LỄ DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH
Bốn mươi ngày sau khi sinh Chúa, Đức Mẹ và thánh Giuse đã đem Chúa Giêsu Hài nhi dâng trong đền thờ Giêrusalem và hôm nay ngày 02.2 tức là 40 ngày sau lễ Giáng sinh chính là lễ kính và kỉ niệm sự kiện này bao gồm hai nội dung theo luật Môsen dạy là thanh tẩy cho mẹ và dâng con cho Chúa: Một bà mẹ Do thái nếu sinh con trai thì 40 ngày, nếu là con gái thì 80 ngày sau khi sinh phải làm lễ nghi thanh tẩy.
Đức Mẹ sinh Chúa mà vẫn đồng trinh vì Đức Mẹ chịu thai bởi phép Chúa Thánh Thần, đáng lẽ Đức Mẹ không cần phải làm lễ nghi thanh tẩy nhưng Đức Mẹ có tâm hồn vâng phục lề luật nên Mẹ sẵn lòng chu toàn lễ nghi này. Lễ vật kèm theo việc dâng Hài nhi là một con chiên đực được một tuổi, hoặc là cặp chim gáy hay cặp bồ câu non là lễ vật của người nghèo; Đức Mẹ và thánh Giuse đã dâng Chúa kèm theo lễ vật của người nghèo.
Chúng ta thấy thánh gia đã chu toàn lễ nghi theo luật dạy đó là gương sáng cho người kitô hữu chúng ta trong việc chu toàn luật Chúa và luật Hội thánh. Chính Chúa Giêsu sau này vẫn chu toàn luật đạo và luật đời như vậy; Chúa đi tham dự việc thờ phượng các ngày Sabath tức ngày thứ bảy tại Hội đường Nazareth và hằng năm đi lễ Vượt qua tại đền thờ Giêrusalem. Chúa cũng sẵn sàng nộp thuế cho đền thờ mặc dù như Chúa khẳng định Ngài là Con Thiên Chúa thì dược miễn nhiệm vụ này.
Đức Mẹ và thánh Giuse tiến dâng Chúa Giêsu hài nhi cho Thiên Chúa lúc này nói lên tâm tình hiến dâng Chúa Giêsu là hi lễ dâng lên Thiên Chúa và lễ hiến dâng sẽ trọn vẹn khi Chúa dâng mình trên Thánh giá, còn Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh Giá để hiệp dâng hầu đem lại ơn cứu chuộc cho nhân loại. Thế nên tông huấn “Lòng sùng kính Đức Maria (Mariae Cultus)” đã gọi Đức Mẹ là “trinh nữ hiến dâng”. Đức Mẹ đã liên kết với Chúa Giêsu qua hi lễ hiến dâng và trong suốt cuộc đời nhất là qua cuộc khổ nạn của Chúa cho nên ông Simêon đã có sấm ngôn là: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra” như vậy Chúa Giêsu đòi người ta phải có tâm thế dứt khoát hoặc là tuân phục Chúa hoặc là chống đối không được có tâm lý mập mờ nước đôi.
Thánh Luca đặt ông Simêon song song với bà tiên tri Anna: cả hai cùng rất cao tuổi tượng trưng cho lòng mong chờ Đấng Cứu thế mà nay họ đều được mãn nguyện khi được nhìn thấy và còn được bồng ẵm Chúa Hài Nhi nữa nên họ rất sung sướng và làm chứng cho Hài nhi này là đấng Thiên sai Cứu thế. Thánh Giuse và Đức Mẹ về tuổi đời thì còn trẻ so với Ông Simêon và bà Anna. Hai thế hệ già trẻ gặp nhau chung quanh hài nhi Giêsu.
Ông Simêon xưng ra Chúa Giêsu là Ánh sáng muôn dân phù hợp với lời Chúa nói lên sau này: “Tôi là ánh sáng thế gian ai theo tôi sẽ không còn đi trong bóng tối nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống (Ga 8,12)”. Giáo hội dựa vào lời sấm ngôn này để lập lễ hôm nay là Lễ Nến và các nhà thờ có nghi thức làm phép và Rước nến trước thánh lễ. Chúng ta nhớ ngày chịu phép Rửa tội được linh mục trao cho người đỡ đầu hoặc người tân tòng ngọn nến sáng thắp lên từ cây nến Phục sinh để nhắc nhở các kitô hữu phải nên ánh sáng phản chiếu ánh sáng Chúa cho thế gian.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đặt lễ này là “Ngày Quốc tế của Đời sống thánh hiến” với lời khuyên các tu sĩ nam nữ hãy sống với ba chữ S: một là say mê Đức Kitô, hai là sống hiến thánh, ba là sống cho sứ vụ. Chúng ta cầu nguyện cho các tu sĩ noi gương Chúa Giêsu và Đức Mẹ sống đời sống thánh hiến tốt đẹp theo lời nhắn nhủ của Đức Giáo hoàng.
Câu chuyện: Mẹ Têrêxa kể lại: một ngày kia tại Melbourne, Úc, Mẹ đến thăm viếng một người đàn ông nghèo nàn không được một ai quan tâm đến. Ông ta sinh sống dưới tầng hầm, trong một căn phòng dơ dáy, hôi tanh, không có ánh sáng. Mẹ bắt đầu bằng việc thu dọn và sắp xếp lại căn phòng. Ban đầu, ông ta cự tuyệt: “Bà cứ để mọi sự như cũ. Tôi quen như vậy rồi”.
Dù thế, Mẹ vẫn cứ xúc tiến công việc dọn dẹp và gợi chuyện để nói với ông. Tình cờ, dưới một đống rác, Mẹ phát hiện ra một cây đèn dầu phủ đầy bụi bặm. Mẹ lấy cây đèn ra lau chùi, và nhận thấy nó khá đẹp. Mẹ nói với ông ta: “Ở đây, ông có một cây đèn rất đẹp. Sao ông không bao giờ thắp sáng nó lên vậy?”
Người đàn ông này đáp:“Tôi không bao giờ thắp sáng cây đèn đó vì có ai đến thăm tôi đâu!”
Hai trong số các nữ tu của Mẹ Têrêxa bắt đầu thường xuyên đến thăm ông. Mọi sự dần dần được cải thiện đối với ông ta. Mỗi lần các nữ tu đến thăm, thì ông ta đều thắp đèn lên. Thế rồi một ngày kia, ông nói với các nữ tu: “Thưa các Sơ, kể từ nay, tôi có thể tự xoay sở được rồi. Xin nói dùm với người nữ tu đầu tiên đến thăm tôi rằng, ánh sáng mà bà đã thắp lên trong cuộc đời tôi hiện vẫn còn đang cháy sáng”.
Cây đèn bên ngoài đã được thắp lên, vì ngọn đèn trong tim ông đã sáng lên. Ánh sáng đó được truyền qua nhờ lòng nhân ái của Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ.
Lạy Chúa Giêsu là Ánh Sáng trần gian, xin cho chúng con tiếp nhận từ nơi Chúa ánh sáng thiêng liêng, để chúng con biết đường đi đến Chân Lý, đồng thời trở nên ánh sáng cho những người xung quanh. Amen.