Lời Chúa: Gr 33, 14-16; 1Tx 3,12–4,2; Lc 21, 25-28. 34-36
MỤC LỤC
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II trong chương đầu của cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” đã viết: Đừng sợ. Đó là lời Chúa mời gọi nhiều lần với những người Ngài đã tiếp xúc.
Thực vậy, thiên thấn đã nói với Mẹ Maria: Đừng sợ. Cũng như đã nói với thanh Giuse trong giấc mộng: Đừng sợ. Ngài cũng đã nói với các môn đệ, đặc biệt với Phêrô trong những trường hợp khác nhau, chẳng hạn như khi mặt biển dậy sóng: Đừng sợ. Hay khi Ngài đã sống lại: Đừng sợ. Sở dĩ Ngài phải lặp đi lặp lại như vậy là vì Ngài biết rằng các ông đã sợ.
Phải, các ông đã sợ khi Ngài bị bắt. Các ông đã sợ khi Ngài phục sinh. Các ông họp mặt mà cửa thì đóng kín. Lời nói ấy của Chúa Giêsu cũng đã được Giáo Hội và Đức Thánh Cha lặp lại. Thế nhưng, chúng ta đừng sợ cái gì?
Xin thưa: Chúng ta đừng sợ sự thật của chính mình. Thánh Phêrô đã sống cái kinh nghiệm bản thân của sự thật đó, khi ông nói cùng Chúa Giêsu: Lạy Thầy, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi. Không phải chỉ mình Phêrô mới ý thức được sự thật đó, mà mỗi người chúng ta đều biết rằng sau câu nói ấy của Phêrô, Chúa Giêsu đã bảo ông: Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chài lưới người ta.
Tuy nhiên, để đứng vững và ngẩng đầu lên, chúng ta cần phải hết lòng tin tưởng và hy vọng vào quyền năng của Chúa, đồng thời phải yêu mến Ngài hết tâm hồn, quy hướng mọi khả năng để phục vụ Ngài, bởi vì ơn cứu độ chỉ đến từ Thiên Chúa mà thôi. Không có niềm tin tưởng vững mạnh. Không có niềm hy vọng dạt dào. Không có lòng mến bao la thì chẳng ai có thể đứng vững được trước những hiểm nguy, gian nan và thử thách của cuộc đời. Bởi vì bản tính tự nhiên của mọi sinh vật khi gặp nguy nhiểm là trốn tránh, là ẩn núp, là nằm rạp xuống, là thu mình nhỏ lại, như muốn mình tan biến để những cơn nguy hiểm không đụng chạm đến. Thế nhưng, Chúa Giêsu lại bảo chúng ta: Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên, vì Thiên Chúa đem đến cho chúng ta niềm vui mừng và hy vọng.
Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên, để những lo âu của cuộc sống không đè bẹp chúng ta và để cho chúng ta có thể niềm mở với hết mọi người, nhất là những người thân yêu trong gia đình, đồng thời để chúng ta có được một cái nhìn lạc quan trước mọi biến cố của cuộc đời, kể cả những biến cố đau thương nhất, bởi vì có Chúa nâng đỡ, chúng ta sẽ không còn sợ hãi chi. Với niềm tin yêu và phó thác, thì tất cả đều là hồng ân của Chúa.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Bài Tin Mừng nói đến ngày Chúa quang lâm, vừa xảy ra những tai họa, vừa đem lại nguồn hy vọng bất diệt.
Thực vậy cuộc sống của con người trên trái đất giống như đoàn người trên con tàu vĩ đại Titanic dài 271 mét, rộng 28 mét, cao 22 mét, có 8 tầng lầu với đủ các tiện nghi, có phố chợ, hồ tắm, sân chơi, rạp hát, vườn bông, khách sạn, con tàu chỉ chở những nhân vật tai to mặt lớn: những ông hoàng, bà chúa, những đại phú gia. Nó đi từ Southampton, hải cảng Anh quốc, vượt Đại Tây Dương để đến NewYork là thành phố lớn nhất, giàu nhất thế giới thời đó. Họ tưởng đi trên con tàu đó sẽ an toàn vững chắc như trên mặt đất, nhưng nó vừa khởi hành được mấy ngày thì đụng vào băng sơn gãy đôi, chôn sống hơn 1.500 người vào ngày 14-04-1912.
Trái đất này đối với vũ trụ bao la, nó còn nhỏ hơn con tàu Titanic đối với đại dương, nó trôi nổi bồng bềnh trong không gian như con tàu trên sóng nước, có ngày sẽ đụng vào tinh tú, băng thạch sẽ vỡ tan, chính trái đất cũng mang trong mình những bệnh tật như: núi lửa, động đất, bão tố, lụt lội rồi chết rữa giống như thân xác con người và muôn vật.
Lời Chúa hôm nay báo động cho chúng ta biết sẽ có những tai họa kinh khủng khắp nơi trong trời đất, cũng có những niềm hy vọng muôn thuở tuyệt vời cho những người đang mong chờ Chúa đến.
1/ Tai họa:
Những tai họa do chính Đức Giêsu loan báo: “Những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao, các tinh tú lay chuyển, dưới đất: biển gào sóng thét, ngày ấy những gì sắp giáng xuống địa cầu như chiếc lưới bất thần chụp xuống trên đầu anh em, ngày ấy sẽ ập tới mọi dân cư trên khắp mặt đất”.
Những kẻ không biết đề phòng, không sẵn sàng chuẩn bị, không biết ngẩng đầu lên nhận ra những dấu chỉ điềm trời, những kẻ không lo cầu nguyện, chăm sóc đời sống thánh thiện và vẹn toàn, không biết sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, không biết đối xử tình nghĩa với mọi người cho thắm thiết đậm đà, họ cứ buông thả theo lòng mình đắm say tửu sắc, đa mang sự đời, chai đá cứng lòng, khô khan nguội, lạnh lười biếng. Lúc đó thật tội nghiệp, thảm hại cho họ, họ phải lo lắng hoang mang buồn sầu, sợ hãi kinh hồn. Họ chẳng bao giờ được cứu thoát khỏi những tai họa khốn cực đó. Nhưng những người đang mong chờ Đức Kitô đến, thì ngày ấy là một ngày chan chứa hy vọng.
2/ Hy vọng:
Những người biết tỉnh thức đứng dậy khỏi những đam mê say sưa tửu sắc, khỏi những đa mang ham hố sự đời, khỏi những lôi kéo trần tục, biết ngẩng đầu lên trông cậy vào Chúa mà “kiên trì bền chí cầu nguyện sống đẹp lòng Chúa và sống thắm tình nghĩa thiết với mọi người” (Bài II) chắc chắn họ sẽ được phúc đón mừng con người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. Người sẽ gấp rút giải thoát họ khỏi mọi khốn cực vì họ biết rằng đây là ngày quang lâm của Chúa, đây là giờ cứu rỗi, giờ chiến thắng vinh quang của Chúa. Họ được vững tâm hân hoan đứng trước tôn nhan Thiên Chúa và được sống trong “Chúa là sự công chính của chúng ta” (Bài I).
Như vậy, Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng này trình bày cho chúng ta hai cảnh trái ngược nhau: một cảnh trời đất sẽ có ngày đổ vỡ tiêu tan mà người ta coi nó như những lâu đài đồ sộ tráng lệ, bao la vô tận, nơi họ đang trú ngụ kiên cố, bất diệt muôn thuở. Thế mà không thể tưởng tượng được có ngày nó bị phá hủy như thành Giêrusalem xưa không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Đức Giêsu loan báo như thế, không phải làm cho chúng ta buồn rầu lo lắng bi quan. Nhưng chính là để cho chúng ta vui mừng thấy ngày trời cũ đất cũ đầy đau khổ, bệnh tật, chết chóc, để tới một cảnh trời mới đất mới, nơi vinh hiển hạnh phúc bất diệt, nơi Đức Giêsu, Chúa chúng ta ngự đến mở màn thời quang lâm cùng với thần thánh của Người. Đó là nguồn hy vọng vô cùng cho chúng ta, nếu chúng ta biết dùng thời gian sống trên trái đất này như một mùa vọng chuẩn bị đón mừng Đức Giêsu ngự giá trên mây trời đến với chúng ta trong hân hoan muôn đời.
Thực ra, Đức Giêsu loan báo ngày tận thế chính là để loan báo ngày quang lâm vinh hiển của Người. Đó là một quy luật ngàn đời trong chương trình sáng tạo, cứu chuộc để đưa lại hạnh phúc của Thiên Chúa cho nhân loại. Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ vạn vật không phải để chúng sống rồi chết, có rồi ra hư vô, nhưng để chúng sinh ra, lớn lên phát triển tươi tốt và sinh hoa kết quả rực rỡ muôn hương, muôn sắc, muôn vị thơm ngon.
Người tin vào chương trình đầy tình thương vô biên của Thiên Chúa thì chan chứa niềm vui, đầy hy vọng lạc quan. Người Đông phương đã có cái nhìn đó như Kinh Dịch chủ trương: “Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh” muôn vật sinh ra, lớn lên, thành đạt rồi trở về nguồn gốc trinh nguyên của nó.
Những quan niệm nhìn cuộc đời chỉ là “Sinh thành, hủy diệt” gây ra những hậu quả bi quan, chán đời, buông thả, ăn chơi trác táng, hủy hoại cuộc sống tốt đẹp mà Thiên Chúa đã tạo dựng để đạt đến cùng đích vinh quang.
Đức Giêsu đã nhiều lần nhấn mạnh: “Con Người phải trải qua đau khổ… mới tới vinh quang”. Người đã sống lao động, rao giảng nước trời, trải qua cái chết đau thương và kết quả là sống lại vinh quang muôn thuở như hạt lúa gieo trong lòng đất, bị chôn vùi, biến đổi, lớn lên rồi sinh hoa kết quả gấp 30, 60 và trăm phần trăm, vũ trụ vạn vật đã được Thiên Chúa sáng tạo như thế, con người chúng ta cũng phải sống theo chương trình của Thiên Chúa như thế, chúng ta mới được đứng vững trước mặt Con Người ngự đến trong ngày quang lâm.
Lạy Chúa, xin cho chúng con vững lòng bền chí, tỉnh thức cầu nguyện và luôn luôn chuẩn bị đời sống đón mừng Đức Giêsu đến, chúng con được Chúa là Cha chúng con, nhìn nhận chúng con vào hàng ngũ các Thánh của Người. Amen.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Trong cuộc chiến khốc liệt giữa Pháp và Ðức năm 1870, tại một bệnh viện Pháp, có một thương binh vốn là sĩ quan người Ðức đang bị bắt làm tù binh. Một hôm, bác sĩ cho biết anh sẽ không qua khỏi vì vết thương ngày càng trầm trọng. Viên sĩ quan tỏ ra bất cần một cách ngạo nghễ và can đảm chờ đợi cái chết.
Chị y tá nữ tu Dòng Nữ Tử Bác ái Vinh Sơn vốn chăm sóc anh từ lâu, ân cần ngỏ ý khuyên anh nên xin gặp một vị linh mục để dọn mình trước khi chết. Anh nhận mình là người Công giáo nhưng đã bỏ đạo từ lâu, nên một mực từ chối lời đề nghị chân thành này.
Chị nữ tu vẫn dịu dàng nói:
– Nếu vậy, tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông mau hồi tâm trở về với Chúa.
Viên sĩ quan mỉa mai:
– Chỉ cực nhọc vô ích mà thôi
Chị nữ tu vẫn kiên nhẫn thuyết phục:
– Thú thật với ông, đã “16 năm” nay, các chị em trong Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho một người trở về cùng Chúa.
Viên sĩ quan ngạc nhiên:
– 16 năm rồi cơ à? Thế người được các chị cầu nguyện chắc “phải là ân nhân của nhà Dòng?
Chị nữ tu trả lời:
– Cách đây rất lâu, mẹ tôi là người hầu cho một nữ Nam tước người Ðức. Trong một lần tôi tới thăm mẹ, bà Nam tước biết tôi là nữ tu nên đã xin cầu nguyện cho con trai bà. Anh đã mất đức tin, sống phóng túng, đam mê danh vọng và quyền lực. Ðã 16 năm qua, tôi và cả Nhà Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho anh.
Người sĩ quan gặng hỏi:
– Thế mẹ của chị có phải là bà Béate không?
Chị nữ tu vô càng ngạc nhiên:
– Nhưng tại sao ông lại biết tên mẹ tôi?
Ðến đây thì viên sĩ quan nghẹn ngào thú nhận:
– Thưa chị, tôi chính là Nam tước Charles, con trai của nữ Nam tước mà mẹ chị đã tận tuỵ hầu hạ bấy lâu. Chính tôi là người mà chị và Nhà Dòng đã cầu nguyện cho suốt 16 năm qua.
*****
Có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Có nhiều người sống như thể thế giới sẽ vô tận. Có nhiều người sống như thế gian này đã là thiên đàng. Họ bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế. Trái tim họ “ra nặng nề, vì chè chén say sưa”.
Họ bị chìm ngập trong những tính toán làm ăn, lo toan cho cuộc sống hiện tại, mà quên tìm lẽ sống thật.
Họ bị cuốn hút bởi đam mê danh vọng, quyền lực mà quên đi có những cái bất ngờ sẽ đến.
Viên sĩ quan trong câu chuyện trên đây là một điển hình.
Cuộc sống con người không thiếu những bất ngờ:
Có những bất ngờ thú vị làm cho chúng ta vui sướng khôn nguôi.
Có những bất ngờ bi thảm khiến chúng ta đau khổ tột cùng.
Mùa Vọng nhắc lại lần đến đầu tiên của Con Thiên Chúa, và kêu gọi chúng ta chuẩn bị lần đến cuối cùng của Người. Ngày đó khi nào xảy đến, chẳng ai biết được. Nó đến bất ngờ như “chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất” (Lc 21,35). Giữa hai lần ấy có biết bao lần Người bất ngờ đến. Ðó là ngày tận cùng của mỗi người chúng ta.
Mùa Vọng là mùa Tỉnh thức
Nếu chúng ta luôn “Tỉnh thức và cầu nguyện” (Lc 21,36), luôn sẵn sàng và thanh thoát, thì việc Người đến sẽ là một bất ngờ thú vị. Ngày đó, chúng ta sẽ không phải “lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét” (Lc 21,25), chúng ta sẽ không “sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc” (Lc 21,26), nhưng sẽ “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (Lc 21,28), vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu độ.
***
Lạy Ðức Kitô, ngày Chúa đến như vị Thẩm Phán, vũ trụ này sẽ xáo trộn sâu xa, nhưng xáo trộn kinh khủng nhất lại chính là xáo trộn trong cõi lòng.
Xin cho chúng con biết “tỉnh thức và cầu nguyện, để tâm hồn luôn sẵn sàng và thanh thoát. hầu khi Chúa đến sẽ là giây phút được mong đợi, và là một cuộc hạnh ngộ đầy hoan lạc và yêu thương. Amen.
Bản tính tự nhiên của mọi sinh vật khi gặp nguy hiểm là trốn tránh, ẩn núp, nằm rạp xuống, thu hỏ lại để những nguy hiểm không động chạm đến mình. Thế nhưng, trong cơn nguy hiểm tột cùng của ngày tận thế, Chúa lại bảo chúng ta hãy đứng vững và ngẩng đầu lên. Tại sao thế?
Xin thưa sở dĩ chúng ta nằm rạp xuống là vì sợ và khi sợ, con người không còn đủ bình tĩnh để xác định vị trí của mình, không còn đủ sáng suốt để thấy rõ ý nghĩa của công việc và xác định xem đâu là việc tốt phải làm và đâu là việc xấu phải tránh. Nhất là không còn nhìn thấy tình thương của Chúa luôn ấp ủ, chở che chúng ta.
Bản tính tự nhiên của con người là sợ, không ai trách cứ chúng ta điều đó, nhưng hãy tin tưởng vì ơn Chúa đủ cho chúng ta. Vì thế, hãy đứng vững và ngẩng đầu lên. Trong Phúc Âm, các tông đồ đã có kinh nghiệm về sự sợ hãi, thế nhưng lần nào cũng vậy, Chúa Giêsu đều nhắc nhở các ông: Thầy đây, đừng sợ. Nổi bật nhất là Phêrô, ông có nhiều thứ sợ.
Trước tiên là sợ chết, sợ bị liên luỵ với Chúa, sợ bị làm khó dễ, sợ bị bách hại như Chúa, nên ông đã chối Chúa. Nhưng Tin Mừng kể lại: Chúa Giêsu nhìn Phêrô và ông ra ngoài ăn năn khóc lóc thảm thiết. Phêrô còn một nỗi sợ đặc biệt khác nữa, đó là sợ khi thấy mình yếu đuối tội lỗi trước Thiên Chúa chí thánh, nên có lần ông đã phủ phục dưới chân Chúa và thốt lên: Lạy Thầy, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi. Nhưng Chúa đã nhìn ông và nói: Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chài lưới người ta.
Với tình thương, Chúa đã làm được mọi việc ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Phêrô chối Chúa, nhưng Ngài không quở, không la, không phạt. Ngài chỉ nhìn và cái nhìn đó đã diễn tả tất cả lòng yêu thương tha thứ, nên mới xoáy sâu vào tâm hồn Phêrô, đến nỗi ông đã ăn năn khóc lóc thảm thiết. Trước mẻ cá lạ lùng, Phêrô muốn Chúa xa tránh vì ông cảm thấy không xứng đáng, nhưng Chúa chẳng những không tránh xa mà còn tiến lại gần bằng cách chọn Phêrô cộng tác với mình và trên Phêrô, Người đã xây dựng Hội Thánh.
Trong mọi cơn gian nan thử thách, Ngài muốn chúng ta đứng vững và ngẩng đầu lên vì Ngài chính là nguồn sức mạnh của chúng ta. Tuy nhiên, muốn đứng vững, muốn ngẩng đầu lên, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ, một niềm hy vọng bao la, bởi vì Chúa là người cha nhân từ, vừa đầy quyền năng lại vừa đầy lòng thương xót, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái của Ngài. Đồng thời ngay từ bây giờ chúng ta đã phải đứng vững và ngẩng đầu lên, bởi vì cây nghiêng bên nào sẽ đổ bên ấy.
Từ đó, Chúa đã dạy chúng ta: Hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề. Nặng nề vì bả vinh hoa trói buộc. Nặng nề vì tiền bạc và lợi lộc vật chất có thể làm mờ cặp mắt chúng ta, để rồi chúng ta không còn nhận ra ngày giờ Chúa viếng thăm.
Đêm 15.4.1912, chiếc tàu Titanic đang chạy trên vùng bắc Đại Tây Dương thì đụng phải một tảng băng sơn, khiến cho con tàu bị chìm và hơn 1500 người bị thiệt mạng. Đây là một trong những tai nạn đường biển khủng khiếp nhất của lịch sử từ trước đến nay.
Cách đây vài năm khi thuật lại thảm họa này trong một bài báo, tác giả đã đưa ra một câu hỏi có tính cách châm biến: Nếu chúng ta có mặt ở đó, lúc tàu Titanic đang chìm, thì liệu chúng ta có còn tiếp tục dọn dẹp bàn ghế trên tàu hay không?
Thoạt nghe câu hỏi này, chúng ta thấy nó khôi hài làm sao, bởi vì khi còi báo động vang lên, thì người còn chút tỉnh tảo, ai lại đi dọn dẹp bàn ghế giữa những tiếng kêu la kinh hoàng và khủng khiếp của những kẻ sắp chết đuối? Tuy nhiên, nếu đọc tiếp bài báo chúng ta sẽ hiểu được tại sao tác giả lại nêu lên cau hỏi kỳ quặc ấy, để rồi chính bản thân chúng ta cũng sẽ tự hỏi: Nếu bây giờ cuộc đời tôi, như con tàu, đang chìm dần vào cõi chết, biết đâu tôi lại còn đang mải mê lo dọp dẹp bàn ghế, nghĩa là tôi đang còn mải mê lo những chuyện vật chất đời này mà quên đi những việc đạo đức thiêng liêng của mình, hay là cứ miệt mài kiếm sống đến nỗi chẳng còn biết đến mục đích cuối cùng của đời mình là gì nữa, chẳng còn biết rằng cuộc sống hiện tại là một chuẩn bị cần thiết cho tương lai vĩnh cửu?
Bởi đó, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu cảnh cáo chúng ta: Các con đừng bê tha, chè chén say sưa hay quá lo lắng việc đời. Ngài khuyên chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện trông chờ Chúa đến vào lúc cuộc sống dương thế này được chấm dứt để chúng ta bước sang cuộc đời mai hậu. Chủ đề này được Chúa nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Phúc Âm: Hãy tỉnh thức vì Con Người sẽ đến vào ngày các con không ngờ, vào giờ các con không biết.
Và đây cũng chính là tâm tình Giáo Hội muốn chúng ta sống trong Mùa Vọng, không phải chỉ bốn tuần lễ trước Giáng sinh, mà còn trong suốt cả cuộc đời bởi vì cuộc đời chúng ta cũng chính là một Mùa Vọng.
Ước chi trong giây phút cuối cùng, chúng ta có thể bình thản thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, sau bao nhiêu trung thành với việc tỉnh thức và cầu nguyện, thì giờ đây con vui mừng được gặp Chúa. Và rồi Chúa sẽ nói với chúng ta: Hãy đến đây hỡi những người con yêu dấu của Ta, sau bao nhiêu năm tháng xa cách, Ta hết sức vui mừng được gặp lại các con. Hãy tỉnh thức như những cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể, để bất kỳ lúc nào Chúa đến, chúng ta cũng sẵn sàng thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.
Trong khi một số nhà tiên tri loan báo ngày tận thế là ngày 21/12/2012, Đức Giáo hoàng Benedictô thứ 16 trong thánh lễ hôm 18/11/2012 tại Vatican, đã kêu gọi các tín đồ công giáo không nên dừng lại ở “sự tò mò về thời điểm và các lời dự báo về ngày tận thế.”
Từ cửa số bao lơn nhìn ra quảng trường Thánh Phêrô, Đức Giáo hoàng Benedictô 16 đã rao giảng bài Phúc âm trong ngày, trong đó Chúa Giêsu nói với các thánh tông đồ về ngày Ngài lại xuống thế gian vào lúc tận thế, khi “bầu trời trở nên âm u” và “các vì sao rơi rụng xuống từ trời”. Theo Đức Giáo hoàng, thì Chúa Giêsu không hành động như một “nhà tiên tri” mô tả “ngày tận thế”, mà ngược lại muốn giải thoát vĩnh viễn các môn đệ và dân chúng thoát khỏi các lời tiên đoán về thời điểm thế giới sẽ bị tận diệt
Đức Giáo hoàng Benedictô 16 giải thích, Chúa Giêsu “muốn mang lại cho các tín đồ chiếc chìa khóa cho sự suy ngẫm sâu sắc hơn, đúng bản chất hơn, và nhất là chỉ ra con đường phải đi hôm nay và ngày mai để bước vào cuộc sống vĩnh hằng”. Ngài nói tiếp: “Tất cả rồi sẽ trôi qua, nhưng lời của Chúa không hề thay đổi.” (Thụy Mi, VietCatholic)
Bài Tin Mừng Thánh Luca hôm nay, Chúa Giêsu cảnh báo ngày cánh chung, “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.”
Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên!
Trước biến cố kinh thiên động địa, vô tiền khoáng hậu như vậy, mà Chúa Giêsu lại khuyên chúng ta “hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên.” Làm sao ngẩng đầu lên nổi, khi đang còn sa đọa, chìm đắm trong tội lỗi, quyến rũ thế gian. Làm sao dám đứng thẳng lên, khi đang nặng nề đội trên đầu chức tước, của cải, danh lợi phủ vân?
Biết thế, nên Chúa Giêsu biết rõ tim đen chúng ta, mới ân cần, cẩn thận khuyên răn: “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề, vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới, bất thần chụp xuống đầu anh em.”
Vì chúng ta không thể nào biết giờ nào, ngày nào việc đó xảy đến. “Vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất.”
Ngày cánh chung của mỗi người
Thế giới này là tạo vật của Chúa, dĩ nhiên có thời hạn, nên đương nhiên có khởi sự và kết thúc. Ngày cánh chung là ngày tận thế của muôn loài thọ tạo. Còn đối với từng người, cái chết chính là ngày cánh chung cá nhân, ngày chịu Thiên Chúa xét xử công phúc và tội lỗi. Vì “ngày Chúa đến như kẻ trộm ban đêm.”(1 Tx 5, 2), mà chính Người cũng đã xác nhân: “Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào Con Người đến.” (Mt 25, 13)
Sinh ký tử quy, sống là ký gửi thác là quy về, có sinh ắt có tử. Sinh ra từ bụi đất, chết trở về cát bụi. Nhưng chẳng ai biết được ngày trở về với Chúa. Chỉ có Thiên Chúa làm chủ thời gian, mới biết ngày giờ sinh tồn của con người. Do vậy, Chúa Giêsu luôn nhắc nhở phải tỉnh thức và cầu nguyện, gắn bó mật thiết với Chúa luôn, để đón chờ ngày ấy. Luôn sẵn sàng như mười cô trinh nữ đem dầu theo đèn, tỉnh táo chờ đợi Chàng Rể đến.
Luôn tỉnh thức và cầu nguyện
Chúa Giêsu không muốn đe dọa chúng ta về ngày tận cùng của thế giới, mà Người chỉ muốn nhắc nhở như Đức Thánh Cha Benedictô 16 mới đây nhắc lại. Đề ứng phó ngày cánh chung chỉ có hai bửu bối duy nhất và quan trọng nhất, đó là tinh thần sẵn sàng đón nhận với tâm tình cầu nguyện.
“Con hãy sẵn sàng cầm đèn sáng, đợi chờ giờ Chúa trở lại, như Chúa muốn, nơi Chúa muốn, lúc Chúa muốn,.”(Đường Hy Vọng, 670)
Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt con ra, thoát khỏi những đam mê, những lo lắng trần tục, mà hướng tâm hồn về Chúa, để sẵn sàng xứng đáng ngẩng đầu lên đón chào Chúa đến.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con biết tránh xa những mưu mô ma quỷ, xin giúp con tỉnh táo nhận ra những cạm bẫy nguy hiểm, để có thể đứng thẳng, nghênh đón Chúa giáng lâm. Amen.
Hôm nay, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới theo chu kỳ là Năm C. Khởi đầu năm phụng vụ là Mùa Vọng, trong mùa này chúng ta vừa mừng kỷ niệm việc Chúa Giáng Sinh; vừa là mùa giúp chúng ta hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày quang lâm. Vì thế, mùa vọng được coi như mùa trông đợi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta thấy một viễn cảnh tương lai. Ngày ấy, chính Ngài sẽ đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến”. Tuy nhiên, không ai biết trước ngày đó xảy đến lúc nào chỉ có những dấu hiệu thấy trước được đề cập như: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.” (Lc 21, 25 – 27). Do đó, Ngài mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức đợi chờ và cầu nguyện để chờ Chúa đến.
Chúng ta thường nghe những lời khuyên tương tự hãy tỉnh thức như là “Hãy coi chừng, hãy cảnh giác, ngẩng đầu lên…”. Tất cả nói lên thái độ sẵn sàng đối mặt với biến cố xảy đến. Đặc tính của mùa vọng là gì nếu không phải tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến? Nếu ngày xưa, dân Do Thái nhờ vào lời các tiên tri loan báo, đã sống tâm tình nhiều thế kỷ dài chờ đợi Chúa Cứu Thế đến, thì hôm nay chúng ta cũng phải tỉnh thức chờ đợi Chúa lại đến trong vinh quang. Vì thế, hai kiểu chờ đợi đó khác nhau. Khi xưa, dân Do Thái chờ đợi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Đó là lúc Ngài đến lần thứ nhất. Còn chúng ta ngày nay, dựa trên biến cố Chúa Cứu Thế đến lần thứ nhất này để vững tin và hy vọng vào việc Chúa sẽ lại đến trong ngày quang lâm. Như vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta không chỉ kỉ niệm quá khứ việc “chờ đợi” của dân Do Thái, mà chúng ta còn sống chính nỗi niềm “chờ đợi” của chúng ta.
Phần đầu của đoạn Tin mừng, Luca trình bày theo lối văn Khải Huyền. Đây là một cách diễn tả, xuất phát từ một cái nhìn từ vũ trụ và con người. Con người và vũ trụ liên kết với nhau rất chặt chẽ và có sự liên đới mật thiết. Trình thuật trong sách khởi nguyên cho chúng ta thấy buổi khởi đầu là hỗn độn, hoang vu. Nhưng nó được Thiên Chúa can thiệp. Ngài sắp xếp trời đất vào trật tự của nó. Ngài làm cho cảnh hỗn mang nguyên thủy biến thành vũ trụ diệu kỳ, và giao cho con người làm chủ, trông coi vũ trụ. Nhưng con người làm đảo lộn vũ trụ bằng sự gian ác của mình. Vì vậy vũ trụ dường như chìm trở lại trong cảnh hỗn mang nguyên thủy. Bây giờ Thiên Chúa quyết liệt can thiệp, để tái tạo trật tự, để làm cho xuất hiện một trật tự mới với “Trời mới, Đất mới”. Vì thế, “các tầng trời rung chuyển” là để trở lại trong trật tự do Thiên Chúa sắp xếp. Ngày cánh chung có hai mặt: mặt tối là sự phán xét, hủy diệt một trật tự đã bị đảo lộn; còn mặt sáng là sự xuất hiện một trật tự mới, trong đó dân Chúa đạt được hạnh phúc. Ngày ấy, Con Người hiện đến trên đám mây tức là trong vinh quang, để xét xử muôn dân. Đó là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi, nhưng đó là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức, cầu nguyện và chuẩn bị sẵn sàng. Đó cũng là lời khuyên nhủ của Chúa Giêsu ở phần sau.
Việc chúng ta không cần tìm hiểu là ngày tận thế, là cách thay đổi của vũ trụ. Còn việc phải lo là ngày Chúa đến gặp riêng mỗi người trong chúng ta, vì ngày ấy rất bất ngờ, nên chúng ta cần phải luôn tỉnh thức để đón chờ. Phải chăng không ít những lần chúng ta trở nên nặng nề vì chén say sưa và lo lắng việc đời? Thái độ hưởng thụ làm cho chúng ta quên ý ngĩa cuộc đời, khiến chúng ta không sẵn sàng chờ Chúa đến. Chính thái độ ích kỷ, hẹp hòi,…làm cho chúng ta mất quân bình nội tâm, và ảnh hưởng đến tha nhân. Do đó việc cần làm là phải luôn cầu nguyện để tăng cường ơn Chúa và sức mạnh Thánh Thần giúp vượt thắng gian nan thử thách ngõ hầu kiên vững mà hiện diện trước mặt Con Người trong ngày tận thế.
Một thoáng nhìn về tương lai không phải để kinh hãi, khiếp sợ như các tín hữu ở Thessalonica thời thánh Phaolô hoặc chỉ hướng về trời như các người Galilê nhìn theo Chúa về trời (Cv 1, 11); nhưng cần phải liên kết không những giữa biến cố Quang Lâm của Chúa trong ngày Cánh Chung với việc Chúa đã đến lần thứ nhất một cách âm thầm, khiêm tốn, mà còn liên kết với sức sống của ân sủng nơi mỗi người chúng ta trong suốt khoảng thời gian giữa hai lần Chúa đến.
Để sống cho chân lý này, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy cố gắng sống thánh thiện để có thể yên tâm và vui mừng chờ ngày Chúa đến. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra ánh sáng trước công lý, chúng ta không thể che giấu.
Lời cảnh tỉnh trong phần thứ hai của Tin Mừng hôm nay không những cần thiết cho mỗi người chúng ta để chuẩn bị sẵn sàng, không bị bất ngờ trong ngày Chúa đến lần hai, mà còn cần thiết ngay trong giây phút hiện tại. Đó là chuẩn bị tâm hồn để ân sủng của Chúa đến với chúng ta, đặc biệt là trong ngày lễ Giáng Sinh sắp tới. Đó là chuẩn bị bằng cách giữ mình, đừng để tâm hồn trĩu nặng, mờ ám vì lối sống buông thả, chè chén say sưa và vì những bận tâm quá đáng đến cuộc sống vật chất, trần trục: “phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” Muốn được như vậy, mỗi người cần biết dành những giờ phút yên lặng, kiểm điểm lại lối sống, tức là biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, dùng những thời khắc trong ngày để đọc kinh, để xét mình và sám hối, đồng thời luôn hướng về Chúa để cảm tạ và xin cho chúng ta bền lòng vững chí sống theo ân sủng Thiên Chúa cho đến cùng, chờ đón Ngài xuất hiện trong vinh quang.
Mùa vọng là cơ hội tốt cho chúng ta. Nó cung cấp thời gian, không gian, bầu khí, lễ nghi để bày tỏ nỗi lòng mình trước tôn nhan Đấng Tối Cao. Kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng thế gian đầy dẫy sự dữ, những điều khiếm khuyết. Chúng ta mong muốn một thế giới tốt đẹp mà Thiên Chúa đã hoạch định cho con người. Hiện nay thì chưa được. Nhưng Đấng trở lại lần thứ hai sẽ biến đổi mọi sự cho nên tốt đẹp hơn. Chúng ta không có khả năng gây biến đổi và cũng không điều khiển tình thế khi Đấng Cứu Chuộc xuất hiện. Cho nên theo lời Ngài chỉ bảo, chúng ta hay luôn sống tỉnh thức và cầu nguyện, nhận ra những đường lối của Ngài. Hiện thời Ngài đang ở giữa chúng ta. Chúng ta hãy tẩy trừ những cản trở trong linh hồn mình, lắng nghe tiếng Ngài qua Kinh Thánh và biến cố trong cuộc sống mình. Giống như tuyển dân thời tiên tri Giêrêmia, chúng ta phải can đảm chịu đựng để trung thành với Thiên Chúa. Chúng ta mong đợi Đấng Cứu Thế ngự đến lần thứ hai trong tâm tình cảm tạ tri ân và xin cho mình được sống trung tín với ân sủng của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài hãy đến và viếng thăm chúng con. Xin cho chúng con biết nhận ra những dấu chỉ Chúa gởi đến hằng ngày để chúng con biết can đảm sống đức tin, sống tỉnh thức, cầu nguyện và trung thàn sống theo đường lối của Chúa. Amen.
Ít năm trước đây, có một bác tài xế xe buýt ở bên Mỹ, đã đạt kỷ lục xuất sắc. Suốt hai mươi ba năm trong nghề, bác đã đi được trên một triệu năm trăm cây số mà không gây nên một tai nạn nào. Khi được hỏi làm sao mà bác đạt được kỷ lục ấy, thì bác đã trả lời một cách đơn giản đó là hãy nhìn đường.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cũng đem lại cho chúng ta một lời khuyên tương tự: Hãy tỉnh thức luôn. Ý tưởng này được nhắc đi nhắc lại bằng những hình thức khác nhau: Hãy coi chừng, hãy chú ý, hãy ngẩng đầu lên.
Đó không phải chỉ là một lời khuyên có ích cho đời sống thiêng liêng, mà còn là một quy luật cho những sinh hoạt thường ngày của chúng ta. Đúng thế, chúng ta vốn thường nói: Hãy chú ý, hãy nhìn cho kỹ và hãy đề cao cảnh giác.
Để lái một chiếc xe, chúng ta phải nhìn đường. Một cầu thủ trên sân cỏ, phải lẹ mắt để sẵn sàng đối phó với những cảnh huống bất ngờ. Anh phải theo sát trái banh. Trong lớp, các em phải chăm chú lắng nghe những lời thày cô giảng dạy.
Qui luật này cũng được áp dụng trong những công việc bình thường nhất. Một bà mẹ, phải canh chừng đứa con nhỏ, kẻo nó té ngã xuống sông, xuống ao… Phải để ý tới cái nồi, cái chảo trên bếp, kẻo món ăn bị cháy khê cháy khét.
Cuộc sống giống như một chuyến xe mà chúng ta là người tài xế. Chúng ta không phải chỉ có một trách nhiệm đối với bản thân mà còn có cả trách nhiệm đối với người khác.
Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, chúng ta cần phải nhìn đường, cần phải chú ý để khám phá ra sự hiện diện của Chúa. Thực vậy, Chúa ở khắp mọi nơi, nhưng kẹt một nỗi, Ngài lại là Đấng thiêng liêng, nên con mắt phàm trần của chúng ta không thể nào nhìn thấy. Tuy nhiên với con mắt đức tin, chúng ta có thể khám phá ra Ngài.
Trước hết, Ngài ngự thật trong Bí tích Thánh Thể. Vì thế khi tham dự thánh lễ, chúng ta phải tỉnh thức phần xác, không ngủ gà ngủ gật đã đành, mà còn phải tỉnh thức cả phần hồn bằng cách kết hiệp tâm tình của chúng ta vào với những lời kinh, những tiếng hát, nhất là khi lên rước lễ, chúng ta sẽ được kết hiệp với Chúa, Đấng mà ngày xưa đã sinh ra trong máng cỏ Bêlem.
Với con mắt đức tin, chúng ta sẽ thấy Chúa hiện diện qua những sự kiện, qua những biến cố xảy đến và bằng một bàn tay uy quyền và yêu thương, Ngài đang hướng dẫn cả lịch sử của nhân loại, điều cần thiết là chúng ta phải tìm biết và thực thi thánh ý Ngài qua những biến cố, những sự kiện, những dấu chỉ của thời đại.
Và sau cùng, với con mắt đức tin, chúng ta sẽ thấy Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong đêm Giáng sinh, mà Ngài còn viếng thăm bản thân chúng ta khi chúng ta từ giã cuộc đời, cũng như Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết vào ngày tận cùng của trời và đất.
Thế nhưng, chúng ta có biết tỉnh thức và nhất là chúng ta có biết chuẩn bị cho ngày giờ Chúa viếng thăm bản thân chúng ta hay không?
Tỉnh thức khác với tỉnh ngủ. Tỉnh ngủ là người lúc ngủ, ngủ rất tỉnh, một tiếng động nhỏ đủ làm cho người đó thức giấc. Người tỉnh ngủ dường như khó ngủ. Dỗ được giấc ngủ rất khó nhưng khi ngủ lại rất tỉnh. Trong khi người dễ ngủ lại ngủ say, ngủ mệt. Động đâu mặc động tôi cứ ngủ ngon. Người tỉnh ngủ hiếm có giấc ngủ ngon. Những gì hiếm thường quí vì thế người ngủ tỉnh rất quí giấc ngủ ngon. Thiếu tỉnh thức xảy đến cho cả người tỉnh ngủ lẫn ngủ ngon. Ngủ tỉnh sát cánh với khó ngủ nên hại cho sức khoẻ nhưng không hại phần tâm linh. Trong khi thiếu tỉnh thức nguy hiểm vô cùng vì hại phần tâm linh. Ma quỉ đưa ra nhiều chước cám dỗ với hy vọng khi thiếu tỉnh thức con người sa vào cạm bẫy của chúng.
Tỉnh ngủ, ngủ không được nên có đêm đọc kinh dỗ giấc ngủ. Đây không phải là hình thức cầu nguyện tốt nhất nhưng không hại vì đó là việc làm đạo đức. Ngủ không được nên đọc kinh cầu nguyện. Cầu nguyện tốt nhất là cầu xin vì lòng yêu mến, ước ao được gặp Chúa. Vì ước ao như thế nên tâm hồn thường tỉnh thức để cầu nguyện. Cầu ơn tỉnh thức để tránh cơn cám dỗ. Tránh được cám dỗ là trung thành với Chúa. Như thế có thể hiểu thiếu tỉnh thức rất dễ sa chước cám dỗ. Nói ngược lại, sa chước cám dỗ xảy ra vào lúc người đó thiếu tỉnh thức.
Không biết có phải là lí luận luẩn quẩn không nhưng rõ ràng thiếu tỉnh thức gây nên bởi thiếu cầu nguyện. Thiếu cầu nguyện nên thiếu ơn Chúa. Thiếu ơn Chúa tâm hồn trở nên chai đá. Tâm hồn chai đá là tâm hồn đi lạc đường lối Chúa. Vì chai đá nên tâm hồn không còn biết kính sợ Chúa nữa. Không tôn thờ Chúa sẽ theo tà thần, một loại chúa nào khác. Loại Chúa do chính họ tạo ra. Có thể là ý riêng hay một tạo vật nào do Chúa dựng nên. Từ bỏ Thiên Chúa sáng tạo, yêu thương để tôn thờ một thần tượng khác chính là thờ ngẫu tượng, chúa hạng hai. Tâm hồn chai đá đó đòi bằng chứng của Thiên Chúa yêu thương, sáng tạo để tin. Tiên tri Isaiah dùng hình ảnh người thợ gốm và đồ gốm để giải thích đòi hỏi trên. Cục đất sét sẽ chẳng thể nào nhận biết người thợ nặn ra nó. Tay người thợ nặn nên có, tạo cho nó hình ảnh, nâng niu nó, nhưng nó không thể nào nhận diện ra người tạo dựng nên nó. Cùng cách hiểu đó, Thiên Chúa chúng ta tôn thờ chỉ có thể nhận diện Ngài qua những hồng ân Ngài ban trong đời. Nhận biết ta có mặt trên đời không phải do ngẫu nhiên mà do Chúa tạo thành. Dù ta có nhận Ngài, thờ phượng Ngài hay không thì Ngài cũng đã dựng nên ta.
Không tai nào nghe thấy không mắt nào nhìn thấy một chúa nào khác ngoài Chúa đã dành những hồng ân cho những ai trông đợi Chúa. Is 64,4
Thiếu ơn Chúa sẽ khó chống lại cơn cám dỗ. Cơn cám dỗ đòi chứng minh Thiên Chúa hiện hữu. Sự hiện diện của ta trên đời chưa đủ sao. Trời đất biển khơi, sông ngòi cùng toàn thể vũ trụ đều theo luật tuần hoàn riêng của chúng. Ngoài ra còn bao ân huệ Chúa ban cho, như tài năng, trí nhớ, sức khoẻ, sắc đẹp. Tất cả đều có chung giải thích: do ngẫu nhiên mà có. Dựa vào ngẫu nhiên để giải thích quả là một luận cứ học đòi. Vì sao? Vì ngay từ ban đầu Thiên Chúa giáo đã giải thích Thiên Chúa tự nhiên mà có. Đây là giải thích thuyết tự nhiên nguyên thuỷ. Ngày nay với khoa học tiến bộ người ta cũng không đi xa gì hơn những gì Kinh Thánh cho biết nhiều ngàn năm trước. Người ta đồng chấp nhận vũ trụ do tự nhiên mà có nhưng khi nói đến Thiên Chúa tự nhiên mà có người ta lại đòi có bằng chứng cụ thể. Giải thích sao cho hợp lí khi người ta chối bỏ điều tự nhiên nguyên thuỷ (Thiên Chúa tự nhiên mà có) để rồi cùng chấp nhận tự nhiên thứ hai, thứ ba, (vũ trụ tự nhiên mà có).
Sa vào chước cám dỗ vì thiếu tỉnh thức. Cầu nguyện không phải chỉ đơn thuần giúp Kitô hữu liên kết với Chúa và còn là cách diễn tả tình yêu lòng mến dành cho Chúa. Cầu nguyện giúp Kitô hữu tỉnh thức, nhận thêm ơn Chúa để chống trả lại cơn cám dỗ. Chống được cơn cám dỗ giúp Kitô hữu đi đúng đường lối Chúa. Đi đúng đường lối Chúa là tâm hồn biết tôn thờ, kính sợ Chúa. Ai tôn kính Chúa sẽ được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban. Hưởng gia nghiệp Chúa vì người đó thực thi công lí, bác ái và yêu thương. Không tôn thờ Chúa là sống vô ơn vì không biết cảm tạ những ơn lành Người ban cho.
Ngày hôm nay Phúc âm kêu gọi Kitô hữu hãy tỉnh thức để bất cứ khi nào chủ về thì đã sẵn sàng vì không biết ngày nào, giờ nào chủ trở lại. Người sống tâm tình tạ ơn là người đã sẵn sàng vì lúc nào trong lòng họ cũng mang lòng biết ơn, cảm mến chân thành.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Anh chị em thân mến
Phụng vụ Mùa Vọng luôn nhắc chúng ta nghĩ tới việc Chúa đến. Lý do là vì chúng ta đang sống giữa hai lần Chúa đến: lần thứ nhất Chúa đến tại Bêlem một cách khiêm tốn âm thầm trong những yếu đuối của thân phận làm người; lần thứ hai Ngài sẽ lại đến trong vinh quang uy quyền của một Vị Vua nắm quyền cả vũ trụ. Thánh Phaolô nói rằng trong thời gian giữa hai lần đó, cứ mỗi năm trôi qua thì “ơn cứu độ của chúng ta gần hơn khi chúng ta mới tin đạo”.
Xin Chúa giúp chúng ta hiểu chúng ta cần Chúa như thế nào để chúng ta tích cực chuẩn bị đón Ngài đến với chúng ta.
Hôm nay là bắt đầu một năm Phụng vụ mới. Nhìn lại năm cũ, chúng ta nhận thấy có rất nhiều thiếu sót lỗi lầm. Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ và ban ơn giúp chúng ta làm lại cuộc đời trong năm mới này.
Chúa rất thường đến với chúng ta, phần chúng ta thì ít khi đến với Chúa.
Nhiều khi Chúa muốn đến với tâm hồn chúng ta nhưng Ngài không vào được vì lòng chúng ta đã dành hết chỗ cho những đam mê trần tục.
III. Lời Chúa
Giêrêmia là một ngôn sứ đã chứng kiến những trang lịch sử đau buồn nhất của đất nước: dân Chúa bất trung với Ngài; quân thù vây hãm Giêrusalem; mất nước; lưu đày. Là sứ giả của Lời Chúa trong bối cảnh như thế, Giêrêmia bó buộc phải gióng lên những lời nói chói tai để tố cáo tội lỗi của dân mình và tha thiết kêu gọi họ sám hối.
Thế nhưng khi dân đã bị lưu đày, Ngôn sứ đổi giọng. Trích đoạn này nằm trong phần “sứ điệp cứu độ” (các chương 26-35). Ông báo cho dân biết rằng cảnh lưu đày sẽ không kéo dài lâu, vì sẽ tới những ngày Thiên Chúa sẽ gởi đến Một Ðấng cứu thoát họ: “Trong những ngày ấy… Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Ðấng Công Chính… Giuđa sẽ được cứu thoát… Giêrusalem sẽ được an cư lạc nghiệp…”
Rõ ràng đây là lời hứa về lần đến thứ nhất của Ðấng Messia.
Bài thơ này là lời cầu nguyện của kẻ đang đau khổ và tỏ bày tâm tình sám hối.
Từ chìa khóa trong trích đoạn được chọn đọc trong Thánh lễ hôm nay là “đường, lối”: đường lối duy nhất để thoát khỏi cảnh khổ sầu và đến được ơn cứu thoát chính là đường lối của Chúa, đường chính trực, đường chân lý, đường yêu thương, đường giao ước…
Ðoạn Tin Mừng này nằm trong Diễn từ chung luận trong đó Chúa Giêsu nói về những việc sẽ xảy ra vào những ngày cuối cùng của thế giới.
Thái độ thứ nhất là chú ý tới việc quan trọng là đón Chúa đến: không nên để mình bị ảnh hưởng bởi những xáo trộn bên ngoài để rồi lo chè chén say sưa hoặc chỉ lo chuyện sống chết, chỉ lo chuyện thế gian… Nếu bất cứ lúc nào cũng nghĩ đến việc Chúa đến thì dù cho có thình lình, đột ngột, họ cũng không ngỡ ngàng.
Thái độ thứ hai là kiên trì trong việc cầu nguyện liên lĩ: cầu nguyện để xin Ngài mau đến, cầu nguyện để xin ơn đứng vững trước những xáo trộn bên ngoài.
Thánh Phaolô viết bức thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônikê trong viễn cảnh Chúa sẽ đến lần thứ hai.
Vì nghĩ rằng Chúa sắp đến rồi, nên các tín hữu Thêxalônikê sống buông thả, lười biếng. Từ đó sinh ra nhiều tệ nạn khác. Thánh Phaolô cho rằng đó không phải là thái độ đúng đắn. Thái độ đúng đắn là phải bồi dưỡng tình thương: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết… Có như thế thì… anh em mới được bền tâm vững chí không có gì đáng chê trách… trong ngày Chúa Giêsu quang lâm”
* 1. Suy nghĩ đầu năm phụng vụ mới
Hoa trên đồi có tàn đi thì cũng nở lại vào năm sau.
Tuổi xuân con người một khi tàn phai thì không bao giờ nở lại.
Mặt trời mọc lên buổi sáng, buổi chiều lặn đi, nhưng sáng hôm sau mọc lại.
Ðời người dần trôi về lúc hoàng hôn và không bao giờ có bình minh nào khác.
Tại sao mỗi người chỉ có một đời? Tại sao con người không có cơ hội khác?
Thôi đừng thắc mắc và cũng đừng thở than. Hãy ý thức rằng cuộc đời là một món quà tặng; vì nó chỉ có một nên nó vô cùng quý giá.
Xin Chúa cho chúng con biết tận dụng những cơ hội của đời này, bởi vì chỉ có thế chúng con mới đến được đời sau, một cõi đời không bao giờ tàn úa, một cõi đời mãi mãi sáng tươi.
* 2. Giữa tối tăm bừng lên một tia sáng
Trong bài đọc I, Ngôn sứ Giêrêmia mô tả cuộc sống trong một thời tăm tối bi quan: trong nội bộ dân Chúa thì bất trung tội lỗi; từ bên ngoài thì hiểm họa xâm lăng lúc nào cũng rình chờ. Thế mà Giêrêmia vẫn có thể thốt lên những lời dự đoán đầy lạc quan: “Trong những ngày đó, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ an cư lạc nghiệp”. Từ trong tối tăm của hiện tại, Giêrêmia vẫn thấy trước tia sáng của tương lai, bởi vì Giêrêmia tin vào nguồn sáng là Thiên Chúa: “Ðức Chúa là sự công chính của chúng ta”.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Sẽ có những điềm lạ trên trời… Dưới đất muôn dân sẽ lo lắng hoang mang… Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc…” Mặc dù vậy, Ngài vẫn bảo môn đệ mình “Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc”.
Chúng ta đang ở ngưỡng cửa một năm Phụng vụ mới. Nhìn tới tương lai, ai mà không khỏi lo lắng hoang mang vì bao gian truân đang sẵn chờ. Nhưng Lời Chúa hôm nay vẫn bảo chúng ta hãy lạc quan. Vì tương lai chỉ tối tăm mờ mịt khi vắng bóng Thiên Chúa. Còn đối với những người để Thiên Chúa dẫn dắt đời mình thì tương lai sẽ ngày càng tươi đẹp.
* 3. Hướng đi của lịch sử
Theo quan niệm thông thường của người đời, lịch sử đi theo vòng tròn: Hết xuân tới hạ, rồi thu, rồi đông, và sau đó trở lại chu kỳ Xuân Hạ Thu Ðông. Theo quan niệm ấy, một năm trôi qua rồi sang năm khác với cũng những cảnh ấy, những việc ấy, những lao nhọc và khó khăn ấy.
Nhưng theo quan niệm Thánh Kinh, lịch sử đi theo đường thẳng và hướng đến một tương lai tốt đẹp do Chúa sắp sẵn cho những ai biết cùng Ngài hành trình trên con đường dương thế. Chính vì nghĩ thế nên Thánh Phaolô nói với tín hữu của Ngài rằng cứ mỗi năm trôi qua thì “ơn cứu độ của chúng ta gần hơn khi chúng ta mới tin đạo”.
Hôm nay bắt đầu một năm Phụng vụ mới, chúng ta hãy quyết tâm sẽ đồng hành cùng Chúa trong suốt năm này, để mỗi ngày một tiến gần hơn tới ơn cứu độ.
* 4. Hướng lòng về Ngày Chúa đến
1/ Ý nghĩa mùa Vọng
Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa Vọng. Vọng là hướng về, là chờ đợi. Mùa Vọng là thời gian để chúng ta hướng lòng về ngày Chúa đến, đồng thời chờ đợi Chúa đến. Chúa đến để khai mạc một thời đại mới, thời đại hết sức tốt đẹp hơn, tràn đầy hạnh phúc.
Chúa đến thế gian này hai lần, lần thứ nhất đã đến rồi, và lần thứ nhì chưa đến nhưng chắc chắn sẽ đến. Vì thế, mùa Vọng có hai ý nghĩa:
Thứ nhất: chuẩn bị đón mừng kỷ niệm biến cố Chúa đến lần thứ nhất cách đây 2000 năm.
Thứ hai: chuẩn bị đón Chúa đến lần thứ hai. Lần này, chúng ta không biết sẽ xảy ra vào lúc nào. Có thể còn lâu, nhưng cũng có thể đến nơi rồi. Ngài nói Ngài sẽ đến bất ngờ như kẻ trộm.
Tuy nhiên, biến cố quan trọng này vẫn có thể biết trước, nhất là đối với những tâm hồn tỉnh thức, luôn luôn chuẩn bị đón chờ, vì có những điềm báo trước. Thánh Phaolô viết: “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: “Bình an biết bao! Yên ổn biết bao!”, thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống ( ) chẳng ai trốn thoát được. Nhưng thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày” (1 Tx 5,2-5).
2/ Chờ đợi “Trời mới đất mới”, một kỷ nguyên tốt đẹp sẽ đến
Mùa Vọng là thời gian thuận lợi để Giáo Hội nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị và sẵn sàng đón chờ Chúa đến. Chúa đến để khai mở một kỷ nguyên mới: “Này đây, Ta sẽ sáng tạo trời mới đất mới” (Is 65,17a; xem 66,22), nghĩa là một kỷ nguyên thanh bình, hạnh phúc, được ngôn sứ Isaia diễn tả như sau: “Sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, và sự hiểu biết Ðức Chúa sẽ tràn ngập đất này cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Isaia 11,6-9). Kỷ nguyên này không còn chiến tranh, bất công, hận thù, không còn nước mắt, đau khổ. Mọi người đều thỏa mãn, an vui, hạnh phúc.
Vì thế, ngày Chúa đến là một ngày hết sức vui mừng cho những người sống tốt lành, khiêm nhường, yêu thương người khác. Ngày đó là ngày những người tốt lành hằng mong chờ, vì đó là ngày thiện vĩnh viễn thắng ác, là ngày Thiên Chúa toàn thắng ma quỉ cùng những thế lực xấu xa, là ngày ơn cứu chuộc được thể hiện tràn đầy, viên mãn. Ma quỉ cùng với sự ác, sự chết, đau khổ vĩnh viễn bị tiêu diệt khỏi thế giới người sống, và bị trừng trị đích đáng. Ðó là một ngày đáng vui mừng hơn bất kỳ ngày nào!
Nhưng ngày đó cũng là ngày hết sức khủng khiếp cho những kẻ không yêu thương người chung quanh, những kẻ lãnh đạm trước những đau khổ của người khác, những kẻ sống bất lương, kiêu căng, gây tội ác, tạo bất công. Ngày đó Thiên Chúa sẽ hết sức thịnh nộ và không còn khoan nhượng đối với những phường gian ác. Ngài phán với họ: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và những kẻ theo nó. Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp” (Mt 25,41.46).
3/ Ngày đó có thể sắp đến
Kinh Thánh cho biết những điềm sẽ xẩy ra báo trước ngày ấy: các ngôn sứ giả, chiến tranh, đói kém, động đất, lụt lội, các thứ dịch tễ, tai họa… (xem Mt 24,4-8), các tội ác, tình trạng đạo đức giảm sút, lòng người ra khô khan nguội lạnh, tôn giáo thì đa số vụ hình thức mà lơ là điều cốt lõi là mến Chúa yêu người đích thật… Những điềm báo trước đó ngày càng thể hiện rõ rệt trong thời đại chúng ta. Vì thế, ta biết ngày Chúa đến không còn xa lắm, nó có thể sắp đến, một cách bất chợt.
Ðức Kitô nói ngày ấy đến như kẻ trộm, điều đó không chỉ có ý nghĩa thời gian (tức vào thời điểm không ngờ được), mà có thể còn là hình thức (cách xảy đến cũng không ngờ được). Nghĩa là Chúa đến có thể theo một cách khác hẳn với cách mọi người thường nghĩ.
Ngày ấy là ngày Chúa phán xét, nên điều hết sức quan trọng là vào ngày ấy, chúng ta phải là người trong sạch, tốt lành, không có gì đáng chê trách trước mặt Chúa, nhất là về lòng yêu thương và cách xử sự đối với mọi người. Khi phán xét, Ngài phán xét ta chủ yếu về điều ấy.
4/ Hãy chuẩn bị sẵn sàng
Vì ta không biết ngày nào Ngài đến, nên khôn ngoan nhất là lúc nào ta cũng nên sẵn sàng. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Kitô cũng khuyên ta như vậy: “Anh em hãy đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất”. Chuẩn bị như thế nào? Ðức Kitô khuyên ta: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”.
– Tỉnh thức là luôn luôn tỉnh táo ý thức rằng ngày ấy có thể đến bất kỳ lúc nào, nên lúc nào cũng sẵn sàng như thể Chúa sẽ đến vào ngay ngày mai, hay chốc lát nữa. Thái độ sẵn sàng đó chắc chắn không làm ta thiệt hại, mà giúp ta sống khôn ngoan, hạnh phúc hơn. Hình ảnh hay nhất minh họa sự tỉnh thức là thái độ của người canh kẻ trộm, không dám ngủ thiếp đi một phút nào.
– Cầu nguyện không phải chỉ là đọc kinh, mà là tâm trạng luôn hướng về Chúa, sẵn sàng làm bất cứ điều gì Ngài muốn. Cầu nguyện là hợp nhất với Thiên Chúa trong tâm tình yêu thương, nhất là trong ý hướng và hành động. Hãy luôn luôn muốn và thực hiện những điều Chúa muốn.
Có như vậy, chúng ta mới “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người”.
***
Lạy Cha, hiện nay, đã có biết bao nhiêu điềm báo hiệu ngày quang lâm của Chúa Giêsu. Ngày ấy có thể đã gần tới. Vì thế, xin Cha giúp con biết chuẩn bị cho ngày ấy, và sẵn sàng để bất kỳ lúc nào Ngài đến, Ngài cũng có thể hài lòng về con, về cách sống của con, về tình thương của con đối với mọi người, và về cách đối xử tốt đẹp của con đối với những người chung quanh con. Xin giúp con luôn tỉnh thức trong tinh thần cầu nguyện, như Chúa Giêsu đã khuyên nhủ mọi người trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen (Nguyễn chính Kết)
* 5. “Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên”
Thời Ðức quốc xã thế chiến II. Một thanh niên 17 tuổi bị giam, vượt ngục, bị bắt lại và bị lên án tử, anh viết thư cho cha mình:
“Thưa ba, con cảm thấy rất khó khi viết bức thư này, nhưng con phải báo cho ba hay là tòa án quân sự đã tuyên cho con một bản án rất nặng. Xin Ba đọc thư này một mình rồi sau đó tìm cách khéo léo kể lại cho má biết… Chỉ vài ngày nữa thôi, lúc 5 giờ sáng thì sự việc sẽ xảy đến… và con sẽ về với Chúa…
Phải chăng đó là một chuyến đi khủng khiếp?.. Tuy nhiên giờ đây con thấy mình rất gần Chúa và con đang chuẩn bị chết… Con nghĩ điều đó thật là xấu đối với ba hơn là đối với con. Vì con biết, con đã xưng hết mọi tội của con rồi. Bây giờ con rất bình an…” (Mark Link kể)
* 6. Tỉnh thức và cầu nguyện
Trong cuộc chiến khốc liệt giữa Pháp và Ðức năm 1870, tại một bệnh viện Pháp, có một thương binh vốn là sĩ quan người Ðức đang bị bắt làm tù binh. Một hôm, bác sĩ cho biết anh sẽ không qua khỏi vì vết thương ngày càng trầm trọng. Viên sĩ quan tỏ ra bất cần một cách ngạo nghễ và can đảm chờ đợi cái chết.
Chị y tá nữ tu Dòng Nữ Tử Bác ái Vinh Sơn vốn chăm sóc anh từ lâu, ân cần ngỏ ý khuyên anh nên xin gặp một vị linh mục để dọn mình trước khi chết. Anh nhận mình là người Công giáo nhưng đã bỏ đạo từ lâu, nên một mực từ chối lời đề nghị chân thành này.
Chị nữ tu vẫn dịu dàng nói:
– Nếu vậy, tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông mau hồi tâm trở về với Chúa.
Viên sĩ quan mỉa mai:
– Chỉ cực nhọc vô ích mà thôi
Chị nữ tu vẫn kiên nhẫn thuyết phục:
– Thú thật với ông, đã “16 năm” nay, các chị em trong Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho một người trở về cùng Chúa.
Viên sĩ quan ngạc nhiên:
– 16 năm rồi cơ à? Thế người được các chị cầu nguyện chắc “phải là ân nhân của nhà Dòng?
Chị nữ tu trả lời:
– Cách đây rất lâu, mẹ tôi là người hầu cho một nữ Nam tước người Ðức. Trong một lần tôi tới thăm mẹ, bà Nam tước biết tôi là nữ tu nên đã xin cầu nguyện cho con trai bà. Anh đã mất đức tin, sống phóng túng, đam mê danh vọng và quyền lực. Ðã 16 năm qua, tôi và cả Nhà Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho anh.
Người sĩ quan gặng hỏi:
– Thế mẹ của chị có phải là bà Béate không?
Chị nữ tu vô càng ngạc nhiên:
– Nhưng tại sao ông lại biết tên mẹ tôi?
Ðến đây thì viên sĩ quan nghẹn ngào thú nhận:
– Thưa chị, tôi chính là Nam tước Charles, con trai của nữ Nam tước mà mẹ chị đã tận tuỵ hầu hạ bấy lâu. Chính tôi là người mà chị và Nhà Dòng đã cầu nguyện cho suốt 16 năm qua.
Có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Có nhiều người sống như thể thế giới sẽ vô tận. Có nhiều người sống như thế gian này đã là thiên đàng. Họ bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế. Trái tim họ “ra nặng nề, vì chè chén say sưa”.
Họ bị Chìm ngập trong những tính toán làm ăn, lo toan cho cuộc sống hiện tại, mà quên tìm lẽ sống thật.
Họ bị cuốn hút bởi đam mê danh vọng, quyền lực mà quên đi có những cái bất ngờ sẽ đến.
Viên sĩ quan trong câu chuyện trên đây là một điển hình.
Cuộc sống con người không thiếu những bất ngờ:
Có những bất ngờ thú vị làm cho chúng ta vui sướng khôn nguôi.
Có những bất ngờ bi thảm khiến chúng ta đau khổ tột cùng.
Mùa Vọng nhắc lại lần đến đầu tiên của Con Thiên Chúa, và kêu gọi chúng ta chuẩn bị lần đến cuối cùng của Người. Ngày đó khi nào xảy đến, chẳng ai biết được. Nó đến bất ngờ như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất” (Lc 21,35). Giữa hai lần ấy có biết bao lần Người bất ngờ đến. Ðó là ngày tận cùng của mỗi người chúng ta.
Mùa Vọng là mùa Tỉnh thức
Nếu chúng ta luôn “Tỉnh thức và cầu nguyện” (Lc 21,36), luôn sẵn sàng và thanh thoát, thì việc Người đến sẽ là một bất ngờ thú vị. Ngày đó, chúng ta sẽ không phải “lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét” (Lc 21,25), chúng ta sẽ không “sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc” (Lc 21,26), nhưng sẽ “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (Lc 21,28), vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu độ.
Lạy Ðức Kitô, ngày Chúa đến như vị Thẩm Phán, vũ trụ này sẽ xáo trộn sâu xa, nhưng xáo trộn kinh khủng nhất lại chính là xáo trộn trong cõi lòng.
Xin cho chúng con biết “tỉnh thức và cầu nguyện, để tâm hồn luôn sẵn sàng và thanh thoát. hầu khi Chúa đến sẽ là giây phút được mong đợi, và là một cuộc hạnh ngộ đầy hoan lạc và yêu thương. Amen (TP)
* 7. Những cây trường xuân
Trong quyển “The legend of the Bells”, John Shea kể rằng sau khi tạo dựng các giống cây, Thiên Chúa muốn ban một món quà cho mỗi giống. Nhưng trước đó Ngài muốn làm một cuộc thử nghiệm để xem cây nào xứng đáng nhận món quà nào. Ngài bảo “Ta muốn các ngươi luôn tỉnh thức suốt 7 đêm”.
Những cây trẻ rất nôn nao nhận quà nên thức suốt đêm chẳng có gì khó khăn. Tuy nhiên sang đêm thứ hai thì điều ấy không còn dễ nữa. Hoàng hôn vừa buông xuống là một số cây đã ngủ thiếp đi. Ðêm thứ ba, số cây ngủ tăng thêm. Và cứ thế. Qua khỏi đêm thứ bảy thì chỉ còn một số cây còn thức, đó là cây tuyết tùng, cây thông, cây vân sam, cây linh sam, cây nhựa ruồi và cây nguyệt quế.
Thiên Chúa rất vui lòng với những cây này. Ngài phán: “Các ngươi đã kiên trì một cách rất đáng khen. Ta ban cho các ngươi món quà đặc biệt là được xanh tươi mãi mãi. Các ngươi sẽ là những cây bảo vệ cho cả khu rừng. Ngay cả khi giá lạnh mùa đông làm cho những cây khác phải chết thì các ngươi và con cháu các ngươi vẫn sống và mãi mãi xanh tươi”.
Từ đó trở đi, người ta gọi những cây ấy là những cây trường xuân.
Kitô hữu phải là những cây trường xuân giữa khu rừng nhân loại. Thế giới chung quanh có thể ngủ vùi hoặc dần dà khô héo, nhưng kitô hữu vẫn tỉnh táo, vẫn thức, vẫn mọc lên những chồi xanh tốt bằng cuộc sống chứng nhân của mình. Nói cách khác, kitô hữu vẫn yêu thương giữa một thế giới hận thù, vẫn sống hòa thuận giữa một thế giới đấu tranh, vẫn giữ vững tâm hồn chính trực giữa một thế giới dối gian, vẫn hy vọng giữa một thế giới tuyệt vọng, vẫn tỏa ánh sáng rạng ngời giữa một thế giới tối tăm.
Nói một cách khác nữa, họ là những người thợ, những giáo viên, những y sĩ, những cha mẹ, những con cái v.v. lúc nào cũng tận tuỵ chu toàn trách nhiệm của mình. Họ chính là những cây trường xuân. (FM)
* 8. Chuyện minh họa về sự sẵn sàng
Một vị đan tu tên là Mésique. Bất trung với ơn gọi, ông đã sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Ðột nhiên ông bị bệnh nặng. Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đống hồ ấy. Ông xin người ta cho ông ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở đó suốt 12 năm trời. Hàng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên phá cửa đi vào thì thấy ông đang hấp hối. Trước mặt các tu sĩ đang vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng trước khi ra đi: “Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ phạm tội.”
Nói thế rồi, ông tắt thở, để lại cho một người một ấn tượng sâu đậm. (Góp nhặt)
* 9. Bài giải thích của Thánh Bernard (+ 1153)
Các bạn đừng chỉ nghĩ tới lần Chúa ngự đến để “tìm và cứu những gì hư mất” (Lc 19,10); hãy nghĩ tới lần Ngài ngự đến để rước chúng ta đi theo Ngài nữa. Ước gì các bạn hãy suy gẫm sâu xa về hai lần ngự đến ấy, và nghiền ngẫm trong lòng về điều Ngài đã ban cho ta trong lần ngự đến thứ nhất, và điều Ngài hứa sẽ cho ta trong lần ngự đến thứ hai.
“Bởi lẽ thời phán xét đã đến, bắt đầu từ nhà của Thiên Chúa. Nếu việc đó bắt đầu từ chúng ta, thì cuối cùng số phận của những kẻ từ chối không chịu tin vào Tin Mừng của Thiên Chúa sẽ ra sao?” (1 Pr 4,17) Cuộc chung thẩm sẽ thế nào đối với những kẻ không đứng vững trong cuộc phán xét này? Tất cả những ai trốn tránh cuộc phán xét bây giờ, tức là cuộc phán xét làm cho thủ lãnh thế gian này bị ném ra ngoài, thì họ phải chờ đợi, hay nói đúng hơn là phải lo sợ cuộc phán xét sẽ làm cho họ cũng bị ném ra ngoài cùng với thủ lãnh của họ. Còn nếu chúng ta chịu phán xét đầy đủ bây giờ thì chúng ta hãy an tâm “mong đợi Chúa Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Ngài có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3,20-21) “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời trong Nước của Cha họ” (Mt 13,43)
Khi Chúa đến, Ngài sẽ biến đổi thân xác khốn khổ của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài. Nhưng chỉ với điều kiện là trước đó tâm hồn chúng ta đã được biến đổi giống tâm hồn khiêm tốn của Ngài. Chính vì thế mà Ngài đã nói: “Hãy trở nên môn đệ Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm tốn trong lòng” (Mt 11,29).
Các bạn hãy khám phá trong đoạn Tin Mừng này hai loại khiêm tốn: một là khiêm tốn về nhận thức, hai là khiêm tốn về tình yêu tức là khiêm tốn trong lòng. Loại khiêm tốn thứ nhất dạy ta biết rằng ta chẳng là gì cả, chúng ta chỉ học biết do chính chúng ta và do sự yếu đuối của chúng ta mà thôi. Với sự khiêm tốn thứ hai, chúng ta chà đạp vinh quang của thế gian, và chúng ta được học biết từ chính Ðấng tự huỷ mình đi, mang phận tôi đòi; khi người ta muốn tôn Ngài lên ngôi thì Ngài lánh đi; còn khi được gọi chịu mọi thứ hành hạ và nhục hình trên thập giá thì Ngài đã vui lòng tự hiến.
Chủ tế: Anh chị em thân mến, nỗ lực sống thánh thiện, lấy tình bác ái huynh đệ mà đối xử với nhau, đồng thời luôn luôn tỉnh thức và không ngừng cầu nguyện, là những việc làm không thể thiếu được trong việc chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng sinh. Với tâm tình thiết tha trông đợi ngày Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
Chủ tế: Lạy Chúa là nguồn mọi ơn phúc, chúng con đang thao thức trông chờ ngày Chúa Giêsu Kitô, con Một Chúa hằng ưu ái, xuống thế làm người và ở cùng chúng con. Xin Chúa cho chúng con biết chuẩn bị thật tốt tâm hồn, để xứng đáng đón mừng đại lễ Giáng sinh sắp tới. Chúng con cầu xin
Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy hướng lòng về Cha trên trời và tha thiết cầu xin Ngài khấng cho Con của Ngài đến thăm viếng chúng ta.
Trước lúc Rước Lễ: Chúa Giêsu sắp đến với tâm hồn chúng ta bằng chính Mình và Máu Thánh Ngài. Chúng ta hãy dọn lòng sẵn sàng để đón rước Ngài.
VII. Giải tán
“Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc”. Lời của Chúa trong ngày bắt đầu Mùa Vọng kêu gọi chúng ta cố gắng sống công chính và luôn hướng lòng lên Chúa trong suốt thời gian Mùa Vọng này. Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an.
Dù muốn dù không, hôm nay, ta cùng với Giáo Hội bước vào năm phụng vụ mới với Chúa nhật 1 Mùa Vọng. Mùa Vọng: Mùa của chờ đợi và hy vọng.
Mỗi lần mừng kỷ niệm việc Chúa đến lần thứ nhất ta lại được mời gọi hướng lòng đến sự xuất hiện lần thứ hai của Chúa. Ngày Chúa đến lại lần thứ hai đó cũng chính là ngày mà chúng ta, mỗi người chúng ta cũng dù muốn dù không cũng phải tính sổ với Chúa.
Và rồi, chưa nói đến ngày Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang thì ngày Chúa đến với mỗi người chúng ta là một ngày hết sức bất ngờ, ngày mà chẳng ai có thể ngờ đến được. Vào ngày nay, ta phải chiết tính và phải thanh toán cho Chúa tất cả những gì Chúa đã trao ban cho chúng ta từ ngày chúng ta cất tiếng khóc chào đời. Ngày ấy như thế nào, ngày ấy sẽ là ngày vui mừng hân hoan hay là ngày kinh hoàng, điều đó hoàn toàn tùy thuộc thái độ và cách sống của mỗi người ngay ngày hôm nay.
Đặt mình vào dân Do Thái xưa, ta thấy dân quá vất vả để chờ đợi Đấng Cứu Độ trần gian đến thế giang trong thời gian quá dài. Cũng chính vì sự chờ đợi này đã giúp họ có niềm tin, niềm hy vọng, niềm trông cậy để họ vượt qua những thử thách đổng thời giúp họ điều chỉnh lại thái độ sống của mình.
Sự chờ đợi đó được Isaia nói lên qua tâm tình của ông: Lạy Đức Chúa, Ngài là cha chúng con, là Đấng cứu chuộc chúng con, tại sao Ngài lại để chúng con xa đường lối Ngài, tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá chẳng còn biết kính sợ Ngài?
Chính trong sự chờ đợi dài đăng đẳng như thế này dân Israel ý thức được rằng chình vì tội lỗi của họ, vì sự ngỗ nghịch cứng lòng của họ, và cũng vì sự quay lưng lại của họ với Thiên Chúa khiến cho họ phài trăm ngàn đau khổ:
Tất cả chúng con đã trở nên như đồ nhiểm uế, các việc làm của chúng con chỉ như chiếc áo dơ bẩn, và tội ác chúng con đã phạm đã khiến Ngài ngoảnh mặt làm ngơ.
Chính khi họ mặc lấy tâm tình khiêm nhường như thế, họ đã tha thiết nài xin Thiên Chúa: Lạy Chúa, xin Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước thánh nhan và Chúa đã đến như lời họ nguyện xin.
Cũng vì tội lỗi từ nguyên tổ loài người đến tội lỗi của bao thế hệ con cháu, đã khiến cho cửa trời như bị đóng lại, mối dây liên hệ với Thiên chúa như bị cắt đứt, nay dân Chúa đang nài xin Chúa xé trời mà ngự xuống để giải thoát họ.
Thiên Chúa không dửng dưng, Thiên Chúa không mãi đứng xa xa để nhìn con người đau khổ trong tội lỗi. Chính vì thế khi đến thời viên mãn, Ngài đã cho Con của Ngài xuống thế để đồng hành, để yêu thương, để chữa lành và để cứu con người khỏi phải án chết và ban tặng cho con người sự sống mới của Thiên Chúa.
Đức Giêsu chính là Người Con ấy, Ngày đã đến để tìm kiếm và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát, băng bó những tâm hồn bị thương tích, công bố năm hồng ân và ngày cứu độ của Thiên Chúa. Tất cả những ai đón nhận Ngài và tin Mừng của Ngài cùng sống theo những điều Ngài hướng dẫn thì được cứu độ, được chia sẻ hạnh phúc làm con Thiên Chúa với Ngài.
Thánh Phaolô trong thư gửi cho cộng đoàn Corintô đã diển tả điều đó khi nói rằng: Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta và xin Chuá Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an.
Thánh Phaolô đã mời gọi mọi người luôn ý thúc rằng mình đã được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc, được nghe Lời Chúa, được hiểu biết màu nhiệm Thiên Chúa, được ơn Chúa trợ giúp và làm cho nên phong phú sung mãn thì cần phải ăn ở cho xứng đáng cho đến ngày Chúa Kitô trở lại lần thứ hai, phải sống làm sao để không ai có thể trách cứ được anh em điều gì cho đến ngày vinh quang Chúa tỏ hiện.
Chúa sẽ trở lại lần thứ hai trong vinh quang với quyền năng của một vị thẩm phán, đó là điều Đức Giêsu đã khẳng định và là niềm tin của Giáo Hội và của mỗi người chúng ta. Trong Tin mừng đã nhiều lần Chúa nói đến ngày này, ngày Chúa sẽ là Đức vua phân biệt người lành và kẻ dữ như người mục tử phân biệt chiên ra khỏi dê, Ngày Người trở lại như ông chủ trở về đòi các đầy tớ tính sổ và nộp cả vốn lẫn lời. Chắc chắn Chúa sẽ trở lại, nhưng Ngài lại không hẹn giờ, vì thế, cuộc trở lại lần thứ hai là cuộc trở lại trong bất ngờ, và Ngài cảnh báo chúng ta: Anh em phải canh thức vì anh em không biết khi nào chủ nhà sẽ đến. Con người luôn để mình rơi vào tình trạng bất ngờ, mê ngủ hoạc là chè chén say sưa bỏ bê công việc, như câu chuyện Chúa kể hôm nay.
Người chủ kia trẩy đi phương xa và trao quyền lại cho đầy tớ mỗi người một việc và ra lệnh cho họ phải canh giữ và tỉnh thức. Mỗi người đều có công việc riêng của mình và hoàn cảnh riêng của mình, tất cả đều do ông chủ là Thiên Chúa trao cho, mà mỗi người phải hết mình và tận tâm để chu toàn.
Qua lời dặn dò, ông muốn những người đầy tớ này không chỉ giữ nguyên vẹn an toàn, mà còn phai làm việc để sinh lời những đồng vốn ông trao gửi. Ông sẽ trở về có thể là chập tối, lúc nửa đêm hay lúc gà gáy về sáng, ông không muốn thấy đầy tớ của ông mê man say ngủ, mà ông muốn họ phải tỉnh thức, thắp đèn chờ đón ông. Tinh thức, thắp đèn, chờ đón, đó là một thái độ chờ đợi trong sẳn sàng và chủ động làm việc chứ không phải là ủ rũ thụ động chờ đợi trong mòn mỏi.
Canh thức là điều chúng ta luôn được nhắc nhở và tự nhắc nhở vì lẽ đó là bổn phận, nhiệm vụ của mỗi người chúng ta. Nhung, d, song cũng lại là điều chúng ta dễ quên nhất. Biết chắc chắn rằng Chúa sẽ đến bất cứ lúc nào, song chúng ta vẫn bị bất ngờ. Chính sư lôi kéo của thế gian làm cho chúng ta quên ngày chúng ta phải trở về, nhiều người đã sống như thể mình sẽ không bao giờ phải chết hoặc là tránh né không dám nhắc đến ngày phải trở về, vì thế họ để cho công việc, tiền bạc, của cải chiếm hết thời gian và những lo toan của họ, khiến họ không còn giờ để lo cho Ngày Chúa đến với mình nữa.
Nhiều người đã quên mất thân phận của mình chỉ là một người đầy tớ, một người quản lý được Chúa trao cho tài sản để sinh lời cho Chúa, mà lại coi mình như là ông chủ bà chủ và ngủ mê trong trong công việc của mình, lo hưởng thụ và không lo làm lời những đồng vốn, những nén bạc Chúa trao hoặc lại đem đi chôn giấu.
Hôm nay, ta được Chúa lại đánh thức ta. Đơn giản vì ta có khi thức nhưng không tỉnh. Có khi ta lại sống trong trạng thái mơ mơ ảo ảo và ta không biết đâu là cùng đích cuộc đời. Sống nhưng ta không xác định được cái gì là bền vững, cái gì là mau qua, đâu là hạnh phúc thật và đâu là ảo ảnh.
Hạnh phúc thật của chúng ta là Thiên Chúa và Nước Trời, mọi sự ở trần gian: tiền bạc của cải danh vọng quyền lực rồi sẽ qua mau, chỉ có Thiên Chúa là bển vững và hạnh phúc ngài ban là vĩnh cửu. Những ai còn đang mê ngủ, hảy tỉnh dây để điều chỉnh cuộc sống của mình của gia đình mình đi cho đúng đường của Chúa thì mới có thể đạt được hạnh phúc thật.
Nhiều bậc làm cha làm mẹ vẫn đang mê ngủ trong sự lười biếng của mình, ngủ mê trong khối tài sản của mình, lấy lý do bận rộn để bỏ quên việc canh thức cho chính mình và cho gia đình mình. Là chủ của gia đình, ta ãy canh thức bằng cách sắp xếp và điều chỉnh lại nếp sống đạo đức của cả gia đình bằng việc giúp nhau lãnh nhận Bí tích, tham dự Thánh lễ, rước lể, bằng đọc kinh cầu nguyện và đọc Lời chúa mỗi ngày.
Ngày mỗi ngày, ta thắp lên ngọn lửa yêu thương trong gia đình, vì gia đình và con cái chính là tài sản quý giá nhất mà Thiên Chúa trao cho mỗi chúng ta, hãy làm cho gia đình trở nên phong phú và đầy tình yêu thương. Hãy canh thức đừng để cho sự nghi kỵ và ích kỷ tham lam nó làm đổ vỡ tình nghĩa gia đình giữa cha mẹ và con cái giữa anh em ruột thịt, đừng để cho đồng tiền nó cướp đi hạnh phúc và hơi ấm của gia đình, nó gây chia rẽ trong gia đình trong anh em, láng giềng.
Với người trẻ, Lời Chúa mời gọi các bạn canh thức, tức là canh chừng đừng để mình ngủ quên trong xã hội hưởng thụ hôm nay. Với tất cả công việc, tương lai của ta và cả danh vọng địa vị sẽ để làm gì nếu ngay đêm nay Chúa là ông chủ đòi ta tính sổ cuộc đời.
Hãy canh thức đừng để mình rơi vào tình trạng nghiện ngập bê tha, ăn chơi buông thả, đừng quên mình là người Công giáo, người con Chúa.
Ta đừng nghĩ rằng mình còn trẻ thì ngày ấy chưa đến, sẽ không phải chết, đừng sợ nghĩ đến cái chết, vì khi biết nghĩ đến ngày mai mình phải chết sẽ giúp cho mình biết sống tốt hơn và mỗi ngày sống hãy sống yêu thương cho đầy tràn, hãy sống cho có ý nghĩa và hãy sống có ích cho chính mình, cho đời, hãy sống như thể ngày mai mình sẽ phải chết, để mình khỏi mê ngủ và không uổng phí cuộc đời vào những chuyện mau qua.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Chúa sẽ đến nhưng ta không chắc gặp được Người. Vì Người đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa ta phải tỉnh thức.
Tỉnh thức có nghĩa là đừng mê ngủ. Chúa thường hay đến vào ban đêm, nghĩa là vào lúc ta không ngờ. Ðời sống có những bóng đêm ru ta ngủ say mê khiến ta không gặp được Người. Có những bóng đêm của tội lỗi giam cầm hồn ta trong giấc ngủ bạc nhược khiến ta không còn đủ sức thoát ra. Tội lỗi lôi kéo tội lỗi. Tội lỗi chồng chất giống như những tảng đá gìm ta xuống vực sâu vô tận. Có những bóng đêm của danh vọng ru hồn ta ngủ quên trên vinh quang chói lọi. Vinh quang giống như ngọn đèn đốt cháy biết bao đời thiêu thân. Có những bóng đêm của xác thịt cuốn hồn ta vào giấc mộng lạc thú. Lạc thú giống như chiếc lưới rất mềm mại, rất nhẹ nhàng, nhưng rất hiểm độc. Linh hồn đã sa vào khó có thể thoát ra. Có những bóng đêm của thói ích kỷ chỉ biết sống cho bản thân mình. Ích kỷ giống như một hang sâu, càng đi vào càng thấy tối tăm. Có những bóng đêm của tiền tài bao phủ ta trong giấc mộng giàu sang phú quí. Chìm đắm trong giấc mộng, ta sẽ chẳng nghe được bước chân của Chúa đi qua.
Tỉnh thức cũng có nghĩa là tỉnh táo phân định. Chúa đến rất âm thầm và rất bé nhỏ. Người không đến với cờ quạt trống phách tưng bừng, nhưng đến trong âm thầm lặng lẽ. Người không đến trong uy nghi lẫm liệt của những vị vương đế, nhưng Người đến trong hiền lành khiêm nhường như một người phục vụ. Người không mặc gấm vóc lụa là, nhưng đơn sơ trong y phục dân dã. Người không đến như vị quan toà nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một người bạn dễ thương dễ mến. Người đang đến qua những con người hiền lành bé nhỏ quanh ta. Người đang đến trong những con người khốn khổ túng cùng. Người đang đến qua những khuôn mặt xanh xao hốc hác. Người đang đến trong những tấm thân gầy guộc. Người lẫn vào giữa đám đông vô danh. Người chìm mất trong số những kẻ bị loại ra ngoài lề xã hội. Người ẩn mình giữa đám người ăn xin đang lê bước khắp các nẻo đường cát bụi. Người đang rét run với cặp mắt ngơ ngác thất thần ở giữa những nạn nhân bão lụt. Phải tỉnh táo lắm ta mới nhận ra Người. Phải tỉnh thức lắm ta mới gặp được Người.
Tỉnh thức không có nghĩa là cứ ngồi đó mà chờ đợi. Tỉnh thức là bắt tay vào hành động. Chúa như ông chủ đi vắng. Người cho ta được toàn quyền khi Người vắng nhà. Người giao trách nhiệm cho ta trông coi gia đình ta, giáo xứ ta, địa phương ta, đất nước ta và cả thế giới nơi ta đang sống. Ta được tự do hành động. Ta có trách nhiệm làm cho gia đình, xứ đạo, địa phương, đất nước, và cả thế giới được phát triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức là nhìn thấy ý Chúa trong những trào lưu thời đại. Tỉnh thức là nhận biết Chúa hành động trong những tâm hồn thiện chí thuộc các niềm tin, mầu da, quan điểm khác nhau để biết cộng tác trong việc xây dựng xã hội. Tỉnh thức là dấn thân hy sinh phục vụ anh em trong quên mình.
Ngay từ đầu mùa Vọng, Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức. Hãy bước ra khỏi giấc ngủ miệt mài, lười biếng. Hãy đoạn tuyệt với những giấc mộng phù hoa. Hãy thôi đuổi theo những đam mê dục vọng. Hãy nói không với những đồng tiền bất chính.
Hãy tỉnh táo phân định để nhận ra dung mạo thực sự của Ðức Kitô. Ðừng chạy theo những khuôn mặt mang dáng vẻ cao sang quyền quý. Ðừng chạy theo những khuôn mặt nặng về quyền lực. Ðừng chạy theo những lời hứa hẹn giàu sang. Dung mạo đích thực của Ðức Kitô là nghèo hèn, là khiêm nhường, là bé nhỏ.
Hãy tỉnh thức để làm việc không ngừng, để quên mình, hy sinh phục vụ cho lợi ích của đồng loại.
Như thế, tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên ta phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Có ơn Chúa thúc đẩy, ta mới có thể dứt bỏ con đường tội lỗi xưa cũ. Có ơn Chúa soi sáng, ta mới đủ tỉnh táo nhận ra dung mạo đích thực của Ðức Giêsu. Có ơn Chúa trợ giúp, ta mới đủ hăng hái ra đi phục vụ trong quên mình.
Lạy Chúa, xin giữ hồn xác con luôn tỉnh thức để con nhận biết Chúa đang đến với con trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
TỈNH THỨC ĐI VÀO THẾ GIỚI MỚI
Thật ngạc nhiên. Ta cứ tưởng trong mùa Vọng, phải có những bài sách Thánh báo tin Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra. Nhưng không ngờ những bài sách thánh và đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay lại báo tin Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Tại sao thế? Thưa vì Giáo Hội muốn cho ta hiểu ý nghĩa thần học của việc chờ mong Chúa đến. Hàng năm vào mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi ta chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến. Thực ra Chúa đã đến rồi khi sinh ra tại hang đá Bêlem cách nay hơn hai ngàn năm. Tuy nhiên ta vẫn luôn chờ mong vì Chúa đến hằng ngày với ta. Và nhất là Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Việc Chúa đến lần thứ hai đưa ra những hướng dẫn quan trọng cho cuộc đời chúng ta.
Hướng dẫn thứ nhất: Có hai thế giới. Thế giới hiện tại và thế giới tương lai. Thế giới hiện tại sẽ qua đi. Vạn vật có khởi đầu và có kết thúc. Con người có sinh có tử. Đó là định luật tự nhiên. Không chỉ những gì yếu đuối, bé nhỏ mới qua đi. Cả những gì lớn lao, mạnh mẽ, có vẻ bền vững nhất như mặt trời, mặt trăng cũng qua đi. Điều quan trọng nhất là chính ta cũng sẽ qua đi. Khi thế giới này qua đi, một thế giới mới sẽ bắt đầu: thế giới vĩnh cửu.
Hướng dẫn thứ hai: Chúa làm chủ lịch sử. Sở dĩ thế giới cũ tan biến đi vì Chúa đã định cho nó một thời hạn. Khi thế giới đến ngày cùng tháng tận Chúa sẽ đến. Quyền uy của Chúa thể hiện qua việc Chúa xét xử thế giới cũ và khai sinh thế giới mới. Sau cảnh tan vỡ kinh hoàng của thế giới cũ sẽ là một khởi đầu mới đem đến niềm hy vọng mới cho con người. Có thể nói thế giới không chấm dứt nhưng biến đổi. Từ một thế giới mong manh mau tàn đến một thế giới vững bền vĩnh cửu. Từ một thế giới tương đối đến một thế giới tuyệt đối.
Hướng dẫn thứ ba: Ta tự quyết định vận mệnh đời mình. Thế giới này sẽ qua đi. Thế giới mới sẽ xuất hiện. Ta sẽ bị hủy diệt cùng với thế giới cũ. Hay sẽ được hạnh phúc trong thế giới mới? Điều đó tùy thuộc bản thân ta. Chúa đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng. Thế giới cũ sẽ suy tàn. Nên ai quá gắn bó với nó sẽ khổ sở. Thế giới mới sẽ tới. Ai biết chuẩn bị chờ đón sẽ được hạnh phúc. Phải làm gì? Thưa phải tỉnh thức và cầu nguyện.
Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, tức là không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, nghĩa là không quá mê say danh, lợi, thú, là những giá trị đời này. Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Tỉnh thức tuy còn sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.
Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Nhất là cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát ra khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện ta sẽ gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Tỉnh thức cầu nguyện chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến cứu con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Chúa đã đến rồi sao ta vẫn còn chờ mong Chúa đến?
2) Chúa làm chủ lịch sử. Bạn có cảm nghiệm về điều này trong đời sống không?
3) Ta phải làm gì để được niềm vui trong ngày Chúa đến?
4) Tỉnh thức nghĩa là gì?
5) Tại sao phải cầu nguyện?
Đây, Mùa Vọng lại đến. Mùa Vọng là mùa mong chờ một cuộc gặp gỡ. Người nông phu gieo hạt xuống đất mong chờ ngày hạt trổ bông. Người bộ hành mong chờ gặp gỡ nơi chỗ hẹn.
Nhà Tiên tri Giêrêmia loan báo, trong bài đọc I, “ngày Thiên Chúa làm nẩy sinh một chồi công chính” và trên bước đường lịch sử, nhân loại sẽ gặp Đấng Cứu Độ. Mùa Vọng là thời điểm Chúa Kitô, Đấng mà Đavit là tiền ảnh, Đấng đã được tiên báo đến trong thế gian và còn tiếp tục đến.
Phải, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục đến giữa chúng ta. Nhân loại càng ngày càng thay đổi thì Chúa Kitô, niềm hy vọng thế giới, vẫn tiếp tục đến để đem sự công chính, hoà bình và ơn cứu rỗi. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục đến trong mỗi người chúng ta. Là một con người, ai lại không mong muốn được biết đường đi, xa lánh sự dữ, được khỏi tiêu diệt và khỏi chết. Thì Chúa Kitô chính là Đường, là sự Sống, là sự Thật sẽ đến hướng dẫn chúng ta và cứu chuộc chúng ta.
Thánh Phaolô, trong thánh thư gửi giáo đoàn Thessalonica, dạy chúng ta phải sống tinh thần Mùa Vọng như thế nào. Người tín hữu là kẻ đã được Đức Tin hướng dẫn ngày chịu phép Rửa tội thì phải tiến lên không ngừng, “phải gia tăng và tràn đầy lòng thương yêu nhau”. Phaolô dạy giáo đoàn Thessalonica vẫn đã sốt sắng, phải sốt sắng, phải thánh thiện hơn. Bằng bốn lần, Phaolô khuyên họ và khuyên chúng ta phải kết hợp với Chúa Kitô mật thiết và thương yêu anh em hơn, như Ngài đã thương yêu chúng ta. Đó là chìa khóa sự thánh thiện. Đó là tinh thần Mùa Vọng chân chính, mùa mong đợi Chúa đến.
Vì thế, Giáo Hội thường khuyến cáo tổ chức những buổi tĩnh tâm cấm phòng trong mùa Vọng, không ngoài mục đích thăng tiến lòng đạo đức. Chúng ta hãy sốt sắng tham gia. “Hãy quên đi đoạn đường đã qua và chạy đến cùng đích” (Phi. 3, 14). Cùng đích ấy là Chúa Kitô.
Mùa Vọng là mùa mong đợi gặp gỡ Chúa. Chúa Giêsu chỉ đi vào lịch sử một lần khi Ngài giáng sinh trong hang lừa máng cỏ, cách đây 19 thế kỷ. Nhưng như vừa nói, Ngài sẽ đến lại với mỗi người chúng ta và nhất là Ngài sẽ đến lại trong vinh quang ngày tận thế.
Bài Phúc âm mở cho chúng ta một cái nhìn bao quát vĩ đại đó. Thời gian từ ngày Chúa đến lần thứ nhất trong lịch sử đến ngày Chúa lại đến trong vinh quang là thời gian của Giáo hội. Và Giáo hội cũng vọng về ngày Chúa đến trong uy quyền. Ngày đó bao giờ đến?
Ngài không nói ra bí mật của Thiên Chúa! Nhưng Ngài cho ta những điềm báo trước: những điềm lạ trên trời, những rung chuyển dưới đất. Những vụ nổ như vụ núi lửa Pinatubo ở Phi luật Tân phun lên đến cao độ 12 miles với sức mạnh của 10 quả bom nguyên tử, tháng 6, 1991, là một tiếng dội xa xôi của ngày Chúa giáng lâm. Những điềm báo đó phải là những điều thức tỉnh, những bài học cho chúng ta.
Ngày nay, có nhiều người sống và tổ chức cuộc sống như rằng thế giới sẽ vô tận, không có một cùng điểm. Có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Người tín hữu biết rằng Chúa đã đến và Chúa sẽ đến lại cho cả thế giới và với mỗi người chúng ta, nên phải chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ đó. “Chúng con hãy giữ mình, kẻo lòng chúng con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời mà ngày đó thình lình đến với chúng con như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất”.
Vậy chúng ta “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” trong Mùa Vọng này.
Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tôi.
Chúa Nhật đầu tiên của năm phụng vụ, là Chúa Nhật thứ I mùa vọng, nhưng các bài đọc sách thánh và bài Tin Mừng lại nói về ngày cánh chung. Thật ra Chúa đến trong thế giới hơn hai ngàn năm. Ngày hôm nay Giáo Hội lại muốn nhắc ta nhớ lại ngày Chúa đến, và ngày phán xét cũng là ngày mà mỗi người đang chờ đợi. Cho nên điều quan trọng trong thời gian Mùa Vọng này không phải là tưởng niệm ngày Chúa Giáng Sinh, hay xem dấu hiệu ngày tận thế, mà phải biết dọn mình thức tỉnh đón Chúa trong bất cứ lúc nào.
Trong Mùa Vọng Giáo Hội không muốn chúng ta đợi Chúa đến cách thụ động, mà muốn ta sống tâm tình đó cách năng động. Đặc biệt Giáo Hội muốn ta sống lại những tâm tình của bao thế hệ xưa đã mòn mỏi trông chờ Chúa. Nhất là muốn ta dùng Mùa vọng này để đón Chúa mùa Giáng Sinh, từ đó cũng đón nhận được những ơn mới Chúa ban trong dịp này để làm cho tâm hồn ta ngày càng được lớn lên trong tình yêu Chúa, giúp ta sống Mùa Vọng cách quyết liệt ngay từ Chúa Nhật thứ nhất này. Đồng thời với việc chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh Giáo Hội cũng nhắc ta chuẩn bị ngày Chúa đến sau hết trong ngày cánh chung.
Chúa đã đến với ta rất nhiều lần trong đời, nhưng đến ngày phán xét Chúa sẽ đến “như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em”. Tuy rằng phúc âm có nói: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét”. Nhưng nếu con người không thức tỉnh chắc chắn sẽ bị chìm vào nơi tăm tối. Mặc dù Chúa nói: “anh em sắp được cứu chuộc”. Nghĩa là không phải là tất cả mà chỉ là những người biết sống như năm cô khôn ngoan biết đem dầu và đèn. Ngược lại nếu chỉ sống như những cô khờ dại thì ngày đó thật khủng khiếp. Vì ngày đó còn gọi là ngày phán xét chung, nên mỗi người phải trả giá cho việc mình làm, trả lời cho Chúa về những ơn huệ mình đã lãnh nhận, và đã sinh lợi thế nào. Khi nói đến ngày phán xét thì người ta sẽ nghĩ đến hai hạng người: kẻ lành được lên thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời. Còn kẻ dữ phải sa hỏa ngục ở đó phải đau khổ, khóc lóc nghiến răng. Hình phạt của kẻ dữ là đời đời không được thấy Chúa. Nhất là không còn được ở trong tình yêu của Người nữa.
Chắc chắc trong chúng ta không ai muốn bị vào số của những kẻ dữ, muốn sa hỏa ngục. Để dừng bị như thế đòi hỏi chúng ta phải dọn mình để đón Chúa ngay trong giây phút này. Đặc biệt là trong mùa vọng mỗi người chúng ta hãy dọn mình để chuẩn bị kỷ niệm việc Chúa đến. Nhưng dọn mình bằng cách nào? Mỗi người hãy nhớ lại tâm tình của người tội lỗi; để được ơn tha thứ ta phải ăn năn và quyết tâm không bao giờ phạm nữa. Thì trong giây phút này đặc biệt là trong mùa chờ đợi Chúa đến, mỗi người hãy ăn năn chê ghét hãm mình đền tội. Nhất là biết chết đi con người cũ và sống lại với con người mới để đón Chúa đến trong một ngôi nhà không vết nhơ, nhưng lộng lẫy trong tâm hồn thánh thiện.
Mùa vọng không chỉ là thời gian để chúng ta dọn mình đón Chúa cách riêng tư. Vì Chúa đến mang ơn cứu độ cho mọi người. Do đó, Mùa vọng còn là mùa để mỗi người mang ơn cứu độ đến cho tha nhân bằng cả tâm hồn và lòng tha thiết. Mỗi hành động ta làm cho tha nhân là một hành động ta đang làm cho Chúa. Vì vậy ngày Chúa đến lần thứ hai Ngài sẽ phán xét ta về việc bổn phận với tha nhân, cách cư xử với anh em. Nếu chúng ta muốn được Chúa mang hạnh phúc cho mình trong Mùa Giáng Sinh này, thì trước tiên chúng ta hãy biết mang lại hạnh phúc cho anh em chúng ta trong mù vọng này.
Tóm lại Mùa vọng không chỉ là thời gian để chúng ta nhớ lại và sống tâm tình của người Do Thái trông chờ Đấng Cứu Thế. Nhưng mùa vọng là thời gian tưởng nhớ việc Đức Giêsu sẽ trở lại vào thời cuối cùng của lịch sử. Chính vì thế mà mỗi người phải biết dọn mình, để sẵn sàng đón Chúa cho dù Ngài đến bất cứ lúc nào cũng biết thức tỉnh để ra ngênh đón.
Lạy Chúa, Mùa vọng không chỉ là mùa chờ đọi mà còn là mùa sám hối, vì chỉ có sám hối ăn năn là cách chờ đợi Chúa tốt nhất và đẹp lòng Ngài nhất. Amen.
Một năm phụng vụ nữa đang kết thúc. Hôm nay là Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, chúng ta lại bắt đầu một chu kỳ mới của ơn cứu độ. Tưởng cũng nên nhắc lại, là sống những tâm tình của từng mùa trong năm phụng vụ không phải chúng ta chỉ sống lại những kỷ niệm của một thời đại đã qua, nhưng là sống chính trong nguồn mạch ơn Chúa tươi mát và mới mẻ để nuôi dưỡng con người nơi Giáo Hội trần gian này, trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu. Điểm quan trọng trong Lời Chúa hôm nay là câu của chính Chúa Giêsu khuyên bảo: “Trong mọi biến chuyển kinh hoàng xảy đến đó, chúng con hãy đứng vững và ngẩng đầu lên”.
“Đứng dậy, ngẩng đầu”, đòi hỏi con người phải hết lòng tin tưởng, hy vọng vào Thiên Chúa toàn năng, yêu mến Người hết lòng, hướng mọi khả năng về Thiên Chúa vì ơn cứu độ chỉ đến từ Thiên Chúa mà thôi. Không có niềm tin vững mạnh, hy vọng bao la, yêu mến hết lòng, không ai có thể đứng vững được trong hiểm nguy gian nan thử thách. Bản tính tự nhiên của mọi sinh vật khi gặp nguy hiểm là trốn tránh, ẩn núp, nằm rạp xuống thu mình nhỏ lại, muốn mình biến tan để những cơn nguy hiểm không động chạm đến mình. Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên”. Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì Thiên Chúa đem đến cho chúng ta niềm hy vọng.
Nơi bài đọc thứ nhất, qua miệng tiên tri Giêrêmia, Thiên Chúa bảo: “Đã đến ngày Ta thực hiện lời hứa Ta đã hứa cùng Israel và Giuđa. Ngày đó Giuđa sẽ được cứu thoát và Giêrusalem sẽ an lành”. Tiên tri Giêrêmia báo cho dân chúng biết Thiên Chúa là Chúa trung thành, Người sẽ tạo lập một xã hội mới có một vị vua biết yêu thương dân và luôn thi hành công lý. Điểm thời gian mà lời tiên tri đó được thực hiện trong lịch sử chính là sự xuất hiện của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Người vừa là Vua vừa là Thượng Tế. Là Vua, chính Người lo cho Giuđa được cứu thoát. Là Thượng Tế, chính Người lo cho thành thánh Giêrusalem sống trong an bình. Thời gian đó là thời gian vui tươi, hy vọng, không còn sợ hãi, người người sẽ hớn hở gọi to tên của Đấng phải đến đó là: “Thiên Chúa Đấng công chính của chúng tôi”. Như thế, bài đọc thứ nhất công bố một niềm hân hoan to lớn.
Sang bài đọc thứ hai, trong thư gởi tín hữu thành Thêsalônica, thánh Phaolô khuyến khích phải làm gì để đón nhận niềm vui trọng đại của ơn cứu thoát mà Thiên Chúa đã hứa? Thánh nhân đã đưa ra ba việc chính yếu phải làm:
Thứ nhất, là phải biết thương yêu nhau.
Thứ hai, là cố gắng sống không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Thứ ba, thánh Phaolô bảo: Người van nài là làm sao càng ngày mọi người càng tiến thêm lên trên con đường thánh thiện.
Qua ba điểm, thánh Phaolô mong muốn, chúng ta nhận thấy rõ ràng như đã nêu lên ở trên, những nhân đức nòng cốt mà phụng vụ Lời Chúa hôm nay mong muốn chúng ta phải sống, đó là một đức tin vững chắc, một niềm hy vọng sâu xa, một tình yêu chân thành và luôn biết hướng mọi khả năng Chúa ban cho mình để phụng sự Chúa là cùng đích tối cao và tối hậu của cuộc đời con người. Trong ba việc làm thánh Phaolô chỉ dạy, cần để ý đến lời khuyên: Cố gắng sống không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa, mà Thiên Chúa đó lại là Cha yêu thương chúng ta chớ không phải là quan xét xử, và Cha chúng ta thấu suốt tận tâm can của từng người con một. Tư tưởng, lời nói, việc làm của từng người con, Người đều thấy hiểu và yêu thương ban ơn nâng đỡ, hướng dẫn. Vậy chúng ta hãy tin tưởng, hy vọng, yêu mến và hướng về Chúa.
Trong bài Phúc Âm như chúng ta đã nói, câu đáng lưu ý là lời khuyên mạnh mẽ của Chúa Giêsu: “Chúng con đừng sợ, hãy đứng vững và ngẩng đầu lên”. Với bài đọc thứ nhất, Giêrêmia chỉ rõ Thiên Chúa trung thành với lời hứa cứu rỗi. Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô trình bày Thiên Chúa Cha yêu thương, luôn mong điều tốt đẹp cho con cái. Bài Phúc Âm chỉ là lời kết luận: Dầu trời đất có rung chuyển, có sụp đổ, dầu Chúa có xuất hiện trong uy nghi cao cả, chúng ta cũng hãy đừng sợ, nhưng hãy vui mừng và hy vọng. “Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên”. Dầu cho trật tự trần gian này qua đi, Chúa sẽ thiết lập một trật tự mới trong an bình. hãy đừng sợ! Đừng sợ cả khi nhận ra sự yếu đuối của mình, của con người chính mình.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ngay trong chương đầu của quyển “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” đã viết: “Hãy đừng sợ, là lời Chúa đã mời gọi nhiều lần với những con người Chúa tiếp xúc. Thiên Thần đã nói với Maria “Hãy đừng sợ”, và cũng đã nói với Giuse “Hãy đừng sợ”. Chúa Kitô đã nói với các tông đồ, đặc biệt với Phêrô nhiều lần trong nhiều trường hợp khác nhau, nhất là sau khi Người sống lại: “Hãy đừng sợ”. Chúa phải lặp đi lặp lại như thế vì Người biết rằng các ông sợ. Các ông đã sợ khi Người bị bắt. Các ông cũng sợ khi Người phục sinh. Lời đó của Chúa Giêsu, Giáo Hội đã lặp đi lặp lại. Lời đó, Giáo Hoàng cũng đã lặp lại. Tôi đã nói những lời: “Hãy đừng sợ” đó trong bài giảng đầu tiên của tôi tại quảng trường thánh Phêrô.
Nhưng chúng ta đừng sợ cái gì? Chúng ta đừng sợ sự thật của chính chúng ta. Thánh Phêrô đã sống kinh nghiệm bản thân của sự thật đó khi người nói cùng Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, xin hãy xa con vì con là người tội lỗi”. Không phải chỉ Phêrô mới ý thức được sự thật đó, mà mỗi người chúng ta đều học biết và chúng ta biết rằng sau câu nói đó của Phêrô, Chúa Giêsu bảo: “Hãy đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chài lưới người ta”.
Với lời khuyên của Chúa Giêsu và lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị đại diện của Ngài nơi trần gian, chúng ta hãy đừng sợ! Dầu cho con người chúng ta yếu đuối, hãy vững tin vào ơn Chúa, sống Mùa Vọng cho sốt sắng để trở thành con người mới, để cùng ca vang với trời đất, với thần thánh trên trời và loài người dưới thế.
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho loài người được Chúa yêu thương”.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi luôn nhớ lời: “Hãy đừng sợ, cứ đứng vững và ngẩng đầu lên” để những lo âu của cuộc sống này không đè bẹp được tôi; để tôi niềm nở tươi vui với tất cả mọi người nhất là những người đang chung sống với tôi cùng một mái nhà; để tôi có một cái nhìn lạc quan vào mọi biến cố của cuộc đời, kể cả những biến cố có vẻ đau thương nhất, vì Chúa dạy tôi: Hãy tin tưởng, hy vọng, yêu mến, và hứa dẫn tôi về với Người.
Có cuộc hành trình nào mà người lữ khách không chuẩn bị hành lý?! Chuyến đi càng xa và càng quan trọng thì sự chuẩn bị càng phải chu đáo hơn và cẩn trọng hơn. Đời người được sánh ví như một chuyến đi, đi về quê hương thật của mình. Quê hương ấy chính là Nước trời. Trần gian được coi như cõi tạm mà con người là thân lữ khách phải đi qua. Chuyến đi này thật quan trọng và mang tính quyết định cho số phận đời đời của con người. Nhưng thử hỏi, có bao nhiêu người đã ý thức mình là thân lữ khách? Có mấy người đã chuẩn bị chu đáo cho chuyến đi này? Chúng ta đã chuẩn bị được gì và có sẵn sàng lên đường cho cuộc hành trình ấy chưa?
Phải chuẩn bị những gì?
Chuyến đi định mệnh này đòi hỏi con người mang túi hành lý là chính tâm hồn mình, để sao cho nó thật nhẹ nhàng và thanh thoát. “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời” (Lc21,34). Xã hội ngày nay có nhiều cuộc vui đã cuốn hút nhiều người đi vào trong đó và biến họ thành những con rối, những con thiêu thân. Họ quay cuồng theo tiếng nhạc kích động, buông mình theo những làn khói trắng và những chén rượu nồng, đến quên cả lối về…Chè chén say sưa là đi vào những cuộc vui không biên giới. có nhiều người thì lại quá bận tâm đến chuyện làm giàu, cũng cố địa vị và chỗ đúng cho mình đến độ không còn chỗ cho Chúa trong tâm hồn mình nữa. Thời gian của họ đã dành hết cho công việc làm ăn sinh sống và gia đình con cái nên không có thời gian để lo lắng cho linh hồn mình cũng như lo lắng cho việc thờ phượng Chúa. Chúng ta hãy nhớ đến biến cố Hồng Thuỷ trong thời Nôe xem thế nào? Mọi người vui chơi, cưới vợ gã chồng, bình an như không bao giờ phải chết! Noê bị coi như người làm chuyện nhảm nhí, điên khùng… Rồi hồng thuỷ xảy đến, cuốn trôi tất cả, ngoại trừ gia đình Nôe!
Việc sống đạo sốt sắn có thể bị coi như công việc làm dư thừa, chuyện của những con người non dạ, chuyện của trẻ con nếu không muốn nói là điên khùng! Nhưng chúng ta biết mình đang làm gì, cũng như Nôe biết công việc của ông làm vì ông tin vào lời Chúa phán với ông.
Mùa vọng là thời gian chúng ta hướng lòng về Chúa, mong đợi Chúa đến trong vinh quang và quyền năng: “Ngự giá mây trời mà đến”. Ngày Chúa đến sẽ làm cho mọi sự biến đổi. Trời đất sẽ rung chuyển khiến cho những gì con người từng nghĩ rằng nó là biểu tượng của sự vững bền ở trần gian sẽ phải tan biến để nhường chỗ cho vinh quang của Đấng Cứu độ con người. Những ai không mang trong mình niềm hy vọng sống sẽ phải rung sợ và hoang man. Còn con cái của Chúa, những người sống trong niềm tin và hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa sẽ “ngẫng đầu lên, vì anh em sắp được cứu độ”.
Đây là tâm thế cần thiết và xứng hợp của những con người sống niềm tin và hy vọng. Tỉnh thức để khỏi vướng vào những cám dỗ tinh vi của ma quỷ. Cầu nguyện để có sức mạnh chiến đấu và chiến thắng. Vũ khí chắc chắn nhất của con cái sự sáng là cầu nguyện. Cầu nguyện là mặc áo giáp. Xông vào cuộc chiến mà không có áo giáp sẽ dễ bị thương tích và ngã quỵ. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ lai bỏ đời sống cầu nguyện bất cứ trong hoàn cảnh nào và môi trường nào. Ngàu nào chúng ta bỏ cầu nguyện là dấu hiệu chúng ta đang có nguy cơ thua cuộc trong cuộc chiến chống lại ác thần. Hãy mặc lấy chiếc áo giáp cầu nguyện để chuẩn bị tư thế lên đường tiến về Nhà Cha, về quê hương đích thực của mình.
Tâm trạng mong đợi, chờ mong, trông chờ nó diễn tả nỗi lòng của con người hồi hộp, nao nức mong điều gì đó quý báu, điều gì đó mang đến cho con người niềm vui, bình an, hạnh phúc. Chắc có lẽ ai ai trong chúng ta cũng mang trong mình ít nhiều sự mong đợi, lòng ngóng chờ niềm vui, niềm hạnh phúc đến với mình. Nhìn những đứa con, đứa cháu trông đợi cha mẹ chúng đi làm về hay nhất là đợi mẹ cháu đi chợ về chúng ta thấy hay làm sao đó!
Chúng biết rằng mẹ của chúng thương chúng nên hễ đi chợ về là không ít thì nhiều chúng cũng sẽ được bọc xôi, gói chè! Vì thế, hễ mẹ chúng đi chợ là y như rằng chúng cứ chờ, cứ đợi. Nhiều khi chúng ra tận ngoài ngõ để chờ niềm vui từ những gói chè tự tay mẹ chúng mang về cho chúng.
Tương tự thế, nhìn những đứa trẻ đi học mẫu giáo, dù là vui với các cô, các bạn. Ở với các cô, chơi chung với các bạn đồng lứa vui lắm chứ! Nào là được ăn chung, chơi chung, đùa chung nhưng hình như chúng vẫn chưa thoả mãn với tất cả những gì mà cô mà bạn mang lại. Vì sao? Vì tất cả những thứ ấy vẫn không mang lại cho chúng niềm vui, niềm bình an đích thực. Chúng biết rằng thời gian ở với cô, với bạn hay là chơi với cô với bạn chẳng hạnh phúc bằng được ở với cha với mẹ nên rằng cha mẹ chúng là nhất trên đời.
Ở nhà có các cháu nhỏ chúng ta sẽ thấy hình ảnh của chúng buồn cười lắm. Sáng thức dậy là ráng nằm nướng trên giường chưa muốn dậy. Phần lười biếng, phần buồn ngủ nhưng phần lớn chính là không muốn xa ba xa mẹ là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chúng. Chúng phải làm mình làm mẩy để được ở nhà với cha và với mẹ.
Rồi thử một buổi chiều nào đó, chúng ta đến các trường mầm non chúng ta nhìn hình ảnh những đứa trẻ đang đứng ngóng đợi cha mẹ chúng dễ thương làm sao đó. Dẫu chưa biết lúc nào ba mẹ đến nhưng mà cứ đến khi cô bảo mẫu bảo các con hãy thay đồ, rửa mặt là chúng không ai bảo ai đi thay đồ và làm vệ sinh thật là nhanh. Chẳng hiểu sao thật là thiêng liêng, thật là bí nhiệm khi nghe cô bảo mẫu nói như thế chúng làm nhanh thoăn thoắt. Thay đồ xong là chạy vụt ra sân để mà đợi mà chờ. Trong giờ học, các cô có thể bảo các cháu làm gì theo ý cô, theo bài học cô dạy nhưng đến giờ đó cô không thể nào điều khiển cháu được vì lẽ giờ đấy chỉ có một điều cần thôi là chờ ba mong mẹ.
Ngược lại với hình ảnh buổi sáng. Giờ làm sao cho nhanh để được nhìn thấy ba mẹ, để được ba mẹ đón về nên chúng không còn thiết tha với búp bê, với đồ hàng, với đồ chơi, với xe, với cộ nữa nhưng chỉ còn thiết tha sao cho mau gặp ba với mẹ mà thôi.
Nhìn lại lịch sử dân Israel ngày xưa chúng ta thấy rõ tâm trạng chờ đợi như những đứa trẻ vậy.
Do sự phản bội bất trung, họ đã bị bắt đưa đi làm nô lệ bên Babilon. Cuộc sống lưu đày không chỉ ràng buộc họ với những cảnh cùng cực, đói rét, gò bó, mà còn có cả những khe khắt trong cuộc sống tinh thần tôn giáo. Cuộc sống ấy sói mòn tinh thần và thể xác, khiến cho niềm tin vào Thiên Chúa không còn đứng vững, có khác nào như những cánh tay rời rã, bàn chân mỏi mòn.
Chờ Chúa đến nhưng thấy lâu quá để rồ họ đi tìm cho họ đủ thứ các loại thần để mà thờ để mà kính. Lịch sử viết lại cho chúng ta những dòng sử của dân Israel như là bài học lớn cho mỗi người chúng ta. Vì đi theo thần này, thần kia để rồi dân Israel cứ lầm lũi đi trong đêm tối.
Chính trong bối cảnh bi thảm đen tối, Giavê Thiên Chúa đã gửi tiên tri Giêrêmia đến loan báo về ngày giờ Thiên Chúa sẽ ra tay tế độ. Ngài còn mặc khải rõ hơn khi cho biết tin mừng ấy sẽ được khởi sự ngay qua một dòng tộc: Đó là dòng dõi vua Đavit: “Trong những ngày đó và trong thời gian đó, Ta sẽ làm nảy sinh cho Đavit một chồi Công Chính”. Thế là một triều đại mới, một vận hội mới sẽ đem lại đổi thay cho kiếp đoạ đày đen tối của dân Israel. Từ đây, trật tự được tái lập, hạnh phúc sẽ nở ra và mọi người mọi nhà sống trong cảnh hoà bình thịnh vượng vì Đức Vua hiển trị sẽ xét xử chư dân trong sự khôn ngoan và công chính”.
Lời hứa trên đã làm nao nức bao tâm hồn. Thiên Chúa, Đấng luôn trung thành với giao ước đã chẳng thể nuốt lời. Ngài đã cho Con Một Nhập thể làm người để thực hiện những gì đã hứa, nhưng không chỉ cho Israel mà còn cho các dân tộc. Ngài đã làm sống lại và khơi lên niềm tin tưởng khi loan báo cho họ biết rằng: Giờ cứu rỗi, ngày giải thoát đã gần đến rồi. Vì thế, Ngài kêu gọi mọi người hãy biết đọc qua những biến đổi của vũ trụ, qua những thay đổi của tâm hồn, dấu chỉ của ngày cứu độ. Những biến cố như động đất, mất màu, tai ương, ôn dịch, hạn hán cùng với những vật đổi sao dời làm cho lòng người khiếp run kinh hãi. Và còn có biết bao cái ta không mong đợi mà xảy đến: tai nạn, bệnh tật, chết chóc, hiểm hoạ… Tất cả đều có giá trị như là một dấu hiệu, một lời nhắc nhở để ta hướng về ngày giờ của Con Thiên Chúa đang đến.
Chúng ta, nhìn lại chúng ta ngày nay chúng ta thấy hình như chúng ta cũng chẳng khác Israel ngày xưa là mấy. Chúa yêu thương, nâng đỡ, bao bọc, chở che cuộc đời chúng ta như Israel ngày xưa vậy. Thế nhưng mà chúng ta vẫn chưa cảm thấy thoả mãn với tất cả những gì Chúa thương ban cho chúng ta để rồi chúng ta cũng loay hoay mãi trong bóng đêm như dân Israel vậy.
Tiếng kêu ai oán mong đợi Đấng Cứu Thế đến cứu muôn dân được ngôn sứ Isaia thốt lên trong bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe đấy: “Lạy Đức Chúa, Ngài mới là Cha, là Đấng cứu chuộc chúng con: đó là danh Ngài muôn thuở. Lạy Đức Chúa, tạ sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài? Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp Ngài, xin Ngài mau trở lại. Phải cho Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước thánh nhan”. (Is 63, 16b-17.19b).
Vì lòng con người chai đá nên Isaia đã kêu lên với Đức Chúa. Ngày hôm nay, chúng ta cũng gào lên với Chúa là vì tình thương của Chúa, xin Chúa mau trở lại để cứu chúng ta.
Lòng chờ mong, lòng mong đợi ấy chúng ta cũng được nghe Thánh Phaolô nói đến trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô của Ngài: “Chúng ta mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mạc khải vinh quang của Người”.
Và Trong khi chờ đợi, Ngài mời gọi chúng ta hãy sống trong sự tỉnh thức và cầu nguyện như Thánh Maccô thuật lại cho chúng ta trong Tin mừng của Ngài mà chúng ta vừa nghe. Chúa Giêsu, hơn lúc nào hết, Ngài cảnh báo với các môn đệ là phải tỉnh thức luôn luôn. Như những người lính tuần canh, chỉ được gọi là tỉnh thức khi biết luôn đứng với đôi mắt sáng rực nhìn về phía trước. Nói cách khác, như thánh Phaolô khuyên trong thư gửi cho giáo dân thành Thesalonica: Đó là không được để cho lòng trí ra nặng nề và tối tăm, bởi những tiệc chè chén, say sưa, bởi đam mê dục vọng, bởi ảo vọng vật chất. Thay vào đó là phải ra sức thực thi bác ái, yêu thương, mặc lấy một cuộc sống khiêm nhường vì đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa và làm cho người ta nên thánh thiện.
Chúng ta biết rằng cuộc đời của chúng ta nó mong manh, nó mỏng dòn, nó yếu đuối lắm nên cuộc đời muốn được đứng vững để đón nhận ân huệ của Chúa, tình thương và ơn cứu độ của Chúa không còn cách nào khác hơn là phải tỉnh thức, vẫn chờ mong Chúa đến như lính canh mong đợi hừng đông như suối mong đợi nước nguồn vậy.
Nhớ lại những đứa trẻ, những thú vui do các cô, các bạn mang lại vẫn không là niềm vui, niềm hạnh phúc đích thực của chúng được. Chúng ta cũng vậy, những lạc thú trần gian: tiền – tình – danh, những thứ ấy vẫn không thể nào bù đắp, không thể nào lấp đầy nỗi khát khao, niềm hạnh phúc đích thực của chúng ta được.
Mùa Vọng, mùa trông đợi lại về. Mùa Vọng như là thời gian, như là cơ hội thuận tiện để nhắc nhớ mỗi người chúng ta đâu là cùng đích, đâu là niềm vui đích thực của chúng ta. Nếu cùng đích của cuộc đời chúng ta là tiền – là danh – là dục thì chúng ta cứ tiếp tục cắm cúi đi tìm chúng. Còn nếu cùng đích, lẽ sống của cuộc đời chúng ta là Chúa thì còn thời gian, còn cơ hội, chúng ta hãy dùng thời gian, dùng cơ hội thuận tiện để biến đổi cuộc đời, để mà luôn tỉnh thức để đón chờ ánh sáng, đón chờ tình yêu vĩnh cửu đến với chúng ta.
Nguyện xin Emmanuel – Đấng Cứu Độ Duy Nhất đến và ở lại trong cuộc đời mỗi người chúng ta để tâm hồn, để cõi lòng cuộc đời chúng ta luôn bình an giữa biết bao nhiêu biến động, bao nhiêu xáo trộn của cuộc đời.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Bình An)
“Trời cao xin đổ sương xuống. Mây hãy mưa vị cứu tinh. Đất hãy nẩy sinh Đấng cứu đời và không trung biểu dương oai phong Chúa Trời” là nhưng tiếng ca hy vọng, nức nở và ai oán, diển đạt tâm trạng sa lầy của con người. Sa lầy trong cuộc đời khổ ải và gian truân. Sa lầy vì duyên nợ oan nghiệt và tình đời đắng cay. Sa lầy vì tâm cao hơn trời nhưng đam mê và dục vọng đóng khung và đầy đọa con người dưới đất. Sa lầy vì hạnh phúc vụt bay và tiền, tình, tài chỉ là tai họa. Sa lầy vì thân xác héo khô, mỏi mòn và tâm hồn sầu buồn, khắc khoải.
Con người hoàn toàn bất lực trong tiến trình tu thân tích đức. Con người không thể tự giải phóng bản thân khỏi những đam mê, dục vọng và yếu đuối. Con người không thể giải hóa nổi những đố kị, tranh chấp và tị hiềm. Con người vì thế ngước mắt lên trời cao, thét gào ơn cứu độ và xin mưa ơn công chính. Khát vọng nên công chính là nguyên nhân và ý nghĩa của mùa Vọng. Ơn công chính như nước tưới sa mạc khô cằn để cây cỏ xanh tươi và cuộc đời thêm ý nghĩa và đáng sống.
Ngày rước lễ vỡ lòng, bé Thanh xúng xính trong bộ đồng phục thiên thần. Bé vui nhận những món quả sau nghi thức thánh. Bé ôm chặt mẹ và ngây thơ tâm sự ” < I>Mẹ ơi, con muốn chết bây giờ để lên thiên đàng. Con sợ sau này con lớn sẽ có nhiều tội và mất phúc thiên đàng “. Tâm tình đơn thành của em là của mỗi chúng ta. Có lúc chúng ta tươi trẻ và xinh đẹp như thiên thần. Có lúc chúng ta ngã sa và đáng trách như tên quỉ sứ. Lại có những lúc chúng ta hối hả gõ cửa trời và vùng vẫy kêu cứu. Đáng khen! vì đây là dấu hiệu của cuộc chỗi dậy.
Lúc ấy Chúa thân hành đến nâng dậy, vỗ về, thanh tẩy và ban lại niềm vui đã mất. Chúa hành động liên lỉ và mãnh liệt lôi chúng ta ra khỏi vòng kiểm toả của tối tăm. Chúa không vui gì khi nhân loại sống trong sa đọa. Chúa dùng mọi hình thức: dậy dỗ, trách phạt, ngăm đe, những mong cảnh tỉnh và đưa chúng ta ra khỏi bến mê. Có thể khẳng định là Chúa đã dùng mọi phương tiện để ơn cứu độ tuôn tràn vào mỗi cá nhân. Tình trạng sa lầy và dậm chân tại chỗ là do chính chúng ta tạo mãi. Chúng ta xua đuổi và chối từ Chúa. Chúng ta trốn chạy và bịt tai trước những lời kêu mời thân thương và từ ái. Chúng ta đã bỏ lở cơ hội và quay lại tố là Chúa không thương, không giúp.
Trời vẫn ban mưa. CứuTinh vẫn đang mời mọc. Đất tiếp tục sinh hoa kết trái. Chỉ có lòng người khô cằn. Tiên tri Isaia cảnh cáo ” đời ngươi tội lỗi. Chiếc áo dơ bẩn là công quả đời ngươi. Ngươi không cầu cũng không bám vào Chúa. Vậy ơn cứu độ bởi đâu đến?”
Chúng ta phải moi đá lên, thay đất tốt vào và nhận hạt giống tinh tuyền. Mưa rơi, hạt giống chuyển mình và phát triển. Lời Chúa văng giải quá dư. Tiếng Chúa vang dội khắp chốn. Hôm nay Chúa lại đến gõ cửa nhân loại. ” Hãy tỉnh thức vì chủ đến vào lúc người không ngờ”.
Mùa Vọng này chúng ta không mong trời đổ mưa, không cầu mây chuyển Đấng Cứu Độ, không trách đất chưa sinh hoa trái và không phủ nhận vinh quang Chúa nữa. Trái lại chúng ta cầu cho bản thân mình được đứng lên, rướn cao hơn nữa và can đảm bước tới. Vạn sự phải khởi đầu nơi con người yếu đuối và đang sa lầy này. Phản tỉnh là cơ hội và điều kiện để chúng ta kín múc ơn trời, và không lãng phí tình Chúa như những năm trước. Những năm chỉ biết kêu trách và nài xin Chúa bố thí phép lạ nhưng không tích cực cộng tác, thiếu thiện chí thay đổi, chưa can đảm bước tới và không mở lòng đón Chúa.
Chúa trên cao đang giang tay đón chờ. Cửa trời luôn rộng mở. Lời Chúa luôn vang dội. Ơn thánh đang tuôn trào. Bao giờ chúng ta mới tỉnh mộng và sống đúng ý nghĩa mùa Vọng?
Với Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, chúng ta đang bước vào ngày đầu tiên của năm Phụng vụ mới. Vậy trước nhất mỗi người chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mình biết sống trọn năm phụng vụ này, biết tận dụng những ơn lành Chúa ban, từng bước, từng bước theo chân Chúa Giêsu để suy niệm và sống lịch sử cứu độ, lịch sử của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Kế đó, khi nghe Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay, có lẽ chúng ta đang hình dung ngày tận thế, ngày kinh hoàng và chúng ta sợ. Nhưng không sao, Chúa đã bảo: “Chúng con hãy đứng vững và hãy ngẩng đầu lên”.
Bản tính tự nhiên của mọi sinh vật nhất là các động vật, khi gặp hiểm nguy thì trốn tránh, ẩn núp, nằm rạp xuống, thu mình nhỏ lại, muốn mình biến tan đi để những cơn nguy hiểm không động chạm đến mình. Nhưng trong cơn nguy hiểm tột độ của ngày cánh chung đó, Chúa lại bảo: “Hãy đứng thẳng dậy, đừng khom lưng cúi mọp và hãy hiên ngang ngẩng đầu lên”. Tại sao Chúa bảo một điều nghịch lại với bản tính tự nhiên: Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên trong nguy hiểm? Thưa cúi mọp và nằm rạp xuống là vì sợ và khi sợ con người không còn đủ bình tĩnh để xác định vị trí của mình. Không còn đủ sáng suốt để thấy rõ ý nghĩa của việc mình làm để nhận định đâu là phải thi hành và đâu là trái để lánh xa. Và nhất là không còn thấy được tình thương yêu che chở của Thiên Chúa.
Trong các phim nổi tiếng của Hoa Kỳ, “The wise of…” đã trở thành cổ điển và làm say mê khán giả nhỏ cũng như lớn trên 50 năm nay. Vào phần cuối, khi cô bé Dorothy muốn tìm đường về nhà và ba anh chàng người nộm, người sư tử và người kim loại muốn xin cho có khối óc, có quả tim, có sự can đảm, cả bốn đã vào một tòa lâu đài để xin lời chỉ bảo của thần minh. Đến trước bàn thờ thần minh, thấy khói lửa và những tiếng nói vang dội, cả bốn đều thất thanh cúi rạp người xuống và nghe theo, làm theo tiếng phán của thần minh đó. Trong khi đó, con chó Titô đi theo họ không sợ chi cả, bình tĩnh chạy vọng quanh. Và chính nó đã khám phá ra một nhà bác học tinh ma qủy quyệt đang núp bên trong, điều khiển tất cả bộ máy khổng lồ, dọa nạt những ai đến đó và sai khiến họ làm những chuyện “đội đá vá trời”.
Bài học hơi mạnh, con chó không biết sợ mưu mô của người đời, đã tình cờ khám phá ra sự thật. Trong khi những con người vì thiếu khối óc, thiếu con tim, thiếu sự can đảm đã sợ run rẩy, khép nép, cúi rạp người, làm theo chỉ thị của phù thủy qủy quyệt, tinh ma. Đó là cái hại của sợ.
Như đã nói, bản tính tự nhiên của con người là sợ, không ai trách chúng ta điều đó. Nhưng hãy tin tưởng ơn Chúa đủ cho chúng ta: “Hãy đứng vững và hãy ngẩng đầu lên”. Trong Tân Ước, các tông đồ của Chúa cũng đã có kinh nghiệm sợ hãi, nhưng mỗi lần Chúa đều thương giúp bằng cách nhắc đi nhắc lại với các ông: “Thầy đây, đừng sợ”. Nỗi bật nhất là Phêrô, ông có đủ thứ sợ. Trước tiên là sợ chết, sợ liên can tới Chúa, sợ bị làm khó dễ, sợ bị bách hại như Chúa, nên ông đã chối Chúa. Nhưng theo thánh Luca kể: “Chúa Giêsu nhìn Phêrô và ông ra ngoài ăn năn khóc lóc thảm thiết”. Phêrô còn có cái sợ đặc bệt nữa, đó là sợ khi thấy mình yếu lòng, Phêrô sợ hãi phủ phục dưới chân Chúa Giêsu và thưa: “Lạy Thầy, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi”. Nhưng Chúa đã kéo Phêrô đứng dậy, nhìn vào mặt ông, chỉ thẳng vào ông và bảo: “Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ đánh lưới người”. Với tình yêu thương, Chúa đã làm mọi việc ngoài sức tưởng tượng của con người.
Phêrô chối Chúa, Chúa không quở, không la, không phạt. Chỉ nhìn và cái nhìn đó đã diễn tả tất cả lòng yêu thương, tha thứ nên mới xói sâu vào tâm hồn Phêrô, đến nỗi ông ăn năn khó lóc thảm thiết suốt đời và sau đó liều chết vì Thầy. Trước mẻ cá lạ lùng, Phêrô bảo Chúa tránh xa vì ông không đáng ở trước mặt Chúa. Chúa chẳng những không tránh xa mà còn tiến lại gần, ngoài dự đoán của Phêrô, bằng cách chọn Phêrô cộng tác với Người đem con người về Nước Trời, và trên Phêrô, Người đã xây Giáo Hội của Người. Vậy trong mọi nguy hiểm, mọi kinh hoàng, Chúa muốn chúng ta đứng vững và hiên ngang ngẩng đầu lên, vì Chúa biết Người là sức mạnh của chúng ta.
Nhưng muốn đứng vững, muốn luôn ngẩng đầu lên phải có đức tin vững mạnh, phải có niềm hy vọng bao la, phải biết tỉnh thức và cầu nguyện. Tất cả những xác tín đó giúp chúng ta tin tưởng nơi Chúa. Vì dù cho các tầng trời có rung chuyển, biển có gầm sóng, dầu cho mọi người có sợ hãi kinh hồn, thì kìa, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả, Người là Đấng Cứu Thế, Người đến để cứu rỗi thế gian. Và muốn đứng vững trong ngày sau hết, chúng ta phải biết đứng vững ngay từ bây giờ, hiên ngang ngẩng đầu lên trong hiện tại, vì cây nghiêng bên nào thì sẽ ngã bên ấy. Chúa Giêsu đã biết và đã dạy: “Chúng con hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề”. Nặng nề vì tiền của vật chất, giả trá, kéo ghì chúng ta xuống đất. Nặng nề vì một chút đặc quyền đặc lợi, cặn bã của thế gian có thể làm mờ mắt chúng ta, để không còn biết mình đang đứng vững hay đang khòm lưng cúi đầu.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta sống trọn vẹn Mùa Vọng này, như lời Thánh Phaolô nhắn nhủ trong bài đọc thứ hai: “Anh chị em thân mến! Xin Chúa gia tăng và ban cho anh chị em tràn đầy lòng thương yêu nhau và thương yêu tất cả mọi người, để lòng anh chị em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến”.
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Hằng năm mỗi khi mùa Vọng đến thường cho ta cái cảm giác mong chờ. Bốn tuần lễ Mùa Vọng tượng trưng cho bốn ngàn năm dân chúng trong Cựu Ước mong đợi Đấng Cứu Thế. Vì thế mà lịch sử Cựu ước được gọi là câu chuyện đợi chờ.
Bài trích Sách Tiên Tri Isaia hôm nay được viết vào cái thời mà thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy. Để hiểu rõ cái liên hệ của Giê-ru-sa-lem đối với người Do Thái, ta có thể suy ra cái liên hệ giữa Đền Thánh La Mã đối với người Công giáo. Vào cái thời Giê-ru-sa-lem bị phá hủy thì dân chúng nghèo nàn, khổ cực thế nào! Vì thế, cái cơ hội xây dựng lại đất nước của họ thật là mỏng manh. Do đó hầu như họ để cho thất vọng đè bẹp và bao phủ.
Hôm nay Tiên Tri Isaia đã nhắc nhở cho dân chúng ghi nhớ lời Chúa hứa sai Đấng Cứu Thế và rồi dân chúng cũng nuôi dưỡng cái đời sống thiêng liêng của họ bằng niềm hi vọng đó. Trong khi họ mong đợi Đấng Cứu Thế đến, Tiên Tri Isaia cũng nhắc nhở cho họ là Chúa cũng trông đợi họ trở về bởi vì họ đã quên lãng Chúa và đi lạc đường lối.
Qua những bức Thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, Thánh Phao-lô cho ta thấy giáo dân Cô-rin-tô đang trải qua cuộc khủng hoảng trầm trọng. Cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô thời đó bị phân tán bởi phe nhóm, và họ sống trong cảnh vô trật tự. Vì thế Thánh Phao-lô khuyên họ sống trung thành cho đến cùng và đặt niềm hi vọng vào ngày Chúa sẽ đến lần thứ hai. Còn giáo dân La Mã thời bấy giờ cũng đang trải qua cuộc bách đạo. Như vậy ta thấy dân Do Thái trong Cựu Ước mất niềm hi vọng trong việc xây dựng lại đền thờ. Giáo dân thành Cô-rin-tô thời Giáo Hội sơ khai bị chia thành năm bè bảy mối. Giáo dân La Mã thời khởi đầu Giáo Hội bị bách hại.
Còn giáo dân Việt nam hải ngoại sau 1975 đang gặp những khó khăn nào? Phải chăng người giáo dân Việt Nam cũng đang gặp những khó khăn về vật chất, về tinh thần, cũng như đời sống thiêng liêng? Có những người cảm thấy nhớ nhung cái cảnh thân mật dưới mái gia đình, và cái cảnh quen thuộc của khu xóm, làng mạc, phố chợ. Có người cảm thấy luyến tiếc khi thấy con cháu quên lịch sử, quên nói tiếng mẹ. Có người cảm thấy thua thiệt khi thấy khả năng ngôn ngữ của mình bị giới hạn. Có người cảm thấy tủi hổ khi thấy mình già cả, bị con cháu cho qua mặt, không còn được coi là thích hợp và hữu dụng. Có người cảm thấy ưu tư khi thấy những giá trị luân thường đạo lý cổ truyền đã bị quên lãng. Có người cảm thấy mất mát khi thấy gia đình đổ vỡ, nhưng liên hệ giữa ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt đã trở nên lỏng lẻo, xa cách, nếu không là đã bị cắt đứt. Có người cảm thấy lo âu khi thấy việc thực hành đức tin đã trở nên bê trễ.
Đứng trước những hoàn cảnh kó khăn, trắc trở, Tiên Tri Isaia nhắc nhở cho dân Do Thái đặt niềm hi vọng vào Đấng Cứu Thế sẽ đến. Thánh Phao-lô khuyên giáo dân Cô-rin-tô phải trung thành cho đến cùng. Còn Thánh sử Marcô kêu gọi giáo dân La mã phải tỉnh thức chờ đợi. Như vậy, theo lời Tiên Tri Isaia, lời Thánh Phao-lô, lời Thánh sử Marcô, ta cũng phải cố gắng vươn lên để vượt thắng trở ngại, vượt lên trên hoàn cảnh thay vì để cho hoàn cảnh trở ngại đè bẹp. Mỗi người phải đặt cho mình một niềm hi vọng nào đó: hi vọng có bằng cắp, nghề nghiệp, hi vọng co việc làm tốt, hi vọng đời sống cá nhân sẽ thay đổi, hi vọng những liên hệ gia đình cũng như liên hệ với Chúa sẽ trở nên tốt đẹp hơn, hi vọng con cháu sẽ được thành đạt và hạnh phúc.
Mùa Vọng mà Giáo Hội bắt đầu hôm nay là mùa hi vọng. Giáo Hội dùng phụng vụ để khơi dậy trong ta cái ước muốn, để hun đúc tư tưởng của mỗi người cho việc sửa soạn tâm hồn đón mừng Chúa Cứu Thể đến bằng ơn thánh. Hi vọng là lẽ sống của mỗi người. Đối với người công giáo, thì Chúa Giáng Sinh phải là nguồn hi vọng và là lẽ sống của mỗi người.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Theo kinh thánh, Sam-son là vị thủ lãnh có sức mạnh phi thường, trở thành nỗi kinh hoàng cho quân Phi-li-tinh.
Ngày nọ, với hai bàn tay không, Sam-son anh dũng chống cự với một con sư tử gấm và xé xác nó ra khi nó bất thần lao vào tấn công ông.
Có lần bị quân Phi-li-tinh vây chặt, trong tay không một tấc sắt, Sam-son chộp ngay một chiếc xương hàm của con lừa và dùng vật nầy như khí giới chống lại quân thù và quật chết rất nhiều đối thủ dám khiêu khích ông.
Sức mạnh của Sam-son làm cho quân Phi-li-tinh vô cùng khiếp sợ. Khi không thắng được Sam-son bằng sức mạnh, người Phi-li-tinh tìm cách diệt ông bằng mưu kế.
Một chiếc bẫy được giương ra: đó là nàng Đa-li-đa, một thiếu nữ người Phi-li-tinh xinh đẹp và lôi cuốn. Cô nàng đến với Sam-son và chiếm lấy trái tim anh. Đaliđa gạn hỏi Sam-son do đâu mà anh có sức mạnh kinh hồn. Được Sam-son tiết lộ cho biết sức mạnh của anh có liên hệ đến mái tóc, khi nào tóc bị cắt đi thì sức lực anh không còn.
Biết thế, Đa-li-đa lén cắt tóc Sam-son trong khi anh ngủ rồi báo tin cho các thủ lĩnh Phi-li-tinh. Quân Phi-li-tinh xông đến, quật ngã anh, xiềng anh lại bằng những sợi xích đồng, tàn nhẫn khoét luôn cả hai mắt anh và bắt anh ngày ngày kéo cối xay quay như một con trâu ngoan ngoãn.
Một Sam-son vạm vỡ với sức mạnh kinh hồn, một thủ lãnh bách chiến bách thắng từng làm cho quan quân Phi-li-tinh phải kinh hồn táng đởm giờ đây trở thành một tù nhân mù loà, thành một tên nô lệ ngày ngày cúi đầu làm thân trâu ngựa nhẫn nhục thay trâu bò kéo cối xay!
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu! Chỉ vì không sáng suốt tỉnh táo trước mưu độc của quân thù, vì thiếu tỉnh thức nên Sam-son đã sa vào cạm bẫy và lãnh lấy hậu quả vô cùng đau thương.
* * *
Có một thực tế đau lòng là so với các loài các vật khác, thì con người dễ bị hư hỏng suy sụp hơn nhiều. Một ngôi nhà xây dựng sơ sài cũng có thể đứng vững trước giông tố và tồn tại đến cả chục năm. Một con thuyền mong manh ọp ẹp cũng thách thức được với sóng gió suốt nhiều năm tháng dài. Một cái bàn, cái tủ được sử dụng cả năm chục năm chưa hư, mà có khi càng lâu năm thì càng lên nước, càng đẹp và càng đáng quý hơn. Trong khi đó, con người là tạo vật thượng đẳng mà sao lại mỏng dòn, dễ thối, dễ hư đến thế!
Cá thì dễ ươn, thây ma mau thối, con người dễ hư!
Bài học Sam-son tuy đã xưa nhưng cho đến hôm nay vẫn mang tính thời sự vì nó vẫn tiếp diễn trong cuộc đời con người dưới nhiều dạng thức khác nhau. Hằng ngày báo chí và truyền hình thuật lại vô số cảnh đời sa ngã dưới nhiều hình thức: người thì suy sụp vì ma tuý, người thì sa đoạ vì gian dâm, vì men rượu, vì lợi, vì tiền, vì nhiều hình thức truỵ lạc khác…
Mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ngay cả một số những cây cao bóng cả trong xã hội cũng như trong các tôn giáo vì thiếu tỉnh thức nên cũng bị sa ngã, bị lún sâu xuống bùn.
Thế nên người ta thường bảo: “khôn ba năm, dại một giờ”, nhưng không những thế, có khi khôn đến năm mươi năm, bảy mươi năm rồi cũng hoá dại trong một giờ!
Cá thì dễ ươn, thây ma mau thối, con người dễ hư. Thật đáng sợ thay!
Lời Chúa hôm nay nhắc bảo chúng ta: “Anh em hãy tỉnh thức và hãy cầu nguyện luôn!… hãy đề phòng, đừng để cho lòng trí mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em”. Còn thánh Phao-lô thì cảnh báo: “những ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” trong nay mai. (I Cr 10,12)
Tỉnh thức để không đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Con người trở nên cao quý là do phẩm chất cao đẹp của mình. Một người dù nghèo xác nghèo xơ, nhưng có tâm hồn cao thượng, có nhiều phẩm chất cao đẹp… thì vẫn là người có giá trị cao, đáng được mọi người mộ mến. Chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể làm tiêu tan giá trị và phẩm chất cao đẹp của con người.
Mỗi người chúng ta quý giá hơn những viên kim cương đắt giá nhất trần gian, nhưng cũng có thể bị thoái hoá, biến chất, trở thành như một viên sỏi vô giá trị bất cứ lúc nào.
Vì lúc nào con người cũng mê muội và dễ chìm đắm, thế nên lời nhắn nhủ “hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn!… Hãy đề phòng chớ để lòng mình ra nặng nề u tối… là một tiếng chuông cảnh tỉnh luôn luôn cần.
Lạy Chúa, biết đến bao giờ lời Chúa mới cảnh tỉnh được con và lôi con ra khỏi vũng lầy êm ái?
“Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ” (Lc 21, 26). Đây là lời tiên báo của Chúa Giêsu về sự thật ngày cánh chung. Nhưng, hơn 20 thế kỷ đã trôi qua, nhân loại vẫn còn tồn tại. Những câu chuyện về ngày cánh chung của Chúa Giêsu trở thành những câu chuyện cổ tích xa xôi. Nhân loại đang an tâm trong giấc ngủ say của những tư tưởng cánh chung riêng mình. Bởi Thiên Chúa đã chết rồi còn đâu.
Giấc ngủ của người vô thần.
Một chế độ chính trị ổn định, một nền kinh tế phát triển, một hệ thống giáo dục vững mạnh, một gia đình hạnh phúc… là thành công. Đó là quan niệm chung của con người thế kỷ 21 này, hay nói rõ hơn là quan niệm của những người không tin vào thượng Đế. Thế nhưng, đó là sự thành công trong một giấc ngủ say. Một lý tưởng sống rất tầm thường, một thái độ đang chối bỏ sự thật. Người vô thần cho rằng tất cả những gì họ làm là cho con người. Họ cố gắng rất nhiều, nỗ lực rất nhiều. Lẽ ra họ phải được coi là những người tỉnh táo và sáng suốt hơn bất kỳ ai. Tại sao cho rằng họ đang ngủ say? Rõ ràng một người duy trì một chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, gia đình ổn định, là những người có năng lực. Tôi dám khẳng định họ có khả năng lên kế hoạch, dự phóng rất tốt về tương lai trong 5 năm hay 10 năm. Tôi biết rõ họ chuẩn bị cho những kế hoạch đó rất kỹ lưỡng, chu đáo. Tôi tin rằng họ sẽ thành công. Thế nhưng, một biến cố bất ngờ về sự ra đi ngày mai của họ. Một sự thật mà họ không tin, không muốn nghĩ đến. Và giả có nghĩ đến thì cũng không dự đoán được. Vậy đương nhiên là không có chuẩn bị gì cho ngày thế mạt đó. Đó phải chăng là một giấc ngủ say của cuộc đời?
Giấc ngủ của Kitô hữu.
Kitô hữu biết Chúa tử thuở nhỏ, tin Chúa từ khi lọt lòng mẹ qua niềm tin của Giáo Hội. Hiểu rõ về biến cố cánh cung có thật trong cuộc đời mình. Nên ta nghĩ rằng mình đang tỉnh thức trong cơn ngủ say của nhân loại. Ta đã lầm. Sự thật Kitô hữu cũng đang ngủ say. Ngủ trước sự quang lâm từng ngày của Thiên Chúa và ngủ bên những nhu cầu của tha nhân. Phụng vụ Kitô giáo kêu gọi tín hữu hướng về sự quang lâm của Chúa đặc biệt qua phụng vụ mùa vọng. Mừng Chúa đến lần thứ nhất và trông đợi Chúa đến lần thư hai. Chúng ta an vị trong những cử hành phụng vụ của Hội Thánh mà quên rằn Chúa đã quang lâm hằng ngày, từng giờ, từng phút trong cuộc đời ta. Chưa nhận ra Chúa Kitô đến trong cuộc đời mình thì mãi mãi ta sẽ sống trong thái độ mỏi mòn chờ Chúa. Nhận ra Đức Kitô đến với chúng ta từng ngày sẽ làm đôi mắt tỉnh ngủ với tha nhân. Ta sẽ có những thao thức của đức ái và hành động theo những đòi hỏi của con tim. Thái độ cơ bản của tỉnh thức là hướng đến việc nhận ra Đức Kitô đến từng giây phút trong đức tin và bản thân đến với tha nhân từng ngày trong đức ái.
Chúa nhật I mùa vọng Chúa Giêsu mời gọi ta tỉnnh thức. Ở đây Ngài không phân biệt đối tượng là vô thần hay hữu thần. Tất cả những ai trong trạng thái ngủ say đều được mời gọi: “Đừng chè chén say sưa”. Những ai biết dừng lại, biết sửa say đều đón nhận được ơn cứu độ.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Năm mới theo dương lịch, bắt đầu vào ngày 1 tháng Một mỗi năm. Năm mới theo âm lịch, bắt đầu vào ngày 1 thánh Giêng. Năm mới theo phụng vụ, bắt đầu vào ngày Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng. Mừng lễ Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng là chúng ta bước vào một năm phụng vụ mới.. Như vậy, Mùa Vọng là mùa xuân của năm phụng vụ, từ đó phát sinh hy vọng. Trong mùa xuân, cây cối trổ sinh lộc non lá mới, bắt đầu kết nụ đơm hoa chuẩn bị cho một mùa thu hoạch mới. Và như thế mùa xuân cũng là mùa hy vọng, đó là thời gian trông chờ, mong đợi.
Đối với niềm tin của chúng ta, Mùa Vọng thực sự là mùa trông chờ, mong đợi. Lòng trông đợi mỗi lúc một rộn ràng hơn khi càng gần lễ Giáng Sinh; đồng thời mang nhiều sắc thái và mức độ khác nhau tùy tâm trạng mỗi người: người ta đợi Nô-en như một dịp để ăn chơi, để giao thiệp; đợi Nô-en như một cơ hội “nhất cử lưỡng tiện”: tiễn năm cũ và đón chờ năm mới may mắn, phát đạt hơn như phần đông tín hữu các nước theo dương lịch. Hoặc đợi Nô-en theo đúng tinh thần Tin mừng là đón Đấng Cứu Tinh nhân loại. Còn chúng ta, chúng ta mong đợi gì? Niềm trông đợi của chúng ta có ý nghĩa nào?
Chúng ta có thể trả lời: Chúng ta mong đợi Chúa đến. Ý nghĩa “Chúa đến” thường được hiểu ba cách: – Chúa đến trong lịch sử nhân loại – Chúa đến trong ngày thẩm phán chung hoặc riêng – Chúa đến trong tâm hồn mỗi người. Nhiều lúc chúng ta có khuynh hướng coi cả ba ý nghĩa này đều xa lạ với tư tưởng mong đợi. Thực vậy, trong lịch sử, Chúa đã đến từ hai ngàn năm và hiện giờ chúng ta đã kỷ niệm ngày sinh của Chúa từng mấy chục lần trong đời sống rồi. Còn trong ngày chung thẩm, trong cái chết của mỗi người thì sao? Dĩ nhiên Chúa đến, nhưng chẳng lẽ cứ ngồi mà lo sợ chờ chết ư? Cũng phải tạm quên cái chết để vật lộn với cuộc sống chứ? Còn Chúa đến trong cuộc sống mỗi người, thì ngày nào chúng ta chẳng đón Chúa trong kinh lễ, trong giờ cầu nguyện sớm tối? Thế thì chúng ta mong đợi cái gì nữa?
Giáo Hội dạy chúng ta vẫn phải mong đợi. Và hàng năm Giáo Hội tổ chức Mùa Vọng, không phải chỉ cốt để chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, không phải chỉ dạy chúng ta gây dựng tâm tình mong đợi trong mùa đó, nhưng Giáo Hội muốn nhân không khí Giáng Sinh dạy chúng ta phải có tâm tình mong đợi thường xuyên, phải mong đợi Chúa hàng ngày: Chúng ta mong đợi Chúa trong ngày chúng ta từ giã cuộc sống để về với Chúa. Đó cũng là một biến cố đích thực và có ý nghĩa.
Kinh Thánh và giáo lý dạy cho chúng ta biết: mỗi người có hai kiếp được sống và phải sống: một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu; một đời sống hiện tại và một đời sống tương lai; một đời sống hành hương và một đời sống quê thật; một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết duy có một lần, đó là lần bái yết Chúa đầu tiên và duy nhất. Đành rằng có một ít người được ơn lạ chết đi sống lại hai lần, như La-da-rô hay con trai bà góa thành Na-im hay một vài trường hợp nào đó, nhưng hầu hết nhân loại chỉ chết có một lần, vì kiếp sống tạm bợ ở trần gian chỉ diễn ra có một lần.
Sự chết xảy tới với mỗi người được Kinh Thánh gọi là Chúa đến. Và việc Chúa đến này thường xảy ra bất ngờ, bí mật. Thiên Chúa muốn giữ bí mật như vậy để chúng ta luôn luôn sẵn sàng, và do đó luôn cố gắng sống tốt lành thánh thiện. Chẳng hạn như trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô thuật lại dụ ngôn về đầy tớ phải canh thức đợi chủ về: “Anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến”. Còn thánh Mát-thêu thì nói rõ: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến”. Trong cả hai trường hợp, ý nghĩa đều rõ ràng là Chúa Giêsu nói về chính mình Ngài.
Chính vì yếu tố bất ngờ đó mà Chúa dạy chúng ta phải luôn canh thức và sẵn sàng. Bởi vì cuộc đời con người đem so sánh với thời gian đã là một cái gì tạm bợ. Nhưng nếu đem so sánh với sự sống vĩnh cửu, thì nó càng mong manh hơn biết bao. Người ta đã từng ví von: đời người như hơi nước dễ tan, như hơi thở qua mau, như cánh chim lưng trời mất hút, như bông hoa sớm nở chiều tàn. Cuộc đời không những phù du mà còn kèm theo tính cách bất ngờ nữa: không ai biết khi nào mình từ biệt cõi đời, như kinh nghiệm vẫn minh chứng và Kinh Thánh đã nói tới từ khi có con người.
Nhìn chung lại, đoạn Tin mừng này nêu chủ đề: Chúa sẽ đến, nhưng chúng ta không biết ngày nào, vậy phải canh thức để được sẵn sàng đón Ngài khi Ngài đến. Canh thức sẵn sàng như người đầy tớ hoàn thành nhiệm vụ được trao phó, như các trinh nữ khôn ngoan cầm đèn đi đón chàng rể, như người được trao vốn đem kinh doanh sinh lời lãi, và cuối cùng bằng đời sống yêu thương phục vụ. Đó là cách thế chờ đợi Chúa đến.
Mùa Vọng là mùa trông đợi. Trông đợi Chúa đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Nhưng cũng là trông đợi giây phút cuối cùng của mỗi người khi ra đi gặp Chúa. Chúng ta đã chuẩn bị hành trang gì cho giây phút gặp gở ấy và có canh thức sẵn sàng chu toàn bổn phận mà Chúa trao cho hay không, để ngày Chúa đến là một niềm vui chứ không phải nỗi buồn, và chúng ta gặp Thiên Chúa tình yêu chứ không phải Thiên Chúa phán xét. Chúng ta canh thức mong chờ Chúa thế nào thì Chúa sẽ đến với chúng ta như vậy. Cho nên, chúng ta phải luôn sống trong tư thế sẵn sàng đón Chúa.
Người Việt Nam có câu “nước tới chân mới nhảy” thì quá trễ. Người Miền Trung và cao nguyên trung phần Việt Nam đã quá thấm thía câu nói này qua cơn lũ lịch sử vào ngày 11 tháng 10 vừa qua. Bất ngờ đột ngột giông bão và cơn lũ đổ về đã khiến cho hàng trăm người thiệt mạng, hàng ngàn ngôi nhà bị xóa sổ, thậm chí cả một xóm Trường ở Phú Yên bị xóa sổ hoàn toàn. Cuộc đời có qúa nhiều cái đột ngột bất ngờ đã lấy đi biết bao tính mạng của con người. Bất ngờ xảy ra đối với con người trong mọi hoàn cảnh như: tai nạn giao thông, tai nạn nghề nghiệp, tai nạn bởi thiên tai. Với biết bao cái chết đột ngột, bất ngờ khiến chúng ta cảm thấy cuộc đời thật mong manh, kiếp người sao quá mỏng dòn. Cuộc đời đến rồi đi dường như không theo tính toán của con người. Con người dường như bất lực trước định mệnh sống còn của cá nhân mình.
Người ta kể rằng: Có một tai nạn máy bay đã xảy ra và trong đám hành khách bị thiệt mạng, người ta tìm thấy một anh chàng văn sĩ. Anh chàng văn sĩ này, trước đó mấy tiếng đồng hồ, đã ba hoa hăng say nói với một người bạn tại phi trường Rôma về những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật. Anh chàng văn sĩ ấy nói: “Này bạn, bạn thấy trí óc con người tuyệt diệu đấy chứ… Sáng nay, tôi đã uống cà phê tại Bá Linh. Bây giờ là buổi trưa, tôi với bạn dùng cơm tại Rôma. Và tối nay, tôi sẽ đi nghe nhạc tại Paris”. Nhưng sự thật đã xảy ra khác hẳn. Tối nay chàng văn sĩ ấy đã xuất hiện trước tòa án tối cao của Thiên Chúa, thay vì đi nghe nhạc tại một nhà hàng nổi tiếng của Paris.
Nhìn vào những gì đang diễn ra chúng ta thấy rằng: trên thế gian này chẳng có gì an toàn, chẳng có gì trường cửu. Tất cả đều mong manh, kể cả kiếp người cũng mong manh như loài hoa trước gió, đến độ “một cơn gió thoảng cũng làm nó biến đi. Nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích”.
Hôm nay, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức đừng để “lòng mình ra nặng nề vi chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy đến như một chiếc lưỡi bất thần chụp xuống đầu anh em”. Vì thế, sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức vì ngày cuối cùng đời người chúng ta sẽ đến. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình.
Ngày xưa có một ông cụ già tên là Lót, ông cố cứu kinh thành Sô-đô-ma khỏi bị Chúa tiêu diệt bằng cách mỗi ngày đi gặp người dân trong thành để cảnh cáo và kêu gọi mọi người tin Chúa, thờ Chúa cho khỏi bị tiêu diệt. Không ai chịu nghe lời ông cụ mà còn chế diễu là mê tín dị đoan nữa. Ông cụ vẫn bền chí đi hết nhà này sang nhà nọ để kêu gọi họ thống hối ăn năn. Thấy chuyện vô tích sự của cụ, nên có người hỏi:
– Tại sao cụ nói cho họ biết làm gì cho mệt. Họ có nghe cụ và thay đổi gì đâu? Nói với họ cũng như nước đổ đầu vịt!
Ông cụ bình tĩnh đáp:
– Có lẽ tôi không thuyết phục nổi ai, cũng không thay đổi được ai đâu. Nhưng làm như thế cũng là giúp tôi, đừng lao vào cuộc sống sa đoạ như họ.
Thái độ của ông Lót phải chăng cũng là thái độ cần có của người ky-tô hữu chúng ta. Bởi lẽ, trong thế giới ngày nay, tình trạng sa đoạ và trụy lạc ngày càng nhiều và lan rộng, đến độ người ta cho rằng phải sống đồi trụy mới là tiến bộ. Chẳng hạn như: quan hệ trước hôn nhân, đồng tính luyến ái, ngoại tình, phá thai và các sách báo, phim, băng hình đồi trụy mỗi ngày đều gia tăng, mặc dù cơn đại dịch Sida, Aid đã tiêu diệt hàng trăm ngàn người mỗi năm, thế nhưng nhiều người vẫn nhắm mắt làm ngơ, vẫn lao vào cuộc sống hưởng thụ, sa đoạ, bất chấp lề luật, bất chấp tai họa. Cuộc sống sa đoạ đến mức Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã than thở rằng: “cái đáng buồn của thế giới ngày này, đó chính là mất ý thức về tội, người ta không còn nghĩ đến tội phúc, và cũng chẳng cần nghĩ đến danh dự của phẩm giá con người, người ta chỉ cần thoả mãn nhu cầu dục vọng của mình đến độ bất chấp cả lề luật mà Thượng Đế đã an bài”.
Là người tin Chúa sống trong xã hội băng hoại, ta cần cẩn thận. Phải nói về Chúa cho đồng bào mình vì nếu không, chính chúng ta sẽ thay đổi theo chiều đồi trụy. Đó chính là phương cách bảo vệ niềm tin Chúa và đưa người khác đến với Chúa. Nếu không làm như vậy, không mấy lúc mà ta sẽ thay đổi theo với xu hướng tục hoá của xã hội, chứ không phải xã hội chung quanh thay đổi vì ta.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi trung luôn cầm đèn dẫn dắt anh em đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen.
Có ba xác chết đều có bộ mặt đang mỉm cười được đặt tại Trung tâm điều tra hình sự. Ông quản lý đang trả lời nhà báo về nguyên nhân của những cái chết.
– Đây là ông A. Ông ta chết ngay sau khi biết tin mình trúng xổ số 10 tờ độc đắc.
Ông ta bước đến xác thứ hai:
– Đây là Bo. Ông ta chết khi nghe tin toà án cho ly dị vợ mà không phải chia gia sản được hưởng toàn bộ.
Đến cái xác thứ ba:
– Đây là Tom. Ông ta chết vì bị sét đánh.
– Hai người trước thì có thể hiểu được nụ cười, còn ông này cười cái gì?
– Ồ, ông này say rượu, khi thấy tia sáng của sét đánh xuống mà ông ta cứ ngỡ mình đang được chụp hình nên vẫn cứ cười!
Chết có muôn ngàn kiểu. Vui quá cũng chết. Buồn quá cũng chết. Không hẳn già mới chết mà có khi mới sinh cũng chết. Không hẳn bệnh mới chết mà có khi đang khỏe mạnh cũng lăn ra chết. Chết cũng không quy định nơi chốn. Có người chết ở nhà và cũng có người chết đang đi đường. Có người đang nằm viện nhưng cũng có người đang trên công trường. Nơi chốn và cách thức chết xem ra chẳng có một quy định nào dành cho con người.
Thế nhưng, có một điều chung cho con người là ai cũng phải chết. Cái chết là quy luật tất yếu của đời người. Sinh – lão – bệnh – tử. Có người còn cho rằng con người sinh ra để tiến về cái chết. Mỗi một ngày sống là tiến về cái chết gần hơn.
Hôm nay, Chúa Giê-su còn nói đến ngày cánh chung của toàn thể nhân loại và vũ trụ. Vũ trụ có khởi đầu thì cũng có ngày kết thúc. Sự sống con người tồn tại trong vũ trụ cũng kết thúc cùng với ngày cánh chung của vũ trụ. Ngày ấy sẽ đến với những dấu chỉ kinh thiên động địa. Ngày ấy sẽ san bằng mọi công trình do con người làm ra. Ngày ấy sẽ san bằng mọi giai cấp, chủng tộc. Ngày ấy là sự kết thúc cuộc sống hữu hình để bước qua một trang sử mới trong sự sống siêu nhiên. Con người sẽ bước qua một cuộc sống thần linh. Sự sống của linh hồn bất diệt. Sự sống đời đời ấy với hai thái cực. Một là sống lại để hưởng hạnh phúc đời đời bên Chúa. Hai là sống lại để bị trầm luân hỏa ngục đời đời.
Song le, thưởng hay phạt đều tùy thuộc vào cách sống của chúng ta hôm nay. Chúng ta biết đi con đường hẹp, con đường hy sinh từ bỏ những niềm vui bất chính, những thú vui tội lỗi để sống có trách nhiệm với bổn phận thì đời sau sẽ là thiên đàng, là hạnh phúc viên mãn. Ngược lại, sẽ chịu hình phạt đời đời khi ta cố tình sống buông thả tội lỗi, sống thiếu trách nhiệm và gây đau khổ cho tha nhân.
Thế nên, hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức đừng để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời mà hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Hãy sống công chính trước mặt Chúa. Sống trong ơn nghĩa của Ngài. Sống trung thành với giáo huấn của Ngài. Sống tự chủ bản thân mình đừng chiều theo tính xác thịt mà làm trái với luân thường đạo lý.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức thân phận mỏng dòn của mình để trông cậy vào ơn Chúa. Xin cho chúng ta đừng bao giờ sa ngã trong những đam mê tội lỗi nhưng luôn sống trong ơn nghĩa Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người Việt Nam có câu “khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”. Câu này phải là lời cảnh tỉnh cho thái độ sống của chúng ta. “Hãy biết mình, biết người thì mới mong được sống”. Thực vậy, giữa cuộc đời hôm nay đang cạn kiệt chân lý và sự thật thì làm sao dám tin người, tin đời? Thử hỏi, có gì đáng để chúng ta tin ở xã hội hôm nay? Niềm tin đã bị đánh mất bởi biết bao trò gian dối trong nhiều hoạt động từ truyền thông cho tới giáo dục đều đầy dãy trò lừa bịp, gian lận? Thử hỏi có gì đáng tin khi mà người ta đề cao đồng tiền đến mức độ đang tâm lại hại người khác như hàng loạt các đồ dùng giả và kém chất lượng đang bầy bán trên thị trường? Điển hình trong các vụ nổi cộm như: chuyện kem đánh răng giả, đồ chơi trẻ em có chất độc làm hại sức khoẻ trẻ em, chuyện bánh bao nhân làm bằng giấy cạc tông. Rồi đến chuyện kẹo trộn bột đá bán ra hàng tấn. Đáng ghê sợ là vụ sữa sữa Tam Lộc của Trung Quốc làm chết 3 trẻ em và bịnh 6.200 em khác ở Trung Quốc. Đó là một xì căn đan, một cú sốc toàn xã hội mà chúng ta đang phải gánh chịu. Theo dõi tình tiết nội vụ, người dễ tính nhứt cũng phải buộc miệng kêu lên. Mấy người sản xuất và buôn bán sao mà ác quá vậy, trẻ em có làm chi nên tội, sao nỡ vì tiền mà giết hại trẻ em!
Đó là những chuyện gián tiếp hại người, còn trực tiếp vẫn đầy dãy sự tráo trở, gian manh, mất tính người đang diễn ra hằng ngày trong cuộc sống chúng ta. Trớ trêu thay niềm tin đã bị đánh mất giữa người với người ngay tại gia đình, ngay giữa những người ruột thịt vẫn còn đó sự rạn nứt của lòng tin. Ngày 10.11.2008 đài truyền hình Việt Nam chiếu cảnh một người con tên Diệu đã đánh mẹ già 85 tuổi. Hình ảnh này đã gây sốc cho nhiều người xem tivi. Thử hỏi trên đời còn hành vi nào côn đồ cho bằng con đánh cha mẹ? Thế mà xã hội chúng ta vẫn đầy dãy những hành vi bất hiếu tương tự như thế! Cứ ngồi bình tâm kiểm chứng lại mà xem, bây giờ có mấy ai kính cẩn dạ thưa với cha mẹ? Hay lúc nào cũng xẵng giọng như người ngang hàng, thậm chí như kẻ bề trên? Cứ nhìn xung quanh mình mà xem, có mấy người biết thương yêu cha mẹ mình thật sự; thương yêu vô điều kiện, không phải vì bổn phận, như lời thiền sư Thích Nhất Hạnh từng nói: “Thương mẹ không phải là một bổn phận. Thương mẹ là một cái gì đó rất tự nhiên, như khát thì uống. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ”.
Con đối xử với cha mẹ đã vậy, nhưng chúng ta cũng không thể không nói đến những hành vi dã man mất tính người mà các bậc cha mẹ giáng xuống trên con cái của mình. Cụ thể là việc phá thai. Ai cũng biết phá thai là trọng tội. Ai cũng biết “cọp không ăn thịt con”. Thế nhưng, ở Việt Nam mỗi năm có đến gần 2 triệu bà mẹ đem con đến lò sát sinh. Rồi còn biết bao hành vi gian ác mà các bà mẹ đang đang tâm hành hạ những người con. Mới đây người ta không khỏi bùi ngùi khi người mẹ ở Pleiku ra giá bán con với giá 20 triệu đồng, trước đó bà đã đánh đập con bằng roi, bằng lưỡi lam cho bầm dập khắp thân mình.
Đó là một quang cảnh xã hội xem ra đang mất dần tính người để cho thú tính lộng hành. Làm sao chúng ta có thể có niềm tin nơi nhau khi mà xã hội đầy dãy sự lừa đảo, lưu manh, gian ác đang len lỏi vào từng gia đình, từng đoàn thể, và xã hội? Sống giữa xã hội hôm nay kẻ khôn ngoan phải tỉnh thức đề phòng kẻo thiệt thân mình, mà ân hận cả đời nếu quá tin người. Sống trong xã hội hôm nay chúng ta chớ có quá tin người kẻo thiệt vào thân. Hãy tỉnh thức để chúng ta không bị người khác lợi dụng, hãm hại. Hãy tỉnh thức để chính chúng ta đừng để cho thú tính nổi loạn khiến chúng ta không tự chủ bản thân, dẫn dến hành động đánh mất tính người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức trước thái độ sống của mình. Chúng ta phải trả lẽ trước mặt Chúa về hành vi của chúng ta, về sự liên đới trách nhiệm của chúng ta với tha nhân. Thiên Chúa như một ông chủ đi phương xa trao cho chúng ta quản lý cuộc đời nhưng không phải theo ý mình mà là theo ý Thiên Chúa. Thiên Chúa còn trao ban cho chúng ta quản lý ngôi nhà vũ trụ để làm sao cho mọi người trong ngôi nhà này đều có quyền hưởng an bình thịnh vượng. Vì thế, chúng ta không có quyền vì sự an nhàn của mình, vì mạng sống, vì danh dự, vì quyền lợi của mình để rồi đầy đoạ hay loại trừ người khác. Chúng ta không có quyền vì hạnh phúc bản thân mình mà hành động thiếu công bằng bác ái với tha nhân. Chúng ta càng không có quyền lỗi công bình, bác ái chỉ vỉ thói tham lam giả hình của mình. Chúa sẽ đòi lại công bình. Chúa sẽ đến để lập lại trật tự đã bị đảo lộn bởi tội lỗi, để hàn gắn lại những đổ vỡ do tội lỗi gây ra. Chúa bảo chúng ta đừng mê ngủ trong đam mê lầm lạc, trong ảo ảnh của trần gian. Hãy tỉnh thức để sống đúng với phẩm giá con người là “nhân chi sơ tính bản thiện”. Hãy tỉnh thức để vượt ra ngoài những thói đời tội lỗi. Hãy tỉnh thức để sống theo luân thường đạo lý, theo đường ngay chính của chân, thiện, mỹ. Hãy tỉnh thức để chúng ta luôn hành động như con cái sự sáng để nhờ đó, giờ Chúa đến chúng ta tràn ngập hân hoan vì luôn trung thành sống cho Chúa.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để chúng ta sống nghiêm túc trong lời nói, việc làm của mình luôn đi theo lề luật của Chúa, hầu xứng đáng là người quản lý trung thành và tận tuỵ của Chúa.
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương – Kỷ niệm bảy năm, ngày chịu chức linh mục, Rôma 30.11.2008)
Với Chúa nhật này chúng ta bắt đầu Mùa Vọng, khởi đầu năm phụng mới, thời gian của lời mời gọi tâm linh, của niềm vui, hy vọng và sự chờ đợi thiêng liêng.
Dân Chúa sống lại một hoạt động kép của tinh thần: một đàng, hướng cái nhìn về mục đích tối hậu của cuộc lữ hành đời mình trong lịch sử, đó là sự trở lại vinh hiển của Chúa Kitô; đàng khác, tưởng nhớ với những cảm xúc thánh thiêng sự sinh ra của Người tại Bethlem, nơi Con Thiên Chúa đã sinh hạ từ Đức Trinh Nữ Maria (x. Gal 4,4).
Trong viễn cảnh đó, Lời Chúa tới sự Tĩnh Thức nhiều lần: “Anh Em nãy tĩnh thức bởi vì anh em không biết giờ nào” (Mc 13,23).
Vậy thì Tĩnh Thức có nghĩa là gì? Tĩnh thức để làm gì và Tĩnh thức cho ai?
Theo nghĩa đen, thì tĩnh thức có nghĩa là tĩnh táo, là không có ngủ. Theo nghĩa kinh thánh, thì từ tĩnh thức có một ý nghĩa rất sâu và mang tính biểu tượng (simbolico). Nó diễn tả một thái độ sống nền tảng, một cách sống của người Kitô hữu. Đó là thái độ nhạy bén, dễ bảo và sẵn sàng, như những tôi tớ trung thành luôn chờ đợi chủ trở về bất thình lình (cf. Mc 13,24). Đó là hướng tâm hồn mình về một điều gì, hơn thế nữa, với một Người: với Thiên Chúa và với anh em.
Trái với thái độ sống đó là sự ngu mê, nghĩa là, người tự cuốn mình trong cái tôi ích kỷ của mình, không còn cặp mắt để nhìn đời và đọc ra nhưng dấu chỉ của thời đại, của cuộc sống, không có khả năng đón nhận quà tặng của cuộc sống vốn là món quá qúi báu đến từ Thiên Chúa qua mỗi ngày sống của mình.
Người sống tĩnh thức là người nhạy bén (sensibile) với sự hiện diện của Thiên Chúa, với tiếng của Người và với các giá trị của Tin mừng. Người biết đọc cuộc sống, và nhận ra khôn mặt của Thiên Chúa với câu hỏi từ đáy lòng: Lạy Chúa, Ngài ở đâu? Con tìm Ngài. Đó là người có khă năng để học từ mọi nơi mọi lúc, từ bất cứ ai và hoàn cảnh nào, kể cả từ những khủng hoảng và thất bại của đời mình, để lớn lên, và trưởng thành không ngừng.
Người sống tĩnh là người rất “dễ bảo” (docile) và biết vâng lời Chúa Thánh Thần, Đấng ở trong chúng ta còn mật thiết hơn chúng ta và hướng dẫn chúng ta từ đáy con tim của lòng ta. Trong tiếng Latin gọi là “docibilitas”, nghĩa là người biết nghe và vâng phục Thánh Thần, người để cho Chúa Thánh Thần biến đổi mình, làm cho mình được giàu có khi trở nên giống Đức Kitô (bài đọc II), trở thành Con Thiên Chúa, khi mặc lấy những tâm tư và tình cảm của Đức Giêsu Kitô đối với Chúa Cha và đối với Anh Em. Đó là thái độ của Đức Maria, người nữ đầy Thánh Thần. Chúng ta hãy học từ Mẹ, để cho Đức Kitô được “nhập thể” trong lòng và trong cuộc đời chúng ta nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chính vì thế, Mùa Vọng cũng được gọi là thời gian của Chúa Thánh Thần.
Cuối cùng, người sống tĩnh thức là người sẵn sàng (disponibile) với thánh ý Thiên Chúa và quảng đại giúp đỡ anh em mình trong mọi lúc và mọi hoàn cảnh mà không có đòi hỏi điều kiện. Người luôn biết sẵn sàng phục vụ người khác như người lính gác canh đêm (Mc 13,34), như những trinh nữ với đèn sáng trong tay, náo nức và hân hoan chờ chàng Rễ tới (Lc
Nhưng tắt một lời, ai yêu thì cũng biết sống tĩnh thức, ngay cả lúc còn đang ngủ! Điều này được diễn tả rất hình ảnh trong sách Diệu Ca: “Trên giường ngủ, suốt đêm trường, tôi đã tìm chàng, hỡi người yêu dấu của lòng tôi, tôi đã tìm chàng, nhưng tôi không gặp chàng” (Ct 3,1-2); hay như Thánh Thi nói: “Dầu mắt ngủ nhưng lòng vẫn thức, vẫn tin yêu một mực chân tình”.
Như thế, Mùa vọng mà chúng ta bắt đầu hôm nay không chỉ là một thời gian của sự trở về cách thụ động, nhưng trở thành một thời gian quí báu mà trong đó, chúng ta khám phá lại vẽ đẹp làm người kitô hữu và tính xác thực của đức tin mình. Chúng ta hãy mỡ ra với sự mới mẽ và vẽ đẹp của Thiên Chúa trong Đức Kitô, Đấng vừa mạc khải Thiên Chúa nhưng cũng vừa con người là ai (LG 22) và chúng ta đến với Người, bởi vì lý do đó mà Ngài đã nhập thể vì chúng ta. Amen.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội hoàn vũ, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới theo chu kỳ Năm C. Mùa Vọng có hai đặc tính: vừa là mùa chuẩn bị mừng lễ trọng giáng Sinh, trong lễ này, kính nhớ việc Con thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người; vừa là mùa mà qua việc kính nhớ này, các tín hữu hướng lòng trông đợi Chúa kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Vì hai lý do này, mùa vọng được coi như mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi (trích AC 39).
Mùa vọng là mùa trông đợi, ai đã từng trông đợi thì đều cảm nghiệm được sự bồn chồn lo lắng, hồi hộp pha lẫn niềm vui của đợi chờ: như em bé đợi mẹ đi chợ về, như học trò chờ đợi kết quả sau những ngày chăm chỉ học tập, như người công nhân trông đợi ngày cuối tháng để lảnh lương, như người nông dân chờ đợi mùa thu hoạch đến, như người yêu đợi người tình, như ruộng khô hạn trông mưa….tất cả đều chờ đợi một tương lai đổi mới với những điều tốt đẹp hơn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta thấy một viễn cảnh tương lai ngày Con Người đến trong vinh quang, Ngài mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức và đợi chờ, trong lúc đợi chờ ngày trọng đại ấy đến thì sẽ có nhiều điềm thiêng dấu lạ xuất hiện trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao, nhân loại sẽ lo âu và sợ hãi ngày ấy đến.
Dấu hiệu của thời đại ngày càng rõ rệt hơn, ứng nghiệm với lời cảnh báo của Chúa Giêu trong bài tin mừng hôm nay, dấu hiệu mà nhân loại có thể thấy được, sờ được, đó chính là chiến tranh, đói khát và ôn dịch, động đất, sóng thần, bệnh tật, HIV/AIDS, H5N1,H1N1,… với dấu hiệu ấy, người Kitô hữu chỉ có một thái độ duy nhất là ngẫng đầu lên vì ơn cứu độ đã đến. Nhưng thực ra, ơn cứu độ đã đến hơn hai ngàn năm nay rồi, và thời viên mãn của nó cũng đang đến gần khi những điềm thiêng dấu lạ mà Chúa Giêsu đã loan báo đã và đang xảy đến. Người Kitô hữu là những người nhạy bén nhất trước những hiện tượng xảy ra của thời đại, bởi vì hằng ngày họ đều được nghe và suy gẫm lời dạy của Chúa Giêsu, và vì thế họ từng giây từng phút tỉnh thức và chuẩn bị ngày quang lâm của Ngài.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tỉnh thức và cầu nguyện, tức là Ngài muốn chúng ta phải sẵn sàng luôn trong mọi hoàn cảnh và tình huống, bởi vì:
– Có những người tỉnh thức nhưng không đề phòng, đó là những người ăn thua đủ bên canh bạc thâu đêm.
– Có người tỉnh thức nhưng không đề phòng, đó là những người đang say đắm trong đam mê xác thịt, thân xác thì thức để chờ đợi cơn khát vọng của nhục dục, nhưng tâm hồn thì đã ngủ mê trong tội lỗi.
– Có người tỉnh thức nhưng không đề phòng cảnh giác, đó là những người kiêu ngạo, họ tỉnh thức trong kiến thức hạn hẹp của mình khi ai đó phê bình góp ý cho việc làm của mình, nhưng tâm hồn thì đã thoả mãn trong sự đắc thắng của mình…
Người Kitô hữu không thức tỉnh để ăn thua với canh bạc, vì đó là chuyện của con cái tối tăm; người Kitô hữu cũng không tỉnh thức để chờ đợi cuộc nhậu thâu đêm. Nhưng người Kitô hữu tỉnh thức để chờ đợi ngày sum họp với Chúa Giêsu, Đấng đã và đang đến trong cuộc sống của họ…
Thế nên, Mùa vọng không những giúp cho chúng ta biết thức tỉnh và chờ đợi ngày Chúa đến trong vinh quang để phán xét, mà còn thức tỉnh chờ đợi Chúa đến với mỗi người chúng ta, bởi vì dấu hiệu của thời đại trước hết không ở đâu xa, mà nó ở ngay trong con người của mình, chính là:
– Khi chúng ta sung sướng hưởng thụ vật chất là dấu hiệu của những ngày đói khổ của linh hồn,
– Khi chúng ta phê bình chỉ trích anh em là dấu hiệu ngày phán xét công thẳng và kinh khiếp đối với linh hồn và thân xác,
– Khi chúng ta kiêu căng với mọi người là dấu hiệu của người bị hạ xuống tận cùng vực sâu,
– Khi chúng ta vu oan giá hoạ cho người thì đó là dấu chỉ cơn thịnh nộ của Thiên Chúa lên án trong ngày chung thẩm…
Trong tâm tình chờ đợi Chúa đến, trong tuần thứ 1 mùa vọng này, Lời Chúa muốn nhắn nhủ với chúng ta là Chúa đến gần rồi đó, còn chúng ta, chúng ta hãy lo chuẩn bị sẳn sàng để đón Chúa. Chuẩn bị bằng thái độ tỉnh thức và cầu nguyện, bởi vì Chúa đến với chúng ta rất bất ngờ, bất ngờ ngay khi chúng ta lo cặm cụi làm các công việc thường ngày của mình, như nấu cơm, giặt giũ, may vá, đi ruộng, đi chợ, đi học, đi làm…Rồi chúng ta còn biết tỉnh thức để luôn luôn cảnh giác về những tình trạng lỗi phạm mà chúng ta thường gặp như lười biếng, như bỏ đọc kinh cầu nguyện, như làm thương tổn cho người khác, như làm mất lòng những anh chị em chung quanh chúng ta, sống thiếu lòng bác ái…
Chắc chắn Chúa Giêsu sẽ buồn lắm, nếu đến ngày Ngài viếng thăm mà Ngài vẫn thấy chúng ta còn đang hững hờ, vẫn còn chưa chuẩn bị gì hết, vẫn cặm cụi với trăm công ngàn việc, vẫn mãi mê với những tình hư tật xấu, vẫn chưa sẵn sàng, vẫn chưa đổi mới…Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta luôn luôn có được thái độ tỉnh thức và cầu nguyện, để chúng ta luôn tránh được những sai lầm đáng tiếc, tránh được những vấp ngã, tránh được những điều làm hại cho người khác, sống bác ái, yêu thương giúp đỡ chia cơm sẻ áo cho mọi người… để chúng ta đón nhận được chính Chúa Giêsu giáng sinh đang ngự đến hằng ngày trong cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài hãy đến và viếng thăm chúng con. Xin cho chúng con biết nhận ra những dấu chỉ Chúa gởi đến hằng ngày để chúng con biết sống tỉnh thức và cầu nguyện. Amen.
Mùa vọng, mùa mong chờ. Không phải chỉ có con người mong chờ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa cũng mong chờ con người.
Ngày xưa dân Do Thái mong chờ Thiên Chúa sai Đấng Thiên Sai để giải phóng họ khỏi ách người ngoại bang đô hộ. Thiên Chúa đã sai Môsê giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ bên Aicập bằng cách dẫn đưa họ vào đất hứa. Thiên Chúa đã sai các thẩm phán giải phóng họ khỏi cảnh đàn áp của những dân xung quanh. Thiên Chúa đã cho họ thoát cảnh lưu đày Babylon qua vị thiên sai ngoại đạo: vua Kyrô. Rồi thời gian đến, khi dân Do Thái đang mong chờ Ngài giải phóng họ khỏi cảnh người Roma đô hộ, thì Thiên Chúa đã sai Con Chí Ái của Ngài giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngày nay, Kitô hữu mong chờ Đức Giêsu đến trong vinh quang để giúp con người hạnh phúc trọn vẹn: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết và tuyên xưng Người đã sống lại, cho đến khi NGƯỜI LẠI ĐẾN”.
Con người như có thể làm tất cả mọi chuyện, vậy con người cần chờ mong gì nơi Thiên Chúa nữa không? Dường như con người ngày nay có thể độc lập với Thiên Chúa. Về phương diện y tế, con người tuy dù đối diện với bao bệnh nan y, nhưng vẫn liên tục tìm ra những phương thuốc để khắc phục các bệnh hiểm nghèo. Về giáo dục, người ta chờ mong nơi những thầy cô, những người làm công tác giáo dục để giúp các bậc cha mẹ làm trọn nghĩa vụ làm cha làm mẹ của mình; như vậy, dường như người ta chẳng còn cần gì nơi Thiên Chúa nữa!
Con người, tận thâm sâu lòng mình, đều cảm thấy mình bất lực để làm những điều tốt, cho cả mình và cho người khác. “Điều tốt tôi biết nhưng tôi lại không làm, tôi lại làm điều dở tôi thấy là không nên làm”. Khi chính mỗi người, người mà được người khác trông chờ, cảm thấy mình bất lực, cần Thiên Chúa trợ giúp để vượt thắng chính mình: “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, thì làm sao những người này có thể giúp người khác “trọn hảo” được. Việc giúp đỡ người khác, giúp họ triển nở và hoàn thiện chính mình, là điều Thiên Chúa đang làm qua trung gian những con người. Không có Thiên Chúa, con người không thể hoàn thiện chính mình và triển nở toàn diện được.
Không phải chỉ có con người chờ mong Thiên Chúa đến, nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng luôn chờ mong con người. Thiên Chúa tạo dựng con người để con người được sống hạnh phúc với Thiên Chúa, nhưng con người đã lạc xa điều Thiên Chúa mong ước cho con người: họ đi tìm mình, quy hướng tất cả về mình chứ không về Thiên Chúa. Thiên Chúa mong muốn con người sống triển nở toàn diện và hạnh phúc. Tôi có hạnh phúc thật sự không?
Dụ ngôn nén vàng (Mt.25, 14-30) gợi cho con người biết mỗi người đã được trao ban những nén vàng, và mỗi người đều được mời gọi để sinh lời. Những nén vàng Thiên Chúa ban cho tôi là gì? Tôi có làm phát triển những nén vàng tài năng Thiên Chúa ban cho tôi không? Thiên Chúa muốn tôi và mọi người sống triển nở và hạnh phúc. Thiên Chúa muốn tôi cộng tác với Ngài giúp người khác sống triển nở và hạnh phúc. Tôi có thực hiện điều Thiên Chúa muốn chưa?
Đức Giêsu, trong những giây phút cuối đời, đã để lại cho những người Ngài thương yêu một lời trối: “Hãy yêu mến nhau như thầy đã yêu thương anh em” (Ga.13, 34). Đây là một mệnh lệnh khó thực hiện, nhưng đó lại là mong ước của Thiên Chúa, vì điều này sẽ giúp con người được nên giống Thiên Chúa. Chính khi yêu thương, con người được triển nở và hạnh phúc. Có những người tưởng là yêu thương, tưởng là giúp người khác nhưng họ đang trói buộc người khác, họ làm những người này mất tự do bằng những giúp đỡ của họ, làm những người này lệ thuộc vào họ; những người này thật sự không phải là những người yêu thương kẻ khác, không phải là những kẻ giúp người khác thật sự, nhưng là những kẻ biến người khác thành nô lệ họ, bằng sợi dây tưởng rằng nhân nghĩa. Một tình yêu thực, là tình yêu làm con người tự do và phát triển, làm người được yêu cảm nghiệm tự do, triển nở và hạnh phúc.
III. Đức Maria đáp trả niềm chờ mong của Thiên Chúa
Đức Maria được Thiên Chúa chọn để thực hiện ý định cứu độ con người của Ngài. Ngài đã sai sứ thần tới hỏi ý kiến Đức Maria, xem Đức Maria có sẵn sàng để Thiên Chúa can thiệp vào đời Mẹ một cách vô điều kiện; cụ thể, Đức Maria có sẵn sàng chọn Thiên Chúa trên tất cả, có sẵn sàng chấp nhận một thai nhi trong dạ mình. Đức Maria được hỏi ý kiến, nghĩa là, Đức Maria có thể nói “không” với sứ thần truyền tin; nhưng Đức Maria đã quảng đại nhận lời, Mẹ đã thưa tiếng “xin vâng” bất chấp tất cả.
Đức Maria đã thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa không chỉ ở biến cố truyền tin, nhưng còn trong suốt đời Mẹ. Với biến cố phải trở về Bêlem để đăng ký nhân khẩu, Mẹ vẫn thưa xin vâng không một lời oán than. Với biến cố sinh con trong chuồng chiên cừu, Mẹ vẫn thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa khi chấp nhận biến cố này. Với biến cố Đức Giêsu ở lại đền thờ, Mẹ cũng không oán trách Thiên Chúa; và đặc biệt khi ở dưới chân thập giá, Mẹ vẫn thưa tiếng xin vâng dù chẳng hiểu làm sao Lời Thiên Chúa hứa với Mẹ qua sứ thần được thành sự.
Đức Maria, suốt cả cuộc đời, đã đáp trả tuyệt vời hy vọng của Thiên Chúa về con người. Mẹ đã làm chương trình của Thiên Chúa cho con người được hoàn tất. Thiên Chúa hài lòng về Mẹ. Mẹ không chỉ là người nữ tuyệt vời, nhưng còn là con người tuyệt vời nhất của mọi thời đại.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Anh chị em thân mến.
Nếu giờ nầy đây, có ai đó đến hỏi từng người trong chúng ta; đang mơ ước điều gì. Chúng ta sẽ trả lời ra sao?
Người thì mơ ước có được cuộc sống đúng như ý mình.
Người thì mơ ước được có cơ hội phát triển tài năng.
Người mơ ước học giỏi, mơ ước được nhiều người thương.
Người mơ ước có được nhiều tiền.
Người mơ ước có được chỗ đứng khá tốt trong cuộc sống…
Còn biết bao nhiêu mơ ước nữa. Với những mơ ước, con người cố gắng tìm mọi cách đạt cho được những gì mình mơ ước và hy vọng.
Mơ ước, hy vọng nghĩa là sống. Không mơ ước, không hy vọng, thì cuộc sống không còn ý nghĩa. Nhưng mơ ước, hy vọng chính đáng thì con người mới có giá trị, còn mơ ước hy vọng ngông cuồng, rồi dùng tất cả mọi cách để đạt mục đích, bất chấp tất cả. Đó là một điều đáng tiếc.
Chúa Giêsu vừa nhắc cho chúng ta về sự mơ ước, hy vọng của mỗi người. Nếu mơ ước, hy vọng không chính đáng, thì tất cả sẽ bị tàn phá và con người sẽ phải lâm vào tình trạng sợ hãi. Ngài kêu gọi mọi người đặt hy vọng vào ơn cứu rỗi mà Ngài mang đến. Khi đó con người sẽ đứng thẳng và ngẩn
đầu lên vì ơn cứu rỗi đã đến. Khi mơ ước điều gì, thì sẽ để hết tâm hồn vào điều đó, đem tất cả cuộc sống, dốc tất cả sức lực vào để đạt được mục đích. Nếu Chúa là mục đích của mơ ước, của hy vọng, khi đó chúng ta mới có thể đứng thẳng và ngẩn đầu lên để chờ đón Chúa đến.
Hiện tại, chúng ta đang mơ ước điều gì?
Có phải cũng như bao nhiêu người bình thường khác. Chúng ta chỉ biết mơ ước những điều chóng qua, mơ ước những điều không giá trị, để rồi nếu giờ nầy, ngay bây giờ đây, Chúa đến bên cạnh và hỏi từng người trong chúng ta với câu hỏi: đang mơ ước gì? Chúng ta sẽ trả lời ra sao? Hay chúng ta lại phải run sợ như đứng trước loạn lạc, chiến tranh. Chúng ta sợ mất mát đi những gì mình đang tìm kiếm nhưng chưa đạt được. Chúng ta cũng lo sợ mất đi những gì mình đang có trong tay. Chúng ta cũng lo sợ Ngài sẽ biết tất cả những gì mình đang toan tính. Còn biết bao nhiêu điều lo sợ khác nữa, vì những mơ ước của chúng ta không chính đáng.
Có bao giờ chúng ta mơ ước mình sống sao cho đẹp lòng Chúa, rồi với tất cả sức lực, với cả tâm trí, trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta sống tốt, làm tốt những công việc hằng ngày với tinh thần trách nhiệm. Chúng ta đối xử tốt với những người chúng ta gặp gỡ, biết giúp đỡ những người cần đến mình, biết dằn đi những cơn nóng giận, để bớt đi những lời nói chua cay, gắt gõng, bớt đi những hành động cọc cằn thô lỗ. Chúng ta nhìn thấy được Chúa Kitô trong người bạn thường ngày mà mình gặp gỡ, để bỏ đi một chút ích kỷ, mà sống quảng đại tha thứ. Được như thế, chúng ta không còn sợ hãi khi Chúa đến bất ngờ nhưng chúng ta dám đứng thẳng và ngẩng đầu lên vì ơn cứu rỗi đã gần đến.
Bước vào mùa vọng hôm nay, chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn cho mỗi người biết nhìn đúng hướng của cuộc đời, để chỉ biết mơ ước và hy vọng vào Chúa và luôn làm mọi việc theo Thánh Ý Chúa.
Mọi người chúng ta đều đã từng kinh qua kinh nghiệm về sự chờ đợi. Một người vợ thức đêm trằn trọc đợi chồng đi xa trở về. Đôi tình nhân đợi chờ giây phút hẹn hò bên nhau với bao rạo rực xao xuyến. Những bạn công nhân tha phương vẫn ngong ngóng đợi chờ ngày tháng qua mau để mong ngày tết đến về quê xum họp, gặp lại anh em hay bạn bè xưa cũ. Có những cuộc chờ đợi với bao xốn xang rộn rã, ngược lại cũng có những phút giây đợi chờ trong tuyệt vọng và chán chường. Dầu sao, bất cứ sự đợi chờ nào cũng làm cho thời gian như chùng lại, từng giờ từng khắc qua đi tựa như cả một thế kỷ dài đằng đẵng. Tất cả đều lệ thuộc vào tâm trạng và thái độ của những kẻ đợi chờ.
Mùa vọng là mùa chờ đợi, điều này ai cũng biết. Nhưng chờ đợi ai, chờ đợi những gì và mong đợi như thế nào, không phải ai cũng biết và thực hành. Các bài đọc Lời Chúa khởi đầu mùa vọng hôm nay sẽ gợi mở để giúp chúng ta thấu triệt những điều ấy.
Chờ đợi Đấng sẽ đến
Hạn từ Adventus (mùa vọng) mang chở ý nghĩa này. Người tín hữu chúng ta đang mong chờ, nhưng không phải chờ đón một biến cố hay một sự kiện sẽ đến. Chúng ta chờ đợi một con người. Con người đó là chính Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa làm người và cũng là Đấng Cứu thế. Ngài đã đến trần gian cách đây 2000 năm. Ngài cũng đang đến trong từng biến cố của cuộc sống đời thường chúng ta. Đồng thời Ngài sẽ đến, sẽ trở lại trong ngày chung thẩm để phán xử vũ trụ, khóa sổ trời cũ đất cũ và khai mở một trời mới và đất mới. Trong Tông huấn ‘Tiến về Thiên niên kỷ thứ ba’ (Tertio Milennio Adveniente), Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã diễn tả cuộc lữ hành đức tin của chúng ta như một mùa vọng lớn. Mỗi khi cử hành Thánh lễ, Giáo hội khơi dậy cảm thức đức tin và thắp lên niềm hy vọng khi mời gọi chúng ta tuyên tín: “ Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. Đức Kitô là đối tượng của đức tin, cũng là điểm quy chiếu của đức cậy giúp chúng ta canh tân mỗi ngày niềm hy vọng của những lữ khách trên con đường tiến về quê hương. Chúng ta vẫn hằng ngày cầu xin Chúa ban bình an, gìn giữ chúng ta khỏi vương tội lỗi, được an toàn giữa những biến loạn, đang khi mong đợi niềm hy vọng hồng phúc, và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy Giáo hội lữ hành hôm nay đóng vai một tân nương chờ đón đức lang quân của mình. Trong suốt mùa vọng, Giáo hội mượn lời kết trong sách khải huyền để dạy chúng ta thưa lên với Chúa tâm tình cầu nguyện: “ Maranatha, lạy Chúa Giêsu xin hãy đến”.
Chờ đợi trong hi vọng
Trên thế giới ngày nay hiện có hai khối người đang sống cùng một niềm hy vọng chờ đợi, đó là tín hữu Do thái và các Kitô hữu. Người Do thái vẫn mong chờ Đấng Messia như lời các ngôn sứ đã loan báo đặc biệt dựa vào sách tiên tri Isaia, nhưng họ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu thế. Còn đối với Kitô hữu chúng ta, Đức Giêsu Kitô chính là Đấng đã đến trần gian để quy tập dân Irael tản mác từ khắp bốn phương và khai lập một vương quốc mới, vương quốc của thời thiên sai. Ngài đã đến thực hiện kế hoạch cứu độ, và ơn cứu độ này sẽ đạt đến viên mãn trong ngày Người trở lại lần thứ hai để khóa sổ vũ trụ. Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta tái hiện tâm thức hy vọng trong chờ đợi. Niềm hy vọng chính là chìa khóa then chốt để chúng ta sống tinh thần của mùa phụng vụ này.
Một triết gia đã nói: Một tôn giáo không đem lại cho ta niềm hy vọng, không phải là một tôn giáo đáng để chúng ta tin theo. Đúng như thế, không có hy vọng, chúng ta sẽ bị nhấn chìm trong bóng tối của sự chết và hủy diệt. Một con người có thể sống mà chưa có tình yêu, nhưng không ai có thể tồn tại nếu không hy vọng mình sẽ biết yêu và sẽ được yêu. Trong những năm tháng tù ngục, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết cuốn sách tựa đề ‘Con đường hy vọng’ để diễn tả cuộc hành trình đức tin trong những thời điểm đen tối nhất của cuộc đời Ngài. ‘Vui mừng và hy vọng’ cũng chính là khẩu hiệu Ngài chọn khi được tấn phong Giám mục. Niềm hy vọng Ngài nói đến không phải là một mơ ước hão huyền hay mông lung, nhưng đó là một trong ba nhân đức đối thần: Tin Cậy Mến, quy chiếu vào chính Đức Giêsu, Đấng đã đến để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Mỗi khi có dịp cử hành Thánh lễ một cách lén lút trong căn phòng chật chội và tối tăm của nhà tù, Ngài vẫn khơi lại nơi mình niềm hy vọng, đặc biệt khi cầm Mình Thánh Chúa trên đôi tay chai sạn với chiếc áo tù sờn cũ. Ánh sáng hy vọng đó là sức mạnh sâu xa, giúp Ngài vượt qua những ngày tháng đen tối nhất.
Cha Teilhard Chardin, một linh mục dòng Tên cũng đã viết: “ Ngóng đợi là nhiệm vụ hàng đầu của Kitô hữu, và là nét nổi bật nhất để hiển thị đức tin. Người Kitô hữu luôn phải sống trong sự đợi chờ với niềm tin và hy vọng”. Thái độ chờ đợi của người tín hữu không phải là sự mỏi mòn trong tuyệt vọng giống như một tên tử tội khiếp sợ đợi chờ giây phút bị đem đi hành quyết. Nhưng chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của một cô dâu chờ đón chú rể đến giữa đêm khuya để tiến vào phòng cưới, tham dự ‘Tiệc Cưới Chiên Con’ cùng với Đấng đã chiến thắng tử thần và khải hoàn trong vinh thắng.
Chờ đợi trong tỉnh thức và sẵn sàng
Đây là sứ điệp mà cả ba bài đọc trong phụng vụ hôm nay nhắn gửi đến chúng ta. Trong phần kết luận của bài Tin mừng, sau khi tiên báo về ngày chung thẩm, Chúa Giêsu nhắc nhở: “ Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn hầu có thể đứng vững trước mặt Con Người”. Đồng thời Chúa cũng khuyến mời chúng ta đừng ngủ mê trên chè chén say sưa hay những lo toan trần thế. Lý do Chúa đưa ra, vì ‘anh em sắp được cứu chuộc’. Ơn cứu chuộc được dàn trải trên tất cả mọi người và Đức Giêsu đã tiến nhận cái chết để khai mở nguồn mạch cứu độ bất tận ấy. Nhưng hồng ân cứu độ chỉ thực sự hoàn tất khi Chúa đến lần thứ hai khai mở trời mới đất mới và thiết lập vương quốc vinh hiển của Ngài. Vì vậy không chỉ trong mùa vọng kéo dài bốn tuần lễ, nhưng trong suốt cả mùa vọng lớn là trọn cuộc hành trình lữ thứ trần thế, chúng ta luôn phải sống với thái độ thức tỉnh và sẵn sàng.
Cách đây hơn 20 năm, có một trận động đất dữ dội xảy ra tại California Hoa kỳ. Một cô gái trẻ bị vùi lấp trong đống đổ nát, và người ta lập tức chuyển ngay cô vào bệnh viện. Trước đây cô ta sống trong một gia đình khá đạo đức, nhưng từ khi lấy chồng, sự giầu có đã làm cô gái lạc mất định hướng cuộc đời mình. Cô ta sống phóng túng như một kẻ vô thần. Nằm trên giường cấp cứu, cô gái cố gắng thu gom hết tàn lực cuối cùng để hỏi bác sĩ:“ Liệu tôi có qua khỏi hay tôi còn sống được bao nhiêu năm nữa?” Bác sĩ thành thật nói với cô ta rằng ông cố gắng lắm chỉ giúp cô sống thêm được vài tiếng đồng hồ nữa thôi. Nghe nói thế, cô gái ôm mặt khóc nức nở và đau đớn thốt lên: “ Ôi muộn quá rồi”. Có lẽ rất nhiều người trong chúng ta cũng sẽ phải thốt lên câu này khi đối diện trước cái chết. Thánh Gioan Bosco vẫn tổ chức tĩnh tâm hàng tháng cho các học sinh và Ngài gọi đó là ‘ngày dọn mình chết lành’. Đây không phải là một động thái mang tính tâm lý, nhưng là một việc thực hành trong đức tin. Chúa Giêsu đã nói “ Anh em không biết ngày nào giờ nào con Người sẽ đến.” (Mt 24, 24)
Chúng ta nhớ lại giai thoại về tướng quân Archais của Hy Lạp năm xưa. Ông là một vị tướng giỏi, đánh trận nào thắng trận đó. Sau một trận thắng lớn, ông khao quân lính một bữa tiệc thịnh soạn. Giữa cuộc vui, một sứ giả đem đến cho ông bức thư khẩn và báo tin là ông đang bị mưu sát để biết cách đề phòng. Thay vì mở thư ra đọc và cảnh giác, ông nhét thư vào túi, vẫn tiếp tục nhậu nhẹt và tự nhủ: “ Thôi để mai hãy tính”. Ngay đêm đó, ông bị giết chết. Câu chuyện gợi nhắc lời Chúa nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em” (Lc 21, 34). Những gì làm được hôm nay đừng để đến ngày mai.
Kết luận
Thánh Phanxico Salêsiô đã viết “ Thời để sống là lúc chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa. Thời để chết là lúc chúng ta đến gặp gỡ Ngài. Thời vĩnh cửu là lúc chúng ta sẽ chiếm hữu Ngài cách trọn vẹn”. Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa vọng, một mùa vọng nhỏ trong một mùa vọng khác lớn hơn. Mùa vọng là thời gian chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa và mong đợi Ngài đến. Chúa sẽ đến để đem ta đi vào vĩnh cửu trong sự hiệp thông và gắn kết trọn vẹn với Ngài. Nhưng, ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay. Trời mới và đất mới của ngày mai đang bắt đầu với cuộc sống hiện sinh của chúng ta tại đây và ngay bây giờ. Chúng ta sống làm sao thì sẽ chết như thế. Chúng ta hãy sống theo lời dạy của thánh Phaolô trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay: “ Hãy sống thánh thiện, không gì đáng chê trách trước nhan Thiên Chúa là Chúa chúng ta trong ngày Đức Giêsu quang lâm cùng với các thánh của Người” (1Thes 3, 13).
Chúa phán: “hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người”. (Lc 21, 36)
Câu chuyện tôi sắp kể đây, vừa xảy cách đây không lâu (09.11.2006): một anh giáo lý viên có tuổi có đứa con đang đi đại học; đứa con bổng bị đâm chết và gia đình đang kêu hoảng, vừa lo ma chay…. Điều tôi muốn nói, có liên quan tới cái chết của chú thanh niên trẻ này là: cách đây vài tháng, người cha giáo lý viên trong họ đạo lớn, trong cuộc bầu cử lại vào hàng Ban Qưới chức mới, đã không được bầu, nên anh bất mãn; và vì giận hờn, cả gia đình anh cải theo đạo Tin Lành; anh còn tỏ ra thái độ thù hằn, bài xích công giáo nữa. Nguyên do anh không được bầu, vì anh có nhiều khuyết điểm, không gương mẫu, nhất là vì anh vừa cưới vợ cho đứa con đang đi đại học, không có phép hôn phối… Bên ngoài người ta xầm xì: Chúa phạt! Thực ra, người Công giáo chúng ta không kết án như thế; nhưng chắc chắn đó là dấu chỉ nhắc nhở mọi người còn sống: hãy đề phòng, hãy tỉnh thức, đừng để mọi chuyện xảy tới như chiếc lưới chụp xuống đầu mà mình không hay biết gì, vì đã không chuẩn bị trước. Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay sẽ soi sáng cho ta hiểu rõ câu chuyện trên. Kính mời anh chị em cùng suy niệm…
a/. Bài Tin Mừng hôm nay, trích trong bài giảng về ngày tận thế. Chúa Giêsu dùng lối văn khải huyền như Cựu Ước để diển tả giáo huấn mà Chúa muốn nói. Chúa vì hiểu thấu sự yếu mềm và lầm lạc của con người, nên đã mạnh mẽ kêu gọi ta phải đề phòng. Nhưng làm cách nào để đề phòng? Hai phương thế đề phòng, đó là tỉnh thức và cầu nguyện.
Trước tiên, Tỉnh thức: tỉnh thức không phải là ngồi yên một chổ, mà là tích cực sống với tinh thần ý thức trách nhiệm, biết chọn lựa cái nào là thật và có giá trị cho mình, đồng thời sống trong mối tương quan tốt với Chúa và mọi người, thực sự bác ái, yêu thương, quảng đại, tha thứ, luôn trông cậy và sống theo Thánh Ý Chúa… Như thế thì khi chiếc lưới thình lình ụp xuống, ta đâu cần phải lo lắng điều gì nữa? Ngược lại nếu ta cứ tìm thú vui vật chất, lo lắng sụ đời, lười biếng, vụ lợi…. sống như thế thì khi chiếc lưới ụp xuống, cái gì sẽ nâng đỡ, sẽ cứu giúp cho ta?
Thứ hai: Cầu nguyện: theo sách GLCG, cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa để gặp gỡ và hiệp thông với Chúa trong tình yêu; nhưng phương thế hữu hiệu nhất để ta nâng tâm hồn lên với Chúa, chính là tham dự tích cực các nghi lễ phụng vụ, các bí tích, vì chính qua các bí tích, ta mới gặp gỡ Đức Kitô dễ dàng và hữu hiệu…
b.Gợi ý sống và chia sẻ:
* Hãy tỉnh thức: năm nào vào Mùa Vọng, ta cũng nghe câu nói này. Nếu năm nay, hay tháng này, Chúa gọi tôi về với Chúa, tôi sẽ phản ứng ra sao? Nhất là bao lâu nay, tôi đã chuẩn bị cho ngày đó thế nào đây?
* Mùa Vọng là mùa hi vọng, mùa chuẩn bị đón Chúa đến, đón Chúa đến dịp lễ Giáng sinh, nhất là đón Chúa đến trong cuộc đời của mình. Trông chờ Chúa đến, không phải ngồi đó mà chờ, nhưng phải biết sống tích cực, phải tỉnh thức và cầu nguyện như Chúa dạy, phải trung thành với bổn phận mình. Bao lâu nay ta đã chờ đợi Chúa như thế nào?
* Khi ta lãnh nhận Bí tích rữa tội, chính là lãnh nhận thẻ Công dân Nước Trời. Vậy khi nhìn nhận mình là Công dân Nước Trời, lúc còn sống ở trên đời này, ta có nhận mình là khách lữ hành đang tiến về Nước Trời không? Nều nhận mình là khách lữ hành, ta không được sống tiêu cực, hưởng thụ,… ngược lại phải sống xứng với địa vị là khách lữ hành, là công dân Nước Trời không?
Với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta cùng với Hội Thánh bước vào một năm Phụng Vụ mới, một năm mới trong hành trình đức tin, một giai đoạn mới trên đường hy vọng khi chúng ta cùng bước đi với Chúa Kitô để về với Chúa Cha. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến chung cánh của nhân loại và việc Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người. Đồng thời, Người đã ân cần nhắc nhở chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày chung cánh ấy. Những gì Chúa dạy chúng ta phải chuẩn bị cho ngày tận thế là chung cánh của vũ trụ và nhân loại, cũng là những gì chúng ta phải chuẩn bị cho ngày chung cánh của riêng mình: ngay chết của chúng ta, ngày chúng ta từ giã cõi đời này để bước vào cõi vĩnh hằng.
Chúa phán: “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người trên trái đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21:34-36). Ở đây, chúng ta thấy có hai điều Chúa dạy chúng ta phải thực hiện. Điều thứ nhất là chúng ta phải giữ mình để khỏi bị say mê cuốn hút vào các vui thú và các sinh hoạt trần thế; nghĩa là chúng ta phải biết đề phòng hai kẻ thù của linh hồn chúng ta là những đam mê xác thịt và những quyến rũ của thế gian. Điều thứ hai là chúng ta phải tỉnh thức và cầu nguyện để luôn được yêu mến kết hợp với Chúa và chiến thắng ma quỷ là kẻ hằng ghen ghét và tìm cách hãm hại chúng ta.
Như để giúp các tín hữu thực hiện lời dạy quý giá này của Chúa Giêsu, trong bài đọc hai trích thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônica, Thánh Phaolô Tông Đồ ân cần thiết tha nhắn nhủ họ phải ra sức sống thánh thiện để chuẩn bị đón Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang: “Anh em thân mến, xin Chúa gia tăng và ban cho anh em tràn đầy lòng thương yêu nhau, và thương yêu mọi người như chúng tôi đối với anh em, để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Kitô, Chúa chúng ta ngự đến cùng với tất cả các Thánh. Amen. Anh em thân mến, ngoài ra, tôi còn van nài anh em trong Chúa Giêsu điều này, là như anh em được chúng tôi bảo cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, anh em đang sống như vậy, xin anh em cứ tiến thêm nữa. Vì anh em biết rõ huấn thị chúng tôi nhân danh Chúa Giêsu đã ban cho anh em ” (1Tx 3:12-4:2).
Như vậy, sống đẹp lòng Chúa hay sống thánh thiện phải là mối quan tâm hàng đầu của mọi tín hữu Chúa Kitô. Chính vì vậy, Thánh Trẻ Đaminh Saviô trong ngày Rước Lễ Lần Đầu đã đặt ra hai quyết tâm đơn sơ nhưng đủ khiến ngài nên thánh. Đó là: “Thà chết chẳng thà phạm tội và hai người tôi phải yêu mến nhất là Chúa Giêsu và Mẹ Maria”. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng viết cho một người bạn: “Hãy tin tôi, đừng đợi đến ngày mai mới khởi sự nên thánh…Thế nhưng chúng ta phải làm việc, không phải để trở thành những vị thánh nhưng để làm vui lòng Chúa…một việc nhỏ nhặt nhất cũng quý giá trước mắt Người”.
Năm Phụng Vụ chúng ta bắt đầu hôm nay trùng vào Năm Đức Tin do Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI công bố để đánh dấu 50 năm khai mạc Công Đồng Vaticanô II. Vì vậy, thật thích hợp và hữu ích cho đời sống tâm linh nếu chúng ta biết suy niệm và sống theo “Mười Điều Tâm Niệm cho Hôm Nay” sau đây của Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII-Đấng đã được ơn Chúa soi sáng để triệu tập Công Đồng.
Tóm lại, đây là một quyết tâm tổng quát: Tôi muốn ở nhân hậu với mọi người, hôm nay và luôn mãi.”
Ave Maria, xin Mẹ dạy con biết sống đẹp lòng Chúa.
Khi còn nhỏ, mỗi lần tựa cửa đợi mẹ đi chợ về là mỗi lần trong tôi có những tình cảm mong nhớ, đợi chờ, hy vọng… Mong nhớ vì mẹ đi chợ chắc chắn mẹ sẽ về, hy vọng vì rất có thể tôi sẽ có được quà bánh…
Hôm nay Chúa Nhật thứ I Mùa vọng, bắt đầu một năm phụng vụ mới. Mùa vọng (Adventus) có ý nghĩa hướng tâm hồn người tín hữu về việc Chúa Kitô sẽ trở lại vào ngày quang lâm, cũng như hướng tâm hồn mừng kỷ niệm việc Chúa đã đến trong lịch sử. Giai đoạn đầu mùa vọng Giáo hội chuẩn bị chờ đón cuộc tái lâm của Đức Kitô. Cuộc tái lâm sẽ hoàn tất mọi sự, cuộc tái lâm mà mọi người mong ngóng lo âu. Chúng ta những người Kitô hữu chờ đợi ngày đó như thế nào? Sợ hãi hay hy vọng.
Tin Mừng Thánh Luca hôm nay cũng như nhiều đoạn khác trong Kinh Thánh(Mc 13,24-27; Mt 24,3tt; 1Tx2,19….) cho ta thấy ngày trở lại của Đức Kitô thật vĩ đại kinh hoàng: đất đá nổ tung, mặt trời không còn chiếu sáng… thế thì ai lại mong chờ ngày ấy, ngày Chúa quang lâm.
Với mớ giáo lý vế tứ chung mà tôi được học từ nhỏ, tôi thường xin Chúa đừng trở lại lúc tôi còn đang sống trên dương thế vì tôi nghĩ nó quá khinh khủng, hãi hùng. Nhưng thật sự ngày quang lâm của Đức Kitô có hãi hùng như thế không?
Thánh Kinh dùng nhiều kiểu nói khải huyền để nói về ngày quang lâm chỉ với mục đích là diễn tả quyền năng của Thiên Chúa trên hoàn vũ. Ngày Chúa quang lâm là lúc Chúa biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa trên vạn vật, còn những hình ảnh được nói tới trong Kinh Thánh chỉ là tùy phụ so với uy quyền của Thiên Chúa. Vậy có nên sợ ngày quang lâm? Ngày Chúa trở lại là ngày Chúa hoàn tất mọi sự, Chúa sẽ tách biệt người lành kẻ dữ….nên ngày đó cũng phải là một ngày hãi hùng. Nhưng nỗi sợ đó phải là một nỗi sợ trong tình yêu vì Chúa sẽ xét xử ta trong tình yêu. Thánh Matthêu ghi lại hình ảnh cuộc phán xét chung thật nhẹ nhàng nhưng dứt khoát (Mt 25, 31-46). Trong đoạn Tin Mừng ấy, Chúa Giêsu tự đồng hóa mình với những người hèn mọn nhất và phần thưởng của ta có được là do ta biết yêu mến những con người hèn mọn đó. Như thế nỗi sợ của ta đang khi mong chờ Chúa trở lại phải là một nỗi sợ thánh. Ta sợ vì ta chưa yêu Chúa thật lòng, chưa nhận ra Chúa nơi anh em, sợ mất lòng Chúa….và nỗi sợ này thúc giục ta thực thi lòng mến chứa chan và thiết thực hơn.
Ngày Chúa trở lại cũng phải là một ngày đầy hy vọng. Nếu không có quà cho tôi thì mẹ tôi cũng không bao giờ phạt hay đánh tôi khi tôi chờ mẹ. Đức Kitô chính là niềm hy vọng của chúng ta (Cl 1,27). Mầu nhiệm cứu độ đã được Đức Kitô thực hiện trong lịch sử cứu độ chẳng lẽ lại vô hiệu cho những ai hy vọng vào Người. Chính Chúa Giêsu đã mở lối cho ta dõi bước tiến vào đời sống vĩnh cửu. Ngày Chúa trở lại hẳn thật là một ngày đầy hạnh phúc vì ta sẽ được hưởng kiến nhan Chúa trọn vẹn, được thỏa mãn mọi mong ước…trong ngày chiến thắng của Đức Kitô. Và vì là thần dân của Người ta cũng được vinh hiển với Người.
Tóm lại, đang khi còn sống trên dương thế ta không thể biết được rõ ràng ngày Chúa trở lại như thế nào. Tuy nhiên, nhờ mạc khải ta biết được chắc chắn Chúa sẽ trở lại để hoàn tất mọi sự, ngày Đức Kitô trở lại trong vinh quang. Trong khi mong chờ ngày ấy, Giáo hội mời gọi ta tỉnh thức và hy vọng vào tình yêu Thiên Chúa, Ngài sẽ đưa mọi con cái trở về trong tình yêu của Ngài.
Chúng ta cũng hãy nhìn về Đức Mẹ Maria, Mẹ là hình ảnh cánh chung của Giáo hội (GLHTCG số 972). Mẹ đã tin rằng Con Mẹ sẽ phục sinh cho dù chưa ai tin như thế và phần thưởng tuyệt vời Thiên Chúa dành cho Mẹ là hồn xác lên trời. Xin Mẹ cũng dạy cho chúng con biết tin tưởng, phó thác và hy vọng vào tin yêu Thiên Chúa khi Người trở lại.
(Trích trong Manna năm C – Lm. Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Nhiều kitô hữu tưởng Phục Sinh là dấu chấm hết của Kitô giáo. Thật ra Kitô giáo vẫn đang hy vọng và chờ đợi một biến cố hết sức quan trọng: biến cố Chúa trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Biến cố này hoàn tất lịch sử nhân loại và hoàn tất công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu.
Bao lâu Chúa Kitô chưa trở lại người kitô hữu còn phải chờ. Chờ đợi làm nên cuộc sống kitô hữu, cuộc sống Giáo Hội.
Những kitô hữu thời sơ khai đã nôn nao chờ đợi. Họ ngỡ rằng chẳng bao lâu nữa Chúa sẽ trở lại. Nhưng dần dần người ta nhận ra rằng cần phải chờ đợi một cách tích cực, cần phải chuẩn bị thế giới này đón tiếp Chúa khi Ngài đến, để Ngày Chúa quang lâm thực sự là ngày hội vui của cả địa cầu và cả vũ trụ. Mà ngày Chúa đến vẫn là một bất ngờ như mọi lần.
Ngài đã chào đời bất ngờ như một trẻ thơ quấn tã. Ngài đã sống bất ngờ như một bác thợ mộc vô danh. Ngài đã chết bất ngờ như một kẻ bị đóng đinh vì gây rối. Ngài đã sống lại bất ngờ, hiện ra với hai môn đệ về Emmau. Ngài sẽ trở lại bất ngờ…
Tỉnh thức chờ đợi là thái độ sống của Mùa Vọng.
Tỉnh thức là sẵn sàng đón Chúa với đèn sáng trong tay. Tỉnh thức là trung tín chu toàn cả những điều bé nhỏ. Tỉnh thức là tích cực đầu tư những nén bạc Chúa trao. Tỉnh thức đi đôi với cầu nguyện.
Thế giới hôm nay có nhiều thứ gây ngủ mê.
Cuộc sống quá khó khăn hay quá tiện nghi dễ dãi đều làm chúng ta đánh mất thái độ tỉnh thức chờ đợi.
Chúa đã đến âm thầm, Chúa sẽ đến trong vinh quang.
Chúa đang đến nhẹ nhàng trong thế giới, trong từng người, từng tập thể. Cần tập nghe tiếng bước chân của Chúa…
Mùa vọng là thời gian ta chờ Chúa đến, nhưng đừng quên chính Chúa mới là người chờ ta trước, từ lâu, vì ta không nhận ra tiếng gõ cửa của Ngài.
Ước gì chúng ta dám can đảm và thành thật nài xin: Marana tha! Lạy Chúa, xin hãy đến.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, con người hôm nay có dễ tỉnh thức không? Cái gì đang làm cho giới trẻ trở nên mê ngủ (ma túy, rượu chè, bạo lực, tình dục…?
Bạn dự tính sống mùa Vọng như thế nào? Bạn sẽ giúp gì cho những bạn khác sống mùa Vọng?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ đi vào sa mạc để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài. Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con. Chỉ cần một chút cố gắng của tình yêu là con có thể tạo ra sa mạc.
Mỗi ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất: khi chờ một người bạn, chờ đèn xanh ở ngã tư, chờ món hàng đang được gói; Khi lên cầu thang, khi đến nơi làm việc, khi kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ.
Thay vì bực bội hay nóng ruột con lại thấy mình sống an bình trong sự hiện diện của Chúa.
Lạy Chúa,
Những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày giúp con tỉnh thức để nhạy cảm với ý Chúa.
Xin cho con yêu mến Chúa hơn để tìm ra những sa mạc mới và vui vẻ bước vào.
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Mùa Vọng là mùa chờ đợi Chúa đến. Chờ đợi Chúa đến trong ngày lễ Giáng Sinh. Đây là ngày kỷ niệm, vì Chúa đã đến cách đây 2015 năm. Nhưng quan trọng hơn, Mùa Vọng mời gọi mỗi người kitô hữu chúng ta chờ đợi Chúa đến với từng người trong giờ chết và với toàn thể nhân loại trong ngày tận thế.
Thật vậy, chết là có thật. Ngày tận thế cũng có thật. Nhưng giờ chết và ngày tận thế sẽ đến một cách thình lình như chiếc lưới chụp xuống trên mặt đất (x. Lc 21,34-35). Ngày đó lại quyết định số phận đời đời của con người. Cho nên, con người muốn được hạnh phúc vĩnh cửu cần phải chờ đợi trong “Tỉnh thức”.
Thánh Phaolô mời gọi: Mọi người phải thể hiện tình thương đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết (x. 1Tx 3,12). Thông thường khi biết mình sắp chết, con người sẽ nói những lời yêu thương đối với người thân của mình: Cám ơn, xin lỗi, yêu mến…Nhưng vì cái chết thường xảy đến quá đột ngột nên con người ít có cơ hội để thực hiện điều đó. Chính vì vậy, hãy thể hiện tình yêu thương nhau khi còn có thể. Vợ chồng hãy yêu thương nhau, cha mẹ hãy yêu thương con cái. Con cái hãy yêu mến cha mẹ. Mọi người hãy thể hiện tình yêu thương nhau. Hãy cám ơn, hãy bỏ qua những bất bình, hãy xin lỗi nhau“Chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26).
Các chất có men như bia, rượu tự nó không xấu. Xấu tốt là do con người sử dụng nó. Khi dùng bia rượu quá liều lượng sẽ gây ra biết bao hậu quả khôn lường. Do bia rượu nên gây ra tai nạn giao thông, chính mình chết, người khác thiệt mạng (Khoảng 15% người chết tai nạn giao thông là do bia rượu). Do bia rượu nên nhiều gia đình tan nát: Vợ chồng ly tán; Anh em từ nhau; Làng xóm mất lòng nhau. Do bia rượu người ta chém giét lẫn nhau và biết bao nhiêu tội lỗi khác. Chính vì vậy, tỉnh thức là không chè chén say sưa.
Ngày xưa có một thanh niên tính tình hiền lành, luôn ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, và rất yêu thương vợ mình. Một hôm, một con quỷ đã hiện ra và cám dỗ anh ta phạm tội. Quỷ cho anh được quyền chọn làm một trong ba điều xấu: Một là chửi mắng cha mẹ. Hai là giết chết cô vợ thân yêu. Ba là uống rượu. Bấy giờ chàng thanh niên liền suy nghĩ như sau: “Chửi mắng cha mẹ là bất hiếu, nên ta quyết không làm. Giết chết người vợ thân ỵêu là bất nghĩa, ta cũng không thể làm được. Chỉ có uống rượu là ta có thể làm được thôi, vì uống rượu đâu phải là điều quá xấu xa!” Thế là anh ta chọn uống rượu. Quỷ liền sai người cung cấp cho anh ta đủ các thứ rượu ngon trên đời. Lúc đầu chàng thanh niên còn uống hạn chế mỗi bữa một ly nhỏ, nên không có điều gì xảy ra. Nhưng dần dần việc uống rượu trở thành thói quen, mỗi bữa anh ta phải tăng “đô” lên và uống gấp nhiều lần mới thấy “phê”. Cuối cùng, anh đã trở thành một tên bợm nhậu: lúc nào cũng say xỉn! Một hôm, anh ta say đến nỗi không biết trời trăng gì nữa. Trong cơn say, anh ta đập bể tất cả chén bát và vứt mọi thứ đồ đạc trong nhà ra đường. Bị cha mẹ ngăn cản rầy la, anh ta liền to tiếng cãi lại và buông ra những lời thô tục xúc phạm đến cha mẹ. Cô vợ thấy chồng vô lễ và bất hiếu như vậy liền chạy tới khuyên can liền bị anh đâm một nhát dao khiến cô ngã lăn ra chết. Thế là từ việc uống rượu tưởng chừng vô hại lúc đầu, về sau đã trở nên nguyên nhân dẫn đến hai tội ác lớn lao là bất hiếu xúc phạm cha mẹ, và bất nghĩa giết người vợ thân yêu của mình.
Dự tiệc Nước trời là công việc quan trọng hàng đầu, nhưng con người vẫn vịn lý do này khác để từ chối. Dụ ngôn khách được mời xin kiếu (x. Lc 14, 15,24) nói lên điều đó. Người thì bảo: “Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; cho tôi xin kiếu”. Người khác thì nói: “Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây; cho tôi xin kiếu”. Kẻ khác nữa lại vịn lý do: “Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được”. Ngày nay con người vẫn vịn vào những lý do đó và các lý do khác tương tự để từ chối việc giữ đạo, sống đạo. Chẳng hạn: Vì ngày Chúa nhật tôi phải đi làm, phải đi học nên không thể tham dự thánh lễ. Vì bận công việc tối ngày nên tôi không còn thời gian để đọc kinh, cầu nguyện. Vì để thăng quan tiến chức nên tôi phải kết nạp Đảng, phải chấp nhận “Xa Chúa” một thời gian, sau này sẽ tiếp tục trở lại đạo. Vì chuyện gia đình, vì chuyện nghề nghiệp, vì chuyện nọ kia nên chưa có thể xưng tội rước lễ được, khi nào giải quyết xong việc tôi sẽ đi xưng tội…Đó là những hạng người quá lo lắng việc đời.
Nhưng lời Chúa hôm nay lại mời gọi chúng ta “không lo lắng việc đời”. Vì “Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay?” (Mt 6,27). Nghĩa là đừng tìm bảo đảm nơi của cải vật chất mà phải tìm điều chính yếu của cuộc đời đã rồi mọi sự khác Ngài sẽ ban cho. “Trước tiên, hãy tìm kiếm nước Chúa, mọi thứ khác Ngài sẽ ban cho sau”(x. Mt 6, 33). Vậy, hãy chọn Chúa và những gì thuộc về Chúa, chọn sự sống đời đời hơn sự sống tạm bợ chóng qua, đừng quá lo lắng việc đời.
Ngày đó, “Chúa sẽ xét xử và thi hành công lý”(Gr. 33,15). Cho nên luôn nghĩ về sự chết, sự phán xét sẽ giúp con người biết tránh xa tội lỗi, chu toàn bổn phận và sống tỉnh thức hơn. Thánh Louis Gonzaga luôn “Nhìn mọi sự và đánh giá mọi sự dưới khía cạnh đời đời”. Cho nên, Ngài không hề sợ chết, cho dù giờ chết sắp đến.
Một hôm, ban giáo sư trường muốn trắc nghiệm các thiếu niên đang chơi ở sân, bèn đặt một câu hỏi: “Nếu anh được biết anh sắp chết trong một giờ nữa thì anh sẽ làm gì?
Có nhiều câu trả lời khác nhau:
– Tôi sẽ vào nhà thờ cầu nguyện.
– Tôi sẽ dọn mình xưng tội.
– Tôi sẽ tìm gặp cha mẹ và người thân lần cuối cùng.
– Còn tôi, nếu tôi biết tôi sắp chết, tôi vẫn tiếp tục chơi!.
Câu trả lời ấy của cậu Louis Gonzaga làm ban giáo sư vô cùng bỡ ngỡ.
– Tại sao trước giờ phút nghiêm trọng như vậy mà anh cả gan tiếp tục chơi?
– Vì Chúa dạy phải luôn luôn sẵn sàng, mà bổn phận hiện giờ của tôi là chơi nên tôi cứ tiếp tục chơi. Thánh ý Chúa trong giây phút hiện tại này đối với tôi là chơi, nên tôi chơi là làm đẹp lòng Ngài vậy!
Chúa Giêsu đã khẳng định: “Không có Ta, các con không thể làm được gì”(Ga 15,5). Vì vậy, để sống tỉnh thức cần phải cầu nguyện. Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Bao lâu con người không còn cầu nguyện thì giống như linh hồn đã chết. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy cầu nguyện không ngừng”(1 Tx 5,17. Lúc nào ta cũng có thể cầu nguyện: Cầu nguyện hôm sớm; Cầu nguyện trước và sau khi dùng cơm; Cầu nguyện trước khi đi ngủ và sau khi thức dậy; Cầu nguyện trong khi làm việc; Cầu nguyện khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như khi thất bại. Chúng ta có thể cầu nguyện khắp mọi nơi: Cầu nguyện ở nhà thờ; Cầu nguyện trong gia đình; Cầu nguyện trên đường đi làm việc. Chúng ta có thể biến tất cả mọi thời gian trong ngày thành thời gian cầu nguyện. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Dù ở ngoài chợ hay đang đi dạo một mình, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện và cầu nguyện sốt sắng. Ngồi trong tiệm của bạn, hoặc khi mua khi bán, cả khi làm bếp, bạn cũng có thể cầu nguyện”. Làm được như vậy, tức là chúng ta đang tỉnh thức trong cầu nguyện.
Để đón mừng Chúa Giáng Sinh sắp tới, để chờ đợi Chúa đến với chúng ta trong giờ chết và trong ngày tận thế, chúng ta phải luôn sống tỉnh thức: Tỉnh thức là biết sống yêu thương; Tỉnh thức là không chè chén say sưa; Tỉnh thức là không lo lắng việc đời; Tỉnh thức là luôn nghĩ về sự chết và phán xét; Tỉnh thức là luôn biết cầu nguyện. Làm được như vậy, chúng ta sẽ “Không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Ngài ngự đến viếng thăm” (1Tx 3, 13). Nhờ vậy, chúng ta sẽ được Ngài đón nhận vào hưởng hạnh phúc với Ngài trên Thiên đàng. Amen.
Đạo binh Rôma đã chiếm đóng xứ Pa-lét-tin khoảng 60 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh. Người Rôma lúc đó là ông chủ của thế giới, nắm gọn trong tay mọi nền văn hoá, tri thức, khoa học kỹ thuật và của cải. Theo đường lối chính trị khôn khéo, người Rôma cắt cử những người yếu nhược, ham danh vọng cá nhân để cai trị địa phương. Vua Hêrôđê là người thuộc bọn đó, ông được đặt làm vua xứ Giuđê khoảng năm 40 trước Chúa giáng sinh. Hêrôđê là con người độc ác và mê sắc dục, sẵn sàng thoả hiệp với người Rôma để bảo vệ quyền bính và tậu thêm của cải. Hêrôđê không phải là con người của đức tin, hoàn toàn chỉ là một bạo chúa dưới tay người Rôma.
Bị bóp nghẹt và bị hạ nhục bởi những quân ngoại giáo này, dân Do Thái chịu khuất phục, nhưng trong thâm tâm thì hậm hực, tự biết mình không đủ sức chống lại quyền lực hung mạnh kia. Một số người cố gắng sống sao cho có lợi nhất trong hoàn cảnh bất khả kháng này: họ chấp nhận sống yên phận, cố duy trì một chút tự do còn lại để thực thị lề luật Thiên Chúa.
Một số khác lợi dụng sự chiếm đóng của quân đội Rôma để thủ lợi làm giàu, họ thông đồng với người Rôma, chối bỏ đức tin cha ông. Đó là lựa chọn không những của bọn thu thuế và những thương gia, những gái điếm, mà còn có cả những triều thần vua Hêrôđê và đội vệ binh của ông. Nhiều người cố che đậy nỗi sợ hãi và khổ nhục bằng nhậu nhẹt và chơi bời phóng đãng, họ cố nuốt nỗi ô nhục và sự cắn rứt lương tâm.
Một số khác, nhân danh tôn giáo, tự hào về nền văn hoá và nòi giống, đã lập những nhóm cách mạng, chiến đấu giành tự do, khủng bố để trả thù. Họ dùng bạo lực để để chống đối, như ám sát những vị chỉ huy quân đội, những tay sai cho đế quốc mà họ cho là người tục hoá danh thánh Chúa.
Trong dân Do thái thời đó, chỉ có một nhóm nhỏ giàu có, còn phần đông dân chúng là nghéo nàn và khốn khổ. Nhiều người giàu, người có chức quyền coi khinh bọn hành khất, người phong cùi, tàn tật… họ cọi bọn này như bị Thiên Chúa phạt. Họ còn bị coi là ô uế, là nhơ nhớp, không được”tiếp xúc” với Thiên Chúa. Hô không có tiếng nói trong xã hội và không có chỗ đứng trong đền thờ. Họ không nhìn thấy chút hy vọng nào cho bản thân, mà chỉ thấy án phạt ở đời này và đời sau.
Chính trong lúc tình thế đang hỗn loạn và sôi sục tranh chấp nầy, trong lúc căm thù và tuyệt vọng âm ỉ trong lòng người, thì xuất hiện một người tên là Gioan. Gioan loan báo rằng “có một Đấng khác” đến sau ông. Đấng khác này là Đức Giêsu. Ngài không đến với các kinh sư và Pharisêu, không đến với người giàu có thống trị, nhưng đến với người nghèo hèn đau yếu, người bị áp bức khổ đau, đến với tất cả những ai thấp cổ bé miệng, với tất cả những ai bị loại trừ ra khỏi đền thờ Giêrusalem, những ai sống trong lo âu sợ hãi, những ai bị giam cầm trong tội lỗi. Ngài bảo họ đừng sợ hãi vì Thiên Chúa ở bên họ, Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, Thiên Chúa cảm thương họ. Ngài ăn uống với người thu thuế và tội lỗi. Ngài chạm đến người cùi để chữa lành họ. Ngài kêu gọi “hỡi những ai khó nhọc và mang gánh nặng nề hãy đến với Tôi”.
Đức Giêsu là hy vọng của dân Do thái xưa thế nào thì Ngài cũng là hy vọng của chúng ta trong thế giới hôm nay. Chúng ta hãy mau chạy đến với Chúa Giêsu để Ngài khơi lên trong chúng ta niềm hy vọng mới trong Mùa vọng này. Đền lượt chúng ta cũng hãy ra đi gieo niềm hy vọng mới cho anh chị em chung quanh chúng ta. Hãy làm cho thế giới này thêm hy vọng, thêm niềm vui qua từng cử chỉ lời nói và cung cách sống của chúng ta.
Có một bà già nóng tính, đi trên một chuyến tàu lửa. Khi xe đang xuống dốc, bà liền hỏi bác tài công:
– Chúng ta có thể dừng lại được không?
Bác tài công trả lời ngay:
– Được chứ, chúng tôi có chiếc thắng điện mà.
Bà già chưa lấy làm thỏa mãn, nên hỏi tiếp:
– Nhưng nếu chiếc thắng điện không ăn, thì bác có thể dừng lại được không?
Bác tài công vui vẻ trả lời:
– Được chứ, chúng tôi còn chiếc thắng tay nữa.
Bà già liền nói:
– Lỡ chiếc thắng tay cũng không ăn thì sao?
Bác tài công vẫn không mất kiên nhẫn:
– Chúng tôi còn một chiếc thắng đặc biệt dành cho những trường hợp khẩn cấp.
Bà già vẫn không an tâm, nên hỏi:
– Nếu cả chiếc thắng đặc biệt này cũng không ăn, thì số phận chúng ta sẽ ra sao?
Bác tài công tỏ vẻ bực bội:
– Nếu chiếc thắng đặc biệt này mà không ăn, thì một số người trong chúng ta sẽ lên thiên đàng, còn một số người khác sẽ xuống hỏa ngục.
Thực vậy, qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ với mỗi người rằng: Mỗi ngày qua đi là một bước chúng ta tiến dần đến cái chết, để rồi tới một lúc nào đó, chúng ta sẽ phải ra trước tòa án tối cao mà tính sổ cuộc đời với Chúa. Liệu mỗi người chúng ta có sẵn sàng cho phiên tòa định mệnh này hay chưa?
Trong ngày trọng đại ấy, Chúa Kitô sẽ lại đến như một tia chớp lóe lên từ đông sang tây, hay như một kẻ trộm viếng thăm vào ngày chúng ta không ngờ, vào giớ chúng ta không biết. Liệu chúng ta có ở trong tư thế tỉnh thức và sẵn sàng hay không?
Nhiều người trong chúng ta vốn thường nghĩ:
– Tôi không có thời giờ để lo việc linh hồn, bởi vì tôi bận rộn quá nhiều công việc phải làm.
Nếu nghĩ và sống như vậy, họ sẽ có cả một khoảng thời gian đời đời để hối tiếc cho việc đã không làm này. Nhưng bấy giời thì đã quá muộn. Nước đến chân rồi mới nhảy, thì nhảy làm sao cho kịp.
Chúng ta không biết việc phán xét ấy xảy ra như thế nào, nhưng chúng ta có thể tưởng tượng:Lúc bấy giờ Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng ta xem có mang hình ảnh của Ngài trong tâm hồn hay không? Nếu linh hồn chúng ta ở trong tình trạng ơn thánh, thì hình ảnh của Ngài sẽ tỏa sáng, bằng không, Ngài sẽ nói:
– Ta không biết các ngươi từ đâu mà đến.
Có một câu chuyện kể lại như sau:
Một linh hồn kia tới trước của thiên đàng, vừa ngơ ngác, lại vừa sợ hãi, nhưng cũng đưa tay ra và gõ. Khi được hỏi là ai, linh hồn ấy đã trả lời:
– Lạy Chúa, con đấy ạ.
Bỗng một tiếp đáp lại: – Nếu ngươi là con, thì ngươi chưa sẵn sàng để vào thiên đàng.
Trở lại trần gian, linh hồn ấy lo ăn chay cầu nguyện, hãm mình phạt xác. Cũng trong thời gian này, linh hồn ấy học hỏi và biết được rằng trong ngày phán xét, Chúa sẽ hỏi: – Ngươi có mang hình ảnh Ta trong tâm hồn ngươi hay không?
Ngày kia, linh hồn ấy cũng lên tới của thiên đàng và khi nghe tiếng hỏi: – Ai đó?
Linh hồn ấy đã thưa lên: – Chúa đấy.
Lập tức có tiếng vọng lại: – Hỡi đầy tớ trung thành và khôn ngoan, hãy vào lãnh lấy phần thưởng của ngươi.
Mỗi người chúng ta đều phải chết. Đó là là sự thật thứ nhất. Rồi sau đó, mỗi người chúng ta đều bị phán xét. Đó là sự thật thứ hai. Trót cả cuộc đời, chúng ta phải hướng tới hai sự thật ấy.
Vậy chúng ta đã sẵn sàng cho cuộc phân xử định mệnh này hay chưa? Nếu như chúng ta chưa sẵn sàng, nếu như chúng ta còn vướng mắc quá nhiều những món nợ đối với Chúa và đối với anh em, nếu như chúng ta còn chồng chất tội lỗi, thì ngay từ hôm nay, chúng ta hay thanh toan cho xong bằng tâm tình sám hối của bí tích giải tội, để rồi chúng ta không còn phải lo lắng khi phải tính sổ cuộc đời với Chúa.
(Trích trong Manna năm C – Lm. Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Cuộc sống con người đầy những bất ngờ. Có những điều tôi nghĩ sẽ không bao giờ xảy ra, thậm chí tin chắc sẽ không thể xảy ra được, vậy mà thực tế chúng lại xảy ra. Có những bất ngờ thú vị làm tôi ngất ngây. Có những bất ngờ đớn đau làm tôi hụt hẫng.
Lắm người đi coi bói để biết trước tương lai, hầu mong tránh được những bất ngờ bi thảm.
Người kitô hữu tin rằng vũ trụ sẽ có ngày cùng tận, lịch sử sẽ kết thúc bằng biến cố Đức Kitô quang lâm. Nhưng khi nào chuyện đó xảy ra, chẳng ai biết được. Nó giống như tấm lưới bất thần chụp xuống trên tất cả dân cư trên mặt đất.
Thiên Chúa có tàn nhẫn không khi cứ thích cái bất ngờ, khi cứ để cho con người sống trong thấp thỏm? Thật ra cái bất ngờ chỉ đáng sợ khi Ngài đến mà đèn chúng ta đã cạn dầu, và những nén bạc Ngài giao vẫn còn bị chôn giấu. Nếu chúng ta luôn thanh thoát, sẵn sàng, thì việc Ngài đến sẽ là một bất ngờ thú vị.
Chúng ta dễ bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế. Trái tim chúng ta dễ bị trì trệ, nặng nề, vì ăn nhậu say sưa, vì nuông chiều thân xác, hay vì quá lo lắng cho cuộc sống hiện tại.
Cả những lo lắng chính đáng cũng có thể kéo ta đi xa, và làm ta đánh mất khả năng dừng lại.
Chúng ta bị chìm ngập trong những tính toán làm ăn, lo toan cho cuộc sống mà quên tìm lẽ sống.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những điều kinh khủng những xáo trộn sâu xa trong vũ trụ vào ngày Chúa đến.
Chúng ta không nên hiểu mọi hình ảnh ấy theo nghĩa đen.
Điều quan trọng hơn là những xáo trộn nơi lòng người: lo lắng hoang mang sợ hãi đến hồn xiêu phác lạc… khi Đức Giêsu ngự đến uy nghi như vị Thẩm Phán.
Nhiều người sẽ khiếp sợ rụng rời trước nhan Ngài, nhưng đối với những ai đã tỉnh thức, cầu nguyện, thì đây lại là giây phút được mong đợi từ lâu Đấng họ chỉ thấy trong lòng tin, nay được diện đối diện.
Đây là cuộc hạnh ngộ giữa những người yêu nhau. Chúa nhận ra tôi, tôi nhận ra Chúa, và tôi hiểu rằng chẳng gì có thể chia lìa được chúng tôi.
Tư thế của người biết mình sắp được giải phóng là tư thế đứng, đứng thẳng, đứng vững, đầu ngẩng cao, lòng tràn ngập hy vọng và hân hoan vui sướng trước chiến thắng dứt khoát và trọn vẹn của Vua Giêsu.
Mùa Vọng nhắc ta lần đến đầu tiên của Con Chúa, và nhắc ta chuẩn bị lần đến cuối cùng của Ngài. Giữa hai lần ấy, có biết bao lần Ngài bất ngờ đến. Xin cho tôi luôn đứng thẳng, cao đầu ra đón Ngài, chẳng chịu bỏ lỡ một lần cùng Ngài gặp gỡ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cuộc sống được đan bằng những bất ngờ. Mỗi ngày là một bất ngờ, nên mỗi ngày có hương vị riêng. Bạn nghĩ gì về những người mê bói toán? Bạn có thích biết trước mọi chuyện tương lai của bạn không?
Nếu ngày mai tận thế thì hôm nay bạn sẽ làm những việc gì?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Chúa hiện diện lặng lẽ như tấm bánh nơi nhà Tạm, nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ, những người sống không ra người.
Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người gặp gỡ nhau để chia sẻ lời Chúa.
Chúa hiện diện nơi Giáo hội gồm những con người yếu đuối, bất toàn, và Chúa cũng ở rất sâu trong lòng từng kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con thấy Chúa đang tạo dựng cả vũ trụ và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa.
Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.
Xin cho con khám phá ra Chúa đang hẹn gặp con nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.
Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi, thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa. Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa trên bước đường đời của con. Amen.
Ngày nay, nhiều công ty bảo hiểm đưa ra nhiều loại bảo hiểm khác nhau cho người dân tham gia. Nào là bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp, bảo hiểm tai nạn giao thông, bảo hiểm nhà đất…Người tham gia sẽ được nhiều ưu đãi khi có sự cố. Như vậy, có thể nói hơn bao giờ hết bảo hiểm ngày nay thật phong phu và đa dạng.
Dường như cuộc sống càng văn minh bao nhiêu thì mức độ an toàn lại càng mong manh bấy nhiêu. Từ đó, con người mong được chút nào đó bảo đảm nơi các loại bảo hiểm trên. Ngoài ra, thiết nghĩ có một loại bảo hiểm mà ta ít để ý tới mà nó lại là vấn đề sinh tử. Loại ấy là bảo biểm Nước Trời.
Mùa vọng là mùa của hy vọng và trông chờ. Hy vọng và trông chờ ngày đại lễ Giáng sinh – ngày kỷ niệm Chúa Giêsu đến thế gian lần thứ nhất. Hy vọng và trông chờ ngày Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang vào ngày tận thế. Cách riêng, hy vọng và trông chờ ơn cứu độ của Thiên Chúa đến với từng người. Nói cách khác, người tín hữu hy vọng và trông chờ vào bảo hiểm Nước Trời. Loại bảo biểm này hoàn toàn miễn phí nên không có phân biệt thành phần tham gia.
Ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ đến cho những ai biết tỉnh thức và sẵn sàng. Xem ra Lời Chúa được Thánh Luca ghi lại trong đoạn Tin mừng hôm nay có vẻ ghê sợ. Từ cảnh “muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét” đến “người ta sẽ lo sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu….”. Rồi “ngày ấy như chiếc lưới bất thần ập xuống…”. Những hình ảnh đó muốn nói lên thế giới này rồi sẽ qua đi. Nó sẽ nhường lại cho thế giới mới tốt đẹp hơn.
Hơn nữa, thế giới mới này có đặc tính vĩnh cửu và không hư mất. Không có quyền lực nào có thể làm gì được với thế giới mới này. Đối với những ai đã được bảo hiểm Nước Trời lo thì bảo đảm và không có gì phải ghê sợ.
Tóm lại, những gì con người cho là vững chắc ở trần gian này như quyền lực, địa vị, tiền bạc, vợ đẹp con ngoan hay nhà cao cửa rộng…..Thậm chí mặt trời, ngôi sao, biển cả và hàng vạn tinh tú sẽ thay đổi hết. Lúc ấy chỉ còn tồn tại duy nhất loại bảo biểm Nước Trời. Cho nên, thái độ khôn ngoan của người ta là hãy trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa. Đồng thời, luôn biết chuẩn bị sẵn sàng bằng siêng năng cầu nguyện và tỉnh thức đừng để mình mê ngủ trong tội.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Đoạn Phúc Âm hôm nay liên quan trực tiếp đến sự quang lâm của Con Người, chấm dứt vòng thịnh suy của thời gian và thiết lập Ngày Quang Vinh của Chúa (Chúa Nhật là biểu tượng, đồng thời là tiền diễn Ngày đó). Chọn bản văn này cho thời kỳ chuẩn bị lễ Giáng Sinh, Giáo Hội muốn lưu ý chúng ta đến sự kiện Chúa Giáng Sinh mở màn cho một lịch sử sẽ kết thúc trong huy hoàng rực rỡ, như chúng ta có thể đoán trước. Sự Chúa sinh ra, thời thơ ấu của Chúa đưa đến kết quả là tôn vinh tính loài người trong Chúa. Tuy nhiên trong quá trình lịch sử ấy có xen lẫn những thảm kịch của tự do. Những kẻ được tham gia tôn vinh Đức Kitô là những kẻ đã cẩn mật canh thức, vì thế giữ vững được lòng trung thành. Họ chiến đấu chống sự dữ, vì sự dữ là thất bại của tự do.
Như vậy, Đức Kitô làm nổi bật khía cạnh cá nhân của một biến cố chung, là sự tận cùng thế giới chúng ta đang sống. Ngày nay, nhiều người muốn tổ chức thế giới như thể xem thế giới là bất diệt. Họ cũng cho rằng không cá nhân nào khỏi chết, tuy nhiên nhân loại gồm những cá nhân chìm biến trong đó thì bất diệt. Đức Giêsu nói: Thế giới trong hình thái hiện nay sẽ qua đi. Mỗi người tin, trong cuộc đời hiện tại, phải canh thức và cầu nguyện vì chính cá nhân mình chịu trách nhiệm về số phận vĩnh cửu của mình.
Đối với mỗi người, ngày giờ chết sẽ đến bất chợt, dù có dự đoán. Cũng vậy, đối với nhân loại, ngày tận thế sẽ đến vào lúc không ngờ. Chúng ta tự hỏi, mình có trong số những kẻ trông thấy ngày tận thế không? Chúng ta làm sao biết được? Dẫu thế nào đi nữa, chúng ta biết chắc chúng ta sẽ chết. Chúng ta phải chuẩn bị kỹ cuộc gặp gỡ riêng với Chúa, như thể ngày mai sẽ tận thế. Điều quan trọng là lúc gặp Chúa chúng ta có thể đứng thẳng trước Con Người, cách rất khiêm nhượng đơn sơ, hy vọng được Chúa đón nhận vì mình đã hết lòng ăn ở hiếu thảo, không bị Chúa xét phạt.
Suy Niệm 1. NÉT XANH TƯƠI NƠI NHỮNG KẺ THEO CHÚA
Có một câu chuyện (của John Shea, trong cuốn ‘Giai thoại về những cái chuông’) kể lại rằng khi Thiên Chúa dựng nên các cây cối, Người ban cho mỗi loài cây một ân huệ. Nhưng ban đầu, khi Người đưa ra một cuộc tranh luận, để xác định xem ân huệ nào sẽ có lợi ích nhất. Người nói với chúng: “Ta muốn rằng các ngươi phải thức tỉnh và tiếp tục coi sóc cả mặt đất trong vòng bảy đêm”.
Những thân cây còn non rất phấn khởi, vì được Người tin tưởng giao phó cho một công việc quan trọng như vậy, đến nỗi trong đêm đầu tiên, chúng nhận thấy việc canh thức không có gì là khó khăn cả. Tuy nhiên, trong đêm thứ hai, thì việc đó không còn quá dễ dàng nữa, và vừa trước khi đến lúc rạng đông, một số cây đã lăn ra ngủ. Trong đêm thứ ba, các thân cây thì thầm nhắc nhở nhau cố gắng giữ mình, để khỏi ngủ lăn ra. Mặc dù vậy, điều này chứng tỏ là quá sức đối với một số cây. Trong đêm thứ tư, lại có thêm vài thân cây nữa ngủ gục. Đến đêm thứ bảy, những thân cây duy nhất còn tỉnh thức chỉ là cây tuyết tùng, cây thông, cây vân sam, cây linh sam, cây nhựa ruồi và cây nguyệt quế mà thôi.
Thiên Chúa kêu lên: “Sức chịu đựng của các ngươi tuyệt vời thật! Các ngươi sẽ được ban cho một ân huệ là giữ được mầu sắc xanh tươi mãi mãi. Các ngươi sẽ trở thành những kẻ canh gác khu rừng. Ngay cả trong mùa đông dường như mang lại cảnh chết chóc, thì các cây cối anh chị em của các ngươi vẫn bảo vệ được sự sống trên những cành cây của các ngươi”.
Kể từ đó, tất cả các cây cối và thực vật đều bị rụng lá và ngủ trong suốt mùa đông, trong những khi cây thường xanh thì vẫn còn tỉnh thức. Câu chuyện này minh họa lại hai chủ đề chính của Mùa Vọng: Sự tỉnh thức giữa cảnh ngủ mê, và sự xanh tươi giữa nơi cằn cỗi.
Nơi những cây thường xanh, chúng ta ghi nhận được một sự thách đố mang tích cách lịch sử, nhưng kiên quyết. Thế giới chung quanh có thể ngủ mê hoặc cằn cỗi, nhưng những thân cây này vẫn tiếp tục mang lại lời chứng. Chúng vẫn kiên trì, không phải do sự xác quyết của bản thân chúng, mà nhờ vào sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng chỉ ra cho chúng ta thấy rằng, trong tư cách là người Kitô hữu, vai trò của chúng ta phải là gì. Đó là phải tỉnh thức giữa những kẻ ngủ mê, phải xanh tươi giữa những kẻ cằn cỗi. Để làm chứng cho Thiên Chúa, chúng ta phải yêu thương giữa cảnh hận thù, bình an giữa nơi xung đột, và sáng sủa giữa chốn tối tăm.
Trong xã hội của chúng ta, có những người đặc biệt cần phải tỉnh thức. Chúng ta nghĩ đến những người đang đảm nhận các công việc mang rất nhiều trách nhiệm, chẳng hạn như các phi công, tài xế (có biết bao tai nạn gây ra do những người ngủ gục trong khi đang cầm lái), các y tá trực đêm, các bậc cha mẹ đang có con cái đau yếu, những người làm công tác bảo vệ an toàn…
Nhưng tất cả chúng ta đều được kêu gọi phải tỉnh thức theo nghĩa rộng. Nói cách khác, chúng ta sẽ bị lỡ làng rất nhiều. Có nhiều người ngủ mê trong suốt cuộc sống của họ. Họ có tai, nhưng không biết lắng nghe, có mắt, nhưng không nhìn thấy. Tất cả chúng ta đều cần phải tỉnh thức, bởi vì cuộc sống thật quý giá. Nhưng cuộc sống của người Kitô hữu là đáng quý nhất. Chúng ta không chỉ được thúc giục phải “tỉnh thức”, mà còn phải cảnh giác nữa.
Chúa đòi hỏi chúng ta, những kẻ đi theo Người, phải luôn tỉnh thức, phải trở thành những môn đệ đầy cảnh giác, đầy tin tưởng, phải là những kẻ đi theo Người luôn xanh tươi mãi mãi. Chúng ta là những chứng nhân của Người trong thế giới này. Không phải là quá đáng, khi tuyên bố rằng chúng ta phải thận trọng quan sát khắp cả thế giới. Chúng ta phải làm chứng cho sự sống và niềm hy vọng giữa cảnh đổ vỡ, biến động và chết chóc.
Khi làm chứng cho chân lý, công bằng, yêu thương và an bình, là chúng ta đang làm chứng cho Đức Giêsu. Cách thế làm chứng cho chân lý phải là sống trọn vẹn cho chân lý. Cách thế làm chứng cho lẽ công bằng là phải hành động một cách công bằng. Cách thế làm chứng cho tình yêu thương là phải có những hành động đầy yêu thương. Và cách thế làm chứng cho hòa bình là phải sống trong sự bình an đối với người khác.
Nói tóm lại, cách thế có hiệu quả nhất để làm chứng cho Đức Giêsu là phải sống một đời sống Kitô hữu đích thực. Chúng ta cần có sức mạnh, để duy trì được sự kiên định và lòng tin. Thiên Chúa luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta, đặc biệt khi chúng ta cầu nguyện.
Suy Niệm 2. CHỜ ĐỢI CHÚA ĐẾN
Chúng ta đang sống trong một thời kỳ ở giữa hai ngày Đức Kitô đến. Ngày Người đến lần đầu tiên cách đây hơn 2000 năm tại Bêlem. Chúng ta tin tưởng rằng Đức Kitô sẽ đến lần thứ hai trong vinh quang vào thời sau hết. Trong khi chờ đợi, chúng ta có thể tìm thấy Đức Kitô ở đâu?
Lần kia, có một sinh viên người Do Thái rất đứng đắn, anh có một ao ước cháy bỏng được nhìn thấy ngôn sứ Êlia, thế là anh khẩn khoản xin cha anh chỉ cho thấy ngài. Người cha trả lời: “Nếu con không ngừng hết lòng nghiên cứu kinh Tôra, cha hứa với con rằng con sẽ xứng đáng được nhìn thấy ngôn sứ Êlia”.
Trong vài tuần, người con trai nhiệt thành chuyên chú vào việc học hỏi của mình, bằng cách miệt mài vào những cuốn sách thánh cả ngày lẫn đêm. Thế rồi anh đến gặp cha và nói: “Con đã làm điều mà cha dặn bảo, nhưng ngôn sứ Êlia vẫn không tự bộc lộ bản thân ngài cho con”.
Người cha trả lời: “Con đừng nản lòng như vậy. Nếu con xứng đáng, thì chắc chắn ngài sẽ tự bộc lộ về chính ngài cho con”.
Một đêm kia, con trai ông đang ngồi tại bàn của mình, thì một người nghèo khổ đi tới. Người này lấm đầy bụi đường và quần áo rách tả tơi. Với gương mặt thô nhám, trên chiếc lưng còng mang một cái túi nặng nề, người đó sắp sửa đặt cái túi xuống, thì anh ta tức giận nói với ông “Đừng làm như vậy. Thế ông nghĩ chỗ này là một cái quán trọ à?”.
Người khách vãng lai khẩn khoản “Tôi quá mệt. Xin cho tôi nghỉ ở đây một lát, rồi tôi sẽ đi tìm chỗ trọ”.
“Không. Ông không thể ở lại đây được. Cha tôi không cho phép những kẻ lang thang được đến và ở lại đây, với cái túi lấm đầy bụi bặm của họ”.
Thế là kẻ xa lạ thở dài, đỡ cái túi lên vai của mình và ra đi. Khoảng một giờ sau, người cha đến. Ông hỏi “Vậy con đã nhìn thấy ngôn sứ Êlia chưa?”.
Anh con trai đáp “Dạ chưa, con chưa hề nhìn thấy ngài”.
Người cha hỏi “Thế hôm nay không có người nào đến đây à!”
Anh con trai đáp: “Dạ không ạ. Vừa mới đây, có một kẻ lang thang mang một cái túi nặng đi tới đây”.
“Vậy con có tiếp đón họ không?”
“Dạ không ạ!”
“Tại sao con không chịu đón tiếp người này? Con không biết rằng đó chính là ngôn sứ Êlia sao? Cha e rằng quá muộn mất rồi”.
Kể từ ngày hôm đó, anh con trai tự bắt buộc mình phải đón tiếp kẻ xa lạ, bất kể người đó trông như thế nào, hoặc tình trạng cuộc sống của họ ra sao. Và khi làm như vậy, anh tin tưởng rằng mình đang thực sự đón tiếp ngôn sứ Êlia.
Chúng ta có thể tìm thấy Đức Kitô và phục vụ Người trong người đồng loại của chúng ta, đặc biệt nơi những người nghèo khổ và thiếu thốn. Nhưng chúng ta còn có một công việc khác nữa, nghĩa là làm cho Đức Kitô trở nên “hữu hình” đối với những kẻ đang hoài nghi và không có niềm tin. Chúng ta là những chứng nhân của Đức Kitô trên thế giới.
Cách làm chứng lôi cuốn nhất đối với thế giới chính là sự quan tâm đến mọi người, và sống bác ái đối với người nghèo khổ, yếu đuối và đau khổ. Lòng quảng đại bên dưới thái độ này, và những hành động này chứng tỏ sự tương phản đối với thói ích kỷ. Chắc chắn điều đó đưa đến những câu hỏi dẫn đến Thiên Chúa và Tin Mừng. Lời cam kết đem lại hòa bình, công chính và quyền lợi cho con người chính là một cách làm chứng cho Tin Mừng.
Trong khi mỗi người đều có một phần đóng góp, thì điều quan trọng nhất chính là chứng tá của cộng đồng Kitô hữu. Với tư cách là một thân thể, các Kitô hữu phải làm chứng cho thế giới về Đức Kitô, qua tình yêu của họ đối với nhau, qua niềm hy vọng và niềm vui mà họ phản ánh ra.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Kính thưa cộng đoàn,
Chúng ta bước vào Mùa Vọng, hay còn gọi là mùa Ad. Mùa Vọng, nguyên nghĩa tiếng Latin là Adventus, (có nghĩa là đến, quang lâm). Thời thánh Giáo hoàng Grêgôriô I, thời gian chuẩn bị đón chờ Chúa đến trước lễ Giáng Sinh kéo dài bốn tuần được gọi là Mùa Vọng.
Hỏi: Chúa đã đến chưa? Chúng ta phải khẳng định với nhau rằng: Chúa đã đến rồi. Vậy chúng ta còn mong chờ Chúa nào nữa?
Mùa Vọng Giáo hội đang sống là sống với hai chiều kích: một là tưởng niệm biến cố Nhập thể làm người của Đức Giêsu Con Thiên Chúa, sinh bởi Đức Maria Đồng Trinh; hai là chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang để “phán xét kẻ sống và người chết”, như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Đó là lý do các từ “chờ đợi” được người ta nhắc nhiều đến trong Mùa Vọng. Các lễ nghi cử hành Phụng vụ trong Mùa Vọng, từ màu sắc, các bài đọc, các bài thánh ca đều diễn tả niềm hy vọng với lời cầu xin tha thiết: “Maranatha – Ngài ơi hãy đến, Ngài đến mau đi”, và hơn thế nữa dân Do Thái kêu van: “Xin Ngài xé tầng trời mà ngự xuống”.
Vì sống cả hai chiều kích, nên người kitô hữu phải mặc tâm tình của dân Cựu Ước và của chính mình ngày hôm nay.
Mùa Vọng trong Kinh Thánh
Phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Vọng làm chúng ta nhớ lại sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: “Từ gốc tổ Giêsê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non…” (x.Is 11, 1-10).
Lời thiên thần Gabriel cho biết Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu…” (x.Lc 1, 26-38)
Gioan Tẩy Giả, con trai của Êlisabét và là anh em họ với Chúa Giêsu, xuất hiện trước để loan báo việc Con Thiên Chúa đến, kêu gọi mọi người hoán cải và rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1, 1.8 và Ga 1, 19.28)
Như thế, những việc cử hành thánh trong Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta hoán cải nội tâm, canh tân niềm tin, vững tin vào tương lai và trở lên men giữa lòng thế giới.
Mùa Vọng
Trong lịch phụng vụ Công Giáo, Mùa Vọng kéo dài bốn tuần và mỗi tuần có tên gọi truyền thống đặc thù của nó, gồm những lời đầu tiên của bài thánh ca mở đầu:
– Chúa nhật I Mùa Vọng: Ad Te levavi… (= Con nâng tâm hồn con lên tới Chúa, lạy Chúa…)
– Chúa nhật II Mùa Vọng: Populus Sion… (Này hỡi Dân Sion…)
– Chúa nhật III Mùa Vọng: Gaudete… (= Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa…)
– Chủ nhật IV Mùa Vọng: Rorate… (= Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa Đấng Công Chính…)
Đức Giêsu dạy chúng ta sống Mùa Vọng
Đức Giêsu đã đến rồi, nên chiều kích thứ nhất của Mùa Vọng nhắc lại cho chúng ta việc Chúa đến lần thứ nhất, và tỉnh thức sẵn sàng đón Chúa tái lâm là chiều kích thứ hai: “Vì giờ cứu rỗi các con đã đến gần” (x. Lc 21, 25-28, 34-36).
“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến” (Lc 21, 25-28). Đó là những dấu hiệu báo trước ngày Chúa tái lâm.
Hơn bao giờ hết, con người thời nay hết sức đau buồn vì quân khủng bố IS tại Syria. Nếu như các kitô hữu tại Irắc và Syria kêu la thảm thiết trong những năm qua, thì bây giờ là Nga và Pháp quốc hết sức lo lắng. Biển gầm lên, đất rung chuyển tại Nhật Bản, Inđônêsia, Trung Quốc và nhiều nơi khác nữa thiêu hủy biết bao sinh mạng con người. Phải chăng giờ cữu rỗi đã gần đến?
Lời Chúa Giêsu khuyên chúng ta vẫn còn cấp bách: “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!” (Lc 21, 34-36).
Năm Thánh Lòng Thương Xót
Chúng ta đang ở ngưỡng cửa của Năm Thánh Lòng Thương Xót với khẩu hiệu Thương Xót Như Chúa Cha (x. Lc 6,36) là lời mời gọi sống lòng thương xót theo gương Cha trên trời, dạy chúng ta đừng xét đoán và kết án, nhưng hãy tha thứ và yêu thương vô giới hạn (x. Lc 6,37-38).
Thế giới dường như đang cạn kiệt tình thương, nên loài người giết hại nhau, hủy hoại môi sinh, khiến thiên nhiên nổi nóng chống lại con người. Đức Phanxicô nói: Người Kitô hữu được khích lệ mở các cửa của mình để cùng Chúa Cứu Thế giáng sinh đi gặp gỡ những ai đang đi trên đường. Sách Khải Huyền viết: “Ta đứng ngoài cửa và gõ”. Chúa gõ cửa lòng chúng ta: “Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa chiều với người ấy và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Chúa đang chờ đợi chúng ta mở cửa để bước vào đem theo phúc lành cũng như tình bạn của Chúa đến cho chúng ta.
Chúa Giêsu là Hoàng Tử Hòa Bình, vì Người sinh ra hòa bình trong trái tim chúng ta. Người đến thế gian bằng lòng thương xót với tình nhân loại, và sự cảm thương dịu hiền của một Vì Thiên Chúa là Cha. Lợi dụng cơ hội này, để bước vào ngưỡng của lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta phải ý thức mình là người mang lòng từ bi thương xót, hòa giải và an bình, sẵn sàng trao ban và tha thứ cho nhau, liên đới trong tình thương xót, tử tế, giúp đỡ lẫn nhau, đồng tâm chia sẻ vui buồn, đau khổ với đồng loại.
Lạy Mẹ Maria, Thân Mẫu của Lòng Thương Xót, Thân Mẫu của Đấng Chịu Đóng Đinh và cũng là Thân Mẫu của Đấng Phục Sinh đã bước vào trong thánh địa Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, xin dẫn chúng con bước vào cửa lòng thương xót cả Thiên Chúa. Amen.
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Phụng Vụ là việc Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, một Mầu Nhiệm được thực sự tái diễn và tiếp diễn một cách trọn vẹn qua Phụng Niên của Giáo Hội, một Năm Phụng Vụ được mở màn từ Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng như hôm nay đây. Thế nhưng, theo Dự Án Cứu Độ của Thiên Chúa cũng như theo lịch sử, Chúa Kitô thực sự đã được sinh ra rồi, hơn 2000 năm trước đây, thì Mùa Vọng chúng ta đang cùng Giáo Hội bước vào đây là gì, nếu không phải là việc Giáo Hội hướng về và mong đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai. Đó là lý do bài Phúc Âm Thánh Luca Năm C hôm nay ở đoạn 21 và câu 27 đề cập tới việc Chúa Kitô đến lần sau hết: “Loài người sẽ thấy Con Người đầy uy quyền và vinh quang đến trên mây trời”.
Nhưng vấn đề ở đây là, nếu Chúa Kitô đã thực sự đến rồi, thì Kitô hữu chúng ta đã cảm nghiệm được Người chưa, hay Người vẫn ở trong tình trạng, như Thánh Gioan Tiền Hô đã nói thẳng với dân Do Thái là thành phần cũng trông đợi Vị Cứu Tinh của họ đến, trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 26 là: “có một Đấng ở giữa các người mà các người không biết”. Đó là lý do tại sao, để nhận ra Đấng Thiên Sai đã đến với Dân Do Thái, như lời Chúa hứa với họ qua tiên tri Giêrêmia trong bài đọc thứ nhất hôm nay, cũng là Đấng đã ở giữa loài người chúng ta, Chúa Giêsu đã nói với chúng ta trong bài Phúc Âm hôm nay, là chúng ta phải “đứng vững trước Con Người”. Thế nhưng, tại sao Kitô hữu chúng ta cần phải “đứng vững trước Con Người” và nhất là làm thế nào để có thể “đứng vững trước Con Người”? Nếu Kitô hữu chúng ta không ý thức được vấn đề “đứng vững trước Con Người” bằng đời sống của mình, thì chúng ta chưa thực sự Sống Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh trong Mùa Vọng của Giáo Hội, nghĩa là Chúa Kitô vẫn còn là một Đấng ở giữa chúng ta mà chúng ta không biết!
Đúng thế, Mùa Vọng tới, chẳng những Kitô hữu mà cả trần gian, bao gồm tất cả mọi tín đồ thuộc tất cả mọi tôn giáo khác, không nhiều thì ít, đang sửa soạn đón mừng Giáng Sinh, ít là bề ngoài với những cánh thiệp chúc mừng nhau hay mua bán quà tặng trao cho nhau. Tuy nhiên, nếu không ý tứ, chúng ta đang sửa soạn dọn mừng Lễ Giáng Sinh hơn là dọn lòng để gặp được chính Vị Chúa Giáng Sinh. Những mầu sắc tưng bừng vui nhộn bề ngoài bắt đầu xuất hiện ở các khu thương mại, hay ở trước nhà của một số gia đình, liên quan đến việc mua sắm, trưng bày và tặng quà cho nhau, có thể làm cho chúng ta bị chi phối và quên đi chính cái ý nghĩa linh thiêng cao cả của Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh. Từ đó, đối với không ít người, Lễ Giáng Sinh đã bị tục hóa, trở thành một dịp nghỉ ngơi vui chơi như tất cả mọi cuộc lễ khác.
Đó là lý do vấn đề tại sao Kitô hữu chúng ta cần phải “đứng vững trước Con Người” là vấn đề có liên quan hết sức mật thiết đến đức tin của Kitô hữu chúng ta. Thật vậy, tất cả Kitô hữu chúng ta đều đã được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, tức đã được trở nên con cái Thiên Chúa. Thế nhưng, biến cố chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa không phải chỉ là đặc ân Thiên Chúa ban cho chúng ta thôi, mà còn là việc chúng ta đáp ứng ân huệ Ngài ban nữa. Đúng thế, việc Con Thiên Chúa Làm Người là để loài người chúng ta được làm con Thiên Chúa, như Thánh Phaolô đã minh định trong Bức Thư gửi cho giáo đoàn Galata ở đoạn 3, câu 4 và 5 như sau: “Đến thời gian ấn định, Thiên Chúa đã sai Con Mình đến, sinh hạ bởi một người nữ, sinh ra theo lề luật để giải cứu những ai bị lụy thuộc lề luật, để chúng ta được hưởng địa vị làm thành phần dưỡng tử”. Tuy nhiên, một khi được Thiên Chúa kêu gọi làm dưỡng từ của Ngài trong Chúa Kitô, loài người chúng ta cũng cần phải xòe tay mở lòng đón nhận nữa, ở chỗ tỏ ra tin tưởng nhận biết Con Thiên Chúa được hạ sinh bỡi người nữ. Đó là lý do Phúc Âm Thánh Gioan, đoạn 1, từ câu 10 đến câu 12, đã xác nhận như sau: “Người đã ở trong thế gian, nhờ Người thế gian đã được tạo thành, song thế gian lại không nhận biết Người. Người đã đến với dân riêng của Người, song họ không chấp nhận Người. Bất cứ ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền trở nên con cái Thiên Chúa”.
Như thế, việc “đứng vững trước Con Người” đây chính là việc chúng ta tỏ ra hết sức trung thành với đức tin của mình, ở chỗ, không bao giờ chối bỏ hay dám chối bỏ Vị Thiên Chúa Làm Người, trái lại, hoàn toàn và liên lỉ tin tưởng chấp nhận Người, Đấng được Bức Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái ở đoạn 9 câu 28 xác định là “sẽ đến lần thứ hai không phải để xóa bỏ tội lỗi mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người”, tức cho thành phần “bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ”, như Chúa đã khẳng định trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 24, câu 13. Chi tiết vùa đề cập đến trên đây có thể se õ làm cho một số người trong chúng ta tự nhiên nhớ lại lời Chúa Kitô tiên báo trong Phúc Âm Thánh Luca ở đoạn 9 câu 27 tuần trước, đó là câu “trong những kẻ đang đứng đây có một số sẽ không nếm cái chết cho đến khi họ thấy triều đại Thiên Chúa”. Chúa Giêsu ám chỉ về ai khi Người nói “có một số sẽ không nếm cái chết cho đến khi họ thấy triều đại Thiên Chúa”?
Về lời Chúa Giêsu nói “có một số sẽ không nếm cái chết cho đến khi họ thấy triều đại Thiên Chúa”, theo suy diễn của người chia sẻ đây thì đó là môn đệ Stêphanô và tông đồ Gioan. Trước hết, đó là Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Kitô Giáo, bởi vì, ngay trước khi chết, Sách Tông Vụ ở đoạn 7 câu 56 đã thuật lại rằng “Người kêu lên ‘Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đang đứng bên hữu Thiên Chúa’”, một thị kiến rất ăn khớp với lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm Thánh Mathêu, đoạn 16, câu 28: “có một số sẽ không nếm cái chết trước khi họ thấy Con Người đến trong vương quyền”. Sau nữa, trong số này còn có tông đồ Gioan, bởi vì, theo Phúc Âm Thánh Marcô đoạn 9 câu 1 ghi là “có một số sẽ không nếm cái chết cho đến khi họ thấy triều đại Thiên Chúa được thiết lập trong quyền năng”, thì trong Tông Đồ đoàn chỉ có một mình Thánh Gioan cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân thập giá Chúa Kitô (xem Jn 19:25), để chứng kiến giây phút Nước Cha bắt đầu trị đến, giây phút vương quốc Satan bị tiêu diệt, cũng là giây phút thiên đàng mở ra cho tội nhân vào, mà người đầu tiên bước vào lại là người tử tội bị đóng đanh bên hữu Chúa Giêsu (xem Lk 23:43). Ngoài ra, cũng chỉ có một mình vị tông đồ Gioan này, trước khi chết, như ngài đã cho biết trong Sách Khải Huyền của ngài, ở đoạn 21, câu 2, thế này: “Tôi cũng thấy một tân Giêrusalem từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống, diễm lệ như cô dâu sửa soạn nghênh đón lang quân của mình”, nghĩa là thánh nhân được thị kiến “thấy triều đại Thiên Chúa được thiết lập trong quyền năng”.
Vì vấn đề “đứng vững trước Con Người”, như đã diễn giải trên đây, mật thiết liên quan đến đức tin, do đó, để có thể “đứng vững trước Con Người”, Kitô hữu chúng ta cần phải giữ vững đức tin của mình, thế thôi, nói cách khác, giữ vững đức tin của mình là “đứng vững trước Con Người”, nhất là vào những lúc đêm tối đức tin, bị thử thách, chịu khổ đau, bị bách hại chống đối, đặc biệt vào những ngày cuối thời, những ngày khủng khiếp chưa từng thấy từ tạo thiên lập địa, như Chúa Giêsu báo trước trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 24, câu 21, thời điểm mà, trong bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay, Chúa Kitô cũng căn dặn các môn đệ rằng: “Khi những điều này bắt đầu xẩy ra thì các con hãy thẳng đứng và ngước đầu lên, vì việc cứu chuộc các con gần đến rồi”.
Đúng vậy, cách duy nhất để chúng ta có thể “đứng vững trước Con Người”, tức để chúng ta tỏ lòng mình kiên trung với Chúa Kitô cho đến cùng, nhất là trong thời đại văn hóa sự chết của chúng ta ngày nay đây, đó là thái độ chúng ta “thẳng đứng và ngước đầu lên”. Thẳng đứng và ngước đầu lên như thế nào, Chúa Giêsu cũng đã cắt nghĩa rõ ràng trong bài Phúc Âm hôm nay ngay sau đó thế này, “các con hãy coi chừng kẻo tâm thần các con bị trì trệ bởi lạc thú, chè chén và lo toan thế gian”. Thẳng đứng và ngước đầu lên, về phương diện tiêu cực, chẳng những liên quan đến việc sống tu đức, mà còn, về phương diện tích cực, cho thấy cả cử chỉ cử hành Mầu Nhiệm Đức Tin nữa. Đó là cử chỉ Đức Tin của Mẹ Maria “thẳng đứng và ngước đầu lên” nhìn Con Mình treo trên thập giá trên đồi Canvê, một cử chỉ phụng vụ long trọng tế lễ Thiên Chúa. Đúng thế, nếu Chúa Kitô vẫn tiếp tục hiện diện và sống động với Giáo Hội cho đến tận thế, thì việc Giáo Hội cử hành Phụng Vụ “mà nhớ đến Thày” (Lk 22:19) chính là việc Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, cử hành Mầu Nhiệm Đức Tin của mình. Để rồi, nhờ tham dự Phụng Vụ một cách ý thức, chủ động và tích cực, Kitô hữu chúng ta được sống Mầu Nhiệm Chúa Kitô, hay Chúa Kitô tỏ hiện nơi Đức Tin của chúng ta và tỏ mình cùng ban mình cho lòng khao khát và trông mong của chúng ta. Tóm lại, Mùa Vọng là thời điểm Kitô hữu chúng ta phải làm sao cảm nghiệm được Thiên Chúa Làm Người đang thực sự ở cùng mỗi người chúng ta.
Mùa Vọng chẳng những là thời điểm Giáo Hội hướng về Chúa Kitô đến lần thứ hai, mà còn là thời điểm rất thích hợp để Kitô hữu chúng ta trở về nguồn nữa, tức trở về với Lịch Sử Cứu Độ của Thiên Chúa, để có thể cảm nhận được Thiên Chúa là Thần Linh đã thực sự tỏ mình ra cho loài người chúng ta, cho đến khi “Lời hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), để chúng ta “được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10).
Về thời điểm Lịch Sử Cứu Độ được bắt đầu từ lúc nào, chúng ta có thể căn cứ vào những yếu tố sau đây để có thể đi đến kết luận thế này. Trước hết, nếu “vì một người mà tội lỗi cùng với sự chết đã đột nhập thế gian”, như Thánh Phaolô xác nhận trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma, đoạn 5 câu 12, thì Lịch Sử Cứu Độ được bắt đầu từ Adong, từ lời Thiên Chúa hứa với ông ngay trong bản án nguyên tội, như được Sách Khởi Nguyên ghi lại ở đoạn 3 câu 15 như sau: “Ta sẽ gây mối thù giữa ngươi và người nữ, giữa giòng dõi ngươi và giòng dõi người nữ, người miêu duệ này sẽ đạp nát đầu ngươi”. Sau nữa, nếu việc Thiên Chúa cứu độ con người cần con người phải đáp ứng bằng đức tin, nghĩa là phải có đức tin con người mới được cứu độ, thì Lịch Sử Cứu Độ được bắt đầu từ Abraham là cha những kẻ tin (xem Rm 4:16-22; Gal 3:29), người đã bỏ quê cha đất tổ đi theo tiếng Chúa gọi đến nơi không biết mình sẽ đi về đâu (Gen 12:1-4; Heb 11:8), và nhất là đã không tiếc đứa con trai duy nhất của mình (Gen 22:16), một mầm mống theo lời Chúa hứa sẽ phát sinh một dân tộc đông như sao trời cát biển (Gen 15:1-6). Sau hết, nếu Dự Án Cứu Độ của Thiên Chúa được thực sự tỏ hiện trong lịch sử loài người, chứ không phải là một chuyện hoang đường và mộng tưởng, thì Lịch Sử Cứu Độ được bắt đầu từ Moisen, người được Thiên Chúa thực sự sai đến cứu dân Ngài cho khỏi cảnh làm tôi người Ai Cập mà đưa họ vào mảnh đất Ngài đã hứa với cha ông tổ phụ của họ (xem Ex 3:10).
Trong 4 tuần lễ Mùa Vọng tuần cuối bao giờ cũng đọc bài Phúc Âm trực tiếp liên quan đến biến cố Giáng Sinh của Chúa Kitô, hai tuần giữa liên quan đến vai trò Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong việc dọn đường cho Người đến. Và tuần đầu tiên với bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn để nhắc nhở con cái mình hãy tỉnh thức đón chờ Chúa Kitô tới. Riêng chu kỳ năm C, Phúc Âm Thánh Ký Luca ghi lại lời Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta và căn dặn chúng ta phải làm sao khi ơn cứu độ đến: Người bảo là phải tỉnh thức đừng chè chén say sưa với đam mê nhục dục và những vui thú trần thế, trái lại, phải đứng dậy và ngước đầu lên.
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa loài người chúng con bằng xương bằng thịt hơn hai ngàn năm trước đây. Nhưng Chúa vẫn hiện diện với Giáo Hội cho đến tận thế qua Thánh Thể và Quyền Linh Giáo Hội. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, xin cho chúng con được cảm nghiệm thần linh về sự hiện diện của Chúa là Đấng Emmanuel. Amen.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ít năm trước đây, một tài xế xe buýt đạt kỷ lục tài xế xuất sắc. Trong 23 năm làm tài xế, anh lại xe buýt trên 1.500.000km không gây tai nạn nào. Khi được hỏi, làm sao anh đạt được kỷ lục ấy, anh trả lời đơn giản: “Hãy nhìn đường”.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta một lời khuyên tương tự: “Hãy tỉnh thức”. Chúa Giêsu dùng nhiều kiểu nói: “Hãy coi chừng”, “Hãy chú ý”, “Hãy cảnh giác”, “Hãy ngẩng đầu lên”, “Hãy nhìn cho kỹ”. Tất cả là thái độ tỉnh thức. Tỉnh thức là nhận ra những điềm báo thời cứu độ đang đến và có thái độ thích hợp với tình thế đòi hỏi.
Tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến: Nếu ngày xưa dân Do Thái dựa vào lời các tiên tri loan báo, đã sống những thế kỷ dài chờ đợi Chúa Cứu Thế, thì ngày nay, dựa vào chính lời của Chúa Cứu Thế, chúng ta cũng đã trải qua 20 thế kỷ chờ đợi Chúa lại đến trong vinh quang. Vì thế, hai kiểu chờ đợi đó khác nhau. Trong quá khứ, dân Do Thái chờ đợi Chúa Cứu Thế đến lần thứ nhất: Ngài Giáng Sinh làm người. Còn chúng ta ngày nay, dựa trên cơ sở của biến cố Chúa đến lần thứ nhất nầy để vững tin và hy vọng vào biến cố Chúa sẽ lại đến lần thứ hai. Như vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta không chỉ hồi tưởng hay kỷ niệm quá khứ chờ đợi của dân Do Thái, mà chúng ta còn sống chính nỗi niềm chờ đợi của chúng ta. Từ đó, chúng ta mới hiểu lý do tại sao đầu năm phụng vụ Giáo Hội lại cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng liên quan đến biến cố cuối cùng: Ngày Chúa quang lâm.
Đoạn Tin Mừng này gồm hai phần rõ rệt: Phần thứ nhất là những hiện tượng lạ lùng trong vũ trụ. Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Liệu có thực sự xảy ra như vậy không? Đây là một lối diễn tả theo thể văn Khải huyền. Khó mà giải thích cho được sáng tỏ, khó mà thông hiểu cho rõ ràng. Vũ trụ sẽ thay đổi thế nào, thay đổi lúc nào, xác định việc đó là công việc của khoa học. Còn đối với chúng ta, đây là một cách diễn tả, xuất phát từ một cái nhìn về vũ trụ và con người. Con người và vũ trụ liên kết với nhau rất chặt chẽ. Sự liên đới giữa vũ trụ và con người rất mật thiết. Trước tiên là hỗn độn, hoang vu. Thiên Chúa can thiệp khi tạo dựng đất trời, sắp xếp đâu vào đấy: Thiên Chúa làm cho cảnh hỗn mang nguyên thuỷ biến thành vũ trụ diệu kỳ, và giao cho con người làm chủ vũ trụ. Nhưng con người làm đảo lộn vũ trụ bằng sự gian ác của mình. Vì vậy, vũ trụ dường như chìm trở lại trong cảnh hỗn mang nguyên thuỷ. Bây giờ Thiên Chúa quyết liệt can thiệp, để tái tạo trật tự, để làm cho xuất hiện một trật tự mới với “Trời mới, Đất mới”. Vì thế, “các tầng trời rung chuyển” là để trở lại trong trật tự tự do Thiên Chúa sắp xếp. Ngày cánh chung có hai mặt: mặt tối là sự phán xét, huỷ diệt một trật tự đã bị đảo lộn; còn mặt sáng là sự xuất hiện một trật tự mới, trong đó Dân Chúa được hạnh phúc.
Ngày ấy, Con Người hiện đến trên đám mây, tức là trong vinh quang, để xét xử muôn dân. Đó là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi, nhưng đó là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng. Đó là lời khuyên nhủ của Chúa Giêsu ở phần thứ hai.
Hãy tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng: chúng ta đã nghe quen thuộc những lời khuyên nhủ này. Việc chúng ta không cần tìm hiểu là ngày tận thế, là cách thay đổi của vũ trụ. Còn việc phải lo ngày Chúa đến gặp riêng mỗi một người trong chúng ta, vì ngày ấy rất bất ngờ, nên chúng ta cần phải luôn tỉnh thức đón chờ. Chúng ta giữ lòng mình như thế nào? Phải chăng không ít những lần lòng chúng ta trở nên nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời? Thái độ hưởng thụ làm chúng ta quên ý nghĩa cuộc đời, khiến chúng ta không sẵn sàng chờ đón ngày Chúa đến. Còn thái độ lo lắng, ích kỷ, hẹp hòi, bon chen làm cho chúng ta hao mòn và gây nhiều tác hại cho xã hội. Tích cực hơn nữa, mỗi người phải luôn cầu nguyện để tăng cường ơn Chúa và sức mạnh Thánh Thần giúp vượt thắng gian nan thử thách ngõ hầu kiên vững mà hiện diện trước mặt Con Người trong ngày thẩm định số phận của mình. Không ai biết được ngày đó đến lúc nào, nhưng qua những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ và hiện tại, ngày sau cùng đó chắc chắn sẽ đến.
Cách đây mấy năm, tại Hollywood, có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám cho anh, bác sĩ riêng đã thẳng thắn nói cho chàng tài tử biết: “Tình trạng sức khoẻ của anh bi đát lắm! Chúng tôi cần phải thực hiện một cuộc giải phẫu kéo dài 36 tiếng đồng hồ mới may ra cứu sống anh được”. Về sau, chàng tài tử ấy thực sự thú nhận: “Trong 36 tiếng đồng hồ ấy, tôi đã học được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi, và tôi đã cảm nghiệm được niềm vui mà trước đó tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được. Tôi khám phá ra rằng tôi chẳng hề sợ chết vì trước đó tôi có thói quen mỗi ngày cầu nguyện với Chúa Giêsu và bây giờ khi phút giây cam go xảy đến, tôi cảm nhận được kết quả của lời cầu nguyện ấy. Chính lúc đó tôi mới khám phá ra rằng nhờ những lần tâm sự, nói chuyện hằng ngày với Chúa Giêsu truớc đó, mà giữa Ngài và tôi chẳng xa lạ gì nhau, chúng tôi đã trở nên đôi bạn chí thân”.
Anh chị em thân mến,
Một thoáng nhìn về tương lai không phải chỉ để kinh hãi, khiếp sợ như các tín hữu ở Thessalonica thời Thánh Phaolô hoặc chỉ hướng về trời như các người Galilê nhìn theo Chúa về trời (Cv 1,11); nhưng càng phải liên kết không những giữa biến cố Quang Lâm của Chúa trong ngày Cánh Chung với việc Chúa đã đến lần thứ nhất một cách âm thầm, khiêm tốn, mà còn liên kết với sức sống của ân sủng nơi mỗi người chúng ta trong suốt khoảng thời gian giữa hai lần Chúa đến.
Để sống thực sự chân lý này, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy cố gắng sống thánh thiện để có thể yên tâm và vui mừng chờ ngày Chúa đến. Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tuỳ cách sống hiện tại của chúng ta. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, chúng ta không thể che dấu một chi tiết nào.
Cụ thể hơn mà nói: lời cảnh tỉnh trong phần thứ hai của Tin Mừng hôm nay không những cần thiết cho mỗi người chúng ta để chuẩn bị sẵn sàng, không bị bất ngờ trong ngày Chúa đến lần thứ hai, mà còn cần thiết ngay trong giây phút hiện tại: chuẩn bị tâm hồn để ân sủng của Chúa đến với tâm hồn chúng ta, đặc biệt trong ngày lễ Giáng Sinh sắp tới: chuẩn bị bằng cách giữ mình, đừng để tâm hồn trĩu nặng, mờ ám vì lối sống buông thả, chè chén say sưa và vì những bận tâm quá đáng đến cuộc sống vật chất, trần tục. Muốn được như vậy, mỗi người cần biết dành những giờ phút yên lặng, kiểm điểm lại lối sống, tức là biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, đồng thời luôn hướng về ngày Chúa xuất hiện vinh quang.
Ngày chung cuộc sẽ đến bất ngờ. Yếu tố bất ngờ là đặc điểm trong ngày tàn của Giêrusalem và ngày thế mạt.
Khi nào thành phố bị quân đội ngoại bang bao vây, bấy giờ người ta mới ý thức được cái nguy cơ suy vong và huỷ diệt. Có người sẽ lên núi lánh nạn và nếu ai đang ở ngoài đồng sẽ không vào thành vì sự tàn phá thật khủng khiếp. ‘Vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị bắt đi làm tôi’. Lúc này dân chúng cảm thấy rất là yên ổn, hãnh diện về thành trì và đền thờ, nhưng một mai họ sẽ thấy cả hai chỉ còn là phế tích và sẽ chứng kiến cảnh tượng quốc gia hấp hối. Ngày đó, thật haĩ hùng. Điềm đó phải là ám hiệu báo động cho con người. Sẽ có ngày vũ trụ cũng tiêu ma như số phận của Giêrusalem.
Bất thần ngày tân diệt sẽ đến, tai ương hoành hành trên trời và lòng người đầy âu lo. Đất bằng rung chuyển, ba đào dồn dập, niềm sợ hãi xâm chiếm mọi người. Lúc đó Con Người sẽ xuất hiện trong ánh huy hoàng. Đó là ngày tận số của thế giới, của các kẻ thù nghịch với Đức Kitô, của những ai quá tin nơi mình và vênh vang về công trạng của mình. Giờ phút hãi hùng ư? Đúng thế. Nhưng hãi hùng đối với những kẻ thù nghịch. Còn đối với các Kitô hữu đang sống trong hy vọng mong chờ Chúa đến. Những người thiết tha mong mỏi và khẩn nài Người trở lại thì đó lại là phút giây giải thoát. ‘Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến’. Hãi hùng sẽ đổi thành hoan lạc cho các Kitô hữu. Họ ý thức rằng cánh chung chính là khởi đầu. Vì đó là sự biến đổi, là sự quy hồi của muôn vật. Đấng Kitô mà lúc này đây ở Giêrusalem, đang bị trao nộp vào tay các kẻ thù và bị họ lên án tử mai ngày sẽ đóng vai thẩm phán uy quyền tuyên án trừng trị kẻ thù. Chúng ta đừng để thế gian lung lạc và lướt thắng…Phải nhớ đến ngày cánh chung và sống sao cho xứng vơí viễn tượng đó… Như thế cánh chung sẽ không còn là biến cố hãi hùng nhưng là bình minh hoan lạc trong tin vui Chúa quang lâm.
Không có dấu gì báo trước hay có thể tính toán chính xác ngày thế mạt. Những dấu chỉ mà Đức Giêsu cho biết nói lên tai hoạ đã bắt đầu. Lúc đó mới chuẩn bị thì đã quá muộn. Đức Kitô đã quả quyết rất rõ: người ta không thể biết ngày giờ xảy ra. Nếu có điềm báo thì chúng chỉ làm vướng víu chứ không ích lợi gì vì người ta cứ lao mình vào cuộc sống cũ và chỉ đổi đời khi nguy cơ hiện ra rõ ràng. Như thế họ sống một cuộc đời bấp bênh trong khi đáng lý họ luôn phải ở trong thế sẵn sàng.
Tuy nhiên cũng còn một dấu chỉ, một dấu chỉ duy nhất mà Đức Kitô sẽ cho thấy. Đó không phải là một thời điểm nhưng là một hiệu lệnh báo động: sự tàn phá Giêrusalem hay nói một cách rộng rãi vận mệnh của dân tộc Israel. Trong lịch sử loài người, Do thái giáo là một điểm thắc mắc to lớn. Ngay cả sự kiện hiện hữu, tính đặc thù của lòng tin, các kinh thư, nền luân lý và nhất là những chặng đường lịch sử diệu kỳ của dân tộc này đều là những hiện tương không thể giải thích theo thường tình. Israel là một vấn đề cao siêu, và xét theo bản chất sâu xa, nó là một vấn đề tôn giáo. Đó là một dân tộc thuộc về Thiên Chúa qua các sự kiện tuyển chọn, khước từ và sau cùng là cứu chuộc. Sự từ bỏ một dân đã chọn là một dấu báo động to lớn. Giêrusalem bị tàn phá và đền thờ bị triệt hạ đối với mọi người và mọi dân tộc, là một dấu chỉ cảnh cáo những kẻ từ bỏ Đức Kitô. Dấu chỉ là ở chỗ đó. Đó là lý do khiến Đức Kitô nối kết hai biến cố tận diệt Giêrusalem và thế mạt lại đến độ trùng hợp với nhau. Đức Giêsu luôn luôn trình bày hai biến cố đó song song với nhau về mặt tôn giáo chứ không phải về thời gian. Với ý nghĩa đó, sự sụp đổ của Giêrusalem là lời cảnh tỉnh nghiêm khắc mà người ta không thể im im được. Có lẽ nó sẽ giúp cho thế giới tránh khỏi một cuộc tàn phá ghê sợ. Với ngôn ngữ và diễn từ đó, Đức Giêsu chẳng màng tranh chấp với ai nữa. Những ngày còn lại trong đời, người dành để giảng dạy dân chúng. Người không đả phá đối phương và họ cũng để cho Người yên ổn. Không còn tranh chấp nữa và tất cả đều án binh bất động. Thế nên, Thánh Luca khẳng định vắn tắt: ‘ban ngày Người giảng dạy trong đền thờ, còn ban đêm thì Người đi nghỉ trên núi Cây Dầu. Và từ sáng sớm, toàn dân đến nghe Người giảng dạy trong đền thờ’. Đồng thời Thánh Luca tiết lộ thêm một chi tiết: ‘các thượng tế và luật sĩ tìm cách giết Chúa Giêsu nhưng họ lại sợ dân chúng’.
Đoạn Tin mừng hôm nay mô tả về ngày tận thế. Sự mô tả này thường làm cho chúng ta lo âu và sợ hãi, để rồi chúng ta thầm mong:
– Ước chi chúng ta đừng sống cho tới ngày ấy.
Tuy nhiên, để thoát khỏi lý đoán công thẳng của ngày ấy, thì ngay từ bây giờ, chúng ta hãy suy gẫm và thực thi lời khuyên nhủ của thánh Phaolô, vì ngày mai rất có thể là đã muộn. Lời khuyên nhủ ấy như thế này:
– Giờ đã đến, hãy tỉnh thức, hãy chổi dạy để Đức Kitô soi chiếu.
Phải chăng là chúng ta đang ngủ mê? Đúng thế, đời sống đã được ổn định và chúng ta không muốn một ai đến quấy phá. Thế nhưng, Đức Kitô lại chính là Đấng đã đến để quấy phá chúng ta.
Thực vậy, chúng ta có những thói hư tật xấu, nhưng lại không muốn ai đá động tới. Chúng ta có những quan niệm, những ý tưởng sai quấy, nhưng lại không muốn ai phê bình chỉ trích. Vì thế mãi mãi chúng ta vẫn chỉ là những kẻ tầm thường, nếu không muốn nói là những kẻ xấu xa.
Tôi đọc thấy trong một cuốn sách lời kết án sau đây:
– Kitô hữu là những kẻ ngủ mê, những kẻ nọa lực. Họ ngại dấn thân, họ ngại đổi thay và không đủ sức hoán cải cuộc đời mình cũng như cuộc đời người khác.
Chính vì thế, chúng ta phải chổi dạy, phải lên đường, phải ra khỏi tình trạng nọa lực và bất toại ấy. Thời gian sẽ trôi qua mau hơn chúng ta tưởng, để rồi vào giây phút cuối cùng, chúng ta phải bẽ bàng nhận ra rằng:
– Đôi bàn tay chúng ta thì trống trơn, không một chút công nghiệp và cuộc đời chúng ta chẳng để lại một dấu vết gì cả.
Ngày hôm nay, lời kêu gọi khẩn cấp, lời báo động SOS được gửi đến chúng ta:
– Hãy từ bỏ những công việc của tăm tối và hãy mang lấy khí giới của ánh sáng.
Công việc của tăm tối, đó chính là rượu chè, cờ bạc, trai gái… nếu chúng ta chạy theo bóng đêm, sống buông thả cho những bê tha như thế, chúng ta sẽ trở thành những kẻ thù nghịch với Đức Kitô, vì như lời thánh Phaolô cũng đã nói:
– Ai thuộc về Đức Kitô thì đóng đinh thân xác mình vào thập giá.
Thế nhưng, có những người đạo đức và thiện chí đã nhủ thầm:
– Tôi không mắc phải thói hư này. Tôi không vướng vào tật xấu kia. Tôi yêu thích sự nghèo khó. Tôi mến chuộng đức trong sạch…
Nghĩ như vậy rồi họ cảm thấy thanh thản và không cần phải cố tắng thêm nữa. Tuy nhiên, nếu hồi tâm xét mình cho kỹ, chúng ta sẽ ghi nhận được biết bao nhiêu khuyết điểm vì con người chúng thì bất toàn, bản thân chúng ta thì yếu đuối. Thánh nhân còn sai lỗi mỗi ngày tới bảy lần, huống nữa là chúng ta. Nào là những sai lỗi về lời nói, về đức công bằng. Nào là những hành động bác ái mình đã không thực hiện và những bổn phận đã quên sót. Nào là những tư tưởng không mấy trong sạch mình đã chiều theo.
Chính vì thế, một lần nữa chúng ta hãy khắc ghi lời khuyên nhủ của thánh Phaolô:
– Hãy từ bỏ những công việc của tăm tối và hãy mang lấy khí giới của ánh sáng.
Thánh Gioan Chrysostome đã chú giải thêm:
– Với vũ khí của ánh sáng, chúng ta sẽ trở nên chói lòa hơn cả những tia nắng mặt trời.
Tuy nhiên, muốn được như vậy, chúng ta phải kiên trì chiến đấu, không mệt mỏi, không chán nản, không tuyệt vọng vì sống chính là bơi ngược dòng nước. Nếu không cố gắng bơi, thì lập tức sẽ bị dòng nước cuốn trôi.
Dưới sự điều động và hướng dẫn của Đức Kitô, chúng ta hãy can đảm chiến đấu, kiên trì loại trừ tội lỗi, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng.
Đối với thể xác của con người, giấc ngủ thật là cần thiết. Theo lời khuyên của các bác sĩ, thì con người phải ngủ mỗi ngày ít là 7 tiếng đồng hồ mới đảm bảo cho sức khoẻ. Tuy nhiên, nếu giấc ngủ cần thiết cho đời sống thể xác, thì đối với đời sống tâm linh, ngủ lại vô cùng bất lợi. Càng ngủ về mặt tâm linh nhiều bao nhiêu thì càng mau dẫn đến cái chết về mặt tâm linh bấy nhiêu. Hôm nay, chúng ta bắt đầu bước vào MùaVọng. Đây chính là thời điểm Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy ra sức chuẩn bị tâm hồn, đổi mới đời sống để đón nhận hồng ân cứu độ mà Chúa Giêsu Ngôi Lời Nhập Thể ban tặng cho chúng ta. Thế nhưng, chúng ta chỉ có thể có được niềm vui ơn cứu độ, nếu chúng ta biết làm theo điều Chúa chỉ dạy: là hãy tỉnh thức và cầu nguyện.
Hãy Tỉnh Thức đừng để “lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy đến như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em”. Hãy Tỉnh Thức vì ngày cuối cùng đời người chúng ta sẽ đến. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình.
Hãy Tỉnh Thức, vì chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều ảo tưởng, mà ảo tưởng lớn nhất và nguy hiểm nhất của con người là ảo tưởng cho rằng mình có rất nhiều thời giờ, để rồi lại bị chính thời gian bào mòn đi ý chí, bị chính những sản phẩm mình làm ra ru ngủ trong cái cảm giác mình là những vị thần toàn năng và bất tử.
Hãy Tỉnh Thức, vì con người ngày nay, đang bị gây mê, bị ru ngủ trong lối sống hưởng thụ, thực dụng để rồi cứ ngỡ thế giới mình đang sống là duy nhất, vĩnh hằng.
Cho nên, mùa Vọng nhắc chúng ta sống có trách nhiệm hơn, sống tỉnh táo hơn. Bởi Kytô hữu không chỉ là con của Đất, mà còn là con của Trời; người Công giáo không chỉ lo lắng ở đời này mà còn biết bận tâm cho đời sau. Và trên mỗi bước hành trình, Thiên Chúa vẫn có đó. Ngài vẫn đang đến, đơn sơ, dung dị. Không trống phách tưng bừng, nhưng âm thầm lặng lẽ. Không uy nghi lẫm liệt như những bậc quân vương, nhưng trong hiền lành khiêm nhường của một người phục vụ. Không như vị quan tòa nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một người bạn dễ thương. Nếu bén nhạy, nếu biết mở lòng ra, chúng ta sẽ dễ dàng khám phá dung mạo của Thiên Chúa trong cuộc sống. Có thể Ngài đang đến qua những con người hiền lành, bé nhỏ quanh ta; có thể Ngài đang ở bên ta nơi những người anh em khốn khổ túng cùng, nơi những khuôn mặt xanh xao hốc hác. Ngài có thể đang lẫn vào giữa đám đông vô danh, chìm mất trong số những kẻ bị loại ra ngoài xã hội, Ngài đang ẩn mình giữa đám người ăn xin lê bước trên đường, đang rét run với cặp mắt ngơ ngác giữa những nạn nhân của thiên tai, khủng bố. Vì thế, phải tỉnh táo lắm mới có thể nhận ra Ngài. Phải tỉnh thức lắm mới có thể gặp được Ngài.
Tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó mà chờ đợi, nhưng là bắt tay vào hành động. Chúa như ông chủ đi vắng, giao cho ta trách nhiệm trông coi gia đình, giáo xứ, quê hương và cả thế giới mình đang sống. Ta được tự do hành động, và có trách nhiệm làm cho môi trường mình đang sống được phát triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức còn là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức là nhìn thấy Ý Chúa trong những trào lưu của thời đại, là nhận biết Chúa đang hành động trong những tâm hồn thiện chí. Để thay cho đối kháng, hay tranh giành ảnh hưởng, là cộng tác với nhau trong huynh đệ chân thành.
Như thế, mùa Vọng cũng gọi mời chúng ta bước vào cuộc hội ngộ lớn của hồng ân cứu độ, là mùa của dấn thân, nhập cuộc. Nếu ngủ mê vì quá bận rộn với những công việc vật chất, chúng ta sẽ ở bên lề biến cố trọng đại này, và có lẽ sẽ phải hối tiếc khôn nguôi. Cho nên, mùa Vọng mùa của tỉnh thức, và cũng là mùa của lên đường, ra khỏi cái vỏ ốc của ù lì, ươn lười để bước đi trong hân hoan và hy vọng.
Như thế, chúng ta sẽ không ngồi đó mà chờ đợi, hay an phận thủ thường, “ai sao tui vậy – ai làm bậy tui làm theo”. Nhưng sẽ bước vào mùa vọng này với một ngọn nến thật sáng trên tay. Ngọn nến của Bình An, Đổi Mới, ngọn nến của Yêu Thương, Hy Vọng. Để biết đâu, một lúc nào đó, chúng ta chợt nhận ra Chúa đang đến thật gần, chợt nhận ra Ngài đang hiện diện nơi một ai đó trong cộng đoàn giáo xứ, trong gia đình chúng ta?
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi trung luôn cầm đèn dẫn dắt anh em đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Mỗi ngày một tin vui’)
Nhìn vào những biến cố đổi thay, những xung đột, những cuộc chiến đẫm máu, những tranh đấu đầy bạo lực xảy ra nơi này, nơi kia trên thế giới, mỗi người chúng ta có thể tự hỏi:Thế giới này đang tiến về đâu? Con người đamh mong muốn điều gì cho mình?
Có thể có nhiều câu trả lời khác nhau và tùy theo câu trả lời này mà mỗi người chúng ta quyết định cho cuộc sống của mình. Nếu bảo rằng, thế giới đang tiến tới sự giàu sang vật chất, càng nhiều càng tốt thì cuộc đời chúng ta phải chăng là để tìm kiếm tiền bạc bằng mọi phương tiện trong tầm tay và cả ngoài tầm tay bằng việc gian lận, hối lộ, mánh mung.
Nếu bảo rằng, thế giới này đang tiến về cùng Thiên Chúa và nước của Ngài, nước công bằng và tình thương, nước của hòa bình và tình liên đới thì mỗi người chúng ta phải cố gắng làm sao để canh tân đời sống của mình theo những lời dạy của Chúa. Mỗi người chúng ta trước sau gì cũng phải đặt ra cho mình câu hỏi và quyết định cuộc sống của mình dựa theo câu trả lời; câu hỏi đó là:Tôi có còn tin vào Thiên Chúa, Đấng ban ơn cứu độ và hướng dẫn đời tôi và lịch sử nhân loại đến chỗ thành toàn, tôi có còn tin hay không? Hay tôi tin vào một quyền năng, một thần tượng nào khác?
Trong lịch sử nhân loại đã có những bộ óc tài ba tin tưởng vào một điều gì khác ngoài Thiên Chúa, và bộ óc tài ba đó đã tạo ra những hệ thống tư tưởng, những ý thức hệ để xây dựng cuộc sống và xã hội con người, nhưng những ý thức hệ, những hệ thống này đã thất bại trước mặt chúng ta. Ngoài Thiên Chúa hay đối nghịch với Thiên Chúa, con người không thể xây dựng hạnh phúc cho cuộc đời mình và cũng không thể xây dựng một xã hội xứng đáng với phẩm giá của con người.
Cử hành thánh lễ Chúa nhật I Mùa vọng, chúng ta nói lên câu trả lời của mình, nói lên quyết định của mình. Câu trả lời của chúng ta là tin vào Thiên Chúa, vào Đấng cứu rỗi nhân loại. Ngài đã đến trong lịch sử nhân loại và đã mạc khải cho con người sự thật cứu rỗi qua việc Ngài đã thực hiện ơn cứu rỗi qua cái chết và sống lại của Ngài. Ngài đã đến, nhưng hằng ngày Ngài còn đang đến và sẽ đến trong vinh quang vào cuối cùng lịch sử của nhân loại. Ngài là khởi đầu và là cùng đích mọi sự, chúng ta đang hành trình tiến về Ngài. Đó là câu trả lời của niềm tin và niềm tin này cần được thực hiện trong đời sống chúng ta. Chúng ta cần quyết định trở về với Thiên Chúa, canh tân đời sống mình, sẵn sàng đón nhận Chúa đến bất cứ khi nào Ngài muốn.
Vào những giây phút đầu tiên của năm Phụng vụ mới, chúng ta được mời gọi nhìn đến đích điểm sau cùng của cuộc đời là Chúa Giêsu Kitô ở cuối chân trời lịch sử, ở điểm kết thúc cuộc đời chúng ta trên trần gian này. Chúng ta được mời gọi nhìn vào Ngài đang đến và chắc chắn sẽ đến vào lúc chúng ta không ngờ. Nhưng không phải chỉ nhìn vào Ngài rồi án binh bất động, thụ động cam lòng chờ mà thôi, nhưng vừa nhìn đến đích điểm là Chúa đang đến với chúng ta, vừa chuẩn bị xem xét lại cuộc sống hiện tại của mình, tương quan giữa ta và Chúa hiện đang như thế nào?
Chắc chắn chúng ta đã nghe biết và thực hành Lời Chúa dạy: “Tỉnh thức và cầu nguyện”. Nhưng việc chúng ta cầu nguyện đó đã có tác dụng như thế nào trong đời sống chúng ta? Chúng ta có trở nên gần gũi, thân thiện với Chúa Giêsu như người bạn thân yêu nhất của mình, đến độ chúng ta không còn lo sợ khi phải đối diện với Chúa và có thể nói:“Lạy Chúa, xin hãy đến, con vui mừng được gặp Chúa diện đối diện. Chúa là người bạn mà con từ lâu mong ước được gặp”. Chúng ta có thể nói như vậy hay chưa? Hay là chúng ta còn cần phải thực tập nhiều hơn nữa điều Chúa nhắc trong đoạn Tin Mừng hôm nay:“Tỉnh thức và cầu nguyện nhiều hơn nữa, thật lòng hơn nữa, đừng giam mình trong cảnh đời hưởng thụ vật chất đến độ quên Chúa”.
Chúng ta cần dốc lòng thực hiện điều mà thánh Phaolô đã nhắc nhở cho cộng đoàn tín hữu Thessalônica là bền vững trên con đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến:“Anh em thân mến! Tôi còn van nài anh em trong Chúa Giêsu điều này là anh em được chúng tôi dạy cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, anh em đang sống như vậy, xin anh em cứ tiến thêm nữa”.
Chúng ta đang tỉnh thức và cầu nguyện, nhưng chưa đủ, còn phải gia tăng sự tỉnh thức để đừng bị ngã quị trước những cám dỗ, những cạm bẫy làm ta xa lìa Chúa. Chúng ta cần kiên trì và gia tăng đời sống cầu nguyện nhiều hơn nữa, để Chúa Giêsu trở thành người bạn mỗi ngày mỗi thân mật hơn, đến độ chúng ta không còn lo sợ trước ngày Chúa đến với chúng ta, dù là một cách bất ngờ.
Lạy Chúa Giêsu, người bạn thân thiết nhất của con. Xin hãy thương giúp con duy trì tình thân mỗi ngày một khắng khít hơn với Chúa, để lời cuối cùng, con có thể thưa cùng Chúa là: “Lạy Chúa, xin hãy đến. Con vui mừng được nhìn thấy Chúa, diện đối diện”. Chỉ như thế, ơn cứu rỗi mà Chúa đã đến để thực hiện cho mỗi người chúng con trên thập giá sẽ làm cho chúng con không uổng phí vô ích.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài hướng dẫn chúng con canh tân đời sống đức tin, đức cậy và đức mến. Xin Ngài giúp chúng con được hiểu biết những sự thật Chúa Giêsu đã mạc khải mỗi ngày một trọn vẹn hơn, sâu xa hơn, để được trưởng thành trong tình yêu Chúa và trong đức tin.
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Nếu hiểu ngày đầu năm là ngày tết, thì hôm nay là Tết của phụng vụ. Vì hôm nay là Chúa nhật I mùaVọng, Chúa nhật đầu tiên của năm phụng vụ mới. Nhưng không như tết bình thường mà chúng ta vẫn biết. Tết của phụng vụ không mang màu sắc của lễ hội, không ồn ào, không hình thức bên ngoài. Tết của năm phụng vụ vẫn có nội dung riêng của nó. Đó là ngày Tết của đức tin, vì thế cũng là ngày Tết của những ai sống đức tin. Vì chỉ có những ai sống đức tin mới cảm nhận trọn vẹn một cách riêng biệt sự thánh thiện, bình an, vui tươi sâu lắng mà ngày Tết rất riêng của phụng vụ mang lạ. Đó cũng chính là quà tặng dành cho những tâm hồn có Chúa.
Ý nghĩa niềm vui của ngày Tết như quà tặng dành cho người sống đức tin được Chúa Giêsu cho biết rất rõ trong bài Tin Mừng: Trong khi người ta kinh hồn bạc vía vì “những điềm lạ xuất hiện trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao”, làm cho “các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ”. Nó khiến “người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời rung chuyển”. Chính lúc ấy, chính lúc vũ trụ dao động dữ dội như thế, “Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả”.
Mặc dù người ta và cả vũ trụ nữa, sống trong tâm trạng đầy bất an đến mức Lời Chúa phải diễn tả bằng những cụm từ: “Buồn sầu lo lắng”, “Sợ hãi kinh hồn”, thì Chúa Giêsu lại bảo các môn đệ rằng, chính lúc đó, “Các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến”. Đó không phải là cách nói để diễn tả niềm vui mừng lớn lao dành cho những người thuộc về Chúa, những người sống đức tin đó sao!
Chỉ bằng một câu nói ngắn, Chúa Giêsu đã cho thấy vinh quang của những tâm hồn có Chúa: “Hãy đứng dậy”; “Hãy ngẩng đầu lên”; “Giờ cứu rỗi đã gần”. Cách riêng, những động từ: “đứng dậy”, “ngẩng đầu” là những động từ không chỉ nói lên niềm vui, nhưng còn là một niềm vui chiến thắng, một niềm vui chứa đựng vinh quang, niềm vui kiêu hãnh. Lý do của niềm vui lớn lao càng trở nên trọng đại vì đó là lúc “Con Người hiện đến”, đó là “giờ cứu rỗi đã gần”. Bởi có niềm vui nào dám sánh niềm vui ơn cứu rỗi. Và có tình yêu nào dám ví Tình Yêu của Đấng Cứu Rỗi đến cứu rỗi những ai thuộc về Người.
Vậy ai là người sống đức tin? Bởi đó, ai là người thuộc về Chúa?
Rất nhiều lần, Chúa Giêsu răn dạy: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”. Hôm nay, ngày Tết của phụng vụ, một lần nữa, qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu lại nói với ta: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”. Nhưng không chỉ có hôm nay, ngày Tết chỉ là một khởi đầu. Vì Hội Thánh sẽ tiếp tục dùng chính những lời này của Chúa như một điệp khúc nhắc nhở ta, nhắc đi, nhắc lại suốt mùa Vọng. Hội Thánh sẽ còn tiếp tục nhắc nhở, cách này cách khác suốt năm phụng vụ.
Vì điệp khúc “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” quan trọng như thế, cho nên bất cứ ai sống và ý thức để sống cách trọn vẹn mỗi ngày một gia tăng, người đó là người sống đức tin. Bởi đó, họ là người thuộc về Chúa.
Vậy làm sao để có thể “tỉnh thức và cầu nguyện”?
Cầu nguyện thì ai cũng có thể hiểu được. Chắc hẳn trong đời sống thường nhật, người Kitô hữu vẫn biết rằng cầu nguyện là việc tối quan trọng đối với đức tin của mình, một việc làm không thể bỏ qua. Nhưng tỉnh thức là như thế nào? Chắc chắn tỉnh thức không có nghĩa là không ngủ. Đối với đức tin của người Kitô hữu, tỉnh thức là cảnh giác, đề phòng. Cảnh giác những nguy hại, những chước cám dỗ, đề phòng để đừng rơi và cạm bẫy của tội lỗi, của sự dữ.
Một câu chuyện để có thể giúp chúng ta hiểu hơn ý nghĩa của tỉnh thức: Có một anh thanh niên, một hôm, gặp thần chết đến với mình. Anh sợ hãi, nài nỉ thần chết đừng hại nhưng hãy cho anh ta sống thêm một thời gian. Thần chết đồng ý. Nhưng không hiểu sao hôm ấy thần chết lại dễ tính quá. Sau khi để cho anh được sống, thần chết còn hứa, nếu sau này, khi nào thần chết đến gọi anh ra khỏi cuộc đời, thần chết sẽ báo trước để anh chuẩn bị. Anh mừng rỡ và cám ơn thần chết rối rít.
Thế là từ đó, biết rằng cái chết của mình sẽ được báo trước, anh thanh niên bắt đầu một cuộc sống rất thoải mái. Anh dung túng cho bản thân mình đến mức đêm ngày ngụp lặn trong tội lỗi, bất kể Thiên Chúa, bỏ mặc vợ con, mải miết đắm chìm trong những thú vui đồi bại. Không những thế, khi vợ con lên tiếng phản đối, anh còn tặng lại cho họ những trận đòn chí tử…
Rồi một ngày, anh bị một cơn bạo bệnh bất ngờ ập đến. Mọi người đều lo lắng cho anh. Ai cũng sợ anh phải chết. Riêng anh thanh niên vẫn thản nhiên vì mãi cho đến lúc này, lúc mà anh trở nên yếu sức vô cùng, anh vẫn chưa thấy thần chết nói gì. Và đúng như thế. Sau cơn bạo bệnh, anh nhanh chóng lấy lại sức khỏe như chưa hề có bệnh tật gì. Anh càng chắc mẫm rằng, ngày tận số của mình vẫn còn dài. Từ đó anh càng lao thân như điên như dại vào vũng bùng thối tha nhưng đối với anh, nó thật êm ái.
Lần khác, anh cùng vợ mình đang ngồi trên một toa xe lửa. Vì quá tủi buồn cho bản thân và cô đơn trong đời sống vợ chồng, vợ anh đã nhảy khỏi xe lửa trước mặt anh. Các bánh xe của đoàn tàu thản nhiên lăn trên thân thể của chị thật kinh hoàng. Bất giác làm anh rùng mình khiếp sợ. Nhưng giây phút chứng kiến cảnh tượng đó mau chóng biến tan. Không những anh vẫn thản nhiên sống, mà còn xem đó là cơ hội để thoát khỏi sự ràng buộc của vợ. Vợ anh chết, chứ thần chết có nói gì với anh đâu!
Một lần khác, anh lại bị một tai nạn khi đang đi đường. Anh ngất xỉu, máu me đầy người, nằm mê man, không hề biết gì. Đưa anh vào bệnh viện mà mọi người chẳng còn chút hy vọng nào cho sự sống của anh. Nhưng thần chết vẫn chưa đến, vẫn chưa báo trước điều gì. Và anh đã tỉnh lại. Lại thêm một lần, anh thầm cám ơn thần chết, vì ông đã không phản bội lời hứa của chính mình. Cuộc sống của anh lại bắt đầu và tiếp diễn.
Nhưng thật lạ lùng. Một hôm, khi anh vẫn đang là người khỏe mạnh, vẫn đang sống cuộc sống trác táng của mình, chính lúc ấy, anh lại gặp thần chết. Một lần nữa, thần chết viếng thăm anh. Anh lo sợ quá sức, bủn rủn tay chân. Dường như đất dưới chân anh đang quay cuồng. Tâm trí anh hoàn toàn sụp đổ. Thần chết mỗi lúc một đến gần hơn. Ông cho biết, hôm nay ông sẽ cất mạng sống của anh. Anh van lạy thần chết một cách tuyệt vọng và đớn đau. Anh trách móc thần chết đã quên lời hứa, đã không báo trước giờ chết của anh. Nhưng thần chết rất bình tỉnh, từ tốn nói với anh: “Ta đã báo cho ngươi biết trước giờ chết của ngươi, không phải một nhưng đã nhiều lần. Ngươi đâu có nghe ta, vì thế hôm nay người đừng van xin gì hết. Đã đến lúc ngươi phải theo ta”. Anh thanh niên vẫn tìm cách kéo dài sự sống: “Nhưng thưa thần chết, tôi đâu có bao giờ nghe thấy ông nói gì với tôi?”. “Ngươi đừng cố viện lý do. Qua những lần ngươi đau nặng, và qua chính cái chết tang thương của vợ ngươi, ta đã báo cho ngươi biết. Chính cuộc sống, sự đau khổ, bệnh tật, cái chết của bản thân và của mọi người xung quanh là bài học kinh nghiệm quý giá cho ngươi học lấy, đó chính là sự nhắc nhở của ta dành cho ngưoi. Nhưng ngươi vẫn không nghe, vẫn cứng đầu, vẫn cố tình ở lỳ trong tội của ngươi. Vì thế hôm nay ngươi phải đền tội”. Và thần chết tiến tới lôi anh đi trong khi lòng anh run sợ…
Như vậy: tỉnh thức là sự khôn ngoan, và tiên liệu trước giờ chết của mình ngay trong thực tại này, để giờ chết không bao giờ bất ngờ, nhưng luôn có trước một sự chuẩn bị sẵn sàng của bản thân ta.
Mùa Vọng là mùa của tỉnh thức và cầu nguyện. Tỉnh thức để cảnh giác với mọi cám dỗ của tội lỗi. Cầu nguyện để tinh thần mạnh mẽ, để ơn Chúa ngày càng thấm đẫm và lớn lên không ngừng trong tâm hồn. Cầu nguyện để hỗ trợ cho sự tỉnh thức của bản thân, giúp ta có đủ nghị lực vượt qua và vượt lên trên những thói xấu, những đam mê, những toan tính và dính bén quá nhiều với trần thế, làm cho tâm hồn ta xa rời Thiên Chúa, xa rời lòng mong ước và ái mộ quê trời của mình.
“Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”, một điệp khúc dù rất quen thuộc, nhưng rất cần thiết để nhắc đi nhắc lại, không phải chỉ trong mùa vọng, mà trong cả cuộc đời của bạn và của tôi.
(Trích trong ‘Suy Niệm Và Giảng Lễ Mỗi Ngày’)
Vào năm 1987, người ta cho chiếu cuốn phim tựa đề: “After day” kể lại tình cảnh của ít người dân một thành phố lớn thuộc miền Bắc, Hoa Kỳ, còn sống sót sau một vụ nổ bom nguyên tử. Vụ nổ bom hạt nhân đã xảy ra vì cái điên loạn của con người quyết định dùng vũ khí hạt nhân để hủy diệt sự sống của mọi sinh vật thuộc nhiều đại lục trên thế giới. Ngày tận thế ấy kéo theo cảnh chết chóc hoang tàn và đổ nát, đau khổ và thất bại của những người đang chờ mình phải chết vì bị nhiễm chất phóng xạ, bị thương tích và bị thiếu thức ăn chất uống. Trong cảnh đổ nát hoang tàn và chết chóc ấy, những người sống sót của nhiều khu phố khác nhau đã tranh giành từng miếng bánh, từng chút bột, từng ngụm nước. Trong nháy mắt, thế giới văn minh của loài người biến khỏi mặt đất và con người đứng trước cảnh đổ nát với hai bàn tay trắng bất lực và tuyệt vọng.
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay cũng nói với chúng ta về ngày tận thế, nhưng không phải là thứ ngày tận thế của chết chóc, buồn thương, mà là ngày tận thế khởi đầu cho một cuộc sống mới, cuộc sống của tự do và của ơn cứu độ. Chương 33,14-16, sách Tiên tri Giêrêmia là một lời sấm và là văn bản tìm hiểu cho nền thần học cứu thế của Kinh Thánh Cựu Ước. Điểm nòng cốt của thần học cứu độ là sự chờ đợi ngày Đấng Thiên Sai, ngày Đấng Cứu Thế đến để thiết lập trời mới đất mới trong thế giới loài người. Trong “những ngày đó” hay “vào thời đó” là kiểu nói Kinh Thánh dùng để diễn tả tiến trình hiện thực của chương trình cứu độ mà Thiên Chúa có đối với nhân loại theo ý muốn và sự sắp xếp quan phòng của Ngài, đặc biệt dưới thời điểm và các biến cố của lịch sử mà Thiên Chúa có đối với nhân loại theo ý muốn và sự sắp xếp mà Thiên Chúa chọn. Trong bối cảnh của chương 34, ngày đó và thời đó có ý ám chỉ tình trạng sống lưu vong, ngày buồn thương của dân Do Thái, thảm cảnh phân rẽ của hai vương quốc Bắc Nam. Nhưng Thiên Chúa sẽ tụ tập dân chúng thuộc hai vương quốc lại với nhau và cho họ được thoát kiếp sống nô lệ, đày ải, để trở về quê cha đất tổ.
Tuy nhiên, lời sấm trên đây của Thiên Chúa vượt xa khỏi khung cảnh lịch sử của dân Do Thái. Bởi vì nó có thể được áp dụng vào cuộc sống của con người thuộc mọi thời đại, ở khắp nơi trên thế giới này. Một con người bị tội lỗi phân rẽ trong chính tâm lòng nó và sống kiếp đày ải xa rời Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người. Ngài cống hiến ơn cứu độ cho tất cả mọi người, trong các thời điểm khác nhau, liên tục trong dòng lịch sử. Do đó, vấn đề là chúng ta có nhận ra thời điểm cứu độ đó hay không?
“Mầm giống sự công chính” là tên thường Kinh Thánh dùng để gọi Đấng Cứu Thế. Trong sa mạc nóng bỏng khô cạn của loài người, trên thân cây khô héo khẳng khiu của dòng tộc Đavít, Thiên Chúa khiến cho chồi lộc của niềm hy vọng và của ơn cứu độ nảy mầm tươi tốt. Tên gọi “Mầm giống sự công chính” diễn tả khí thế hành động của Thiên Chúa. Nếu tâm tính loài người thích phô trương, khoe khoang và chọn lựa cái vĩ đại, to tát, thì Thiên Chúa ưa thích kiểu cách hành sự khiêm tốn, kín đáo nghèo hèn, bé nhỏ. Đó là hình ảnh Đấng Cứu Thế trẻ thơ được sinh ra từ lòng Trinh Nữ Maria. Chính Ngài là mầm giống của sự sống mới mà Thiên Chúa muốn cấy trồng vào giữa lòng lịch sử nhân loại.
Mặc dầu nhân loại tội lỗi, khô cằn và hấp hối, nhưng qua mầm giống sự công chính là Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa không ngừng cống hiến nhựa sống thiêng linh của Ngài cho con người. Đấng Cứu Thế sẽ tái lập công bằng và vương quốc tinh thần của Ngài, trong đó, Ngài sẽ được gọi là Thiên Chúa sự công chính của chúng ta.
Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, sự công chính đồng nghĩa với ơn cứu độ toàn vẹn mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Nó bao gồm mọi chiều kích cuộc sống con người từ chính trị, kinh tế, cho đến xã hội và tôn giáo. Con đường sự sống, con đường dẫn đến ơn cứu độ là con đường dẫn đến trời mới đất mới. Do đó, thời điểm của Thiên Chúa, ngày Thiên Chúa đến trong tâm lòng và cuộc sống cho con người, không phải là ngày tận diệt, mà là ngày giải phóng. Bởi vì nó khai mào cho một cuộc sống mới, cuộc sống theo tinh thần của con cái Thiên Chúa.
Qua văn bản các hình ảnh biểu tượng của nền văn chương Khải Huyền, chương 21 Phúc Âm thánh Luca ghi lại lời Chúa Giêsu kêu mời chúng ta biết tỉnh thức nhận ra các dấu chỉ của thời điểm cứu độ ấy trong đời mình. Để đường lối cuộc hẹn hò với Thiên Chúa, niềm tin vào ơn cứu độ và giải phóng giúp chúng ta hiên ngang ngẩng đầu lên sống tươi vui, tin tưởng ngay giữa những gian lao thử thách và khổ đau của cuộc đời. Vì thế cho nên, những biến động và tai ương cho dầu có kinh thiên động địa đến đâu đi nữa, cũng đều là các dấu chỉ kêu mời chúng ta hồi tâm suy nghĩ và hoán cải tâm lòng, chớ không được khiến cho chúng ta khiếp sợ, tê liệt, khép kín và chán nản thất vọng.
“Con Người” là tước hiệu Kinh Thánh dùng để diễn tả hoạt động của Chúa Giêsu cứu thế. Trong tư cách là vị quan án tối cao phán xử mọi loài, mọi vật trong thời cánh chung, Chúa Giêsu đã đến trong dòng lịch sử nhân loại và trong lịch sử Tin Mừng cứu độ, qua cuộc khổ nạn cái chết và sự phục sinh của Ngài. Chúa Giêsu tiếp tục đến qua lời Ngài, qua tin vui cứu độ được Giáo Hội tiếp tục rao giảng và Chúa Giêsu sẽ trở lại trong ngày lịch sử cứu độ thanh toán bản án. Muốn nhận ra sự hiện diện và bước chân của Ngài, chúng ta phải biết tỉnh thức và cầu nguyện, nghĩa là sống và hành sự theo tinh thần Đức Kitô, luôn để cho ánh sáng Tin Mừng cứu độ chiếu soi đời mình. Đặc biệt trong những bước đi, trên những đoạn đường hầm đen tối của cuộc đời này. Chính thái độ tỉnh thức và cầu nguyện ấy sẽ giúp chúng ta không nặng nề ngủ quên trong cuộc sống của thế giới vật chất, tiêu thụ và hưởng thụ, và không để cho tâm lòng của chúng ta bị thế giới vật chất nặng nề cầm chân và nhận chìm cuộc sống thiêng linh mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Chúa Giêsu là một mầm giống cần được vun trồng, chăm bón, ấp ủ với hơi ấm của con tim và ánh sáng của niềm hy vọng.
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thêsalônica, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta thấy một bí quyết để vun trồng sự sống thiêng linh ấy cách hữu hiệu, đó là phải có thái độ căn bản muốn sống đẹp lòng người ta, dầu người ta ấy có là ai đi nữa. Nhưng phải làm gì để đẹp lòng Thiên Chúa đây? Phải lớn lên, phải trưởng thành, phải sung mãn trong tình yêu thương tha nhân. Thiên Chúa vui sướng hạnh phúc khi thấy chúng ta yêu thương với một tình yêu thương không so đo, tính toán hơn thiệt và không loại trừ chọn lựa, yêu thương hết mọi người và yêu thương tràn đầy chan chứa. Thiên Chúa vui sướng và hạnh phúc khi thấy chúng ta trưởng thành và lớn lên trong tình yêu thương ấy, tình yêu thương mà Ngài đã trao ban cho chúng ta qua chính con người của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế.
Ngoài ra, cần phải luôn luôn sẵn sàng đón chờ Chúa Giêsu đến trong tâm lòng và cuộc đời chúng ta bằng cách sống thánh thiện và kiên vững. Bởi vì nói cho cùng, sống thánh thiện tức là sống yêu thương trọn vẹn. Các thánh là những người biết noi gương Chúa Giêsu sống yêu thương trọn vẹn, yêu thương đến tận hiến chính mạng sống mình cho tha nhân. Càng biết yêu thương tha nhân, tình yêu vô vị lợi cụ thể và cao đẹp bao nhiêu, thì chúng ta lại càng giống Chúa Giêsu bấy nhiêu. Càng giống Chúa Giêsu bao nhiêu thì càng giống Thiên Chúa bấy nhiêu, và đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa và khiến cho Ngài sung sướng nhất, hạnh phúc nhất.
Thế giới và xã hội loài người khổ đau vì loài người không yêu thương nhau đủ, hay không thương yêu nhau theo tinh thần của Chúa và Tin Mừng của Ngài. Như vậy, cách thức đón chờ Chúa Giêsu hữu hiệu nhất là hãy bắt đầu yêu thương nhau. Bởi vì đó là bí quyết vun trồng mầm giống sự sống thiêng linh và xây dựng trời mới đất mới cụ thể và hữu hiệu.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Giáo Hội bắt đầu Năm Phụng vụ mới bằng Mùa Vọng. Mà Mùa Vọng thường rơi vào Mùa Đông. Vì thế có người thắc mắc rằng: Tại sao mở đầu cho một năm dân sự là Mùa Xuân, nhưng mở đầu cho một Năm Phụng vụ lại vào Mùa Đông? Tại sao lại không khởi đầu Năm Phụng vụ vào chính ngày Lễ Giáng Sinh như khởi đầu cho một cuộc đời là ngày người ấy cất tiếng khóc chào đời? Người Kitô hữu vẫn được dạy rằng Đức Kitô sinh vào ngày 25-12 và trước đó Giáo Hội dành 4 tuần cho Mùa Vọng, hàm ý “mùa trông đợi Chúa đến” từ ngàn xưa. Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này. Như vậy, ý nghĩa vô cùng khi khởi đầu cho một Năm Phụng vụ là Mùa Vọng.
Trong cuộc sống có nhiều thứ mùa vọng: có mùa vọng ngắn, có mùa vọng dài. Đối với một người mẹ thì mùa vọng là thời gian 9 tháng 10 ngày chờ đợi đứa con cất tiếng khóc chào đời. Đối với các sinh viên, mùa vọng là khoảng thời gian 4 năm hay 5 năm ngồi ở giảng đường đợi chờ ngày tốt nghiệp ra trường. Đối với người Dothái, mùa vọng là cả một hành trình dài trong lịch sử cứu độ, hành trình của hơn 1.000 năm chờ đợi Đấng Cứu Thế. Đối với người Kitô hữu, Mùa Vọng là khoảng thời gian 4 tuần lễ trước Giáng Sinh. Đây là thời gian trong Năm Phụng vụ mà Giáo Hội dành để con cái mình chuẩn bị tâm hồn mừng Con Thiên Chúa làm người. Xa hơn nữa, mùa vọng đối với đời người Kitô hữu còn là thời gian sống trên trần gian này. Nói cách khác, khi sống tâm tình Mùa Vọng của Năm Phụng vụ, người Kitô hữu được mời gọi sống tâm tình mùa vọng của cuộc đời, một mùa vọng kéo dài, mùa trông chờ Chúa đến trong vinh quang.
Tuy nhiên, điều mà người Kitô hữu chúng ta đang mong chờ, không phải là một biến cố, một món quà, một cuộc vui, hay là một ngày lễ nghỉ, mà trên hết là mong chờ một con người. Con người đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Tinh nhân loại. Nói khác đi, Mùa Vọng là một mùa không phải chỉ để chuẩn bị cho biến cố Giáng Sinh tưng bừng, nhưng là thời gian trông chờ và chuẩn bị đón mừng Ngôi Hai Thiên Chúa làm người và đón chờ Đức Giêsu Kitô là Hoàng Tử Vinh Quang sẽ đến trong ngày cánh chung, tức là ngày tận thế. Vậy phải chuẩn bị thế nào cho xứng đáng?
– Trước hết, hãy chuẩn bị bằng việc sửa soạn bên trong tâm hồn.
“Hãy tự hỏi Giáng sinh có ý nghĩa gì đối với cá nhân và gia đình mỗi chúng ta? Trang trí nhà cửa, bắt điện, treo đèn, hội tiệc… là cần thiết và phù hợp với mùa lễ hội, nhưng không thể thay thế được cho ý nghĩa thực sự mà đức tin đã dạy chúng ta về việc Con Thiên Chúa giáng trần để cứu chuộc sinh linh. Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria tại Bêlem. Chúng ta không thể bắt chước người đời nay chỉ trân quý Ông Già Noel. Chúng ta cũng không thể bị dẫn dụ bởi những kỹ thuật quảng cáo tinh xảo để bán sản phẩm của các công ty thương mại trong mùa này. Chúng ta cũng không thể bắt chước thói tục đời nay chỉ chúc mừng nhau trên môi miệng câu “chúc mừng ngày lễ”, bởi vì ngày sinh của Chúa không phải là ngày lễ thường mà ngày lễ rất trọng, ngày lễ mà mọi người Kitô hữu được kêu mời nghỉ trọn ngày để tôn vinh Thiên Chúa, ngày làm chúng ta được trở nên thánh thiện (A Holy Day), để chúng ta có thể chúc nhau câu “Mừng Sinh Nhật Chúa” (Merry Christmas). Nếu không có việc Chúa Giáng Sinh thì làm sao có ngày lễ để mà “happy holidays”? Do đó, khi gửi thiệp, tặng quà cho nhau, chúng ta hãy nhớ đến tặng ân từ Thiên Đàng mà Chúa Cha đã tặng ban cho nhân loại là Con Một Ngài là Chúa Giêsu Cứu Thế, và hãy tặng nhau một tấm lòng chân thật, biết ơn người khác” (Phó tế Phêrô Đặng Phi Hùng, “Trông đợi”).
– Sau nữa, hãy chuẩn bị bằng việc sống thái độ tỉnh thức.
Điệp khúc “hãy tỉnh thức” vẫn vang lên nhiều lần trong suốt Mùa Vọng. Tỉnh thức nghĩa là không mải mê, xao lãng với bổn phận, với nghĩa vụ làm người và làm Kitô hữu. Tỉnh thức là không ngủ say, ngủ vùi trong những đam mê và trong những thực tại trần thế mà quên đi những gì sẽ xảy đến bất ngờ cho con người. Tỉnh thức là thanh luyện tâm hồn mình khỏi mọi thói hư tật xấu, là tẩy trừ tâm hồn khỏi lòng tham sân si và mọi thứ dính bén trần tục, là nỗ lực thu nhỏ cái tôi của mình để cho Chúa được lớn lên, như tâm tình của Gioan.
Khi tỉnh thức, có người nhâm nhi cà phê, có người uống rượu… cho giờ mau qua, có người đánh bài để giết thời gian, có người hát hò, có người xem truyền hình, xem phim, lại có người nói chuyện tán dóc cho hết giờ. Bởi đó, nhiều lần ta nghe nói: người này chết (Chúa đến) khi họ đang ngủ, người kia chết (Chúa đến) khi họ đang làm việc; có người chết (Chúa đến) khi họ đang ăn uống, có người chết (Chúa đến) khi họ tỏ ra anh hùng trên xa lộ, hay đang chơi bời,…
Thời ông Noe, dân chúng mải mê ăn chơi thoải mái, trong khi gia đình ông Noe lại tất bật với việc đóng tàu. Dân chúng đi qua đó, thấy đó, nhưng họ lại chẳng lưu tâm gì với những điều Kinh Thánh đã loan báo. Có lẽ ông Noe cũng đã thông tin cho nhiều người chung quanh, khi họ hỏi ông đóng tàu làm gì, nhưng họ đâu có tin ông, vì họ đang mê mải ăn chơi, hưởng thụ. Chính thái độ thiếu tỉnh thức ấy đã khiến cho họ chết vùi, chết thảm trong trận hồng thuỷ thời bấy giờ.
Tỉnh thức là biết nỗ lực xây dựng một thế giới hiệp nhất, yêu thương, công bình và bác ái. Nếu chờ đợi trong tỉnh thức yêu thương, thì việc chờ Chúa đến sẽ không còn là sự bất ngờ đáng lo, đáng sợ nữa, nhưng lại là sự bất ngờ của niềm vui và hạnh phúc. Vì thế, Mùa Vọng là mùa của đợi chờ: đợi chờ chính Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, đợi chờ trong hy vọng, đợi chờ trong tin yêu. Chờ đợi như thế, chính là tỉnh thức, là sẵn sàng, là mở đường về Nước Trời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Tôma Nguyễn Văn Hiệp)
Hôm nay Giáo Hội bước vào chu kỳ Năm Phụng vụ mới bắt đầu với Mùa vọng. “Mùa vọng” là danh từ “Nôm”, “vọng” (望) là chữ mượn Hán, có nghĩa là: hướng đến, trông chờ, mong đợi. “Mùa vọng” tiếng La tinh là “Adventus”, có nghĩa là: đến, hiện diện hay hiển trị. Trong cử hành phụng vụ, Mùa vọng gồm 4 Chúa nhật và chia làm hai giai đoạn: giai đoạn một từ Chúa nhật I Mùa vọng đến hết ngày 16/12 là thời gian hướng tâm hồn người tín hữu đến ngày Quang lâm, ngày Chúa Kitô trở lại lần thứ hai trong vinh quang; giai đoạn hai từ ngày 17 – 24/12, là tuần lễ chuẩn bị trực tiếp mừng lễ Giáng sinh, kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người.
Cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn hướng về “Ngày Chúa đến”.
Bài đọc 1, tiên tri Giêrêmia tuyên sấm về một Đấng Công chính mà Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại để giải thoát muôn dân: “Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đa-vít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực.” (Gr 33,15). Đấng Công chính ấy là Đức Giêsu Kitô giáng trần để ban cho nhân loại Tin Mừng Tình yêu cứu độ.
Bài đọc 2, Thánh Phaolô mời gọi dân thành Thêxalônica hãy sống Tin Mừng tình yêu để xứng đáng đón Chúa đến lần thứ hai. “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết… Có như thế thì… anh em mới được bền tâm vững chí không có gì đáng chê trách… trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người.” (1Tx 3,12-13).
Bài Tin Mừng, thánh Luca mượn ngôn ngữ khải huyền của Cựu Ước để nói về lần thứ hai Chúa đến, đó là ngày quang lâm. “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc 34-36).
Thời gian gần đây (cuối tháng 11/2012) trên mạng lại bắt đầu râm ran tin tức đã gây ồn ào một thuở trước đây là ngày 21/12/2012 sẽ là ngày tận thế theo lịch người Maya cổ đại. Người ta lại nhân danh cả cơ quan Hàng không và Vũ trụ NASA của Mỹ làm vỏ bọc cho sự chính xác, củng cố niềm tin của độc giả. Tin tức này đã được các tờ báo hay các trang mạng lật tẩy sự “nửa vời”, không chính xác và thiếu thành thật. Thế nhưng nó cũng tạo ra một hiệu ứng hoang mang lo lắng cho một số người thiếu sự suy nghĩ chín chắn.
Chính Đức Giáo Hoàng Benedicto 16 đã kêu gọi mọi người công giáo không nên dừng lại ở “sự tò mò về thời điểm và các lời dự báo” hôm 18/11/2012 tại Vatican. Từ bài Tin Mừng trong ngày Chúa nhật 33 Thường niên (Mc 13, 24-32), Chúa Giêsu tiên báo về “bầu trời trở nên âm u” và “các vì sao rơi rụng xuống từ trời”, ngài giải thích: Chúa Giêsu không hành động như một “nhà tiên tri” mô tả “ngày tận thế”, mà ngược lại muốn giải thoát vĩnh viễn các môn đệ khỏi các lời tiên đoán về thời điểm thế giới sẽ bị tận diệt; Chúa Giêsu “muốn mang lại cho các tín đồ chiếc chìa khóa cho sự suy ngẫm sâu sắc hơn, đúng bản chất hơn, và nhất là chỉ ra con đường phải đi hôm nay và ngày mai để bước vào cuộc sống vĩnh hằng”. Cuối cùng Ngài khẳng định: “Tất cả rồi sẽ trôi qua, nhưng lời của Chúa không hề thay đổi”.
Giả như ngày tận thế có xảy ra thật vào ngày 21.12.2012 thì cũng chẳng có gì phải lo lắng nếu sống đúng lời dạy trong trang Tin Mừng hôm nay là “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, “tỉnh thức và cầu nguyện luôn”. “Đứng thẳng và ngẩng đầu lên” là sống bác ái, công bằng, thành thật theo Tin Mừng. “Tỉnh thức và cầu nguyện luôn” là luôn trong tư thế sẵn sàng, lòng qui hướng về Chúa, về đời sống mai sau mà vượt thắng mọi cám dỗ đam mê tội lỗi. Chúng ta chỉ hoang mang lo sợ ngày tận thế khi chúng ta đang ở trong tình trạng nặng nề, chìm đắm, buông thả, chạy theo những sự chóng qua của thế gian.
Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn để mỗi người chúng ta biết thức tỉnh, luôn ý thức mình là con cái Thiên Chúa có quê hương đích thực trên trời mà luôn quảng đại dấn thân sống yêu thương phục vụ theo khuôn mẫu của Chúa Giêsu và luôn kết hiệp với Người trong mọi phút giây của cuộc sống. Có như thế chúng ta là những tín hữu “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, “tỉnh thức và cầu nguyện luôn”; là những chiến sĩ trong tư thế sẵn sàng chờ đợi Chúa trong ngày quang lâm chung thẩm. Amen.
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Từ trần gian con ngước trông lên Chúa ơi,
Cầu xin hãy mưa Đấng Thiên Sai, Chúa ơi, nghe lời van thiết tha!
Ngày và đêm con vẫn van xin Chúa thương
Người ban ơn cứu rỗi yêu đương bốn phương, cho đoàn con ngóng chờ.
Lời nguyện cầu thiết tha nhắc tôi một năm phụng vụ mới đã tới. Một mùa Vọng nữa lại về. Giữa cái se lạnh của ngày lập đông lại có những giây phút hân hoan đợi chờ. Ngày Lễ Giáng Sinh sắp đến. Không gian như hơi giao động giữa từng cơn gió, nhưng vẫn ấm biết bao khi nghe văng vẳng bài thánh ca mừng Chúa ra đời. Không hiểu sao trong tất cả các mùa phụng vụ, tôi thích nhất mùa Vọng.
Nhưng hình như vẫn còn một thứ trái nghịch nào đó với nỗi chờ đợi mà nay đã thành quen thuộc trong nếp sống đạo của mình: thay vì hướng đến một sự gì sẽ xảy ra trong tương lai, tôi lại chỉ ngóng về một biến cố đã qua. Thành ra vọng mà không phải chờ; sống mùa Vọng mà chỉ như một cuộc tưởng niệm quá khứ.
Thế nên Lời Chúa trong ngày đầu tiên của năm phụng vụ mới đã hướng tôi về với ý nghĩa căn bản của mùa Vọng: kỷ niệm ngày Chúa đã đến để hướng lòng về ngày Chúa lại đến.
Nhưng phải chăng Chúa sẽ đến trong hình hài đơn sơ của một trẻ thơ, được bọc trong khăn mỏng, nằm trong máng cỏ, có các thiên thần chầu chực và các mục tử bao quanh như cách đây hai ngàn năm? Chắc chắn không phải vậy. Trái lại, “Ngài sẽ đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả” với “Những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao. Dưới đất thì các dân buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Các tầng trời rung chuyển. Người ta kinh hồn khiếp đảm, chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ” (Lc 21:25-27).
Cách mô tả theo truyền thống Khải Huyền trên đây không hoàn toàn phải xảy ra như vậy. Nhưng đó chỉ là cách mượn lại những hình ảnh văn chương đã có trong các sách Daniel và Isaiah để diễn tả một điều: thời điểm cánh chung của thế giới, ngày Đấng Cứu Thế ngự đến để viên toàn chương trình cứu chuộc và thánh hoá con người. Và như thế người tín hữu được mời gọi vọng về ngày đó, chứ không phải vọng ngày Giáng Sinh.
Người ta thường rơi vào một trong hai thái độ chờ đợi: tích cực hay tiêu cực. Người chờ đợi tiêu cực luôn ở trong trạng thái thụ động. Như một người chờ đợi xe bus, chỉ biết đứng trông, chờ mong chiếc xe ghé trạm. Trong khi đó, người có thái độ chờ đợi tích cực sẽ như gia chủ, bận rộn sắp xếp, sửa sang phòng ốc, chuẩn bị đón tiếp quan khách ghé thăm.
Bước vào mùa Vọng với thái độ trông chờ tích cực chính là lối đường mà Hội Thánh mời gọi. Dù rằng đất trời rung chuyển, dù cho thiên hạ âu lo, người Kitô hữu vẫn hãy “đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi đã gần đến” (Lc 21:28). Người tin Chúa Giêsu Cứu Thế không thể nào lại sợ hãi Ngài trở lại trong vinh quang. Họ cũng không thể xếp xó công việc, ngồi đó ngóng trông mà lơ là bác ái.
Tín hữu thành Thessalônica đã một lần rơi vào cảnh ngộ đó. Họ cứ tưởng Chúa gần đến lắm rồi. Và hậu quả là ăn không ngồi rồi, chểnh mảng công việc, tội lỗi nảy sinh. Thánh Phaolô đã phải lên tiếng răn bảo: càng trông chờ Chúa anh em càng phải “tràn đầy lòng thương yêu nhau… để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu Kitô ngự đến cùng với tất cả các Thánh” (1 Tx 3:12-13).
Thế ra sống tinh thần trông đợi Đấng Cứu Thế không gì tích cực và ý nghĩa hơn việc tỏ bày đức ái.
Không có đợi chờ chân thành nào lại không hàm ẩn một cân lượng của yêu thương nhung nhớ. Vì có yêu mới nhớ, có thương mới chờ. Thế nên khi cất lên lời ca “Ngày và đêm con vẫn van xin Chúa thương. Người ban ơn cứu rỗi yêu đương bốn phương, cho đoàn con ngóng chờ” đã như một lời khẳng định chỉ có Thiên Chúa Tình Yêu mới lấp đầy mọi khát vọng yêu thương của con người. Lời khẩn cầu chờ mong Chúa đến và nỗ lực thương yêu đã như đan quyện vào nhau mà làm nên bản sắc độc đáo của mùa Vọng.
Tôi cứ lầm tưởng mình đang đợi Chúa đến, nhưng đúng hơn, Ngài đang chờ tôi về. Chúa đã đến cách đây 2000 năm. Bước chân Ngài vẫn trải khắp trong từng phút giây và nơi mọi ngóc ngách của đời tôi. Ngài chờ đợi tôi như người cha trông mong đứa con hoang trở về trong vòng tay thân ái.
Không ai sống mùa Vọng đúng nghĩa bằng Thiên Chúa. Tình yêu nơi Ngài đã làm nên nỗi nhớ. Nhớ day dứt người con xa vắng mù khơi. Càng nhớ lại càng mong. Và nỗi mong đã khiến Ngài không ngừng tìm đến với nhân loại.
Chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh phải là thời điểm nhắc tôi về một Tình Yêu đã đến, đang đến và sẽ đến. Tình yêu đó không ngớt mời gọi, chờ đợi ngày tôi trở về để “se nên chữ đồng” và để “kết nghĩa đất trời yêu thương.”
Mở đầu mùa Vọng, chúng ta nghe những mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Hãy đứng dậy!” “Hãy ngẩng đầu lên!” “Hãy cảnh giác!” “Hãy tỉnh thức!” “Hãy cầu nguyện!”.
Chúng ta có thể nói đây là một sự giật mình tỉnh thức. Loại bỏ hình ảnh các Kitô hữu tiến bước uể oải hoặc sợ sệt trong cuộc sống. Họ bước đi đầu ngẩng cao, hướng về một thế giới kỳ diệu: “Các ngươi sẽ thấy Con Người đến trong quyền năng và vinh quang”.
Chắc chắn, đối với những Kitô hữu, cuộc sống cũng khó khăn như đối với những người khác, cũng vẫn có những trộn lẫn hy vọng và thất vọng, những lúc vui vẻ và những lúc chán chường. Sự khác biệt to lớn đó là chúng ta biết rằng tất cả những điều đó có một ý nghĩa toàn bộ mặc dầu trong chi tiết, những điều đó có vẻ đen tối. Chúng ta biết chúng ta đến từ đâu và chúng ta đi đâu: được sinh ra từ tình yêu, chúng ta sống dưới cái nhìn của tình yêu và chúng ta đi về tình yêu. Đôi khi người ta nói với chúng ta: “Đức tin của bạn có thay đổi được gì không?”. Tất cả! Như mặt trời vậy. Chúng ta sống cũng những điều như thế, nhưng trong ánh sáng. “Ai đi theo Ta, kẻ ấy không bước đi trong bóng tối”, Chúa Giêsu nói như thế.
Chúng ta bước đi trong ánh mặt trời của lần Chúa Kitô đến đầu tiên: Giáng Sinh. Và chúng ta tiến bước về ánh sáng của lần Ngài đến cuối cùng: Ngày Quang Lâm. Giữa hai lần này, chúng ta mở rộng cuộc sống và thế giới hết cỡ cho điều bí ẩn hơn, tiệm tiến hơn: đến được những ý tưởng của Chúa Kitô, sức mạnh yêu thương và niềm tin không lay chuyển vào Chúa Cha.
Cũng sống trong ánh sáng, đứng vững trong tình yêu và niềm tin, đó là sự tỉnh thức Kitô: “Hãy tỉnh thức!”. Gần đây, những kỹ thuật tỉnh thức của Đông phương lan truyền tại Tây phương: hít thở nhiều hơn, chú ý nhiều đến điều chúng ta đang làm, “hiện diện ở đó”, tự do, thư giãn, cởi mở, sẵn sàng để sống tối đa vào mọi giây phút. Tại sao không lấy đó làm một lời mời gọi người Kitô hữu tỉnh thức? Đây là ước muốn sống đức tin của chúng ta một cách triệt để.
Chúng ta có thể mô tả cuộc sống tỉnh thức này hay không? Mỗi buổi sáng là một sự gặp lại Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài. Qua việc đọc một đoạn ngắn, một kinh ngắn hoặc một kinh nguyện dài hơn, chúng ta lại quyết định chú ý đến Chúa, đến nhiệm vụ, đến những người mà chúng ta sắp sửa gặp. Nhưng sẽ phải không ngừng coi chừng sự “nặng nề chậm chạp của con tim chúng ta”. Chúa Giêsu nói thẳng: Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”.
Ngài cũng chỉ cho chúng ta biết phải lấy ý chí tỉnh thức ở đâu: “Hãy cầu nguyện!”. Những người xao lãng mệnh lệnh này ngày hôm nay phải để cho lời cảnh cáo nặng nề cuối cùng này lọt tai: “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người”.
Mùa vọng là mùa của chờ đợi và hy vọng. Đây là thời gian chuẩn bị đón mừng lễ Giáng sinh, mừng Con Thiên Chúa đến trong thế gian để mang lại sự hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân loại.
Trong mỗi chúng ta luôn khát khao được sống trong yêu thương, an lành và hạnh phúc, nhưng trong thực tế thì không phải ai cũng đạt được những điều mình mong ước trong cuộc sống. Thế thì, đâu là ý nghĩa của việc chờ đợi và hy vọng của Mùa Vọng?.
Vào Mùa Vọng năm 2008, tôi có dịp đi vào những vùng sâu, và viếng thăm những người nghèo. Tôi đến thăm một bé trai 9 tuổi bị bệnh ung thư máu, em đã nằm trên giường bệnh nhiều năm, thân hình tàn tạ chỉ còn da bọc xương, em đang chờ đợi cái chết sẽ xẩy đến trong một thời gian ngắn. Lúc ấy, tôi thầm nghĩ trong lòng, tôi sẽ đưa em đi bệnh viện để em có thể sống được lâu hơn, vì gia đình em quá nghèo. Họ không còn tiền để mua thuốc hay một hộp sữa cho em uống. Tôi hỏi người mẹ có cho em ăn gì chưa? Chị ta trả lời: “Hôm nay, nhà em không còn tiền và cũng không gì để ăn” Nghe lời chị ta nói, lòng tôi như bị thắt lại. Ngôi nhà thì rách nát, tả tơi, ngay cả chỗ em nằm cũng không được bảo đảm. Khi nhìn thấy hoàn cảnh đứa bé, tôi bị xúc động trước nỗi bất hạnh của em. Tôi đến cầm lấy tay và đỡ em ngồi dậy. Tôi nhìn đôi mắt của em, thì hai dòng nước mắt chảy xuống gò má gầy gò, và lúc đó tôi cũng không thể cầm được nước mắt của mình. Mặt dù, tôi không thể nói được điều gì với em, nhưng tôi tin chắc rằng, em sẽ hiểu được tình cảm của tôi dành cho em. Trước khi từ giã em ra về, tôi hứa với em rằng, tôi sẽ trở lại để đưa em đi bệnh viện. Đó là điều mong ước nhỏ nhoi của tôi. Thế nhưng, tôi chưa kịp quay trở lại, thì em đã vĩnh viễn ra đi.
Cậu bé đã từng có những hy vọng và chờ đợi. Hy vọng một tương lai tốt đẹp. Chờ đợi một phép lạ xẩy ra để em được sống, nhưng tất cả đều vô vọng, và em đã kết thúc cuộc đời. Và tôi luôn mang trong mình một nỗi khắc khoải về những gì mình chưa làm được với một lời hứa. Từ kinh nghiệm này giúp tôi liên tưởng đến ý nghĩa của sự chờ đợi và hy vọng.
Chờ đợi không chỉ là mong đợi những điều tốt có thể sẽ xảy ra trong tương lai, mà là biết nhận ra những ân ban của Thiên Chúa cho ta trong cuộc sống hiện tại này. Giá trị của cuộc sống hiện tại của con người là kết quả cho cuộc sống tương lai tốt đẹp. Chờ đợi không chỉ đón nhận những điều tốt mà thôi, nhưng là còn phải chấp nhận những gì ngoài ý muốn của mình. Hơn nữa, chờ đợi không phải là ngồi đó để than van, trách móc, tủi hờn cho số phận, nhưng phải biết tìm kiếm và im lặng để lắng nghe được tiếng Chúa nói trong ta, và thực hiện bằng việc làm cụ thể.
Mùa vọng là cơ hội tốt để cho chúng ta nhìn lại thời gian qua, sống với giá trị hiện tại, và hướng tới tương lai vĩnh cửu. Lời Chúa nhắc bảo chúng ta là hãy sẵn sàng và tỉnh thức trong mỗi hoàn cảnh và thời khắc, vì chúng ta chẳng biết giờ Chúa đến với mỗi người chúng ta. “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!” Và ngày đó, Thiên Chúa phán xét chúng ta về lòng bác ái và yêu thương. Chân lý cuối cùng của cuộc đời là tình yêu: Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người.Vì yêu thương con người, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm Người, sống kiếp con người với chúng ta, và Ngài chết cho con người để mang lại hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân loại, thì giờ đây Chúa đang ở cùng với chúng ta, và nơi những người anh em. Những người bất hạnh đang bị bỏ rơi, những người già bệnh tật, cô đơn, những trẻ em mồ côi đang cần có tình thương…
Có những mãnh đời đã đi qua đời tôi, nhưng tôi vẫn vô tình, thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm, vì cái tôi chật hẹp và ích kỷ. Hình ảnh cậu bé ngày xưa vẫn còn đọng lại trong tôi như là một lời nhắc nhớ rằng: chờ Chúa đến không phải chỉ là ước mong những điều tốt đẹp cho mình, nhưng là phải biết chia sẻ, cảm thông, yêu thương. Chờ Chúa đến không phải là lúc ta ngồi đó để than vãn, oán trách cho số phận mà là hãy sẵn sàng, tỉnh thức, cầu nguyện và bác ái trong Mùa Vọng.
Cùng với Chúa nhật thứ I Mùa vọng, hôm nay chúng ta cử hành ngày đầu năm phụng vụ. Thánh lễ này mời gọi chúng ta lại hướng về Thiên Chúa như hướng về Đấng đang đến, tức là hy vọng, chờ mong và nhận ra Ngài đến ở chúng ta. Vì mùa vọng là những ngày mong đợi Ngài đến.
Để đánh dấu ngày đầu năm phụng vụ, có lẽ phải nhìn lại một chút chu kỳ phụng vụ, để rồi chúng ta lại quay về Đấng mà chúng ta dám hy vọng và khẳng định rằng Ngài đang đến. Nhưng việc Chúa đến và niềm hy vọng Chúa đến nằm trong một chuyển động liên tục, chuyển động của đức tin. Quả thật làm sao chúng ta có thể hy vọng hoặc nhận ra ai đó đang đến nếu chúng ta không tin nơi người ấy, nếu chúng ta không biết người ấy?
Để nhấn mạnh vị trí của mùa vọng trong chuyển động của đức tin, bản văn Tin Mừng hôm nay được chọn không phải ở đầu nhưng ở cuối Tin mừng thánh luca. Bởi vì chúng ta không chỉ đợi chờ ngày Giáng sinh của Đấng Cứu thế – đã xảy ra từ hơn 2000 năm nay, nhưng còn chờ đợi việc Ngài trở lại trong vinh quang, việc này cuối cùng sẽ cho chúng ta nhìn thấy thế giới trong ánh sáng hoàn toàn, “đứng lên trước mặt Con Người”. Vì vấn đề là chúng ta có thể đứng lên trước mặt Chúa Giêsu, vì chính Ngài sẽ đứng trước mặt chúng ta. Kỳ thực, như toàn bộ Tin mừng và đức tin Kitô khẳng định, Ngài đã đứng đó với chúng ta rồi.
Vậy sống mùa vọng không những là hy vọng và chờ đợi Chúa đến; mà còn sẵn sàng nhận ra sự hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta, dù không trông thấy những dấu lạ lùng nơi mặt trời, mặt trăng và các tinh tú. Sống mùa vọng trong thế giới chúng ta là chuẩn bị ngẩng đầu lên mặc dù quyền uy và vinh quang của Con Người không hiện diện ở đó. Sống mùa vọng là hy vọng rằng Thiên Chúa luôn luôn được tỏ hiện trong đời chúng ta, không phải chỉ vào ngày tận thế, hoặc vào ngày phán xét cuối cùng, nhưng ngay hôm nay. Nhưng điều này đòi hỏi chúng ta phải biết đọc những dấu chỉ của Chúa và sự hiện diện của Ngài ngày hôm nay, nơi bản thân và xung quanh chúng ta. Điều này đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết Ngài và quan tâm đến Ngài hơn nữa.
Dấu lạ là cần thiết khi sự chú ý yếu đi. Nhưng chúng ta lại chẳng thấy trong đời mình những dấu lạ ấy, những biến cố làm chúng ta chú ý đó sao, và đôi khi chúng ta tránh vì sợ ý nghĩa và sự tháchthức của những dấu lạ đó hoặc tầm thường hóa chúng ta vì ta đã thấy nhiều quá rồi. Vậy nên ta phải cùng nhau nghe lại Lời Chúa trong Cựu ước và Tân ước, cùng nhau ý thức lại sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu là như thế nào đến nỗi Ngài đã hiến dâng mạng sống mình để cho thế giới được sống.
Mặc dầu danh từ mùa vọng gần với “mạo hiểm” hơn là “chờ đợi” nhưng chúng ta thường đồng hóa mùa vọng với chờ đợi. Tôi nghĩ chúng ta cần phải sống mùa vọng như một cuộc mạo hiểm, cuộc mạo hiểm mà Thiên Chúa thực hiện giữa chúng ta, từ việc Chúa Giêsu ra đời vào ngày Giáng sinh, đến việc Giáo Hội sinh ra ngày lễ ngũ tuần. Cuộc mạo hiểm này, được Tin mừng và toàn bộ Thánh Kinh làm chứng, nhắc nhở chúng ta phải sống, chứ không chỉ chờ đợi mà thôi. Thí dụ chúng ta hãy nghĩ đến những gì đã xảy ra cho chúng ta khi chờ một cú điện thoại của người thân và chúng ta phải thất vọng vì nó không đến. Lúc đó chúng ta đâm ra chán nản vì sự trễ nải hoặc thờ ơ của người kia mà càng lúc chúng ta càng bị lệ thuộc.
Đôi khi chúng ta lại chẳng chờ mong Thiên Chúa như một kinh nghiệm lệ thuộc đó ư? Chỉ mong sao cho Đấng sẽ cứu chúng ta, sẽ phán xét và chỉnh đốn thế giới đến mau cho rồi! Nói cách khác, mong sao cho đấng sẽ sống thay chúng ta cuộc mạo hiểm của đời sống của chúng ta đến mau cho rồi, trong lúc cuộc mạo hiểm đó là của chúng ta dù được sống cùng với Thiên Chúa đi nữa! Tôi nghĩ rằng chúng ta phải cùng với Chúa sống mùa vọng, sống cuộc mạo hiểm hoặc việc Chúa đến phán xét và chỉnh đốn thế giới chúng ta. Đó cũng là việc hoán cải mà mùa vọng mời gọi chúng ta làm.
Lúc đó chúng ta có thể nhận ra vinh quang của đấng mà chúng ta tuyên xưng là Chúa của chúng ta. Lúc đó chúng ta có thể nói cùng với vị ngôn sứ:“Chúa là sự công chính của chúng ta”, và có thể đứng trước mặt Ngài. Bởi vì chúng ta đã sống tình yêu của Ngài… trong lúc chúng ta chờ mong Ngài. Bởi vì chúng ta đã sống cuộc mạo hiểm làm người của chúng ta dưới dấu hiệu tình yêu của Ngài, bất chấp mọi nguy hiểm và khó khăn.
Có lẽ, hơn ai hết, dân Israel có kinh nghiệm chờ đợi Đấng Thiên Sai.
Thiên Chúa đã thiết lập giao ước tình yêu với dân, Thiên Chúa đã chọn Israel làm dân riêng thế nhưng mà dân đã không nhận ra tình yêu đó. Nói không nhận ra thì cũng không đúng. Nhận ra đó nhưng nhiều lúc cứng tin và nản lòng nản chí để rồi đi tìm cho mình một thần minh khác ngoài Thiên Chúa. Cứ tưởng là thần minh đó sẽ làm cho cuộc đời mình, làm cho dân tộc mình khá hơn dân tộc khác nhưng đâu có biết rằng dân cứ mãi bước đi trong lầm than.
Đã quá nhiều lần bỏ Chúa để đi thờ thần này, tượng kia. Ít là hơn một lần kinh nghiệm của việc dựng bò vàng lên để thờ hay chạy theo các thần của Baal. Lẽ ra chỉ thờ mình Thiên Chúa vì Thiên Chúa mới là Đấng Cứu Độ của đời mình nhưng không, đi tìm thần khác.
Thiên Chúa, Ngài cũng giận đó chứ nhưng Ngài vẫn yêu thương và hứa ban Đấng Cứu Độ dù dân của Ngài cứ phải lòng chai dạ đá với Ngài.
Bằng cách này cách khác, người này người kia, Thiên Chúa, nói to cũng có, nói nhỏ cũng có rằng sẽ có Đấng Cứu Độ đến để giải thoát dân và mang ơn cứu độ cho dân.
Hôm nay, qua lời ngôn sứ Giêrêmia, chúng ta nghe đây lời Chúa phán: Đã đến ngày Ta sẽ thực hiện tin mừng Ta loan báo về nhà Israel và nhà Giuđa. Trong những ngày đó và trong thời gian đó, Ta sẽ làm nảy sinh cho Đavít một chồi công chính, Ngài sẽ xét xử và thi hành công lý trong xứ sở. Trong những ngày đó, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ sống yên ổn. Và đây là tên người ta sẽ gọi Ngài: “Thiên Chúa, Đấng Công Chính của chúng tôi”.
Thế đó, ngày Đấng Công Chính đến sẽ giải thoát cho dân và sẽ cho dân sống một cuộc sống yên ổn, bình an và hạnh phúc.
Và, sau đó một thời gian dài, Đấng Cứu Độ trần gian mà các ngôn sứ đã đến ở giữa trần gian, để loan báo Tin Mừng Cứu Độ cho dân.
Trong hành trình loan báo Ơn Cứu Độ, loan báo Tin Mừng, nhiều và quá nhiều lần Chúa Giêsu nói cho mọi người biết về ngày mà Con Người đến trong vinh quang và quyền năng của Ngài.
Hôm nay, qua trang Tin mừng của Thánh Luca, chúng ta nghe Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến”.
Không chỉ thế, Chúa Giêsu còn dạy thêm cho các môn đệ rằng: “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!”
Trong tâm tình đó, nhiều và nhiều lời được khuyên nhủ, được loan báo tư thế của những người đón chờ Đấng Cứu Độ trần gian, đón chờ Chúa đến.
Để đón chờ Chúa đến, chờ Đấng Cứu Độ đến, đời sống của chúng ta cũng phải sống trong tâm tình chờ đợi. Tâm tình chờ đợi đó được Thánh Phaolô tông đồ gửi thư cho giáo đoàn Thessalônica cũng như gửi cho mỗi người chúng ta: Anh em thân mến, xin Chúa gia tăng và ban cho anh em tràn đầy lòng thương yêu nhau, và thương yêu mọi người như chúng tôi đối với anh em, để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến cùng với tất cả các Thánh.
Anh em thân mến, ngoài ra, tôi còn van nài anh em trong Chúa Giêsu điều này, là như anh em được chúng tôi bảo cho biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, anh em đang sống như vậy, xin anh em cứ tiến thêm nữa. Vì anh em biết rõ huấn thị chúng tôi nhân danh Chúa Giêsu đã ban cho anh em.
Vâng! Có lẽ lời mời gọi của thánh Phaolô là một lời mời gọi hết sức thiết thực, hết sức gần gũi với mỗi người chúng ta.
Hãy sống làm sao như ngày hôm nay là ngày cuối cùng của đời chúng ta thì chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, bình an và hạnh phúc. Tính đi tính lại, cuộc đời chúng ta thật vắn vỏi.
“Ngàn năm Chúa kể là gì,
tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,
khác nào một trống canh thôi!”(c. 4)
Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục,
Mạnh giỏi chăng là được tám mươi,
Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,
Cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi.
(Tv 89, 10)
“Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.” (c. 2).
Để rồi từ đó, ta mỗi ngày thức dậy ta nguyện xin:
“Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa,
để ngày ngày được hớn hở vui ca.” (c. 14).
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta để ngày mỗi ngày ta luôn hướng về ngày cuối cùng của đời ta và ta luôn sống trong tâm tình chờ đợi Chúa đến với cuộc đời của mỗi người chúng ta.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý CHÍNH: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện (Lc 21,36).
Bài Tin Mừng hôm nay là một phần trong diễn từ cánh chung của Đức Giêsu (x. Lc 21,5-36). Khi trình bày đề tài cánh chung, Người đã dùng lối văn khải huyền.
Ta có thể chia bài Tin Mừng thành hai phần: Phần thứ nhất: Đức Giêsu cho biết sẽ có những điềm lạ trên trời và dưới đất tiên báo ngày Con Người sẽ đến trên đám mây, đầy quyền uy cao cả. Phần thứ hai: Người dạy các tín hữu phải có thái độ tỉnh thức và cầu nguyện luôn để chờ đón ngày ấy. Họ tránh sa đà vào các thói đam mê để khi Chúa đến bất ngờ, họ sẽ không lo sợ bị trừng phạt, và có thể đứng vững trước mặt Con Người.
2) CHÚ THÍCH:
+ Khi ấy Đức Giêsu phán cùng các môn đệ: Trong đoạn này, Đức Giêsu dùng lối văn khải huyền. Khải huyền là thể văn diễn tả các biến cố trong lịch sử và giải thích các biến cố ấy dưới cái nhìn cánh chung thế mạt, nhằm biểu lộ những điều ẩn giấu mà duy chỉ Thiên Chúa mới biết, để nhắc bảo người nghe phải có thái độ xứng hợp. Ở đây, Đức Giêsu vừa tiên báo về sự sụp đổ của thành Giêrusalem (x. Lc 21,20-22), như một hình ảnh để mặc khải về ngày tận thế, trước khi kêu gọi mọi người phải luôn tỉnh thức và sẳn sàng đón Chúa đến (x. Lc 21,23-24).
+ Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét: Người Do thái thời đó quan niệm không gian có ba tầng: trời, đất và biển. Qua câu này, Đức Giêsu muốn dùng những hình ảnh có tính cách khải huyền, để diễn tả sự can thiệp dứt khoát của Thiên chúa trên vũ trụ mà Ngài sắp giải thoát chúng khỏi sự dữ (x. Rm 8,19). Vì thế sự rung chuyển của ba tầng trời là dấu chỉ báo hiệu sự sụp đổ của chúng trong ngày tận thế. Vũ trụ hữu hình là trời cũ đất cũ cùng biển sẽ bị biến mất, nhường chỗ cho một trời mới đất mới xuất hiện và Thành thánh Giêrusalem mới sẽ từ trời mà xuống (x. Kh 21,1-8).
+ Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển: Những quyền lực trên trời là các tinh tú và sức mạnh của thiên giới. Lối nói này diễn tả tầm mức lớn lao và tính quyết liệt của việc Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử loài người lần cuối cùng. Các quyền lực trên trời ấy bị rung chuyển, sẽ kéo theo sự hỗn loạn của toàn thể vũ trụ, khiến cho người ta sợ hãi kinh hồn không biết tai họa gì sắp giáng xuống trên địa cầu.
+ Con Người đầy quyền năng và vinh quang: Đức Giêsu dùng tước hiệu Con Người làm tước hiệu riêng của mình, vì nó thể hiện đúng vai trò cứu thế của Người. Tước hiệu Con Người có hai ý nghĩa khác nhau nhưng lại bổ túc cho nhau: Một là “Người Tôi Tớ của Đức Giavê” chịu đau khổ để đền tội thay cho nhân loại (x. Mc 8,31) và ngày thứ ba sẽ từ trong kẻ chết trỗi dậy (x. Mt 17,9); Hai là “Chúa Con được đưa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (x. Tv 110,1), và sẽ quang lâm trên mây trời” trong ngày tận thế, để trở thành vị Thẩm phán tối cao phán xét thế gian và thiết lập một “Vương Quyền vĩnh cửu” (x. Đn 7,13-14).
+ Ngự trên đám mây: Mây được coi như xa giá của Thiên Chúa. Câu này cho biết Đức Kitô sẽ ngự đến trong uy quyền và vinh quang của Thiên Chúa.
+ Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên: Những dấu hiệu và biến cố Đức Giêsu tiên báo về ngày cánh chung thật đáng sợ. Nhưng các tín hữu của Chúa sẽ không phải lo sợ, vì những hiện tượng ấy chỉ biểu lộ quyền năng và sự chiến thắng của Thiên Chúa. Trong ngày đó, thái độ của các tín hữu sẽ là “đứng thẳng” và “ngẩng đầu lên” trong niềm hy vọng cậy trông và vui mừng hân hoan vì sắp được cứu chuộc.
+ Vì anh em sắp được cứu chuộc: Trong Cựu ước, Cứu Chuộc được dùng để diễn tả công việc Đức Chúa giải phóng dân Ítraen khỏi ách nô lệ Ai Cập (x.Xh 14,13), và ký một giao ước để công nhận họ làm dân riêng hay dân thánh, được hiến dâng cho Ngài (x. Xh 19,5; Is 62,11-12). Chính Giavê sẽ chuộc lại dân Ítraen khỏi mọi tì ố (x. Tv 130,7-8). Trong Tân ước, Cứu chuộc không những ám chỉ công cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô đã thực hiện trên núi Sọ (x. Rm 3,24-26), mà còn chỉ công trình Ngài sẽ hoàn tất vào cuối thời, khi Chúa Kitô quang lâm và xác loài người được phục sinh vinh hiển (x. Lc 21,28; Ep 1,14). Đức Giêsu đã đến để “hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc muôn người” (x. Mt 20,28).
+ Anh em phải đề phòng: Đức Giêsu nhắn nhủ các tín hữu phải cảnh giác vì tính cách bất ngờ của Ngày thế mạt.
+ Chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời: Đức Giêsu nêu ra những điều làm cho các tín hữu dễ bị lôi cuốn sa ngã là các đam mê như “chè chén say sưa” và quá “lo lắng việc đời”.
+ Kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em: Tính cách bất ngờ của giờ chết mỗi người hay ngày tận thế chung nhân loại được ví như chiếc lưới cá bất thần chụp xuống trên đầu mọi người, khiến không ai trên mặt đất có thể thoát khỏi.
+ Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn: Tỉnh thức là không mê ngủ, là luôn ở tư thế “thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn”, để chu toàn bổn phận đã được trao phó (x. Lc 12,35-48). Tỉnh thức còn là sự trung tín với Chúa nữa. Cầu nguyện luôn nghĩa là cầu nguyện không ngừng, không nhàm chán hay nản chí (x. Lc 18,1). Cầu nguyện luôn là cách biểu hiện một đức tin mạnh mẽ và sống động.
+ Đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người: Nếu biết tỉnh thức để luôn trung tín với Chúa và cầu nguyện không ngừng thì các tín hữu sẽ được cứu khỏi cơn gian nan thữ thách sắp xảy đến và sẽ tồn tại trước tòa phán xét sau này.
HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) LỜI CHÚA: “Chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời…” (Lc 21,34):
2) CÂU CHUYỆN 1: Con tàu Titanic.
Đêm 15.04.1912 các báo đài trên thế giới đồng loạt đăng tin về tai nạn đắm con tàu Titanic nổi tiếng. Khi nó đang chạy trên vùng Bắc Đại Tây Dương thì đụng phải một tảng băng ngầm khiến thành tàu bị lủng một miếng lớn, khiến nước ào vào khoang tàu. Sau mấy tiếng đồng hồ thì con tàu đã bị gãy làm đôi và chìm xuống lòng biển, mang theo phần lớn hành khách và toàn bộ thủy thủ đoàn. Titanic là một con tàu vĩ đại: dài 271 mét, rộng 28 mét, cao 22 mét với 8 tầng đầy đủ tiện nghi. Trên tàu có phố chơi, hồ bơi, sân chơi thể thao, rạp hát, vườn bông, nhà hàng…và số hành khách có mặt trên tàu lúc gặp nạn khoảng 1500 người. Hầu hết họ là người có danh giá có địa vị xã hội như các ông hoàng bà chúa, chính khách, đại phú gia, nghệ sĩ và thương gia…Con tàu Titanic từ khi hạ thủy đã được đánh giá là an toàn tuyệt đối, có khả năng thách thức với mọi thời tiết. Nhưng thực tế mới khời hành được mấy ngày thì đã gặp nạn. Đây là một trong những tai nạn đường biển khủng khiếp nhất trong lịch sử hàng hải thế giới từ trước đến nay.
3) CÂU CHUYỆN 2: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”:
Một vị đan tu tên là Mê-síc (Mésique), đã một thời gian khá lâu sống ngược với ơn gọi nên thánh của một tu sĩ. Một ngày kia ông đột nhiên bị ngất đi suốt một ngày một đêm không biết gì. Khi tỉnh dậy, ông hầu như đã trở nên một người khác. Ong không hé môi cho ai biết về điều ông đã gặp trong khi bị ngất, và chỉ xin cha bề trên cho được sống riêng trong một phòng kín, không tiếp xúc với bất cứ ai để có thời giờ hồi tâm sám hối. Hằng ngày các bạn mang cho ông một chiếc bánh mì và một bình nước uống qua một cái cửa sổ nhỏ. Và ông đã sống trong căn phòng kín ấy suốt 12 năm trời. Một hôm, không thấy ông lấy đồ ăn xuống như mọi khi, các tu sĩ gọi mãi mà không thấy ông lên tiếng. Tưởng ông đã chết, nên họ phá cửa vào trong phòng, thì thấy ông đang nằm bất tỉnh dưới đất trong tình trạng hấp hối sắp chết. Khi tỉnh dậy và nhìn thấy các tu sĩ đang vây chung quanh, ông đã thều thào nói những lời cuối cùng trước khi nhắm mắt như sau: “Hỡi các anh em. Tôi chỉ khuyên anh em một bài học mà tôi đã cảm nghiệm và rút ra được sau 12 năm thinh lặng để sám hối trong căn phòng kín này là: Ai luôn ý thức về sự chết thì sẽ không còn cố tình phạm tội nữa”. Rồi ông gục đầu tắt thở, để lại cho mọi người một ấn tượng khó quên. Thật đúng như lời Chúa phán trong Tin Mừng hôm nay: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36).
4) SUY NIỆM:
+ Gần đây, trong dịp kỷ niệm biến cố đắm tàu Titanic, một tạp chí tôn giáo kia, sau khi nhắc lại thảm họa, đã nêu ra cho độc giả một câu hỏi để suy nghĩ như sau: “Giả như chúng ta cũng có mặt trên con tàu Titanic kia, khi con tàu đang bị chìm, thì chúng ta có tiếp tục vui chơi ăn uống và khiêu vũ…mà quên mình sắp bị chết chìm không?. Câu hỏi này phù hợp với câu nói của Đức Giêsu mà Giáo Hội muốn chúng ta suy nghĩ trong Mùa Vọng này như sau: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em” (Lc 21,34).
+ Cái chết thường bất ngờ!: Lời Chúa hôm nay cũng nói đến sự bất ngờ ấy như sau: “Anh em phải đề phòng, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em”. Nơi khác Chúa phán: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến…Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,42.44).
+ Tuy bất ngờ, nhưng không phải hoàn toàn bất ngờ: Vì Chúa vẫn thương yêu chúng ta. Người luôn ban cho chúng ta nhiều tín hiệu báo trước về cái chết, để chúng ta kịp thời chuẩn bị. Mỗi khi thấy một người chết vì bệnh hay do tai nạn…là một tín hiệu Chúa gửi tới để nhắc ta về cái chết của mỗi người chúng ta. Khi ta thấy có những sợi tóc bạc xuất hiện trên đầu, một chiếc răng bị hư, đôi mắt ngày càng cận thị, tay chân bị thấp khớp sưng lên, khiến ta di chuyển khó khăn, một cơn bệnh nặng xuất hiện…là những tín hiệu cho thấy sự lão hóa, báo trước về giờ chết của ta chắc chắn sẽ đến! Chúng ta không nên bịt tai nhắm mắt trước những tín hiệu ấy, nhưng hãy thành tâm tìm hiểu ý nghĩa và sẵn sàng chờ đón giờ chết đến.
+ Phải canh thức và đề phòng: Đừng để cho những đam mê lạc thú bất chính, những tiện nghi vật chất, những nhu cầu thể xác như cơm, áo, gạo, tiền…chi phối chúng ta, làm cho chúng ta quên đi cùng đích cuộc đời là trở về Nhà Cha trên trời. Trong khi chờ đợi ngày ấy, ta cần phó thác cuộc sống của ta trong tay Chúa Quan Phòng và ưu tiên tìm kiếm Nước Trời như Lời Chúa dạy: “Vì thế, anh em đứng lo lắng tự hỏi: Ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? (Mt 6,31). Nhưng “trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người. Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
+ Phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn: Tỉnh thức nghĩa là luôn trung tín chu toàn việc bổn phận Chúa trao. Cầu nguyện là năng nhớ đến Chúa, dâng lên Người những lời nguyện vắn tắt, kèm theo những việc tốt phục vụ tha nhân. Cầu nguyện còn là siêng năng đi dự lễ và rước lễ mỗi ngày. Nhờ đó ta sẽ có nhựa sống là Ơn Thánh hóa của Chúa thông ban, giúp ta mỗi ngày trở nên hoàn thiện giống như Chúa Cha hơn (x. Mt 5,48).
5) SỐNG LỜI CHÚA
Khi vừa thức dậy, tôi quyết tâm dâng một ngày mới cho Chúa. Noi gương thánh nữ Têrêsa: “Làm những việc thường ngày bằng một cách thức phi thường”. Vậy từ ngày hôm nay tôi sẽ năng thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin dạy con yêu mến Chúa. Xin giúp con làm tốt việc con đang làm để biểu lộ lòng con yêu mến Chúa”.
Phụng vụ Giáo hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng.
Từ Chúa Nhật I mùa vọng đến ngày 16.12, Phụng vụ nói lên niềm mong đợi ngày Chúa đến khi kết thúc thời gian. Tám ngày cuối cùng, trực tiếp nói đến ngày Giáng Sinh.
Mùa Vọng âm vang những lời loan báo mời gọi tỉnh thức và hy vọng.
Mùa vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Sách Thánh ngày Chúa Nhật.
Bài đọc 1, trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và Ngài sẽ được gọi là Emmanuel.
Bài Phúc Âm: Chúa nhật I mùa vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức; Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa; Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.
Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Từ ngữ “Chúa đến” thường được hiểu bằng bốn cách:
– Chúa đến trong lịch sử nhân loại.
– Chúa đến trong ngày phán xét chung.
– Chúa đến trong giờ chết của mỗi người.
– Chúa đến trong ơn thánh hằng ngày.
Chúa đến lần thứ nhất: Chúa đã làm người trong nghèo hèn và đau khổ. Chúa được sinh hạ tại hang đá Belem. Chúa đến thế gian để trao ban Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Ngày nay nhân loại đợi chờ và hân hoan kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh.
Chúa đến lần thứ hai: Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai để hoàn tất công cuộc cứu độ, gọi là Tận Thế hoặc Cánh Chung. Lần này Chúa đến trong vinh quang với tư thế là Vua Thẩm phán để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Không ai biết được ngày đó sẽ xẩy ra khi nào. Chỉ biết chờ đợi trong hy vọng.
Một lần nữa nhiều người lại bàn cãi về ngày tận thế, lần này thì thời điểm sẽ là ngày 21 tháng 12 năm 2012…
Sự ồn ào về ngày tận thế đã không khỏi vang đến tai Đức Giáo Hoàng. Ngày 18/11 vừa qua, Ngài đã lên tiếng kêu gọi chúng ta nên dừng lại “sự tò mò về thời điểm và các lời dự báo” mà nên “suy ngẫm một cách sâu sắc hơn và đúng nghiã hơn”.
Đề cập đến đoạn Phúc âm mô tả “bầu trời trở nên âm u” và “các vì sao rơi rụng từ trời xuống”, Đức Giáo Hoàng cho biết Chúa Giêsu đã không mô tả “ngày tận thế” theo như cách chúng ta nghĩ là một “lời tiên tri”, mà thực ra là Chúa muốn giải thoát vĩnh viễn các môn đệ khỏi những đồn đoán về thời điểm thế giới sẽ bị tận diệt. Chúa “muốn cho chúng ta một chiếc chìa khóa để suy ngẫm sâu sắc hơn, đúng nghĩa hơn, và chỉ cho chúng ta con đường phải đi để bước vào cuộc sống vĩnh cửu”. (x.Vietcatholic.org, ngày 11/23/2012).
Chúa đến giữa hai lần: Chúa đến với từng người. Đó là giờ chết. Không ai biết được Chúa gọi mình lúc nào và ở đâu. Không ai có thể chọn cho mình ngày giờ ra đi. Lần giữa này là lần thật quan trọng với từng người.
Chúa đến trong ơn thánh: Hàng ngày Chúa đến với ta trong ơn thánh qua các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể.
Mùa Vọng chính là mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi Chúa đến.
Chúa Giêsu nói đến tư thế của người tỉnh thức là luôn: “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”. Chúa cũng nói đến thái độ sống của người tỉnh thức là không để “ lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”, không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ, không quá mê say danh lợi thú.
– Đứng thẳng: đây là động thái hiên ngang dũng cảm vượt trên mọi đam mê tội lỗi. Đứng thẳng mới khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời.
– Ngẩng đầu lên: đây là động thái hướng thượng, vươn mình lên tới những giá trị cao cả.
Chúng ta sống cuộc đời hiện tại trong tinh thần tỉnh thức. Tại các ngã ba ngã tư của đường phố đều có đèn đỏ đèn xanh rõ ràng, nhắc hướng cần đi vào và cấm vượt ranh giới. Trong lương tâm, chúng ta không thấy rõ hệ thống đèn đỏ đèn xanh. Mình phải tự phán đoán, chọn lựa. Không tỉnh thức là đôi khi mình tự cho phép mình vượt đèn đỏ vô hình, và cũng không đi theo hướng đèn xanh chỉ dẫn. Vài lần thấy quen. Rồi thấy xung quanh vô số người cũng làm như vậy. Thế là thành thói quen phạm lỗi trên hành trình cuộc đời.
Không bao giờ được quên ngày Chúa đến trong thời gian kết thúc của thế giới và đến trong ngày cuối cùng của đời ta. Tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cữu của mình.
Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Chúa đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa, chúng ta phải tỉnh thức.
Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức.
Tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Như thế, tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhẹn. Tỉnh thức để “đợi chủ về”. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế, người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.
Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Cần phải trung thành trong nhiệm vụ được giao. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.
Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một tòa nhà tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp màu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi: “Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi?”- “Khoảng 40 năm rồi” – “Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà?” – “Ông ta không ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi” – “Ông có thư từ gì với cụ không?” – “Không, ông ta bận lắm” – “Ông không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ?” – “Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này” – “Thế tội gì cụ phải chăm sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu?” – “Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ lúc nào ông về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên”.
Người gia nhân trên đây thật đáng ca tụng. Ông làm việc không vì sợ nhưng vì yêu, làm việc với một tinh thần trách nhiệm. Ông coi việc của chủ như việc của mình nên làm việc hết tấm lòng. Ông thực là một gia nhân tốt, một quản lý trung thành.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Tỉnh thức là tâm trạng của một con người luôn bình an, thư thái. Thái độ sống này giúp người Kitô hữu luôn làm cho mọi công việc hàng ngày trở thành lời nguyện tạ ơn chân thành.
Người tỉnh thức là người luôn cố gắng và nhiệt thành, biết thực thi những gì là chân thật, ngay chính và đáng quý chuộng.
Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu.
Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tùy cách sống hiện tại của mỗi người. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, không ai có thể che dấu một chi tiết nào.
Ngày Chúa đến trong vinh quang để xét xử muôn dân sẽ là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng, nhưng sẽ là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu bên Nhà Tạm, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen.
MINH HỌA LỜI CHÚA – Nguyễn Hiếu
Đêm 15 tháng tư năm 1912, chiếc tàu khổng lồ titanic đang vung vút chạy trên cùng biển Bắc Đại Tây Dương… Mọi người vững dạ an tâm vì đang ở trong một chiếc tàu to lớn vĩ đại, nên tha hồ đàn hát, nhậu nhẹt, vui chơi…
Bỗng tàu đụng vào tảng băng vỡ tan chìm xuống đáy biển, hơn 1.500 người thiệt mạng !…
***
Nếu có mặt chúng ta trong tàu lúc chìm xuống biển, chúng ta làm gì? Đàn hát nhậu nhẹt chăng?.. Thật đúng như “chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu” chúng ta. Ngày chúa đến trong uy nghi vinh hiển cũng thế, liệu chúng ta có “đứng thẳng và ngẩng đầu lên vì được Chúa giải thoát, hay ngã quỵ và gục đầu xuống vì phải khốn khổ muôi đời. Thế nên chúa mới bảo chúng ta ngay từ hôm nay: “Hãy đề phòng, chớ để lòng mình đắm say lửa tửu sắc, đa mang sự đời”…
Tại Hollywood có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám bệnh cho anh, bác sĩ nói: Tình trạng sức khỏe của anh rất nguy kịch, cần giải phẫu ngay mới hy vọng cứu được, và cuộc giải phẫu có thể kéo dài 36 tiếng đồng hồ.
Nghe bác sĩ nói thế, người nhà của tài tử đều lo buồn khiếp vía, nhưng riêng anh, anh vẫn bình thản đi vào phòng giải phẩu, làm cho mọi người ngạc nhiên.
Sau khi sức khỏe bình phục, người nhà mới hỏi: Lúc sắp giải phẩu sao anh không lo sợ gì hết vậy? Anh không sợ chết à? Anh thú thật:
– Trong 36 tiếng đồng hồ đó, tôi học được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi. Tôi chẳng hề sợ chết, vì trước đó mỗi ngày tôi đều cầu nguyện với Chúa, để phòng khi gặp gian nan nguy hiểm, Chúa cứu giúp tôi…” (Theo cha M. Linnk).
***
Ước gì ngày Chúa đến trong vinh quang, Chúa cũng thấy chúng ta hành động như anh tài tử điện ảnh này.
Vào đầu tháng 10 năm 1992, hàng chục ngàn tín đồ ở Nam Hàn tập hợp về các nhà thờ để chờ đón chúa quang lâm và phán xét mọi người. Theo giới lãnh đạo của giáo phái này thì giờ tận thế sẽ xảy ra đúng nửa đêm 28 tháng 10. Trong khi chờ đợi, họ trương các biểu ngữ, đại để nói: “Chúng ta sẽ gặp nhau trên trời”.
Trong khi đó, hàng ngàn cảnh sát được đặt trong tình trạng báo đông, đề phòng một cuộc tàn sát tập thể, nếu ngày tận thế không xảy ra; vì mọi người đã bỏ cửa nhà tài sản để chuẩn bị biến cố này.
Cuối cùng, ngày tận thế đã không xảy ra… (Theo sách “Như lòng Chúa khoan dung”)
***
Chớ gì mọi người biết lìa bỏ tội lỗi, và tính nết xấu, để chuận bị cho ngày Chúa quang lâm như nhóm tín hữu mê tín trên đây đã bỏ hết tài sản đợi ngày cánh chung. Và vì Chúa đến bất ngờ nên việc chuẩn bị này phải thực hiện hằng ngày, chứ không phải vào ngày tháng nào như số tín đồ lầm lạc nầy.
Trong truyện các thánh ẩn tu nơi sa mạc ở các thế kỷ đầu Kitô giáo, có câu chuyện sau:
Một ông vua vừa lên ngôi muốn vào sa mạc tìm gặp các vị ẩn tu để học hỏi nhân đức cai trị dân. Ông ăn mặc giả làm thường dân, đến trước lều của một vi ẩn sĩ. Vừa mở cửa, vị ẩn sĩ đã biết nhà vua, nhưng giả làm như không biết là ai, và đón tiếp như mọi người. Nhà vua thăm sức khỏe các tu sĩ và hỏi các vị đang làm gì? Vị ẩn sĩ trả lời:
– Tất cả chúng tôi luôn cầu nguyện cho anh và mọi người.
Nhà vua nhìn xung quanh túp lều không có gì, trừ cái giỏ đựng bánh mì khô. Và vị ẩn sĩ mời vua:
– Mời anh ăn.
Nói xong, ngài cầm lấy bánh mì khô nhúng nước lã trao cho nhà vua. Ăn xong, nhà vua hỏi:
– Ngài biết tôi là ai không?
Vị ẩn sĩ đáp không một chút do dự:
– Chỉ có Chúa mới biết thôi.
Nhà vua liền tiết lộ tông tích của mình. Lúc đó vị ẩn sĩ mới cúi chào. Nhưng nhà vua đỡ dậy và nói:
– Ngài thật có phước vì không phải lo lắng chuyện đời. Còn tôi phải lo đủ thứ việc cho dân.
***
Nhà vua lo đủ thứ việc cho dân. Mùa Vọng, Chúa chỉ bảo chúng ta tỉnh thức và cầu nguyện để Chúa đến cứu chúng ta. Chúng ta có lo thực hành chưa? Người đang đến trong từng giây phút của cuộc sống mỗi người chúng ta. Tỉnh thức và cầu nguyện là sống sung mãn từng giây phút của cuộc sống. Nhà vua trong câu chuyện trên đây đã tìm thấy ý nghĩa của sự tỉnh thức và cầu nguyện với các ẩn sĩ đó.
Cha Anthony de Mello, giảng viên nổi tiếng người Ấn Độ kể:
Một hôm con trai của Giáo chủ đạo Bà hai bên Ấn Độ được mời vào một gia đình khá giả. Bà chủ nhà vốn có lòng hiếu khách, trổ tài nấu ăn cho vui lòng khách quý.
Tiếc thay khi dọn cơm lên, bà khiêm tốn xin lỗi khách, vì cái mùi khen khét của các món ăn. Bà phân trần:
– Vì muốn bữa cơm thật ngon nên trong khi nấu nướng, tôi lo cầu nguyện nên quên chú tâm vào việc nấu ăn.
Vị khách mỉm cười đáp:
– Việc cầu nguyện là điều rất cần và rất tốt. Nhưng lần sau khi làm bếp, bà hãy cầu nguyện với quyển sách dạy nấu ăn hơn là cuốn Kinh Thánh.
***
“Câu nói của vị khách diễn tả một sự thật rất thực tế. Cầu nguyện không phải bỏ trách nhiệm, cũng không ỷ lại vào quyền năng Thiên Chúa rồi khoanh tay lười biếng. Cầu nguyện giúp cúng ta đạt được những gì mà sức hạn hẹp của chúng ta không thể thành công được.
Mùa Vọng, Chúa kêu gọi chúng ta cầu nguyện để xin Chúa giúp chúng ta thấy thân phận hèn mọi tội lỗi của mình và hỗ trợ chúng ta sám hối canh tân, để được đứng vững trong ngày Chúa đến thẩm xét.
(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày” tập I).
Chúa đến để khai mạc một kỷ nguyên mới: một trời mới, đất mới
Câu hỏi gợi ý:
Suy tư gợi ý:
Chúng ta thử xét một cách thật nghiêm túc xem: phản ứng, tư tưởng và thái độ của ta sẽ thế nào khi được báo tin chắc chắn một bọn trộm cướp đã dự định đến “thăm” nhà ta tuần này. Được tin ấy, thử hỏi ban đêm ta còn ngủ yên như mọi khi không? Nếu ta đoán kẻ trộm cũng có thể đến cả vào ban ngày nữa, thì ta có đề phòng cả ban ngày không? Ta có dám bỏ nhà đi đâu xa những ngày này, và giao phó nhà cửa cho đám con cái còn bé nhỏ chưa kinh nghiệm không? – Nếu đoán biết kẻ trộm sẽ đến, chắc chắn ta sẽ gia tăng đề phòng, không để cho chúng lấy đi của ta bất kỳ đồ vật gì. Muốn đề phòng hữu hiệu, ta phải canh thức liên tục, không ngừng nghỉ. Ngừng đề phòng lúc nào là kẻ trộm có thể đến lúc ấy, nhất là vào những lúc chúng biết ta mệt mỏi, lơ là. Nếu đề phòng liên tục, chắc chắn kẻ trộm sẽ thất bại.
Chỉ vì sợ mất của cải vật chất chóng qua mà ta lo canh phòng như vậy, lẽ nào mạng sống tâm linh của ta, của cải tâm linh của ta là cái quí hơn hàng trăm ngàn lần, ta lại không lo lắng canh giữ?
Số phận vĩnh cửu của ta tùy thuộc cách sống hiện tại của ta. Cuộc sống hiện tại trong thời gian là mầm cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Mầm tốt sẽ trở thành cây tốt, mầm xấu sẽ trở thành cây xấu. Cuộc sống vĩnh cửu đã bắt đầu ngay trong cuộc sống hiện tại, và định hình vĩnh viễn ngay khi ta chấm dứt cuộc sống này, nghĩa là ngay khi ta chết. Nhưng ta chết lúc nào? Không ai biết được! Những người chết trong hai tòa nhà cao tầng ở New York ngày 11-9-2001, hay trong tòa nhà 6 tầng các Trung Tâm Thương Mại tại Sàigòn ngày 29-10-2002 không ai ngờ được trước khi vào đó rằng hôm ấy là ngày tận số cuộc đời mình. Không ngờ được vì thấy rằng còn gì bảo đảm an toàn hơn khi ở trong những tòa nhà kiên cố ấy? Thế mới biết tai họa hay cái chết có thể đến bất kỳ lúc nào, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ở bất kỳ nơi nào. Đối với cái chết, chẳng lúc nào, chẳng nơi nào, chẳng tình trạng sức khỏe nào là an toàn cả! Thật đúng như thánh Phao-lô nói: “Khi người ta nói: “Bình an biết bao, yên ổn biết bao!” thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống” (1Tx 5,3). Cái chết đến quả thật như kẻ trộm! không thể biết trước hay đoán trước được lúc nào, cách nào, và thế nào! Tuy nhiên, chết lúc nào, cách nào không phải là chuyện quan trọng. Vấn đề hết sức quan trọng chính là: số phận đời sau của mình thế nào?
Số phận của chúng ta đời sau chính là kết quả của cách sống đời này. Nếu đời này chúng ta sống vị tha, yêu thương mọi người đúng theo bản chất của mình là “hình ảnh của Thiên Chúa” cũng là “con cái Thiên Chúa”, thì đời sau chúng ta sẽ được sống trong một môi trường đầy yêu thương, được gần gũi với chính Thiên Chúa của Tình Thương. Trái lại, nếu đời này ta sống ích kỷ, ít tình thương, không tình nghĩa, thường lãnh đạm, nhạt nhẽo, ganh ghét, hận thù… với tha nhân, thì đời sau chúng ta sẽ phải sống trong một môi trường không có tình thương, đầy hận thù và xa cách Thiên Chúa. Điều đó xảy ra không khác gì một quy luật, luật nhân quả: “Cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu” (Mt 7,17). Tương tự như một người luôn yêu thương và vui vẻ với mọi người, dễ dàng hy sinh, sẵn sàng chịu thiệt thòi cho người khác, thì tự nhiên người ấy tạo ra chung quanh mình một bầu khí vui tươi, thoải mái, yêu thương, và những ai ở gần người ấy đều tự nhiên cảm thấy hạnh phúc và quí mến người ấy. Trái lại, một người ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, chẳng biết yêu thương hay hy sinh cho ai, chỉ mong người khác hy sinh, chịu thiệt cho mình, tự nhiên người ấy sẽ tạo ra chung quanh mình một bầu khí ảm đạm, căng thẳng, buồn tẻ, và chẳng mấy ai cảm thấy hứng thú gì khi ở với người ấy.
Đối với mỗi cá nhân, Ngày của Chúa – hay ngày Chúa đến – chính là ngày ta chấm dứt cuộc đời trần thế để đến trình diện trước mặt Chúa hầu được quyết định về số phận vĩnh cửu của mình. Đối với toàn thế giới, Ngày của Chúa chính là ngày tận thế, ngày mà tất cả mọi người đã từng sống trên trần gian đều phải trình diện trước mặt Chúa. Ngài sẽ phán xét Giáo Hội cũng như tất cả mọi thể chế trần gian, mọi tôn giáo, mọi chủ nghĩa, mọi ý thức hệ, mọi nền văn hóa, mọi chế độ, mọi quốc gia, mọi tầng lớp, mọi giai cấp, mọi tập thể… Lúc đó mọi dân mọi nước, mọi tôn giáo, mọi nền văn hóa sẽ biết rõ ràng và dứt khoát đâu là đúng đâu là sai. Lúc đó, tất cả mọi bí mật trên thế giới trong tất cả mọi lãnh vực đều được tỏ lộ, phanh phui cho tất cả mọi người thấy, không một che dấu nào mà không bị hiển lộ… Trước mọi sự được tỏ bày, ai nấy đều tự mình biết mình là công chính hay tội lỗi, và công chính hay tội lỗi ở mức độ nào. Mọi người sẽ tâm phục khẩu phục khi thấy số phận của mình, của mọi người và từng người được ấn định một cách hết sức công bằng, hợp lý và quang minh.
Ngày ấy sẽ là ngày vui mừng, vinh quang cho những người thật sự công chính, vì họ sẽ được giải oan, được mọi người nhìn nhận sự trong sạch, ngay thẳng, và tất cả những gì tốt đẹp của mình, đồng thời được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng ngày ấy sẽ là ngày u buồn, nhục nhã, xấu hổ cho những người giả công chính, giả đạo đức, những kẻ gian ác, vì mọi giả dối, xấu xa, gian ác của họ, dù được giấu diếm kỹ càng đến đâu cũng đều bị lột trần, phanh phui trước mọi người, và số phận của họ sẽ là đau khổ muôn đời.
Ngày của Chúa đến như kẻ trộm, không ai biết trước được, và là ngày qui định dứt khoát số phận đời đời của ta. Vì thế, thái độ khôn ngoan nhất của ta là luôn luôn tỉnh thức, lúc nào cũng ở trong tư thế sẵn sàng, để ngày ấy dù có bất ngờ tới đâu, cũng là ngày đem lại vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu cho ta. Như vậy, thái độ tỉnh thức là thái độ nào?
Tỉnh thức trái với ngủ quên, trái với tình trạng mê mải, bị thu hút bởi một sự việc gì, khiến ta quên mất điều ta phải nhớ, phải canh chừng. Một minh họa cụ thể: Nhiều khi người nhà tôi bận việc, yêu cầu tôi canh chừng ấm nước sôi. Tôi nhận lời với tất cả ý thức. Nhưng chờ lâu quá, để tiết kiệm thì giờ, tôi lại tiếp tục viết bài. Tới lúc chợt nhớ tới ấm nước thì đã quá muộn, ấm đã cạn sạch nước. Chậm một chút nữa là ấm sẽ bị cháy! Công việc đã thu hút tôi đến mức làm tôi quên canh chừng!
Tỉnh thức theo nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay là luôn luôn ý thức được mục đích cuộc đời mình là sống xứng với phẩm giá cao cả của mình là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa, nhờ đó đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Điều đó đòi hỏi tôi phải sống phù hợp với tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương, cụ thể nhất là yêu thương những người gần mình nhất. Điều tôi cần quan tâm không chỉ là tránh gây nên những bất lợi cho tha nhân, mà còn là làm những gì họ cần tôi làm cho họ. Trong đoạn Tin Mừng về ngày phán xét cuối cùng (Mt 25,31-46), ta thấy Thiên Chúa đặc biệt phán xét về những thiếu sót, những điều mà ta không làm cho tha nhân khi họ cần ta làm. Ta thường tưởng rằng mình không làm điều gì bất lợi cho tha nhân thì có nghĩa là mình vô tội, mình công chính. Nhưng thực ra khi mình không làm những việc mình phải làm hoặc có thể làm cho tha nhân, thì mình đã trở thành kẻ có tội và đáng bị kết án rồi. Cụ thể như khi đứng trước một bất công, giả như tôi lên tiếng thì bất công ấy đã không xảy ra, hoặc sự công bằng đã được trả lại cho người bị bất công, nhưng tôi đã không lên tiếng chỉ vì một sợ hãi mơ hồ nào đó. Điều đó chứng tỏ rằng tôi không có đủ tình thương. Chính những tội về thiếu sót ấy làm tôi không xứng đáng với hạnh phúc vĩnh cửu.
Chúng ta có thể trở nên “mê ngủ”, mất tỉnh thức khi ta bị thu hút bởi danh, lợi, quyền, thú vui trần tục. Nhiều người mê mải tìm kiếm tiền bạc, quyền lực… đến nỗi chẳng những quên đi bổn phận mình phải làm cho tha nhân (đói cho ăn, khát cho uống, lên tiếng trước bất công…), mà còn sẵn sàng làm những điều bất lợi cho tha nhân nữa (vu khống, gây bất công, thù oán, giết người…) Bất kỳ điều gì có thể làm chúng ta say mê trong cuộc đời, thậm chí là những điều tốt (công việc, chuyện làm ăn, sở thích…), cũng có thể làm ta mất tỉnh thức. Ngay cả việc thờ phượng Chúa (dâng lễ, đọc kinh, cầu nguyện…) cũng có thể ru ngủ ta, làm ta quên cả bổn phận mình phải làm cho tha nhân. Thờ phượng Chúa kiểu này chắc chắn không phải là kiểu đẹp lòng Thiên Chúa, Ngài rất nhờm tởm kiểu thờ phượng này (x. Is 1,11-19). Đáng lẽ việc thờ phượng Thiên Chúa đích thực phải giúp ta ý thức đến bổn phận của ta đối với tha nhân một cách hữu hiệu. Vậy, một cách cụ thể, tỉnh thức chính là luôn luôn ý thức, quan tâm làm những việc mình phải làm hoặc có thể làm cho tha nhân.
Cầu nguyện
Lạy Cha, thì ra có rất nhiều điều có thể làm con mê ngủ, không tỉnh thức. Điều làm con rất ngạc nhiên là ngay cả những đam mê tốt lành như đam mê đi lễ, đam mê cầu nguyện, đam mê làm tông đồ, đam mê làm ăn… có thể làm con quên đi bổn phận mà con phải làm đối với những người chung quanh con: cha mẹ, anh chị em, vợ con, bạn bè, hàng xóm… Con có bổn phận rất quan trọng là phải làm cho họ nên tốt lành và được hạnh phúc. Xin Cha đừng để những đam mê tốt lành ấy làm con mất tỉnh thức.
Hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta phải đề phòng. Bắt đầu bài Phúc Âm, Chúa Giêsu phán: “Chúng con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện.”
Chúa Giêsu cảnh cáo chúng ta phải đề phòng ngày tận thế hoặc là ngày cuối đời của chúng ta, bất cứ cái nào đến trước.
Ngài cảnh cáo chúng ta rằng khi Ngài đến thì có thể sẽ bắt gặp chúng ta đang hững hờ. Lúc Ngài đến có thể là lúc mà chúng ta không chuẩn bị.
Nói một cách khách quan hơn, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta bắt đầu cuộc sống mà chúng ta phải sống. Ngài kêu gọi chúng ta đừng trì hoãn và hãy bắt đầu sống như là tối hôm nay Ngài sẽ đến gặp chúng ta. Ngài nhắc chúng ta hãy đề phòng cuộc sống có thể đưa đẩy làm cho chúng ta không làm những gì mình phải làm.
Chúng ta lấy câu chuyện của Tom Anderson ở Bernardsville, NJ làm ví dụ. Tom mướn một căn phòng tại một bãi biển khi anh đi nghỉ hè. Khi anh lái chiếc xe ra biển với người vợ, anh đã tự làm một lời hứa trịnh trọng rằng trong hai tuần này, anh sẽ cố gắng để làm một người chồng tốt.
Trong hai tuần đó, anh đã không gọi điện thoại về hãng, hãm lại cái lưỡi của anh khi anh muốn nói những lời bực tức. Trong hai tuần đó, Tom là người suy nghĩ chín chắn, dễ thương, và biết quan tâm đến người khác.
Vợ của Tom nhận ra điều khác thường đó nên tối cuối của hai tuần nghỉ, chị nhìn thẳng vào anh một cách âu yếm và gương mặt đượm một nỗi lo âu. Thấy thế, anh hỏi chị: “Em ơi, chuyện gì vậy?”
Nước mắt từ từ trào ra trên má, chị đáp: “Có phải anh biết điều gì đó mà em không biết?”
“Em nói như vậy có nghĩa gì?” anh hỏi lại.
“Thì,” chị trả lời, “tuần trước khi em đi gặp bác sĩ để khám tổng quát. Xin anh hãy nói sự thật cho em biết đi. Có phải ông bác sĩ đã nói với anh là em có chuyện gì phải không? Có phải ông đã nói là em sắp chết? Có phải vì lý do đó mà anh đã đối xử rất tử tế với em?”
Tom đã lăn ra cười. Đặt vòng tay vào lưng vợ, Tom trả lời: “Em ơi, em không chết đâu! Chỉ là vì bây giờ anh mới bắt đầu sống.”
Câu truyện đó diễn tả một cách sống động sứ điệp mà Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay. Ngài khuyến khích chúng ta hãy bắt đầu sống. Ngài khuyến khích chúng ta đừng bỏ qua những điều mình phải làm. Ngài khuyến khích chúng ta hãy đề phòng đừng để cho cuộc sống này qua đi một cách vô ích.
Nói một cách trực tiếp hơn nữa là Ngài khuyến khích chúng ta hãy bắt đầu Mùa Vọng này giống như là Tom đã bắt đầu hai tuần nghỉ của anh.
Ngài khuyến khích chúng ta hãy lợi dụng Mùa Vọng này để bắt đầu sống cuộc sống mới. Ngài khuyến khích chúng ta hãy lợi dụng cơ hội này để yêu thương tha nhân như là chúng ta phải yêu.
Nói một cách tóm tắt, bài Phúc Âm hôm nay là một sự nhắc nhở của Chúa Giêsu rằng cuộc sống của chúng ta đang từ từ trôi qua mà chúng ta đã không làm điều mà chúng ta phải làm.
Chúng ta hãy kết thúc với những lời của Mẹ Têrêsa: “Mỗi người có một sứ mệnh để thi hành, sứ mệnh đó là yêu thương. Khi giờ chết đến, chúng ta sẽ đối diện với Thiên Chúa, chúng ta sẽ bị phán xét về lòng yêu thương; không phải chúng ta đã làm bao nhiêu, nhưng chúng ta đã biết bỏ bao nhiêu tình yêu vào những công việc của mình.”
Phụng Vụ năm nay dùng Phúc Âm Luca và bắt đầu bằng bài giảng về những ngày sau hết. Bài giảng này gồm ba phần:
– Phần đầu, 21:10-11, diễn tả nhũng điềm lạ và cho ta biết sự gì sẽ xảy ra.
– Phần giữa, 21:20-23, tiên đoán việc thành Giêrusalem bị phá hủy.
– Phần cuối, 21:25-26, một lần nữa nói về những điềm lạ và cho ta biết những gì ta phải làm.
* Trong thời gian này Đức Giêsu giảng dạy nhiều trong đền thờ. Biết ngày chịu chết đã gần kề, Ngài đã nói về những điều quan trọng mà nhân loại cần biết, như những dặn dò quí báu trước khi Ngài từ giã cuộc đời trần thế.
* Trước ngày Ngài đến sẽ có những sự việc lạ xảy ra trong vũ trụ. Đây là điều Đức Giêsu báo trước về ngày Ngài trở lại để phán xét, có ý ám chỉ Ngài dã hoàn tất tước hiệu Con Người. Vậy ngày Chúa đến cũng là ngày trở lại của Con Người.
* Những điềm lạ về ngày sau hết sẽ xảy ra một cách toàn diện trên toàn thể vũ trụ. Điều này cho thấy nếu chỉ dựa vào những biến cố riêng rẽ để đoán ngày tận thế là việc làm sai lầm.
* (c.28) “Ngày cứu chuộc của các con đã gần kề”: Đức Giêsu nhắn nhủ các môn đệ hãy vững tâm và hy vọng. Thay vì phản ứng như những người khiếp đảm, những môn đệ trung thành của Chúa sẽ đứng thẳng và ngước mặt, không hề cảm thấy sợ hãi và hổ thẹn, để nghênh đón Đấng cầm quyền xét xử là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
* (c.34) Vì khoảng 95 phần trăm dân Palestine thời đó là nông dân nghèo, lời cảnh cáo của Đức Giêsu có vẻ dành cho những kẻ giàu sang có điều kiện để chè chén say sưa và lo lắng sự đời.
Một Điểm Chính
Đức Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang. Điều đó không làm chúng ta sợ hãi nhưng đem lại niềm vui vì được cứu chuộc.
Suy Niệm
Tôi có những chuẩn bị gì cho ngày Con Người sẽ đến? Tôi phải làm gì để khi Ngài đến tôi sẽ có thể đứng thẳng và ngước mặt lên?
Đặt mình vào thời điểm khi những điềm lạ xuất hiện vào ngày sau hết, tôi sẽ có những hành động gì và cảm giác thế naò? Tôi có sẵn sàng chưa? Tôi có hoàn toàn phó thác mọi việc theo ý Chúa không?
Trong những lúc gặp gian nan thử thách trong cuộc sống, tôi đã có đặt trọn vẹn niềm tin nơi Chúa chưa?
Bài Đọc 1: Giêrêmia 33:14- 16
Giêrêmia loan báo đã đến ngày Thiên Chúa thực hiện lời hứa của Ngài đối với nhà Israel và nhà Giuđa. Ngài sẽ làm nẩy sinh cho Đavid một chồi công chính. Vị đó sẽ được gọi là “Thiên Chúa Đấng Công Chính của chúng tôi.” Ngài sẽ xét xử và thi hành công lý. Giuđa sẽ được cứu và Giêrusalem sẽ yên ổn. Giáo Hội tin rằng Đấng Công Chính mà Giêrêmia nói đây chính là Đức Kitô. Ngài là Đấng Công Chính và Ngài dạy sự công chính. Ngài bị cám dỗ nhưng không phạm tội. Ngài là con chiên hiền lành không tỳ vết bị đem đi sát tế. Người lính gác gần chân thánh giá đã kêu lên, “Người này quả thật là công chính” (Lc 23:47).
Bài Đọc 2: 1 Thessalonica 3:12- 4:2
Thánh Phaolô cầu xin Thiên Chúa gia tăng và ban ơn cho các Kitô hữu Thessalonica để họ được tràn đầy lòng thương yêu nhau và thương yêu mọi người như Phaolo và các tông đồ thương yêu họ. Phaolô cũng khuyên họ sống thế nào để ngày Đức Giêsu Kitô đến lần thứ hai Ngài không thấy họ có điều gì đáng trách. Khi họ sống bền vững trên đường thánh thiện tức là họ đang sống đẹp lòng Chúa.
Bài Tin Mừng: Luca 21:25-28, 34-36
Đức Giêsu miêu tả bối cảnh của thế giới vào lúc trước khi Ngài đến lần thứ hai, sẽ có những điềm lạ trên trời. Dưới đất, người ta sẽ buồn sầu lo lắng vì biển gầm sóng vỗ, và người ta sợ hãi chờ đợi những gì sẽ xẩy ra. Đức Giêsu căn dặn các môn đệ và chúng ta phải giữ mình kẻo lòng ra nặng nề. Điều chúng ta làm bây giờ sẽ có hiệu quả trong tương lai, do đó Ngài dặn chúng ta đừng chè chén say sưa, đừng quá mê man lo lắng việc đời kẻo khi ngày đó đến chúng ta không sẵn sàng. Điều phải làm là sống trong tỉnh thức và cầu nguyện để có thể đứng vững trước mặt Con Người khi Ngài đến.
Bài Giảng Gợi Ý
Lễ Giáng Sinh hầu như đã trở thành ngày lễ của quốc tế. Ngay ở những nước chủ trương vô thần cũng không thiếu vắng hương vị của ngày lễ này. Khi chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh chúng ta cần phân biệt hai thái độ. Thái độ thứ nhất là mừng giáng sinh theo trào lưu thương mại, và thứ hai là mừng Giáng sinh theo ý nghĩa tinh thần của ngày lễ. Ngày nay, đối với nhiều người, lễ giáng sinh được coi là ngày nghỉ việc. Bối cảnh chung quanh việc chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh đã bị tục hóa. Nhiều người chú tâm đến những việc sửa soạn bề ngoài như lo đi mua sắm, hoặc sắp đặt đi hè và nghỉ ngơi. Các công ty chuẩn bị tổ chức tiệc cuối năm cho nhân viên. Các đường phố, cửa hàng đều trang hoàng đèn điện, cây cảnh và đủ mọi mặt hàng nặng phần thương mại. Các phần tử trong gia đình bận tâm suy nghĩ xem phải mua cho nhau những món quà gì. Nhưng đối với Kitô hữu chúng ta lễ Giáng Sinh có một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều.
Giáo Hội bắt đầu năm phụng vụ bằng Mùa vọng. Mùa vọng là thời gian chúng ta dọn lòng đón Đức Kitô. Chúng ta mừng kỷ niệm biến cố Ngài đã giáng sinh ở Bethlehem và đón chờ Ngài đến lần thứ hai. Để bắt đầu cuộc hành trình của năm phụng vụ, Giáo Hội muốn chúng ta hướng nhìn về cùng đích tương lai và luôn tâm niệm trong suốt cuộc hành trình bằng lời của Đức Giêsu đã loan báo trong bài Tin mừng hôm nay:
Ngày Sau Hết
Giờ chót, tận số, kết thúc, kết liễu, hết hạn, chấm dứt, chết… là những từ ngữ quen thuộc đối với cảm nghiệm trong đời sống. Đời sống con người chúng ta có ngày sinh và có ngày tử. Thế giới có ngày khai sinh thì cũng có ngày kết liễu. Khi có người bị bệnh nặng đang hấp hối, chúng ta thường im lặng nhìn nhau lắc đầu và nói, “Chắc là không qua khỏi đâu.” Hoặc, “Đến giờ lâm chung rồi!” Tất cả đều nói lên sự tận cùng sau hết. Bằng lòng hay không bằng lòng, việc đến phải đến. Một sự thật chúng ta không thể làm ngơ đó là tất cả mọi đường đi hay lối sống sẽ đều dẫn đưa chúng ta đến ngày sau hết. Ngày đó là ngày Đức Kitô đến lần thứ hai và tất cả mọi người chúng ta sẽ đối diện với Ngài. Ngày đó Ngài sẽ hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Tiên tri Giêrêmia nói rằng, “Ngày đó, Ngài sẽ xét xử và thi hành công lý trong xứ sở. Trong những ngày đó Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ sống yên ổn. Người ta gọi tên Ngài là Đấng Công Chính của chúng tôi.”
Dấu Chỉ
Để giúp chúng ta nhận ra ngày tận thế, Đức Giêsu nói trong bài Tin mừng là “sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao. Dưới đất các dân tộc buồn sầu lo lắng và biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xẩy đến.” Nhiều người đã cố gắng quan sát các điềm trời và giải nghĩa các biến cố xẩy ra trên mặt đất, nhưng vẫn chưa ai tiên đoán được khi nào ngày ấy xảy ra. Đã có nhiều trận giông bão, núi lửa và động đất. Nhiều người đã kinh hoàng khiếp sợ. Nhiều dân tộc đã buồn sầu lo lắng trong đói rách và chiến tranh, nhưng vẫn chưa phải là ngày tận thế. Theo như lời của Đức Giêsu thì dấu cho chúng ta biết chắn chắn khi ngày tận thế đến là,”Người ta sẽ thấy Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả.” Ngày ấy không phải là ngày để chúng ta lo sợ, nhưng là ngày chúng ta đứng dạy và ngẩng đầu lên để đón chờ giờ cứu rỗi. Nhưng làm thế nào để chúng ta có thể đứng dạy và ngẩng đầu lên để đứng vững trước mặt Đức Kitô? Ngài căn dặn chúng ta là phải tỉnh thức và cầu nguyện.
Tỉnh Thức và Cầu Nguyện
“Chúng con hãy giữ mình, kẻo lòng chúng con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời mà ngày đó thình lình đến với chúng con như chiếc lưới chụp xuống. Vậy chúng con hãy tỉnh thực và cầu nguyện luôn.”
Một người tâm sự rằng, “Khi tôi còn độc thân và còn trẻ tôi thường yêu thích đi giao du với nhiều người bạn gái. Bây giờ tôi đã bốn mươi tuổi và có một người vợ tuyệt vời với hai đứa con, nhưng tôi vẫn cứ tiếp tục có những cuộc ngoại tình. Tôi cảm thấy có tội và có lỗi nhưng tôi không biết phải làm sao. Có phải tôi bị mắc chứng “mê đắm tình dục” hay không? Tôi e sợ rằng tôi sẽ phá vỡ hạnh phúc gia đình của tôi.”
Đời sống con người dường như thật phức tạp. Chúng ta có nhiều cái phải lo, nhiều việc phải làm, nhiều cám dỗ phải chiến đấu, nhiều thử thách phải vượt qua. Nhiều người trong chúng ta, vì quá bận rộn với việc đời và say sưa với đam mê đến nỗi đã không mấy quan tâm đến việc sống thế nào cho đẹp lòng Chúa. Thêm vào đó, hằng ngày các đài phát thanh, truyền hình và báo chí xoáy vào đầu óc chúng ta những lời quảng cáo. Những quảng cáo đó đã thu hút, lôi cuốn và ảnh hưởng đến việc lựa chọn, hành động và lối sống của chúng ta. Chúng ta sống và hành động theo dư luận và theo ảnh hưởng của quảng cáo. Thí dụ quảng cáo bảo chúng ta rằng nách có mồ hôi là điều không tốt; và do đó chúng ta phải đi mua thuốc hôi nách. Quảng cáo bảo chúng ta rằng miệng hôi không thể hôn nhau được; do đó chúng ta luôn phải dùng thuốc xúc miệng; quảng cáo bảo loại thuốc giặt hay xà bông chúng ta đang dùng không tốt bằng sản phẩm mới; do đó chúng ta đi mua cho bằng được loại thuốc giặt mới. Chiếc xe chúng ta đang chạy không đẹp bằng loại xe mốt mới; do đó chúng ta cần phải mua xe mới. Quảng cáo đã dùng những người mẫu thật đẹp để cho chúng ta có ảo tưởng là nếu chúng ta dùng sản phẩm của họ thì chúng ta cũng hấp dẫn và khêu gợi như những người đó. Quảng cáo và xã hội thương mại bảo chúng ta phải có đèn điện, cây Noel, thiệp giáng sinh, phải mua quà cho nhau; và do đó bằng mọi cách chúng ta phải lo sắm sửa những thứ ấy. Cứ như thế rồi chúng ta hành động và sống theo những chỉ dạy của quảng cáo, của dư luận và của xã hội. Vì những ảnh hưởng ngoại lai này mà nhiều người chúng ta đã trở nên xa lạ tinh thần của mùa vọng và lễ Giáng sinh; xa lạ với nội tâm của mình là nơi Thiên Chúa nói với chúng ta và dạy dỗ chúng ta.
Để sống đúng với tinh thần của mùa vọng chuẩn bị đón Đức Kitô đến lần thứ hai, Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai đã nêu lên cho chúng ta biết chúng ta cần gì và phải sống như thế nào. “Anh em thân mến, xin Chúa gia tăng và ban cho anh em tràn đầy lòng thương yêu nhau… để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện.” Ngài khuyên các tín hữu Thessalonica và mọi người chúng ta sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa hầu không có điều gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến cùng với tất cả các thánh.
(Suy niệm của Lm Louis Phạm Hữu Độ, CRM)
Nước Mỹ này có nhiều tờ báo nối tiếng nhưng bên cạnh cũng chẳng thiếu những tờ lá cải đăng tin giật gân để thỏa tính tò mò của độc giả. thí dụ một tờ báo Mỹ đã đăng cái tin sau đây: “Ngày 20 tháng 6 năm 1997 quân đội Mỹ khám phá ra 1 đĩa bay bị đâm nhào xuống vùng sa mạc New Mexico. Họ lôi ra 1 người hành tinh từ trong đĩa bay và bí mật đưa về Washington DC để thẩm vấn. Người hành tinh này rất thông minh, gấp 500 lần trí thông minh của con người. Hắn ta học tiếng Mỹ trong vòng 24 giờ là có thể nói lưu loát. Hắn ta sống trong một hành tinh rất xa trái đất. Dân tộc của hắn cũng là những thụ tạo Chúa dựng nên nhưng họ cũng ham thích giầu có, quyền lực và phạm tội xác thịt nên dù bị Chúa cảnh cáo nhưng dân tộc hắn vẫn cứ xúc phạm tới Chúa. Người hành tinh này nói Thiên Chúa nổi giận với các thụ tạo khắp mọi nơi chứ không riêng gì trái đất. Và Chúa đã hủy diệt 4,000 hành tinh rồi, trái đất này sẽ là kế tiếp. Tin cuối cùng người hành tnh này cho biết là ngày 11 tháng 1 năm 2000 trái đất này sẽ bùng cháy và bị phá hủy hoàn toàn”.
Tin tạo ra quá giật gân nhưng 12 năm qua rồi chẳng thấy xẩy ra. Ai nói mình biết được ngày tận thế là nói dối vì chính Chúa Giêsu đã nói ngày giờ đó không ai biết được, cho dù các thiên thần. Tuy nhiên Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu nói ngày giờ đó không ai biết được, cho dù các thiên thần. Tuy nhiên Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu nói rõ trước khi tận thế thì sẽ có những biến cố vật lý thật khủng khiếp. Còn về tâm lý thì các dân tộc buồn sầu, lo lắng. Thế nhưng chung cuộc không phải là những cái ghê rợn đó, mà là Chúa Giêsu, nguyên thủy và cùng đích, của lịch sử, sẽ xuất hiện trong danh dự và quyền năng. Rồi Chúa mời gọi chúng ta hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì giờ cứu rỗi đã tới gần. Thiên Chúa không muốn nhân loại kết thúc ở trong tình trạng tiêu cực, sợ hãi, chán chường, nhưng ở trong một tâm tình trạng tiêu cực, sợ hãi, chán chường, nhưng ở trong một tâm tình hy vọng, can đảm, bình an vì Ơn Cứu Rỗi tới gần.
Cuối cùng Chúa kêu gọi chúng ta phải Tỉnh Thức và Cầu Nguyện nếu muốn hưởng ơn Cứu Độ.
– Tỉnh thức là một động từ Phúc âm nói lên sự sẵn sàng của một đầy tớ trung tín và khôn ngoan chờ đợi chủ về. Tỉnh thức: có nghĩa là đừng quá ham mê lạc thú đời này mà quên đi hạnh phúc đời sau; có nghĩa là đừng ngủ mê trong biệt thự êm ấm của cá nhân mình mà vô cảm trước căn lều rách nát của tha nhân; có nghĩa là đừng chỉ quan tâm tới chương trình bất toàn của con người mà hững hờ với chương trình khôn ngoan của Thiên Chúa; có nghĩa là đừng quảng đại phạm tội lỗi nhưng hà tiện làm việc lành ; có nghĩa là đừng nuôn chiều thân xác mà bỏ bê linh hồn.
– Cầu nguyện giúp chúng ta thăng bằng cuộc đời. Có nghĩa là biết đặt mọi sự vào đúng vị trí của nó. Thí dụ Thiên Chúa thì hơn con người, con người thì hơn con vật, linh hồn thì hơn thân xác, đời sau thì hơn đời này, vĩnh cửu thì hơn thời gian, thiên đàng thì hơn trần thế… Nói tóm lại nhờ cầu nguyện mà chúng ta khôn ngoan hơn , bình an hơn , hạnh phúc hơn.
Trong mọi sự thì Ơn Cứu Độ quan trọng nhất, chính vì lý do n ày mà Chúa Giêsu xuống thế. (Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Kinh Tin Kính). Chúng ta được hơn ma quỷ chỗ này. Chúng là các thiên thần phản loạn, nhưng một lần sa ngã là muôn đời trầm luân, chúng ta sa đi ngã lại mà Chúa vẫn cứu. Thật hạnh phúc cho nhân loại biết bao.
“Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để có thể đứng vững trước mặt Con Người” đứng vững ở đây có nghĩa là chúng ta được hưởng Ơn Cứu Độ.
Một cô gái đang đi trên vỉa hè đường Trần Hưng Đạo – Q. 5 Sài Gòn bất ngờ bị tên cướp từ sau lao tới giật giỏ ngã đập mặt xuống đường. (Hình ảnh do camera ghi lại ngày 23.11.2012). (Với cô gái là hoàn toàn bất ngờ).
Một cô bé chạy xe đạp trên đường đi học về, một chiếc xe tải chạy sau bất ngờ lao tới cán chết cô bé. Em chẳng bao giờ nghĩ: “Hôm nay là ngày cuối cùng của đời mình”. Cha mẹ em cũng chẳng nghĩ: “Con mình hôm nay đi học là mãi mãi không trở về”, vì quá bất ngờ. Cuộc đời đầy dẫy chuyện bất ngờ xẩy đến với mỗi người.
Lời Chúa trong Tin Mừng Luca hôm nay nói đến, “Ngày ấy bất thần chụp xuống anh em” (Lc 21,35). Ngày không được báo trước. Đó là ngày mà diễn từ của Chúa về ngày cánh chung: “Những điều xẩy ra trên trời – dưới đất”, biển gào sóng thét, các tầng trời rung chuyển, những dấu lạ, quyền lực bị lay chuyển, tất cả ám chỉ những sự kiện báo hiệu một điều quan trọng sẽ xẩy ra. Nhờ đó người ta sẽ biết được sự xét xử đang đến. Những điều ấy không phải là để “đe dọa” con người. Nhưng chính là loan báo cho mọi người biết Đấng Cứu Độ đang đến. “Bấy giờ Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả” (Lc 21, 27). “Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì anh em sắp được cứu chuộc”. Và để chuẩn bị cho ngày “Con Người đến”. Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy ” tỉnh thức”.
Chắc hẳn đã ít nhiều lần chúng ta gặp hình ảnh người lính “Người bảo vệ” cầm súng đứng gác ở đồn bốt, hay ở cơ quan chính quyền. Người lính không thể ngủ nhưng tỉnh táo với mọi động tĩnh. Một sự trung thành tỉnh thức, dù đêm hay ngày, để gìn giữ an ninh. đó là hình ảnh của người lính chân chính. Là hình ảnh gợi lên suy tư về Lời Chúa mời gọi ” Anh em hãy tỉnh thức & cầu nguyện” (Lc 21,36). Sự tỉnh thức được Chúa nói đến là phải đề phòng.
– Lối sống thứ nhất là chớ để lòng mình ra nặng nề bởi một cuộc sống hưởng thụ, vùi mình trong những đam mê “chè chén” chẳng màng đến tương lai, lẽ phải, chừng mực & coi việc “sống hưởng thụ” là tất cả.
– Lối sống thứ hai lại thái quá chạy theo những gì mau qua, kém giá trị “lo lắng sự đời” mà quên đi giá trị vĩnh cửu – đề cao vật chất mà bỏ qua giá trị tinh thần.
– Tỉnh thức với cuộc sống thiếu niềm tin, đề phòng chính bản thân mình vì “ham mê sự đời” mà đánh mất tương quan với Thiên Chúa, không thực hành lối sống của người Kitô hữu thì “ngày ấy” bất thần chụp xuống làm cho “thất điên bát đảo”.
Sự “Tỉnh Thức” được biểu lộ như Lời Chúa là:
– Cầu nguyện luôn – là luôn hiệp thông trọn hảo với Chúa, là luôn sống trong ân nghĩa Chúa để có thể đứng thẳng & ngẩng đầu khi Chúa đến. Khi cầu nguyện người Kitô hữu thêm vững mạnh, Người sống niềm tin sẽ được thoát khỏi tất cả những điều sẽ xảy ra trên thế giới. Người sống niềm tin có thể đứng vững trước mặt Con Người, đứng vững vì mình đang sống vô tội và thuộc về Chúa.
– Là từ bỏ những gì “nặng nề tội lỗi”, làm tâm hồn không thể vươn lên cùng Chúa.
Lạy Chúa! Trong cuộc sống đầy cạm bẫy & mê lầm, xin giúp con “tỉnh thức” vượt qua những cám dỗ “say sưa sự đời này” để tâm hồn được thuộc trọn về Chúa, để có thể ngẩng đầu khi Chúa đến.
Ai cũng biết ngọn núi lửa Sainte Hélène ở tiểu bang Washington. Ngày Chúa nhật 18 tháng 5 năm 1980, có một nhà địa chất học còn trẻ tên là David Johnston, với 30 bạn tổ chức cắm trại cách quả núi 8 cây số. Lúc ấy là 8 giờ 31 phút sáng Chúa nhật, bỗng dưng một tiếng nổ vang trời động địa, mạnh bằng 500 quả bon nguyên tử nổ cùng một lúc. Các thành phố chung quanh bị chôn vùi dưới trận mưa tro. Johnston co giò chạy, nhưng một dòng sông lửa đã chận đường anh, chôn vùi anh và các bạn anh dưới nấm mồ tro hừng cháy (x. Lm Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm A, tr 4).
Hôm nay, chúng ta khởi đầu năm phụng vụ mới, chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào Mùa Vọng, để chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng Sinh. Một đại lễ đánh dấu kỷ niệm Con Thiên Chúa xuống thế làm người lần thứ nhất cách đây hơn 2000 năm, tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đấy, mà Giáo Hội muốn chúng ta đi xa hơn nữa để đón chờ Chúa đến lần thứ hai trong ngày quang lâm, ngày tận cùng của cuộc đời ta. Đây là điểm trọng tâm của Mùa Vọng.
Trước tiên, Mùa Vọng là mùa đợi trông và hy vọng: không phải đợi trông trong lo âu sợ sệt, mà là đợi trông trong niềm vui, hy vọng và hân hoan: “Giờ phần rỗi của chúng ta gần đến… Đêm sắp tàn, ngày gần đến”; bởi vì: “Trong những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đavít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực” (Gr 33,14-16). Chúng ta còn mong đợi Chúa đến như một người con mong mỏi cha mình đi xa về, và, như mục tử đến với đoàn chiên: Tôi đến “để cho người ta được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Thứ đến, Mùa Vọng còn là mùa chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang như kinh tiền tụng II đã tuyên xưng: Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến. Nhưng Chúa đến giờ nào, ngày nào, chúng ta không biết, vì thế, trông đợi chính là tỉnh thức: “Ngày của Chúa sẽ đến bất ngờ, như kẻ trộm lúc đêm khuya” (1Tx 5, 2); ” Hãy tỉnh thức, vì Con Người sẽ đến phán xét chúng ta vào giờ chúng ta không ngờ” (Lc 12,40). Vì thế mà ngôn sứ Isaia đã phải thốt lên: “Lạy Chúa con như người thợ dệt, đang mải dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa, cắt đứt ngay hàng chỉ…” (Is 38,21b). Tính bất định của sự sống đã được Tin Mừng nêu rõ khi Chúa Giêsu lấy hình ảnh lụt hồng thủy để nói về sự bất ngờ này: thiên hạ cứ vui chơi nhảy múa, chè chén say sưa, dựng vợ, gả chồng, cho đến khi nước lụt nhận chìm tất cả, chỉ trừ gia đình ông Nôe được cứu thoát. Hay như hai người đàn ông đang đi làm, một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang xay bột, một người được đem đi, còn người kia bị để lại.
Hoặc như người phú hộ, ông có nhiều ruộng nương và hoa lợi, đến nỗi ông quyết định xây nhiều kho mới, lớn hơn. Sau đó, ông ăn chơi, tiêu xài cho đã, nhưng cuối cùng ở tận đỉnh cao của vinh hoa phú qúy, người giàu có ấy phải lìa bỏ đời này và phải để lại tất cả. Như vậy: “Mọi sự dầu hay, hay dở, đều không chắc chắn, chỉ sự chết là chắc chắn sẽ xảy đến.” Biết được điều đó để ta luôn sẵn sàng.
Tiếp theo, Mùa Vọng là mùa “chờ đợi” và hành động, vì “chờ đợi”, không phải là ngồi để mà đợi mà mong, nhưng chờ đợi ở đây là phải cầu nguyện. Lời Cầu nguyện được ví như dầu của đèn, đèn sáng được là nhờ có dầu bên trong. “Đèn tâm hồn chúng ta” phải là “đèn bừng sáng” vì có “dầu cầu nguyện”, tức là chúng ta phải luôn cầu nguyện và sẵn sàng chờ đón Chúa, để khi “chàng rể” đến, chúng ta đang trong tinh thần tỉnh thức và tư thế hân hoan đón Người.
Cuối cùng, sống tinh thần Mùa Vọng là sống theo tinh thần của thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay đã khuyên nhủ các tín hữu: anh em hãy ăn ở làm sao cho tốt, cho xứng đáng, hãy đối xử với nhau ngày càng thêm đậm đà thắm thiết. Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người (x. 1 Tx 3,12-13). Và, trên hết mọi sự, chúng ta hãy hân hoan đón chờ ngày ấy như một niềm hãnh diện, mặc cho mọi gian nan thử thách: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.” (Lc 21,28).
Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy tỉnh thức, cầu nguyện và mong chờ ngày Chúa quang lâm:
Không ăn chơi đàn điếm,
Nhưng cầu nguyện mong chờ.
Không lẳng lơ chè chén,
Nhưng chu toàn bổn phận.
Không danh vọng, dục tình,
Nhưng sớm lễ chiều kinh.
Lạy Chúa, trong Mùa Vọng này, xin Chúa cho chúng con luôn ở gần bên Chúa trong tinh thần cầu nguyện, để lắng nghe được tiếng Chúa vang vọng trong tâm hồn chúng con, để chúng con luôn sống đẹp lòng Chúa và sống chan hòa với anh chị em, ước gì ngày Chúa đến, chúng con luôn đứng thẳng và ngẩng cao đầu, đón mừng ơn cứu độ Chúa thương ban. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.I/MV-C – Lc 21, 25-28. 34-36) trình thuật về ngày tận thế. Thánh sử Lu-ca chỉ lấy lại những hình ảnh văn chương đã có sẵn theo truyền thống Khải huyền. miêu tả thời cánh chung của vũ trụ có nhiều điềm lạ (“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.” – Lc 21 25-26). Đó chỉ là quang cảnh làm hình nền cho việc tiên báo sự kiện Con Người quang lâm. Chính điều này mới là trọng tâm, và vì thế, tác giả rất chú trọng đến sự kiện cuối cùng này, và ngài đã mượn lại lời ngôn sứ Ða-ni-en trong một thị kiến (Đn 7, 1-14) để tường thuật: Thoạt tiên ngôn sứ thấy bốn con vật từ biển đi lên phá phách dữ tợn. Rồi ông thấy một Con Người hiện đến trong mây được trao quyền thống trị trời đất và các dân tộc (“Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến…”).
Những lời tiên tri này rất thích hợp để nói về ngày Chúa Ki-tô tái quang lâm. Người chẳng phải là Con Người đó sao? Cùng lúc Ðức Giê-su Ki-tô có 2 bản tính: bản tính nhân loại + bản tính thần linh. Hình ảnh một Con Người đến trong mây rất thích hợp để nói lên cả hai bản tính ấy nơi Người. Nhưng nếu chỉ viết “Con Người ngự giá mây trời mà đến” thì vẫn chưa đủ để diễn tả việc Người trở lại lần thứ hai, nên thánh Lu-ca phải thêm vào hình ảnh Con Người những lời chú thích cần thiết: “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Lc 21, 27). Những lời chú thích này chỉ được dùng để nói về Ðức Giê-su Ki-tô sau ngày Phục Sinh. Và như vậy, tác giả muốn nói rằng: Khi Ðức Giê-su Ki-tô trở lại sẽ không như lần trước – lúc Người giáng sinh làm người trong thân thể một Hài Nhi bé bỏng và yếu ớt – mà Ngườii sẽ đến với uy quyền và vinh quang tuyệt đỉnh.
Thánh sử Lu-ca thừa biết rằng có nhiều suy nghĩ không cần thiết về ngày Chúa lại đến, nên ngài rất dè dặt trong việc trình thuật. Ngược lại, ngài chú trọng đến thái độ người tín hữu phải có cho ngày trọng đại ấy. Theo ngài, ngày ấy sẽ kinh khủng cho thiên hạ; nhưng đối với các tín hữu, đó là ngày cứu độ. Ngài nhắc nhở: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc” (Lc 21, 28). Vâng, có lý nào những người tin thật Đấng Cứu Thế Giê-su Ki-tô, lại sợ hãi trước việc Người trở lại? Phải chăng chỉ có những kẻ không có hoặc đã đánh mất niềm tin, không còn sống theo niềm tin ấy? Do đó, tác giả mới khuyên ai nấy hãy sẵn sàng, đừng để ngày ấy đến chụp lấy mình như một cái lưới. Những kẻ chỉ lo chè chén say sưa và lo lắng sự đời, chắc chắn sẽ bị bất ngờ không kịp sửa soạn. Còn những ai vững niềm tin, luôn tỉnh thức và cầu nguyện thì chắc chắn “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.”
Khi miêu tả sự tự tin của con người trước một biến cố nào đó, người ta thường dùng cụm từ “đứng thẳng và ngẩng cao đầu”. Ngẩng cao đầu không phải là thái độ kiêu ngạo coi thường sự việc, mà chính đó là một cách biểu lộ một niềm tin vào chủ định của bản thân. Nếu Ki-tô hữu đã vững tin vào Người Con đã vâng lời Thiên Chúa Cha xuống thế mặc xác phàm, chịu khổ hình chết treo trên thập giá và phục sinh vinh hiển, để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết đời đời; đồng thời tin vào những lời dạy bảo của Người về ngày Người sẽ quang lâm lần thứ hai, thì chắc chắn “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” vui hưởng hồng ân cứu độ. Ấy cũng bởi vì chính Con Người đã khẳng định: “Tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian” (Ga 12, 47).
Một cách cụ thể, muốn “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” khi Con Người quang lâm, thì đừng lo lắng sợ sệt thái quá để rồi “rút cổ, gục đầu” phó mặc cho số phận đẩy đưa. Chẳng có số phận nào cả, mà chỉ có những “Đồ-Ghê-Tởm-Khốc-Hại đứng ở nơi nó không được phép đứng” cùng với những “Ki-tô giả” doạ nạt, lừa đảo người ta (Mc 13, 14-23) mà thôi. Không sợ hãi lo lắng thái quá, nhưng cũng không lơ là mất cảnh giác để “Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất”; mà phải là “tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc 21, 34-36).
Tỉnh thức không phải chỉ là thức suốt đêm này qua đêm khác như một người bị bệnh mất ngủ, mà là phải tỉnh táo, canh giữ, phòng vệ trong mọi trường hợp, mọi lúc, mọi nơi. Nói cách khác là phải cảnh giác trước những hiện tượng thiên nhiên và nhất là những trò lừa bịp của ma mị quỷ quái thông qua những “Ki-tô giả, ngôn sứ giả”, đồng thời phải tìm đến với Lời Chúa, lắng nghe Lời Chúa và kiên quyết sống theo Lời Chúa dạy. Vâng, nhất quyết “Phải như thế, vì anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.” (Rm 13, 11-14).
Nói thì đơn giản, nhưng thực hành được mới là thiên nan vạn nan, vì vào những ngày ấy từ hiện tượng thiên nhiên đến tâm trạng con người không lúc nào được bình lặng. Hơn thế nữa, còn biết bao nhiêu “Đồ Ghê-Tởm-Khốc-Hại” hay “Ki-tô giả, ngôn sứ giả” cũng chẳng để yên cho con người có đủ tỉnh táo mà phòng vệ. Chính vì thế, nên phải “tỉnh thức và cầu nguyện”, vì đó là hai chiều kích tất yếu nhắm tới mục tiêu duy nhất là “đứng vững trước mặt Con Người” trong ngày cánh chung. Cầu nguyện xin Chúa ban Thần Khí để Người soi sáng cho hiểu biết tận căn sự chân thật và điều giả dối, đâu là người công chính, đâu là kẻ giả hình, đồng thời Người ban cho đầy đủ can đảm và dũng khí đối diện với mọi nghịch cảnh, thử thách nghiệt ngã, để sẵn sàng đón Chúa trong ngày Người trở lại lần thứ hai.
Thật ra, giáo huấn của Hội Thánh về việc Chúa trở lại rất trong sáng và đơn giản. Hội Thánh khuyên nhủ mọi Ki-tô hữu phải tin và sẵn sàng, tức là phải trông đợi trong hy vọng. Mùa Vọng là mùa trông đợi, mong ngóng, chờ đón Tin Mừng Đấng Cứu Thế quang lâm lần thứ hai. Đã đành là Chúa đã đến, đang đến và luôn sẵn sàng ở lại trong cung lòng mỗi người hàng ngày hàng giờ, nhưng chỉ những người ngay lành, công chính mới thực sự được Chúa ở cùng “mọi ngày cho đến tận thế”. Tuy rằng ngày Chúa quang lâm lần thứ hai chưa tới, nhưng nó có thể tới bất cứ lúc nào, tới vào lúc loài người bất ngờ nhất, và khi Người tới thì toàn thể nhân loại đều được diện kiến. Duy chỉ có điều – và là điều cần quan tâm nhất, cần lo lắng nhất – là vào ngày giờ ấy, ai sẽ được đứng ở bên phải và ai sẽ phải đứng ở bên trái Người.
Chính vì thế, xin hãy biến 4 tuần lễ Mùa Vọng đón chờ ngày Chúa giáng sinh trong năm Phụng vụ thành Mùa Vọng trong suốt cuộc đời trông đợi Chúa quang lâm vào ngày cánh chung vũ trụ. Ngay từ bây giờ, có thể anh vừa mới sinh ra, có thể chị đang ở tuổi thanh niên, trung niên, có thể ông bà đang ở vòng bóng xế, và cũng có thể các cụ đang thèm ăn đất hơn thèm ăn cơm, chân trên lỗ chân dưới lỗ, xin tất cả “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ” (Lc 12, 35-37). Vâng, xin hãy thực sự sống cuộc đời trần thế cho Mùa Vọng Nước Trời mai hậu trong tư thế đứng thẳng và ngẩng cao đầu diện kiến Thiên nhan Đấng Cứu Tinh. Ước được như vậy. Amen.
CHẾT ĐẾN NƠI MÀ VẪN LO DỌN DẸP SAO?
“Hãy tỉnh thức và cầu nguyện chờ Chúa đến với chúng ta”
Đêm 15.04.1912, tàu TITANIC đang chạy trên vùng Bắc Đại Tây Dương thì đụng vào một tảng băng, con tàu lâm nguy và bị đắm, hơn 1.500 người thiệt mạng. Đó là một trong những tai nạn đường biển khủng khiếp nhất trong lịch sử từ trước tới nay.
Cách đây vài năm, có một tạp chí đã nhắc lại thảm hoạ này và nêu ra cho độc giả một câu hỏi nghe lạ tai mang đầy tính châm biếm: “Lúc tàu TITANIC đang chìm, nếu chúng ta có mặt ở đó, liệu chúng ta có còn tiếp tục dọn dẹp bàn ghế trên tàu không?”
Thoạt tiên ai cũng tự nhủ: “Câu hỏi này mới khôi hài làm sao!”, vì ngay lúc còi hụ báo tàu đang chìm thì người có tâm trí bình thường; ai mà lo đi thu xếp bàn ghế? Người có chút tỉnh táo thì ai lại có thể phớt lờ tiếng kêu la của đám người sắp chết đuối, để mải mê lo dọn dẹp bàn ghế!”
Tuy nhiên, cứ tiếp tục đọc bài báo đó, chúng ta sẽ hiểu được tại sao tác giả lại nêu lên câu hỏi kỳ quặc trên, để rồi đột nhiên chúng ta sẽ tự hỏi chính mình “Khi chiếc tàu đang chìm xuống như thế, biết đâu chừng mình lại tiếp tục dọn dẹp bàn ghế? Chẳng hạn như mình vẫn cứ mải mê lo những chuyện vật chất đời này đến nỗi bỏ bê cả những việc thiêng liêng đạo đức của mình? Hay mình cứ miệt mài kiếm sống đến nỗi chả còn đầu óc để chú ý đến cùng đích cuộc sống là gì nữa? Hay mình đã quá đắm mình trong cuộc sống đến nỗi quên mất lý do tại sao Chúa đã trao ban cuộc sống ấy cho mình?
“Khi chiếc tàu đang chìm, liệu chúng ta có mải mê lo thu xếp đồ đạc trên tàu mà quên mất mình sắp chết đến nơi chăng?” Câu hỏi đó trùng hợp một cách lạ lùng với câu hỏi mà Giáo Hội muốn nêu ra cho chúng ta trong Mùa Vọng này. Cả ba bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đều kêu gọi chúng ta tự vấn “Liệu chúng ta có tiếp tục mải mê thu xếp đồ đạc mà quên mất nguy hiểm là chiếc tàu đang chìm không? Chúng ta có quá bận rộn với cuộc sống này đến nỗi quên rằng mục đích cuộc sống này là để chuẩn bị cho cuộc sống mai sau không?” Quả thế, trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu cảnh cáo chúng ta: “Các con đừng bê tha chè chén say sưa hay quá lo lắng sự đời”, nghĩa là Ngài khuyên chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện chờ Chúa đến. Chủ đề này được lập đi lập lại trong Phúc âm dưới nhiều hình thức. Chẳng hạn ở một đoạn Phúc âm khác, Chúa Giêsu nói: “Hãy coi chừng; hãy tỉnh táo: các con không biết được ngày giờ nào Con Người sẽ đến, vào giấc tối, nửa đêm, lúc gà gáy hay vào buổi sáng… điều Ta nói với các con cũng là điều Ta muốn nhắn nhủ mọi người đó là Hãy tỉnh thức” (Mc. 33, 35-36).
Như vậy rõ ràng Mùa Vọng mời gọi chúng ta tỉnh thức và cầu nguyện để chờ đón Chúa đến.
Tôi xin đưa ra một ví dụ cụ thể để minh hoạ điều Chúa Giêsu muốn nói khi Ngài bảo chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện để chờ đón Chúa đến.
Cách đây mấy năm, tại Hollywood, có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám bệnh cho anh, ông bác sĩ riêng của anh đã thẳng thắn nói cho chàng tài tử biết: “Tình trạng sức khoẻ của anh bi đát lắm: chúng tôi cần phải thực hiện một cuộc giải phẫu kéo dài 36 tiếng đồng hồ, may ra mới có thể cứu sống anh được”. Về sau, chàng tài tử ấy đã thực sự thú nhận: “Trong 36 tiếng đồng hồ ấy, tôi đã học được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi, và tôi đã cảm nghiệm được. Tôi khám phá ra rằng tôi chẳng hề sợ chết vì trước đó tôi có thói quen mỗi ngày cầu nguyện với Chúa Giêsu và bây giờ khi phút giây cam go xảy đến tôi cảm nhận được kết quả của lời cầu nguyện ấy. Chính lúc đó tôi mới khám ra rằng nhờ những lời tâm sự, nói chuyện hàng ngày với Đức Giêsu trước đó, mà giữa Ngài và tôi chẳng xa lạ gì nhau, chúng tôi đã trở nên đôi bạn chí thân”.
Phúc cho ai nói lên được lời này khi Chúa đến: “Lạy Chúa, sau bao năm trung thành với việc tỉnh thức cầu nguyện, giờ đây con vui mừng được diện kiến Ngài”. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, đó chính là sứ điệp Giáo hội truyền dạy chúng ta trong chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng này. Vậy, chúng ta hãy lo tỉnh thức cầu nguyện để khi Chúa Giêsu đến, Ngài sẽ nói với chúng ta:
“Hãy đến đây, hỡi các con yêu dấu của Ta. Sau bao năm tháng xa cách, Ta thật hết sức vui mừng được gặp lại các con”.
Tôi xin kết thúc bài giảng hôm nay bằng lời cầu nguyện của một tác giả vô danh thuộc một trường dành cho dân da đỏ tên là Red Cloud (Hồng Vân) miền Pine Ridge tiểu bang South Dakota. Tư tưởng của lời cầu nguyện này có liên quan đến chủ đề phụng vụ hôm nay là Hãy Tỉnh Thức và Cầu Nguyện:
“Kính lạy Thần Trí cao vời, hơi thở Ngài đem đến nguồn sống cho thế gian, con đang nghe tiếng Ngài thì thầm trong gió thổi.
Xin hãy lắng nghe con là kẻ bé mọn yếu hèn đang khấn cầu Ngài đây.
Xin cho con bước đi trên đường thiện mỹ, đôi mắt lúc nào cũng chiêm ngắm cảnh hoàng hôn màu tím, cho đôi tay con biết kính trọng mọi tạo vật của Ngài, và đôi tai con luôn nhạy bén nghe lời Ngài nói
Xin cho con ơn khôn ngoan để hiểu thấu những lời giáo huấn của Ngài, mà để con chế ngự kẻ thù hung hãn nhất là chính bản thân mình.
Xin cho con luôn sẵn sàng đến gặp Ngài với đôi tay thanh sạch và đôi mắt thẳng ngay và khi cuộc đời xế tàn tựa bóng hoàng hôn lịm tắt, tâm hồn con không phải hổ thẹn khi diện kiến Ngài. Amen.”
Một ngày trong tháng 12, cậu Gary Schneider 16 tuổi và hai người bạn lên đường để leo núi Mt.Hood dự tính trong vòng 4 ngày.
Lên được 9.000 bộ (tức gần 3 km), ba cậu bé bị một cơn bão tuyết có lẫn đá thổi tới và vùi lấp. Chẳng bao lâu tuyết đã ngập khỏi đầu các cậu. Các cậu bèn đào hầm chui vào đống tuyết để thoát khỏi những luồng gió lạnh buốt thổi tới và để chờ đợi cho qua trận bão tuyết.
Mười một ngày sau, trận bão tuyết vẫn còn tiếp tục thổi dữ tợn. Các túi dùng để chui vào ngủ của các cậu đã bị ướt và đông cứng lại. Thức ăn dự trù chỉ còn đủ cho mỗi người mỗi ngày được hai muỗng bột làm bánh. Nguồn an ủi duy nhất của các cậu bây giờ là cuốn Thánh kinh gọn nhỏ mà một cậu đã mang theo trong túi hành trang.
Các cậu mở sách Thánh Kinh và đọc mỗi ngày tám tiếng. Đúng là một cảnh tượng ngộ nghĩnh: trong một cái hầm đào trong tuyết rộng 5 bộ vuông (chưa đầy 1m2), có ba cậu bé mới mười mấy tuổi đầu đang ngồi chồm hổm trên những cái túi ngủ đọc sách. Chỉ có một chút ánh sáng mờ ảo phản chiếu từ cái lỗ hầm nho nhỏ ở phía trên.
Tại đó, ba cậu tụm lại với nhau hết giờ này tới giờ khác, ngày này qua ngày khác, cùng nhau lắng nghe Lời Chúa bất chấp tiếng gió hú bên trên.
Cuốn Thánh Vịnh dường như là cuốn nói hay nhất về tình trạng hiện tại của các cậu. Đavid có viết một vài bài khi ông bị lâm vào những tình trạng không khác gì các cậu; đói, cô đơn, không biết chuyện gì sắp xẩy đến, chỉ còn biết tin tưởng ở Chúa.
Nếu có ai cứu giúp, thì người đó chỉ có thể là Thiên Chúa. Chờ đợi như thế không phải chuyện dễ. Các cậu chỉ còn biết cầu nguyện, hy vọng cơn bão tuyết sẽ chấm dứt và sẽ có người tới cứu giúp.
Cuối cùng, vào ngày thứ 16, bầu trời trong sáng trở lại, các cậu bò ra khỏi hầm bằng tuyết của mình. Qua cơn ngặt nghèo ấy các cậu trở thành yếu đuối, và ra khỏi hầm các cậu chỉ có thể bước đi được một ài bước. Ngày hôm sau có một nhóm người cứu trợ bắt gặp các cậu trong tình trạng như thế. Cuối cùng cơn thử thách khiến các cậu phải chờ đợi lâu dài đó đã chấm dứt.
Câu chuyện của các cậu bé, phải tụm lại với nhau trong hầm bằng tuyết chờ đợi cơn bão chấm dứt, là một hình ảnh tuyệt hảo tượng trưng cho mùa vọng.
Mùa vọng nhắc lại thời gian chờ đợi lâu dài của dân Do Thái mong mỏi Đấng Cứu Thế đến. Họ không biết làm gì để cho Đấng Cứu Thế mau đến hơn họ chỉ biết chờ đợi và cầu nguyện y như các cậu bé kia đã làm trên ngọn núi Mt.Hood. Dân Do Thái chỉ còn biết tin tưởng và chờ đợi Thiên Chúa sẽ đến để giải cứu họ.
Một trong những bài Thánh vịnh mà ba cậu bé cứ đọc đi đọc lại để cầu nguyện trên ngọn núi Mt.Hood là thánh vịnh 130. Trong đó có một câu như sau: “Tôi mòn mỏi trông chờ Chúa cứu độ, và tôi tin tưởng ở lời Ngài. Tôi mòn mỏi trông chờ Chúa còn hơn ngừơi lính gác mong chờ hừng đông”. Nếu không có Lời Chúa nâng đỡ tinh thần, thì các cậu dễ dàng thất vọng lắm. Dân Do Thái cũng như vậy khi họ mong chờ Đấng Cứu Thế. Nếu không có Lời Chúa ủi an họ, thì họ cũng sẽ thất vọng dễ dàng.
Nhưng Mùa vọng không hẳn là thời gian để chúng ta nhớ lại và sống lại việc người Do Thái trông chờ Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu. Mùa vọng còn có ý nghĩa hơn như thế nhiều.
Mùa vọng cũng là thời gian để chúng ta tưởng nhớ việc Đức Giêsu sẽ trở lại vào thời cuối cùng của lịch sử, lúc chúng ta ít mong đợi nhất. Chính vì thế mà Thánh sử Marcô nói với chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay như sau:
“Hãy coi chừng, hãy tỉnh thức…Đừng để khi Đức Giêsu bất ngờ đến mà Ngài lại thấy các bạn còn đang ngủ. Những gì tôi nói với các bạn, thì tôi cũng nói với tất cả mọi người: Hãy tỉnh thức”.
Điều này dẫn chúng ta đến quan điểm thứ hai về Mùa vọng. Bạn và tôi, chúng ta đang sống trong khoảng thời gian quan trọng giữ hai thời điểm: lúc Đức Kitô đến lần thứ nhất và lúc Ngài đến lần thứ hai.
Công việc của chúng ta không phải là cứ ngồi chăm chú và thánh thiện nhìn lên bầu trời để tưởng nhớ việc Đức Kitô đến lần thứ nhất và trông chờ Ngài đến lần thứ hai. Bổn phận của chúng ta là hoàn tất công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta làm. Trước khi trở về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói với kẻ theo Ngài:
“Các con hãy đi khắp nơi, đến với mọi dân tộc, rao giảng cho họ về nước trời, rửa tội cho họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền dạy cho các con. Và Thầy sẽ luôn luôn ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28, 19-20)
Mùa vọng là thời gian để chúng ta kiểm điểm lại xem chúng ta đã làm điều đó tốt đẹp thế nào. Mùa vọng là thời gian để chúng ta tự nhủ một cách đặc biệt rằng: khi Đức Giêsu trở lại, Ngài sẽ xér xử chúng ta xem chúng ta đã làm việc như thế nào để loan truyền nước Thiên Chúa ở trần gian này.
Đức Kitô đã chết. Đức Kitô đã phục sinh. Đức Kitô sẽ trở lại. Cho tới khi Ngài trở lại, chúng ta phải lưu tâm tới công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta làm.
Chúng ta phải cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới mặc, tiếp đón khách đến nhà, làm việc cho hoà bình, và yêu thương nhau như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta.
Đây là sứ điệp mà những bài đọc hôm nay muốn nhắn nhủ chúng ta. Sứ điệp đó là: Chính Đức Giêsu, Đấng đã sống ở trần gian cách đây hơn hai ngàn năm, sẽ trở lại vào ngày tận thế đúng lúc chúng ta không ngờ tới. Khi Ngài trở lại, Ngài sẽ xét xử từng cá nhân mỗi người chúng ta về cách thức chúng ta hoàn thành công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta làm.
Chúng ta hãy hồi tâm lại để cầu nguyện, xin Đức Giêsu giúp chúng ta trung kiên trong công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta thực hiện.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban cho chúng con sức mạnh, vì đôi khi chúng con gặp phải những vấn đề khó khăn rắc rối khiến chúng con muốn bỏ cuộc.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tình yêu của Ngài, vì đôi khi chúng con bị người khác hất hủi khiến chúng con bị cám dỗ ghét bỏ họ.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban cho chúng con đôi mắt của Ngài, vì đôi khi cuộc đời trở thành đen tối khiến chúng con không còn biết đâu là đường chúng con phải đi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban chính Ngài cho chúng con. Tâm hồn chúng con đã được dựng nên để yêu Ngài, nên tâm hồn chúng con sẽ không bao giờ an nghỉ cho đến khi nào được nghỉ an trong Ngài.
Ít năm trước đây, một tài xế xe buýt thuộc bang Oklahoma đạt kỷ lục xuất sắc. Trong 23 năm, anh lái xe buýt trên 1.500.000 km không gây một tai nạn nào. Khi được hỏi làm sao anh đạt được kỷ lục ấy, anh trả lời đơn giản: “Hãy nhìn đường”
Bài Tin mừng hôm nay cho một lời khuyên tương tự “Hãy tỉnh thức luôn”. Đức Giêsu dùng nhiều kiểu nói: “Hãy coi chừng”. “Hãy để ý” “Hãy ngẩng đầu lên”. Đó không phải chỉ là lời khuyên có ích cho đời sống thiêng liêng, mà còn là qui luật an toàn cho đời sống thường ngày nữa, chúng ta cũng thường nói: “Hãy chú ý”, “Hãy cảnh giác”, “Ngẩng đầu lên”, “Nhìn cho kỹ”.
Để lái một chiếc xe hay một chiếc xe buýt, chúng ta “phải nhìn đường”, một lực sỹ thể thao cần phải lẹ mắt anh phải sẵn sàng đối phó với những cảnh huống bất ngờ, anh phải theo dõi trái banh.
Muốn đạt kết quả trong trường. Người học sinh phải nhìn thầy, cô giáo, các em phải chăm chú, lắng nghe, phải theo dõi những gì đang diễn tiến, phải lắng nghe những thầy cô giảng.
Qui luật này cũng áp dụng cho công việc thường ngày của chúng ta nữa; một bà mẹ canh chừng con nhỏ, để ý đến cái nồi, cái chảo trên bếp, bà cũng phải chăm chú và cảnh giác.
“Ngước đầu lên” được áp dụng đặc biệt trong phụng tự công chung của gia đình Thiên Chúa- nhất là trong Mùa vọng này. Chúng ta phải tỉnh thức trong thánh lễ, không phải chỉ tỉnh thân xác mà thôi, nhưng thức tỉnh cả tâm trí và linh hồn. “Hãy nhìn đường” có thể đổi là “Hãy nhìn bàn thờ”. Hãy theo dõi những lời cầu nguyện và những câu đối đáp. Hãy mở miệng ca hát. Hãy cố gắng nắm lấy ý nghĩa những gì bạn đọc, bạn hát. Hiểu ý nghĩa của từng lời, từng chữ.
“Hãy ngẩng đầu lên”. Hãy nhìn của Lễ Thánh, nhìn chén Máu Thánh châu báu. Chúng ta đang tiến đến cùng Chúa Kitô trong lúc này. Ít phút nữa chúng ta sẽ gặp Ngài trong Giáng sinh của thánh lễ. Ít tuần nữa chúng ta sẽ mừng Ngài trong giáng sinh của Belem. Ít năm nữa, chúng ta sẽ ở với Ngài trong giáng sinh vô tận trên thiên đàng. Hãy chuẩn bị cho cả ba lễ giáng sinh đó. Nhìn đường, nhìn bàn thờ.
Ý tưởng này lặp đi lặp lại trong bài đáp ca hôm nay: “Ôi lạy Chúa, xin chỉ cho con đường lối của Chúa”
Xin dạy bảo con lối bước của Chúa… xin hướng dẫn con trong chân lý của Chúa… Chúa chỉ cho con đường lối.. Chúa hướng dẫn người khiêm nhường.. Mọi nẻo đường của Chúa thì thiện hảo và vững bền.
Cuộc sống hàng ngày cũng giống như lái một chiếc xe, nhất là chiếc xe buýt, chúng ta có trách nhiệm thiêng liêng với tha nhân. Chúng ta cần một người chỉ đường và hướng dẫn.
Qua lời cầu nguyện và việc dâng Thánh Lễ, xin Chúa Giêsu giúp chúng ta tỉnh thức, xin Người giúp chúng ta tránh khỏi những gì làm chúng ta vấp ngã. Tránh khỏi những gì làm thiệt hại cho những người chúng ta chịu trách nhiệm. Xin Chúa Giêsu giúp chúng ta đón nhận Người đến trong Thánh Lễ, người đến trong Lễ Giáng Sinh và Người đến trong uy quyền và vinh quang trong phút cuối cuộc hành trình của chúng ta. Amen.
(Suy niệm của Lm Jude Siciliano OP – Chuyển ngữ: Anh em Học Viện Đaminh Gò Vấp)
“Đồng xu rơi” (thành ngữ này có nghĩa là chợt hiểu ra). Đó là cụm từ một phụ nữ ở Maine trong đợt tĩnh tâm của giáo xứ đã dùng để tóm kết bài Tin Mừng hôm nay. Tôi chưa nghe thành ngữ này bao giờ mà cũng chẳng biết nguồn gốc của nó xuất phát từ đâu. Dường như thành ngữ này đã có từ “xa xưa” khi những đồng xu được sử dụng trong những thiết bị như cái cân nơi công cộng. Những đồng xu có thể đã được sử dụng. Sau khi thả đồng xu vào máy, người ta phải chờ một chút cho đến khi “đồng xu rơi xuống” và rồi cái cân cho biết mình nặng bao nhiêu.
Vì thế, thuật ngữ trên ám chỉ việc nhận ra điều gì đó sau một một lúc băn khoăn và chờ đợi. Có một sự liên hệ trong tiểu thuyết của Nigel Balchin, trong đó nhân vật thủ vai chính nói rằng, “Tôi ngồi suy nghĩ một lúc sau đó mới chợt hiểu ra”. Chúng ta hãy trở lại Mùa Vọng và bài Tin mừng hôm nay để xem “chợt hiểu” như thế nào.
Với năm phụng vụ mới này, chúng ta bắt đầu những bài đọc Chúa Nhật trong Tin Mừng của thánh Máccô. Đây có thể là sự khởi đầu của năm phụng vụ, nhưng Tin mừng Máccô bắt đầu từ đâu? Bài đọc hôm nay không bắt đầu năm phụng vụ của chúng ta với chương thứ nhất, câu một, nhưng đoạn văn hôm nay là phần kế cuối của Tin Mừng Máccô.
Bối cảnh của đoạn Tin Mừng hôm nay: Chúa Giêsu vào Giêrusalem (11,1), nơi đó Người sắp kết thúc sứ vụ công khai của mình. Người khép lại cuộc sống phụng tự trong Đền thờ (11,15) và bước vào cuộc tranh luận với các thầy dạy truyền thống đức tin (12,12). Sau đó, từ trên núi Ôliu, Người tiên báo sự sụp đổ của thành Giêrusalem và ngày tận cùng của thế giới (13,1).
Bài Tin mừng được chọn đọc hôm nay kết thúc lời giảng dạy của Chúa Giêsu với các môn đệ. Vì vâng lời Chúa Cha và trao hiến chính mình trên thập giá, Chúa Giêsu sắp rời xa các môn đệ. Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu liên hệ sự ra đi của Ngài với “người trẩy đi phương xa”. Ông chủ đang rời xa, nhưng chắc chắn ông sẽ trở lại; dù những người đầy tớ được trao trách nhiệm trông coi nhà cửa không biết khi nào ông chủ về. Có một điều chắc chắn là khi ông chủ trở về ông muốn thấy nhà mình ngăn nắp và đầy tớ của ông còn tỉnh thức. Họ phải luôn luôn tỉnh thức.
Mùa vọng đã bắt đầu và chúng ta cần được điều này nhắc nhở rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại, vì ai trong chúng ta đã không từng có lúc ngủ quên trong việc phục sự Chúa? Dụ ngôn này nhắc chúng ta ý thức đầy đủ về sự sẵn sàng của người môn đệ. Đồng xu sẽ rơi xuống và chúng ta cần phải tỉnh thức cho đến giây phút chắc chắn đó trong cuộc đời mình.
Có vẻ như thánh Máccô đang nói về một biến cố tương lai. Nhưng ngài lại không lưu tâm đến tương lai vì ngài đang muốn nói và nhấn mạnh với cộng đoàn của ngài về thái độ của một Kitô hữu đối với hiện tại. Thánh Máccô nhắc lại một dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã kể để giúp thính giả không những chuẩn bị cho sự trở lại của Chúa Giêsu; mà còn đáp lại sứ điệp của Người ngay lúc đó.
Nếu dụ ngôn chỉ đơn thuần muốn cảnh giác các Kitô hữu hãy tỉnh thức, thì hóa ra sự nhấn mạnh đó chỉ tập trung vào người giữ cửa, vì anh ta là người đón ông chủ vào. Vậy, mục đích và nhiệm vụ của những người đầy tớ khác là gì? Chẳng lẽ họ chỉ là những nhân vật phụ trong bối cảnh của câu chuyện này sao? Thánh Máccô có lẽ đang nghĩ đến cộng đoàn rộng lớn hơn của ngài – tất cả những người “đầy tớ” trong Giáo hội lãnh trách nhiệm của mình và họ phải được động viên để luôn cảnh giác. Vì thế, những hàng cuối của dụ ngôn là, “điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!” Những lời kết thúc của Chúa Giêsu như nói với tất cả những người tin sau này rằng hãy tỉnh thức.
Tin mừng của thánh Máccô dẫn đến trình thuật cuộc Khổ nạn. Sau khi ở Caesarea Philippi, chúng ta tiếp tục cuộc hành trình với Chúa Giêsu về Giêrusalem, nơi đó Người hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Với dụ ngôn trong Tin mừng hôm nay, thánh Máccô tóm kết diễn từ khải huyền dành cho cộng đoàn của ngài. Bây giờ thánh sử sẵn sàng thuật lại những sự kiện dẫn đến Cuộc Khổ Nạn. Vì vậy, lời khuyên sau cùng của đoạn Tin mừng ngày hôm nay thật ý nghĩa đối với chúng ta. Chúng ta được cảnh báo “hãy tỉnh thức”. Tất nhiên, đó là sự nhấn mạnh về việc tỉnh thức và sự chuẩn bị đón ông chủ trở về. Nhưng có lẽ thánh Máccô cũng đang nhấn mạnh ý nghĩa về những gì đang xảy ra. Ngài kêu gọi chúng ta “hãy tỉnh thức”. Những sự kiện lớn lao diễn ra đều có ý nghĩa sâu sắc đối với mỗi người chúng ta. Hôm nay đã bắt đầu mùa Vọng, nhưng cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu được liên hệ với mùa này nhằm giữ chúng ta trong tư thế sẵn sàng và lưu tâm đến những gì mà Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ: sự tỉnh thức, lòng trung thành và phục vụ hy sinh vì danh Người.
Nhiều người mới hoán cải trong các giáo xứ sẵn sàng chia sẻ niềm phấn khởi của cuộc trở lại của mình. Nghi thức Khai tâm Kitô giáo cho người lớn là một tiến trình mà ở đó không chỉ dẫn họ vào trong Giáo hội mà còn thắp lên trong cuộc đời của họ một ngọn lửa niềm tin nồng ấm. Khi nghe các câu chuyện của những người mới trở lại, người ta hy vọng rằng niềm tin của họ sẽ giữ được niềm phấn khởi và sự sống động mãi như hiện nay. Nhưng họ và chúng ta dễ dàng bị cuốn vào nếp thường ngày và những phỏng đoán trong lời nguyện cũng như các thực hành đức tin.
Mùa Vọng bắt đầu với lời kêu gọi tỉnh thức, mời gọi và thôi thúc chúng ta tự vấn: “Tôi phải nhạy bén thế nào với Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày?” Chúng ta biết rằng mình đang mong chờ cuộc quang lâm của Thiên Chúa trong tương lai, trong khi đó, tôi tỉnh thức ra sao với sự hiện diện của Người ngay ở đây và lúc này trong cuộc đời tôi? Chúng ta tin Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện ở giữa chúng ta. Chính niềm tin đó hôm nay đã qui tụ chúng ta quanh bàn thờ để nghe lời của Người và lãnh nhận Mình và Máu của Người để giúp chúng ta luôn cảnh giác và thức tỉnh chúng ta nếu chúng ta đang ngủ quên. Một lần nữa, chúng ta được nhắc nhở, “đồng xu sẽ rơi”.
Một người khác trong đợt tĩnh tâm đó đã thuật lại về những gì mà người mẹ 85 tuổi của chị mới nói với chị: “Cuộc đời của mẹ qua đi quá nhanh!” Ngẫm nghĩ về câu nói của mẹ, chị chia sẻ rằng, “Một ngày nào đó tôi cũng sẽ nói như vậy, vì thế, bây giờ tôi cần làm những gì phải làm, vì tôi đang còn có thời gian.” Đó là một quyết tâm Mùa Vọng mà tôi từng được nghe.
Trong ánh sáng của bài Tin mừng hôm nay, người phụ nữ mô tả sự “chờ đợi chủ động”. Tựa như lau nhà khi tôi chuẩn bị đón khách đến. Điều đó khác với sự “chờ đợi thụ động”, nghĩa là chỉ để cho thời gian trôi qua mà không tập trung và cũng chẳng tỉnh thức như Tin mừng đòi chúng ta. Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy ý thức trách nhiệm khi chúng ta sống trong “thời gian sẵn sàng và sắp tới”. Người Dothái chờ đợi với lòng khao khát sự xuất hiện của Đấng Mêsia. Chúng ta tin rằng Người đã đến, nhưng bây giờ chúng ta đang chờ đợi tích cực, sự chờ đợi đó được duy trì bởi niềm tin và hy vọng của chúng ta rằng Chúa Giêsu, Người đã đến và sẽ lại đến. Hãy để ý cách Chúa Giêsu lặp lại yêu cầu “hãy tỉnh thức”. Nếu chúng ta đang cố gắng sẵn sàng mọi lúc, chúng ta sẽ gặp được Đức Kitô khi Người đến mỗi ngày. Đó là vì giây phút hiện tại là cơ hội. Thời gian trong Kinh thánh có thể được diễn tả theo cách mà chúng ta thường nói đến. Chúng ta nhìn vào đồng hồ và nói, “11 giờ sáng”. Đó là giờ “chronos” trong tiếng Hylạp, nó chỉ phút, giờ, ngày, v.v… Nhưng trong Kinh thánh còn có giờ “kairos” – một thời cơ đặc biệt; một khoảnh khắc mà một điều không mong đợi lại xảy ra và làm thay đổi những công việc hằng ngày của chúng ta, hoặc thời khắc đó đưa chúng ta đến một thời cơ. Tin mừng đang nói về thời gian “kairos” và khiến chúng ta ngẫm nghĩ: có phải tôi chỉ đang chỉ giờ, bận rộn chờ đợi thứ tương lai xa rời với hiện thực. Hoặc tôi có cảm giác rằng hiện tại có những thời cơ, và vì thế, tôi cứ đưa mắt nhìn để đáp lại những khả năng đó khi nó đến?
Trong thời gian giao mùa này tôi có thực sự đang đi tìm những phương thế để thức tỉnh và giữ cho mình biết ý thức để tôi có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu khi Người đi vào trong cuộc đời tôi – vào một khoảnh khắc kairos nào đó hay không? Những người trong đợt tĩnh tâm ở Maine đã nhận thấy tĩnh tâm là một cách để tự mình cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Kitô trong cuộc đời của họ. Những người khác lại dành thời gian cho việc đọc bài chia sẻ, suy niệm hoặc dành thời gian nghe giảng trong nhà thờ, thực hành một nghi thức sám hối mùa Vọng, hoặc tìm nơi ăn chốn ở và áo quần cho những người vô gia cư, hay dạy thêm cho những trẻ em trong thành phố và những khoảnh khắc khác với những khả năng thời cơ kairos. Một cách nào đó những người này đang tỉnh thức và sẵn sàng cho đến khi “đồng xu rơi”.
Mong Đợi Thiên Chúa Giải Thoát Toàn Diện (Lc 21, 25 – 36)
Chúng ta bắt đầu bước vào năm phụng vụ mới. Các bài đọc Tin mừng năm nay được trích theo thánh Luca. Tuy nhiên các bài đó không theo thứ tự trước sau như kiểu chúng ta đọc một cuốn sách hay một cuốn truyện, ngược lại được lựa chọn theo nhu cầu của từng mùa, từng Chúa nhật. Hôm nay là chương 21, gần cuối sách, (Luca có 34 chương). Chúa nhật IV mùa Vọng trở về câu chuyện Đức Mẹ thăm viếng bà chị họ Elizabét. Giáng sinh là truyện ở hang Bêlem ở đầu sách. Chỉ đến Chúa nhật thứ ba thường niên phụng vụ mới đọc theo thứ tự bình thường. Những ai ưa thích trật tự và bảo thủ trong cuộc sống hẳn lấy làm khó chịu. Họ chỉ được thỏa mãn khi phụng vụ làm theo não trạng của họ. Nhưng mãi sau này mới được, tức từ Chúa nhật thứ ba thường niên.
Còn lúc này thì chưa, Chúa nhật I mùa vọng mô tả cảnh hoang tàn đổ nát, song song với những chi chúng ta hiện thời cảm thấy trên thế giới; chiến tranh, chém giết, bom đạn,… tất cả đều là hỗn loạn ngoài sức tưởng tượng mỗi người: “Khi ấy, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: sẽ có những điềm thiêng dấu lạ trên trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sẽ sợ hãi đến hồn siêu phách lạc; chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu. Vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển”. Như vậy, mùa Vọng không khởi sự với bài ca ru em, ngọt ngào và thứ tự. Nó bắt đầu với tiếng khóc than và tranh chấp, kiểu mà cuộc sống hàng ngày thường tiến hành, ở bình diện khu phố hoặc rộng lớn thế giới. Thực vậy, càng gần Giáng sinh, các câu chuyện phúc âm càng trở nên gay go như thể báo trước tương lai của con trẻ thần linh giáng trần. Em sẽ bị nghiền nát dưới bánh xe quyền lực thế gian mặc dù quang cảnh lúc em sinh ra thật thơ mộng, êm đềm với các mục đồng, máng cỏ, thiên thần, chiên lừa và đạo sĩ phương đông. Xin đừng lãng quên nhân vật tàn bạo Hêrôđê cũng là thành phần của trình thuật thơ ấu, tức bàn tay của quỷ vương đã hiện diện ngay từ lúc khởi đầu.
Nhưng mặc dù vậy, các bài đọc cũng có chút an ủi và hy vọng. Tiên tri Giêrêmia ở bài đọc một cho chúng ta hay tại sao? Tại vì cùng với các ngôn sứ khác, ông tiên báo Thiên Chúa sẽ ra tay cứu vớt dân Ngài. Ong viết như vậy khi đang bị cầm tù (33,1) và binh đội Babylon sẽ bao vây thành Giêrusalem, chẳng bao lâu nữa họ sẽ triệt hạ thành. Cho nên những mô tả của chúa Giêsu không chỉ xảy ra ở thời cánh chung, nhưng thường xảy ra nhiều lần trong lịch sử dân Dothái. Nó xảy ra trong cuộc đời mỗi người, cho Giêrêmia, cho cư dân Giêrusalem hoặc cho bất cứ ai trên mặt hành tinh, nếu chúng ta không cảnh giác. Sự thực Giêrêmia chỉ nói điều mà các ngôn sứ khác vẫn nói, khi tuyển dân gặp cơn khốn khó. Ong nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa phục hồi dân tộc sau khi đã trừng phạt họ vì tội lỗi: “Trong những ngày ấy, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ an cư lạc nghiệp. Đây là tên người ta sẽ đặt cho thành: Đức Chúa là sự công chính của chúng ta!”. Tiên tri còn nhắc lại lời hứa ông đã tiên báo trước (23,5 -6): “Này sẽ tới những ngày, Ta sẽ làm nảy sinh cho nhà Đavít một chồi non chính trực”. Trong hoàn cảnh hiện tại, đổ vỡ đang xảy ra trước mặt, lời nói của vị tiên tri xem ra vô lý. Làm thế nào Thiên Chúa sẽ xây dựng lại một đất nước xem ra sắp bị phá tan tành? Làm thế nào thành Thánh sẽ xây dựng lại khi sắp bị đốt rụi? Làm thế nào dòng giống Đavít sẽ cai trị khi mà người Babylon xâm chiếm xứ sở và đưa các lãnh tụ đi đày?
Nhưng điều mà nhân loại không tưởng tượng nổi, thì Thiên Chúa làm được. Điều mà con người bất lực thì Thượng Đế thi hành dễ dàng như trở bàn tay. Giêrêmia cam kết Thiên Chúa sẽ vực dậy một chồi non Đavít. Và khác với cấp lãnh đạo Do Thái hư hỏng, chồi non ấy sẽ: “Trị nước theo lẽ công bình và chính trực”. Ong ta sẽ cứu vớt đất nước, xây lại thành thánh và trở nên lãnh tụ tài ba, đạo đức. Ong sẽ quy tụ tàn dân thành một cộng đoàn mà đặc tính là công lý, bình đẳng và thương yêu. Nếu chúng ta hỏi thử Giêrêmia hay bất cứ ngôn sứ nào khác: “Vậy thì sự cứu rỗi của dân tộc hệ tại cái chi?” Chắc chắn họ sẽ không nhấn mạnh vào việc “cứu vớt” cho bằng một cộng đồng biết kính sợ Thiên Chúa, quý trọng tương giao tốt đẹp với Ngài, được Ngài dẫn dắt và che chở, sống công bình và bác ái, thương yêu nhau. Và họ sẽ gọi tất cả những phẩm chất là “Shalom” Đó là sự cứu vớt mà các ngôn sứ đoan hứa nhân danh Chúa Trời. Nói một lời cho gọn,biến cố cộng đoàn, việc cứu vớt của Thiên Chúa đồng nghĩa với việc xây dựng một cộng đoàn công chính. Chúng ta nên suy nghĩ thêm về ý tưởng này. Nếu chúng ta ăn ở tốt lành, vun đắp một giáo xứ, tu vịên đạo đức thánh thiện, thì đó là ơn cứu độ của Chúa Trời. Ngoài ra là sự giả hiệu. Xưa nay chúng ta sống buông thả, đòi hỏi, ích kỷ, lười biếng, vô lề luật dưới danh nghĩa là văn minh hợp thời thì không hiểu có đáp ứng đúng tư tưởng của các tiên tri hay không? Các vị có hứa ơn cứu độ đó không? Ngay từ khởi đầu mùa vọng, Giêrêmia đã nhắc nhở chúng ta về điều mà các đồng nghiệp của ông thường tuyên bố về thánh ý Thiên Chúa, tức là “sự cứu rỗi”, mặc dù lúc ấy các tuyển dân đang trong vòng vây của đế quốc Babylon, sắp bị tàn phá lưu đày: “Này sẽ đến những ngày – sấm ngôn của Đức Chúa – Ta sẽ thực hiện điều tốt lành mà Ta đã phán về nhà Israel và Giuđa” Chúng ta nên chất vấn lương tâm xem thế nào? Nghe đúng thông điệp của đức Chúa hay đang làm ngơ giả điếc?
Luca không nói “ngày ấy” đến một cách dễ dàng nhưng rất nhiều sự kiện sẽ xãy ra trước đã: “sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng, và các vì sao. Dưới đất muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước những cảnh biển gào sóng thét”. Ngay trước đoạn trích hôm nay, chúa Giêsu khuyên nhủ các môn đồ phải làm chứng nhân cho danh Ngài: “Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy” (21, 23). Vì họ sẽ bị vua chúa quan quyền bách hại (câu 12 đến câu 14) và Giêrusalem sẽ bị tàn phá (câu 20 đến câu 24). Cuối cùng thì “con người sẽ ngự đến”. Lúc ấy, họ mới được vui mừng. Như vậy chúng ta có thể rút ra vài bài học:
Được ơn Đức tin, không có nghĩa là thoát khỏi bách hại và gian nan thử thách. Ngược lại vì đức tin mà các kẻ theo Chúa phải gánh chịu những bất hạnh. Cho nên phải can đảm sẳn sàng đón nhận chúng như từ thánh ý đức Chúa Trời. Sau những cực khổ, Ngài sẽ trở lại và linh hồn vui sướng được xem thấy Ngài. Đoạn phúc âm hôm nay mở đầu với những tai họa, nhưng điểm chính là Thiên Chúa cứu vớt với sự xuất hiện của Chúa Giêsu, mặc dù các tín hữu sẽ bị “ngày ấy” tấn công: “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề, chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống anh em” Thực ra thế gian này với những lôi cuốn của nó làm cho chúng ta nhiều khi mất cảnh giác. Cứ nhìn vào các hành xử của nhiều linh hồn nhắc rõ. Họ thu vén cho mình đủ mọi thứ sung sướng, và quên bẳng Lời Chúa trong nếp sống hằng ngày. Vậy chúng ta phải làm gì để ăn ở tỉnh thức? Xin thưa phải cầu nguyện.
Thánh Luca thường nhấn mạnh về điểm này. Người ta thường nói phúc âm của ông trĩu nặng bầu khí cầu nguyện. Có những lúc thánh nhân mô tả Chúa Giêsu bộc phát cầu nguyện. Thí dụ trong những biến cố quan trọng (5, 16;3, 21;6, 12;) Ngài cũng thúc giục các môn đệ bắt chước mình (6, 28;10, 2;20, 47,…). Bài tường thuật hôm nay dù đầy những lo lắng hãi hùng nhưng vẫn kết thúc bằng đặc tính Luca: “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy ra và đứng vững trước mặt Con Người”. Liệu tình hình thế giới với những xấu xa của nó, bạo lực, sa đoạ, dâm ô, tham nhũng, áp bức, bóc lột, sẽ qua đi chăng? Xem ra đó chỉ là ước mơ viễn vông của những người không còn tiếp xúc với thực tế. Xin cứ nhìn vào lối sống thành thị, thôn xóm sẽ hiểu ra vấn đề. Xem ra những sinh hoạt ấy có tính cố định bền vững, mãi mãi chẳng bao giờ thay đổi. Sóng trước đổ đâu sóng sau đổ đấy, chẳng có hy vọng thay đổi tiến bộ. Nhưng như trời đất trăng sao vững bền gấp mấy; vậy mà Chúa nói sẽ có ngày tận cùng, chúng sẽ tan vỡ hoàn toàn. Các quyền lực đế quốc xem ra vững bền hơn đá tảng, núi đồi, vậy mà Chúa tiên báo sẽ có ngày tan tành như giấc chiêm bao của Đaniel. Cho nên Ngài thúc giục chúng ta cầu nguyện. Cầu nguyện nghiêm chỉnh để “ngày ấy” khỏi bất chợt ụp xuống mình như chiếc lưới bắt chim, chứ không phải chỉ như miếng bánh tráng miệng sau các lời giảng. Cầu nguyện phải là điều căn bản của ơn gọi làm môn đệ của Chúa để có thể tỉnh thức luôn, ngõ hầu chống lại các lôi cuốn của vật chất thế gian: say sưa, rượu chè, tiện nghi, ngoại tình, phóng đãng.
Về phương diện cá nhân, những người gánh chịu đau khổ lớn lao như mất mát người thân, vỡ nợ, tuổi già, tai nạn, thất nghiệp, khủng hoảng gia đình, bệnh tật, thuốc sái, thì hình ảnh Phúc Am hôm nay quả chính xác. Mặc dù ngôn ngữ Khải Huyền có phần mập mờ. Các biến cố miêu tả không mang tính xác thực, các hình ảnh tiên báo không nói rõ sự việc sẽ xảy ra như thế nào, để môn đệ Chúa có thể đứng thẳng và ngẩng đầu lên! Chỉ có niềm tin mới vững lòng trước sự dữ, dù đang hoành hành phá hoại nhân loại, sẽ có ngày kết thúc. Thiên Chúa sẽ lo liệu việc đó. Ngài đã hứa và Ngài sẽ hành động. Mọi sự sẽ thay đổi tận gốc. Vậy thì còn chi tồn tại? Chúng ta không thể đoán chắc chỉ trừ lời bảo đảm của Chúa Giêsu: “Ngày ấy” Ngài sẽ đến cứu thoát: “Anh em hãy đứng vững và ngẩng đầu lên. Vì anh em sắp được cứu chuộc”. Lúc này mọi sự xem ra bất khả, nhưng lời Ngài không thể sai. Điều kiện Ngài đưa ra là cầu xin để đức tin không rơi vào đổ vỡ, gây nên thất vọng. Có người lên vấn nạn là trong những khủng hoảng trầm trọng, cùng cực; con người ta không thể cầu nguyện và trong cộng đồng giáo xứ thiếu gì những linh hồn như vậy? Họ đang chịu những trăm bề đau khổ: vợ ốm, con đau, hết tiền, thất nghiệp. Giải pháp là mời họ đến cầu nguyện cùng với chúng ta. Họ không cần làm gì cả, chỉ cần hiện diện, chúng ta sẽ cầu xin cho họ cho đến khi họ tìm lại được sức khoẻ và khả năng để cầu nguyện. Sẽ có ngày họ sẽ lại cầu nguyện lại cho chính chúng ta, vì bất cứ ai, lúc này hay lúc khác kinh nghiệm tận thế về đời mình.
Tóm lại chúng ta không phải là những kẻ mơ mộng, để đầu mình nơi những đám mây trên trời cao. Chúa truyền chúng ta ăn ở thực tế, kiên trì phục vụ thế giới và đừng để bị đè bẹp dưới đống khổng lồ công việc. Đúng là luôn có những khó khăn và thời gian khủng hoảng. Nhưng bĩ cực thái lai luôn có điều chi mới đang chờ đợi đàng xa phía trước. Đêm đen mù mịt đang bao phủ hành tinh, nhưng cũng có nguồn sáng đang đến với nhân loại. Chúng ta chờ đợi sự giải thoát toàn diện mà Thiên Chúa đã hứa. Đó là mục tiêu mùa vọng. Viễn cảnh của loài người chỉ được giữ vững nhờ lời cầu nguyện. Cho nên hôm nay chúng ta đổi mới quyết tâm ăn ở tỉnh thức, cảnh giác với những âm mưu của satan, thế gian và xác thịt. Nhiệt tình phục vụ Chúa trong các người nghèo khổ. Đổi mới tinh thần mở rộng để ngóng trông Chúa đến. Phúc âm hôm nay đầy sợ hãi, nhưng điểm hội tụ là việc Chúa xuất hiện để cứu giúp. Thiên Chúa là trung tâm của câu chuyện. Chúng ta nên nhìn vào gương mặt đoan hứa của Chúa Giêsu và nhận ra Thiên Chúa đang điều hành mọi sự. Ngài chẳng bỏ mặc chúng ta cho đến khi Đấng Thiên Sai ngự đến. Amen.
Diễn từ về “Cuộc trường chinh của việc giải phóng”
Và sẽ có những điềm lạ trên mặt trời…
Lần này đó là những biến cố gắn liền với ngày quang lâm được nói đến (cc. 25-27). Điều đáng chú ý là liên từ “và”: Chúa Kitô đi từ thời của dân ngoại đối với thành Giêrusalem đến những biến động trong vũ trụ và không xác định chiều dài của thời gian giữa sự tàn phá thành vào năm 70 với thời Tận cùng. Như thế, ngài mặc cho sự giày xéo thành bởi các dân ngoại (c. 24) một màu sắc cánh chung. Đã hai nghìn năm rồi từ ngày xảy ra biến cố ấy!
Những điềm lạ nói đây nghiêm trọng hơn những điềm lạ ở câu 11: chúng sẽ đồng thời xảy ra trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao và sẽ gieo rắc lo âu sợ hãi cho toàn thể dân cư trên mặt đất. Trật tự vũ trụ sẽ chao đảo như thể trở về với cái hỗn mang nguyên thuỷ ghi dấu thời tận cùng của lịch sử. Các biến cố này đi liền trước ngày quang lâm của Con Người, ngày đó được nhắc đến một cách ngắn gọn chứ không được mô tả. Trong khi ngày đó là đích điểm của toàn thể lịch sử nhân loại, thì tầm quan trọng của nó lại quá nhỏ trong bài diễn từ mà trọng tâm lại nằm ở chỗ khác.
Lúc ấy, Chúa Giêsu mới đưa ra một lời diễn giải giúp khám phá ý nghĩa của diễn từ (cc. 28-32); Ngài nối kết các biến cố Ngài vừa nói ở trên với các câu hỏi ban đầu về ngày giờ và dấu chỉ (xc.7). Một ý tưởng trung tâm (c.28) được minh hoạ nhờ một dụ ngôn (cc.29-30) và nhờ lời giải thích dụ ngôn ấy (c.31).
Trước hết là dấu chỉ. Những sự vật sinh sản (cây đâm chồi nẩy lộc, trong dụ ngôn) cho phép các tín hữu suy diễn về sự gần kề của ngày giải thoát vĩnh viễn (mùa hè gần đến, trong dụ ngôn; và Triều Đại Thiên Chúa gần đến, trong lời giải thích). Nếu các sự việc này quy chiếu về các biến động trong vũ trụ xảy ra trước ngày quang lâm của Con Người, thì chỉ có thế hệ tín hữu cuối cùng mới bị liên hệ bởi sự gần kề của ơn cứu độ vĩnh viễn. Và nếu Chúa Giêsu chỉ đưa ra việc trời đất rung chuyển như là dấu chỉ và không đưa ra những điềm báo về sự sụp đổ của thần thánh, Ngài không mặc khải gì mà lại đã không được nói đến trong các bản văn Cựu Ước liên quan tới Ngày của Chúa (x. Is 13,10; Hg 2,6). Trong thực tế, dấu chỉ nằm nơi những biến cố lịch sử xảy ra trước ngày Giêrusalem bị tàn phá (xc.20). Về lệnh truyền “Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, đặc biệt thích hợp cho các kẻ bị bách hai (xc. 12tt); “Ngài không nói với các Kitô hữu vô danh sẽ còn sống vào lúc quang lâm cho bằng, một cách cụ thể hơn, với các người đương thời của tác giả Tin Mừng” (V.Fusco) và, qua họ, với tất cả các Kitô hữu sau này sẽ nghe hoặc sẽ đọc Tin Mừng thứ ba. Các thành viên trong Giáo Hội của Luca –rồi chúng ta hôm nay- phải sống trong sự xác tín rằng việc giải thoát họ thực sự đang tới, rằng nó đã gần rồi. Như lời Tông đồ Phaolô: “Hiện này, ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo… Ngày gần đến” (Rm 13,11-12).
Câu 32 trả lời một cách long trọng cho câu hỏi về ngày giờ: Mọi điều ấy sẽ xảy ra trong khi thế hệ này –đa số những người đương thời với Chúa Giêsu Nagiaret- vẫn còn sống. Từ ngữ “mọi điều” bao gồm toàn bô các biến cố tương lai đã được loan báo, kể và nhất là biến cố quan trọng nhất” (V.Fusco). việc quang lâm, nghĩa là những dấu chỉ là việc Con Người ngự đến, Luca không ngại ngần chi khi lấy lại lời truyền thống này mà không thêm bớt gì, ông cũng đã làm như thế ở 9,27 với lời liên hệ đến những kẻ sẽ không phải chết trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa, mạch văn cho phép quy chiếu về biến cố hiển dung, rồi về thời gian lý tưởng giữa biến cố Phục Sinh và Thăng Thiên. Câu 32 còn đi xa hơn: thế hệ đã chứng kiến biến cố Đền Thờ bị phá huỷ cũng phải biết đến ngày quang lâm. Việc quang lâm của Chúa Kitô vinh hiển bao trùm cuộc sống mọi tín hữu và không thể là biến cố thuộc về một tương lai xa xôi.
Để kết luận lời tiên tri của mình, Chúa Giêsu xác nhận thế giá và tính cách chắc chắn của lời hứa trước đây, cũng như của toàn bộ diễn từ cánh chung (c.33): chúng vững bền hơn vũ trụ (x.16). Nói thế rồi, Ngài đồng hoá lời của Ngài với lời Thiên Chúa mà Is 55,10-11 đã nhắc đến hiệu quả.
Diễn từ kết thúc bằng một lời huấn dụ tỉnh thức và cầu nguyện (cc. 34-35). Những chỉ thị đã được đưa ra cho các môn đệ rất rõ ràng: lời cảnh giác phải đề phòng khỏi các lo lắng, trong phần giải thích dụ ngôn hạt giống (8,14) và giáo huấn về thái độ thích hợp đối với của cải vật chất (12,22tt), cảnh cáo chống lại việc say sưa, trong dụ ngôn người quản lý trung thành (12,45-46). Về điểm này, tình trạng mà Giáo Hội của Luca phải đương đầu không khác gì tình trạng ở các cộng đoàn của Phaolô. Các chỉ thị được đưa ra ở 1Tx 5,4-8 –với cơ nguy, như ở đây, là ngày Phán xét đến bất thình lình đối với các tín hữu- và ở Rm 13,11-13 rất giống nhau. Sự ngủ mê đe doạ các cộng đoàn, bởi vì, trong Luca cũng như trong các thư của thánh Tông đồ, vang lên lời kêu gọi hãy tỉnh thức, hãy chỗi dậy.
Hai tảng đá ngầm đối nghịch nhau, nhưng lại phụ thuộc lẫn nhau, đang rình rập Giáo Hội: niềm hy vọng bồn chồn về ngày trở lại gần kề của Chúa Kitô (2Tx 2,1-3) và sự vỡ mộng, cơn cám dỗ buông trôi mọi hy vọng vào tương lai (x. 2Pr 3,4). “Càng nóng lòng trông đợi vào ngày quang lâm, càng đắng cay vì nỗi thất vọng” (Fusco); và các ảo tưởng là điều nguy hiểm cho đức tin. Rõ ràng đó là mối nguy thứ hai mà Luca sợ cho Giáo Hội của mình –cũng là mối nguy đe doạ các cộng đoàn Công giáo Tây phương chúng ta vào cuối thế kỷ XX này- và Luca phản ứng chống lại mối nguy ấy. Từ đó, ta thấy sự kiện Chúa Kitô nói tiên tri, tuy có phân biệt, nhưng không hoàn toàn tách rời việc Giêrusalem bị tàn phá khỏi ngày quang lâm. Cũng do đó, mà đã có những xác quyết: từ cuộc tàn phá này, sự giải thoát các tín hữu đang gần kề; mỗi tín hữu trong Giáo Hội của Luca –và mỗi người trong chúng ta- phải sống trong mọi lúc thế nào hầu có thể có sức mạnh… mà đứng vững trước Con Người.
Hôm nay, bắt đầu năm Phụng vụ mới. Sau thánh Máccô, giờ đây thánh Luca trình bày cho ta Mầu nhiệm của Đức Giêsu.
Ngay từ Chúa nhật đầu tiên này, chúng ta được đặt vào một biến cố “sớm hơn”. Thời gian Mùa Vọng là thời gian gợi lại việc Đức Kitô “đến”: Ngài đã đến tại Bêlem ngày Giáng sinh… Ngài đang đến trong mỗi biến cố, trong mỗi bí tích… Ngài sẽ đến vào Ngày cánh chung.
Đức Giêsu nói với các môn đệ biến cố Người quang lâm:
“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét….”.
Ở đây chúng ta tiếp cận với lối văn “khải huyền”. Loại văn chương này xuất hiện tại Israel, hai thế kỷ trước Đức Giêsu, và kéo dài sau đó một thế kỷ nữa. Lối văn Kinh thánh này tiếp theo thời kỳ ngôn sứ. Mọi hy vọng của các ngôn sứ đều đã đổ vỡ: dân Israel, thay vì được độc lập lại bị tháp nhập và chịu lệ thuộc các đế quốc ngoại giáo liên tiếp, khiến ta có cảm tưởng là lịch sử đã thoát khỏi bàn tay điều khiển của Thiên Chúa. Đó là một gai chướng, một thử thách cho đức tin. Do đó, trước hết, trào lưu khải huyền muốn phục hồi niềm hy vọng, bằng cách dù gặp thất bại, vẫn lớn tiếng hô lên sứ điệp của các ngôn sứ: Thiên Chúa là chủ tể lịch sử. Ngài sẽ chiến thắng: Chiến thắng trên sự dữ. Vì không ai biết chiến thắng sẽ được thực hiện như thế nào, nên người ta diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ, với những hình ảnh vũ trụ vĩ đại và lộng lẫy.
Theo kiểu nói truyền thống đó, ba khoảng không gian lớn đều bị rung chuyển: bầu trời, trái đất, biển cả. Sự lộn xộn ập xuống trên vũ trụ, để “tạo dựng” một thế giới mới. Ta có thể so sánh với Isaia (13,9-10.34, 3-4), trong sách đó tác giả cũng dùng những hình ảnh thảm lại để diễn tả sự sụp đổ của Babylon: đó là một bằng chứng nói lên, ta không được hiểu những hình ảnh đó theo mặt chữ. Các vì sao sẽ “từ trời rơi xuống”, “mặt trời sẽ không còn chiếu sáng nữa”, là cách nói nhằm diễn tả Thiên Chúa là chủ tể. Cũng đừng quên rằng, phần lớn các dân tôc phương Đông cổ đều thờ các tinh tú như những thần linh ngự trên cao, điều khiển thế giới và quyết định số phận con người. Và ta nghĩ đến khoa tử vi cùng chiêm tinh học hiện nay vẫn còn ăn khách. Nếu “chủ dân”, các “goim”, tôn thờ các tinh tú như các thần linh mới, thì Israel trong truyền thống khải huyền của mình đã tuyên bố rằng, sẽ có ngày những thần linh này bị tiêu tan một cách thê thảm: các vì sao, mặt trời sẽ rớt xuống… không có thần nào khác, ngoài Thiên Chúa!
Chính Luca cũng không ngần ngại sử dụng thứ ngôn ngữ khải huyền này, để ghi lại một cuộc nhật thực vào lúc Đức Giêsu tắt thở trên thập giá (Lc 23,44): đó là cách nhấn mạnh rằng, nhớ biến cố lịch sử tại đồi Golgotha, Thiên Chúa đã dứt khoát can thiệp vào lịch sử loài người: Đức Giêsu sẽ đến trên mây trời! Thế giới cổ xưa qua đi, một thế giới mới đã khai sinh! Thập giá, đó là cuộc chiến thắng, là vinh quang của Ngài, mà buổi sáng Phục sinh sẽ làm bừng dậy cách công khai trước một thái dương mới.
Muôn dân sẽ lo lắng hoang mang… Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.
Hơn thánh Máccô trong đoạn văn tương tự, mà cách đây mười lăm hôm ta đã được nghe, thánh Luca nhấn mạnh đến phản ứng của con người trước những biến cố như dấu chỉ: nghĩa là nhắm đến thảm kịch của con người hơn là một xáo trộn có tính vật chất. Con người thuộc mọi thời đại con người thời nay cũng như con người thời đó, thường có khuynh hướng xóa bỏ “thời gian”, coi thời gian như cái gì không an toàn. Chúng ta không thích “biến cố”, nghĩa là sự kiện bất ngờ, điều không dự kiến được. “Điều gì sẽ xảy ra?”. Những gì ta không biết trước luôn luôn đáng sợ.
Do đó, mới có những khuynh hướng bảo thủ, duy truyền thống, cố làm mọi cách để không gì “xảy đến”, không gì “thay đổi” cả.
Vì thế, toàn bộ Kinh Thánh thường lặp lại cho chúng ta rằng, “biến cố” là cuộc “thần hiện” của Thiên Chúa: Người hiện đến, Người can thiệp qua các biến cố. Chẳng hạn, vì Đức Giêsu đã báo trước, nên việc phá hủy thành Giêrusalem và Đền Thánh, là một biến cố đáng sợ, dễ gây hoảng hốt… tuy nhiên, cũng là “dấu chỉ” báo hiệu Đức Giêsu sẽ “đến trên mây trời” ‘ Như thể ngày nay ta loan báo một cuộc cách mạng sẽ phá hủy Vatican và các vương cung thánh đường trong một cuộc thánh chiến! Hơn nữa, cũng không thiếu những ngôn sứ luôn tuyên sấm giáng họa, đưa tin về những tai ương tương tự hay còn tệ hại hơn: nào là hiểm họa nguyên tử, nào là nạn nhân mãn, ô nhiễm lan tràn… nhiều ý thức hệ hiện nay chỉ nhằm khai thác sự sợ hãi tự nhiên này của nhân loại. Phải chăng Đức Giêsu chỉ là một trong những “ngôn sứ tuyên sấm giáng họa” trên, khi lợi dụng sự sợ hãi để tranh thủ những kẻ ủng hộ mình?
Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy con người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.
Đức Giêsu không khai thác, nhưng giải gỡ cho ta sự sợ hãi đó. Những “biến cố” gây xáo trộn, không kết thúc mọi sự, không chỉ là khởi đầu cho một thế giới khác… chỉ báo trước một cuộc gặp gỡ. Ngược lại với sự sợ hãi của con người, ở đây xuất hiện hình ảnh rực rỡ của Con Người trong chính vinh quang của Thiên Chúa. Ta biết rằng, Đức Giêsu sử dụng “thị kiến của Đa-ni-en” (Đn 7,18-14)… nhưng thay đổi hoàn toàn. Triều đại của Thiên Chúa nhu Đa-ni-en mong đợi, phải chiến thắng các địch thù của Israel bằng một thứ can thiệp mãnh liệt và kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử. “Con người” tượng trưng cho “dân thánh của Đấng Tối Cao”, sẽ đến “từ trên đám mây trời”. Thế nên, Đức Giêsu tự đồng hóa với Con Người đó. Nhưng thoạt đầu, Ngài không xuất hiện như một hữu thể từ trời: Ngài là con của Đức Maria. Ta biết rõ xuất xứ của Ngài. Ngài không hiện diện “trong đám mây” Ngài hoàn toàn chia sẻ thân phận con người như mọi người trên trần gian. Và đúng ra, chỉ khi chết trên thập giá, Ngài mới thực sự bước vào trong Thế Giới Mới của Đấng Phục sinh đầy vinh quang và uy quyền… như Ngài đã tiên báo khi bị xét xử trước Thượng Hội Đồng Do Thái (Lc 22,69). Không xóa bỏ lịch sử, cái chết thảm hại của Đức Giêsu thực sự đã trở nên “điểm xuất phát” của một lịch sử mới. Mùa Vọng là thời gian của một cuộc khởi hành mới. Bản văn trên nhắc nhở chúng ta điều đó.
Khi những biến cố đó bắt đầu xảy ra anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên…
Vậy Khải Huyền (trong tiếng Hy Lạp, từ này có nghĩa là “mạc khải”), đúng là một sứ điệp hy vọng. Chúng ta ghi nhận hai thái độ tương phản. Trước những tai họa bên ngoài, là cuộc Quang lâm của Đức Giêsu. Trước sự hốt hoảng của dân ngoại, là thái độ “đứng thẳng” của các tín hữu. “Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc… thì anh em hãy ngẩng đầu lên”. Sư tương phản này còn rõ nét hơn trong toàn bản văn, khi ta đọc tới dụ ngôn khá đặc sắc: “cây vả báo hiệu mùa tươi đẹp” (Lc 21,29-30).
Vì anh em sắp được cứu chuộc…
Đối với nhiều người, điều xuất hiện như một thứ hủy hoại sự kết thúc cuộc đời của Đức Giêsu trên thập giá, kết thúc thành Giêrusalem, kết thúc đời mỗi người qua cái chết, chấm dứt các nền văn minh, chấm dứt thế giới, nghĩa là mọi “biến cố” đều mang tính chết chóc, thì đối với Đức Giêsu và đối với các tín hữu là những kẻ tín thác vào lời Ngài, lại chính là khởi đầu cho công cuộc cứu độ. Đó là khẳng định trọng tâm của Đức tin: Mầu nhiệm Phục sinh… mầu nhiệm chết đi để được sống!
Từ “Cứu chuộc” rất thông dụng trong thư của Thánh Phaolô (1 Cr 1,30 – Rm 3,24-8,23 – Cl 1,14) nhưng trong các Tin Mừng, chỉ thấy dùng ở đây. Ta cũng biết, Luca là đệ tử của Phaolô mà! Từ “Cứu chuộc” được dịch từ “Redemptio” của Latinh. Nhưng nếu để ý đến từ gốc của tiếng Hy Lạp “apolutrosi”, người ta thường dịch là “giải thoát”. Như thế, Mùa Vọng là thời giải thoát đã đến gần. “Anh em sắp được giải thoát! Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên!”.
Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chèn chén say sưa, lo lắng sự đời kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em.
Sau những lời khuyên khơi dậy hy vọng và tin tưởng, bây giờ đến một lời khuyên giúp đề cao cảnh giác. Đừng để Đức Giêsu bất thần hiện đến, nhất là khi Ngài đến lần cuối cùng. Lòng chúng ta có nguy cơ trở nên nặng nề, vì những lo âu và vì đời sống quay cuồng, vì quá bận tâm đến thế trần và vật chất, Đức Giêsu nói như thế.
“Oi dân của Ta, ngươi đã ra nặng nề. Quá nhiều đồ ăn thức uống làm bụng ngươi trương lên. Quá nhiều đồ vật chi phối ngươi. Quá nhiều an toàn đang trói buộc ngươi. Quá nhiều hư ảo đang xâm chiếm ngươi. Quá nhiều ngu xuẩn đang chất đầy trên ngươi. Quá nhiều ảo ảnh đang làm ngươi bối rối. Ôi dân Ta, ngươi đã quá nặng nề. Hãy trở lên nhẹ nhàng hơn. Hãy sẵn lòng ra đi” (Ch. Singer).
Nên đề ra một chương trình tốt đẹp cho Mùa Vọng: đó là thời gian làm cho mình ra nhẹ! Đó là thời gian “cõi lòng nhẹ nhõm hơn”. Bạn hãy giải thoát mình khỏi lo lắng thái quá về ăn uống! Những lời trên đây có thể được viết cho thời đại chúng ta, cho nền văn minh hưởng thụ chiếm hữu của ta.
Ngày ấy như một chiếc lưới, sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.
Tôi đừng để mình bị “chộp bắt” bất thần, như con thú sa lưới. Hãy “tỉnh thức”, luôn sẵn sàng, luôn cảnh giác. Việc không biết ngày nào sẽ “xảy đến”, không thể đặt ta nằm trong trạng thái thụ động biếng trễ, nhưng làm cho ta trở thành những con người “đứng thẳng” trong mọi lúc! Qua những lời trên, Đức Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta rằng, mỗi ngày đều có thể là ngày Chúa đến! Và cầu nguyện, trong viễn tượng đó, là một thứ “canh phòng”, chứ không phải là một chạy trốn, một biếng trễ: Hỡi người canh gác, bạn nhìn thấy bình minh đến chưa? Bạn có nhận thấy Đức Kitô đến không? Bạn có rình chờ những “dấu chỉ” loan báo Ngài đến? Bạn đừng ngủ mê’! Mỗi khi cử hành Thánh Thể là một chuẩn bị trước cho ngày đó, “cho tới khi Chúa đến”. Maranatha? Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Mùa Vọng là thời gian mong đợi.
SỐNG TRONG MỘT THẾ GIỚI MAU QUA
HÃY TIN RẰNG MỘT THẾ GIỚI MỚI ĐANG ĐẾN
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Bài Phúc Âm hôm nay giống như trích đoạn song hành trong Phúc Am Máccô mà ta đọc vào Chúa nhật 33 thường niên năm B. Trước vẻ đẹp hùng vĩ và tráng lệ của Đền Thờ Giêrusalem, các môn đệ không ngớt lời trầm trồ khen ngợi và muốn Thầy mình cùng chia sẻ lòng thán phục, thì Đức Giêsu lại nhân cơ hội này nói lên một bài dài về con đường dẫn đến cuộc giải thoát.
Lời lẽ của bài diễn từ có thể gây kinh hoàng cho con người thời nay, nhưng lại rất quen thuộc với những người sống cùng thời với Đức Giêsu. Đó là lối văn bàng bạc trong từng trang Kinh Thánh mà người ta thường sử dụng để củng cố lòng tin của các tín hữu trong những giờ phút gian truân khốn khó: lối văn “Khải Huyền” muốn “vén bức màn” (đó là nghĩa của từ “apocalypse” = mạc khải) để hé mở cho ta thấy rằng mặc dầu sự thể bên ngoài có trắc trở thế nào, thì Thiên Chúa vẫn đang âm thầm hoạt động ngay trong hoàn cảnh đó. Việc mô tả quá quen trong lối văn chương này – “mặt trời ra tối tăm”, “mặt trăng không còn chiếu sáng”, “các vì sao từ trời rơi xuống”, “các quyền lực trên trời bị lay chuyển”… chỉ là một cách loan báo cuộc chiến thắng cuối cùng của Chúa vào ngày tận cùng của lịch sử.
Thể văn của bài diễn từ và ngay cả từ “Khải Huyền” đều là điều kỳ bí đối với độc giả thời nay – Hugues Cousin nhìn nhận: từ “Khải Huyền” do từ Hy Lạp apocalypsis có nghĩa là “vén màn” cho thấy điều bí mật ẩn khuất bên trong. Tại sao “vén màn” những biến cố liên quan tới Cánh Chung, những biến cố đi theo liền sự sụp đổ của thế giới cũ – thế giới của chúng ta để hướng tới thế giới mới?
Câu trả lời có cơ sở, đó là một niềm xác tín sâu xa trong Kinh Thánh rằng lịch sử các dân tộc không phải vô nghĩa, bới lẽ Thiên Chúa dẫn dắt lịch sử ấy tới một cùng đích được sửa soạn chu đáo. “Người sẽ cư ngụ cùng mới họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,3-4). Đó chính là cuộc giải phóng chung cuộc vĩnh viễn của lịch sử nhân loại”
2…. là Tin Vui loan báo việc Chúa quang lâm.
Chính trong bối cảnh một vũ trụ đổi mới, không còn một chướng ngại nào mà Đức Giêsu trong Luca cũng như trong Máccô, loan báo Tin Vui xuất hiện Vương quốc hòa bình và công chính của Người vào lúc thời gian kết thúc. Ở đây Người coi mình như nhân vật kỳ bí của sách Đanien (bài đọc 1, Chúa nhật trước) là “Con Người” ngự giá mây trời mà đến cho đất trời cùng mở hội giao duyên.
Nhưng trong ngày ấy, kẻ sinh ra từ thế giới mới sẽ là người tuyệt vời, chính người ấy đang hình thành, “đang tiên đến gần”. Thế nên người có lòng tin phải “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”. Lệnh Chúa mà thánh sử truyền lại không phải chỉ được gởi đến cho những Kitô hữu vô danh nào đó còn đang sống vào lúc Đức Giêsu trở lại; thánh sử cũng gởi đến cho các Kitô hữu thời ngài, đang là đối tượng của những cuộc đàn áp khủng khiếp đầu tiên, sau khi đã ngao ngán chứng kiến cảnh đổ nát của Đền thờ Giêrusalem; sau cùng, thông qua những tín hữu kia, “ngài gởi đến cho mọi kẻ có lòng tin mà sau này sẽ nghe hoặc sẽ đọc Tin Mừng thứ ba. Những giáo hữu của giáo đoàn thánh Luca – rồi (chúng ta hôm nay – đều phải sống với niềm tin chắc chắn rằng (công cuộc giải phóng họ thực sự dang tiến hành, đang gần kề” (H. Cousin, sđd, trg 282).
Được phấn khởi vì Tin vui về một Thế giới mới sẽ tỏ hiện vào lúc tận cùng thời gian và ngay từ lúc này không những hình thành trong giòng lịch sử của đời ta, người môn đệ Đức Kitô sẽ không được phép ngủ mê hay sống tiêu cực mà phải “tỉnh thức”, phải “cầu nguyện luôn” để có thể “đứng thẳng” (tâm tình kinh nguyện phụng vụ ngày Chúa nhật phục sinh) vào ngày Chúa trở lại trong vinh quang đem lại sự giải thoát dứt khoát và toàn vẹn.
BÀI ĐỌC THÊM
Phải có những biến cố hãi hùng, để ta tin rằng: Chúa đang có mặt ở đó chăng? Để cho con người quay trở về với Chúa, có phải cần đến những tai ương làm sớn tóc gáy mọi người chăng? Có những giáo phái thích chủ trương phải có những tai họa như thế để thuyết phục người ta tin rằng “Có Chúa”. Phải chăng cũng có những tín hữu muốn nghĩ rằng vì người ta sợ hãi nên mới tin, hoặc vì con người bỏ quên Chúa, nên người mới giáng xuống những tai họa để trừng phạt họ đấy sao?
Thế ra Thiên Chúa của Đức Kitô là một Thiên Chúa hay trả thù. Thế ra Người chỉ nhằm gây tai họa cốt để cho người ta khám phá ra Người sao?
Đức Giêsu mượn những hình ảnh ghê rợn kia trong một loại văn chương của thời đại Người là lối văn “Khải Huyền”, không phải để loan báo sự tận cùng, sự chấm dứt mọi sự, nhưng là để loan báo cho mọi người biết một Tin Vui là Đấng Cứu độ đang đến. Đồng thời, để mời gọi mọi người đứng sẵn ở cửa, tỉnh thức và sẵn sàng đón tiếp Người. Còn Người thì lúc nào cũng vẫn đến. Khi mầm của hạt giống làm nứt vỏ hạt, người ta không nói là hạt chết, mà là sống. Khi những mảnh lá non hay những cánh hoa chọc thủng phần ngoài của nụ hay chồi, không ai nói đó là một sự xé rách, hay phá hoại, nhưng là vẻ đẹp.
Nào, vậy thì mời bạn hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên. Hãy nhìn đi, hãy chiêm ngưỡng đi? Chúa đang đến đây nè”.
(G. Boucher, trong “Le ciel sur terre”)
“Giờ phút kinh hoàng đã điểm. Người ta sẽ thấy núi phun lửa ầm ầm nhả ra những dung nham nóng chảy, trái đất nứt nẻ, biển cả gào thét, gió xoáy điên cuồng, nhà nhà sụp đổ. Người ta sẽ thấy đất trời rung chuyển, mặt trời ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống.. Tắt một lời đó là quang cảnh báo trước ngày tận thế. Và toàn thể nhân loại đều phải phập phồng lo sợ cho cái giờ phút hãi hùng ấy.
Tiếp theo những hiện tượng kinh khủng của trời đất, thì này đây bừng lên một cảnh tượng thật là thanh bình và hoành tráng khi con người xuất hiện. Giống như xưa giữa cơn phong ba bão táp, thì giờ đây một con người cũng đứng lên ra tay uy quyền dẹp yên sóng gió.
Cái bề ngoài từng là chết chóc, tai họa lại đang báo trước cảnh thanh bình và hoàn tất mỹ mãn.
Núp ẩn trong nhà ư? Độn thổ ư? Sống mà sợ hãi ư? Không đây sẽ là ngày để ta đứng thẳng dậy, tiến bước, mắt ngước lên, đầu ngẩng cao. Đây sẽ là khúc nhạo dạo đầu chào mừng một thế giới mới bước vào vô biên.
Đó sẽ là nơi “cư ngụ” vĩnh viễn, là nhân loại đã hoàn thành.
Như vỏ trứng tự nứt nẻ để gà con nở ra thế nào, thì trời đất đại dương cũng sẽ tự vỡ ra như vậy để cho Con Người xuất hiện, và nhân loại mới cũng cùng xuất hiện với Con Người.
Trong cảnh hỗn mang này, thực ra Chúa chỉ muốn đưa ra cho ta một lời mời gọi này mà thôi: hãy chế ngự nỗi sợ hãi để niềm tin được thảnh thơi. Hãy sống những thực tại của con người như là những giai đoạn dẫn đưa ta vào thời ân sủng và vinh quang. Hãy lấy đức khôn ngoan mà phân định điều gì xảy đến với con người, giữa các dân tộc, và ngay trung tâm các yếu tố của thế giới.
Và rồi hãy để cho đời sống và lịch sử của ta mở ra, hướng đến nguyện cầu. Nghĩa là hãy nhận ra và tìm gặp được, ngay trong những giây phứt quay cuồng của cuộc sống, sự hiện diện ân cần và thân thương của Chúa Cha, lời Chúa Con mời gọi ta hướng dẫn những biến cố theo chiều hướng đi lên và hoàn bị, sự nhạy bén đối với Chúa Thánh Thần, Đấng hằng khơi gợi lên từ muôn dân trên mặt đất, những con người luôn ấp ủ niềm hy vọng mà không sợ hãi.
Một khi Thiên Chúa làm cho lịch sử kết thúc như vậy rồi, thì một người sẽ xuất hiện trong quyền lực và vinh quang. Bấy giờ nhân loại sẽ đứng thẳng lên, ngỡ ngàng phát hiện ra rằng dẫu sao mình cũng đã dự phần làm cho thế giới nên hoàn bị.
Dáng vẻ bên ngoài có thể che khuất thực tại. Vẻ đẹp của đá hoa cương và tòa nhà có thể khiến khách tham quan chỉ chú ý đến vẻ lộng lẫy kia mà không nhận ra cái gì là quan trọng.
Đền đài hay Đấng ngự trong đền đài, cái nào quan trọng? Nếu việc loan báo sự kết liễu Đền thờ Giêrusalem có gợi được sự quan tâm, thì phải chăng cũng chỉ là để cho người ta chăm chú đến cái cốt lõi, sự Hiện diện? Cái kết thúc không được làm cho ta quên đi cái Hiện tại, cũng như cái hiện tại mau qua kia không được gây trở ngại cho việc chiêm ngưỡng Đấng chẳng hề qua đi. Hãy đón nhận những gì được ban cho ta lúc này, chứ đừng thả mồi bắt bóng. Vậy phải đợi xảy ra những biến cố kinh hoàng như chiến tranh, động đất, địch tễ và chết đói. Phải đón chờ sự sợ hãi và kẻ loan báo nỗi hãi hùng kia rồi mới lắng nghe tiếng đang nói đang mời gọi ta hôm nay chăng? Chính không phải cái giờ phút ấy, cũng chẳng phải những tiếng nói tiên báo tương lai kia mà ta phải chờ đợi. Điều quan trọng hơn cả vẫn chính là tiếng đang nói hôm nay, chỉ một tiếng nói đó mới nói thật rằng “Chính Ta đây” hoặc “Ta đây”. Chỉ ngày hôm nay, chứ không phải ngày mai, “giờ khắc ấy đã đến gần” rồi. Còn ai nữa đâu mà chờ đi theo?”.
Bài Phúc Âm về Ngày Quang Lâm của Con Người thích hợp cách đặc biệt với Chúa nhật I mùa Vọng này. Phụng vụ mời gọi ta đi vào cuộc hành trình của dân Chúa tiến về cuộc giá lâm đầu tiên của Chúa Cứu thế: một hành trình chậm chạp, tối tăm và đau đớn, trong đó chúng ta phải luôn luôn tìm biết thế nào là niềm hy vọng của chúng ta, những thái độ cụ thể, những khó khăn, và sức mạnh vô địch của niềm hy vọng đó.
Nhưng Giáng sinh đã hoàn thành trong khó nghèo và mừng vui của Belem rồi. Chúa đã mang đến cho chúng ta tin mừng của Ngài và đã đưa chúng ta vào trong Giáo hội của Ngài. Nếu chúng ta nhắc lại cuộc giáng lâm khiêm tốn đầu tiên, đó là để hướng về cuộc quang lâm chung cục của Con Người trong quyền năng và vinh quang.
Cuộc giá lâm đầu tiên đã khiến mỗi người trong Israel tỏ thái độ theo hay chống Chúa Giêsu (Lc 2,34-35). Thì nay ở mỗi thế hệ cho đến tận cùng lịch sử, mỗi người đều được kêu mời chọn lựa như thế. Nhờ đức tin, chúng ta đã làm một cuộc quyết tuyển căn bản, tuy nhiên chúng ta vẫn biết rằng trong chúng ta còn ít nhiều khu vực bất tín. Phúc âm kêu mời ta tiêu trừ chúng: hãy quay về Chúa đang đến, hãy tỉnh thức, bấy giờ anh em sẽ sẵn sàng tiếp đón Ngài và đi vào trong nước Ngài.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Đối với Chúa, không bao giờ như vậy. Ngài không cho chúng ta thấy thành quả tốt đẹp nào, Ngài không vỗ về ta bằng bất cứ tiến bộ nào. Trái lại, Ngài đẩy ta tới trước, hướng về ngày Ngài đến với những tai ương bi thảm tiên báo. Cho dù những trình bày thảm khốc đó không muốn mô tả cách khoa học những sự kiên thực tế. Tuy nhiên, qua ngôn ngữ của tưởng tượng và thi phú, chúng cũng gợi lên được một cách mạnh mẽ việc quang lâm gần kề của Chúa Kitô. Và việc quang lâm đó sẽ tạo ra một sự đảo lộn sâu xa trong toàn thể lịch sử con người. Chính đó là điều mùa vọng này muốn nhắc nhở ta: khi khơi lại kỷ niệm của việc giáng lâm đầu tiên, nó tích cực chuẩn bị ta cho cuộc quang lâm ngày sau hết.
Nhưng một trật, Đấng phải đến lại mang danh hiệu “Con Người”. Như danh hiệu bí ẩn này, mượn ở tiên tri Đanien, gợi lên Đấng phải đến là một nhân vật mầu nhiệm, từ một thế giới khác. Vì thế, việc Chúa đến được coi như sự hòa hợp, sự gặp gỡ giữa khát vọng con người và công cuộc của Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Năm phụng vụ lại bắt đầu bằng một lời cảnh cáo: hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Mùa vọng lại tới, nhân loại không còn chờ đợi lễ Giáng Sinh như dân Do Thái xưa. Nhân loại và mỗi người đang chờ đợi Đức Kitô lại đến để hoàn tất công trình cứu độ nơi con người, nơi toàn thể thế giới, nơi mọi dân tộc, mọi nước, mọi người. Lời cảnh cáo của Chúa Giêsu trong Tin Mừng chúa nhật hôm nay không chỉ dành riêng cho các môn đệ nhưng là chung cho mọi người chúng ta ngày hôm nay.
Chúa Giêsu kêu mời nhân loại, gọi mời mỗi người hãy coi chừng, tỉnh thức. Lời kêu mời này không có ý làm cho con người phải chìm đắm trong sầu đau, thử thách, nhận chìm trong bóng tối, tội lỗi. Lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu mang một tầm vóc hết sức lạc quan. Chúa đã có mặt trong lịch sử nhân loại, Chúa đã hiện diện nơi mỗi người. Chúa đã giang tay ra để gánh lấy tội lỗi cho nhân loại. Tội lỗi đã bị đánh tan nhờ cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu. Chúa đã mang sự sống mới cho nhân loại. Hãy tỉnh thức để nhận ra tất cả những cái mới mẻ đó để nhập cuộc, để vui sống, để chia sẻ…Tuy nhiên, đọc Tin mừng, ta vẫn bắt gặp vô số những người đang mê ngủ, họ không biết tỉnh thức để nhận ra những cái tiến bộ, những cái mới mẻ của lịch sử, họ luôn suy nghĩ theo lề lối cũ, theo định kiến hẹp hòi.
Các người Biệt phái, các Thượng tế, Luật sĩ và Kỳ mục luôn mê ngủ trong sự tự mãn về sự thông hiểu của họ về Thánh Kinh. Dân thành Giêrusalem cũng tự ru ngủ trong thói quen, sợ dấn thân nhập cuộc, nên họ đã sống ngoài biến cố Con Thiên Chúa làm người. Chúa Giêsu như vị cứu tinh họ mong đợi nhưng họ lại không nhận ra Ngài, họ không muốn chấp nhận Ngài. Họ đã không nhận ra Chúa Giêsu, nhưng lại tìm cách giết Ngài. Họ không chấp nhận nghe tiếng Ngài, không chấp nhận lối sống, cách cư xử xem ra đi ngược với họ. Họ thực là những con người đang mê ngủ. Trong khi đó những con nngười nhỏ bé, những người thu thuế, những cô gái điếm lại có khả năng nhận ra tiếng hát các thiên thần, của ánh sao, của dấu lạ để cuối cùng họ nhận ra Đấng Cứu Thế nơi một Hài Nhi Giêsu đặt trong máng cỏ hay nơi một Chúa Giêsu bị treo trên thập giá. Tỉnh thức có nghĩa là dấn thân, đi vào lịch sử để nhận ra những cái mới, những biến chuyển lạ lùng nơi những con người đã được cứu chuộc, nơi những người là Con Thiên Chúa, là anh em với nhau.
Mùa vọng không chỉ có nghĩa là nhớ lại việc Chúa sinh ra như những người Do Thái đã sống. Mùa vọng là thời gian để chúng ta tưởng nhớ việc Đức Giêsu sẽ trở lại ngày cuối cùng để phán xét, thời gian chúng ta ít mong đợi nhất. Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta kiểm điểm xem cuộc sống của chúng ta làm sao. Mùa vọng là thời gian chúng ta hồi tưởng lại xem chúng ta đã sẵn sàng
đón tiếp Chúa đến phán xét chúng ta lúc chúng ta còn ở trần gian, chúng ta đã sống dấn thân và mở mang Nước Chúa như thế nào. Đây là sứ điệp các bài đọc Chúa nhật hôm nay muốn nhắc nhở: Chúa Giêsu Đấng đã tới trần gian các đây hơn 2000 năm, sẽ trở lại vào ngày cùng tận lúc chúng ta không ngờ. Khi Ngài trở lại, Ngài sẽ xét xử mỗi người tùy theo khả năng và tùy theo nén bạc Chúa đã trao phó cho sinh lợi.
Mỗi người chúng ta hãy tỉnh thức, cầu nguyện, xin Chúa giúp mỗi người chúng ta trung tín và kiên vững trong công việc Chúa trao phó:
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sức mạnh, xin ban cho chúng con tình yêu, xin ban cho chúng con đôi mắt tinh anh, xin ban cho chúng con chính mình Ngài để chúng con luôn sẵn sàng dấn thân nhập cuộc mà không hề thất vọng chán nản và không bao giờ an nghỉ cho tới khi được Chúa an nghỉ trong chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Cuộc đời con người là một sự đợi chờ liên lỉ. Ai mà chẳng đợi chờ. Có những việc đợi chờ làm con người sốt ruột, nôn nao, căng thẳng. Có những sự đợi chờ làm con người vui tươi, hạnh phúc như chờ đợi kết quả cuộc thi mà ta nắm chắc đậu một trăm phần trăm hay chờ đợi mẹ đi chợ về mua quà, mua đồ chơi cho ta. Tất cả đời người đều là một cuộc đợi chờ: đợi chờ trong hy vọng, đợi chờ trong niềm tin và đợi chờ trong thất vọng ê chề. Mùa vọng là mùa đợi chờ. Các Kitô hữu hướng về niềm vui gần mong đợi ngày giáng sinh, ngày Chúa đã đến để khai mở Nước Thiên Chúa và hướng về ngày cùng tận, ngày cánh chung, Chúa sẽ đến để phán xét kẻ lành kẻ dữ.
Tin Mừng thánh Marcô căn dặn:” Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến “. Chúa lay tỉnh con người, Chúa nói với con người phải tỉnh thức. Ở đây, tỉnh thức có nghĩa là mau mắn, sẵn sàng, không được thụ động ngủ vùi. Thái độ tỉnh thức phải là thái độ của năm cô trinh nữ khôn ngoan, đem dầu nhưng còn cẩn thận mang cả dầu nữa…Tỉnh thức như người đầy tớ thức trắng đêm vì ông chủ trở về bất ngờ. Tỉnh thức làm lợi như người được chủ giao 5 nén, 2 nén và 01 nén. Tỉnh thức như cụ già trong một câu chuyện: ” Hằng ngày ông cụ cứ ngồi trên xích đu mà chờ Chúa đến “. Chúa đến đột xuất, bí mật, bất ngờ nên Kitô hữu luôn phải có thái độ sẵn sàng để đón chờ Chúa đến. Trong bài đọc I, ngôn sứ Isaia cầu khẩn, van nài cùng Thiên Chúa:” Vì tình thương…xin Ngài mau trở lại. Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống “. Đây là ước mong, là khát vọng của mọi người. Con người, loài người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, nên con người mong chờ ơn cứu chuộc của Chúa. Bài đọc II, thánh Phaolô đã cảm tạ Chúa vì Chúa thương ban cho cộng đoàn Corintô dồi dào ơn Chúa trong khi mong chờ Chúa Kitô tái giáng lâm, và thánh Phaolô cũng khuyên nhủ họ tiếp tục sống tốt, tuân theo lời Chúa để khỏi bị Chúa khiển trách khi Chúa Kitô lại đến. Do đó, Tin Mừng hôm nay kêu mời con người phải có thái độ tích cực tỉnh thức, nghĩa là phải trở về với lòng mình, phải trở về với Chúa để gặp Ngài và luôn phải bám chặt lấy Ngài.
Chờ đợi Chúa không có nghĩa là cứ đọc dăm câu kinh hay đi nhà thờ cho có lệ là đủ rồi, là nắm chắc phần thắng Nước Trời thuộc về mình. Ngôn sứ Isaia kêu mời những con người tội lỗi hãy mạnh dạn quay về với Thiên Chúa bởi vì chính vị ngôn sứ đã níu chặt lấy Chúa, van nài Chúa tha thứ lỗi lầm cho dân. Tỉnh thức ở đây không có nghĩa là khi chủ về thì họ đã mệt mỏi, nên li bì ngủ tiếp. Tỉnh thức ở đây là người tín hữu phải dọn mình xứng đáng để chờ gặp Chúa. Quả thực, Chúa đã đến và Chúa đang ở giữa nhân loại, ở giữa chúng con, hằng giây hằng phút Chúa hằng mong muốn đến với chúng con và ở với chúng con kia mà. Vấn đề của chúng con, của người môn đệ Chúa có chuẩn bị đón tiếp Chúa, có sẵn sàng để Chúa ở với mình hay không? Chỉ có một cách chờ đợi tốt nhất là tỉnh thức và cầu nguyện. Điều làm người môn đệ xa Chúa là không ý thức, không chuẩn bị, ngủ mê trong những ích kỷ, ươn hèn, lười biếng của mình bởi vì người môn đệ, loài người quá yêu mình đến nỗi đã quên Chúa, đã mất ý thức về Chúa.
Để chờ đợi Chúa đến, các Kitô hữu phải có tâm tình thống hối thật sự, phải biết biến đổi nội tâm, tái Phúc Âm tâm hồn và biết làm những việc tốt đẹp theo con đường của Chúa. Người mộn đệ Chúa phải biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại, phải biết nhận diện Chúa trong từng phút giây của cuộc sống, nhận rõ Chúa vì chỉ có Chúa mới là nguồn sống, là thuẫn đỡ chở che, là gia nghiệp đời đời của con người. Nhận rõ Chúa cũng có nghĩa là từ bỏ con người xấu xa tội lỗi để mặc lấy Chúa Kitô và như thánh Phaolô:” Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “. Nhận ra Chúa là biết từ bỏ những dục vọng, những ham mê, những ham muốn bất chính, những tham lam mù quáng lôi kéo con người xa Chúa.
Nhiều Kitô hữu được rửa tội nhưng lại không hiểu biết giáo lý sâu xa, không hiểu thế nào là Đạo, thế nào là Chúa. Chính vì thế, họ thiếu tỉnh thức và cầu nguyện. Họ luôn chạy theo những trào lưu mới của thời đại, đặc biệt thế giới đang đi tới chỗ toàn cầu hóa, con người dễ chạy theo lợi nhuận, chạy theo tiền bạc, vật chất mà quên mất Chúa. Con người chỉ có thể gặp Chúa khi họ sẵn sàng tỉnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan và như nguời khôn xây nhà trên đá.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết từ bỏ những gì là không đẹp lòng Chúa để chúng con càng ngày càng trở nên xứng đáng hơn hầu sẵn sàng đón Chúa ngự vào đền thờ tâm hồn chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb)
Chúa Giêsu cùng các Tông đồ đang ở tại khuôn viên Đền thờ Giêrusalem. Có người chỉ Đền thờ và trầm trồ khen ngợi về kiến trúc của ngôi Thánh Đường. Chúa Giêsu nhân đó đã tiên báo cảnh sụp đổ của Đền thờ – xảy ra vào năm 70, do tướng Titus phá hủy. Kế đó các Tông đồ hỏi Chúa về các sự việc ấy xảy đến và vào thời chung cuộc thì có những điềm báo gì? Đáp lại, Chúa Giêsu tiên báo hàng loạt những việc bách hại sẽ xảy đến cho các Tông đồ cũng như cho những ai tin vào Thiên Chúa. Đồng thời Ngài cũng nhận rằng ngày đó là ngày nào thì không ai biết được, chỉ có Chúa Cha biết được mà thôi (x. Mc 13, 1-32). Và để kết luận, Chúa đã dạy cho các Tông đồ biết phải sẵn sàng để chờ đợi ngày đó như được nói đến trong Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng này.
Tin mừng hôm nay chỉ vắn gọn trong năm câu, nhưng có đến bốn lần Chúa Giêsu dùng từ “canh thức” và một lần dùng từ “tỉnh thức” cũng đủ nói lên tính khẩn trương của việc chuẩn bị chờ đón ngày Chúa đến. Các Tông đồ muốn biết ngày đó là ngày nào và sẽ xảy đến ra sao, bởi các ông cho rằng sẽ là hợp lý khi biết trước để tránh, biết trước để chuẩn bị vẫn tốt hơn ở thế bị động. Chúa Giêsu không thể khẳng quyết chính xác ngày đó là ngày nào bởi nó nằm trong sự quan phòng của Chúa Cha. Điều Người có thể khẳng quyết cách chắc chắn rằng ngày đó- không sớm thì muộn, nhất định sẽ xảy đến. Khi khẳng quyết như thế, Chúa Giêsu không làm gì khác hơn là khuyên nhủ các Tông đồ hãy thanh thản sống giây phút hiện tại một cách có ý nghĩa. Sống giây phút ấy trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, trong sự tỉnh thức thật nhậy bén cũng như dùng giây phút hiện tại để dấn thân cho Tin mừng Chúa Kytô cách trọn vẹn. Cũng giống dụ ngôn người kia trẩy đi phương xa, trao tất cả quyền hành cho đầy tớ, sắp đặt mỗi người một việc và dặn người gác cửa phải tỉnh thức. Khi sánh ví như thế, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến việc không biết trước ngày nào, giờ nào chủ sẽ về và việc chủ nhà đến bất thình lình cho thấy công việc và mục đích duy nhất của người đầy tớ là hãy sống giây phút hiện tại trong sự tỉnh thức.
Tính cách bất ngờ, không báo trước ngày ông chủ về đã được thánh sử Máccô ghi lại mang dụng ý thần học hơn là cách trình bày sự việc cách đơn thuần. Nếu người Phương đông chia đêm thành năm canh thì trái lại, người Rôma lại chia thành bốn canh. Chúa Giêsu cũng dùng cách chia này nhưng lồng vào đó một ý nghĩa có tính chất tiên báo về bốn giai đoạn của cuộc thương khó mà Người sẽ trải qua. Bốn giai đoạn đó tượng trưng cho sự phản bội (chập tối), dễ sa chước cám dỗ (nửa đêm), chối Chúa (lúc gà gáy) và trốn chạy (tảng sáng). Chúng ta nhận thấy là, trong bốn canh của đêm tối, không giờ nào lại không có sự sa ngã, không lúc nào lại không có sự hiện diện của thế lực thù địch với Thiên Chúa. Thế nên vũ khí để có thể thắng đựơc các thế lực thù địch ấy- theo Chúa Giêsu, chỉ có thể là tỉnh thức. Tỉnh thức ở đây không chỉ là việc chống lại với sự buồn ngủ của thể lý mà còn là việc sẵn sàng nghênh đón những biến cố xảy đến cách bất thình lình nữa. Tỉnh thức ở đây cũng không phải mang một tâm trạng nặng nề ủ dột hay thất vọng đến độ tiêu cực cho bằng một thái độ sống biết phó thác, tin tưởng và chờ đợi ngày Chúa sẽ trở lại trong vinh quang của Người. Như thế, tỉnh thức là biểu hiện của một trạng thái sẵn sàng, hiên ngang ngẩng cao đầu, sống một cách trọn vẹn cho giây phút hiện tại, và vì thế, việc ông chủ về bất cứ lúc nào dường như không còn quan trọng lắm đối với họ, bởi họ đã chuẩn bị kỹ lưỡng, không thiếu sự gì để nghênh đón ông cách chu đáo.
Mùa Vọng nhắc nhớ chúng ta chuẩn bị tâm hồn, luôn luôn tỉnh thức để đón chờ ngày Chúa đến trong Vinh quang. Và bởi vì ngày Vinh quang của Chúa đến cách đột ngột, không báo trước, nên chúng ta cần phải ra sức chuẩn bị tâm hồn để khỏi hối hận về sự đã rồi. Ngày đó chắc chắn sẽ đến. Vấn đề ở chỗ chúng ta có tỉnh thức đủ để chuẩn bị tâm hồn, trở về với nẻo chính đường ngay, ngõ hầu lúc nào cũng sẵn sàng, sẵn sàng và sẵn sàng cho ngày đó hay không?.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn