Giáo triều Rôma tĩnh tâm Mùa Chay năm 2022
BÀI V: THẦY ĐÃ NÊU GƯƠNG CHO ANH EM
Đức Hồng y Raniero Cantalamessa,
Giảng thuyết viên của Phủ Giáo hoàng
Thứ Sáu, ngày 08.4.2022
Bài suy niệm cuối cùng này về Bí tích Thánh Thể, bắt đầu từ một câu hỏi: Tại sao trong trình thuật về Bữa Tiệc Ly, thánh sử Gioan lại không nói đến việc thiết lập Bí tích Thánh Thể, mà thay vào đó, lại nói về việc rửa chân? Chẳng phải chính Đức Giêsu đã dành cả một chương 6 trong Tin Mừng Gioan để sửa soạn cho các môn đệ ăn thịt và uống máu Người hay sao?
Thưa, lý do là trong tất cả những gì liên quan đến sự Phục Sinh và Thánh Thể thì thánh sử Gioan cho thấy rằng, ngài muốn nhấn mạnh tới sự kiện hơn là bí tích, nghĩa là nhấn mạnh tới ý nghĩa hơn là dấu chỉ. Vì theo thánh sử Gioan, Lễ Vượt Qua mới không khởi đi từ Nhà Tiệc Ly, khi nghi thức tưởng niệm này được thiết lập (chúng ta biết rằng Bữa Tiệc Ly trong Tin Mừng Gioan không phải là “bữa tối Vượt Qua”); hay nói đúng hơn, sự kiện được tưởng niệm diễn ra bắt đầu từ nơi thập giá Đức Giêsu. Đây là nơi diễn ra sự chuyển đổi từ Lễ Vượt Qua cũ sang Lễ Vượt Qua mới. Qua đó, Gioan đã chỉ ra rằng, khi Đức Giêsu chịu chết trên thập giá thì “không có khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập” (Ga 19,36): bởi vì điều này đã được quy định đối với chiên vượt qua trong sách Xuất hành như sau: “Các ngươi không được làm gãy một chiếc xương nào của nó” (Xh 12,46).
Ý nghĩa của việc rửa chân
Điều quan trọng là chúng ta cần phải hiểu rõ ý nghĩa của việc rửa chân theo Tin Mừng Gioan. Trong Tông hiến gần đây có tựa đề là Hãy Loan báo Tin Mừng [Praedicate Evangelium, được ban hành ngày 19.3.2022, về việc cải cách Giáo triều Vatican], trong Lời mở đầu, đã đề cập đến việc rửa chân, như một biểu tượng của sự phục vụ, đó phải là đặc trưng cho tất cả các hoạt động của Giáo triều Rôma đã được cải tổ (x. Tông hiến Praedicate Evangelium, số 1). Điều đó giúp chúng ta hiểu rằng, làm sao để có thể đưa Thánh Thể vào trong đời sống, và vì thế, “những điều đã được cử hành trên bàn thờ thì cũng cần phải được noi gương bắt chước trong chính cuộc sống nữa”. Chúng ta đang đứng trước một trong những tình tiết đó (có tình tiết khác nữa, đó là tình tiết cạnh sườn bị đâm thâu) nơi thánh sử rõ ràng khiến chúng ta hiểu rằng ở đây ẩn chứa một mầu nhiệm vượt xa một thực tại ngẫu nhiên mà tự nó có thể chỉ được thấy một lợi ích không đáng kể.
Đức Giêsu nói: “Thầy đã nêu gương cho anh em”. Vậy Người đã nêu gương cho chúng ta về điều gì đây? Liệu chúng ta phải thực hành rửa chân cho các anh em mình mỗi khi chúng ta ngồi vào bàn ăn hay sao? Chắc chắn là không phải việc rửa chân theo nghĩa đen này rồi! Nhưng lời giải đáp đã có sẵn trong Tin Mừng: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,43-45).
Trong Tin Mừng Luca, chính xác trong bối cảnh của Bữa Tiệc Ly, có một lời của Đức Giêsu mà dường như đã được nói đến khi kết thúc việc rửa chân: “Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22,27). Theo thánh sử Luca thì Đức Giêsu nói những lời này bởi vì giữa các môn đệ đã nổ ra cuộc tranh luận sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất (x. Lc 22,24). Có lẽ chính hoàn cảnh này đã thôi thúc Đức Giêsu thực hiện việc rửa chân cho các ông, như một kiểu dụ ngôn trong hành động. Trong khi các tông đồ đang bàn luận sôi nổi với nhau, thì Đức Giêsu lặng lẽ đứng dậy rời khỏi bàn ăn, tìm một chậu nước và một chiếc khăn, rồi quay lại quỳ trước mặt Phêrô và các môn đệ để rửa chân cho các ông, điều dễ hiểu là dẫn tới việc Phêrô tỏ ra hết sức bối rối: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” (Ga 13,6).
Đức Giêsu muốn gồm tóm lại toàn bộ ý nghĩa của cuộc đời Người bằng hành động rửa chân, vốn lưu lại một ấn tượng sâu sắc trong ký ức của các môn đệ, và một ngày nào đó, khi các môn đệ có thể hiểu được thì họ sẽ hiểu: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu” (Ga 13,7). Cử chỉ đó, được đặt ở cuối của sách Tin Mừng, cho chúng ta biết rằng, từ đầu đến cuối, toàn bộ cuộc đời của Đức Giêsu chính là một sự rửa chân, nghĩa là phục vụ cho loài người chúng ta. Như một số nhà chú giải Kinh Thánh đã nói, đó là một sự hiện hữu thân thiện, nghĩa là một sự hiện hữu sống động vì lợi ích của tha nhân.
Đức Giêsu đã cho chúng ta mẫu gương về một đời sống phục vụ tha nhân, một đời sống trở nên “một tấm bánh bẻ ra cho thế giới”. Do đó, qua những lời, “để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”, thì Đức Giêsu thiết lập diakonía, nghĩa là sự phục vụ, nâng việc phục vụ lên thành một giới luật căn bản, hay đúng hơn, thành một lối sống và kiểu mẫu của mọi mối tương giao trong Hội thánh. Như thể Người đang nói ngay cả đến việc rửa chân phục vụ, cũng như chính điều Người đã nói khi lập Bí tích Thánh Thể rằng: “Các con hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy!”.
Tuy nhiên, tại thời điểm này, trước khi tiếp tục thảo luận, tôi muốn đi ra ngoài chủ đề một chút. Có một Linh phụ sa mạc xưa, chân phước Isaác Ninivê, đã đưa ra lời khuyên này cho những ai bị buộc phải nói về những điều thiêng liêng cao cả mà trong đời sống của mình cũng chưa đạt được, ngài nói rằng: “Sau khi đã hết lòng khiêm cung, và tự hạ mình nhỏ bé hơn bất kỳ những người nào đang nghe lời mình nói, thì hãy nói về điều thiêng liêng cao cả đó như mình đang thuộc về hạng môn đệ, và không có chức quyền gì cả” (San Isacco di Ninive, Discorsi ascetici, 4, Città Nuova, Roma 1984, p. 89). Kính thưa quý đức cha và các anh chị em thân mến, đó chính là tinh thần mà tôi dám nói ra để phục vụ tất cả anh chị em, những người đang từng ngày sống tinh thần phục vụ đó.
Tôi nhớ lời nhận xét vui đã từng dành cho chúng tôi, gồm các thành viên của Ủy ban Thần học Quốc tế do Đức Hồng y Franjo Šeper làm Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin lúc bấy giờ, vị khách đã mỉm cười và nói: “Các thần học gia các anh thì dù chưa viết xong một đề tài nào đó mà ngay lập tức các anh đã vội viết tên mình vào tác phẩm. Còn chúng tôi phục vụ trong Giáo triều này thì phải làm tất cả mọi thứ một cách ẩn danh, không ai biết tới”. Và đó chính là phẩm chất của việc phục vụ Tin Mừng, đó là lý do để tôi ngưỡng mộ và cảm ơn tới biết bao nhiêu vị tôi tớ của Hội thánh đang âm thầm làm việc tại Giáo triều Rôma này, hay trong các Tòa Giám mục và các Tòa sứ thần.
Chúng ta hãy quay trở lại chủ đề. Học thuyết về các đặc sủng hoàn toàn hướng đến việc phục vụ; sự phục vụ xuất hiện như linh hồn và mục đích của mọi đặc sủng. Thánh Phaolô khẳng định rằng mọi “sự biểu lộ đặc biệt của Thần Khí” đều được ban cho “vì lợi ích chung” (x. 1Cr 12,7), và các đặc sủng được ban cho “dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ” [diakonía] (Ep 4,12). Ngay cả tông đồ Phêrô, khi khuyến cáo lòng hiếu khách, cũng viết: “Ơn riêng [chárisma] Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ [diakonía] kẻ khác” (1Pt 4,10). Đặc sủng và sứ vụ; đặc sủng và sự phục vụ, hai yếu tố này luôn có vẻ kết nối quan trọng với nhau. Hội thánh mang tính đặc sủng để phục vụ!
Tinh thần phục vụ
Chúng ta cần phải tìm hiểu sâu hơn ý nghĩa của hạn từ “phục vụ”, để nó có thể trở thành hiện thực trong đời sống chúng ta, và chúng ta không chỉ giới hạn bản thân trong những từ ngữ hoa mỹ mà thôi. Tự bản chất, sự phục vụ không phải là một nhân đức. Chúng ta không tìm thấy hạn từ phục vụ [diakonía] nào được gọi là một nhân đức, hoặc được gọi là hoa quả của Thần Khí, như trong danh mục mà các sách Tân Ước đã nêu ra. Thật vậy, thậm chí có người còn nói về việc phục vụ cho tội lỗi nữa (x. Rm 6,16), hoặc phục vụ các ngẫu tượng (x. 1Cr 6,9), mà chắc chắn đó không phải là một việc phục vụ tốt đẹp. Tự bản chất, việc phục vụ là trung lập, không tốt không xấu: nó chỉ nhấn mạnh đến điều kiện trong cuộc sống, hoặc cách thức tương quan với những người khác, trong công việc của một người, một sự lệ thuộc liên quan đến những người khác. Thậm chí việc phục vụ có thể còn là một điều tồi tệ nữa, nếu được thực hiện vì bị ép buộc (như trong chế độ nô lệ), hoặc chỉ vì sở thích và tư lợi.
Tất cả mọi người thời nay đều nói về sự phục vụ; mọi người đều nói rằng họ đang ở trong tình trạng phục vụ: người thương gia phục vụ các khách hàng; hoặc người ta nói đến tất cả những người thực hiện một chức năng xã hội mà họ cung cấp dịch vụ hoặc họ phục vụ. Nhưng rõ ràng là việc phục vụ mà Tin Mừng nói tới thì lại là một điều hoàn toàn khác, cho dù nó không loại trừ sự phục vụ theo kiểu người phàm, và cũng không nhất thiết phải loại bỏ sự phục vụ như cách hiểu của thế gian. Sự khác biệt hoàn toàn chính là ở động cơ và thái độ bên trong nội tâm mà việc phục vụ đó được thực hiện.
Chúng ta hãy đọc lại trình thuật Tin Mừng về việc rửa chân, để xem Đức Giêsu thực hiện với tinh thần nào và điều gì đã khiến Người hành động: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Phục vụ không phải là một nhân đức, nhưng bắt nguồn từ các nhân đức, và trước hết là từ lòng bác ái; quả thật, đó là cách diễn đạt tuyệt vời nhất của điều răn mới. Phục vụ là một cách thể hiện tình yêu thương “không tìm tư lợi” (x. 1Cr 13,5), mà là vì yêu thương tha nhân, không tìm kiếm bản thân, mà còn là của sự cho đi. Nói tóm lại, đó là sự tham gia và bắt chước hành động của Thiên Chúa, Đấng là “sự Thiện Tuyệt Đối”, chỉ có thể yêu thương và làm điều thiện một cách vô vị lợi, một cách hoàn toàn nhưng không.
Vì lý do này, trái ngược với tinh thần thế gian, việc phục vụ theo Tin Mừng thì không phải chỉ thích hợp với những người thấp kém, những người thiếu thốn, cho những người không có gì cả; nhưng đúng hơn, việc phục vụ Tin Mừng thuộc về bất cứ ai giàu có, cho bất cứ ai có địa vị cao, cho bất kỳ ai có của. Về phương diện phục vụ thì “ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12,48). Vì lẽ đó, Đức Giêsu nói rằng, trong Hội thánh của Người: “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22,26), “ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10,44). Vị Giáo sư của tôi là Ceslas Spicq ở đại học Freiburg [Thụy Sĩ], về khoa chú giải Kinh Thánh Tân Ước, cho biết rằng, việc rửa chân phục vụ chính là “bí tích của thẩm quyền Kitô giáo - il sacramento dell’autorità cristiana”.
Bên cạnh sự vô vị lợi, việc phục vụ còn thể hiện một đặc tính tuyệt vời khác của đức ái thần linh [agápe divina]: đó là sự khiêm tốn. Lời của Đức Giêsu: “Anh em phải rửa chân cho nhau” có nghĩa là: anh em phải làm cho nhau những việc phục vụ bác ái khiêm nhường. Lòng bác ái và sự khiêm nhường cùng nhau tạo nên sự phục vụ theo Tin Mừng. Đức Giêsu đã từng nói: “Hãy học nơi tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Nhưng nếu bạn nghĩ về điều đó, thì Đức Giêsu đã làm gì để gọi mình là “khiêm nhường”? Có phải Người đã đánh giá thấp bản thân chăng? hay Người đã nói một cách khiêm tốn về con người của mình chăng? Ngược lại, trong chính đoạn Tin Mừng về việc rửa chân, Người nói rằng Người là “Thầy và là Chúa” (x. Ga 13,13).
Vậy Đức Giêsu đã làm gì để gọi mình là “khiêm tốn”? Người đã cúi xuống phục vụ! Ngay từ lúc nhập thể, Người đã không làm gì khác ngoài việc hạ mình xuống, hạ xuống đến mức thấp nhất, khi chúng ta thấy Người quỳ gối rửa chân cho các tông đồ. Hẳn là giữa các thiên thần phải run sợ làm sao, khi thấy Con Thiên Chúa đang hạ mình xuống như vậy, Đấng mà họ thậm chí không dám ngước nhìn Người (x. 1Pr 1,12). Đấng Tạo Hóa đã quỳ gối trước các thụ tạo! Thánh Bênađô đã thường tự nhủ lòng mình rằng: “Hỡi đồ tro bụi kiêu hãnh, ngươi đáng xấu hổ biết bao! Thiên Chúa thì hạ mình xuống, còn ngươi thì lại tìm cách đưa mình lên!” (San Bernardo di Chiaravalle, Lodi della Vergine, I, 8). Được hiểu theo cách này - nghĩa là hạ mình để phục vụ - thì đức khiêm nhường thực sự là con đường tuyệt hảo của việc nên giống Thiên Chúa và noi gương Thánh Thể trong đời sống chúng ta.
Phân định các thần khí
Kết quả của việc suy niệm [phân định] này phải là sự can đảm xem xét lại cuộc sống của chúng ta, (thói quen, bổn phận, lịch làm việc, phân phối và sử dụng thời gian của mình), để xem nó có thực sự là một công việc phục vụ hay không, và hãy xem trong việc này, liệu chúng ta có tình yêu thương và sự khiêm tốn hay không. Điều quan trọng cần nhận biết rằng liệu chúng ta có đang phục vụ anh chị em của mình không, hay thay vào đó, chúng ta đang lợi dụng chính anh chị em mình, và họ đang phục vụ cho mục đích riêng của chúng ta. Chúng ta đang lợi dụng các anh chị em của mình và nhằm khai thác họ, có thể ngay cả khi chúng ta đang làm hết sức mình cho họ, nếu chúng ta không quan tâm, và theo một cách nào đó, đang tìm kiếm sự chấp thuận, tán thưởng, hoặc sự hài lòng của việc có lương tâm trong sạch, là ân nhân. Về điểm này, Tin Mừng diễn tả đòi hỏi một cách triệt để rằng: “Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6,3). Tất cả những gì được thực hiện một cách có ý thức “hầu để cho mọi người nhìn thấy”, thì đã bị mất rồi. “Christus non sibi situit”: “Đức Kitô đã không chiều theo sở thích của mình” (Rm 15,3): đó chính là nguyên tắc phục vụ.
Để thực hiện “việc phân định các thần khí”, đó là những ý định thúc đẩy chúng ta trong việc phục vụ của mình, điều hữu ích, đó là xem đâu là những việc phục vụ mà chúng ta sẵn lòng để làm, và đâu là những việc phục vụ mà chúng ta cố gắng tránh bằng mọi cách. Ngoài ra, hãy xem, liệu tâm hồn chúng ta sẵn sàng từ bỏ – nếu chúng ta được yêu cầu từ bỏ – từ bỏ một sự phục vụ cao quý, mang lại uy tín cho mình, để dành cho một người khiêm tốn mà không được sẽ đánh giá cao. Những việc phục vụ an toàn nhất là những việc phục vụ mà chúng ta thực hiện mà không ai – kể cả những người nhận được – nhận thấy, chỉ có Cha chúng ta, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho ta. Đức Giêsu đã nêu lên như một biểu tượng của sự phục vụ, một trong những cử chỉ khiêm nhường nhất được biết đến vào thời của Người, và thường được thực hiện bởi những người nô lệ: đó là việc rửa chân. Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn” (Rm 12,16).
Đối lập với tinh thần phục vụ là khát vọng thống trị, thói quen áp đặt ý riêng của mình, quan điểm và đường lối của mình lên người khác. Nói một cách dễ hiểu, chủ nghĩa độc tài, độc đoán. Thông thường, những người theo chủ nghĩa chuyên chế thậm chí không nhận thức về những đau khổ mà họ gây ra, và gần như ngạc nhiên khi thấy những người khác không thể hiện sự đánh giá cao đối với tất cả “sự quan tâm” và nỗ lực của họ như thế nào, thậm chí họ còn cảm thấy mình là một nạn nhân nữa. Đức Giêsu dạy các môn đệ phải nên giống như “chiên con ở giữa bầy sói”, nhưng một người như vậy giống như sói dữ ở giữa bầy chiên con. Phần lớn những đau khổ mà các gia đình và các cộng đoàn thường phải gánh chịu là do sự hiện diện của một kẻ độc đoán và chuyên quyền nào đó, kẻ muốn chà đạp lên người khác, và với lý do là để “phục vụ” người khác, nhưng thực chất chỉ là nhằm “nô lệ hóa” người khác mà thôi.
Rất có thể “một ai đó” lại là chính chúng ta chăng! Nếu có một chút nghi ngờ trong ý nghĩa này, sẽ rất tốt nếu chúng ta thành tâm đặt vấn đề với những người sống bên cạnh mình, và để cho họ có cơ hội dãi bày bản thân một cách chân thành mà không chút sợ hãi. Nếu chúng ta cũng làm cho một ai đó trở nên khó sống, bởi tính cách của chúng ta, thì chúng ta cần phải khiêm tốn chấp nhận thực tế và suy xét lại về việc phục vụ của mình.
Theo một cách khác, quá gắn bó với thói quen và sự tiện nghi thoải mái của chúng ta cũng là trái với tinh thần phục vụ - một tinh thần buông thả, như nó đã từng xảy ra. Không thể nghiêm túc phục vụ người khác nếu chúng ta chỉ có ý định làm hài lòng bản thân, coi trọng lúc nghỉ ngơi, thời gian rảnh rỗi, lịch trình của chúng ta. Quy tắc phục vụ thì luôn giống nhau: Đức Kitô đã không cố gắng để làm hài lòng chính mình.
Như chúng ta đã thấy, việc phục vụ là đức tính xứng hợp cho người phụ trách, đó là điều mà Chúa Giêsu để lại cho các mục tử trong Hội Thánh, như là sản nghiệp quý giá nhất của Người. Tất cả các đặc sủng đều có chức năng phục vụ; nhưng một cách rất đặc biệt, đó là đặc sủng của các mục tử “coi sóc và dạy dỗ” (x. Ep 4,11), tức là đặc sủng của quyền bính. Hội thánh có “đặc sủng” để phục vụ và cũng có “phẩm trật” để phục vụ!
Phục vụ Thần Khí [diakonia Pneumatos] (2Cr 3,8)
Nếu đối với mọi người Kitô hữu, phục vụ có nghĩa là “không còn sống cho chính mình nữa” (x. 2Cr 5,15), thì đối với các mục tử, đó là “không lo cho chính mình”: “Khốn cho các mục tử Israel, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao?” (Ed 34,2). Đối với thế gian, không có gì tự nhiên hơn và chính xác hơn điều này, điều đó, tức là bất cứ ai là chủ (dominus) “domini”, thì hãy là chủ nhân. Tuy nhiên, đối với các môn đệ của Đức Giêsu “thì không được như vậy”, nhưng ai là chủ thì phải phục vụ. Thánh Phaolô viết rằng: “Không phải là chúng tôi khống chế đức tin của anh em, trái lại chúng tôi góp phần tạo niềm vui cho anh em” (2Cr 1,24). Thánh tông đồ Phêrô cũng khuyến cáo các mục tử điều tương tự: “Đừng lấy quyền mà thống trị những người mà Thiên Chúa đã giao phó cha anh em, nhưng hãy nêu gương sống cho đoàn chiên” (x. 1Pr 5,3).
Trong chức vụ mục tử, không dễ gì tránh khỏi tâm lý “chủ nhân ông” về đức tin; tâm lý này đã ăn sâu vào trong các quan niệm về quyền hành từ rất xưa rồi. Một trong những tài liệu cổ xưa nhất về chức vụ giám mục (Syriac Didascalia), chúng ta đã tìm thấy một quan niệm trình bày giám mục là một quốc vương, trong đó Hội thánh không thể đảm nhận bất cứ điều gì nếu không có sự đồng ý của vị giám mục đó.
Chính điểm tế nhị nhạy cảm này thường nảy sinh vấn đề hoán cải đối với các mục tử với tư cách là mục tử. Những lời đó của Chúa Giêsu vang lên mạnh mẽ và chân thành biết bao sau khi rửa chân: “Thầy là Chúa và là Thầy…!”. Đức Giêsu đã “không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa” (Pl 2,6), nghĩa là Người không sợ ảnh hưởng đến phẩm giá thánh thiêng của mình, chấp nhận sự thiếu tôn trọng của loài người, tự tước bỏ những đặc quyền của mình, và tỏ ra như một con người, với vẻ bề ngoài ở giữa bao người khác (“trở nên giống phàm nhân”).
Đức Giêsu đã sống một cuộc sống đơn giản. Sự đơn giản luôn là sự khởi đầu và là dấu chỉ của sự hoán cải thực sự theo Tin Mừng. Chúng ta phải bắt chước cách hành động của hành động của Thiên Chúa. Tertullianô đã viết: “Không có gì miêu tả rõ hơn cách thức hành động của Thiên Chúa, hơn là sự tương phản giữa những phương tiện đơn giản, cũng như những cách thức hành động bên ngoài, so với tính chất cao cả của các kết quả thiêng liêng mà người ta gặt hái được” (x. Tertullianô, De baptismo, 1 [CCL I, p. 277]). Thế giới cần những bộ máy lớn để hành động và gây ấn tượng; nhưng đối với Chúa thì không.
Đã có một thời, phẩm giá của các giám mục được thể hiện qua những quốc huy, tước hiệu, lâu đài, và quân đội. Như người ta nói, họ là những hoàng tử-giám mục, và đôi khi còn hơn cả giám mục nữa. Ngày hôm nay có vẻ như là một thời điểm vàng để cho Giáo hội có những so sánh. Cách đây nhiều năm, tôi đã gặp một giám mục, tự nhiên khi thấy vị này dành vài giờ mỗi tuần vào trong nhà hưu dưỡng để giúp đỡ những người già cả thay quần áo và ăn uống. Tại đây, ngài đã rửa chân theo đúng nghĩa đen. Bản thân tôi phải nói rằng tôi đã nhận được những gương mẫu điển hình nhất về sự giản dị cho đời sống của mình ngang qua một số vị giám chức.
Tuy nhiên, ngay cả về điểm này, điều cần thiết là duy trì một cảm thức về phạm vi tự do theo Tin Mừng lớn lao cũng cần phải được bảo tồn. Sự giản dị đòi hỏi chúng ta không đặt mình lên trên người khác, nhưng cũng không nên cố chấp luôn đặt mình dưới họ để bằng cách nào đó giữ khoảng cách, nhưng chúng ta chấp nhận, trong những điều bình thường của cuộc sống, để được giống như những người khác. Manzoni đã đưa ra một nhận xét sắc bén khi ông nói rằng, “có những người, có tất cả sự khiêm tốn cần thiết để đặt mình dưới người khác, nhưng lại không phải là để sống bình đẳng với họ” (x. A. Manzoni, I Promessi Sposi, cap. 38.).
Đôi khi, sự phục vụ tốt nhất không bao gồm việc phục vụ, mà là việc cho phép mình được phục vụ, như Đức Giêsu, đôi khi Người cũng sẵn sàng ngồi vào bàn ăn và được người khác rửa chân (x. Lc 7,38) và sẵn lòng đón nhận những sự phục vụ mà một số phụ nữ quảng đại và giàu tình cảm đã giúp đỡ Người trong hành trình rao giảng của Người (x. Lc 8,2-3).
Có một điều khác cần phải nói về sự phục vụ của những người mục tử, và đó là điều này: việc phục vụ anh chị em, dù quan trọng và thánh thiện đến đâu, cũng không phải là điều đầu tiên và cũng không phải là điều cốt yếu; trước hết là sự phục vụ Thiên Chúa. Trước hết, Đức Giêsu là “tôi tớ của Giavê Thiên Chúa” và sau đó là tôi tớ của loài người. Đức Giêsu đã nhắc nhở cha mẹ mình rằng: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49). Người đã không ngần ngại làm thất vọng đám đông, những kẻ đến nghe Người giảng dạy, và được chữa lành, Người đã bất ngờ bỏ họ ra đi, để lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện (x. Lc 5,16).
Ngày nay, ngay cả việc phục vụ Tin Mừng cũng bị suy yếu bởi nguy cơ tục hóa. Người ta quá dễ dàng cho rằng mọi sự phục vụ nhân loại cũng đều là phục vụ Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói về việc phục vụ Thần Khí [diakonia Pneumatos] (2Cr 3,8), mà các thừa tác viên của Tân Ước được đặt ra để phục vụ. Tinh thần phục vụ phải được thể hiện nơi các mục tử qua việc phục vụ Thần Khí!
Cũng giống như các linh mục, theo ơn gọi, được mời gọi để phục vụ theo “Thần Khí”, sẽ không phải là phục vụ anh chị em của mình nếu ngài làm cho họ hàng trăm hàng ngàn việc phục vụ khác, nhưng lại bỏ qua phận vụ duy nhất mà người ta có quyền mong đợi ở vị linh mục, điều mà chỉ linh mục mới có thể cho trao ban cho họ. Theo Sách Thánh thì linh mục “được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa” (Hr 5,1). Khi vấn đề này lần đầu tiên nảy sinh trong Hội thánh, Phêrô đã giải quyết bằng cách nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải… Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6,2-4).
Trên thực tế, có một số vị mục tử đã quay trở lại với việc lo ăn uống. Họ bận rộn giải quyết mọi vấn đề về vật chất, kinh tế, hành chính, đôi khi thậm chí là nông nghiệp nữa, điều vẫn tồn tại trong cộng đoàn của họ (dù những điều này có thể dễ dàng để cho người khác quan tâm), và họ bỏ bê công việc phục vụ đích thực không thể thay thế của mình. Việc phục vụ Lời Chúa đòi hỏi có nhiều thời giờ để đọc sách, nghiên cứu, cầu nguyện.
Ngay sau khi giải thích cho các tông đồ về ý nghĩa của việc rửa chân, Đức Giêsu đã nói với các ông rằng: “Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em!” (Ga 13,17). Chúng ta cũng sẽ được chúc phúc, nếu chúng ta không hài lòng với việc biết những điều này, có nghĩa là, Bí tích Thánh Thể thúc đẩy chúng ta phục vụ và chia sẻ, nhưng có thể bắt đầu ngay từ hôm nay, chúng ta sẽ đưa vào thực hành. Bí tích Thánh Thể không chỉ là một mầu nhiệm để cử hành, để lãnh nhận và tôn thờ; nhưng Thánh Thể cũng là một mầu nhiệm để noi gương bắt chước nữa.
Tuy nhiên, trước khi kết thúc, chúng ta phải nhớ lại một sự thật mà chúng ta đã nhấn mạnh trong tất cả những suy tư của chúng ta về Thánh Thể, đó là tác động của Chúa Thánh Thần! Chúng ta hãy cẩn thận với việc giảm nhẹ ân ban thành một nghĩa vụ! Chúng ta không chỉ nhận được mệnh lệnh phải rửa chân và phục vụ anh chị em của mình: mà chúng ta đã nhận được ân sủng để có thể phục vụ như vậy. Phục vụ là một đặc sủng, và giống như mọi đặc sủng khác, đó là “một biểu hiện đặc biệt của Thần Khí vì lợi ích chung” (1Cr 12,7); Tông đồ Phêrô nói: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác” (1Pr 4,10). Ơn riêng đi trước nghĩa vụ và làm cho nó có thể được thực hiện hóa. Đây chính là “niềm vui Tin Mừng”, trong đó Bí tích Thánh Thể là sự tưởng nhớ an ủi hằng ngày.
Kính thưa Đức Thánh cha, quý cha cùng tất cả anh chị em thân mến, xin cám ơn mọi người đã kiên nhẫn lắng nghe, và xin gửi những lời nguyện chúc tốt đẹp nhất tới mọi người, để bước vào một Tuần Thánh đầy ân phúc và chúc mừng Lễ Phục sinh hạnh phúc!
Chuyển ngữ: Giuse Phan Văn Phi, O.Cist.[1]
Dịch từ nguyên tác tiếng Ý và bản tiếng Anh tại cantalamessa.org
--------
1. Thánh Isaác Ninivê, Bàn về Khổ chế, 4, Città Nuova, Rôma 1984, tr. 89.
2. Thánh Bênađô Clairvaux, Ngợi khen Đức Trinh Nữ, I, 8.3.
3. x. Tertullianô, Về Phép thánh tẩy, 1 (CCL I, tr. 277).
4. x. A. Manzoni, Tiểu thuyết Những kẻ Đính hôn, chương 38.
Đọc thêm:
[1] Giuse Phan Văn Phi O.Cist., đã đăng ký bản quyền dịch và xuất bản ấn phẩm này tại Việt Nam, theo luật bản quyền và xuất bản.
Nguồn: hdgmvietnam.com