Chương I – Nguồn Gốc Của Việc Truyền Giáo
Dẫn nhập: Sứ vụ Truyền giáo mang đậm dấu ấn của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nguồn gốc là do sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha định dự án; Chúa Con đến thực hiện; Thần Khí hoàn tất trong sứ mệnh Giáo Hội. Mục đích là hiệp thông tất cả mọi người với Thiên Chúa không loại trừ ai.
1.1 Do Ý định của Thiên Chúa :
(Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý về Gíáo Hội, 2).
(Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Hoạt động Truyền Giáo của Giáo hội, 7).
1.2 Khơi nguồn từ sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi:
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 12)
(Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư Mục Vụ 2003)
2.1 Tình yêu của Chúa Cha đối với con người :
(Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Hoạt động Truyền Giáo của Giáo hội, 2).
2 2 Thể hiện qua việc sai Thiên Chúa Con :
(Công đồng Vatican II, Hiến chế về Mạc Khải, 4).
(Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Hoạt động Truyền Giáo của Giáo hội, 3).
3.1 Sứ mệnh Ngôi Con
Chúa Kitô “Đấng được Chúa Cha thánh hóa và sai xuống trần gian” đã nói về chính mình rằng :”Thần linh Chúa ở trên Tôi, nên Ngài đã xức dầu cho Tôi, sai Tôi đi rao giảng Phúc Am cho kẻ nghèo khó, an ủi kẻ khổ tâm, loan báo sự giải thoát cho kẻ tù đầy và đem sự sáng mắt cho kẻ đui mù” (Lc 4,18) ; Người còn nói: ”Con Người đến tìm kiếm và cứu vớt điều gì bị hư đi” (Lc 19,10).
(Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Hoạt động Truyền Giáo của Giáo hội, 3).
Được Thiên Chúa của sự hiệp thông sai đến, đồng thời cũng là Chúa thật và là người thật, Đức Giêsu đã thiết lập sự hiệp thông giữa Trời và Đất nơi chính bản thân Người.
Chúng ta có thể tìm thấy sự cứu độ nơi bản thân Con Thiên Chúa đã nhập thể cũng như nơi sứ mạng đã được giao phó cho một mình Ngài với tư cách là Con, một sứ mạng phục vụ và yêu thương cho tất cả mọi loài được sống.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 13).
3 .2 Chúa Con khai nguyên Nước Trời
(Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý về Gíáo Hội, 3).
Có những quan điểm khác chủ tâm nhấn mạnh đến Nước Thiên Chúa và tự cho mình là tập trung vào Nước Thiên Chúa. Những quan niệm đó muốn giới thiệu hình ảnh một Giáo Hội không nghĩ về mình, nhưng chỉ lo làm chứng về Nước Thiên Chúa và phục vụ Nước Thiên Chúa. Người ta nói đó là một “Giáo Hội cho người khác”. Người ta phân tích trách vụ của Giáo Hội và cho rằng trách vụ đó phải được hoàn thành theo hai hướng: một mặt, phải cổ võ những gì người ta gọi là “những giá trị của Nước Thiên Chúa”, tức là hòa bình, công lý, tự do, tình huynh đe ; mặt khác, phải cổ võ sự đối thoại giữa các dân tộc, các nền văn hóa, các tôn giáo, để làm phong phú lẫn nhau các yếu tố này giúp thế giới tự canh tân và luôn tiến về Nước Thiên Chúa.
Không kể những khía cạnh tích cực, những quan niệm này thường hàm chứa những khía cạnh tiêu cực. Trước hết, những quan niệm này không nói gì về Đức Kitô: Nước Thiên Chúa theo những quan niệm đó đặt nền trên chủ thuyết “qui thần”, vì người ta nói, những người không có niềm tin Kitô giáo thì không hiểu được Đức Kitô, trong khi các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo khác nhau có thể gặp gỡ nhau chung quanh một thực tại thần linh duy nhất, dù dưới bất cứ danh hiệu nào. Cũng vì động lực đó, các quan niệm trên đề cao mầu nhiệm tạo dựng vốn được phản ảnh trong những nền văn hóa và tín ngưỡng khác nhau, nhưng lại không nói gì về mầu nhiệm cứu chuộc. Đàng khác, Nước Thiên Chúa theo như những quan niệm đó hiểu, rốt cuộc lại gạt Giáo Hội ra ngoài, hay đánh giá thấp Giáo Hội, bằng cách phản ứng chống lại thuyết “qui Giáo Hội” được coi là thuộc về quá khứ, và vì những quan niệm đó chỉ nhìn Giáo Hội như một dấu chỉ, một dấu chỉ không thiếu hàm hồ.
Như vậy đó không phải là Nước Thiên Chúa như chúng ta biết qua mặc khải, một Nước không thể tách rời khỏi Đức Kitô cũng như Giáo Hội. Như đã nói, Đức Kitô đã không chỉ loan báo Nước Thiên Chúa, nhưng chính trong Người mà Nước Thiên Chúa đã được thể hiện và hoàn tất, và không phải chỉ qua lời nói và hành động của Người:”Trước tiên, Nước Thiên Chúa biểu lộ trong chính con người Đức Kitô, Con Thiên Chúa và là Con Người, Đấng đã đến “để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc thiên hạ” (Mc 10,45). Nước Thiên Chúa không phải là một khái niệm, một học thuyết, một chương trình mà người ta có thể tự do phác họa, nhưng Nước Thiên Chúa trước hết là một Ngôi vị, có một dung mạo và một danh xưng là Giêsu Na-da-rét, một khuôn mặt của Thiên Chúa vô hình. Nếu tách rời Nước Thiên Chúa ra khỏi Đức Giêsu, chúng ta sẽ không còn quan tâm đến Nước Thiên Chúa như Người đã mạc khải, và cuối cùng, chúng ta làm phai nhạt ý nghĩa Nước Thiên Chúa, có nguy cơ biến Nước Thiên Chúa thành một đối tượng hoàn toàn có tính cách nhân loại hoặc ý thức hệ, và cũng làm sai lạc căn tính của Đức Kitô, không còn coi người là Chúa, Đấng mà mọi loài phải phục tùng (1 Cr 15,27).
Cũng vậy chúng ta không thể tách rời Nước Thiên Chúa ra khỏi Giáo Hội. Chắc chắn, Giáo Hội không phải là cùng đích của chính mình, vì Giáo Hội hướng về Nước Thiên Chúa mà Giáo Hội là mầm giống, là dấu chỉ và là khí cu. Nhưng mặc dù khác biệt với Đức Kitô và Nước Trời, Giáo Hội vẫn hiệp nhất chặt chẽ với Đức Kitô và Nước Trời. Đức Kitô đã ban tặng ơn ích và phương tiện cứu độ một cách sung mãn cho Giáo Hội là thân mình của Người. Chúa Thánh Thần ở trong Giáo Hội, làm cho Giáo Hội sống nhờ các ân huệ và các đặc sủng của Người. Từ đó, nảy sinh một mối tương quan riêng biệt và duy nhất, mối tương quan này mặc dù không loại trừ tác động của Đức Giêsu và của Chúa Thánh Thần ở bên ngoài những giới hạn hữu hình của Giáo Hội, nhưng vẫn đem lại cho Giáo Hội một vai trò đặc biệt và thiết yếu. Cũng từ đó mà có mối dây liện hệ đặc biệt giữa Giáo Hội và Nước Thiên Chúa và Nước của Đức Kitô, Nước mà Giáo Hội có “sứ mạng rao truyền và thiết lập trong mọi dân tộc”.
Phải hiểu thực tại Nước Thiên Chúa trong cái nhìn bao quát đó. Đã hẳn, cần phải cổ võ những thiện hảo của nhân loại và những giá trị có thể gọi được là “có tính Tin Mừng”, vì những điều đó gắn bó mật thiết với Tin Mừng. Nhưng sự cổ võ này – mà Giáo Hội vẫn chủ trương – không được tách rời khỏi những nhiệm vụ cơ bản khác của Giáo Hội, cũng không đối lập với những nhiệm vụ ấy, ví dụ như nhiệm vụ loan báo Đức Kitô và Tin Mừng của Người, nhiệm vụ thiết lập và phát triển những cộng đoàn điễn tả khuôn mặt sống động của Nước Thiên Chúa giữa con người. Chúng ta đừng sợ vì thế mà rơi vào hình thức “qui Giáo Hội”: Đức Phaolô VI, khi khẳng định sự hiện hữu của “một mối dây liên kết sâu xa giữa Đức Kitô, Giáo Hội và việc loan báo Tin Mừng”, cũng đã nói : Giáo Hội không phải là cùng đích của chính mình, nhưng Giáo Hội mong ước một cách mãnh liệt được hoàn toàn thuộc về Đức Kitô, ở trong Đức Kitô và vì Đức Kitô Giáo Hội cũng mong ước được hoàn toàn thuộc về con người, ở giữa con người và vì con người”
(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, 17 – 19).
3.3 Đức Kitô vừa là biến cố vừa là Lời của Thiên Chúa
(Công đồng Vatican II, Hiến chế về Mạc Khải, 4).
3.4 Noi gương Chúa Giêsu Kitô
Để rao giảng Tin Mừng, Ngài đã không biết mỏi mệt đi đến khắp mọi nơi, tiếp xúc với tất cả mọi hạng người, thực hiện rất nhiều việc lạ lùng để làm chứng Nước Chúa đã đến.
Xác định rao giảng Tin Mừng theo ý Chúa Cha là lẽ sống (Mc 1,38 ; Lc 4,43) nên Ngài hiến trọn cuộc đời, đến tự nguyện hy sinh cả mạng sống, chấp nhận cái chết tủi nhục trên thập giá để hoàn thành thánh ý Chúa Cha.
(Hội đồng Giám Mục Việt Nam, Thư Mục Vụ 2003).
4.1 Chúa Kitô sai Thánh Thần
(Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Hoạt động Truyền Giáo của Giáo hội, 4).
4.2 Chúa Thánh Thần là nhân tố chính yếu trong sứ vụ Truyền giáo
(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ , 21).
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 15).
4.3 Thánh Thần và Giáo Hội
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 17).
4.4 Chúa Thánh Thần và sứ mạng của Giáo Hội tại Châu Á
Giáo Hội tin chắc rằng ẩn sâu trong các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo của Châu Á này luôn có một sự khao khát “nước hằng sống”, một sự khao khát do chính Chúa Thánh Thần khơi dậy và chỉ một mình Đức Giêsu Cứu Thế mới có thể thỏa mãn. Giáo Hội đang trông chờ Chúa Thánh Thần tiếp tục chuẩn bị tâm hồn các dân tộc Á Châu này để họ bước vào cuộc đối thoại với Đấng Cứu Độ nhân loại. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong khi thi hành sứ mạng yêu thương và phục vụ, Giáo Hội có thể tạo điều kiện cho Đức Giêsu và các dân tộc Á Châu gặp gỡ nhau, trong khi các dân tộc ấy tìm kiếm một cuộc sống sung mãn.
Giáo Hội đã hiểu rõ rằng mình chỉ có thể hoàn thành sứ mạng khi vâng theo những sự nhắc nhở của Chúa Thánh Thần. Được trao cho nhiệm vụ trở thành dấu chỉ và khí cụ chính hiệu cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong các thực tế phức tạp của Châu Á này, Giáo Hội phải biết nhận ra trong tất cả các hoàn cảnh khác nhau của lục địa, đâu là tiếng gọi của Chúa Thánh Thần muốn mình làm chứng cho Đức Giêsu Cứu Thế một cách mới mẻ và hiệu quả. Sự thật toàn vẹn về Đức Giêsu cũng như ơn cứu độ mà Ngài đã đạt được, luôn luôn là một ân huệ, chứ không bao giờ là kết quả của nỗ lực con người….. Bởi đó, Giáo Hội không ngừng kêu lên: ” Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến!”.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 18).
5.1 Lệnh truyền của Đấng Sáng lập Giáo Hội :
(Mt 28,16.18-20).
5.2 Vai trò của Giáo Hội trong việc cứu độ :
(Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, 9).
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, 9).
5.3 Trung thành với truyền thống của Hội Thánh sơ khai
Vâng lệnh Chúa Giêsu Kitô, dưới tác động của Thánh Thần, Hội Thánh sơ khai hăng hái dấn thân vào việc loan báo Tin Mừng, sẵn sàng hiến mạng sống để làm chứng về hồng ân cứu độ mà Chúa Giêsu đã thực hiện qua mầu nhiệm Tử nạn và Phục Sinh của Người (Cv 2,37-40 ; 1Cr 9,16).
Ý thức việc loan báo Tin Mừng là chân tính của Hội Thánh lữ hành. Hội Thánh không ngừng nhắc nhở con cái mình tập trung mọi nỗ lực vào việc truyền giáo, đồng thời phải thích ứng để có thể đem Tin Mừng cho nhân loại trong thời đại này (Tông huấn Loan Báo Tin Mừng của Đức Phaolô VI; Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ của Đức Gioan Phaolô II). Mở đầu ngàn năm mới, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II một lần nữa mời gọi mọi thành phần trong Hội Thánh hãy “ra khơi truyền giáo”. Ngài đặc biệt trao nhiệm vụ truyền giáo trong thiên niên kỷ mới cho các Hội Thánh tại Châu Á, trong đó có Hội Thánh Việt Nam.
(Hội đồng Giám Mục Việt Nam, Thư Mục Vụ 2003).
Trao đổi:
1. Truyền giáo là ý định và kế hoạch yêu thương của Chúa Cha, được bộc lộ nơi/qua Chúa Giêsu là Con và được thực hiện bởi Chúa Thánh Thần. Vậy chúng ta phải có thái độ và tâm tình nào đối với Thiên Chúa Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần?
2. Hãy xác định mối tương quan mật thiết giữa Chúa Giêsu Kitô và Nước Thiên Chúa, giữa Nước Thiên Chúa và Giáo Hội để rút ra được những thực hành cụ thể cho đòi sống đức tin của chúng ta.
3. Trong đời sống đức tin cá nhân và cộng đoàn giáo xứ và trong công cuộc truyền giáo cho lương dân chúng ta đã quan tâm đủ đến vai trò của Chúa Thánh Thần chưa và phải làm thế nào để Ngài được tự do hoạt động cho cánh đồng lúa chín vàng ở Việt Nam?
4. Tỷ lệ người công giáo xứ ở Việt Nam là 7 %, nghĩa là cứ 100 người dân Việt Nam thì mới có 7 người công giáo. Như vậy là còn hơn 73 triệu người Việt Nam chưa biết Chúa! Theo bạn thì Giáo hội Việt Nam phải làm gì để có thêm nhiều người lương dân gia nhập Đạo Chúa?
Nguồn: giaoly.org
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn