CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXII Thường Niên Năm A nêu bật một bài học: đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người, vì thế người Kitô hữu phải có một lập trường dứt khoát là không chạy theo xu hướng thời đại, không tìm cách rập khuôn theo thói đời.
Gr 20: 7-9
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a vẫn nhất mực trung thành loan báo sứ điệp của Thiên Chúa, cho dù sứ điệp ấy ngược lại với bản tính của ông và những kỳ vọng của những người đương thời với ông.
Rm 12: 1-2
Thánh Phao-lô cảnh giác các tín hữu Rô-ma sống giữa môi trường dân ngoại: “Anh em đừng có rập theo đời nầy, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý muốn Thiên Chúa”.
Mt 16: 21-27
Trong Tin Mừng, thánh Phê-rô không thể nào chấp nhận ý định của Thiên Chúa theo đó Đấng Mê-si-a phải trải qua đau khổ và sự chết. Nhưng Đức Giê-su khẳng định với thánh nhân: “Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.
BÀI ĐỌC I (Gr 20: 7-9)
Trong lịch sử trào lưu Ngôn Sứ Kinh Thánh, chắc chắn ngôn sứ Giê-rê-mi-a là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất.
1.Bối cảnh lịch sử:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem, giữa năm 626 và 587 tCn; nghĩa là ông đã sống vào thời kỳ bi thảm nhất của vương quốc Giu-đa: hai lần thành thánh Giê-ru-sa-lem bị đế quốc Ba-by-lon vây hãm (598-587), và cuối cùng thành thánh bị tàn phá và Đền Thánh bị thiêu hủy. Ông đã loan báo tai họa sắp giáng xuống mà không được ai quan tâm đến, kêu gọi hoán cải để được thứ tha mà không được ai lắng nghe. Ông trở nên trò đùa, bị nhạo báng, bị xem như kẻ phản quốc, bị tống giam. Đó thật sự là một bi kịch diễn ra trong lòng của vị ngôn sứ.
2.Bi kịch nội tâm:
Đoạn văn hôm nay trích từ “lời trần tình” hay lời tự sự của vị ngôn sứ ngỏ với Thiên Chúa. Đây là một trong những đoạn văn thống thiết nhất. Đoạn trích nầy nói lên tất cả tấm bi kịch của trào lưu Ngôn Sứ: lãnh nhận sứ vụ mà không thể thoái thác, phân biệt ý muốn của Thiên Chúa ngược lại với ý muốn của phàm nhân, nhất mực trung thành loan báo sứ điệp của Thiên Chúa mà không nhận được bất cứ điều gì ngoài những lời nhục mạ và cam chịu vì không được ai hiểu.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a phân trần với Thiên Chúa về ơn gọi bất khả kháng của mình:
“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con,
và con đã để cho Ngài quyến rũ.
Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng.
Suốt ngày con đã trở nên trò cười cho thiên hạ để họ nhạo báng con” (20: 7).
Vốn bản tính hiền hòa, đa cảm và không muốn làm mất lòng một ai, ấy vậy ông phải trung thành loan báo những sứ điệp của Thiên Chúa, ngược lại với con người của ông và những kỳ vọng của những người đương thời với ông. Vì thế, ông rất khổ tâm và không ngừng bị các giới lãnh đạo cả đời lẫn đạo cũng như dân chúng sỉ nhục và chế giễu suốt ngày:
“Mỗi lần nói năng là con phải la lớn,
phải kêu lên: ‘Bạo tàn! Phá hủy!’
Vì lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày” (20: 8)
Đó thật sự là một sự thử thách nặng nề mà ông phải gánh chịu vì sứ mạng của mình. Đôi lần ông muốn thoái thác sứ mạng ấy:
“Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người,
cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa” (20: 9a)
Ông đã phải ra sức cố kiềm nén lại, nhưng vô ích, không sao cưỡng kháng được:
“Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa cháy bừng trong tim,
ầm ỉ trong xương cốt.
Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được” (20: 9b)
Không bản văn nào hơn bản văn nầy giúp chúng ta thấu hiểu bản chất ơn gọi ngôn sứ, nguồn gốc thần linh của nó, và đồng thời quyền năng của nó ngự trị tận cõi thâm sâu nhất của con người. Ngôn sứ Giê-rê-mi, bị người đời ruồng bỏ, quay về với Thiên Chúa trong một lời khẩn nguyện khôn nguôi, dưới hình thức đối thoại hay độc thoại rất cô động. Ông thật xứng danh là “cha của lời khẩn nguyện”. Cũng chính ông loan báo “giao ước mới được ghi khắc trong lòng” và cũng là người đầu tiên sống giao ước mới mà ông loan báo.
BÀI ĐỌC II (Rm 12: 1-2)
Với chương 12, khởi sự phần luân lý của thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô ngỏ lời với toàn thể cộng đoàn tín hữu Rô-ma (dù họ xuất thân từ đâu, Do thái hay dân ngoại). Trong phần nầy, thánh Phao-lô vừa mới ca ngợi lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa, vì thế thánh nhân khai triển chủ đề nầy. Trong phần trích dẫn hôm nay, chúng ta đọc thấy hai lời khuyên cô động của thánh nhân: “phụng thờ đích thật” và “đổi mới tâm thần”.
1.Phụng thờ đích thật:
Trong lời khuyên thứ nhất: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”, thánh Phao-lô đối lập “của lễ sống động”, tức là cả một đời sống được dâng hiến cho Thiên Chúa, với “của lễ chết”, tức là những tế vật được hiến dâng thành hy lễ trên bàn thờ. Tất cả cuộc đời Ki-tô hữu phải là một đời phụng vụ, đó mới thật sự là “của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô đã áp dụng từ ngữ tế tự vào chính bản thân mình. Thánh nhân xem sứ vụ của mình như một hành vi tế tự như trong lời kết của thư gởi tín hữu Rô-ma nầy: “Ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi là làm người phục vụ Đức Giê-su Kitô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hóa mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 15: 16). Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lo ám chỉ đến cái chết gần kề của mình khi viết: “Nhưng nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin dâng lên Thiên Chúa, thì tôi vui mừng và chia sẻ niềm vui với tất cả anh em” (Pl 2: 17).
Dâng hiến chính bản thân mình lên Thiên Chúa, đó là “cách thế xứng hợp để anh em thờ phượng Thiên Chúa”. Tỉnh từ Hy lạp “logikon”, được dịch “xứng hợp”, thuộc về từ ngữ tôn giáo Do thái hay Hy lạp, được dùng để đánh dấu một sự khác biệt giữa tế tự hình thức và tế tự đòi hỏi dấn thân toàn thể con người. Tế tự đòi hỏi dấn thân toàn thể con người là cách thức phụng thờ Thiên Chúa xứng hợp nhất.
2.Đổi mới tâm thần:
Lời khuyên thứ hai nhắm đến việc đổi mới tâm thần: “Anh em đừng có rập theo đời này, những hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần”. Việc đổi mới tâm thần đòi hỏi hai chuyển động đồng lúc: đừng rập khuôn theo đời nầy nhưng hãy cải biến con người mình.
Do thái giáo phân biệt thế giới hiện tại và thế giới sắp đến: vương quốc Thiên Chúa. Đối với thánh Phao-lô, thế giới hiện tại là thế giới tội lỗi, thế giới ngoại giáo. Đối với thế giới nầy, người tín hữu phải có thái độ không theo thời, không tìm cách thích nghi với đời. Đó thật sự là một thử thách khủng khiếp thường ngày đối với các Kitô hữu hiện sống trong thủ đô của Đế Quốc Rô-ma. Thánh Phao-lô sẽ không ngừng lập đi lập lại: Hãy trở nên một con người mới “hầu có thể nhận ra đâu là ý muốn của Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo”.
TIN MỪNG (Mt 16: 21-27)
Tin Mừng của Chúa Nhật nầy nối tiếp với Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước. Sau khi đã nghe lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Đức Giê-su nghĩ rằng đây là giây phút thuận tiện để dẫn đưa các môn đệ của mình vào mặc khải mầu nhiệm của Ngài: đây là lần đầu tiên (sẽ còn hai lần khác nữa) Chúa Giê-su loan báo cho chỉ một mình các môn đệ thân tín của Ngài cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Người phải chịu nhiều đau khổ, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Mỗi lần loan báo về cái chết của mình, Ngài luôn liên kết viễn cảnh Tử Nạn của Ngài với biến cố Phục Sinh.
Điều tất yếu mà Đức Giê-su nêu lên ở đây: “Người phải…”, không phải là cái tất yếu của một định mệnh, nhưng là cái tất yếu thuộc trật tự thần học, cái tất yếu của kế hoạch Thiên Chúa. Cuộc Tử Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ đền bù, nhưng dự phần vào mầu nhiệm cứu độ con người. Đức Giê-su không cho các môn đệ bất cứ giải thích nào khác ngoài cái tất yếu “phải” nầy (tất cả các từ “phải” quan trọng của Tân Ước đều quy về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa).
1.Phản ứng của Thánh Phê-rô:
Chúng ta hiểu phản ứng của thánh Phê-rô. Thánh nhân quan niệm về Đấng Ki-tô (Mê-si-a) vinh quang và toàn thắng. Trong tư tưởng của thánh nhân, những viễn cảnh về một vị vua Ki-tô trần thế bách chiến bách thắng chắc chắn vẫn còn hiện diện.
Rất tế nhị, thánh Phê-rô kéo Thầy mình ra khỏi các bạn đồng môn và nói riêng với Thầy: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Chắc chắn thánh nhân lầm khi muốn lôi kéo cả Thiên Chúa vào việc gìn giữ Thầy mình cho “tai qua nạn khỏi”. Tuy nhiên, tiếng kêu của thánh nhân không chỉ bày tỏ những kỳ vọng mà ông đặt vào Đức Giê-su, nhưng cũng gói trọn tấm lòng yêu mến của ông đối với Thầy mình. Chắc chắn chúng ta không thể nào chấp nhận người mình yêu mến phải chịu đau khổ và phải chết.
2.Phản ứng của Đức Giê-su:
Tuy nhiên, thánh Phê-rô gặp phải một phản ứng quyết liệt của Chúa Giê-su. Trước đây, Chúa Giê-su đã phản kháng triệt để cơn cám dỗ của Xa-tan trong hoang địa khi nó ra sức thuyết phục Ngài thực hiện sứ mạng của một Đấng Ki-tô đầy quyền năng chứ không một Người Tôi Trung chịu đau khổ: “Xa-tan, hãy xéo đi”, giờ đây Ngài cũng đáp lại thánh Phê-rô cũng tương tự như thế: “Xa-tan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy”. Từ “Xa-tan” theo tiếng Híp-ri có nghĩa “kẻ cản lối”, tự nguồn gốc là một danh từ chung.
Với diễn ngữ: “lui lại đằng sau Thầy”, Đức Giê-su không xua đuổi vị tông đồ, nhưng mời gọi thánh nhân hãy sống trong tư thế của người môn đệ chứ không tìm cách cản lối Thầy. Ngài muốn thánh Phê-rô hiểu rằng đức tin mà ông đã tuyên xưng, cuộc tấn phong mà ông đã lãnh nhận, đòi hỏi ông phải dứt khoát dấn thân trọn vẹn vào trong cùng một vận mệnh với Ngài. Ngay lúc đó, quay về các môn đệ, Ngài cũng nói với họ một cách như thế: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”
2.Theo Đức Giê-su:
Sau nầy, mỗi lần gợi lên cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài, Đức Giê-su đều liên kết số phận của các môn đệ vào với vận mệnh Ngài, yêu cầu họ bước đi trên cùng một con đường của Ngài.
Khi sử dụng hình ảnh “thập giá”, không phải Đức Giê-su không gợi lên ở nơi các môn đệ của Ngài tất cả ý nghĩa của từ nầy sao? Trước đây, thánh Mát-thêu đã gợi lên hình ảnh thập giá nầy rồi: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10: 38). Hình phạt đóng đinh vào thập giá được chính quyền Rô-ma hành hình tập thể đã xảy ra ở Giê-ru-sa-lem rồi. Thánh Lu-ca, trong một bản văn đối chiếu, đã thêm diễn ngữ chỉ thời gian: “hằng ngày” vào diễn ngữ “vác thập giá” đem lại cho lời công bố của Đức Giê-su nghĩa bóng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9: 23), nghĩa là chấp nhận mọi gian nan khốn khó xảy ra hằng ngày trong cuộc đời.
3.Bài học của mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh:
Lời khẳng định của Đức Giê-su: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” được cả bốn tác giả Tin Mừng ghi lại, thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca đến hai lần (Mt 10: 38; 16: 25; Mc 8: 35; Lc 9: 24; 17: 33; Ga 12: 25). Một âm vang sâu đậm như thế hàm chứa rằng họ đã hiểu tất cả ý nghĩa của lời công bố này và ghi khắc lời công bố này vào lòng như một bài học lớn lao về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Theo bối cảnh của những lần báo trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, cái chết của Ngài không bao giờ là dấu chấm hết, nhưng mở ra sự sống, bởi vì cuộc Tử Nạn và Phục Sinh là kế hoạch Chúa Cha hoạch định cho Con của Ngài để cứu độ muôn người, như chính Đức Giê-su công bố: “Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18).
Thánh Mát-thêu viết những lời nầy trong bối cảnh của những năm 80, bối cảnh của những bách hại khắc nghiệt nhất, người tín hữu nào liều mất mạng sống mình vì Đức Giê-su và Tin Mừng, chính là đảm bảo cho mình một cuộc sống trong Vương Quốc Nước Trời.
4.Đối lập giữa sự sống trần thế với sự sống Nước Trời:
Lời công bố của Đức Giê-su: “Vì nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” để lại sự phân vân cho người đọc, bởi vì nó diễn tả điều quá thường tình. Tin Mừng không quen với những kiểu nói tầm thường như vậy. Có vấn đề về ngôn ngữ ở đây. Chữ “mạng sống” được dịch từ tiếng Hy lạp: “psyché” có nghĩa “linh hồn”, như cách dịch truyền thống: “Vì nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất linh hồn, thì có lợi gì?”. Bản dịch hiện nay chọn từ “mạng sống” thay cho “linh hồn” bởi vì chữ “linh hồn” gợi lên nhị nguyên thuyết Hy-lạp, xa lạ với tư tưởng Kinh Thánh. Thực ra, Đức Giê-su đã sử dụng tiếng “sinh khí” như trong sách Sáng Thế: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh linh” (St 2: 7). Rõ ràng ở đây Đức Giê-su đối nghịch việc sở hữu của cải vật chất – mà diễn ngữ “người ta được cả thế gian” gói trọn tất cả ý nghĩa nầy – với việc thiệt mất của cải tinh thần, thiệt mất “mạng sống”, được hiểu theo nghĩa mạnh: “sự sống đời đời”. Vì thế, bản dịch sát ý nghĩa nhất phải là: “Vì nếu người ta được cả thế gian, mà phải thiệt mất ơn cứu độ của mình, thì có lợi gì?”. Câu hỏi mà Đức Giê-su nêu lên: “Người ta sẽ lấy gì mà đổi lấy mạng sống mình?”, cũng diễn tả theo cùng một tư tưởng: “ơn cứu độ” đời đời, vô giá. Vả lại, Đức Giê-su kết hợp viễn cảnh chung cuộc nầy với ngày Quang Lâm của Ngài: “Bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
Vì thế, để sở hữu Sự Sống Đích Thật, một con đường duy nhất được ban cho các môn đệ - và sau họ, cho tất cả các Kitô hữu không gì khác ngoài việc noi gương Đức Giê-su, từ bỏ chính mình, như Ngài, cho đến chết. Lời khẳng định nghiêm túc, không hoa mỹ, nhưng chan chứa niềm hy vọng vinh quang. Chúng ta ghi nhận rằng Đức Giê-su không đòi buộc nhưng đề nghị: “Ai muốn …”.