rằng: “Trước hết Thiên Chúa là người chủ tuyệt đối. Theo như dụ ngôn nói với chúng ta, Người làm điều mà Người muốn làm với cái gì thuộc về Người. Vương Quốc Thiên Chúa không phải là một nền dân chủ nơi mà chúng ta quyết định cái cách thức những sự việc sẽ được làm bởi một đa số phiếu bầu cử”.
Chúa Giêsu đã nói dụ ngôn này không những với các môn đệ của Ngài, mà còn cho các người Biệt phái, là những người đã có quan niệm rằng Vương Quốc Thiên Chúa thuộc quyền sở hữu chủ của họ. Ric-hard Hoeffer đã nhận xét:
“Những người Biệt phái đã quên điều này. Vương Quốc Thiên Chúa thuộc về Thiên Chúa. Chúa Giêsu đối chất với họ rằng các ông đã khoe mình là những người đạo đức, có phải vậy không? Mọi người đều biết và kính trọng các ông vì điều này. Đó là tiền công các ông đã được trả. Đó là điều Thiên Chúa thưởng cho các ông. Còn đối với những người khác, những người tội lỗi và nghèo khó, họ có sự liên hệ độc đáo của họ với Thiên Chúa. Ngài sẽ cư xử với họ theo như Ngài muốn, vì tất cả đều chỉ là những công nhân trong vườn nho của Ngài. Trong vườn nho này, Thiên Chúa là chủ. Ngài có quyền tuyệt đối phân phát tiền lương và phần thưởng tuỳ theo ý của Ngài và chỉ có thánh ý Ngài mà thôi”.
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã viết: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các người, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy”.
Hãy cảm tạ Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta đến làm việc trong vườn nho của Ngài. Hãy bằng lòng với những ơn lành của Ngài thay vì đòi hỏi và ganh tị. Hãy dâng lên Thiên Chúa tâm tình phó thác như lời cầu nguyện của Đức Hồng Y John Henry Newmann:
“Chúa đã ủy thác cho tôi vài công việc mà Ngài không ủy thác cho kẻ khác. Tôi có sứ mệnh của tôi. Có thể tôi không bao giờ biết được nó trong cuộc sống này nhưng trong cuộc sống mai hậu ắt tôi sẽ rõ. Vì thế, tôi tin vào Ngài. Ngài không làm điều gì vô ích. Ngài có thể kéo dài hay rút ngắn cuộc sống của tôi; Ngài biết rõ điều Ngài định làm. Ôi lạy Chúa, con xin hiến dâng trọn vẹn toàn xác hồn con trong tay Ngài”.
36. Dụ ngôn ‘Những người làm vườn nho’
Thường thích nói cầu xin Chúa ban ơn. Để Chúa ban ơn phải sám hối và được Chúa tha tội để có ơn thánh hoá. Hôm nay nói rõ thêm: Phải làm việc "làm vườn nho Chúa" mới được trả công xứng đáng. Là củng cố cho khẳng định "ngoài Giáo Hội không có cứu độ".
Vườn nho là Nước Trời. Ông Chủ là Thiên Chúa. Thuê người làm là Thiên Chúa mời gọi. Gặp ai Người cũng đều mời gọi. Có làm vườn nho, có công mới có thưởng. Thiên Chúa thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự đáp lại lời Người mời gọi và tuỳ theo việc làm của mỗi người (theo sự đánh giá của Ngưòi). Thiên Chúa biết việc Người làm (chúng ta làm sao biết!). Phải hiểu bài Phúc âm theo những áp dụng trên.
CHÚ GIẢI
- Thuê người làm vườn nho: Thiên Chúa mời gọi mọi người mà Người gặp gỡ đi làm vườn nho là gia nhập và làm việc trong nước của Người là Giáo Hội.
- Thoả thuận với họ là mỗi ngày một đồng: hợp đồng "Làm việc" để được Nước Trời. Được hay không được. Không có ít hay nhiều.
- Ông sai họ đi làm vườn nho: Đức Giêsu, các tông đồ, Giáo Hội rao giảng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ai tin, chịu phép rửa, gia nhập Giáo Hội, làm việc "những điều Đức Giêsu dạy....."
- Giờ thứ ba, ông trở ra chợ thấy có những người ở không, ông bảo "hãy đi làm vườn nho Ta, Ta sẽ trả công xứng đáng: Gặp là gọi và hứa "trả công xứng đáng (tuỳ theo việc họ làm, không hợp đồng cụ thể). Không gặp thì không gọi được. Phải cho Chúa gặp.
- Giờ thứ sáu, giờ thứ chín, giờ thứ mười một..: Sao các anh "không làm gì hết", hãy đi làm vườn nho cho Ta: Không có giờ thứ 12 hay 13. Làm việc một giờ cũng là có làm. Giờ 12 thì có làm gì để đánh giá và thưởng. Chờ giờ 12, mới gặp (không gọi). Có người tính toán "để gần chết hãy xin rửa tội được lên thiên đàng ngay"? Không biết ai bày chuyện nầy?
- Chiều đến, trả công.. bắt đầu từ người đến sau hết: Nếu bắt đầu từ người trước hết cho họ về trước thì không có cãi cọ. Câu chuyện được sắp đặt (chứ không tự nhiên) để nói vế những người được mời gọi trước hết là Israel (nhất là biệt phái và luật sỉ) cằn nhằn, trở nên sau hết, bị loại trừ (như đã xảy ra mà không cằn nhằn được!). Muôn dân được mời gọi sau là do ý định của Thiên Chúa sắp xếp và rõ ràng họ "làm việc" tốt hơn người Do thái. Họ xứng đáng ơn cúư độ. Và chúng ta thấy không có vấn đề "cằn nhằn" vì Thiên Chúa trả công cho mọi người "xứng với việc họ làm" (theo đánh giá của Thiên Chúa).
- Những kẻ trước hết thì trở nên sau hết....: bị loại hết thì những kẻ sau hết tự nhiên được đôn lên trước hết. Do thái bị loại hết thì còn dân ngoại thôi. Sau trở thành trước.
- Được gọi thì nhiều mà được chọn thì ít: Có điều kiện như qui định thì mới chọn. Không có "nhưng không". Không đủ điều kiện thì bị loại là lẽ đương nhiên. Những kẻ được gọi phải "cho" điều kiện để được chọn. Không thể xấu tốt gì cũng chọn.
Thiên Chúa nhân hậu và công bình. Là sự công bình của con tim (chứ không phải của lý trí vô cảm). Thiên Chúa phải như vậy mới là Thiên Chúa toàn thiện, vừa công bình mà cũng vừa nhân hậu. Cằn nhằn vì không hiểu cách hành xử của Thiên Chúa.
Thiên Chúa gặp ai cũng gọi. Gặp trước gặp sau là do ý định của Người trừ khi người ta trốn tránh Thiên Chúa, cố tình từ chối Thiên Chúa, không chịu đi làm vườn nho.
Có công mới có thưởng. Vô công bất thụ lộc. Người chân chính không có công không nhận lộc. Con người thường xin Chúa ban "nhưng không". Làm vườn nho Chúa thì mới có công. Không chịu giữ đạo Chúa mà muốn lên thiên đàng hoặc đợi gần chết mới chịu phép rửa hoặc chịu phép rửa mà không giữ đạo đợi giờ chết nhờ người ta rước cha xức dầu. Muốn vào thiên đàng vào giờ thứ 25. Không làm vườn nho Chúa, Chúa đâu phải trả công "Nước Trời".
Thiên Chúa rất nhân từ nhưng cũng công bình vô cùng. Nhân từ có lý do. Nhưng lý do của Thiên Chúa chúng ta không biết nổi vì chúng ta hẹp hòi, ích kỷ. "Ta tốt bụng còn bạn thì hẹp hòi" cằn nhằn.Thiên Chúa không hề hà, hệt hạt, tuỳ tiện. Thiên Chúa thấy tường tận, chí lý khi hành động còn chúng ta chỉ thẩy phiến diện vì chúng ta bị giới hạn "thụ tạo".
Hãy nhân từ như Cha trên trời là Đấng nhân từ. Ngưòi muốn lòng nhân từ hơn của lễ.
37. Thợ làm vườn nho – Radio Veritas Asia
Kể từ ngày Mẹ Têrêsa Calcutta qua đời, chúng ta đã biết không đầy hai năm sau khi Mẹ qua đời, hồ sơ phong chân phước cho Mẹ đã được khởi sự. Đây quả là một kỷ lục trong Giáo Hội, nhưng Mẹ Têrêsa Calcutta không chỉ là một vị thánh của Giáo Hội mà còn là một vĩ nhân của thế giới. Mẹ không chỉ là một mẫu gương thánh thiện cho các tín hữu Kitô, nhưng Mẹ còn để lại một gia sản tinh thần chung cho cả thế giới, gia sản đó là người ta không thể giải quyết mọi vấn đề đau khổ của nhân loại chỉ bằng tiền của vật chất, kỹ thuật, mà bằng trái tim rộng mỡ, bằng tấm lòng quảng đại.
Trước dư luận cho rằng, Mẹ Têrêsa không chủ trương giải quyết vấn đề nghèo đói tại Ấn Độ một cách tận căn. Mẹ đã trả lời:
“Tôi cảm thấy mình là người Ấn Độ cho đến tận đáy tâm hồn tôi. Những chiếc aó dòng cho phép các nữ tu cảm thấy mình nghèo với những người nghèo, được đồng hóa với những người tàn tật, những trẻ em, những người già cả và những người kém may mắn. Với cách ăn mặc như thế, các nữ tu thừa sai bác ái đã chia sẻ cuộc sống của những người nghèo khổ nhất trên thế giới. Dĩ nhiên, Ấn Độ cần có các chuyên viên, những nhà chuyên môn, các kinh tế gia, các y sĩ, các y tá để phát triển. Ấn Độ cần có một chương trình hoạt động rộng rãi được phối hợp chặt chẽ, nhưng chúng ta phải chờ đợi cho đến bao giờ các chương trình ấy được thực hiện? Chúng tôi không biết, nhưng trong khi chờ đợi thì dân chúng cần phải sống, cần phải có của để ăn, cần phải được săn sóc. Địa bàn hoạt động của chúng tôi tại Ấn Độ hiện nay là, bao lâu người dân còn cần những nhu cầu ấy thì chúng tôi còn tiếp tục công việc của mình”.
Quả thực, trong trái tim đơn thành, khiêm tốn, trong sạch của Mẹ Têrêsa Calcutta không hề có những chương trình vĩ đại, Mẹ chỉ thấy sự cần thiết trước mắt là sự nghèo đói khốn khổ của người đồng loại. Nhưng tấm lòng cảm thông và thông cảm ấy không chỉ thấy người dân đói khổ về vật chất, nhưng đôi mắt từ ái của Mẹ Têrêsa còn nhìn thấy một nỗi khổ khủng khiếp hơn của người đồng loại, đó là nỗi khát khao được yêu thương. Mẹ Têrêsa không chỉ trao ban một miếng bánh, một chén cơm, không chỉ trùm trên thân xác đói lạnh một tấm chăn, không chỉ băng bó một vết thương trên thân xác, nhưng món quà quí giá nhất mẹ ban chính là tình thương.
Đây vốn là nhu cầu cơ bản và thiết yếu nhất của mỗi con người, dù con người ấy sống trong một nước nghèo khổ như Ấn Độ hay trong một đất nước phồn thịnh như Hoa Kỳ. Mẹ đã tóm tắt chương trình hành động của Mẹ trong câu nói: “Tôi không bao giờ săn sóc cho các đám đông, tôi chỉ săn sóc cho một người mà thôi”. Quả thực, trong ánh mắt từ ái của Mẹ không có đám đông vô danh, không có con số trong đám đông mà chỉ có từng cá nhân trước mắt cần được yêu thương mà thôi. Trong trái tim đầy yêu thương của Mẹ không có chương trình hành động vĩ đại, mà chỉ có những cử chỉ cụ thể mà con người có thể làm cho từng đồng loại của mình mà thôi.
Thế giới ngày càng làm ra nhiều của cải vật chất, thế giới ngày càng có nhiều chuyên viên kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý. Dĩ nhiên, thế giới ngày càng có nhiều chương trình vĩ đại hơn, xóa bỏ bất công và xóa đói giảm nghèo, thế nhưng bất công và đói khổ vẫn còn đó. Như vậy, trong lịch sử nhân loại, chương trình vĩ đại nhất để xóa bỏ bất công, san bằng xã hội, hẳn phải là một số chế độ độc tài. Kết quả của chương trình hành động vĩ đại này thật là thảm khốc, người ta xóa bỏ một bất công để tạo nên những bất công mới, người ta đạp đổ một nhà tù để xây thêm nhiều nhà tù mới, người ta nại đến nhân quyền để chà đạp nhân quyền.
Thật ra, loài người muốn xóa bỏ mọi thứ bất công bằng tiền của và các phương tiện kỹ thuật, xét cho cùng trong sự tính toán của loài người thì tiền của vẫn là điểm quy chiếu tối hậu, đó là tư tưởng và cách giải quyết của loài người chúng ta. Còn tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa như chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất (x.Is 55,6-9), đường lối và cách giải quyết của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác với loài người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đi vào tư tưởng, đi vào sự tính toán và cách giải quyết của Ngài. Thiên Chúa dựa trên một tiêu chuẩn khác với tiêu chuẩn và các phương tiện kỹ thuật, tiêu chuẩn đó là tình yêu, lòng độ lượng khoan dung, sự tha thứ cách quảng đại, tinh thần phục vụ dấn thân cách đắc lực. Đây là việc làm mà Chúa Giêsu luôn mời gọi mọi người thực hành đức công bình bác ái với mọi người: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Đây là tiêu chuẩn mà Chúa Giêsu muốn làm nổi bật qua dụ ngôn được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, chúng ta sẽ ngạc nhiên về cách giải quyết của Thiên Chúa, là người thợ chỉ làm có một giờ cũng lãnh bằng những người thợ làm quần quật suốt ngày. Với cách cư xử của ông chủ vườn nho, Thiên Chúa muốn cho chúng ta thấy cách cư xử độ lượng của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người. Ngài cho chúng ta thấy rằng, bất công trong xã hội và tất cả mọi khổ đau của con người chỉ có thể giải quyết được bằng tình thương mà thôi. Sự thật hiển nhiên là thế giới không bao giờ thiếu của cải, có thiếu chăng chỉ là thiếu tình thương, thiếu lòng quảng đại, thiếu sự chia sẻ mà thôi. Thiếu tình thương thì không những người nghèo quằn quại trong đói khổ và cả người giàu cũng héo hắt trong vỏ ốc ích kỷ của mình.
Chúng ta được diễm phúc dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể, Tấm Bánh được bẻ ra để chia cho tất cả mọi người. Chúa Giêsu đến với chúng ta qua dấu chỉ ấy để mời gọi chúng ta quảng đại chia sẻ với mọi người. Xã hội sẽ không bao giờ hết những bất công và đau khổ, nhưng bất công và đau khổ sẽ vơi đi biết bao nếu mỗi người biết lấy tình thương, lòng quảng đại và sự chia sẻ đối với nhau. Đó phải là niềm xác tín của chúng ta trong cuộc sống mỗi ngày.
38. Hãy bằng lòng với những gì mình có
Bằng lòng hay chấp nhận cho dù mình được bất cứ điều gì, đó là điểm chính yếu của bài phúc Âm hôm nay. Trong sâu thẳm cõi lòng mỗi người chúng ta, ai cũng mong muốn được một cuộc sống trọn vẹn, đầy đủ: như là một người hoàn toàn; có tất cả mọi sự; có sự bình an trong tâm hồn; không vướng mắc những bận tâm và những thất bại trong cuộc sống. Chúa Giêsu đã phán “Sự bình an của Ta là quà tặng cho các con.” Qua và trong Chúa Kitô, Thiên Chúa ban sự bình an cho chúng ta, không phải sự bình an của thế trần ban cho chúng ta. “Ta không cho ban cho các con theo như cách thức của thế gian ban cho.” Chúa Giêsu nói với chúng ta sự bình an mà thế gian ban tặng chỉ là sự bình an tạm thời giữa những lúc yên lặng và chống đối. Sự bình an của Chúa Giêsu là món quà “Shalom.”
“Shalom” có nghĩa là: Trọn vẹn cuộc sống của bạn hoàn toàn có mục đích; có tất cả từ tinh thần cũng như vật chất. Bạn cảm nghiệm được bạn là một con người được Thiên Chúa tạo nên trong chương trình cứu rỗi của Ngài. Sự cao cả đó thì vượt quá khả năng của con người, ngay trong tư tưởng cũng không thể có được. Vì, những sự đó chính là sự kết hợp liên lỉ không ngừng được phát xuất từ chính Mầu Nhiệm nơi Thiên Chúa.
Thánh Phaolô viết trong thư thứ nhất gởi cho các tín hữu Corintô như sau: “Chúng tôi giảng dậy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển...điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã định sẵn cho những ai yêu mến Người.” (I Cor 2:7-9). Do đó hãy luôn bằng lòng!
Linda là sinh viên đại học năm thứ nhất. Cô ta quyết định không liên lạc với những người con trai đang dùng mọi cách để quen với cô ta. Sau khi nghe cô ta than phiền về những chàng trai đó, người bạn cùng phòng với Linda tìm cách giới thiệu cho Linda một người bạn trai. Cô ta hỏi Linda muốn có người bạn trai miền Bắc hay miền Nam. Lấy làm lạ vì câu hỏi đó, Linda hỏi lại rằng “Họ có gì khác biệt? Người bạn giải nghĩa, “Trai miền Nam thì hiền hoà dễ thương, hay mơ mộng. Còn trai miền Bắc thì thích hoạt động, thích đi chỗ này chỗ kia và nhất là những nơi có nhiều niềm vui.” Linda suy nghĩ một lúc thật lâu về những sự khác biệt đó rồi hỏi: “Có thể tìm cho tôi người bạn trai miền Nam, nhưng thật khác biệt với người con trai miền Bắc hơn nữa được không?”
Chúng ta thường hay tìm những cách thức này hay cách khác để mặc cả với cuộc sống. Chúng ta không chấp nhận mầu nhiệm Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta qua Chúa Giêsu và cuộc sống của chính mình qua cặp mắt nhân loại. Sau cùng chúng ta khám phá ra chúng ta đã rơi vào sự mù tối đó.
Một vài người trong chúng ta cảm thấy tìm kiếm sự hoàn hảo của cuộc sống là chạy trong vòng tròn không lối ra. Như, thấy mình không thua kém ai. Và có những người nghĩ rằng sự hoàn hảo của cuộc sống bình thường như một màn biểu diễn thời trang và nhan sắc. Chúng ta thường tìm nhiều mánh khoé để chiếm được sự hoàn hảo đó, nhưng sau cùng, khi chúng ta đứng trước sự thật thì những mánh khoé không giúp gì cho chúng ta.
Khi trải qua những khó khăn đó, chúng ta mới cảm nghiệm được Thiên Chúa đang cố đem đến cho chúng ta nguồn gốc của sự sống hoàn hảo, chính là tình yêu đã được mạc khải cho chúng ta trong Chúa Kitô. Cho đến khi nhận được sự thật đó, thì chúng ta đã uổng công phí sức vì thấy chính những sự thoả mãn tạm bợ đã kéo chúng ta vào hố sâu.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, chủ vườn nho thuê những người làm công và đồng ý trả công cho họ. Sau khi họ làm được vài giờ, ông chủ vườn cũng mướn những người khác vào làm như họ. Sau ngày làm việc, ông chủ trả tiền lương cho những người thợ như đã thỏa thuận. Người làm trước cũng bằng người làm sau. Những người thợ làm trước không cảm thấy hài lòng nên nói với chủ vườn: “Ông trả cho họ bằng chúng tôi sao?” Chủ vườn nói với họ, “Tại sao lại ghen tỵ, vì tôi rộng lượng chăng?” Chúa Giêsu kết thúc dụ ngôn như sau: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết.” (Mt 20:16).
Một người quảng cáo kể một câu chuyện về một người trong nhóm họ treo một bảng hiệu trước nhà mình như sau: “Tôi sẽ tặng mảnh đất này cho những ai cảm thấy mình thật sự thỏa mãn, có đủ mọi sự.” Một chủ nông trại giàu có đi ngang qua, đọc thấy, nên đến với chủ nhà và nói: “Tôi là người thích hợp nhất để được mảnh đất của ông, vì tôi có đủ điều kiện mà ông muốn: Tôi rất giầu có. Tôi có tất cả mọi sự tôi muốn. Tôi rất thoả mãn mọi sự.” Người quảng cáo hỏi người đó: “Có thật sự là ông thỏa mãn mọi sự không?” Người giầu có đáp: “Đúng như vậy, tôi có mọi sự tôi cần nên tôi rất là thỏa mãn.” Chủ nhà cười và nói với người kia: “Này ông bạn, nếu bạn đã thỏa mãn rồi thì sao lại muốn mảnh đất này?”
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng viết cho chúng ta một tờ quảng cáo như sau: “Ta sẽ ban sự bình an trong tâm hồn, trí lòng và sẽ ban sự mãn nguyện cho tất cả những ai tuyên xưng chân lý Phúc Âm của Chúa. Hãy bằng lòng với chính mình và sống với những gì mình có.”
Douglas được cả nước biết như là người sáng tạo ra giầy dép. Trong những năm đầu, ông bị thất nghiệp lâu dài đến nỗi chỉ còn một đồng tiền cuối cùng. Tuy nhiên, ông đã bỏ một nửa đồng đó – tức là 50 xu – vào giỏ xin tiền ở nhà thờ. Sáng hôm sau, ông nghe biết có một công việc ở thành phố bên cạnh mà vé đi xe lửa là một đồng. Xem ra nếu giữ lại 50 xu kia thì thật là khôn ngoan. Tuy nhiên, ông đã mua vé với 50 xu còn lại và đi nửa đường tới nơi gần đến. Ông bước ra khỏi xe lửa và bắt đầu đi bộ qua thành phố.
Trước hết ông đi tới một khu nhà lớn, ông nghe rằng có xí nghiệp ở một quãng đường nữa – đang cần thuê công nhân. Trong vòng 30 phút, ông có được một việc làm với tiền lương là 5 đô la một tuần, còn hơn số lượng ở thành phố khác. Tiền lương tuần lễ đầu tiên của ông đã gấp 10 lần số tiền ông giúp cho công việc của Chúa.
Chúa Giêsu cũng vừa nói với chúng ta về một số người thất nghiệp khác. Người chủ nhà cho họ làm việc vào những giờ khác nhau trong ngày. Một ít người làm trọn ngày, những người khác chỉ làm vài giờ, và số người khác nữa làm việc có một giờ thôi. Vậy mà đến chiều ông chủ chỉ trả tiền công cho họ bằng nhau. Những người làm việc trước tự nhiên than phiền, nhưng người chủ trả lời: “Sao các anh lại ghen tỵ về lòng quảng đại của tôi?”
Bài học chính này là Thiên Chúa luôn quảng đại, Nước Trời không hoạt động như nước trần gian, và đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của loài người, như bài đọc I nói với chúng ta. Phải, Thiên Chúa rất quảng đại. Bắt đầu với lòng quảng đại, Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, chia sẻ cho chúng ta sự sống và hạnh phúc của Ngài. Dĩ nhiên, với lòng quảng đại, Thiên Chúa ban cho chúng ta ý chí tự do để chúng ta có thể quyết định yêu mến Thiên Chúa hay không, lãnh nhận phần thưởng Nước trời hay không.
Thiên Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta nhiều phúc lành về thể xác và tâm hồn. Ngài cung cấp cho ta dồi dào thực phẩm. Sự thiếu thốn ngày nay là do tính tham lam và quản lý tồi của con người.
Con Thiên Chúa là chính lòng quảng đại: Khi Chúa Giêsu biến nước thành rượu, Người bảo những người giúp việc đổ nước đấy chum “cho tới miệng”, với mẻ cá lạ lùng “họ chất đầy hai thuyền”. Ngài hóa bánh ra nhiều với vô số đến nỗi bánh dư lại “còn 12 thúng”. Ngài rộng rãi khen ngợi đồng tiền quảng đại của bà góa. Ngài ban rộng rãi thời gian, sức mạnh và mối thương cảm. Và sau hết, Ngài đã đổ ra đến giọt máu châu báu cuối cùng mà cứu độ chúng ta. Ngài còn tiếp tục ban Mình và Máu Ngài trong Thánh lễ này cũng như mỗi thánh lễ trên khắp cả thế giới trong mọi lúc.
Đấng Thiên Chúa làm người quảng đại dạy ta rằng: “Hãy cho, người ta sẽ cho lại, và họ sẽ đong cho anh em những đấu lớn, lắc chặt và đầy tràn, vì anh em đong đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Người anh hùng trong câu chuyện, Douglas, một thợ đóng giày đã kinh nghệm điều này.
Ước gì tất cả chúng ta kinh nghiệm được những kết qủa của lòng quảng đại. Ước gì chúng ta quảng đại với Thiên Chúa vì Ngài luôn quảng đại với ta.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
40. Thợ làm vườn nho
Có lẽ nhiều người đã biết đến chuyện nhà triệu phú của một người Mỹ, ông là chủ những tiệm giầy bên Hoa Kỳ. Lúc còn thanh niên nghèo sơ nghèo xác. Có tần vào nhà thờ dâng lễ, trong túi chỉ còn một đồng duy nhất, ông đã không ngần ngại dâng cho Chúa nửa đồng, còn lại nửa đồng.
Sáng hôm sau, khi đọc trên báo thấy nơi thành phố bên cạnh có hãng cần người làm việc, anh ra mua vé xe, nhưng rủi thay vé xe một đồng mà bây giờ anh chỉ còn lại nửa đồng, cứ mua vé xe đi nửa đoạn đường và chủ trương sẽ đi bộ nửa đoạn đường còn lại. Nhưng khi đến nhà ga nửa đường, anh xuống xe và khi vừa bước đi bộ vài trăm thước thì anh thấy cạnh đường có xưởng đang cần người làm việc vôi số lương cao hơn với số lương của công việc mà anh định đến xin nơi thành phố bên cạnh.
Như thế, có thể nói: Anh đã đóng góp cho Chúa nửa đồng, Chúa đã cho lại anh góp trăm tần, nhiều hơn cũ. Và chúng ta cũng nhớ chuyện dụ ngôn của Tagore, thi sĩ Ấn Độ về người ăn mày chỉ cho Chúa một nắm gạo, nhưng Chúa cho lại một cục vàng Những người thợ chỉ đóng góp cho Chúa vào giờ cuối cùng, chỉ có một, hai giờ đồng hồ làm việc, thế mà được Chúa trả công gấp mấy tần, bằng những kẻ mệt nhọc cả ngày.
Bài dụ ngôn không chú trọng đến việc đóng góp của con người, nhưng đến thái độ quảng đại của Thiên Chúa là chủ vườn nho, hơn quá sức tưởng lượng của con người, hơn quá sức tưởng tượng của những người thợ. Thái độ của những người Pharisiêu nghe Chúa nói dụ ngôn này, thái độ của một số anh chị em Kitô đầu tiên từ Do Thái giáo hay những người Kitô giáo đến từ dân ngoại, và ngày hôm nay thái độ của mỗi người chúng ta, thái độ ỷ lại vào công nghiệp trước mặt Chúa hay vào sự đóng góp của mình cho Chúa, rồi sinh ra ganh tị, khinh dể những anh chị em khác mà mình cho là không có công khó gì đối với Chúa.
Trong Nước Chúa, tất cả đều là ân sủng, tất cả đều do Thiên Chúa bắt đầu trước, phần con người chỉ đáp trả công vào ân sủng Chúa ban mà thôi. Vì thế, không nên có thái độ ganh tị, ỷ lại, không nên tự phụ, tự kiêu vì những công việc của mình, nhưng hãy khiêm tốn đón nhận, tin thắng vào lòng nhân từ của Chúa là Đấng luôn sẵn sàng ban ơn cho mỗi người chúng ta vượt quá lòng chúng ta mong ước.
Nơi bài đọc II, thánh Phaolô trình bày cho các tín hữu Philipphê và cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay một bí quyết để sống, đó là không nhìn để so sánh mình với người anh em bên cạnh rồi ganh tị.
Nhưng hãy nhìn lên mẫu gương của Chúa, quyết tâm sống như Chúa Kitô, sống kết hiệp mật thiết với Ngài.
Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Philipphê mà chúng ta đã đọc trong bài đọc II là “dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ vang trong thân xác tôi, đó là sống kết hiệp với Chúa Kitô, chúng ta chỉ nhắm đến một mục đích duy nhất mà thôi “sống như Chúa Kitô, sống kết hiệp với Chúa”, để rồi từ đó chúng ta có thể đem cuộc sống của mình, lài năng của mình mà phục vụ cho anh chị em xung quanh. Dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ vang trong thân xác tôi qua những việc làm tốt, những việc bác ái mà chúng ta thực hiện hằng ngày.
Điểm thứ hai chúng ta có thể lưu ý trong bài Phúc âm hôm nay, đó là phản ứng của con người trước lòng quảng đại của Thiên Chúa. Con người hay những người thợ được ông chủ vườn nho mướn vào làm vườn nho cho có thái độ hẹp hòi, ganh tị, đặt giới hạn cho lòng quảng đại nhân từ của Thiên Chúa: “Ta không có quyền phân phát theo ý Ta hay sao? Hay vì Ta quá quảng đại mà các người lại ganh tị hẹp hòi”.
Đó là bài học mà Chúa Giêsu muốn ghi khắc vào tâm trí các tông đồ qua bài dụ ngôn trên. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đối với con người vượt quá sự con người có thể nghĩ đến, nhưng không vì thế mà lỗi luật công bằng. Tình thương của Chúa vượt quá mức độ công bằng, nhưng không hủy bỏ sự công bằng. Sự công bằng của Thiên Chúa không như sự công bằng mà con người chúng ta tưởng nghĩ: “Há anh đã chẳng đồng ý với Ta tiền lương mỗi ngày một đồng như vậy hay sao? Ngoài ra, Ta muốn thêm cho những kẻ đến sau bằng những người đến trước, há Ta chẳng làm được như vậy hay sao?”
Qua lòng tốt của Chúa, xem ra như là Thiên Chúa thiên vị, nhưng sự thật lòng tốt vô biên ấy đã phơi bày tật xấu, lòng ganh tị của những kẻ đến trước ỷ lại vào công nghiệp riêng của họ, làm việc cực mệt, nhọc nhằn suốt ngày để yêu sách Thiên Chúa phải thế này, thế nọ, phải cho họ hơn những người khác, những kẻ đến sau, những kẻ không có công trạng gì, những người tội lỗi, những người thấp kém trong xã hội. Tựu trung tất cả chỉ vì ganh tị với anh em xung quanh mà họ đã có thái độ phân bì như vậy.
Sự ganh tị làm cho con người mất đi lòng biết ơn đối với kẻ thi ân. Thiên Chúa là Đấng thi ân cho con người theo chương trình Ngài muốn, Ngài ban cho mỗi người chúng ta biết bao nhiêu hồng ân, những nén bạc khác nhau, người thì năm nén, người thì hai nén, người thì một nén, nhưng nếu chúng ta ghen tị thì thay vì chúng ta cảm lạ Thiên Chúa, vì những hồng ân mình đã nhận được; thì chính lúc đó chúng ta quay lại trách móc Thiên Chúa bất công, thiên vị.
Lạy Chúa, xin giúp cho mỗi người chúng con biết vượt qua được những thái độ ganh tị này. Xin Ngài mở rộng tâm hồn chúng con, để chúng con được sống khiêm tốn và quảng đại như Chúa, luôn biết nhìn ra những hồng ân của Chúa ban cho chúng con mà cảm lạ tri ân, chúc tụng Ngài. Xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
(Trích trong ‘Hạt Giống Nảy Mầm’ – Những gợi ý suy niệm của Lm Trọng Hương)
1. Tư tưởng Của Thiên Chúa không giống tư tưởng loài người
Loài người chúng ta suy nghĩ giống như một người buôn bán: món hàng trị giá thế nào, vậy phải mua thế nào, bán thế nào? bao nhiêu thì đúng, bao nhiêu thì sai?
Chúng ta áp dụng suy nghĩ ấy chẳng những trong đối xử với người khác, mà còn cho cả Thiên Chúa nữa: tôi đã làm gì và làm bao nhiêu, cho nên Thiên Chúa phải ban cho tôi ơn gì và ban bao nhiêu. Chúng ta cho rằng như thế là công bằng.
Nhưng Thiên Chúa không muốn làm người bán, cũng không muốn làm người mua. Ngài chỉ muốn làm người Cha, yêu thương chúng ta là con. Ngài chỉ có thương yêu và chỉ dùng lòng tốt để đối xử. Đối với từng dứa con, Ngài không xét xem nó đã làm được gì, nó đáng được bao nhiêu. Ngài chỉ nghĩ nó cần được chăm sóc như thế nào, ban cho nó cái gì là tốt nhất.
Khi lẩm bẩm trách, những người thợ làm nhiều giờ muốn lấy suy nghĩ của mình áp đặt lên suy nghĩ của ông chủ, họ muốn ông đừng làn người cha yêu thương mà hãy làm người buôn bán vô tình.
2. Công bình và thương xót
Nhiều người đọc xong dụ ngôn này đã nghĩ rằng Thiên Chúa đối xử không công bình vì Ngài đã trả cùng một đồng cho những người làm việc suốt ngày và người chỉ làm có một giờ.
Thực ra chẳng có gì là không công bình cả: Vì ông chủ đã thỏa thuận với thợ về tiền công mỗi ngày là một đồng, nên nếu ông trả không đủ một đồng thì mới bất công. Nói cho đúng hơn: đối với những người làm suốt ngày thì ông chủ công bình; còn đối với người làm chỉ có một giờ thì ông chủ đã đối xử hơn mức công bình: ông đối xứ theo lòng thương xót.
Xem ra, đòi hỏi công bình là điều hợp lý. Nhưng xét theo thực tế, chúng ta không chịu nổi nếu Chúa cứ theo công bình mà đối xừ với chúng ta, đúng như lời Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được”. Cho nên, xét cho cùng thì chúng ta cần đến lòng thương xót của Chúa hơn là đến đức công bình của Ngài.
Vả lại đối xử công bình là đối xử bằng lý, còn đối xử với lòng thương xót là đối xử theo tình. Mỉa mai thay, bất chính như con người thì hay đòi đối xử bầng lý, còn công chính như Thiên Chúa lại thích đối xử bằng tình.
Flor McCarthy đã chứng kiến một cảnh tượng tương tự với dụ ngôn này và cho biết ông đã thay đổi cách suy nghĩ ra sao sau khi chứng kiến nó: có lần ông đến Cape Town nước Nam Phi. Đó là một buổi sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài đường không làm gì cả.
Ban đầu ông nghĩ rằng đó là những kẻ lười biếng, đang khi những người khác lo làm ăn thì những người này đứng đó chẳng làm gì cả. Đến trưa ông vẫn còn thấy đám người ấy vẫn đứng đó, mồ hôi đã nhễ nhại ướt đẫm lưng áo. Hỏi kỹ thì mới biết họ là những người thất nghiệp. Họ đứng chờ ngoài nắng, hy vọng có ai đến thuê họ đi làm chăng. Mãi tới chiều ông vẫn thấy đám người đó.Và khi hết ngày, họ lủi thủi ra về, trông rất tội nghiệp. Hôm đó MaCarthy rất hối hận vì đã kết án những người vô tội thất nghiệp ấy. Và ông đã soạn một lời cầu nguyện như sau:
“Tư tưởng của Ta không giống tư tưởng các ngươi và đường lối Ta không giống đường lối các ngươi”
“Như trời xanh cao hơn đất bao nhiêu
thì đường lối Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu”
Lạy Chúa,
Tư tưởng chúng con rất nông cạn, đường lối chúng con rất hẹp hòi, chúng con nghèo nàn và con tim chúng con chật chội. Xin Chúa mở rộng trí óc và con tim chúng con để chúng con suy nghĩ giống Chúa hơn, và hành động giống Chúa hơn.
Xin giúp chúng con đừng bực bội vì lòng tốt của Chúa đối với người khác
Xin giúp chúng con đừng cho rằng chúng con đáng được Chúa thưởng công
Xin giúp chúng con ý thức rằng chúng con cần đến lòng thương xót hơn là đức công bình của Chúa. Amen.
3. Giờ thứ 11
Cuối đoạn Tin Mừng này có một câu bất ngờ: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết “
Trong Tin Mừng có nhiều thí dụ minh họa: Một chàng thanh niên giàu có và đạo đức hỏi Đức Giêsu: tôi đã giữ các giới răn từ thuở nhỏ, vậy tôi phải làm gì thêm để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Lần kia Phêrô áy náy trình với Chúa: Thưa Thầy này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy thì sao? Bồn chồn hơn nữa hai người con ông Dêbêđê nghĩ rằng mình thuộc số môn đệ đi theo Thầy trước hết cho nên xin Thầy dành cho mình hai chỗ tả hữu trong Nước của Ngài. Nhưng, đối với những “kẻ trước hết” ấy, Đức Giêsu đã không dành hai chỗ tả hữu ưu tiên, Ngài lại ban chúng cho hai tên trộm cướp. Đúng vậy, hai “kẻ sau hết” này đã ở hai bên tả hữu của Thập giá.,
Nói “trước hết” và “sau hết là tính theo thời gian. Nhưng liên hệ với Chúa không tính bằng thời gian mà bằng sự gắn bó tình yêu.
4. Hãy có một não trạng mới
Điểm sâu sắc nhất của dụ ngôn những người thợ vườn nho là đặt đối lập nhau hai não trạng:
a/ Não trạng của những thợ làm nhiều giờ là óc tính toán: làm gì cũng là để tính công, công càng nhiều thì phải được hưởng càng nhiều.
Đây là não trạng của đa số tín hữu chung ta. Chúng ta tính toán mình đã giữ đạo bao nhiêu năm, đọc kinh dự lễ bao nhiều lần; làm việc lành phúc đức bao nhiêu việc v.v.
Với não trạng ấy, chúng ta chăm chăm nhìn đến những việc mình đã làm và cứ bo bo nhìn vào sổ thu của mình. Chúng ta nghĩ rằng khi đến cuối đời (hết ngày làm việc), trình quyển sổ thu đó cho Chúa thì chắc chắn Ngài sẽ mở kho tàng ơn cứu độ và thanh toán sòng phẳng cho chúng ta.
Nhưng trong não trạng ấy, ta là ai, Thiên Chúa làm ai, liên hệ giữa Thiên Chúa và ta là gì? Ta chỉ là người làm công, Thiên Chúa là người thuê mướn, liên hệ hai bên là hợp đồng làm ăn: sống đạo theo não trạng này thật là nặng nhọc và vô tình, vô nghĩa.
b/ Thực ra, Thiên Chúa đâu có tự coi là người thuê mướn và cũng đâu có coi chúng ta là người làm công. Thiên Chúa yêu thương chúng ta theo hoàn cảnh của mỗi người chúng ta. Người thì hoàn cảnh này (đứng trước vườn nho từ sáng sớm), người thì hoàn cảnh khác (đứng trước vườn nho khi đã gần hết ngày), nhưng người nào cũng được Thiên Chúa thương và ban cho ơn cứu độ (được vào vườn nho, được lãnh một đồng).
Não trạng thoải mái và hạnh phúc nhất là cảm nhận tình thương ấy và đáp lại tình thương bằng cách tận tâm tận lực canh tác vườn nho, không tính toán làm lâu hay làm mau, làm được nhiều hay làm được ít, chịu cực khổ nhiều hay ít.
Cần phải thay đổi não trạng: sống đạo không bằng tính toán mà bằng cả tấm lòng.
5. Chuyện minh họa
Đây là diễn tiến một cuộc chạy đua 3000 mét.
Lúc bắt đầu, những tay đua chạy san sát nhau thành một nhóm rất đông. Một lúc sau, một nhóm nhỏ đã tách rời đám đông và chạy phía trước. Còn vài chục mét nữa thì một người vọt lên rất nhanh và tới đích.
Khán giả vỗ tay hoan hô nồng nhiệt. Một số người ôm những bó hoa tới tặng nhà vô địch. Các phóng viên xách Camera và máy chụp hình tới, vừa bấm máy, vừa thu hình, vừa phỏng vấn. Những người hâm mộ tới xin chữ ký. Một số hãng thương mại đến đề nghị ký hợp đồng với nhà vô địch.
Cuối cùng, ông chủ tịch Ban Tổ chức xuất hiện. Người ta mời nhà vô địch lên đứng trên một chiếc bục cao, người hạng nhì đứng trên bục bên phải thấp hơn một chút, và người hạnh ba bục bên trái thấp hơn chút nữa. Người ta mang đến 3 chiếc huy chương để ông chủ tịch đeo vào cổ họ.
Nhưng ông chù tịch ngỏ ý muốn gặp 3 người tới đích cuối cùng. Ban tổ chức không hiểu, nhưng vẫn làm theo lời ông. Khi họ tới, ông tươi cười trao chiếc huy chương vàng cho người hạng chót, chiếc huy chương bạc thuộc về người áp chót, và chiếc huy chương đồng cho người kế tiếp.
Nhà vô địch bực bội phản đối:
- Như thế là không công bình!
- Tại sao? ông chủ tịch hỏi lại.
- Tôi hạng nhất, tôi phải được thưởng. Thì anh đã được thưởng rồi. Này nhé khán giả đã vỗ tay hoan hô anh, báo chí đã chụp hình anh, những người hâm mộ đã tặng hoa cho anh, những hãng thương mại đã ký hợp đồng với anh. Anh đã được thưởng quá nhiều rồi. Bây giờ anh hãy nghĩ tới những người chạy sau chót: họ cũng cố gắng như anh, vất vả không kém gì anh, và cũng chạy hết đoạn đường 3000 mét như anh.
Anh thử nghĩ xem có công bình không khi anh thì được tất cả còn họ thì chẳng được gì?
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn có đồng ý với cách xử sự của ông chủ vườn nho không? Tại sao? Lý do khiến bạn đồng ý hay không đồng ý dựa trên lòng ích kỷ của con người hay dựa trên lòng yêu thương?
2. Bạn nghĩ sao về chủ trương “Làm theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu”? Bạn có áp dụng chủ trương này trong gia đình bạn không?
3. Bạn có phân biệt 2 thứ công bằng: công bằng có tình thương, và công bằng không có tình thương không? Bạn thích thứ công bằng nào?
Suy tư gợi ý:
Theo cách giải thích truyền thống, bài Tin Mừng này muốn nói tới tính “nhưng không” của Nước Trời: người ta được vào Nước Trời hoàn toàn do ân sủng của Thiên Chúa ban nhưng không, chứ không phải do công lao của họ, mặc dù người ta vẫn phải có sự cộng tác của riêng mình. Vì thế, sẽ có những người theo Chúa từ khi vừa chào đời, những người này được cứu rỗi là một điều dễ hiểu. Nhưng cũng sẽ có những người đã sống suốt cả một cuộc đời tội lỗi hoặc không biết Chúa, mãi tới cuối đời mới giác ngộ, mới biết Chúa và theo Chúa. Cuộc đời họ chỉ theo Chúa vào những giây phút cuối cùng, có thể một vài năm, mà cũng có thể chỉ một vài phút trước khi chết (như trường hợp người trộm lành cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu trong Lc 23,39-43). Những người này cũng được ơn cứu rỗi y như những người đã theo Chúa suốt cuộc đời. Rất có thể những người sống đạo tốt đẹp suốt cả đời sẽ ganh tỵ với những người ấy. Dụ ngôn này trả lời cho những người ganh tỵ ấy.
Tuy nhiên, ta có thể giải thích dụ ngôn này theo một kiểu khác, để áp dụng tinh thần yêu thương một cách vô vị lợi, ít vị kỷ và bớt tính toán, so đo, hơn thiệt với mọi người. Nhất là để tập quan niệm, suy nghĩ theo cách của Thiên Chúa, cách vị tha, khách quan, không qui về mình.
1. Hai thứ công bằng: của trần gian và của Nước Trời
Mới đọc bài Tin Mừng, ai cũng cảm thấy ông chủ làm vườn nho đối xử như thế với những người làm thuê là không công bằng: người làm ít cũng như người làm nhiều đều nhận một mức lương bằng nhau. Vì theo suy nghĩ bình thường của người đời, người làm nhiều phải hưởng lương cao hơn người làm ít. Nghĩ như thế là hoàn toàn đúng và hợp lý. Nhưng với tình thương, người ta có thể suy nghĩ khác, cao hơn, mà vẫn hoàn toàn hợp lý.
Thật vậy, nhân loại sau này có một lý tưởng rất cao cả mà cho tới nay vẫn chưa thực hiện được, đó là làm theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu. Nghĩa là hưởng lương nhiều hay ít tùy theo nhu cầu của mình nhiều hay ít, chứ không tùy theo mình đã làm nhiều hay ít. Lý tưởng này ai cũng cho là hợp lý và đầy tình thương hơn lối hành xử thường tình là làm và hưởng thụ theo khả năng. Biết bao người đã say mê và sống chết cho lý tưởng ấy: Làm theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu. Trong lịch sử con người, nếu lý tưởng này có được thực hiện, thì nó đã được thực hiện trong cộng đồng Kitô hữu nguyên thủy, một cộng đồng hữu kiểu mẫu cho mọi cộng đồng Kitô hữu về sau.
2. Công bằng của Nước Trời: công bằng có tình thương
Dụ ngôn này diễn tả Nước Trời, vì nó khởi đầu bằng câu: “Nước Trời giống như…”, chứ không phải nó áp dụng cho thế gian này. Nước Trời là nước của tình thương, trong đó mọi người đều đối xử với nhau bằng tình thương, và có như thế Nước Trời mới là nước của hạnh phúc. Do đó, sự công bằng ở trong Nước Trời là một thứ công bằng có tình thương, chứ không phải là thứ công bằng vô tâm như ở trần gian. Sự công bằng kiểu trần gian này nếu được thực hiện thì cũng là phúc cho trần gian, nhưng ngay cả thứ công bằng này nhiều xã hội cũng chẳng thực hiện được.
Tuy nhiên, dẫu được thực hiện, sự công bằng trần gian vẫn gây nên biết bao nhiêu chênh lệch. Những người có tài năng, có sức khỏe thì luôn luôn làm được nhiều hơn nên được hưởng lương cao hơn những người yếu đuối, kém tài năng, bất chấp những người yếu đuối này có thể có nhu cầu lớn hơn hay nhiều hơn. Vì thế, người có tài có sức thường giàu có, còn người ít tài kém sức thường nghèo khổ. Như thế, nhu cầu của tôi dù có lớn đến đâu, nhưng nếu tôi làm được ít, thì tôi chỉ được hưởng ít, cho dù hưởng ít như thế thì tôi sẽ rất thiếu thốn và đau khổ. Còn nhu cầu của anh dù rất ít, nhưng nếu anh làm được nhiều, thì anh vẫn được hưởng nhiều, cho dù hưởng nhiều như thế anh sẽ dư thừa một cách vô ích. Đó là điều hợp lý theo lẽ thường của trần gian, và ở trần gian này dường như không thể nào làm khác hơn được.
Còn công bằng theo kiểu có tình thương kia, nếu áp dụng ở trần gian đầy ích kỷ này thì sẽ có cái dở là làm cho nhiều người đâm ra lười biếng: vì có làm chăm thì cũng chỉ được hưởng bằng người lười. Cứ nghĩ như thế thì sẽ chẳng còn ai hứng thú trau giồi tài năng của mình làm gì, vì có tài thì chẳng ích lợi gì cho mình hơn không có tài. Ai cũng có tính ích kỷ, không ai muốn hy sinh một cách vô vị lợi cho ai cả. Ai cũng muốn dùng tài năng hay những lợi thế mình có được để phục vụ mình, để làm lợi cho mình trước đã, không mấy ai muốn ưu tiên cho tha nhân, cho những kẻ hèn kém, yếu thế, dù họ có nhu cầu nhiều hơn mình. Nếu có tài năng mà không đem lại ích lợi cho mình, thì tài năng để làm gì?
Nhưng Nước Trời không phải là nước trần gian, hay ít ra không phải là trần gian như đang có trong hiện tại. Nước Trời được định nghĩa như một xã hội hoàn hảo, trong đó mọi người đều được hạnh phúc. Để được hạnh phúc như thế thì mọi người phải yêu thương nhau, và yêu thương một cách cụ thể là phải quên mình đi để lo cho tha nhân. Khả năng hay tài năng của mỗi người là để phục vụ tha nhân, để lo cho lợi ích chung, chứ không ai dùng tài năng chỉ để vun quén cho mình.
Một gia đình hạnh phúc – vì mọi người trong nhà đều yêu thương lo lắng cho nhau – là một hình ảnh rất cụ thể và sống động về Nước Trời. Những người lớn, có nhiều khả năng, thì đi làm kiếm tiền nuôi gia đình. Những em nhỏ tuy không đi làm, nhưng vẫn phải ăn, học, và do đó phải tiêu một món tiền không nhỏ. Nếu trong nhà có một người đau yếu, bệnh tật, thì người bệnh này có thể không làm ra được một đồng nào, nhưng lại có thể tiêu một số tiền lớn nhất trong nhà vì tiền thuốc, tiền bác sĩ rất mắc. Trái lại, người làm ra nhiều tiền nhất trong nhà có thể lại tiêu xài tiền ít nhất, vì có ít nhu cầu nhất. Nhưng anh ta vẫn không lấy thế làm bất công, mà cảm thấy như thế là hợp lý. Anh cho rằng số tiền trong gia đình phải được chia tỷ lệ với nhu cầu của mỗi người chứ không phải tỷ lệ với số tiền mà mỗi người kiếm được.
Chỉ những gia đình sống theo tiêu chuẩn hưởng thụ theo nhu cầu mới có hạnh phúc. Còn những gia đình chủ trương theo tiêu chuẩn hưởng thụ theo số tiền mình làm ra thì sẽ phát sinh nhiều đau khổ ê chề.
3. Bạn thích sống theo thứ công bằng nào?
Trong dụ ngôn người chủ vườn nho trả tiền theo nhu cầu chứ không theo giờ làm thật là hợp lý nếu xét theo lý luận của tình thương. Những người làm từ sáng sớm hay những người chiều mới vào làm, người nào cũng đều có vợ con phải nuôi, một gánh gia đình phải cưu mang. Người vào làm sau, sở dĩ họ vào làm trễ chỉ vì họ không có may mắn có việc để làm từ sáng sớm, cho dù họ rất muốn có. Trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn cho thấy một đặc tính của Nước Trời, cũng là lý tưởng của mọi xã hội trần gian, là tình thương. Sự công bằng trong Nước Trời không dựa trên tính vị kỷ của con người, mà dựa trên tình thương phải có đối với nhau. Và sự công bằng dựa trên tình thương ấy mới là sự công bằng đẹp lòng Chúa, sự công bằng mà Chúa muốn làm gương mẫu cho chúng ta trong xã hội.
Đương nhiên sự công bằng ấy chưa thể áp dụng một cách phổ biến trong một xã hội mà các thành viên còn quá ít tình thương. Nhưng ít ra nó có thể áp dụng và cần phải áp dụng trong các gia đình Kitô hữu, trong các cộng đoàn Kitô giáo, nhất là trong các cộng đoàn cơ bản. Gia đình bạn, cộng đoàn Kitô hữu nhỏ bé của bạn đã nỗ lực trở thành một nước trời nho nhỏ chưa? Sự công bằng được áp dụng trong đó là thứ công bằng nào? Của thế gian hay của Nước Trời?
Cầu nguyện
Lạy Cha, thế giới này chưa thể áp dụng một cách đại trà thứ công bằng có tình thương theo kiểu Nước Trời được. Nhưng trong những cộng đoàn Kitô hữu nhỏ bé như gia đình Kitô hữu của con, trong cộng đoàn cơ bản của con, trong đó mọi người coi nhau như anh chị em ruột thịt, con sẽ cố gắng cổ võ việc áp dụng sự công bằng ấy, để mọi người trong đó phần nào hưởng nếm trước hạnh phúc của Thiên Đàng, một thứ hạnh phúc được xây dựng trên tình thương và do tình thương tạo nên. Amen.
Chuyện xảy ra vào thế kỷ thứ 16 tại An Độ. Trong triều đình có hai vị sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tỵ, một người thì tham lam.
Ngày kia, nhà vua có sáng kiến rất độc đáo để sửa đổi những tính xấu ấy. Ông cho triệu tập hai viên sĩ quan vào giữa triều đình, loan báo sẽ tưởng thưởng họ vì đã phục vụ trong nhiều năm qua. Họ có thể xin gì tùy thích, xong người đầu tiên mở miệng xin chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Nhiều phút trôi qua, không ai mở miệng nói trước. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tỵ lý luận: Thà tôi không được gì còn hơn mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi. Vì thế, không ai muốn lên tiếng trước.
Cuối cùng, vua yêu cầu người ganh tỵ nói trước. Người này lại nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên tham lam được gấp đôi. Hắn liền tuyên bố:”Tôi xin được chặt đứt một cánh tay…”. Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
Người ghen tỵ thà chịu mất một cánh tay còn hơn nhìn thấy người kia được của cải gấp đôi mình. Người ghen tỵ trước khi tiêu diệt kẻ khác, họ đã tự hủy diệt chính mình.
Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay kể lại, người đi làm vườn nho từ sáng sớm ghen tỵ với người chỉ làm một tiếng, mà cũng được trả một quan như mình. Giá như ông chủ trả cho người làm một tiếng ít tiền hơn, thì người làm từ sáng sớm đâu có bực tức khó chịu. Chúng ta thấy ông chủ đâu có xử bất công, vì ông đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền. Ông trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng, là vì ông tốt bụng, ông có quyền làm điều đó chứ!
Qua dụ ngôn “Ông chủ vườn nho”, Đức Giêsu muốn mời gọi chúng ta nhìn sâu vào cõi lòng của Thiên Chúa. Người không chỉ là Thiên Chúa công bình, mà còn là một người Cha đầy yêu thương. Người đã không hành xử theo luật lệ, nhưng lại dựa trên tiêu chuẩn của tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra Người là Thiên Chúa tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được lòng tốt của Thiên Chúa nơi bản thân mình, chúng ta mới không còn ghen tỵ với anh em.
Chúng ta nhớ lại lời ông chủ vườn nho nói với người ghen tỵ: “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”. Anh ta ghen tỵ vì anh ta chỉ thấy lòng tốt của ông chủ nơi người khác. Sao anh ta không nghĩ rằng ông chủ tốt bụng này đã thuê anh làm và trả lương cho anh sòng phẳng không thiếu một xu. Sao anh ta không nghĩ rằng anh đã rất an tâm vì chắc chắn đến cuối ngày là anh có một quan tiền; còn người kia vì không có ai thuê làm nên phải chờ đợi cả một ngày trong lo âu chán chường, vì tối nay vợ con anh sẽ phải lên giường mà không có gì cho vào bụng.
Cứ nghĩ đến muôn ngàn phúc lộc Chúa đã ban cho chúng ta, cứ nhìn xem bao niềm đau nỗi khổ của anh em, chúng ta sẽ không còn lý do nào để mà ghen tỵ. Chính vì không cảm nghiệm được Thiên Chúa yêu thương, không nhận ra hồng ân của Người trong cuộc đời mình, mà Cain đã ghen tỵ và giết chết Aben, người anh cả ghen tỵ với đứa em đi hoang nên không nhìn nhận người em lầm lỡ, người Pharisêu ghen tức với người tội lỗi được Chúa tha thứ, người làm sáng sớm ghen tỵ với kẻ làm chỉ một giờ.
Ai cứ nghĩ mình xứng đáng được Chúa ban ơn, mà đi ghen tỵ với những ơn lành Chúa ban cho người tội lỗi, chính là kẻ bất hạnh nhất. Họ hãy nghe lại lời Kinh thánh:”Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”. Thông điệp của dụ ngôn hôm nay muốn loan báo rằng: Nước Trời là phần thưởng nhưng không của Thiên Chúa, hoàn toàn do lòng quảng đại yêu thương của Người, chứ không do công nghiệp của chúng ta. Thiên Chúa ban ơn cho con người chỉ vì lòng yêu thương của Người mà thôi.
Đừng bao giờ ghen tỵ, đố kỵ nhỏ nhen khi thấy kẻ khác được nhiều ơn, mà muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Đừng bao giờ tính toán sòng phẳng theo lẽ công bình giao hoán: có công thì được hưởng, có tội thì bị phạt. Vì nếu Thiên Chúa tính toán lại, chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc, và người thiệt thòi nhất không ai khác chính là chúng ta.
44. Ghen tị – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Câu chuyện dụ ngôn thuê mướn thợ làm vườn nho hình như có vấn đề gây thắc mắc: làm sao ông chủ có thể trả công đồng đều cho tất cả những người thợ làm việc ở các thời điểm khác nhau? Ông chủ có công bằng chăng khi đối xử với những người chỉ làm một giờ ngang bằng với những người làm vất vả cả ngày?
Thật ra ông chủ đã đối xử sòng phẳng với những người làm việc từ sáng sớm. Ông ta đã trả mỗi người một đồng đúng như đã thỏa thuận. Ông ta không bóc lột sức lao động của ai cả: có làm có trả lương tương xứng, nếu ông ta không gọi thêm thợ thì mọi chuyện bình thường, chẳng có vấn đề gì, nhưng vì có nhóm thợ làm ít giờ hơn cũng được trả lương bằng mình, nên có việc ganh tị, và nhất là đánh giá tiêu cực về ông chủ.
Câu chuyện này chúng ta thấy nổi bật hai vấn đề: Cách đối xử của ông chủ và phản ứng của những người thợ. Ông chủ vườn nho đây là hình ảnh Thiên Chúa, Ngài tốt lành vô cùng, lòng nhân từ của Ngài vượt lên trên tất cả những thứ trả công mà người đời sử dụng với nhau trong cuộc sống, Ngài rất công bằng và thương yêu vô tận. Vì vậy, ngoài sự công bằng, Ngài còn yêu thương chúng ta theo tự do và tình yêu của Ngài. Trước lời phàn nàn của những người làm sau, Ngài đã khẳng định quan điểm của Ngài, Ngài hoàn toàn tự do làm theo ý định của mình, Ngài muốn làm cách nào, lúc nào, chọn ai đều tùy ý Ngài mà không phải lệ thuộc ai cả. Tuy có quyền tự do của mình, nhưng Thiên Chúa không dùng tự do đó mà làm thiệt hại cho người khác: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn". Thiên Chúa luôn công bằng, chỉ có con người mới đối xử bất công với nhau vì thiếu lòng nhân từ, vì cách nhìn ghen tị của mình.
Quả thật, Ông chủ vườn nho được tự do dùng tiền của mình, thì tại sao Thiên Chúa lại không được tự do trong việc yêu thương? Ông chủ trả lương rộng rãi với nhóm người này mà vẫn giữ công bằng với nhóm kia, thì Thiên Chúa trải rộng tình thương của Ngài đến mọi người mà không cần theo tính toán của người đời. Cách xử sự của Thiên Chúa khác xa với cách xử sự của mọi người. Có lẽ khó gặp được chuyện này trong cuộc sống hằng ngày, nhưng lại xảy ra hằng ngày trong đời sống thiêng liêng: Thiên Chúa ban ơn nhiều hơn lòng mong đợi của con người.
Thiên Chúa rất nhân từ và tốt lành, Ngài ban ơn cho mỗi người và mọi người mà không tính toán thời điểm, tuổi tác. Chỉ có con người là hẹp hòi, ích kỷ đối với nhau qua hình ảnh những người thợ làm vườn nho. Những người làm từ đầu, làm nhiều giờ hơn, không vui mừng khi thấy ông chủ trả lương cho những người vào làm sau, làm ít giờ hơn cũng bằng họ, họ đã ghen tị đến đấu tranh với ông chủ, đó là tâm trạng chung của con người chúng ta: hay so đo, tính toán, thắc mắc, phân bì, ghen tị, ganh ghét.
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội nặng. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những thành công của người khác. Người ta ghen tị về đủ mọi mặt: của cải, tài ba, nhan sắc, thanh công, nhân đức. Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị những gì mình có, không thỏa mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế của mình, lúc nào cũng thấy núi khác cao hơn. Người ta ghen tị nhau vì kiêu ngạo, vì ích kỷ, không muốn ai thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ hơn mình. Càng liên hệ thân thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới ghen tị nhau, chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt hàng cá...ghen tị nhau.
Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ ghen tị và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con, nhưng chính chúng ta cũng nên phải tỉnh lại xem: chúng ta có hơn trẻ con không? Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi, giúp đỡ họ. Cho nên, thường thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là đi chia vui. Có ai vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn, thành công chăng? Hay là chúng ta tủi thân, rồi mỉa mai, bôi bác họ?
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen tị sinh ra ghen ghét, ghen ghét sinh oán thù. Ghen tị thường đi đến chỗ nói xấu, nói hành, dèm pha, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm mất tình bác ái và gây nên bao gương mù gương xấu. Vì thế, chúng ta phải tốp ngay, phải ngưng ngay cái tật xấu ghen tị này. Chúng ta phải biết đánh giá trị đúng của anh em mà vui cùng kẻ vui. Chúng ta phải tránh sự ghen tị như tránh rắn độc.
Tóm lại, Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, chúng ta phải luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không là gì cả, lúc nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là do Chúa ban, Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Thứ hai, mỗi người hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và gây nên những gương mù gương xấu. Xin Chúa cho chúng ta biết đánh giá trị đúng về mình và về anh em, để chúng ta không phân bì, kể công với ai và cũng không phân bì, ghen tương ai.
NHỮNG NGƯỜI THỢ LÀM VƯỜN NHO
Dụ ngôn “những người thợ làm vườn nho vào giờ sau hết” rất nổi tiếng. Người ta thường phê bình dụ ngôn này, đưa ra những phán đoán chỉ trên bình diện con người theo sự công bằng xã hội và theo kinh tế. Về phương diện này, thái độ của vị Thầy chí thánh ít ra cũng rất kỳ lạ và khác thường. Một ông chủ xí nghiệp sẽ nói với bạn rằng theo gương ông chủ vườn nho chỉ có nước làm phá sản xí nghiệp. Một “công nhân” sẽ nói với bạn rằng không tôn trọng một tháng lương hợp lý căn cứ vào công việc thực tế được hoàn thành là việc không bình thường; và một ông chủ độc đoán như thế thật là bất xứng. Nhưng tất cả những lời giải thích này thì quá phiến diện chưa đạt đến sự thật. Rõ ràng Đức Giêsu không đề cao sự bất công xã hội. Phải có một cách đọc khác trang Tin Mừng nổi tiếng này, xứng đáng là một Tin Mừng!
Chúng ta hãy nhớ rằng “dụ ngôn” là một thể loại văn chương rất xác đáng mà người ta không thể đọc bằng bất cứ cách nào cũng được. Trong một dụ ngôn, khác với lối văn phúng dụ, mọi chi tiết cụ thể không chứa đựng bài học: Phải tìm kiếm cao điểm của câu chuyện, ý nghĩa trung tâm của nó. Những chi tiết còn lại chỉ để tạo ra sự mạch lạc trong câu chuyện, tô điểm cho câu chuyện thêm thú vị đôi khi với sự hóm hỉnh khiến người ta phải chú ý, quan tâm.
Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.
Giờ đây, mọi sự bắt đầu như một câu chuyện có thật. Chúng ta đang ở Pa-lét-tin trời vừa tảng sáng. Những “thợ làm công nhật” trên quảng trường của ngôi làng chờ đợi người ta đến thuê làm công nhật, ngày này qua ngày khác. Tình trạng sống lây lất qua ngày ấy thật thảm hại. Chúng ta phải ghi nhận điều đó nơi những con người không có việc làm ổn định: tình trạng này vẫn còn là tình trạng của hầu hết các người cha trong gia đình ở các nước thế giới thứ ba.
Tuy nhiên, dù phần mô tả đoạn đầu có thực tế đến đâu thì chúng ta cũng được báo cho biết ở đây điều quan trọng không phải là một bài học xã hội, nhưng là một mạc khải về Nước Trời. Vậy chúng ta hãy coi chừng.
Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc Khoảng giờ thứ ba ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một ông trở ra và thấy còn có những người khác đang đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đấy suốt ngày không làm gì hết?”. Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho!”
Nếu tính ra giờ hôm nay ông chủ đi ra tìm thợ từ sáng sớm, rồi lúc 9 giờ sáng lúc giữa trưa, lúc 3 giờ và lúc 5 giờ chiều. Vì thế chúng ta phải đoán ra rằng đây không phải là một ông chủ bình thường: không ai lại đi thuê thợ làm vườn trước lúc nghỉ việc chỉ có một giờ! Đây là một “ông chủ” quan tâm sâu sắc đến bi kịch của những kẻ thất nghiệp ấy: “Tại sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?”. Câu chuyện mà Đức Giêsu kể lại nhắc chúng ta rằng vấn đề thất nghiệp trầm trọng, than ôi, không chỉ là vấn đề của ngày hôm nay. Và nếu chúng ta dừng lại ở phần đầu của dụ ngôn này không để cho các thiên biến của ý thức hệ chi phối, thì chúng ta thấy Đức Giêsu mô tả một người đã nhân từ một cách tuyệt vời rồi: năm lần trong một ngày, ông không mệt mỏi, lo lắng đem lại việc làm, đồng lương, nhân phẩm, cho những người nghèo bị rơi vào cảnh khốn cùng.
Chúng ta không quên ghi nhận điệp khúc được nhắc lại: “Hãy đi vào vườn nho” trong toàn bộ Cựu Ước, và do đó đối với các thính giả đầu tiên của Đức Giêsu, vườn nho là biểu tượng của “Dân Thiên Chúa” (Is 5,1-7; Gr 2,21; Ed 17,6; Hs 10,1; Tv 78, 9-16). Theo nghĩa này, vườn nho là nơi hạnh phúc, nơi Giao ước với Thiên Chúa, nơi mà Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta bước vào. “Hãy đi vào vườn nho của tôi... Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (x. Mt 25, 21-23).
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất”.
Nói theo kiểu của con người thì chỉ bắt đầu từ lúc này trở đi, câu chuyện xem ra không có thật. Đây là dấu chỉ chúng ta phải đến gần “cao điểm” của dụ ngôn. Một cách rõ ràng hơn, ông chủ rất kỳ lạ này muốn rằng những người có công nhiều nhất với vườn nho phải làm chứng nhân cho điều mà ông sắp làm cho những người vào sau hết: họ sẽ chứng kiến việc ông chủ trả lương cho những người khác. Tại sao? Sẽ rất đơn giản nếu như ông chủ trả công cho người làm nhiều trước và để họ ra về trước.
Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một (5 giờ chiều) tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt!”
Bản văn Hy Lạp dùng một chữ có nghĩa chính xác: “họ lẩm bẩm”. Đó là từ ngữ trong Kinh Thánh nói về những tiếng lẩm bẩm, cằn nhằn của dân Israel trong sa mạc (Xh 16,9; Tv l06,25), nó diễn tả thái độ rất thường gặp của chúng ta khi chúng ta không hiểu những thử thách đang ập xuống chúng ta; khi chúng ta phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt; khi chúng ta lên án Thiên Chúa. Những kẻ lẩm bẩm, cằn nhằn ấy trong dụ ngôn này vào thời Đức Giêsu, rõ ràng là các kinh sư và biệt phái
Họ không ngừng lẩm bẩm chống lại Đức Giêsu khi Người tiếp đón những “kẻ thu thuế, kẻ tội lỗi và gái điếm”. Vào thời của Matthêu, những người “sau cùng” được đặt ngang hàng với những người “đầu tiên”, đó là những dân ngoại được đưa vào trong Giáo hội ngang hàng với những người Do Thái bản địa. Ngày nay cũng thế, chúng ta còn nghe Đức Giêsu nói lại với chúng ta một cách mạnh mẽ rằng với Thiên Chúa, không có những người được ưu đãi, có đặc quyền. Những “người thợ của giờ sau cùng” được đối xử bình đẳng với những người đầu tiên hưởng nhờ vườn nho của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu thường đề cao giá trị của những người nghèo, những kẻ bị loại trừ, những người sau hết, những người tội lỗi! Đối với những người cảm thấy khó chịu, lẩm bẩm, Đức Giêsu nói rằng đó chính là thái độ của Thiên Chúa “giàu lòng thương xót” ‘dives in miséricordia’ theo một tước hiệu đẹp của một Thông điệp của Đức Gioan Phaolô II.
Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”
Không, chúng ta không còn ở trong một hoàn cảnh bình thường để rút ra những nguyên tắc về công bình xã hội chúng ta lắng nghe một ‘mạc khải thần học về những thái độ của Thiên Chúa’. Đây là một chân dung tuyệt vời mà Đức Giêsu vẽ lại Cha Người cho chúng ta:
Một Thiên Chúa yêu mến mọi người, đặc biệt những người bị bỏ rơi, và muốn đưa họ vào “Vườn nho” của Người, trong hạnh phúc của Người.
Một Thiên Chúa tuôn đổ những ân huệ một cách dồi dào, Người “mời mọc” và “kêu gọi” mọi lúc, mọi tuổi, trong mọi hoàn cảnh.
Một Thiên Chúa mà lòng “nhân từ” không bị giới hạn bởi công nghiệp của chúng ta, và Người cho chúng ta nhiều hơn cái mà chúng ta có được bởi những nỗ lực của riêng mình. Một Thiên Chúa gạt bỏ người nào cho rằng mình đặc quyền và ngăn cản người khác được hưởng những quyền lợi ấy.
Như thế Tin Mừng hôm nay công bố với chúng ta một chân lý chủ yếu của đức tin chúng ta mà Thánh Phaolô đã triển khai rộng ra trong các thư Rôma và Galát: “Tất cả những ai tin đều được như thế… Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không. Vậy thì hãnh diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện... Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì luật dạy (Rm 3, 22-31).
“Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?”
Dụ ngôn này phải đem lại một niềm hy vọng lớn lao cho biết bao bậc cha mẹ hôm nay nhìn thấy con cái họ từ bỏ đức tin. Đối với Thiên Chúa, không có gì mất đi mãi mãi, Người còn đi ra thuê thợ cho đến phút chót. Không bao giờ Người đến quá muộn. Vả lại, chúng ta, hãy nhớ rằng Đức Giêsu không chỉ bằng lòng với việc “kể lại” câu chuyện này. Người còn áp dụng câu chuyện này vào cuộc sống khi ban Thiên đàng vào giây phút chót cho người trộm bị đóng đinh với Người.
Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.
Thay vì giữ chặt chúng ta trên vẻ bề ngoài bất công, giờ đây chúng ta được mời gọi hãy vui mừng chỉ vì lòng nhân từ tuyệt vời của Cha chúng ta. “Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em trên trời là Đấng xót thương”. Từ vài thập kỷ, yêu sách về sự công bình hay công lý trên thế giới đã có nhiều tiến bộ. Dĩ nhiên là không có vấn đề quay lại đàng sau. Nhưng việc thế giới tiến bộ về hướng tình yêu thương và tấm lòng há chẳng cần thiết sao? Đó là một chủ đề mà Đức Giáo Hoàng diễn tả trong một thông điệp của ngài:
“Trong thế giới hiện đại, ý thức về công lý trên bình diện rộng đã trỗi dậy... và Giáo Hội chia sẻ với nhân loại ở thời đại chúng ta ước muốn mãnh hệt, sâu xa và một đời sống công bằng ở mọi phương tiện. Tuy nhiên, người ta dễ dàng nhận ra những chương trình xây dựng trên ý tướng công bằng khi đem ra thực hiện nhiều khi phải chịu sự biến dạng... bởi lòng oán hận, thù nghịch mà cả sự tàn ác. Kinh nghiệm của quá khứ và của thời đại chúng ta chứng tỏ chỉ có công lý mà thôi không đủ, nếu người ta không cho phép một sức mạnh sâu xa hơn là tình yêu thương xây dựng đời sống con người.
Thế thì, chúng ta được trả về với sự chiêm ngắm lòng thương xót của Thiên Chúa: “Lòng nhân hậu là một sức mạnh đặc biệt của tình yêu còn mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung. Trong một nghĩa nào đó, lòng nhân hậu ở vị trí đối lập với công lý của Người, và trong nhiều trường hợp tỏ ra mạnh hơn, căn bản hơn công lý” (Gioan Phaolô II).
46. Phải chăng Thiên Chúa quá bất công?
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tại Việt Nam chúng ta không có những cách đồng nho như bên Dothái. Có chăng thì ở khu vực Cam Ranh Nha Trang, nhưng cũng không nhiều. Còn đại đa số là những cánh đồng lúa; hoặc những khu rừng cao su, tiêu, cà phê hay điều... Vì thế, hình ảnh vườn nho có vẻ hơi xa lạ trong tâm thức đối với đại đa số người dân Việt.
Nhưng dù biết hay không thì cách thức chi trả lương cho những người làm thuê cũng có nhiều điểm tương đồng với những người làm công trong vườn nho của người Dothái.
Tuy nhiên, bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một nghịch lý khi Đức Giêsu kể dụ ngôn ông chủ vườn nho trả lương cho những người làm công: ông chủ này không tính đến chuyện thợ làm thuê có chuyên môn hay nghiệp dư, cũng không kể đến chuyện giờ giấc của người làm. Vì thế, dù chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, kinh nghiệm hay mới vào nghề, và tham gia làm vườn giờ nào...! Nhưng chiều đến, khi lĩnh lương, tất cả họ đều giống nhau. Tại sao vậy? Ông chủ có bất công không?
Để hiểu được vấn đề này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu nguyên nhân tại sao? Và Đức Giêsu có lý gì khi kể dụ ngôn này?
Tại sao Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn thợ làm vườn nho?
Trước tiên, chúng ta cần hiểu ý nghĩa của vườn nho mà Đức Giêsu muốn nói tới ở đây.
Vườn nho được Đức Giêsu kể trong dụ ngôn chính là hình ảnh của Giáo Hội. Vườn nho ấy đến mùa thu hoạch, chính là sứ mạng truyền giáo đang cấp bách, điều này được bổ túc thêm khi Đức Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặp lại ít”.
Thứ đến, người mời gọi là chính Thiên Chúa. Người gọi hết mọi người, không phân biệt tốt xấu, giỏi hay dốt, thành phần nào, già hay trẻ... Nhưng Người gọi bất cứ ai Người muốn! Cách thức này Đức Giêsu muốn thay đổi quan niệm nơi người Dothái, họ chỉ coi là mình họ được cứu độ, còn những dân tộc khác thì không, họ tỏ ra khinh bỉ hay ghen tức với cách hành xử của Đức Giêsu với những người không thuộc Dothái, vì thế, Đức Giêsu mới nói: "Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao?"; “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”. Thật vậy, Thiên Chúa không chỉ dành ơn cứu độ cho dân Dothái, nhưng là cho muôn dân muôn nước không trừ ai. Hơn nữa, Người còn tỏ lòng thương xót đặc biệt hơn đối với những ai bị coi là hèn kém.
Tiếp theo, cách thức trả lương. Người không trả lương theo kết quả công việc. Cũng không trả lương theo kiểu làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu. Mà Người trả lương cách đồng đều theo sự thỏa thuận lúc ban đầu. Tức là một đồng cho tất cả mọi người. Người đến sớm cũng kẻ đến muộn, người giỏi cũng như dốt, người già cũng như trẻ... Cách thức này cho thấy lòng nhân từ, thương xót và bao dung của Thiên Chúa dành cho hết mọi người chứ không phải chỉ dành cho một số người đặc tuyển. Điều Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là: “Thiên Chúa để ý đến tinh thần của người tham gia vào công việc của vườn nho”.
Hiểu và thực hành sứ điệp Lời Chúa
Qua Lời Chúa hôm nay, Đức Giêsu không muốn ai phải thất vọng, mọi người đều có chỗ đứng trong Giáo Hội và đều có trách nhiệm tham gia vào sứ mạng truyền giáo. Thật vậy, tính phổ quát của của ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho chúng ta người Công Giáo, nhưng là cho muôn dân muôn nước, không trừ ai. Đồng thời, Đức Giêsu cũng mặc khải về lòng bao dung, quảng đại và thương xót của Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, trung thành, yêu mến và dấn thân vào làm vườn nho của Chúa, bằng cách sống tốt và chu toàn bổn phận của mình theo thánh ý Chúa dựa trên tình yêu. Vì thế:
Trước tiên, cần loại bỏ thái độ tự tôn, kiêu hãnh và coi thường người khác vì nghĩ rằng mình thuộc thành phần đương nhiên được cứu độ, còn người khác, họ chỉ là đám dân thường, tội lỗi, dốt nát, nên không cần quan tâm. Cũng cần có sự cảm thông, cộng tác để cùng nhau làm việc thiện thay vì ganh đua, ghen tỵ khi thấy người khác tốt lành hơn mình, hoặc người ta làm được nhiều điều hữu ích hơn chúng ta.
Tốt hơn là hãy ý thức mình chỉ là đầy tớ bất tài, vô dụng, nhưng lại được Chúa thương chọn và gọi để đi làm vườn nho cho Người. Vì thế, hãy dâng lời tạ ơn Chúa và cố gắng với khả năng của mình, làm sinh lợi nén bạc Chúa trao trong sự yêu mến với lòng nhiệt huyết tông đồ.
Thứ đến, hãy kiên trung, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, đừng thất vọng vì thấy mình không giỏi giang hay tội lỗi. Hãy nhớ rằng: Thiên Chúa luôn để ý đến những người “đứng chót”. Phần còn lại là của chúng ta, nếu chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa trong sự khiêm tốn, ắt Chúa sẽ trả công hậu hĩnh và Người sẽ làm những điều kỳ diệu khi: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”.
Hiểu được tình thương của Thiên Chúa như thế, hẳn chúng ta thấy Thiên Chúa rất công bằng do lòng nhân từ của Người chứ không phải bất công như những người Dothái và ngay cả chúng ta đã lầm tưởng!
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khiêm tốn và yêu mến Chúa tha thiết. Biết gắn bó với sứ mạng truyền giáo trong Giáo Hội. Luôn tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa và trung thành với bổn phận của mình. Amen.