Lời Chúa: Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Lc 22,14 – 23,56
MỤC LỤC
1. Cô đơn và im lặng
2. Con lừa
3. Tình yêu đáp lại hận thù – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Chúc tụng Đức Vua
5. Tính chất hiện tại của Bí Tích Thánh Thể
6. Rước Lá: Lc 19,28-40
7. Người tôi tớ khổ đau của Giavê
8. Vui lòng vâng phục thánh ý Chúa
9. Bài Giảng của ĐGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
10. Giờ chiến thắng vinh quang – Lm Ignatio Trần Ngà
11. Giờ cứu độ – Lm Jos. Trần Ngà
12. Chiến thắng của tình yêu - McCarthy
13. Vua vào thành: Lc 19,28-40
14. Baraba và Đức Giêsu
15. Suy niệm của Noel Quesson
16. Một vài ý suy niệm
17. Lễ lá
18. Hoan hô- Đả đảo
19. Trung thành với lời tung hô
20. Vụ án
21. Cuộc Thương Khó
22. Suy niệm của R. Gutzwiller (Lc 23, 26-49)
23. Ông này là ai vậy?
24. Xin đừng theo ý con (Mc 11, 1-10)
25. Cám dỗ
26. Đón tiếp
27. Chúc tụng
28. Làm chứng
29. Yêu cho đến cùng – Thiên Phúc
30. Suy niệm của Lm Jos. Phạm Thanh Liêm
1. Cô đơn và im lặng.
Qua bài thương khó vừa nghe, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về nỗi cô đơn và sự im lặng của Chúa Giêsu.
Trước hết là nỗi cô đơn. Càng về cuối đời, Chúa Giêsu càng bị lẻ loi cô đơn. Dân chúng và những người thân đều từ bỏ Ngài và giờ đây, cả các môn đệ cũng từ bỏ Ngài. Chúa Giêsu cô đơn trong vườn Cây Dầu. Ngài lại càng cô đơn hơn nữa trong lúc bị bắt bởi vì các môn đệ đều trốn chạy. Trước thượng hội đồng, Chúa Giêsu chẳng có một ai để bênh vực mà chỉ toàn thấy những kẻ cáo gian Ngài. Trong khi đó, ở bên ngoài, ông Phêrô đã chối Chúa. Ngay cả Đức Chúa Cha xem ra cũng bỏ rơi Ngài, chỉ còn lại mấy người phụ nữ trung thành, nhưng họ cũng chỉ đứng tự đàng xa.
Tiếp đến là sự im lặng của Chúa Giêsu. Trước toà án phần đạo, Chúa Giêsu chỉ trả lời vị thượng tế có một lần. Trước toà án phần đời, Chúa Giêsu chỉ trả lời Philatô có một lần. Và trên cây thập giá, theo sự ghi nhạn của thánh Marcô, Chúa Giêsu cũng chỉ thốt lên có một lời.
Thế nhưng sự cô đơn và im lặng của Chúa Giêsu đã đứa tới một hậu quả thật bất ngờ, đó là lời tuyên xưng của viên đội trưởng Lamã: Quả thực người này là Con Thiên Chúa. Với lời tường thuật đơn sơ và mộc mạc, thánh Marcô cho chúng ta thấy: Chân lý tự bản chất vốn giản dị, chứ không màu mè phức tạp. Không phải cứ nói nhiều, nói hay mà người ta có thể làm sáng tỏ chân lý. Cũng như không phải cứ sơn phết cho thật màu mè mà người ta tạo được một bức hoạ tuyệt vời. Chúng ta sẽ lầm khi nghĩ rằng với những sách vở và những bài thuyết trình sâu sắc, hấp dẫn với những công trình khảo cứu hoàn bị, chúng ta có thể đem đến cho mọi người tất cả những câu trả lời về Đức Kitô.
Không. Đức Kitô không phải là một mớ những lý thuyết, những tư tưởng, nhưng Ngài là một con người mà chúng ta cần phải gặp gỡ, phải chiêm ngưỡng và phải tìm hiểu để rồi dần dần khám phá ra những châh lý về Ngài.
Từ đó chúng ta đi tới một kết luận cụ thể như thế này. Đức Kitô không phải chỉ là một cái gì chúng ta nói, chúng ta rao giảng, chúng ta tuyên xưng ngoài môi ngoài miệng, nhưng Ngài cần phải được bén rễ sâu trong tâm hồn và trong cuộc đời chúng ta.
Điều đó có nghĩa là chúng ta có bổn phận phải sống đức tin hay mói một cách cụ thể hơn, chúng ta có bổn phận phải sống gắn bó mật thiết với Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng Ngài bằng hành động và bằng cả cuộc đời chúng ta.
2. Con lừa.
Hôm nay, Chúa Giêsu cưỡi trên lưng một con lừa để tiến vào thành Giêrusalem giữa những tiếng tung hô vạn tuế. Chính vì thế, chúng ta cùng nhau chia sẻ về hình ảnh con lừa.
Đối với nhiều người, hình ảnh con lừa chẳng phải là một hình ảnh hấp dẫn, bởi vì lừa là một con vật đần độn và ưa nặng. Tuy nhiên, trong một bài thơ, Chesterton diễn tả một chú lừa đã quan sát vẻ xấu xí của mình và tự nhủ:
"Chắc hẳn tôi đã được sinh ra khi mảnh trăng nhuốm máu, khi cá lượn trên không, lúc cây rừng cất bước và cây vả trổ gai. Ôi chiếc đầu kỳ quái, tiếng kêu ghê tởm, đôi tai khác nào cặp cánh lạc loài và dáng đi kỳ cục nhất trong các loài động vật bốn chân. Thế nhưng, tôi cũng có giờ của tôi chứ. Một giờ thật oanh liệt và êm dịu, khi bên tai tôi văng vẳng tiếng reo hò và ngành thiên tuế chập chờn dưới bước chân tôi đấy".
Và chú lừa đã thốt lên:
"Quí vị cứ cười nhạo tôi đi, nhưng nên nhớ rằng tôi đã được chọn trong tất cả thú vật trần gian, để cõng trên mình Đấng Cứu Độ nhân loại".
Mặc dù chúng ta thường nhạo báng giống lừa, nhưng các nhân vật trong Kinh Thánh lại ngợi khen chúng. Lừa là một giống vật hiền hoà, khác hẳn với loài ngựa, là giống vật dành cho chiến tranh. Tiên tri Giacaria đã tiên báo: Đấng Messia, tức là Đấng Thiên Sai, sẽ cưỡi trên lưng lừa mà tiến vào thánh Giêrusalem.
Và hôm nay, Chúa Giêsu đã thực hiện lời tiên báo ấy. Làm như thế, Ngài đã chu toàn hai điều xác quyết sau đây: Điều xác quyết thứ nhất, Ngài xác nhận mình là Đấng Thiên Sai, Đấng Messia của dân Do Thái. Điều xác quyết thứ hai, Ngài mạc khải cho chúng ta biết sứ mạng thiên sai của Ngài là gì?
Vào thời Chúa Giêsu, việc mạc khải này có thể dẫn tới những hiểu lầm tai hại. Thực vậy, có nhiều người nghĩ rằng sứ mạng của Đấng Thiên Sai hệ tại việc đoàn kết dân chúng lại, để đánh đuổi quân xâm lược Rôma ra khỏi đất nước họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu cưỡi trên lưng con vật hiền lành mà tiến vào thành Giêrusalem. Hành động này đi ngược lại với ý tưởng trên. Đồng thời còn cho thấy Đấng Thiên Sai không phải là một ông vua chinh chiến, bắt kẻ thù phải làm nô lệ cho mình.
Ngài đến và đã quỳ gối rửa chân cho thần dân của Ngài, chứ không phải là để ngồi trên ngai vàng, rồi bắt mọi người phải hầu hạ mình. Ngài đoàn kết dân chúng sau lưng mình, không phải là để đi giao tranh với các dân tộc khác, nhưng liên kết họ để chiến đấu chống lại nghèo khổ, đói khát, thu hận và mọi hình thức bất công.
Ngài đến không phải để kết án, nhưng để tha thứ. Ngài đến không phải để phá đổ những giấc mơ của dân chúng, nhưng để làm cho những giấc mơ ấy trở thành hiện thực bằng một phương cách lạ lùng nhất. Ngài không cưỡng bức, nhưng kêu mời chúng ta bước theo Ngài.
Thế nhưng, chúng ta có đáp trả lời mời gọi ấy hay không, thì đó là việc làm riêng tư của mỗi người chúng ta. Còn giờ đây, chúng ta hãy vui mừng và cùng với các tín hữu ở khắp mọi nơi, hãy tung hô Chúa: Vạn tuế Đấng Nhân Danh Chúa mà đến.
3. Tình yêu đáp lại hận thù – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Ngày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.
Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu thương.
Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: "Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con". Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về cùng Cha.
Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không kháng cự.
Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị thượng tế.
Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.
Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.
Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.
Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.
Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.
Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Thời nay người ta thay đổi tất cả thật nhanh chóng. Thay đổi quần áo, giầy dép, điện thoại và cả bạn bè, vợ chồng nữa. Bạn có bị cuốn theo nếp sống thay đổi nhanh chóng này không?
2. Tình yêu của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Bạn hiểu điều này thế nào qua cuộc thương khó của Chúa?
3. Đạo Công giáo là đạo bác ái. Bạn sống đạo như thế nào khi bị phản bội, bị oan ức và thiệt thòi?
4. Chúc tụng Đức Vua
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Con Thiên Chúa chẳng những đã chia sẻ phận người, Ngài còn chia sẻ thân phận của những người yếu thế. Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu, chúng ta không thấy đó là chuyện xa xôi.
Trên thế giới mỗi ngày, có bao Giêsu vô tội bị kết án bất công, bị làm nhục, bị khinh khi, bị hành hạ và đối xử tàn tệ cho đến chết.
Đức Giêsu đứng về phía những người cùng khổ. Ngài vác thánh giá của họ, như họ và với họ.
Chính vì thế khi vác thánh giá theo chân Đức Giêsu, chúng ta cũng muốn chia sẻ thánh giá của cả nhân loại.
Đức Giêsu còn bị đóng đinh cho đến tận thế, ngày nào còn một người anh chị em của Ngài khốn khổ.
Đi đàng thánh giá với Chúa trong mùa Chay giúp ta nhậy cảm hơn với thánh giá của tha nhân, và nhận ra mình có trách nhiệm trước mọi cuộc khổ nạn đang diễn ra trên toàn cầu.
Đức Giêsu đã xuống tận cùng vực thẳm của phận người. Ngài muốn gieo hy vọng cho những ai thất vọng. Ngài đem lại ý nghĩa cho những khổ đau vô lý. Ngài đã đón nhận tất cả với tình yêu thứ tha, nhờ đó thánh giá nở hoa, vực thẳm tràn trề sức sống.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Chúa, ta thấy mình chẳng phải là kẻ đứng ngoài cuộc.
Tôi thấy mình có nét của Giuđa, một người được chọn, được yêu, được theo Thầy rất gần. Bao phép lạ đã chứng kiến, bao lời vàng ngọc đã được nghe. Tất cả vỡ tan khi Giuđa bán Thầy bằng nụ hôn giả dối.
Tôi thấy mình có nét giống Phêrô. Ông tự hào về tình yêu của mình đối với Thầy để rồi dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ. Tiếng gà nào khiến Phêrô chợt tỉnh. Ánh mắt thứ tha nào của Thầy khiến Phêrô oà khóc. Vẫn có những tiếng gà và ánh mắt Chúa trong đời tôi...
Tôi thấy mình có nét giống Philatô. Ông bị trói chặt bởi nỗi sợ: sợ dân nổi loạn, sợ mất chức. Ông bị mất tự do vì áp lực của đám đông thét gào. Ông không đủ bản lãnh để tha một người vô tội.
Tôi cũng thấy mình có nét giống Hêrôđê, tò mò, háo hức, trông chờ Đức Giêsu làm phép lạ. Nhưng ông mau chóng thất vọng khi thấy Ngài lặng thinh. Ông buồn vì không gặp một Giêsu như ông mong ước.
Nhưng cuộc khổ nạn cũng có những điểm sáng.
Simon vác đỡ thập giá Đức Giêsu, các bà theo sau than khóc.
Khuôn mặt rực rỡ hơn cả lại là người trộm lành. Một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác. Anh tin Đức Giêsu vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh. Lòng tin khiến anh trở nên người được hưởng ơn cứu độ. "Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng": Câu này cũng phản ánh niềm tin và hy vọng của Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Pascal viết: "Đức Kitô còn hấp hối cho đến ngày tận thế." Bạn nghĩ gì về câu nói này? Bạn có cảm thấy cơn hấp hối của phần lớn nhân loại hôm nay không?
Trong các nỗi đau của Đức Giêsu chịu khổ nạn, bạn thấy nỗi đau nào lớn nhất? Tại sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
5. Tính chất hiện tại của Bí Tích Thánh Thể
(Suy niệm của Achille Degeest: Lc 22,14-23,56)
Bài tường thuật của thánh Luca về Tiệc Ly cho thấy ở khoảnh khắc quan trọng nhất lịch sử Đức Kitô, diễn ra một biến cố rất quan trọng: Giao Ước cũ kết thúc, Giao Ước mới bắt đầu. Đức Giêsu ăn mừng lễ Vượt Qua theo luật Do Thái quy định, và nói rõ lần này là lần cuối cùng Người mừng lễ đó. Tới khi nào Chúa lại ăn mừng lễ, lúc đó sẽ là lễ Vượt Qua mới. Người khởi sự bằng việc thiết lập bí tích Thánh Thể. Ngôn từ sử dụng ở đây dễ hiểu: bánh và rượu trở nên Mình và Máu Đức Kitô. Này là Mình Ta... Các tông đồ không có một ý niệm gì về Lời Chúa, Chúa nói sao các ông nghe và nhớ đúng thế, lúc đó các ông không hiểu gì về ý nghĩa tượng trưng. Các ông không hiểu cũng như chúng ta ngày nay không hiểu, các ông ghi nhớ rằng, Đức Giêsu đưa ra bánh và rượu, Chúa nói đó là Mình và Máu Người, Chúa bảo các ông sau này hãy làm lại việc ấy để nhớ đến Người. Các ông chỉ biết nghe và hiểu theo nghĩa đen. Niềm tuân phục của các tông đồ đối với lệnh truyền của Đức Kitô sẽ làm phát sinh thực tại kỳ diệu là Thánh Lễ của chúng ta. Đoạn Phúc Âm vượt lên trên bất cứ chú giải nào. Chúng ta nêu ra hai điểm:
1) Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta.
Nhớ, theo một nghĩa Cựu Ước, là tưởng niệm một biến cố làm đổi mới và hiện tại hoá tương quan Thiên Chúa với nhân loại. Thiên Chúa vượt khỏi tầm thời gian. Người hiện hữu và hành động trong hiện tại cũng như hằng có và hành động trong quá khứ. Tương quan giữa Giao Ước Thiên Chúa với nhân loại luôn mãi có tính chất hiện tại. Chỉ con người mới có quá khứ và hiện tại. Khi con người cử hành nghi lễ để nhớ đến một hành vi của Thiên Chúa, con người hiệp thông với một hành vi thần linh trong hiện tại của mình. Đức Giêsu đã muốn rằng bí tích Thánh Thể phải hiện thực trong hiện tại của mỗi người để nhớ đến Chúa.
2) Tay kẻ nộp Ta... Chúa loan báo sự phản bội của Giuđa trong tiệc Vượt qua Do Thái hay trong bừa Tiệc Ly?
Người ta nghiêng về thuyết Chúa loan tin ấy trong tiệc Vượt qua. Dẫu sao, ở đây chúng ta đứng trước một trong những vực thẳm tâm lý con người. Sự thiết lập bí tích Thánh Thể là một hành vi thần diệu, nhưng kèm theo một sự phản Thày của Giuđa và một cuộc cãi vã giữa các môn đệ, vì sau khi tranh luận để nhận diện ai là kẻ bán Thày, các ông xoay ra cãi nhau để biết trong anh em ai là người đáng được coi là lớn nhất. Tất cả chúng ta dễ sinh ra nhỏ nhen hèn hạ. Chúng ta cố gắng dẹp bỏ những chuyện ti tiện, nhất là trong những Thánh Lễ của chúng ta.
6. Rước Lá: Lc 19,28-40
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thương Khó đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người.
Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông dân chúng nô nức phất cao cành lá: "Hoan hô Con Vua Đavit" có vẻ là một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng, đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ trước mặt Tong trấn Philatô trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: "Đả đảo! Đóng đinh nó vào Thập giá!"
Thưa anh chị em,
Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài đã bị mọi người bỏ rơi và lên án, điều đó còn khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba mà thôi.
Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.
Thử hỏi: nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào? Và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng, tôi không dễ gì làm như ông Simon thành Syrênê được đâu. Ông đã vác thập giá đỡ cho Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội quả quyết rằng, tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm tông đồ trốn chạy, hoặc là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ rằng tôi rất yếu đuối, dễ đứng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể, tương tự hành động của Giuđa. Thật vậy, chúng ta không ai vô tội trước cái chết của con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến ngày tận thế.
Anh chị em thân mến,
Trong những ngày thánh nầy, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy bước theo Chúa qua từng chặng đường, từ toà đạo đến toà đời, và hãy ở lại thật lâu trên Núi Sọ. Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Chúa chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta.
Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Cha và với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Vậy chúng ta hãy cảm nếm thật sâu nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra tình yêu bao dung nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài. Ước gì chúng ta có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
Bài Thương Khó: Lc 22,14-23,56.
ĐÁM ĐÔNG DƯỚI CHÂN THẬP GIÁ
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "ba thập giá".
Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét... tác giả như muốn nói rằng: không chừa một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt (tác giả của bức tranh).
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói rằng, mọi người đều được dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá...
Thưa anh chị em,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây 2000 năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để từ chối trách nhiệm của ông. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.
Tuy nhiên, dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Đức Kitô trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm, bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đau đớn như thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài đã phải treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dầu cách xa 2000 năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính một cái đinh đóng vào thân thể Ngài...
Nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá, nơi Ngài đã bị treo lên trong tủi nhục đau đớn. Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án phạt của tội lỗi. Nhìn lên thánh giá của Ngài để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm nếm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn...
Nhìn lên thập giá Chúa để cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài. Như thế, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi để tha thứ nhiều hơn. Càng tha thứ nhiều hơn, chúng ta càng dễ cảm nếm được ơn tha thứ của Chúa hơn.
7. Người tôi tớ khổ đau của Giavê
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Trong một ngôi nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một thập giá cổ được giáo hữu rất tôn sùng. Đó là tượng thập giá tha tội, tượng Chúa Giêsu bị đóng đinh có cánh tay phải rời khỏi thập giá và hạ thấp xuống. Người ta có kể rằng dưới chân cây thánh giá này, có một người tội lỗi đến với cha xứ. Tuy ông xưng thú mọi tội lỗi với lòng thống hối ăn năn, cha giải tội lưỡng lự không biết có nên tha cho ông không, vì thấy ông phạm quá nhiều tội. Sau cùng, cha nghiêm nghị bảo ông: "Tôi ban phép giải tội cho ông nhưng mà trong tương lai thì phải để ý". Ông ta hứa với cha xứ là sẽ cố gắng sửa mình và tránh mọi tội lỗi. Nhưng vì yếu đuối quá, sau một thời gian ông lại tìm đến xưng tội, Lần này thì cha xứ nói với ông giọng quả quyết: "Tôi ban phép giải tội cho ông lần này nữa là lần cuối cùng đó nghe". Vài tháng trôi qua, ông lại tìm đến cha xứ và quỳ xuống chân cha năn nỉ: "Thưa cha, con thống hối đến tận đáy tâm lòng. Lần nào con cãng nhất quyết giữ lời hứa, nhưng con yếu đuối quá, xin cha tha tội cho con một lần nữa". Cha xứ đáp: "Đâu có thể đùa giỡn với Chúa được. Tôi không ban phép giải tội cho ông nữa". Khi đó cha nghe có tiếng nấc nghẹn ngào. Từ trên thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu hạ xuống làm phép tha tội trên đầu người tín hữu thống hối. Rồi Chúa Giêsu nói với vị linh mục: "Chính Cha đã đổ máu ra để cứu chuộc ông ấy chứ không phải con". Và cũng từ ngày ấy, bàn tay của Chúa Giêsu chịu đóng đinh ở trong tư thế ban phép xá giải.
"Chính Cha đã đổ máu ra để cứu chuộc con". Lời ấy chính Chúa Giêsu đã nói với mỗi người trong chúng ta trong Tuần Thánh, với biến cố Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem, để sau đó vài ngày chịu đóng đinh và chết trên thập giá, hầu trao ban sự sống mới cho chúng ta.
Chương 50,4-7, sách ngôn sứ Isaia là một trong bốn bài ca miêu tả người tôi tớ của Giavê Thiên Chúa. Trong tuyền thống Kitô, người tôi tớ Giavê là danh hiệu ám chỉ người hiến hoàn toàn cuộc sống mình để phụng sự Thiên Chúa và Lời Ngài, luôn kiếm tìm thi hành ý của Thiên Chúa cho dù có phải chịu đau khổ và bắt bớ đi nữa. Do đó trong lịch sử chú giải Kinh Thánh, khi thì người tôi tớ đó được đồng hóa với ngôn sứ Isaia, khi thì là Giêrêmia, khi khác nữa lại là Đấng Cứu Thế toàn dân Israel. Tuy nhiên, các chương sách Isaia II, tức các chương từ 40-55, đề cập đến cảnh sống lưu đày bên Babylon của dân Israel, do đó có thể bài ca này ám chỉ cách sống đày ải khổ đau của dân Do Thái. Để miêu tả cảnh khổ đau này, bài ca trên đây dùng kiểu nói diễn tả nỗi khổ nhục thê thảm của kiếp sống lưu đày: Đưa lưng cho người ta đánh đòn, ám chỉ hình phạt dành cho người ngu dại bị coi như đồng hạng với thú vật; giơ má cho người ta vặt râu, ám chỉ đến danh dự và lột mất phẩm giá của một người; chường mặt cho người ta phỉ nhổ, ám chỉ mọi hành động xúc phạm và khinh rẻ phẩm giá của một người cũng như sự sống của một người. Tất cả cảnh sống trên đây diễn tả cảnh sống nhục nhã, bị khinh miệt và khổ đau dân Do Thái phải chịu trong thời lưu đày.
Tuy nhiên trong tình trạng sống buồn thương ấy, dân Do Thái vẫn ý thức được sự can thiệp của Thiên Chúa. Bởi vì thực ra, chỉ có Thiên Chúa là có thể biến đổi được tình trạng sống khổ đau ấy trở thành suối nguồn trao ban ơn cứu độ cho họ. Qua đau khổ, Thiên Chúa giáo dục cho con người biết sống thái độ sẵn sàng đón nhận thánh ý Ngài. Khi chấp nhận sống lưu đày, dân Israel chấp nhận tự thanh tẩy chính mình khỏi mọi bất trung và tội lỗi đã sai phạm. Họ cảm nghiệm được sâu xa hơn Thiên Chúa là Đấng hướng dẫn và dùng mọi biến cố lịch sử để làm ích lợi cho con người.
Trong thời Tân Ước, người tôi tớ khổ đau ấy là hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế chịu khổ nạn và đóng đinh. Thánh Giá xem ra là dấu chỉ của ơn cứu độ và ơn thánh Ngài ban cho con người. Khi tuyệt đối trung thành với thánh gia, chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha, đến sẵn sàng chấp nhận khổ đau và cái chết khổ nhục trên thánh giá. Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết ý nghĩa và giá trị cứu độ của khổ đau.
Trong chương 2,6-11 thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô dùng tước hiệu người tôi tớ ấy để nói về Chúa Kitô. Khi nhập thể làm người, Chúa Kitô đã đi ngược lại lộ trình mà Ađam đã đi xưa kia. Nếu Ađam là hình ảnh diễn tả toàn nhân loại đã từ chối địa vị thụ tạo của mình và muốn trở thành Thiên Chúa, nên phá hủy chương trình Thiên Chúa có đối với loài người trong thời tạo dựng. Thì giờ đây, từ địa vị Thiên Chúa, Đức Giêsu hạ mình làm người, chấp nhận khổ nhục y như một tên nô lệ, một người tôi tớ để trao ban cho loài người cuộc sống hạnh phúc thần thiêng. Con đường Thiên Chúa đi là đại lộ kinh hoàng, là con đường của khổ đau và thập giá, là con đường của khiêm hạ và thất bại. Nhưng nó là con lộ duy nhất dẫn đến ơn cứu độ.
Thật vậy, thánh giá khổ nhục và khiêm hạ đánh đổ được kiêu căng tội lỗi đã khiến con người xa rời Thiên Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc của mình. Nhưng con đường khiêm hạ được Thiên Chúa can thiệp và đảm bảo với biến cố Phục sinh. Thiên Chúa đã đặt để Chúa Kitô, Ađam mới trong chốn vinh quang, trong nơi danh dự mà Ađam loài người xưa kia đã không đạt tới được. Nội dung con đường trao ban ơn cứu độ ấy được ghi lại trong trình thuật của bốn Phúc Âm, nó là phần nòng cốt được biên soạn ra trước tiên và sau này được các thánh sử khai triển theo hướng thần học riêng của mình.
Trong chương 22,14-23,56 thánh Luca trình bày cuộc khổ nạn như một trận chiến quyết liệt cuối cùng của Satan, như là phần kết thúc các cám dỗ nó đã khởi sự trước khi Chúa Giêsu công khai loan báo Tin Mừng Nước Trời. Kết thúc trình thuật ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc, thánh Luca viết trong chương 4,13: "ma quỷ rời bỏ Ngài để trở lại vào thời điểm đã định". Cuộc khổ nạn là thời điểm Satan trở lại để lại vào giao đấu với Chúa Giêsu lần cuối cùng. Ngoài ra, trong nhãn quan thần học của thánh sử Luca, cuộc khổ nạn cũng ghi lại chặng cuối cùng, đồng thời là đạt đỉnh con đường loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu khởi đầu từ Galilê và kết thúc tại Giêrusalem.
Cuộc khổ nạn cũng là lúc diễn tả rõ rệt nhất các nét đặc thù trong gương mặt của Chúa Giêsu. Theo thánh sử Luca, trước hết là tinh thần cầu nguyện. Chúa Giêsu đã gia tăng lời cầu nguyện trong những ngày và những giây phút cuối đời của Ngài. Lời cầu hấp hối kéo dài trong vườn cây Dầu trước khi Chúa Giêsu bị bắt là chứng tích rõ ràng nhất. Càng phải đương đầu với thử thách bắt bớ và khổ đau, Chúa Giêsu càng tín thác tha thiết kết hợp với Thiên Chúa Cha cho dù Ngài có cảm tưởng Thiên Chúa làm thinh và cũng đã bỏ rơi Ngài.
Tiếp đến là lòng nhân từ thương xót của Chúa Giêsu Kitô đối với những người tội lỗi. Chúa Giêsu thương chữa tên đầy tớ thầy thượng phẩm bị chém đứt tai. Nhân từ thương xót với thánh Phêrô đã chối Ngài ba lần, Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô nhân từ, thương xót. Đối với những người đã đóng đinh Ngài: "Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm". Nhân từ thương xót với người ăn trộm bị xử cùng lúc với Ngài: "Hôm nay ngươi sẽ ở cùng Ta trên Thiên Đàng".
Sau cùng thánh sử Luca nêu bật thái độ vâng lời triệt để của Chúa Giêsu đối với thánh ý của Thiên Chúa Cha. Theo thánh sử, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu không do con người muốn, mà nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha. Thánh Luca chỉ qui tội cho giới lãnh đạo Do Thái mà thôi, ngay cả quan tổng trấn Philatô cũng được thánh sử châm chước. Nghĩa là theo quan điểm thần học, Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục chương trình cứu độ do Thiên Chúa Cha hoạch định, do đó cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá là điểm tới thành toàn. Chúa Giêsu phải chết không phải do một định mệnh dã man và khắt khe, cũng không phải do quyết định của một người trần gian nào khác, vì Ngài muốn tuân hành thánh ý và chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha. Chương trình cứu độ ấy được thành toàn trên thập giá và qua cái chết hiến dâng đền tội của Chúa Giêsu Kitô, người tôi tớ khổ đau của Giavê Thiên Chúa.
8. Vui lòng vâng phục thánh ý Chúa
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Với Lễ Lá hôm nay, chúng ta bắt đầu tuần lễ quan trọng nhất của Năm Phụng Vụ gọi là Tuần Thánh. Trong Tuần Thánh, chúng ta cử hành cuộc khổ nạn, sự chết và nhất là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Dầu cho với cái nhìn chính trị, xã hội của con mắt người đời, việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua, là một việc có tính cách gây rối chính trị, vì đế quốc Rôma đang cai trị và Hêrôđê đang làm vua. Nhưng Chúa Giêsu, Người biết rõ việc Người làm. Trước mặt Philatô, Người tuyên bố rõ ràng: "Tôi là Vua nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này".
Vậy Phụng vụ Lễ Lá có thể gợi lên cho chúng ta ba ý nghĩa. Trước tiên Chúa nhật lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem long trọng của Chúa Giêsu trước khi Người chịu khổ hình và chết. Biến cố đó cho chúng ta thấy Chúa Giêsu biết rằng giờ của Người đã đến, biết rằng Người phải làm gì và Người đã tự nguyện bước vào cái chết sinh ơn cứu độ, như hạt lúa miến đã chết đi để sinh sự sống mới. Người tự hiến mình để chu toàn thánh ý của Chúa Cha. Vì thế trước đó nhiều lần, những người Do Thái chống đối lập mưu để giết Người, như ném đá Người hoặc xô Người xuống vực thẳm, nhưng họ không làm được việc gì, vì giờ của Người chưa đến. Và cũng đã nhiều lần dân chúng hợp lại định tôn phong Người lên làm vua, nhưng Người đã lẫn trốn sang nơi khác cũng chỉ vì giờ của Người chưa đến.
Ý hướng thứ hai của lễ Lá là ngày lễ để tôn kính Chúa Kitô là Vua. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế của Người, Chúa Giêsu đồng ý để cho dân chúng tung hô vạn tuế Người là Vua: "Hoan hô chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời". Người vào Giêrusalem, thành của vua cả trong phong cách đế vương, và chính vì phong cách đế vương này mà Người đã bị kết án tử hình. Bản án của Người được viết bằng ba thứ tiếng, Do Thái, La Tinh và Hy Lạp, "Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái". Vì thế, dầu cho Người bị kết án tử hình bằng một hình khổ dã man và nhục nhã, đóng đinh chân tay căng thây trần truồng trên thập giá, nhưng các sách Phúc Âm đều ghi đậm nét vẻ vương giả của Người để khai mào một vương quốc mới. Vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của yêu thương và an bình như Người đã nói trước mặt Philatô: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi". Vậy Chúa nhật lễ Lá cho chúng ta một cơ hội nữa để tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Vua các vua, Vua cả trời đất, nhất là Vua của mọi cõi lòng.
Với ý nghĩa thứ ba, Chúa nhật lễ Lá nhắc cho chúng ta biết sống trên đời là đối đầu với đau khổ, vì lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Người trên đồi Canvê. Khi chấp nhận bằng lòng vác thập giá mình mà theo chân Chúa Giêsu, đó là chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Người, noi gương Người để vác thập giá, nhưng điều quan trọng là không phải vác đi trong than khóc mà trong hy vọng. Vì với Chúa Giêsu, đau khổ và chết chóc không dồn con người vào ngõ bí, mà là dẫn đưa đến vinh quang của ngày sống lại.
Hôm nay trong cái nghịch lý của Lễ Lá, vị Vua của chúng ta tiến lên, vị Vua đã bênh vực nhân vị của con người, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác như tinh thần của những ai đến cùng Người. Vị Vua đó đã thu, đã hút tất cả những đau khổ của thể xác và tinh thần của con người vào chính bản thân mình, để chết đi một lần cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào chốn trường sinh. Đó là niềm hy vọng của chúng ta.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ tìm cách tế nhị giúp cho một người đang gặp khó khăn vật chất hoặc đau buồn tinh thần, để họ lấy lại được niềm hy vọng. Và noi gương Chúa Giêsu nơi vườn cây Dầu, khi Người cầu nguyện: "Lạy Cha nếu có thể được, xin cất chén đắng này xa Con, nhưng xin đừng theo ý Con một theo ý Cha mà thôi", chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta biết vui lòng vâng phục thánh ý Chúa, dầu lắm khi chúng ta không hiểu được tại sao.
9. Bài Giảng của ĐGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
(Thánh Lễ Chúa Nhật Lễ Lá năm 2005 cho Giới Trẻ).
Cha phải nói với chúng con những gì trong thánh lễ chiều nay? Cha đã cầu nguyện rất nhiều, và Chúa đã dạy cha.
Chiều nay, cha mời gọi chúng con cùng với cha, chúng ta hãy quyết tâm thực hiện điều quan trọng nhất đối với cuộc sống kitô hữu của chúng ta: hãy chọn Chúa Giêsu giữa nhiều đối tượng, dù Chúa Giêsu chịu đóng đinh, dù Người chịu treo trên thập giá, Người bị bỏ rơi, dù Người bị sỉ nhục, và bị giết chết...
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị sỉ nhục ngày hôm nay; Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị bôi tro trét trấu trên gương mặt đẫm máu của Người. Chúa Giêsu vẫn không ngừng bị bôi nhọ cho đến ngày tận thế, bấy giờ không ai có thể bôi nhọ Người nữa, vì Người trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người.
Chúng ta chọn lựa Chúa Giêsu, dù có những tiếng kêu mời khác: tiếng kêu mời của hưởng thụ và tiện nghi, của lợi nhuận và tiền bạc, tiếng mời gọi của danh vọng và địa vị, của các loại tình cảm và đam mê. Chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và đã cắt đặt các con để các con đi và sinh nhiều hoa trái và hoa trái các con tồn tại (Ga 15, 16).
Khi nói như thế, Chúa Giêsu cố ý dạy chúng ta rằng: chính tình yêu của Người đi bước trước: Chúa Giêsu yêu chúng ta trước, chứ không phải chúng ta yêu Người trước. Như lời kinh Tin Kính: vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Người đã chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta. Người đã chết vì tội lỗi chúng ta như lời Kinh Thánh và như lời thánh Phaolô, Người đã sống lại cho chúng ta được nên công chính, được cứu độ, được chia sẻ Thần Khí Phục Sinh của Người, thông phần sự sống thần linh của Người...
Khi nói với các môn đệ không phải các con đã chọn Thầy, Chúa Giêsu không cố ý nói rằng các con đừng chọn Thầy, đừng theo Thầy. Trái lại Người luôn mời gọi hãy theo Thầy, hãy từ bỏ mọi sự vác thập giá mà theo Thầy. Và đã có biết bao nhiêu người trẻ bỏ mọi sự mà theo Người.
Đứng trước những khó khăn, Chúa Giêsu còn cho thấy rõ ràng là phải chọn lựa, như trường hợp có nhiều người bỏ Chúa Giêsu, nhiều môn đệ nói với Người: lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi? Bấy giờ Chúa Giêsu đã hỏi nhóm Mười Hai: "các con cũng muốn bỏ đi hay sao?" Và ông Simon Phêrô đã nhanh nhẩu đáp thay cho nhóm Mười Hai: "Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Chỉ có Thầy mới có lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6, 67-69).
Các con sẽ nói với Chúa Giêsu như thánh Phêrô: Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con theo ai? Chỉ theo Thầy, chúng con mới có những lời ban sự sống đời đời. Các con chọn Chúa Giêsu; Các con có biết rằng chọn Chúa là chọn lời của Người, chọn Tin Mừng của Người không? Lời của Người vẫn còn chướng tai đối với nhiều người hôm nay. Giáo huấn của Người, dù rất tiến bộ vẫn bị coi là bảo thủ đó! Muốn vâng nghe lời Người, đôi lúc các con phải lội ngược dòng sông!
Theo bài tường thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hôm nay, đám đông người Do Thái đã bị xúi giục chọn lựa Barraba, và họ đã chọn ông. Còn Chúa Giêsu, thì họ để cho bị lôi đi đánh đòn, và giết chết. Các con có dám nói ngược lại với đám đông không? Các con có dám chọn Chúa Giêsu, khi nhiều mãnh lực thế gian tìm cách loại bỏ Người? Các con có sợ mình lỗi thời khi chọn Chúa Giêsu không? Có nhiều người, vì sợ lỗi thời mà đã bỏ Chúa. Nhưng tất cả những ai đã bỏ Chúa rồi sẽ thất vọng, vì thế gian này qua đi, chỉ có Chúa mới tồn tại. Chỉ có Chúa mới là Tương Lai đích thực của loài người.
10. Giờ chiến thắng vinh quang – Lm Ignatio Trần Ngà
Đức Giêsu gọi giờ tử nạn là giờ Ngài được tôn vinh, được vinh quang.
Vinh quang ở đâu mà chỉ thấy bị bắt bớ, xét xử, bị vu cáo đủ điều, rồi bị kết án, bị đòn vọt, đinh sắt, lưỡi đồng, gai nhọn và cuối cùng là cái chết thảm thương trên thập giá.
Nhìn lên thập giá, người ta chỉ thấy ô nhục và đau thương, thất bại cay đắng! Vậy vinh quang của Chúa Giêsu ở đâu? Vì sao Ngài gọi đây là giờ Ngài được tôn vinh? Nghe có vẻ ngược đời.
Đối với người không suy xét, thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại, một thất bại rất chua chát đắng cay; nhưng suy cho kỹ, cái chết đó là một chiến thắng oanh liệt vô cùng.
Đây là chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung vô bờ bến. Đối diện với cuộc kết án bất công, đối diện với đám đông cuồng nộ đòi đóng đinh Ngài, đứng trước những vị lãnh đạo tôn giáo muốn diệt mình cho bằng được, đứng trước những kẻ chế giễu nhạo cười với bao lời thách thức, đứng trước đội quân hành quyết hung dữ bạo tàn... Chúa Giêsu vẫn không mảy may oán hận! Ngài chiến thắng sự hận thù lẽ ra phải có bằng lòng bao dung vô bờ bến. Ngài nhìn họ với ánh mắt đầy thương xót, vẫn yêu thương họ bằng trái tim nhân hậu... Rồi Ngài sợ Chúa Cha đánh phạt họ vì tội lỗi ngất trời của họ, nên trước khi nhắm mắt tắt hơi, Ngài tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ và kết án tử cho Ngài. "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm".
Đây là sự chiến thắng tính khiếp nhược, chiến thắng lòng tham sinh uý tử bằng một sự dũng cảm rất cao cường. Là người ai không sợ chết. Chính Chúa Giêsu cũng đã trải qua những giờ phút kinh hoàng trước viễn ảnh cái chết đau thương sắp đến khi cầu nguyện trong vườn Dầu, thế nhưng Ngài không bị khuất phục bởi cái chết. Ngài đã đứng dậy để dũng cảm đương đầu với nó. Ngài đã chấp nhận chết cách can trường và đã huỷ diệt sự chết để hồi sinh.
Đây là chiến thắng trên sự đau đớn thể xác và đau khổ trong tinh thần. Là người ai cũng sợ khổ, sợ đau. Ai cũng tìm cách lánh thoát khổ đau. Nhưng Chúa Giêsu đã đón nhận những cực hình đau thương khủng khiếp một cách can đảm phi thường. Qua thập giá, Ngài đã hoàn toàn chiến thắng nỗi sợ hãi đau đớn của kiếp người.
Qua cách thức Ngài đương đầu với cuộc khổ nạn, ta thấy không một thách thức nào làm cho Ngài nao núng; không một đau khổ nào làm cho Ngài khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm cho Ngài nổi giận hay mất bình an; không một khó khăn nào làm cho Ngài lùi bước... Cả cái chết cũng không làm Ngài khiếp sợ mà thoái thác sứ mạng Chúa Cha trao cho Ngài. Ngài thắng được bản năng tham sinh úy tử; Ngài chiến thắng bản năng sợ khổ, sợ khó, sợ đớn đau; Ngài thắng được bản năng muốn được an toàn, muốn được sung sướng hạnh phúc; Ngài thắng được lòng thù hận lẽ ra phải có khi người ta bị sỉ nhục và đối xử tàn ác và rất dã man... Trong cuộc khổ nạn của mình, Đức Giêsu chiến thắng hoàn toàn bản thân mình, vượt qua mọi thách thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ mạng Chúa Cha đã trao ban.
Chiến thắng cả thiên hạ không bằng chiến thắng chính bản thân mình. Chúa Giêsu đã thực sự chiến thắng bản thân mình, hoàn toàn làm chủ con người mình, bắt thân xác phải vâng phục tinh thần như chiên ngoan. Đó là chiến thắng vĩ đại nhất không còn chiến thắng nào lớn lao hơn.
Lạy Chúa Giêsu Ki-tô, Ngài vô cùng dũng cảm và hùng mạnh nên đã chiến thắng tử thần và đẩy lùi mọi cuộc tấn công của nó, xin nâng đỡ chúng con là những kẻ yếu hèn bạc nhược, đừng để chúng con chào thua trước tội lỗi cách dễ dàng mà phản bội lại tình yêu cao vời của Chúa.
11. Giờ cứu độ – Lm Jos. Trần Ngà
Cuộc đời Chúa Giêsu dường như luôn chuẩn bị cho Giờ của Thiên Chúa. Giờ cứu độ. Giờ mà chính Chúa sẽ hiến mình làm của lễ dâng mình cho Chúa Cha và để cứu độ trần gian. Chúa đã từng nói "chính vì Giờ này mà Ta đến trong thế gian". Và cuộc đời của Chúa Giêsu dường như lúc nào cũng có bóng thập giá. Thập giá đã thấp thoáng ngay từ ngày Chúa sinh ra. Hêrôđê đã kết án tử cho Chúa. Trong suốt ba năm rao giảng tin mừng, bóng thập giá luôn lấp ló trên mọi hành trình Chúa đi qua.
Nét đẹp nơi Chúa Giêsu khi phải đối diện với Giờ cứu độ chính là thái độ cương quyết dấn thân của Chúa Giêsu. Ngài không chùn bước. Ngài không sờn lòng. Ngài vẫn mạnh dạn tiến về phía trước. Ngài đã từng nhiều lần mời gọi các môn đệ: "nào chúng ta cùng lên Giêrusalem". Ngài biết rằng ở đó có thập giá, có khó khăn, có đau khổ đến với Ngài. Nhưng Ngài vẫn tiến bước, vì đó là sứ vụ của Ngài. Đó cũng là điều đẹp lòng Chúa Cha. Dầu trên hành trình này, Ngài đã tiến bước trong cô đơn. Dầu chẳng ai đủ can đảm theo Ngài, nhưng Chúa Giêsu vẫn phải uống chén đắng để vui lòng Chúa Cha.
Trong tin mừng hôm nay, thánh Luca đã miêu tả Chúa Giêsu thật sự cô đơn trong 12 giờ cuối cùng của cuộc đời. Các môn đệ ngủ vùi trong vườn cây Dầu và bỏ chạy khi đối diện với gian nguy. Các thành viên của thượng hội đồng Do Thái chống đối, âm mưu làm hại, môn đệ Giuđa phản bội, và cố gắng của Phêrô đã cố đi cho tới bên trong dinh thượng tế, nhưng đáng tiếc, ông không bênh vực Thầy mà đã chối bỏ Thầy mình, không chỉ một lần mà là 3 lần, dù rằng ông đã được nhắc trước về những gì sẽ đến với ông. "Ngay trong đêm nay khi gà chưa kịp gáy con đã chối Thầy 3 lần".
Nhưng vượt lên trên sự bỏ rơi của các môn đệ, sự cô lập của các thế lực thù địch đó là thái độ bình thản của Chúa Giêsu trước các biến cố. Ngài hoàn toàn tự do để có thể lẩn tránh hay đón nhận. Ngài có thể khước từ chén đắng, nhưng Ngài đã đón nhận trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha. Tuy nhiên khi giờ đã đến, Ngài vẫn cảm thấy hãi hùng, xao xuyến. Ngài sợ hãi, vì viễn tượng chết vẫn vượt qúa những dự phóng của con người nên Ngài đã phải cầu nguyện. Cầu nguyện trong cô đơn, sợ hãi đến nỗi mồ hôi máu bịn rịn nơi thân thể Ngài. Qua đây ta thấy rõ hơn nhân tính của Ngài. Vì con người là yếu tố bất định trong lịch sử. Do đó Chúa Giêsu cũng không thể biết được ngày mai ra sao. Dòng đời sẽ xô đẩy Ngài đi đến đâu. Thực vậy, nếu Ngài biết thì không còn là con người nữa. Tất cả những gì đang diễn ra, Ngài đều phải cầu nguyện để tìm hiểu thánh ý Chúa Cha. Đây quả là giờ của đau khổ, giờ của hãi hùng, giờ bị mọi người khước từ. Đây quả là chén đắng của cuộc đời. Chén chua chát bị ruồng bỏ, của nhạo báng, của cái chết, đến nỗi Ngài đã nại đến quyền năng vô biên của Cha: "Cha có thể làm mọi sự, xin cho con khỏi uống chén này", nhưng khi hiểu được đâu là thiên ý Ngài lại tiếp tục bình thản "xin đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha".
Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những bóng tối của lòng người, khi chúng ta nuôi dưỡng hận thù, tìm cách hãm hại anh em. Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những con người công chính, lương thiện bị trù dập và cô lập giữa xã hội mà công bình bác ái đã không còn công minh. Đồng tiền và quyền lực đã làm cán cân công lý bị bẻ gẫy. Người công chính, kẻ lương thiện vẫn là nạn nhân của bất công, gian dối và tham lam. Biết bao người đã để cho bóng tối của lòng tham nổi loạn đến nỗi chà đạp lương tri và nhân phẩm của bản thân và đồng loại. Con người ngày nay vẫn nhân danh hạnh phúc của riêng mình để kết án tử hình người khác, nhất là các thai nhi vô tội. Biết bao cha mẹ đã viện ra nhiều lý do để loại trừ những đứa con trong lòng mình một cách dửng dưng đáng sợ. Con người chỉ vì lòng tham, chỉ vì tính ghen tỵ, chỉ vì thói kiêu căng giả hình vẫn đang tìm cách làm hại cuộc đời của nhau. Bao lâu chúng ta còn nuôi dưỡng những ý đồ bất chính, những thủ đoạn gian tham, những ích kỷ nho nhen là bấy lâu vẫn còn đó những con người lương thiện bị đe doạ, bị hành hạ và loại trừ. Và như thế, Đức Kitô vẫn lại phải chịu những bản án bất công mà con người dành cho Chúa. Đức Kitô vẫn tiếp tục bị cô đơn và khước từ giữa dòng đời này.
Hôm nay ngày khởi đầu tuần thương khó, mỗi người chúng ta hãy rà xét lại lối sống của mình để ăn năn thống hối về lời nói việc làm của mình, dù là vô tình hay hữu ý đã và đang gây đau khổ cho người khác. Nguyện xin Đức Giêsu, Đấng đã chết vì tội lỗi chúng ta ban ơn tha thứ và giúp chúng ta chỉnh sửa lại lối sống của mình cho xứng với lòng ăn năn sám hối. Amen.
12. Chiến thắng của tình yêu - McCarthy
Suy Niệm 1. NỖI ĐAU CỦA ĐỨC GIÊSU VÀ CỦA CHÚNG TA
Một buổi tối, một người đi làm bằng xe tháng ở Luân Đôn vội vã trở về nhà. Khi nhìn thấy Vương Cung Thánh Đường Wesminter, tự nhiên anh ta được lôi kéo đi vào trong đó. Anh không thể giải thích được nguyên nhân tại sao, bởi vì anh đã bỏ đạo từ lâu. Vừa bước vào toà nhà, anh hoảng hốt khi nhận thấy cây thánh giá treo từ trên mái vòm. Anh sửng sốt khi nhìn vào người đàn ông ở trên thánh giá, bị tra tấn, bỏ rơi, và đã chết. Anh đã từng nhìn thấy những bức hình khủng khiếp của những người đàn ông, phụ nữ, và trẻ em bị giết chết ở Bosnia, họ cũng đã bị bỏ rơi. Ở những nơi khác, anh đã được xem bức hình của những người dân bị đói lả, hốc hác, với từng đàn ruồi bò trên mặt họ, với những đôi mắt nhìn trừng trừng, không còn chờ đợi sự giúp đỡ nào nữa, mà chỉ còn chờ đợi cái chết.
Người đàn ông này ngồi xuống và nhìn chằm chằm vào cây thánh giá trong một lúc. Dần dần, ý nghĩa nội tại của cây thánh giá đã tự mặc khải cho anh ta. Qua nhân vật bị tra tấn và đã chết trên cây thánh giá, anh bắt đầu nhận ra được sự chịu đựng nỗi đau đớn về tâm lý và thể lý của một bà mẹ đang than khóc cái chết của những đứa con trai bà ở Bosnia, của một đứa trẻ đang đói lả ở Châu Phi, của những ông bố bà mẹ đau khổ vì đứa con thân yêu của họ bị chết vì tai nạn. Dường như tất cả nỗi đau của nhân loại đều tập họp ở đây, và đã được người đàn ông trên cây thánh giá biến thành của mình.
Thế rồi anh ta nhìn ra xung quanh, và thấy những người đàn ông và phụ nữ đang im lặng cầu nguyện. Dường như họ chứa đựng một điều bí mật quý giá nào đó. Trong Vương Cung Thánh Đường này, họ cảm thấy thoải mái với chính mình như ở trong nhà. Thế rồi anh nhìn thấy một bà cụ già tiến lại gần một cây thánh giá được đặt gần gian cung thánh. Lúc hôn xong những vết thương của Đức Kitô, bà cụ quay trở ra, sau khi đã được khích lệ và an ủi nhờ tình yêu vĩ đại đó.
Trong lúc quan sát, dường như tâm trí và cõi lòng của anh được nâng lên cao, để đưa vào một thực tại khác. Lần đầu tiên trong cuộc đời, anh biết cầu nguyện. Cây thánh giá không nói nhiều về cái chết, cho bằng ca ngợi tình yêu thương, sự sống và niềm hy vọng. Cây thánh giá của sự khủng khiếp đã trở thành cây thánh giá của niềm hy vọng, thân thể bị tra tấn trở thành thân thể của sự sống mới, những vết thương rộng toang hoác trở thành nguồn gốc của ơn tha thứ, chữa lành và hoà giải. Cuối cùng, khi anh rời khỏi ngôi thánh đường, và hoà mình vào dòng xe cộ đang lưu thông buổi tối, anh cảm thấy được bình an với chính mình và với thế giới.
Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu không phải là một vở kịch, mà có thật, và được Người tự do chọn lựa. Người đã phải chịu đựng nỗi đau bị các bạn hữu của mình bỏ rơi. Người đã phải chịu đựng nỗi đau bị Giuđa –một người trong số họ phản bội. Người đã phải chịu đựng nỗi sợ hãi và cơn hấp hối trong vườn cây dầu, và Người không hề được một ai nâng đỡ trong suốt cơn hấp hối của Người.
Người là đối tượng của một hàng rào gồm những lời tố cáo gian ác. Người đã phải chịu đựng những lời xỉ vả, những trận đòn, khạc nhổ, chế nhạo, những trận đòn roi, mạo gai và những cây đinh xuyên thấu da thịt. Người đã phải chịu đựng nỗi ô nhục vì bị kết án đến chết, giống như một tên tội phạm. Khi sắp chết, Người vẫn còn phải chịu đựng thêm những lời chế nhạo, xỉ vả, và giễu cợt. Ai có thể thăm dò được hết chiều sâu của những điều mà Người đã phải chịu đựng?
Chúng ta có thể tìm được sự bình an, bằng cách liên kết nỗi đau khổ của Đức Giêsu. Không có nỗi cô đơn, đói khát, bị áp bức, khai thác, tra tấn, tù tội, bạo lực hoặc đe doạ nào mà Đức Giêsu đã không phải chịu đựng. Bởi vì Thiên Chúa đã trở thành Emmanuen, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, trong và thông qua Đức Giêsu, nên không một người nào có thể phải hoàn toàn bị cô độc trong nỗi đau khổ của mình.
Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu đem lại lòng can đảm, sức mạnh và niềm hy vọng cho tất cả những người đau khổ. Điều này có nghĩa là chúng ta không còn cô độc nữa.
Suy Niệm 2. LÀM CHỨNG CHO ĐỨC KITÔ
Trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá, các môn đệ của Đức Giêsu đã hoàn toàn nhận ra được lòng tin của họ nơi Người và lòng trung thành đối với Người. Điều làm cho việc bày tỏ sự ủng hộ của họ càng trở nên đáng khen hơn, đó là vì hành động này được thực hiện trong sự nghiến răng cay đắng chống đối của người Pharisêu. Khi một số người Pharisêu đến phản đối Đức Giêsu, Người phán rằng: "Họ mà làm thinh, thì chính những viên sỏi đá cũng sẽ kêu lên".
Có những cơ hội đòi hỏi một sự minh chứng công khai. Đây là một trong những trường hợp này. Đây là trường hợp duy nhất, mà Đức Giêsu chấp nhận một điều gì đó tương tự cảnh được dân chúng sùng bái như một vị anh hùng. Người biết rằng các môn đệ của Người có quyền và có nhu cầu được công khai diễn tả lòng tin của họ nơi Người. Nhưng người ta lại nghi ngờ về lời cam kết của các môn đệ. Không phải là người ta nghi ngờ về sự chân thành của họ, nhưng đó là một sự đáp ứng của công chúng, và khi dân chúng hùa theo như vậy, thì thường có tính cách ồn ào hơn là có chiều sâu.
Thật dễ dàng trong việc làm chứng cho Đức Giêsu ở nơi đây, trong nhà thờ. Chúng ta đang ở giữa những người cùng vây cánh với chúng ta. Nhưng không phải là chuyện dễ dàng, để làm chứng cho Người trong một thế giới hững hờ và đôi khi còn thù địch nữa.
Có những lúc chúng ta cần phải tuyên xưng lòng tin của mình nơi Đức Giêsu một cách công khai. Và có những khi hoàn cảnh đòi buộc chúng ta phải làm như vậy.
Những viên đá sẽ không biết nói ra. Chỉ có con người mới có thể làm được điều đó. Chúng ta đừng nên giữ im lặng nữa, khi có một tiếng kêu đòi hỏi chúng ta phải nói ra: lời nói ủng hộ, để bảo vệ một người nào đó, mà sự đóng góp của họ đang bị quên lãng; hoặc lời nói lên sự thật, ở nơi nào mà người ta cố tình nói dối. Nhưng nói ra không phải là điều dễ dàng. Giữ im lặng thì dễ dàng hơn và an toàn hơn nhiều.
Như vậy, chúng ta hãy cẩn thận, trong khi tuyên xưng lòng tin của mình vào Đức Kitô ở nơi đây, trong nhà thờ, sao cho chúng ta không phớt lờ hoặc chối từ Người tại nơi công cộng. Đức Giêsu nói với chúng ta "Bất cứ kẻ nào tuyên xưng về Ta trước mặt những người khác, thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người đó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời".
Chúng ta có thể rút ra được nguồn cảm hứng từ các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu. Trong Tin Mừng, họ được biết đến như là những người không e ngại trong việc thừa nhận những hoài nghi, nhu cầu và sự thiếu lòng tin của mình. Tuy nhiên, trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá đầu tiên, họ đã mạnh mẽ và gan dạ trong việc làm chứng cho Đức Giêsu.
Xin Chúa rủ lòng thương xót trên chúng ta, là những người môn đệ nhút nhát và đầy sợ hãi của Người, và ban cho chúng ta lòng can đảm, để cuộc sống của chúng ta có thể mang lời chứng về lòng tin mà chúng ta tuyên xưng.
13. Vua vào thành: Lc 19,28-40
Thành Giêrusalem chỉ cách Giêrikhô khoảng 27km, giờ đây Chúa Giêsu đã gần tới đích của Ngài. Giêrusalem điểm cuối cùng của hành trình đang ở trước mặt Ngài. Các ngôn sứ có thói quen mà họ vẫn thường áp dụng, là khi lời nói không đủ tác động, khi dân chúng không muốn tiếp nhận, không muốn hiểu sứ điệp đã được công bố, thì các vị có hành động đặc biệt để đặt sứ điệp của mình vào một bức tranh mà ai cũng nhìn thấy. Chúng ta gặp những hành động ngôn sứ đặc biệt như thế ở 1Vua 11,29-31; Giêrêmia 13,1-11; Êdêkien 4,1-3; 5,1-4. Giờ đây Chúa Giêsu đang dự định vào thành Giêrusalem một cách đặc biệt, đến nỗi chính hành động đó sẽ là lời tuyên bố không thể lầm lẫn rằng Ngài chính là Đấng Mêsia, là vị vua được Thiên Chúa xức dầu. Chúng ta ghi nhận một số điểm cụ thể về việc vào thành Giêrusalem.
1. Công việc được chuẩn bị kỹ càng. Đó không phải là hành động tức thời, đột xuất. Chúa Giêsu không để mọi sự cho đến phút cuối. Ngài đã thương lượng trước với chủ của con lừa: "Chúa cần dùng nó", đó là một mật khẩu đã chọn từ trước.
2. Đó là một hành động thách thức đầy vinh hiển, đầy can đảm. Vào thời điểm này, người ta đã treo giá cái đầu của Chúa Giêsu rồi (Ga 11,57). Theo lẽ thường tình, nếu Ngài có lên Giêrusalem, Ngài cũng nên đi kín đáo và ẩn mình trong chỗ bí mật nào đó ở ngoại thành. Nhưng không thế Ngài vào thành một cách long trọng, công khai, khiến toàn dân phải chú ý và Ngài trở nên trung tâm của sân khấu. Chúng ta phải nín thở khi nghĩ đến một con người mà đầu đã bị treo giá, bị đặt ngoài vòng pháp luật, lại hiên ngang cỡi lừa vào trong thành khiến mọi người phải chú ý vào mình, quả thật không thể mô tả hết được mức độ can đảm của Chúa Giêsu.
3. Đó là cách quả quyết xưng vương, là việc làm ứng nghiệm hoàn toàn bức hoạ tiên tri trong Dacaria. Trong việc này Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh đến vương quyền đặc biệt của Ngài. Ở Palestine, con lừa không phải là con vật hèn hạ như ở các nước khác, nhưng là một con vật sang trọng. Các vua cỡi ngựa khi đi đánh giặc, còn trong lúc thái bình thì các người cỡi lừa. Như vậy, bằng hành động này, Chúa Giêsu đã ngự giá như một vị vua đến với dân mình trong hoà bình và yêu thương. Ngài không đến như một anh hùng chiến thắng như dân chúng từng trông mong chờ đợi.
4. Đó là một lời kêu gọi sau cùng. Chúa Giêsu đến trong hành động này, khác nào với hai tay giơ ra, nài xin dân Ngài rằng "Ngay cả trong lúc này các ngươi cũng không muốn nhận Ta làm vua các ngươi sao?". Trước khi sự ghen ghét của loài người vùi dập Ngài, một lần nữa, Ngài vẫn cứ kêu mời nhân loại tiếp nhận tình yêu của Ngài.
14. Baraba và Đức Giêsu.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Văn sĩ Fabran Lagerkvist của Thụy Điển đã đoạt giải Nobel văn chương năm 1966 nhờ quyển tiểu thuyết nổi tiếng có tựa đề là "Baraba". Baraba là một tên cướp được nhắc đến trong vụ án của Chúa Giêsu. Theo các sách Tin Mừng kể lại: Baraba là một tên cướp khét tiếng đã phạm nhiều tội ác và sa lưới pháp luật. Hằng năm vào những ngày lễ lớn, quan Tổng trấn đại diện cho Đế quốc Rôma tại Palestina có thói quen ân xá cho một tội nhân. Năm đó, Tổng trấn Philatô đã đưa Chúa Giêsu và Baraba ra trước mặt dân chúng và hỏi họ nên tha cho ai. Toàn dân đã la lớn: tha cho Baraba và đóng đinh Chúa Giêsu.
Dựa vào sự kiện lịch sử này, văn sĩ Lagerkvist đã tưởng tượng ra quãng đời còn lại của Baraba. Baraba đã trở nên một con người quyền thế được mọi người biết đến. Baraba có được tất cả, bởi vì chính Chúa Giêsu đã chết thay cho ông. Thế nhưng ông không hề muốn nhắc đến Chúa Giêsu và cũng không muốn biết Ngài là ai.
Lý do khiến văn sĩ Lagerkvist được trao giải Nobel văn chương là vì qua nhân vật Baraba, ông đã họa được chân dung đích thực của con người. Baraba chính là con người được cứu độ nhờ Chúa Giêsu, nhưng vẫn không hiểu lý do tại sao. Con người ngày nay không tin vào Chúa Kitô và nhất là muốn loại bỏ Ngài ra khỏi con người thời đại. Với những tiến bộ vượt bực trong khoa học kỹ thuật, con người chẳng khác nào một thứ Baraba trong tác phẩm của Lagerkvist: con người tưởng mình là Đấng cứu độ của chính mình, con người tưởng mình có thể loại bỏ mọi chiều kích siêu việt của cuộc sống, con người tưởng mình có thể sống mà không cần một Đấng cứu độ nào.
Thưa anh chị em,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn năm. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài trên thập giá.
Nhưng dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là do chính tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dù cách xa hai ngàn năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính là một cái đinh đóng vào thân thể Chúa Giêsu.
Thử hỏi nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng tôi không dễ gì làm được như ông Simon thành Syrênê đã vác thập giá đỡ Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội vã quả quyết rằng tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm môn đệ trốn chạy, hay là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ ràng tôi rất yếu đuối, dễ dàng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể và khi gặp nghịch cảnh.
Anh chị em thân mến,
Với Chúa Nhật hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông nô nức phất cao càch lá "Hoan hô con Vua Đavít" có vẻ một cuộc toàn thắngvang dội. Thực ra đây là một cuộc mở màn thương khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc thương khó. Bởi vì chúa biết rõ trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ dội trước mặt Tổng trấn Philatô, trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: "Đả đảo! Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!"
Rước là đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn cho lắm. Đi theo Chuá giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục đi theo Ngài khi Ngài đã bị mọi người bỏ rời và lên án, điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. nếu kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa kitô thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buốn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.
Trong những ngày thánh này, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi chương 14 và chương 15 của Tin Mừng theo Thánh Marcô. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta bắt gặp một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.
Đừng đọc vội vã, hãy ngừng lại khi Chúa có điều muốn nói với chúng ta, đừng ngắt lời Ngài. Chúng ta có thể thấy mình giống với Giuđa, Phêrô hay Philatô. Chúng ta không ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến tận thế.
Đừng theo Chúa như một người quay vidéo cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Sau khi đã suy niệm lâu dài về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình yêu Thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và trân trọng thánh giá của người khác hơn.
15. Suy niệm của Noel Quesson.
CUỘC KHỔ NẠN CHÚA GIÊSU
Cái chết của Chúa đã làm đổi thay thế giới, làm xúc động bao tâm hồn và cũng gây cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ. Bao kiệt tác đã lấy cái chết của Chúa làm chủ đề. Một họa sĩ đã vẽ cảnh tháo đinh, đưa xác Chúa Giêsu xuống khỏi Thập giá. Đặc điểm của bức họa là người trong cảnh đều có khuôn mặt quen thuộc của những người cùng thời với họa sĩ. Và người đang tháo đinh ở Chúa ra chính là họa sĩ. Người ta hỏi họa sĩ về chuyện này, ông cắt nghĩa: Tôi đã từng đóng đinh Chúa vào Thập giá, đinh sắt là tội của tôi. Cần phải tháo gỡ những chiếc đinh tội lỗi ra khỏi thân xác của Chúa.
Để tháo gỡ chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi, Chúa đón nhận tất cả một cách ý thức và chủ động.
Chẳng những bằng lời nói, Chúa còn chuẩn bị đi vào khổ nạn bằng hành động. Chúa lập phép Thánh Thể, dùng một lối khác diễn tả tình yêu vĩnh cửu Người dành cho nhân thế. Chúa dùng chính thịt máu làm của nuôi chúng ta, đó cũng như nói tình yêu và cái chết của Chúa đem lại sự sống muôn đời cho tâm hồn người ta.
Chúa Giêsu đi vào cuộc khổ nạn hoàn toàn đơn độc. Cái chết cũng đơn độc, và khi Chúa Giêsu mang thân phận con người, Chúa không muốn thoát khỏi số phận đó. Trong vườn Cây Dầu, Chúa không biết chia sẻ đau buồn với ai. Bao nhiêu âu lo chồng chất mà không ai hiểu, hay an ủi một lời. Chúa để ba môn đệ thân tín gần chỗ Người cầu nguyện, nhưng ba lần Chúa trở lại đều thấy họ ngủ say. Trên thập giá nhìn xuống, Chúa thấy mình hoàn toàn trơ trọi, bên Người chỉ còn Gioan, Mẹ Maria và vài phụ nữ. Chính Thiên Chúa Ngôi Cha như cũng như xa vắng, vì thế Chúa thốt lên lời cầu nguyện như một tiếng than van: "Lạy Chúa, Lạy Chúa, sao Chúa bỏ con!".
Chúa Giêsu bị kết tội trước tòa đạo cũng như trước tòa đời. Hội đồng công nghị, cơ quan tối cao của Do Thái giáo kết án Chúa vì đã tự xưng là Con Thiên Chúa. Trong khi Philatô, Tổng trấn đại diện Đế quốc La mã xử Chúa vì đã nhân danh mình là Vua. Còn Chúa Giêsu, thay vì chối bỏ những lời cáo buộc, Người chỉ bình thản quả quyết mình là Con Thiên Chúa và là Vua. Nhưng cả hai danh hiệu này không phải có ý nghĩa như những người tố giác đã hiểu. Chúa là Con Thiên Chúa toàn năng. Người đã từng làm nhiều phép lạ, nhưng không làm gì để tự bảo vệ và thoát khỏi tay địch thù. Chúa không phải vị Vua như mọi người mong chờ. Chúa là Con Thiên Chúa, là Tình yêu tột đỉnh, yêu đến mức sẵn sàng chết vì người khác. Chúa là Vua, Người cai trị mọi tâm hồn bằng tình yêu mà xét xử nhân loại cũng theo luật Tình yêu. Chỉ khi ta nhìn Chúa chết trên thập giá, ta mới hiểu Người đã là Con Thiên Chúa và là Vua như thế nào.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra tội lỗi và thật lòng sám hối, chiến thắng tội lỗi là tháo gỡ những mũi đinh chúng con đã đóng vào chân tay Chúa.
16. Một vài ý suy niệm
Về cuộc THƯƠNG KHÓ CHÚA GIÊSU
Ý CHA ĐƯỢC NÊN TRỌN (Lc 22,39-46)
Khu vực nội thành Giêrusalem rất nhỏ nên không có những khu vườn rộng rãi. Nhiều người giàu sang có những khu vườn riêng ở ngoại thành, trên sườn núi Ôliu. Có người bạn nào đó đã cho Chúa Giêsu sử dụng một khu vườn như vậy và nay Chúa Giêsu đi tới đó để một mình chiến đấu trận quyết liệt. Chúa Giêsu chỉ mới 33 tuổi và không ai muốn chết ở tuổi này. Ngài hiểu rõ tử hình đóng đinh trên thập tự là thế nào. Ngài đã từng chứng kiến việc đó. Ngài ở trong cơn hấp hối. Danh từ Hy Lạp dùng ở đây chỉ về một người nào phải chiến đấu với tâm hồn đầy kính sợ. Đây chính là điểm mấu chốt và là chỗ ngoặt trong đời sống Chúa Giêsu. Ngài vẫn còn có thể tháo lui. Ngài có thể từ chối thập giá. Sự cứu rỗi nhân loại đang treo trên cán cân khi Con Thiên Chúa kịch liệt chiến đấu trong vườn Giệtsimani và Ngài đã chiến thắng.
Một nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng đã nói về nhạc phẩm "Đêm Xưa" của Chopin rằng: "Tôi phải nói cho anh về điều đó. Chopin đã bảo Liszt và Liszt đã bảo tôi. Trong bản nhạc này tất cả là u sầu và khổ não, ôi biết bao u sầu khổ não, cho tới khi người ta bắt đầu nói với Chúa, bắt đầu cầu nguyện, bấy giờ mọi sự đều tốt đẹp". Chúa Giêsu cũng thế, Ngài vào vườn Giệtsimani trong tối tăm. Ngài ra khỏi vườn trong ánh sáng bởi Ngài đã nói chuyện với Chúa Cha. Ngài vào vườn Giệtsimani trong cơn hấp hối, Ngài trở ra trong chiến thắng, với sự bình an trong tâm hồn, bởi Ngài đã nói chuyện với Chúa Cha. Thật hoàn toàn có sự khác biệt được thể hiện qua âm điệu của một người khi nói: "Ý Cha được nên trọn".
1. Người đó có thể nói bằng một giọng hoàn toàn khuất phục như một kẻ đã nằm bất lực dưới một sức mạnh phi thường. Mấy lời đó nghe như tiếng chuông báo tử cho hy vọng.
2. Người đó có thể nói bằng giọng của một kẻ bại trận, đầu hàng. Mấy lời đó nghe như tiếng của kẻ thú nhận thất bại.
3. Người đó có thể nói bằng giọng của kẻ bị thất vọng hoàn toàn khi thấy giấc mộng của mình không thể thành sự thật. Đó là những lời tiếc xót và cũng chất chứa uất hận, tệ hơn nữa là biết mình không thể làm gì trong tình trạng đó.
4. Người đó có thể nói bằng giọng hoàn toàn tin cậy. Đó là điều Chúa Giêsu đã làm. Ngài đang nói với một Đấng là Cha. Ngài đang nói với Chúa Cha là Đấng hằng bao bọc nâng đỡ Ngài dù Ngài đang trên thập tự. Ngài chịu khuất phục, nhưng là khuất phục một tình yêu không rời bỏ Ngài. Việc khó nhất của đời sống là chấp nhận điều mà chúng ta không thể hiểu, nhưng chúng ta cũng có thể làm điều đó nếu chúng ta tin chắc vào tình yêu Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã nói như vậy, và khi chúng ta có thể nói như vậy, chúng ta có thể nhìn lên và hoàn toàn tin cậy mà thưa rằng "Lạy Chúa, xin cho ý Ngài được nên trọn".
CÁI HÔN CỦA KẺ PHẢN BỘI (Lc 22,47-53)
Giuđa đã tìm ra cách nộp Chúa để các nhà cầm quyền bắt Ngài khi dân chúng vắng mặt. Hắn biết rằng ban đêm Chúa thường đến khu vườn trên đồi và hắn dẫn các tay sai của Toà Công Luận tới đó. Viên đội trưởng của Đền Thờ cũng gọi là sagan, là một sĩ quan có trách nhiệm giữ an ninh trật tự cho Đền Thờ, còn các thầy đội coi Đền Thờ được đề cập đây là những sĩ quan có trách nhiệm thi hành lệnh bắt Chúa Giêsu. Khi một môn đệ gặp rabbi quý mến thì chàng đặt tay phải mình lên vai trái của thầy và hôn thầy. Cái hôn giữa môn đệ với thầy yêu quý này là cái hôn mà Giuđa đã dùng làm dấu hiệu để phản thầy mình. Có bốn thành phần khác nhau liên hệ trong việc truy bắt này. Hành động và phản ứng của họ rất có ý nghĩa.
1. Giuđa, kẻ phản bội. Hắn là con người đã bỏ Thiên Chúa và đi liên hiệp với Satan. Chỉ khi nào người ta bỏ Chúa ra ngoài đời sống và rước Satan vào lòng mình thì người đó mới có thể bán Chúa Giêsu.
2. Những người Do Thái đến bắt Chúa Giêsu. Họ là những người mù loà đối với Thiên Chúa. Khi Chúa nhập thể, đến thế gian thì họ chỉ có một ý nghĩ là làm thế nào để mau treo Ngài lên cây thập tự. Từ lâu họ đã chọn con đường riêng của họ, bịt tai trước tiếng gọi của Chúa, nhắm mắt trước sự dẫn dắt của Ngài, đến nỗi sau cùng khi Ngài ngự đến thì họ không thể nhận biết. Thật đáng sợ khi người ta trở nên mù và điếc đối với Chúa.
3. Các môn đệ. Họ là những người bỏ Chúa. Thế giới của họ đã sụp đổ, họ tin chắc thôi thế là hết. Điều sau cùng mà họ còn nhớ được lúc đó là Thiên Chúa, trí óc họ chỉ còn suy nghĩ đến một điều là tình trạng khủng khiếp đang vây bủa họ. Hai điều xảy ra cho người quên Chúa và bỏ Chúa ra ngoài cuộc sống của mình. Một là người ấy rất sợ hãi và hoàn toàn rối loạn tâm thần; hai là người ấy mất năng lực đối diện với đời sống và thích nghi với cuộc sống. Trong giờ thử thách, đời sống sẽ bị tiêu huỷ nếu thiếu Chúa.
Chỉ khi nào con người biết cúi đầu xuống trước mặt Chúa, bấy giờ người ấy mới có thể nói năng và hành động như người chiến thắng được.
ĐƯỜNG LÊN ĐỒI GÔNGÔTHA (Lc 23,26-31)
Khi một tên tù đã bị kết án đóng đinh trên thập tự, thì hắn bị lôi ra khỏi toà án và giao cho bốn người lính Rôma. Cây thập hình của hắn được đặt lên vai hắn, hắn phải vác nó đến pháp trường bằng con đường dài nhất trong lúc một tên lính đi trước hắn mang tấm bảng ghi rõ tội trạng để điều đó trở thành một sự khủng khiếp cho người nào còn có ý muốn phạm thứ tội tương tự như hắn. Họ đã làm điều đó cho Chúa Giêsu, Ngài bắt đầu vác thập tự của mình (Ga 19,17), nhưng sức nặng của nó vượt quá sức lực của Ngài nên Ngài không thể vác đi được nữa. Palestine là một xứ bị chiếm đóng, nên mọi người dân đều có thể tức khắc bị xung vào công tác phục dịch chính phủ Rôma. Dấu hiệu của sự ép buộc đó là khi thấy có lưỡi giáo Rôma đặt nhẹ lên vai người nào thì người đó phải phục dịch. Khi Chúa Giêsu đã ngã quỵ dưới sức nặng của cây thập tự thì viên đội trưởng Rôma nhìn quanh tìm kiếm một người để vác thập giá đó. Bấy giờ có một người tên là Simon quê ở Kyrênê xa xôi, đang từ vùng quê đi vào thành. Chắc chắn ông là người Do Thái đã suốt đời chắt chiu dành dụm để có thể dự một Lễ Vượt Qua tại Giêrusalem. Lưỡi giáo Rôma đã chạm vai ông, tức khắc, dù muốn hay không, ông cũng đành vác cây thập tự của người tử tù. Chúng ta thử tưởng tượng lúc bấy giờ Simon đã nghĩ gì? Ông đã đến Giêrusalem để thực hiện hoài bão của đời mình, thế mà ông phải vác cây thập tự lên đồi Gôngôtha. Lòng ông hẳn chứa đầy cay đắng đối với quân Rôma và đối với tên tử tù ngày là kẻ khiến ông bỗng dưng phải liên luỵ vào tội của hắn. Nhưng nếu chúng ta đọc thêm một số chi tiết, thì sẽ biệt câu chuyện không chấm dứt ở đây. J.A.Robertson coi đó là một trong những chuyện cảm động nhất của Tân Ước, Máccô tả rõ Simon là cha của Alecxandơ và của Ruphô (Mc 15,21). Bạn không thể nhận diện một người bằng tên các con của người đó trừ khi các con đó rất được quen thuộc trong cộng đồng của người mà bạn viết thư cho. Mọi người đều công nhận rằng Máccô đã viết Phúc Âm của ông cho Hội Thánh tại Rôma. Giữa ác lời chào ở cuối thư, ông viết rằng "Xin hãy chào thăm Ruphô, người được chọn của Chúa, và chào thăm mẹ người cũng là mẹ tôi" (Rm 16,13). Như vậy trong Hội Thánh Rôma có Ruphô, một Kitô hữu quý báu đến nỗi Phaolô gọi người đó là một trong những kẻ được chọn của Chúa, với một bà mẹ rất yêu dấu đối với Phaolô, đến nỗi ông gọi bà là mẹ của ông trong đức tin. Rất có thể Ruphô này là Ruphô con của Simon ở Kyrênê, mẹ chàng là vợ ông Simon ấy. Rất có thể khi Simon nhìn thấy Chúa Giêsu, bao nhiêu cay đắng của ông đã biến thành ngạc nhiên và sau cùng ông đã tin, đã trở thành Kitô hữu và gia đình ông đã cung cấp cho Hội Thánh những tâm hồn quý giá nhất. Có thể Simon nghĩ rằng ông đến đó để thực hiện một ước vọng của đời sống, ông đang chuẩn bị mọi sự để mừng Lễ Vượt Qua tại Giêrusalem, nhưng ông đã phải vác thập giá cho một phạm nhân, thật hoàn toàn trái ngược với ý muốn của mình, nhưng khi ông nhìn xem Ngài, thì nỗi buồn bực của ông đã trở thành nỗi ngạc nhiên và niềm tin, và trong sự việc mà thoạt đầu ông coi như một điều sỉ nhục đó đã cho ông gặp được chính Cứu Chúa của đời ông.
Theo sau Chúa Giêsu là một đám phụ nữ khóc thương Ngài. Ngài quay lại bảo họ đừng khóc vì Ngài, nhưng hãy khóc cho chính mình. Những ngày khủng khiếp sắp xảy đến. Trong gia đình người Do Thái không có thảm kịch nào cho người vợ bằng cuộc hôn nhân không con, vì không con là lý do đủ mạnh để ly dị. Nhưng sẽ đến một ngày mà người đàn bà son sẻ lại vui mừng vì không con. Một lần nữa Chúa Giêsu lại nhìn thấy trước sự tàn phá thành này là thành đã nhiều phen và hiện giờ vẫn còn đang từ chối lời mời gọi của Chúa. Câu 31 là câu châm ngôn, có thể dùng trong nhiều trường hợp. Ở đây nó có nghĩa là nếu họ làm điều này cho một người vô tội thì một ngày kia, họ sẽ còn làm gì nữa cho những kẻ có tội?
TẠI ĐÓ CHÚNG ĐÓNG ĐINH NGÀI (23,32-38)
Khi đã tới chỗ đóng đinh, tội nhân đặt thập giá nằm xuống đất. Thường thì thập giá giống hình chữ T, không có phần nhô lên trên để có thể dựa đầu. Nó khá thấp, đến nỗi chân của tội nhân chỉ cách xa mặt đất độ 6-8 tấc. Có một nhóm phụ nữ nhân đức ở Giêrusalem thường tới chỗ tội nhân và tặng một chén rượu pha thuốc mê có tác dụng làm tê liệt những cảm giác đau đớn ghê gớm đó. Họ đến tặng Chúa Giêsu chén rượu và Ngài từ chối (Mt 27,34). Ngài quyết định nếm tới tận cùng vị cay đắng nhất của sự chết, với một tâm trí minh mẫn và giác quan tinh tường. Hai tay phạm nhân bị căng ra trên đà ngang của thập giá, đinh đóng xiên qua hai bàn tay. Thường hai bàn chân thì không đóng đinh, nhưng được buộc sơ vào thập giá. Ở lưng chừng có một miếng gỗ nhô ra để đỡ sức nặng thân thế phạm nhân, kẻo các đinh xé rách toạc hai bàn tay. Rồi thập giá được dựng thẳng đứng, cắm vào lỗ sâu. Sự khủng khiếp của tử hình đóng đinh nằm ở chỗ cơn đau đớn rất dữ dội, nhưng lại không giết chết ngay, phạm nhân bị để cho chết đói, chết khát dần dưới sức nóng của mặt trời ban trưa và giá lạnh của đêm trường. Có nhiều phạm nhân bị đóng đinh sống ngắc ngoải đến cả một tuần lễ trên thập giá, sau cùng chết trong cơn điên cuồng.
Quần áo của tử tù thuộc về bốn tên lính áp giải phạm nhân ra pháp trường. Mỗi người Do Thái có năm loại trang phục: áo trong, áo ngoài, dây thắt lưng, khăn đội đầu và giầy dép. Bốn thứ chia cho bốn tên, còn lại chiếc áo choàng bên ngoài, áo đó dệt thành một tấm không có đường nối (Ga 19,23-24). Nếu cắt nó ra để chia thì làm hỏng cả áo, vì thế bọn lính ngồi ngay dưới chân thập giá gieo súc sắc, bắt thăm chiếc áo đó. Tên tử tù có hấp hối bao lâu cũng chẳng có nghĩa lý gì với bọn này.
Tấm bảng gắn trên đầu thập giá chính là bảng chữ mà người lính mang đi trước tội nhân qua các đường phố đến nơi hành hình.
Chúa Giêsu đã nói nhiều lời tuyệt diệu, nhưng có lẽ câu tuyệt diệu nhất mà Ngài nói là "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không hiểu việc họ làm. Sự tha thứ trong Kitô giáo thật sự là một sự lạ lùng. Khi Stephanô bị ném đá chết, ông cũng cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin đừng chấp tội họ" (Cv 7,60). Không có điều gì đáng yêu, cũng không có gì hiếm cho bằng sự tha thứ của người Kitô hữu. Khi nào tinh thần thiếu tha thứ đe doạ biến lòng chúng ta thành cay đắng, hãy nhớ lại lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, xin tha thứ cho những kẻ đóng đinh Ngài và lời Phaolô dặn dò các bạn hữu "Hãy ở lại với nhau cách nhân từ, đầy lòng thương xót, tha thứ cho nhau như Chúa đã tha thứ cho anh em trong Chúa Kitô vậy" (Ep 4,32).
LỜI HỨA THIÊN ĐÀNG (Lc 23,39-43)
Chủ ý của nhà cầm quyền là họ đóng đinh Chúa ở giữa hai tên cướp khét tiếng. Họ làm như vậy để sỉ nhục Ngài trước mặt cả dân chúng, liệt Ngài vào hạng trộm cướp. Người ta đã nói nhiều về tên trộm biết hoán cải. Hắn được gọi bằng những tên khác nhau như Dismas, Demas, Dumachus. Có một chuyện kể hắn là một thứ Robin Hood của Do Thái, ăn trộm của người giàu để phân phát cho người nghèo. Có chuyện rất đáng yêu kể rằng khi Chúa Giêsu còn nhỏ được gia đình đem sang Ai Cập, dọc đường bị một bọn cướp tấn công. Một thanh niên là con một thủ lãnh đảng cướp thấy con trẻ Giêsu dễ thương qua, nên người đó không nỡ ra tay, hắn tha Ngài và nói "Hỡi con trẻ rất có phước, nếu sau này có dịp nào để thương xót tôi, thì hãy nhớ đến tôi, đừng quên giây phút này nhé". Tên cướp đó là kẻ đã cứu Chúa Giêsu khi còn nhỏ, nay gặp lại Ngài trên thập giá trên đồi Gôngôtha. Lần này thì Chúa Giêsu đã cứu anh ta.
Parađi là từ trong tiếng Ba Tư có nghĩa là "Một khu vườn rào kín". Khi vị vua Ba Tư muốn đặc biệt tôn trọng một bầy tôi nào của ông thì người ấy được cùng dạo mát với vua trong vườn thượng uyển. Chúa Giêsu đã hứa cho tên trộm cướp ăn năn đó một sự gì quý hơn là sự bất tử. Ngài hứa cho hắn vinh dự được làm bạn của Ngài trong vườn thượng uyển trên trời.
Trên hết mọi điều khác, chắc chắn câu chuyện này cho chúng ta biết rằng không bao giờ là quá trễ để trở lại với Chúa. Về các việc khác, chúng ta có thể nói "Thì giờ để làm việc đó đã qua rồi". "Bây giờ tôi đã quá lớn tuổi, không làm được việc đó". Nhưng không bao giờ chúng ta có thể nói như thế về sự trở lại với Chúa. Bao lâu trái tim còn đập, bấy lâu lời kêu gọi của Chúa Giêsu vẫn còn hiệu lực đối với chúng ta. Sự thật vẫn chính xác là hơi thở còn thì vẫn còn hy vọng.
NGÀY DÀI CHẤM DỨT (Lc 23,44-49)
Trong đoạn Kinh Thánh này, mỗi câu đều có nhiều ý nghĩa.
1. Có sự tối tăm khủng khiếp khi Chúa Giêsu tắt thở. Dường như mặt trời cũng không thể nhìn xem việc gớm ghiếc mà tay loài người vừa làm ra. Thế giới bao giờ cũng tối tăm khi con người tìm cách loại bỏ và khai trừ Chúa Kitô.
2. Màn trong Đền Thờ xé ra làm đôi. Đây là tấm màn ngăn Nơi Cực Thánh, là nơi có sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa nơi không ai được phép vào trừ vị thượng tế, và ông chỉ được vào mỗi năm một lần trong ngày Đại Lễ Chuộc Tội. Chúng ta hạnh phúc mà nói rằng con đường vào nơi Thiên Chúa hiện diện một cách bí nhiệm, bấy lâu nay ngăn cách với loài người, thì nay đã được mở toang cho mọi người. Trái tim của Chúa bấy lâu giữ kín nay được phơi bày ra cho loài người. Sự Giáng Sinh, đời sống và sự chết của Chúa Giêsu đã xé đôi bức màn bấy lâu nay che giấu Chúa khỏi loài người. Chúa Giêsu đã phán: "Ai thấy Ta là thấy Cha" (Ga 14,9). Nơi thập giá, loài người đã được nhìn thấy cao điểm của tình yêu Thiên Chúa như họ chưa hề thấy trước đó bao giờ.
3. Chúa Giêsu đã kêu lên một tiếng lớn. Cả ba sách Phúc Âm đều nói về tiếng kêu lớn này (Mt 27,50; Mc 15,37). Gioan thì không nói đến tiếng kêu lớn ấy, nhưng ông cho biết Chúa Giêsu khi chết đã nói: "Mọi việc đã hoàn tất". (Ga 19,30). Trong tiếng Hy Lạp và tiếng Aram thì "mọi việc đã hoàn tất" chỉ gồm trong một từ mà thôi. Cho nên mọi việc đã được trọn vẹn và tiếng kêu lớn cũng là một mà thôi, và Chúa Giêsu thật đã chết với tiếng kêu chiến thắng trên môi. Ngài đã không nói thì thầm "Thế là hết" như một người bị hành hạ đến nỗi phải quỳ gối xuống và bị buộc phải chấp nhận sự thua bại. Ngài kêu lớn như một người chiến thắng, đã thắng đối thủ trong trận cuối cùng và đã đưa một công tác vĩ đại tới chỗ kết thúc tối hậu đầy vẻ vang. "Đã xong" đó là tiếng kêu của Chúa Cứu Thế, Đấng chịu đóng đinh, nhưng là Đấng toàn thắng.
4. Chúa Giêsu chết với lời cầu nguyện trên môi. "Lạy Cha, con xin trao phó linh hồn con trong tay Cha". Câu này có trong Thánh Vịnh 31,5 với tiếng "Cha" được thêm vào. Câu này là lời cầu nguyện trước nhất mà mỗi bà mẹ Do Thái dậy cho con mình đọc trước giờ đi ngủ, trước khi bóng tối ghê rợn đổ xuống: "Con trao phó linh hồn con trong tay Chúa". Chúa Giêsu đã nói câu đó tha thiết hơn nhiều vì Ngài đã bắt đầu với tiếng Cha, dù trên thập giá Chúa Giêsu đã chết như đứa con nằm ngủ trong cánh tay Cha mình.
5. Viên đội trưởng và đám dân chúng đã xúc động sâu xa khi chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu. Cái chết của Ngài đã thực hiện điều mà khi sống Ngài đã không thể làm, tức là làm tan vỡ những tấm lòng sắt đá của loài người. Lời phán của Ngài trước đó giờ đây được ứng nghiệm "Khi Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta". Ngay lúc Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì sức thu hút của thập giá đã bắt đầu thực hiện.
17. Lễ lá.
Lắng nghe và suy nghĩ về bài thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta hiểu được tình thương của Ngài thật bao la, cũng như hiểu được tội lỗi thật xấu xa, đến nỗi Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng, để tẩy sạch dấu vết của nó trong tâm hồn chúng ta.
Adong ngày xưa đã vấp phạm vì kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa. Còn Đức Kitô hôm nay, để cứu chuộc chúng ta Ngài đã hạ mình xuống như lời thánh Phaolô đã viết: - Phận Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không đòi cho mình được đồng hàng với Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống, mang thân phận tôi đòi, trở nên giống chúng ta, Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Chúa Giêsu không phải chỉ nên giống chúng ta ở dáng bộ bên ngoài, nhưng Ngài đã mặc lấy bản tính nhân loại. Ngài không phải chỉ là một kẻ lạ mặt, đứng bên lề cuộc đời chúng ta. Ngài cũng không phải là một ông cảnh sát lăm le biên phạt những hành động sai trái của chúng ta.
Trái lại, Ngài đã nhập cuộc, Ngài đã tham dự vào kiếp người và cùng đi với chúng ta qua vạn nẻo đường đời. Ngài cũng đã vất vả lao động, chịu đói chịu khát, mệt mỏi vì đường xa, Ngài muốn chia sẻ với chúng ta mọi cảnh huống của cuộc sống, và nhất là Ngài đã chết vì yêu thương chúng ta như lời Ngài đã nói: - Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Kể từ nay, thập giá không còn là một hình phạt dành cho những kẻ nô lệ và phản loạn, nhưng là một dấu chỉ hùng hồn nhất nói lên tình thương của Chúa. Và từ đỉnh cao thập giá, chúng ta hãy nhìn vào những ước vọng thầm kín, cũng như hãy nhìn vào chính con người chúng ta.
Thực vậy, chúng ta là những kẻ kiêu căng hợm hĩnh, chúng ta không muốn vâng phục, trái lại luôn chống đối quyền bính. Hãy nhìn vào thái độ khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Chúng ta là những kẻ mải miết chạy theo những vui thú cho thân xác. Hãy nhìn vào thân xác Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá giữa những đớn đau phải chịu.
Nếu trái tim chúng ta thờ ơ nguội lạnh đối với Thiên Chúa, trong khi đó lại qúa quyến luyến với tiền bạc, với địa vị, với danh vọng hay một tạo vật nào đó. Hãy nhìn vào tình yêu Ngài đã dành cho chúng ta.
Chính Ngài đã nói với thánh nữ Angèle de Foligno như thế này:
- Cái chết của Cha, cùng với những khổ đau, không phải là một trò cười.
Chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá và hãy thân thưa với Chúa như lời thánh Phaolô:
- Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi, một kẻ tội lỗi đáng thương.
Thực vậy, ngước nhìn thập giá và suy gẫm về tình thương của Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy ghê tởm tội lỗi, mong ước được tẩy rửa tâm hồn mình nên trong trắng như tấm áo ngày chịu phép rửa tội.
Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy kết hiệp những hy sinh của chúng ta vào với những khổ đau của Chúa Giêsu, hầu nhờ đó chúng ta sẽ được nếm thử niềm vui Phục sinh, là niềm vui sẽ không bao giờ bị tàn úa.
18. Hoan hô- Đả đảo.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Vì thế ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.
Trước hết, ngày Chúa nhật trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu lên thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng trên đường và chặt những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: "Hoan hô con vua Đavid", "Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến". Người người nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu im lặng chấp nhận để họ đón rước và tung hô như thế. Ngài là một vị vua vinh quang nhưng khiêm hạ, Ngài không phải là vị vua như dân Do Thái mong đợi, nghĩa là vua phần xác, đến để giải phóng dân tộc họ khỏi ách đô hộ ngoại bang Rôma, đem cơm áo ấm no cho họ. Nhưng Ngài là vua trong lòng của họ, đem đến tình thương và hòa bình.
Đàng khác, cũng trong ngày lễ hôm nay, chúng ta nghe đọc bài tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Cuộc khổ nạn diễn ra vào ngày thứ sáu sau Chúa nhật lễ lá, nghĩa là chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô Chúa Giêsu, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa. Ngài đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một tên trọng phạm của xã hội.
Ngày lễ hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ trái ngược nhau của dân Do Thái: hoan hô Chúa và đả đảo Chúa, đưa Chúa lên ngai vua và hạ bệ Chúa trên thập giá. Chắc chúng ta khó chịu, bực tức và lên án thái độ đổi thay, lòng dạ tráo trở của những người đó phải không? Nhưng chúng ta hãy ý tứ, có người đã viết như thế này: "Giữa Chúa nhật lễ lá và thứ Sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu: Hôm nay chúng ta hoan hô, chúc tụng Chúa: vạn tuế, vạn tuế, ngày mai chúng ta có thể sẽ gào thét: đả đảo, hãy đóng đinh, hãy đóng đinh hắn vào thập giá. Hôm nay chúng ta yêu thương, ngày mai chúng ta oán ghét. Hôm nay chúng ta hân hoan, ngày mai chúng ta buồn sầu. Hôm nay chúng ta hiền hòa, ngày mai chúng ta hung dữ. Hôm nay chúng ta tin tưởng, ngày mai chúng ta hoài nghi. Vâng, danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài, và thực sự giữa Chúa nhật lễ lá và thứ sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu".
Để làm sáng tỏ những tư tưởng trên, một diễn giả đã dùng một cành lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi tượng trưng cho những đặc tính tích cực của Chúa nhật lễ lá như hoan hô, chúc tụng, yêu thương, hân hoan, hiền hòa, tin tưởng. Mỗi lần nêu lên một khía cạnh tiêu cực của cuộc sống như khước từ, oán ghét, buồn phiền, hung dữ, hoài nghi, diễn giả tuốt bỏ phần lá xanh, chỉ còn để lại cọng của cành lá dừa. Cuối cùng, cành lá dừa xanh tươi đã biến thành một bó roi có thể dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành địa ngục.
Chắc tất cả chúng ta đều hiểu và thấm thía những điều trên đây? Cuộc sống của chúng ta có nhiều tiêu cực hơn tích cực, chúng ta làm khổ nhau nhiều hơn làm đẹp lòng nhau. Có phải chúng ta xích mích, gây chia rẽ bất hòa nhiều hơn là xây dựng, yêu thương, đoàn kết? Chúng ta tôn vinh Chúa ở trong nhà thờ nhưng chúng ta có tôn vinh Chúa trong cuộc sống ở ngoài nhà thờ không? Mỗi khi chúng ta không tôn trọng bất cứ người anh em nào là chúng ta không tôn vinh Chúa. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn trung thành với lời chúng ta hoan hô "vạn tuế" để trong cuộc sống, chúng ta quyết đem ra thực hành chương trình xây dựng hòa bình và tình thương của Chúa.
19. Trung thành với lời tung hô.
Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Với thái độ tung hô vạn tuế của dân chúng trong ngày hôm nay, chúng ta đã xác tín Đức Kitô là vị vua phải đến để kiến tạo hòa bình, để trả lại cho con người sự tự do hầu có thể phát triển toàn diện nhân phẩm của mình. Ngài là niềm hy vọng của những kẻ nghèo khó, bất hạnh và khổ đau, Ngài là niềm an ủi của những kẻ bị bóc lột, bị bạc đãi, bị xúc phạm và bị ném ra bên ngoài xã hội.
Đồng thời chúng ta tuyên xưng Ngài là vị lãnh đạo, xử dụng tình thương làm khí cụ để xây dựng một xã hội loài người trên công bình.
Nếu tham dự vào cuộc rước kiệu trong Chúa nhật lễ lá với lời hoan hô chúc tụng Chúa Giêsu là Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến, thì chúng ta có bổn phận phải tiếp tục bước theo Ngài.
Bởi vì con đường Ngài đã đi cũng phải là con đường chúng ta bước theo, mặc dầu chúng ta biết con đường này là con đường sỏi đá, con đường gai góc, con đường thập giá. Chính con đường này sẽ dẫn chúng ta tới đỉnh đồi Canvê, để rồi qua những khổ đau và nhất là qua cái chết trên thập giá, chúng ta cũng sẽ được tiến đến cuộc chiến thắng Phục sinh.
Vì thế, có người đã viết về sự liên quan giữa Chúa nhật lễ lá và ngày thứ sáu tuần thánh như sau:
- Giữa Chúa nhật lễ lá và ngày thứ sáu tuần thánh có một sự phản ảnh cho cuộc đời người Kitô hữu.
Thực vậy, hôm nay chúng ta tung hô chúc tụng Chúa, nhưng ngày mai chúng ta có thể sẽ gào thét đóng đinh Chúa vào thập giá. Hôm nay chúng ta yêu thương Ngài, nhưng ngày mai có thể chúng ta sẽ ghét bỏ Ngài. Hôm nay chúng ta hân hoan, nhưng ngày mai chúng ta lại buồn sầu. Hôm nay chúng ta hiền hòa, nhưng ngày mai chúng ta lại gian ác. Hôm nay chúng ta tin tưởng, nhưng ngày mai chúng ta lại thất vọng.
Phải, danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài và thực sự giữa Chúa nhật lễ lá và thứ sáu tuần thánh, là cả một đời người tín hữu được phản chiếu.
Để làm sáng tỏ những tư tưởng này, một diễn giả đã dùng hình ảnh cành lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi, tượng trưng cho những đặc tính tích cực của Chúa nhật lễ lá, như hoan hô chúc tụng Chúa, yêu thương, hân hoan, hiền hòa và tin tưởng. Thế nhưng mỗi lần nêu lên một điểm tiêu cực của ngày thứ sáu tuần thánh cũng như của chính cuộc sống như: Oán ghét, hoài nghi, gian ác, buồn phiền và khước từ Chúa, thì diễn giả ấy liền tước bỏ phần lá xanh, và chỉ để lại chiếc cọng của nó mà thôi.
Cuối cùng, cành lá dừa xanh tươi đã trở thành một bó roi cỏ để dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành địa ngục.
Ước chi tuần thánh là thời gian chúng ta được hướng dẫn để tiếp tục bước theo những dấu chân cuối cùng của Chúa Giêsu nơi dương thế, để chúng ta luôn trung thành gắn bó với đấng chúng ta tuyên xưng hôm nay: Chúc tụng đấng nhân danh Chúa mà đến.
20. Vụ án.
Chúa Giêsu đã bị kết án tử hình hơn hai ngàn năm rồi. Thế mà hồ sơ vụ án kể như chưa kết thúc. Một số người trong chúng ta vẫn chưa hiểu thấu hết nội dung cũng như bối cảnh lịch sử của "vụ án" này. Bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa đã kể lại đầy đủ mọi chi tiết. Vì thế mỗi khi đọc lại bài thương khó này là chúng ta lật lại hồ sơ của vụ án Chúa Giêsu. Đề nghị mỗi người ngày hôm nay cũng như những ngày trong Tuần Thánh hãy tìm hiểu để hiểu rõ hơn và xác tín hơn nữa ý nghĩa và giá trị cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu.
Trước hết, chúng ta biết: Chúa Giêsu bị bắt vào đêm thứ năm. Ngài lần lượt bị đưa ra xét xử trước tòa án Do thái, tòa án Philatô, tòa án Hêrôđê, rồi trở lại tòa án Philatô. Chúng ta hãy theo Chúa đến các tòa án này để xem người ta xét xử Chúa ra sao.
Trước khi chính thức bị đưa ra tòa án để xét xử, Chúa Giêsu đã bị áp giải đến dinh cựu thượng tế Anna, là người rất có uy tín thời đó, nhưng lại có ác cảm với Chúa Giêsu. Theo một số sử gia, chính Anna là người có trách nhiệm lớn nhất trong vụ án này. Ông muốn điều tra Chúa Giêsu, nhưng ông không khai thác được gì, vì Chúa Giêsu chỉ một mực giữ thái độ im lặng. Bực tức, ông truyền áp giải Chúa sang Caipha, là con rể ông, đang làm thượng tế năm ấy. Caipha nổi tiếng là một nhà chính trị có tài. Tức khắc ông cho triệu tập 72 thành viên của Thượng hội đồng và cũng là tòa án tối cao của người Do thái. Trước tòa, có nhiều người đứng lên tố cáo Chúa. Những lời tố cáo của họ đều xoay quanh những vấn đề liên quan tới đạo Do thái. Họ cho rằng Chúa đã lộng ngôn phạm thượng khi công khai tuyên bố phá đền thờ Giêrusalem; đã vi phạm nhiều lần luật ngày Sabát; đã không giữ những tục lệ truyền thống tổ tiên để lại... Trước những lời tố cáo đó, Chúa Giêsu chỉ im lặng, không hề biện hộ một lời nào. Cuối cùng, Caipha đưa ra một câu hỏi có tính quyết định. Nhân danh Thiên Chúa, ông hỏi Chúa Giêsu có phải là "Đấng Kitô, Con Thiên Chúa" không? Tôn trọng tư cách thượng tế của quan tòa, Chúa trả lời: "Đúng như lời ngài nói", tức là Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Con Thiên Chúa. Nghe vậy, lập tức Caipha xé áo bên ngoài từ cổ tới bụng, chừng ba mươi phân, theo tục lệ Do thái, để phản ứng lại lời nhận tội mà ông cho là lộng ngôn phạm thượng. Ông nói: "Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quí vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa". Theo luật Do thái: "Hễ ai nói phạm thượng thì người đó đáng chết". Số phận của Chúa Giêsu đến đây coi như đã được quyết định: Ngài bị kết án tử hình.
Nhưng kể từ khi bị người Rôma đô hộ, người Do thái không có quyền kết án tử hình bất cứ ai, nếu không có sự đồng ý của chính quyền Rôma. Nên sáng sớm ngày hôm sau, họ áp giải Chúa tới tổng trấn Philatô, là một viên chức cao cấp nhất, đại diện cho chính quyền Rôma tại nước Do thái để xin chuẩn nhận bản án tử hình.
Trước tòa Philatô, người Do thái đã phơi bày hết ác tâm của họ. Để Philatô chuẩn nhận bản án tử hình, họ đã đổi những lời tố cáo từ lãnh vực tôn giáo sang lãnh vực chính trị, nghĩa là họ dứt khoát muốn Philatô giết Chúa như một kẻ tội phạm chính trị chống lại đế quốc Rôma. Chúng ta thấy rõ ràng: khi hỏi Chúa Giêsu thì họ giải thích danh hiệu Mêsia bằng danh hiệu Con Thiên Chúa; còn khi tố cáo trước tòa Philatô, thì họ lại giải thích bằng danh hiệu vua, để lôi kéo Philatô vào trò chơi gian ác của họ. Nhưng Philatô trả lời họ rằng: ông không thấy người này có gì đáng kết tội. Họ càng tố cáo mạnh hơn, nhai lại một luận điệu chụp mũ, vu khống và quyết liệt đòi đóng đinh Chúa vào thập giá.
Thấy tình hình có vẻ căng thẳng, Philatô muốn gỡ mình ra khỏi trò chơi nguy hiểm này. Ông thảy trái banh cho Hêrôđê, tức là ông yêu cầu đưa Chúa Giêsu qua cho Hêrôđê xét xử để tránh mọi phiền phức. Hêrôđê từ lâu đã mong gặp Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ mong gặp để thỏa mãn sự tò mò và tính ham vui mà thôi. Thấy Chúa Giêsu ông mừng lắm. Nhưng rồi ông thất vọng vì Chúa Giêsu không đáp ứng điều gì ông trông đợi. Để trả thù, ông nhập bọn với lính hầu của ông mà chế diễu Chúa, rồi ông truyền trao trả Chúa Giêsu lại cho Philatô. Philatô lại phải nát óc tìm cách thoát thân: làm sao một đàng vừa để trấn an, làm hài lòng những người tố cáo quá khích; đàng khác lại vừa không kết án bất công người vô tội. Nên ông tuyên bố rằng: ông chẳng thấy có điều gì để kết án người này. Vậy ông cho đánh đòn Chúa một trận rồi tha về. Đánh đòn rồi dân Do thái vẫn khăng khăng gào thét dữ dội hơn, đòi kết án tử hình Chúa. Thế là Philatô sợ hãi, hèn nhát rửa tay thanh minh mình vô tội trong việc đổ máu Chúa và ông buông xuôi trao Chúa cho họ hành động theo ý họ. Họ bắt Chúa vác thập giá, rồi đóng đinh vào thập giá. Và Chúa đã chết trên thập giá.
Đọc lại hồ sơ vụ án, chúng ta thấy Philatô và Hêrôđê là những nhà cầm quyền chính trị, không tìm thấy điều gì để kết án Chúa. Chỉ có giới lãnh đạo Do thái muốn giết Chúa mà không cần tội trạng nào cả. Vì thế, trách nhiệm chính trong vụ giết người này là giới lãnh đạo Do thái, đúng như Chúa đã báo trước.
Nói theo tôn giáo, đối với chúng ta hôm nay, rõ ràng vụ án Chúa Giêsu không phải là một vụ án chính trị mà là một vụ án tôn giáo: Chúa Giêsu chết không phải vì xưng mình là vua nhưng vì đã xưng mình là Con Thiên Chúa. Và đó chính là ý nghĩa và giá trị cái chết của Chúa Giêsu. Ngài là Con Thiên Chúa, nên cái chết của Ngài có ý nghĩa vô cùng, cái chết của Ngài có giá trị cứu chuộc mọi người. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã nói: "Máu của Chúa đổ ra để muôn người được cứu độ". Lẽ ra loài người phải chết vì đã phạm tội, nhưng Thiên Chúa đã dủ lòng thương, sai Con Ngài đến để chết thay cho chúng ta.
21. Cuộc Thương Khó
Chúa Giêsu rất thương xót những người đau khổ. Ngài đã làm phép lạ để cứu chữa họ, và dạy mọi người phải yêu thương nhau chứ không dạy phải làm khổ cho nhau. Đối với Chúa Giêsu đau khổ là điều xấu. Khi nghĩ về cuộc thương khó trong vườn Giệtsimani, Ngài đã bồi hồi, xao xuyến, sợ hãi đến đổ mồ hôi máu.
Thánh Kinh cho ta thấy căn nguyên của đau khổ là tội lỗi. Vì đau khổ là xấu nên con người phải tránh gây đau khổ cho nhau bằng mọi hình thức. Đồng thời phải tích cực xây dựng sự công bằng và bác ái. Rất nhiều đau khổ ở thế gian do con người, tội lỗi và sự bất công gây ra. Khi chấp nhận đau khổ để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một số nguyên tắc luân lý:
1. Chỉ chấp nhận đau khổ và hy sinh vì hạnh phúc của người khác. Sự hy sinh phải nhằm vào những mục đích tốt, và những mục đích đó phải có một giá trị cao hơn sự thiệt thòi.
Chúa Giêsu đã tự ý chịu đau khổ để tiêu diệt tội lỗi theo đường lối của Thiên Chúa Cha. Khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem để hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, Ngài đã phải đụng chạm với sức mạnh của chính quyền, xung khắc với sự tự do của con người. Và sự đau khổ đã đến như một hậu quả tất yếu vì sứ mệnh của Ngài. Ngài đã phải chọn lựa giữa việc chu toàn sứ mạng dù phải chấp nhận sự đau khổ và cái chết trên thập giá hơn là sự đào ngũ, chạy trốn của người hèn nhát.
2. Để sự đau khổ trở nên một giá trị cho người khác, nó phải là tự nguyện như chính Chúa Giêsu đã tự hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhân loại: "Không ai đoạt được mạng sống tôi, nhưng tôi tự ý hiến mạng sống mình".
Thiên Chúa ban cho con người tự do để cộng tác vào việc sáng tạo của Thiên Chúa. "Con người thường là những hợp tác viên vô ý thức của thánh ý Chúa, nhưng con người cũng có thể chủ ý hợp tác vào kế hoạch của Ngài bằng hành động, lời cầu nguyện, và bằng cả những đau khổ của mình".
3. Đau khổ hy sinh sẽ trở nên sai trái khi nó hủy diệt chính con người của mình. Chúa Giêsu đã không đánh mất bản tính Thiên Chúa của Ngài khi chết trên thập giá. Ngài chết trên thập giá nhưng Ngài vẫn là Thiên Chúa, độ lượng, tha thứ và nhân từ. Đau khổ không làm Ngài rơi vào hận thù và tuyệt vọng. Chính tình yêu làm cho đau khổ trở thành giá trị. Con đường khổ giá từ Giêrusalem lên núi sọ chịu đóng đinh của Chúa Giêsu chính là con đường của tình yêu.
Sách Giáo lý Công giáo số 609 viết rằng: "Khi gắn bó với tình thương của Chúa Cha đối với mọi người, trong trái tim nhân tính của mình, Chúa Giêsu "đã yêu thương họ đến cùng", "bởi vì không có tình yêu nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì những người mình yêu thương". Bởi vậy, trong đau khổ và trong khi chết, nhân tính của Ngài đã trở thành dụng cụ tự do và tuyệt hảo của tình thương thần linh của Ngài muốn cứu vớt mọi người".
Bắt đầu Tuần Thánh này, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta nhìn vào thánh giá để thấy những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm tình yêu đó:
Nhìn vào thánh giá ta thấy đau khổ bên ngoài và tình yêu Thiên Chúa bên trong, sự chết của con người và sự sống lại của Thiên Chúa, bóng tối tội lỗi của trần gian và ánh bình minh cứu độ, sự ích kỷ của ta và sự hy sinh của Thiên Chúa, sự kiêu căng của ta và sự khiêm tốn của Thiên Chúa, sự bất lực của ta và sức mạnh vô song của Thiên Chúa, sự thù hận của con người và sự tha thứ của Thiên Chúa, sự hèn hạ của ta và sự cao cả của Thiên Chúa. Nhìn vào thánh giá ta thấy nhân tính và thiên tính của Chúa Giêsu Kitô.
Quả vậy, như lời thánh Phaolô đã dạy: "Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó là sức mạnh của Thiên Chúa".
22. Suy niệm của R. Gutzwiller (Lc 23, 26-49)
ĐƯỜNG LÊN CAN VÊ (23, 26-32)
Khi hoạ lại cho chúng ta con đường khổ giá Thánh Luca không trực tiếp đả động gì đến cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, như việc Ngài ngã xuống đất, những lăng nhục Ngài phải chịu... Cái nhìn của ông hướng về những người chung quanh Chúa.
1. Simon quê Xyrênê
Ông Simon quê Xyrênê là một người chúng ta không rõ tông tích, ông bất ngờ qua đường lúc Đức Giêsu đang vác thập giá. Không phải ông tự ý vác đỡ thập giá Chúa, nhưng bị người ta ép buộc. Ấy thế nhưng truyền thống lại dạy rằng: chính cái cử chỉ bị áp đặt ấy đã đem lại cho ông ơn cứu độ. Sự kiện ấy vẫn hằng tái diễn trong cuộc sống của nhân loại. Một sự đau khổ nào đâu đột nhiên ập tới hoàn toàn bất ngờ, và phải vác thập giá mà chưa có chuẩn bị chi hết: một căn bệnh đột nhiên ập đến hoặc là thất bại về tiền bạc, những vất vả trong gia đình, những khó khăn trong nghề nghiệp, những khủng hoảng trong cuộc sống hôn nhân, những thảm hoạ chính trị, những đối xử bất công... Ban đầu người ta ở thế phòng thủ, thế nhưng rồi chống cự cũng chẳng ích chi, và dù muốn dù không người ta vẫn phải đưa vai ra đỡ lấy thập giá. Nếu người ta tiếp xúc với Đức Kitô như thể đồng thời những liên hệ thuần tuý bên ngoài sẽ dần đổi thành sự thâm hiểu bên trong. Như thế, một giáo hữu bình thường sẽ trở thành một Kitô hữu nhiệt thành, những xác tín về mặt lý thuyết sẽ biến thành sự thông dự cụ thể, nguyên tắc sẽ thành thực hành và khuôn mặt cuộc đời sẽ thay đổi khiến người ta đi đến chỗ coi giờ phút đáng nguyền rủa là giây phút đáng mừng rỡ và là lúc phải dâng lời cảm tạ Thiên Chúa thay vì dấy lên ngỗ nghịch với Người. Những người theo gót Simon sẽ còn tiếp tục qua bao thế hệ
2. Những người phụ nữ
Thái độ của các phụ nữ than khóc Chúa Giêsu coi như đáng quí hơn, vì các bà công khai đến bên Chúa và bày tỏ tâm tình chia sẻ sự đau khổ của Người. Thế nhưng Chúa Kitô đã không khen ngợi lại còn khiển trách các bà. Ước chi họ đừng than khóc Người, mà hãy than khóc chính bản thân mình. Không phải Người đáng cho họ khóc thương, nhưng chính họ mới là kẻ đáng thương khóc. Thứ thương hại chỉ dựa trên tình cảm mà thôi chẳng nghĩa lý gì cả.
Nước mắt cá sấu chẳng giá trị gì. Không nên khóc thương người phải chịu đau khổ khi mà đau khổ đó đưa đến hạnh phúc. Kẻ hoang phí đời mình, không lưu tâm chi đến cùng đích tối hậu, chỉ lo những việc trần thế, đó mới là kẻ đáng cho chúng ta thương hại. Có khi việc kết hợp với Đức Kitô có thể coi như thuần tuý là của cảm giác. Việc đó không có giá trị đối với Đức Giêsu: thứ thương hại do tình cảm là cái gì mau qua chóng hết. Người không thèm thứ đó. Đó là những bộ tịch chẳng báo bổ gì. Kẻ nào chỉ lấy cảm giác mà suy gẫm sự thương khó Chúa thời sẽ chẳng hiểu được ý nghĩa bao nhiêu. Qua các thế hệ sẽ mãi mãi còn vô số phụ nữ theo Chúa trên đường lên núi Canvê. Đối với những người đó có lẽ người ta không còn nghe thấy lời ngăm đe của Chúa Kitô: 'Nếu cây tươi còn bị xử như vậy thì gỗ khô sẽ ra sao?'.
3. Chúa Kitô
Đi sâu vào trong cuộc Khổ nạn, Đức Kitô chẳng còn nghĩ đến mình nữa. Lúc này đây Người thực sự bị trao nộp cho những mưu kế thủ đoạn của họ như bất cứ con người bị khổ đau cùng cực nào, hầu như Người hoàn toàn bị chìm ngập trong chính bản thân mình. Từ nay tư tưởng Người vươn cao hơn nữa, vượt khỏi những người thân cận và phút giây hiện tại. Cái nhìn của Người hướng về những mục đích sau cùng. Ở đây cũng như bữa tiệc ly và trước pháp đình của người Do thái Người chiêm ngưỡng thấy –bên kia cái kết cuộc của riêng mình- cái kết cuộc của Giêrusalem và của thế giới. Người nhìn thấy cái hoạ tai cuối cùng: thời mà người ta nói với núi non: hãy đổ xuống đè chúng tôi và nói với gò nổng rằng: hãy che lấp chúng tôi đi. Giả như Israel tiếp nhận Người là Đấng Cứu Thế thì có lẽ lịch sử thế giới đã diễn biến theo chiều hướng khác hẳn. Nhưng Israel đã nhất định khai trừ Người, đó là lý do khiến cho Israel bị diệt vong và Giêrusalem bị phá huỷ, điềm tiên báo những biến cố vĩ đại khi xảy ra cùng tận thế giới. Chỉ có ở đó, ý nghĩa của con đường Canvê mới tỏ lộ, chỉ có ở đó, sức mạnh canh tân tiềm tàng trong việc huỷ mình và chỉ có ở đó sự sống Chúa Kitô ban xuống qua cái chết của Người mới được tỏ hiện. Ở đây thái độ độc nhất của Người là thái độ của người công chính, chính Người là Đấng cho chúng ta thấy sự vĩ đại đích thực, Đấng mà người Xyrênê đã buộc lòng bước theo và những kẻ khác không hiểu. Chỉ kẻ nào biết lắng nghe các tư tưởng và tâm tình thâm sâu nhất của Chúa Giêsu mời là người đồng hành với Người thực sự trong suốt chặng đường thánh giá của Người.
TRÊN KHỔ GIÁ (23, 33-43)
Qua trình thuật trên, Thánh Luca không trình bày gì về những đau khổ thể xác hay tinh thần Đức Kitô phải chịu. Thánh Sử chú trọng đến việc trình bày Đức Giêsu như một Đấng đem lại ơn cứu thoát, là Đấng Cứu Thế thực sự và vì thế số đông đã ghét bỏ Ngài.
Sự đối kháng: Sự đối kháng này xảy ra ngay trong khi đóng đinh Chúa. Đức Kitô đã bị đóng đinh vào thập giá, bị đối xử ngang hàng với hai tên gian phi, một tên bên hữu, một tên bên tả Ngài, (Thánh Luca ghi rõ sự kiện này) hành hạ phạm nhân rồi, họ mới đem đi xử tử. Chính Israel dân Ngài, đã lên án loại trừ Ngài, và đối với họ, phải làm như thế mới rảnh mắt. Ngay cả các lý hình cũng chia chác áo xống Ngài. Phần còn lại, chúng sẽ bắt thăm. Nhưng ta còn thấy sự đối kháng cũng xuất hiện trong ngôn ngữ nữa. Các thành viên của Hội đồng nhạo cười Ngài, họ cố ý nhạo báng cười chê Đấng Xức dầu, Người được Thiên Chúa tuyển chọn. Tất nhiên Ngài là Đấng Thiên Sai làm sao được khi mà cái chết của Ngài trên thập giá quá đủ. Họ rêu rao như thế và đang khi trông chờ một đấng khác, họ loại trừ, tẩy chay người mà họ đóng đinh. Binh lính cũng hành động như vậy. Họ cũng chế diễu Vua dân Do thái và vương quyền Ngài. Philatô cũng tỏ dấu khinh khi Ngài qua việc ông cho viết tấm bảng treo trên thập giá với hàng chữ mỉa mai: 'Vua dân Do thái' và sau hết sự đối kháng còn phát khởi từ câu hỏi: 'Nếu ông là Đức Kitô của Thiên Chúa, hãy cứu lấy mình và chúng tôi nữa'. Đó là một lời xúc phạm ghê gớm của một kẻ cùng chịu một án với Ngài. Ơn cứu thoát do cây thập tự luôn luôn gặp phải nhẫn tâm, đối kháng và chối từ. Con người quan niệm cứu thoát bao hàm thoải mái, mạnh khoẻ, hứng thú, đầy sức sống, tất cả những gì đối nghịch với Thập giá. Vì thế ơn cứu thoát bắt nguồn từ cây Thập giá đối với con người là một thách đố đối nghịch mà con người không thể lý hoà được. Tuy nhiên Đức Kitô đã dùng Thập tự như là khí cụ cứu thoát được đặt trên bình diện khác và sẽ được hoàn tất trong những thời gian khác. Ở đây điều gì được thực hiện vô hình trong lãnh vực tâm hồn và siêu nhiên thì đối với con người là một nghịch lý nguy hiểm, và sẽ chỉ hoàn tất ở trên trời cách nhãn tiền, cả về thể chất lẫn tinh thần. Bởi thế Thập giá hẳn là một giá trị đảm bảo của Đức Giêsu Cứu Thế.
Giải đáp: Thánh Luca đã trình bày lối giải đáp của Đức Kitô qua hai câu nói sau. Câu thứ nhất Chúa nói với mọi người. Đó là lời trối khi hấp hối: 'Lạy Cha xin tha thứ cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm'. Không một lời than trách không một tiếng rủa nguyền, nhưng đầy lòng tha thứ và còn khẩn nài Cha trên trời thứ tha... Đức Giêsu chết với tư cách là Đấng Cứu Thế. Ngài phó nộp sự sống Ngài để chuộc lại nhân loại, và lời cầu xin cuối cùng là xin cho mọi người được ơn cứu thoát.
Họ không biết việc họ làm. Vì nếu họ hiểu thấu ý nghĩa sâu xa của giờ cứu thoát này, nhận biết một nhân loại mới đang phát sinh, một Giáo Hội đang khai mở, nhận ra giai đoạn từ gian nan đến cứu thoát, từ cái chết đến sự sống thì hẳn họ sẽ không hành động như thế. Thái độ vô tri sâu xa ấy có tội chăng. Không nên đề cập đến vấn nạn này. Một điều chắc là họ không biết và vì đó Đấng bị lên án, đang khi bị hành xử vẫn luôn bênh vực những kẻ lên án và hành xử Ngài. 'Nemo contra Deum nihi Deus solus". (không ai chống nổi Thiên Chúa trừ một mình Ngài). Ở đây phải hiểu Thiên Chúa đối nghịch lại mình để biện hộ bênh đỡ con người. Ân sủng con Thiên Chúa đối nghịch với sự công thẳng của Chúa Cha như thế để ân sủng vượt trên hẳn lề luật và sức mạnh, tình yêu phải thắng vượt công lý nghiêm nhặt.
Câu nói thứ hai Chúa nói với một người thôi. Người này cũng bị treo trên Thập giá đã ghé nhìn Đức Giêsu khẩn nài Ngài. Hắn là một trong hai tội phạm: 'Lạy Đức Giêsu, khi Ngài đến trong nước của Ngài'. Chính tên trộm này là kẻ duy nhất nói đến vinh quang Chúa, vào lúc Ngài hạ mình chịu nạn và chỉ có hắn mới nhận ra nơi Người bị hành quyết đây thực là một vị Vua. Chính hắn tuyên cáo tội mình: 'Phần chúng ta, như thế này là đích đáng vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm'. Và hắn tuyên dương sự vô tội của Đức Kitô, 'nhưng ông này, ông không hề làm điều gì sai trái'. Ngoài ra, hắn còn công bố rằng Ngài sẽ trở lại trong vinh quang. Nơi người này đã có một đức tin vững mạnh, kèm theo một cái nhìn về vĩnh cửu nữa. Vì thế hắn sẽ được cứu thoát. Đức Giêsu lên tiếng đáp lại: 'Quả thật, tôi bảo anh, hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi'. Vì tội mà cửa đóng kín lại, nhờ ơn cứu độ mà nay được mở ra, tội lỗi bị ơn cứu độ vượt thắng. Nhân loại sa ngã và lầm lạc giờ đây bắt đầu trở lại. Sự lầm lạc đã đi đến chỗ cùng đường. Phải quay đầu trở lại, phải bước qua một khúc quanh dứt khoát. Chính con người bị lên án vì tội lỗi mình lại là người đầu tiên được bước đi trên con đường mới đó. Trong cuộc sống, tội đã phạm không phải là yếu tố quyết định, nhưng chính là Đức tin có dẫn đến Đức Kitô và đem lại ân sủng mới là yếu tố quyết định. Nhìn lại mình để nhận ra lỗi lầm mình phạm là một điều kiện tiên quyết để quay về, cải tạo đích thực và sống cuộc sống mới trong Đức Kitô và nhờ Ngài được hưởng ơn cứu thoát.
Như thế qua trình thuật Chúa chịu đóng đinh trên cây Thập giá, Thánh Luca cho ta thấy hai câu nói của Chúa đã làm đảo ngược sự tối tăm và thê thảm của những tiếng 'phản kháng': Một lời Ngài 'nài' xin lòng nhân từ thương xót của Chúa Cha và một lời 'chấp nhận' Ngài nói với người tội lỗi ăn năn xin tha thứ. Ơn cứu độ vinh thăng sự dữ. Đấng hấp hối chính là Đấng Cứu chuộc thế gian.
CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU (23, 44-49)
Việc hạ mình thế là hoàn tất. Dẫu vậy Người phải được đưa lên cao trước khi tắt thở. Với một lối trình bày thật đơn giản của trình thuật, cái chết ấy được kể lại như một biến cố chủ chốt, mang một tầm cỡ vĩ đại chưa từng thấy.
1. Biến cố xảy ra
Tối tăm bao trùm toàn cõi đất. Khi Đức Kitô sinh ra, ánh sáng ngập đánh tan đêm tối; mà khi chết, ánh sáng lại tối sầm lại, bởi vì ánh sáng đến thế gian giải ánh sáng trong đêm đen Belem giờ đây tắt ngúm trên đồi Gongôta u tối. Qua các phép lạ Ngài đã làm chứng tỏ Ngài có chủ quyền trên thiên nhiên, thì chính thiên nhiên cũng chứng tỏ chủ quyền ấy của Ngài trong giờ Ngài hấp hối. Từ khởi nguyên đã có Ngôi Lời và lời sáng tạo đầu tiên là: 'Hãy có ánh sáng'. Qua cái chết, Ngôi Lời đã trở về với im lặng. Đó là lý do tại sao tối tăm bao trùm trên cõi đất. Israel chiếm hữu được ánh sáng mạc khải. Họ đã khai trừ ánh sáng mạc khải ấy khi cho giết chết Đấng Thiên Sai; cái bóng đen bề ngoài của thiên nhiên chỉ là biểu tượng cho cái u tối của tinh thần bên trong.
'Màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa'. Hy tế của Giacaria trong đền thờ báo trước về Đức Giêsu. Cái chết của Đức Giêsu, biểu hiệu hy tế duy nhất và tối cao của nhân loại, nói lên đích đáng cái cùng tận của những hy tế tôn thờ của Israel. Màn rách làm đôi có nghĩa là những lễ nghi phụng vụ đó chẳng còn giá trị nữa, hoàn toàn bị phá bỏ. Bức rèm nặng nề che đậy Nơi Cực Thánh và tách biệt Nơi Cực Thánh ấy khỏi đền Thánh. Qua cái chết, Đức Giêsu đích thân về trời, dâng chén hy tế bằng chính máu Ngài, như thư Do thái chỉ thấy Đền Thánh; Nơi Cực Thánh ở dưới thế này không còn lý do tồn tại nữa, bởi vì đền thờ thực sự của toà nhà thiêng liêng là Giáo Hội cũng như nơi Cực Thánh chân thực trên trời được Đức Kitô mở ra, từ đây thay thế cho những biểu trưng rồi. Sự ngăn cách giữa trời và đất giữa Giáo Hội trần thế với Giáo Hội trên trời hoàn toàn không còn nữa. Bức màn đã trở thành vô dụng. Chỉ có một Thánh điện duy nhất của Chúa không ngăn cách cũng chẳng tách biệt.
Đức Giêsu kêu lớn tiếng: 'Lạy Cha, Con phó linh hồn con trong tay Cha'. Đó không phải là cơn hấp hối dai dẳng và ghê sợ, cũng không phải là sự suy nhược dần dần do bất lực hoàn toàn nhưng đó là một tiếng kêu lớn. Cuộc đời kết thúc bằng một lời cuối, đầy vẻ oai nghi. Suốt đoạn đường vác cây Thập Giá và khi ở trên đồi Canvê Chúa đã ngỏ lời với những người chung quanh, thì những lời sau cùng của Ngài lại thưa với Chúa Cha. Ngài chết đang khi cầu nguyện. Đó không phải là lời thốt ra trong cơn tuyệt vọng, cũng không phải là kêu la thê thảm của kẻ hấp hối nhưng là tiếng nói trang trọng của Đấng trở về chỗ ngụ cư của mình. Đó cũng là lời của Thánh-Vịnh-Gia thốt lên đang khi nép mình nơi Chúa xin thoát khỏi mọi hiểm nguy thế trần và nhân loại. Đức Giêsu đến từ Cha và lại trở về cùng Cha. Vòng tròn của đời sống khép kín lại, chu trình đã hoàn tất. Hơi thở thật êm dịu và trang trọng chiếu rọi trên sự phân cách và cái chết kia.
2. Hiệu quả
Ta thấy có sự phản tỉnh trong số những người đứng chung quanh chứng kiến. Không còn nhạo báng cười chê nữa. Trước nhất là Viên bách quản ngoại đạo, ông là chứng tá hàng đầu. Đó là điều ít nhất người ta trông chờ được ở ông. Những người cuối hết đã bắt đầu trở thành người đầu hết và những người đầu hết đã trở thành những người cuối hết. Giáo Hội của những người ngoại đạo và những người Do thái khai mào ngay dưới chân Thập Giá. Người ngoại giáo ca ngợi Thiên Chúa, xét dưới khía cạnh rất sâu xa, vì ông tuyên xưng cái chết kia không phải là một việc đầy tội ác của loài người, nhưng là kỳ công nói lên Thiên Chúa luôn thi ân giáng phúc. Cái chết đó mang một chiều kích siêu nhân loại. Nên phải ca khen Thiên Chúa đã sai một người như thế đến cho nhân loại. Viên bách quản nhận ra Đức Giêsu là một người công chính. Dầu vậy Ngài vẫn bị hành xử như một tên gian phi và đầy tội ác. Phán quyết đã đổi thay. Đứng sau viên bách quản Rôma là thế giới dân ngoại, họ nhờ vào Đức Kitô mà tìm được con đường dẫn đến Thiên Chúa.
Dân chúng tự đấm ngực. Những người đã vây quanh cây Thập Giá giờ đây quay về nhà mình, lòng ngậm ngùi xúc động, nửa ngờ nửa tin. Nhưng họ tuyên nhận rằng họ không phải là những nhân chứng suông mà thôi, mà còn chịu trách nhiệm về cái chết kia nữa. Họ nhận mình có lỗi. Họ trở lại Giêrusalem mà tâm hồn cũng quay trở về và thực tình sám hối, kết quả đầu tiên của thập giá Chúa Kitô là khơi dậy lòng sám hối. Còn các bà, thánh ký cho ta biết rất đơn giản: họ là những người đã đi theo Ngài từ Galilê, họ chứng kiến cuộc hành hình từ đầu chí cuối. Họ là những chứng nhân câm, im hơi lặng tiếng. Các bà theo Chúa Kitô không phải chỉ hiểu theo nghĩa bên ngoài, tức là theo Ngài trong sứ vụ công khai và phong phú của Ngài trên núi Galilê khi Ngài lâm nạn thảm sầu tại đồi Gôngôtha nhưng họ theo Ngài với một lòng trung thành thẳm sâu tức là họ theo Ngài đến phút chót đời Ngài. Ở đây, Tin mừng khen ngợi lòng kiên vững của họ. Họ là những chứng nhân trung thành tiên khởi vì họ đã kể lại những gì họ đã chứng kiến cho tất cả những ai không được xem thấy.
Trình thuật về cái chết của Đức Kitô không phải là một trình thuật đau xót hay than trách đắng cay nhưng là bài tường thuật một biến cố lớn, đánh dấu một kỷ nguyên mới thực sự bắt đầu và bài tường thuật này mang một tầm mức rộng lớn vô cùng. Thiên nhiên và lịch sử làm chứng và con người phản tỉnh quay đầu trở lại. Thập giá đứng vững giữa lòng vũ trụ, giữa dòng lịch sử và số phận nhân loại.
23. Ông này là ai vậy?
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Từ trước tới nay, chưa một lần nào Đức Giêsu tìm cho mình chút vinh quang trần thế. Còn bây giờ, khi cái chết đã gần kề, Ngài chấp nhận sự tán tụng của đám đông, và chính Ngài cũng muốn ngồi trên lưng một con lừa để khiêm tốn tiến vào thành thánh.
Nhiều người trải áo hay chặt cành cây rải trên lối đi. Tiếng hò reo vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Mêsia, là Con vua Đavít.
Quả thật Ngài là Vua Mêsia, nhưng rồi đây người ta sẽ biết cách làm vua của Ngài: qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá.
Lễ Lá là một lễ vui, nhưng lại đượm buồn. Ta được nghe bài thương khó trong thánh lễ.
Tuần thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu bước vào những ngày cuối đời.
Rước lá đi theo Ngài trong vài giờ là điều dễ. Theo Ngài giữa lúc Ngài được tung hô, chẳng khó gì.
Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều.
Chúng ta thường cảm thấy mệt khi nghe đọc bài Thương Khó.
Nếu chúng ta dành thì giờ để suy niệm về cuộc khổ nạn, ta sẽ thấy lời nói và thái độ của Đức Giêsu có sức nâng đỡ và biến đổi ta, giúp ta đón nhận mọi gai góc của cuộc sống.
Cần cảm nghiệm những nỗi đau trên thân xác Chúa, nhưng đừng quên những nỗi đau sâu kín của trái tim Ngài, và nhất là đừng quên nhận ra một Tình Yêu, Tình Yêu vô cùng lớn đối với Cha và nhân loại. Chỉ Tình Yêu mới làm cho khổ đau sinh trái.
Con Thiên Chúa không xa lạ với khổ đau của phận người. Ngài biết thế nào là bị vu khống, bất công, phản bội, thế nào là bị nhục nhã, sợ hãi, cô đơn và giết chết.
Ngài không phân tích mầu nhiệm đau khổ, nhưng Ngài đón lấy đau khổ với rất nhiều tình yêu, và lập tức nó có ý nghĩa.
Bạn có thể thấy mình giống Giuđa, Phêrô hay Philatô.
Chẳng ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa.
Hãy đi với Đức Giêsu qua từng chặng đường, từ Vườn Dầu đến tận Núi Sọ.
Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì bạn và cho bạn.
Sau khi đã thấm nhuần cuộc Khổ Nạn, bạn sẽ thấy mình yêu thánh giá của Chúa hơn, mến thánh giá của mình hơn, và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy đọc chương 26 và 27 của Tin Mừng thánh Matthêu. Điều gì đánh động bạn hơn cả khi nhìn ngắm Đức Giêsu?
Theo ý bạn, Đức Giêsu có thể tránh né cái chết được không? Tại sao Ngài tự nguyện đón nhận cái chết thập giá?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho con tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.
24. Xin đừng theo ý con (Mc 11, 1-10).
Suy Niệm
Chúa Nhật Lễ Lá là một lễ vui, nhưng cũng là ngày tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa. Chúng ta chứng kiến hai đám rước trái ngược nhau.
Trong ngày Lễ Lá, Đức Giêsu được đón rước vào thành, giữa tiếng hò reo vang dậy. Ngài như vị Vua Mêsia lẫm liệt trên lưng lừa, đi trên con đường của những nhành cây xanh mới chặt.
Sau đó ít ngày là đám rước lên núi Sọ. Không có tiếng tung hô, chỉ có lời kết án. Không có những nhành cây, chỉ có cây thập giá.
Ngày xưa, có ai tham dự cả hai đám rước đó không?
Chúng ta thường mệt mỏi khi nghe bài Thương Khó, và thấy mình dửng dưng, xa lạ, bàng quan. Thật ra nỗi khổ đau và cái chết của Chúa là vì tôi, vì yêu mến tôi (x. Gl 2,20).
Cần nghe đọc bài Thương Khó một cách chậm rãi, và bước theo Chúa qua từng chặng đường. Hãy ở lại với Chúa trong lúc khó khăn này. Cần cảm nghiệm được nỗi cô đơn của Chúa.
Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Ngài. Họ ngủ say để mặc Ngài một mình khắc khoải. Giuđa chỉ điểm bắt Ngài bằng một nụ hôn. Các môn đệ sợ hãi bỏ Ngài mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề quen biết Ngài.
Đức Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ. Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn. Không rõ đám đông Ngài đã nuôi ăn, nay ở đâu?
Đức Giêsu đã đi đến tột cùng của nỗi cô đơn khi Ngài cảm thấy chính Cha cũng vắng bóng: Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?
Cần cảm nghiệm nỗi đau trên thân xác Chúa.
Khuôn mặt ngời sáng của Con Thiên Chúa làm người nay bị khạc nhổ, bị tát, bị đánh túi bụi. Đôi mắt với cái nhìn bao dung ấy nay bị bịt lại để làm một trò chơi trẻ con. Tấm thân đã gánh lấy nỗi đau của bao người giờ đây được phơi ra cho những trận roi cầy nát. Đôi bàn tay đã chữa bệnh và chúc lành, nay co quắp và bầm tím vì những mũi đinh. Đôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo đường truyền giáo, nay không đủ sức nâng cả thân mình đang trĩu nặng.
Cần cảm nghiệm nỗi ô nhục của Chúa.
Danh dự và phẩm giá vẫn là điều đáng trọng. Đức Giêsu bị bắt làm hề, đóng vai Vua dân Do Thái, được mặc cẩm bào, được đội triều thiên, được cầm vương trượng. Có vị vua nào được bái lạy như vị vua này không? Đức Giêsu bị lột áo trước khi bị đóng đinh. Con Thiên Chúa đỏ mặt trước cái nhìn của thế giới!
Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế.
Thập giá của Chúa, của tôi, của anh em tôi, là một.
Chúa mời tôi vác thập giá của mình theo Chúa hàng ngày, và giúp tha nhân vác thập giá của họ.
Ước gì thế giới có thật nhiều Simon Kyrênê.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Giêsu khổ đau như bao người trên mặt đất: bị xét xử bất công, bị áp bức và hãm hại. Hôm nay, bạn có thấy những người đang vác thập giá với Chúa trên khắp thế giới không? Họ là ai?
Bạn có nhận ra thập giá của một người trong gia đình, trong nhóm, trong môi trường sống của bạn không? Bạn đã làm gì để giúp họ trong mùa Chay này?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
25. Cám dỗ
Nhà đạo diễn Mỹ Mác-tin Co-sê đã thực hiện một cuốn phim, có tựa đề là "Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu", dựa theo cuốn tiểu thuyết cùng một tựa đề của Ni-kót Ka-gian-da-kít. Cuốn phim này đã gây nhiều phẫn nộ trong giới Kitô giáo, bởi vì nó đã bóp méo hoàn toàn khuôn mặt lịch sử của Chúa Giêsu, như người ta có thể đọc thấy qua các sách Tin Mừng. Nhà đạo diễn Mỹ này đã bóp méo như thế nào? Ông đã tưởng tượng ra một cuộc tình vô cùng éo le của Chúa Giêsu, để rồi khi thoi thóp hấp hối trên thập giá, Ngài còn phải trải qua cơn cám dỗ cuối cùng, đó là muốn bỏ cuộc để trở về sống với người tình Mai Đệ Liên.
Sự thật hoàn toàn không phải như vậy. Chúng ta hãy ôn lại những giờ phút sau cùng của Chúa Giêsu như bài Tin Mừng đã thuật lại, để thấy được đâu là cơn cám dỗ cuối cùng của Ngài và đâu là tâm tình đích thực của Ngài.
Sau khi Philatô tuyên án tử hình Chúa Giêsu, binh lính Rôma đã bắt Ngài vác thập giá đi đến nơi gọi là Núi Sọ. Tại đây, chúng đóng đinh và treo Ngài lên giữa hai tên trộm cướp. Trong ba giờ liền, Ngài đã phải quằn quại trên thập giá, lãnh nhận tất cả những xỉ nhục, khinh bỉ, nhạo báng của con người.
Trong khi đó, Thiên Chúa vẫn giữ thinh lặng. Cơn cám dỗ trong giờ phút ấy thật là kinh khủng, bởi vì Chúa Giêsu đã giảng dạy: "Hãy yêu thương thù địch của ngươi". Và lúc này đây kẻ thù đã hành hạ Ngài một cách đau đớn, bỉ ổi, làm sao có thể yêu thương kẻ thù như thế được? Đàng khác, khi giảng dạy, Chúa Giêsu cũng luôn nhấn mạnh đến lòng tín thác vào Thiên Chúa. Nhưng giờ đây, chính Thiên Chúa lại để kẻ thù giết Ngài mà không làm gì để giải thoát Ngài. Làm sao có thể tin tưởng nơi một Thiên Chúa như thế? Đó là cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu phải trải qua trong những giờ phút cuối đời của Ngài, chứ không phải là cơn cám dỗ về cuộc tình mà nhà đạo diễn Mỹ đã tưởng tượng ra.
Chúa Giêsu đã đối phó với cơn cám dỗ ấy thế nào? Sự đối phó của Ngài vẫn luôn luôn là: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Đó là lời đầu tiên của Ngài khi vừa bị treo lên thập giá. Đó là phản ứng của Ngài đối với cơn cám dỗ thứ nhất: Ngài vẫn yêu thương và tha thứ, ngay cả những kẻ phản bội, thù ghét và loại bỏ Ngài.
Rồi để đáp trả lại cơn cám dỗ thứ hai, Chúa Giêsu hướng về Cha Ngài và nói: "Lạy Cha, trong tay Cha, con xin phó thác hồn con". Với niềm tín thác trước sau như một, cũng như sự vâng lời tùng phục tuyệt đối của một người con hiếu thảo đối với Cha, Chúa Giêsu đã nói lên những lời đó rồi cúi đầu trút hơi thở cuối cùng.
Như vậy, chúng ta có thể nói: cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một bản tình ca đối với Thiên Chúa và con người. Cái chết của Ngài là tột đỉnh của tình yêu ấy. Tình yêu của một Thiên Chúa yêu thương con người. Viên sĩ quan điều khiển cuộc hành quyết Ngài, đứng dưới chân thập giá, chứng kiến cái chết của Ngài, ông đã cảm nhận được điều đó và ông đã thốt lên: "Quả thực, người này là Con Thiên Chúa".
Qua cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã nêu cao tấm gương xây dựng hòa bình. Ngài đã tha thứ cho những kẻ hành hạ Ngài. Cũng vậy, con người chỉ có thể xây dựng hòa bình nếu biết thực sự tha thứ cho nhau. Nhưng hai ngàn năm qua, nhân loại vẫn chưa hưởng được hòa bình thực sự, bởi vì nhân loại chưa đón nhận hay chưa sống đầy đủ Tin Mừng của Chúa Giêsu. Đối với chúng ta, nếu chúng ta sống theo Tin Mừng của Chúa, chúng ta sẽ có được sự bình an đích thực trong tâm hồn và sống an hòa với mọi người.
Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào Tuần Thánh, tuần lễ cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu ở trần gian, tuần lễ diễn lại cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa. Nếu có ai đó nói rằng: yêu là điên dại, thì trong số những người điên dại này, điên dại theo ý nghĩa cao thượng và cao quí, người điên dại nhất chính là Chúa Giêsu. Ngài chỉ biết yêu thương, yêu thương tất cả mọi người, kể cả những con người xem ra không đáng cho Ngài yêu thương, thế mà Ngài vẫn quan tâm đến họ, vẫn yêu thương họ. Ngài vẫn tiếp tục yêu thương, cả trong những lúc gặp nguy hiểm, và cuối cùng đã hy sinh đến chết chỉ vì tình yêu thương. Chúa Giêsu quả thật là một người điên dại của thế giới.
Mỗi Chúa nhật chúng ta họp nhau để phụng thờ và tôn vinh Đấng yêu thương điên dại này. Ngài đã chấp nhận mọi hiểm nguy, Ngài đã bị thương tích, Ngài đã chịu hình phạt cuối cùng trên thập giá vì yêu thương thế giới, một thế giới luôn mơ tưởng đến tình yêu, nhưng mãi sống trong hận thù. Chúng ta phụng thờ Chúa như một người vì quá yêu thương để chiến bại. Nhưng Ngài vẫn sống để ban sức mạnh cho tất cả những ai sẵn sàng chấp nhận đi theo con đường tình yêu điên dại này: yêu anh, yêu chị, yêu em, yêu quê hương, yêu đồng loại, và yêu tất cả mọi người. Đó là con đường của tình yêu, và cuối cùng, tình yêu sẽ thắng.
26. Đón tiếp
Tin Mừng hôm nay trình bày Đức Giêsu được dân Do thái đón tiếp vào thành Giêrusalem như một vị anh hùng, như một vị vua. Tại sao Ngài lại được đón tiếp như thế? Phải chăng Ngài là người sẽ mang lại cho họ tự do và hạnh phúc? Điều gì họ đang mong ước và trông đợi? Nêu ra những vấn nạn đó để mỗi người rút ra cho chính bản thân bài học từ nơi Đức Giêsu. Ngài đã được dân chúng tiếp đón vào thành và cũng chính Ngài đang tiến vào thành để đón tiếp, đón nhận cuộc khổ nạn. Dẫu Ngài đã biết trước.
Trong tâm tình đó chúng ta cùng với Đức Giêsu tiến vào thành để được đón tiếp và đồng thời cũng đón nhận và chia sẻ cuộc vượt qua với Ngài.
Đức Giêsu được người Do thái đón tiếp rất là nồng hậu. Họ trải áo, bẻ cành lá trải trên đường và dành cho Ngài những lời tán dương, chúc tụng "hoan hô, tung hô con vua Đavid". Vì sao Ngài được vinh dự đó? Thưa, vì họ hy vọng ông Giêsu là người sẽ giải phóng họ thoát khỏi ách nô lệ Rôma, mang lại cho họ một cuộc sống tự do hạnh phúc, giàu sang. Quí ông bà còn nhớ khi ông Bill Cliton vào thăm Việt Nam? Việt Nam đã đón tiếp ông ra sao? Oi! Nào là bao nhiêu câu chuyện được bàn cãi, tranh luận từ giới trí thức cho tới giới bình dân ít học, từ giới báo chí đến giới làm ăn xem ông đến để làm gì và sẽ làm gì cho Việt Nam. Mục đích sâu xa nhất của sự kiện ông đến Việt Nam và được đón tiếp đặc biệt không có gì khác hơn là Việt Nam mong ông giúp mình để phát triển đất nước trở nên giàu mạnh.
Trong cuộc sống đời thường của mỗi người cũng thế. Chúng ta đã tiếp đón biết bao nhiêu người và đón tiếp bằng nhiều cách. Thế nhưng, tiếp đón không có nghĩa là giúp người gặp hoàn cảnh khó khăn để họ khỏi làm phiền mình, tiếp đón cũng không có nghĩa là để giữ lịch sự với người khác và tiếp đón càng không có nghĩa người được tiếp đón sẽ mang lại cho mình một mối lợi gì đó. Vậy, ta nên có một thái độ tiếp đón không tính toán vụ lợi, không mưu toan ích lợi cá nhân hẹp hòi, nhưng nên có một con tim luôn cởi mở để có thể tiếp đón hết mọi người không phân biệt quyền thế hay hèn yếu, giàu sang hay nghèo khổ. Nếu không tiếp đón chỉ là cho đi những thứ dư thừa hầu ru ngủ những đòi hỏi của lương tâm mình mà thôi.
Trang Tin Mừng không chỉ dừng lại việc mô tả Đức Giêsu được dân thành Giêrusalem đón tiếp. Nhưng sâu xa hơn, tiếp tục mời gọi mỗi người cùng với Đức Giêsu chấp nhận, đón nhận những khổ đau mà Ngài đang tiến bước vào thành để tiếp nhận. Dẫu Ngài biết trước sẽ xảy đến với Ngài. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài tiến bước vào thành một cách trung kiên.
Trong bối cảnh sống hôm nay, con người đang đánh mất dần tinh thần đón nhận những thử thách, gian nan, bệnh tật, đau khổ đến với mình. Nói thế không có nghĩa là đề cao đau khổ, tâng bốc bệnh tật vì chính nó nhưng nên biết rằng cuộc sống trần gian không thể nào đáp ứng được tất cả những khát vọng, và làm thỏa mãn mọi ước muốn. Chúng ta đón nhận bệnh tật, đau khổ, thử thách như là một điều phải có không thể thiếu trong đời sống mình, để làm nảy sinh những giá trị tốt đẹp hơn. Đức Giêsu phải tiến bước vào thành đón nhận khổ đau mới đạt tới vinh quang. "Hạt lúa mì xuống đất không thối đi thì nó vẫn là nó mà thôi".
Đức Giêsu trong suốt cả cuộc đời của Ngài, Ngài đã đón nhận thử thách, đau khổ... đặc biệt là Ngài đón nhận cuộc khổ nạn mà đỉnh cao là cái chết thập giá. Ta không thể cảm nghiệm được nỗi đau của Đức Giêsu ở mức độ nào khi Ngài bị treo trên thập giá, "Thức đêm mới biết đêm dài". Thế nhưng, không phải vì Đức Giêsu là Thiên Chúa, nên Ngài đón nhận đau khổ một cách dễ dàng. Chắc chắn nơi Đức Giêsu có một sự đấu tranh giữa đau khổ và hạnh phúc, giữa sức sống và sự chết. Nhưng chính vì tâm tình vâng phục và nhất là vì tình yêu, nên Ngài đón nhận chúng một cách can đảm và trung kiên như thế.
Người Kitô hữu đón nhận thử thách, đau khổ, bệnh tật là điều cần có, nhưng nếu nhìn dưới ánh mắt quá bi quan, nó sẽ dồn ta vào chân tường, đẩy ta vào đường cùng không lối thoát.
Cuộc đời của mỗi người, ai cũng gặp những thử thách, bệnh tật, đau khổ. Nhưng hãy nhìn lên thập giá Đức Giêsu để có thể sẵn sàng đón nhận những trắc trở khó khăn mà mình gặp. Đành rằng khi ta thức đêm mới biết đêm dài như thế nào. Xin quí ông bà nhớ cho, người Kitô hữu đón nhận và sống theo Tin Mừng không phải là người không bao giờ biết mệt, nhưng dù biết mệt mỏi vẫn can trường đón nhận, sống theo Tin Mừng. Đó mới đích thực là người Kitô hữu.
Trước khi kết thúc bài chia sẻ Tin Mừng hôm nay. Xin được trao lại quí ông bà đôi câu hỏi để mỗi người cùng tiếp tục tự vấn con tim của mình.
Mỗi người xử sự thế nào khi tiếp một người nghèo, một người bệnh tật? Hơn thế nữa, trong bối cảnh hôm nay chúng ta có thể cùng với Đức Giêsu chấp nhận, đón nhận những trở ngại, thử thách gian nan để cùng với Ngài can đảm tiến bước vào thành không chút sợ hãi được chăng?
Để kết thúc xin cùng nhìn lên Đức Maria, Ngài đã cùng với Đức Giêsu tiến bước vào thành đón nhận cuộc khổ nạn cho đến chân đồi Canvê. Xin Mẹ luôn đồng hành, để ta có thể can đảm tiến bước vào thành, chấp nhận và đón nhận những thử thách, bệnh tật, đau khổ mà mỗi ngày gặp phải.
27. Chúc tụng
Trong nghi thức của Chúa nhật lễ Lá hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại bài Tin Mừng theo thánh Luca tường thuật lại việc Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Messia. Hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên mình lừa khiến người ta nhớ lại lời sấm ngôn nói về Đấng Messia được ghi lại trong sách Giacaria: "Nào thiếu nữ Sion hãy vui mừng hoan hỷ. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem hãy vui sướng reo hò, vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, Người là Đấng chính trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa vẫn còn theo mẹ".
Hình ảnh dân chúng hò reo tung hô Chúa Giêsu cũng được nhắc đến trong sách Các Vua quyển I. Qua việc công khai vào thành cách long trọng như thế, Chúa Giêsu khẳng định Người là Đấng Messia và là vua của dân Israel. Tuy nhiên, Người không xây dựng vương quốc mà họ muốn đánh nam dẹp bắc, hoặc bằng cách phát triển các sức mạnh kinh tế mà bằng cách tuân hành theo thánh ý Thiên Chúa Cha, một vai trò tôi tớ trung thành đã được ngôn sứ Isaia miêu tả trong bốn bài ca của ông.
Cuộc khải hoàn vào thành Giêrusalem chỉ là bước khởi đầu cho cuộc thương khó mà Chúa Giêsu phải trải qua để chiến thắng sự dữ và sự chết, mở ra cho loài người lối đi đến cõi phúc bất diệt bên Thiên Chúa Cha.
Phụng vụ thánh lễ nói về cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong Chúa nhật hôm nay được ngôn sứ Isaia viết về người tôi tớ đau khổ trung thành của Thiên Chúa phải chịu: "Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi không che mặt khi bị mắng nhiếc xỉ nhục".
Kế đó là bài trích thơ thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Philipphê nói về sự từ bỏ và cái chết tủi nhục mà Chúa Giêsu sẽ đón nhận để mang lại ơn cứu độ cho con người. Chúa Giêsu Kitô không nghĩ mình là Thiên Chúa, không nhất thiết phải duy trì địa vị ngang hàng với Chúa Cha, Ngài đã trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống như phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại luôn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập tự.
Cao điểm của phần Phụng vụ Lời Chúa là bài thương khó Chúa Giêsu được thuật lại trong Tin Mừng theo thánh Luca. Bài Tin Mừng hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta tham dự vào những giờ phút linh thiêng cuối cùng trong sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu. Chúng ta không nghe đọc bài thương khó như nghe một câu chuyện bi hùng đã xảy ra trong lịch sử, nhưng chúng ta nghe và đồng thời cùng với Chúa Giêsu đi vào cuộc thương khó của Ngài. Chúng ta có mặt bên cạnh Chúa Giêsu ở mọi diễn tiến đau thương đang xảy ra. Lịch sử cứu độ đã xảy dài đến chúng ta và chúng ta đón nhận Tin Mừng ấy ngay tại đây và ngay lúc này. Chúng ta không là người chứng kiến lịch sử cứu độ, nhưng chúng ta là người sống và lãnh nhận hiệu quả của ơn cứu độ.
Con đường cứu thế mà Chúa Giêsu đi qua là một con đường dài, khởi đi từ biến cố Nhập thể, ấp ủ và hình thành trong 30 năm sống ẩn dật được thực hiện từng bước trong ba năm rao giảng để tiến đến cao điểm của cuộc khổ nạn và hoàn tất bằng cái chết tủi nhục và việc sống lại hiển vinh. Đó là một con đường hẹp và đầy gian nan, con đường này không giành cho những ai lười biếng hoặc nhát đảm, nhưng giành cho những ai kiên tâm và dám dấn thân.
Hằng năm, Giáo Hội tạo cơ hội cho ta sống 40 ngày Mùa Chay để giúp chúng ta vượt qua những ươn lười và hèn yếu của mình, nhờ chuyên tâm cầu nguyện chúng ta có dịp rà xét lại con người của mình, nhận ra những lỗi phạm và thiếu sót của mình để sửa đổi và bổ khuyết. Chúng ta cũng có dịp xem lại những tương quan của mình với Thiên Chúa, với anh em và với chính bản thân chúng ta. Chúng ta thấy được mình đã xây dựng những mối tương quan đó như thế nào, chặt chẽ hay lỏng lẻo, chân tình hay giả dối.
Nhờ thực hành các việc hy sinh hãm mình chúng ta tập tự chủ, tập chế ngự các thói quen nuông chiều bản thân, tập chế ngự các thói hư tật xấu của mình. Qua đó chúng ta cũng có dịp thông cảm với những yếu đuối của người khác, tập bao dung tha thứ cho những lỗi lầm mà người khác xúc phạm đến chúng ta. Tập nâng đỡ người khác vượt qua được những thói hư tật xấu của họ. Nhờ rộng tay giúp đỡ những người nghèo khổ vật chất và tinh thần, chúng ta nhận ra rằng mình cũng là người nghèo khổ cần được Thiên Chúa và anh chị em ra tay giúp đỡ. Chúng ta cũng cần phải nhận ra gía trị đích thực của những người khác, dù họ là những con người cần sự trợ giúp của chúng ta. Chúng ta học được giá trị của sự chia sẻ qua lại, chúng ta cung cấp cho người khác những cái chúng ta có và nhận lại từ họ những cái chúng ta còn thiếu.
Bốn mươi ngày tập luyện đã qua đi nhưng chặng đường trước mắt chúng ta vẫn còn dài. Hết 40 ngày Mùa Chay không có nghĩa là chúng ta được quyền nghỉ ngơi để bù lại những ngày gian khổ hy sinh. Cuộc chiến đấu để vượt thắng bản thân và sự dữ vẫn kéo dài đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mỗi người chúng ta.
Tuần Thánh mà chúng ta sắp bước vào nói lên những quyết liệt của cuộc chiến này. Chúng ta hãy bước vào Tuần Thánh với những gì chúng ta đã tập tành được trong 40 ngày Mùa Chay. Hãy theo Chúa Giêsu để Người tiếp tục dạy ta cách sống thế nào cho phù hợp thánh ý Chúa Cha. Hãy theo Chúa Giêsu để Người dạy ta cách từ bỏ bản thân, chết đi trong tinh thần vâng phục và sống lại nhờ tín thác hoàn toàn vào niềm tin của Chúa Kitô Phục sinh mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin qua kinh Tin Kính.
28. Làm chứng
Trong ngày Chúa nhật lễ lá, các môn đệ của Đức Giêsu đã hoàn toàn nhận ra được lòng tin của họ nơi Người và lòng trung thành đối với Người. Điều làm cho việc bày tỏ sự ủng hộ của họ càng trở nên đáng khen hơn, đó là vì hành động này được thực hiện trong sự nghiến răng cay đắng chống đối của người Pharisêu. Khi một số người Pharisêu đến phản đối Đức Giêsu, Người phán rằng: "Họ mà làm thinh, thì chính những viên sỏi đá cũng sẽ kêu lên". Có những cơ hội đòi hỏi một sự minh chứng công khai. Đây là một trong những trường hợp này. Đây là trường hợp duy nhất, mà Đức Giêsu chấp nhận một điều gì đó tương tự cảnh được dân chúng sùng bái như một vị anh hùng. Người biết rằng các môn đệ của Người có quyền và có nhu cầu được công khai diễn tả lòng tin của họ nơi Người. Nhưng người ta lại nghi ngờ về lời cam kết của các môn đệ. Không phải là người ta nghi ngờ về sự chân thành của họ, nhưng đó là một sự đáp ứng của công chúng, và khi dân chúng hùa theo như vậy, thì thường có tính cách ồn ào hơn là có chiều sâu. Thật dễ dàng trong việc làm chứng cho Đức Giêsu ở nơi đây, trong nhà thờ. Chúng ta đang ở giữa những người cùng vây cánh với chúng ta. Nhưng không phải là chuyện dễ dàng, để làm chứng cho Người trong một thế giới hững hờ và đôi khi còn thù địch nữa.
Có những lúc chúng ta cần phải tuyên xưng lòng tin của mình nơi Đức Giêsu một cách công khai. Và có những khi hoàn cảnh đòi buộc chúng ta phải làm như vậy.
Những viên đá sẽ không biết nói ra. Chỉ có con người mới có thể làm được điều đó. Chúng ta đừng nên giữ im lặng nữa, khi có một tiếng kêu đòi hỏi chúng ta phải nói ra: lời nói ủng hộ, để bảo vệ một người nào đó đang bị đối xử bất công ; lời nói khen ngợi một người nào đó, mà sự đóng góp của họ đang bị quên lãng ; hoặc lời nói lên sự thật, ở nơi nào mà người ta cố tình nói dối. Nhưng nói ra không phải là điều dễ dàng. Giữ im lặng thì dễ dàng hơn và an toàn hơn nhiều. Như vậy, chúng ta hãy cẩn thận, trong khi tuyên xưng lòng tin của mình vào Đức Kitô ở nơi đây, trong nhà thờ, sao cho chúng ta không phớt lờ hoặc chối từ Người tại nơi công cộng. Đức Kitô nói với chúng ta "Bất cứ kẻ nào tuyên xưng về Ta trước mặt những người khác, thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người đó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời". Chúng ta có thể rút ra được nguồn cảm hứng từ các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu. Trong Tin Mừng, họ được biết đến như là những người không e ngại trong việc thừa nhận những hoài nghi, nhu cầu và sự thiếu lòng tin của mình. Tuy nhiên, trong ngày Chúa nhật lễ lá đầu tiên, họ đã mạnh mẽ và gan dạ trong việc làm chứng cho Đức Giêsu. Xin Chúa rủ lòng thương xót trên chúng ta, là những người môn đệ nhút nhát và đầy sợ hãi của Người, và ban cho chúng ta lòng can đảm, để cuộc sống của chúng ta có thể mang lời chứng về lòng tin mà chúng ta tuyên xưng.
29. Yêu cho đến cùng – Thiên Phúc
(Trích trong 'Như Thầy Đã Yêu')
Tại nhà thờ chính tòa Nuzburg trong miền Baviere, Tây Đức, có một tượng thánh giá nổi tiếng được chạm trổ vào khoảng thế kỷ thứ 14. Hai cánh tay đã rút khỏi lỗ đinh và vòng ra phía trước như ôm một con người.
Tương truyền rằng có một tội nhân hết lòng sám hối ăn năn, xin Chúa thứ tha tội lỗi. Nhưng vì tội ông quá lớn, quá nhiều nên ông vẫn còn nghi ngờ lòng thương xót của Người. Chúa liền đưa tay ra ôm chầm lấy ông trong vòng tay âu yếm để bày tỏ lòng Chúa khoan dung hải hà.
Trong suốt cuộc đời công khai rao giảng, rất nhiều lần, Chúa Giêsu đã bày tỏ tấm lòng yêu thương con người: Người đã thực hiện các phép lạ, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỉ, dạy dỗ dân chúng, âu yếm trẻ thơ, và tha thứ cho tội nhân. Hôm nay, Người quyết định bước vào đoạn cuối của tình yêu, đỉnh cao của dâng hiến. Người quyết định yêu cho đến cùng, bằng cuộc khổ nạn và cái chết đau thương của Người.
Nhưng trước hết, Người phải chịu một cơn cám dỗ cuối cùng. Cơn cám dỗ mà Luca đã báo trước: "Quỉ rút lui để chờ dịp khác". Dịp ấy hôm nay đã đến. Satan nhập vào Giuđa, để người môn đệ bất trung, tham của này, dùng cái hôn nộp thầy. Satan sàng Phêrô và các môn đệ như sàng gạo để Phêrô thì chối Thầy, còn các ông khác thì bỏ trốn. Vườn Giệtsimani quả thật là nơi giao tranh giữa Chúa Giêsu và quyền lực tối tăm, giữa sự thiện và cái ác. Người dùng phương thế hữu hiệu là cầu nguyện để thắng cám dỗ. Nhưng dường như trong cuộc chiến nội tâm của Người rất căng thẳng, nên Người đã xin Chúa Cha tha cho Người khỏi uống chén này. Người lên cơn xao xuyến bồi hồi đến nỗi mồ hôi như những giọt máu rơi xuống đất.
Thế nhưng, Người vẫn nhân từ thực hiện nghĩa cử yêu thương cuối cùng, trước khi hoàn toàn dâng hiến trên thập giá: Người hiền hòa ra đón Giuđa, và dịu dàng nhắc nhở ông về tình nghĩa thầy trò. Người chữa lành tên đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai. Người quay nhìn Phêrô với ánh mắt tha thứ khi ông chối Thầy. Người an ủi những phụ nữ thương khóc Người. Người xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh Người. Người ban thiên đàng cho tên trộm biết sám hối.
Cuối cùng, Người đã hoàn toàn dâng hiến trên thập giá để cứu chuộc tất cả muôn người. Sinh thời Người đã nói: "Không có tình yêu nào cao quí bằng người hy sinh mạng sống vì bạn hữu". Người đã yêu thương con người cho đến giọt máu cuối cùng. Thánh Gioan viết: "Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1b).
Lạy Chúa Giêsu, chính vì vâng theo thánh ý Chúa Cha và cũng vì yêu chúng con mà Chúa đã sẵn lòng vác thánh giá, vui chịu mọi khổ đau nhục hình. Xin cho chúng con từ nay cũng biết yêu Chúa hơn yêu bản thân, và yêu Chúa chỉ vì Chúa chứ không mong phần thưởng nào khác.
Xin cho chúng con nhận ra thánh giá của Chúa trong mọi đau khổ của cuộc đời chúng con, và vững bước theo Chúa trên đường thánh giá, miễn là chúng con đang chu toàn thánh ý Chúa. Amen.
30. Suy niệm của Lm Jos. Phạm Thanh Liêm
ĐỨC YÊSU ĐỐI DIỆN CÁI CHẾT
Chúng ta bước vào tuần thánh với Chúa Nhật Lễ Lá, kỷ niệm Đức Yêsu vào thành Yêrusalem được dân chúng đón rước long trọng. Biến cố Đức Yêsu vào thành Yêrusalem như một vị vua, gắn liền với những gì xảy đến cho Ngài vào những ngày cuối cùng của đời Ngài.
Thành công và thất bại trên đời
Sau ba mươi năm sống âm thầm và làm nghề khiêm tốn ở Nazarét, Ngài đã công khai rao giảng suốt ba năm khắp đất nước Do Thái với những thành công và thất bại. Hôm nay Ngài trở lại Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của người Do Thái mà mọi người trưởng thành thường phải lên Yêrusalem. Cha mẹ Đức Yêsu cũng vẫn lên Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, và Ngài từ năm 12 tuổi cũng đã được dạy và thực tập hằng năm. "Hôm nay Ngài có lên Yêrusalem không?" Một số người am hiểu thời sự biết tình trạng nguy hiểm của Đức Yêsu: nếu Ngài lên Yêrusalem Ngài có thể bị những người lãnh đạo giết chết. Chính vì vậy họ mới đặt câu hỏi!
Trên đời, ai không gặp thất bại? Một danh nhân Việt Nam đầu thế kỷ 20 đã nói: "không thành công cũng thành nhân". Vấn đề chính là thái độ hay cách cư xử của mình thế nào đối diện với những thành công và thất bại trên đời.
Đức Yêsu chấp nhận những gì xảy đến, ngay cả cái chết
Đa số các tông đồ không muốn Ngài lên Yêrusalem dịp này, dù rằng đây là luật buộc người Do Thái. Thomas khi thấy Ngài quyết định lên Yêrusalem thì nói: "Chúng ta cùng lên Yêrusalem để cùng chết với Ngài" (Ga.11, 8.16). Cổ ngữ có câu: "tránh voi chẳng xấu mặt nào". Tại sao Đức Yêsu không "khôn" một chút?
Đức Yêsu vẫn làm điều phải làm, Ngài không trốn tránh, Ngài chấp nhận thân phận làm người trong mọi trường hợp, chẳng hạn Ngài nói với Phêrô dịp người ta tới bắt Ngài: "xỏ gươm vào vỏ, liệu anh tưởng Thầy không thể xin Cha cho thầy 12 đạo binh thiên thần sao, nhưng như vậy thì làm sao Kinh Thánh được nên trọn?" (Mt.26, 53). Đức Yêsu đã không biến đá thành bánh để ăn, Ngài cũng không xuống khỏi thập giá khi bị thách thức, vì Ngài chấp nhận "thân phận con người" đến cùng trong mọi trường hợp.
Tôi có sẵn sàng chấp nhận thân phận là người của mình trong cuộc sống thường ngày không?
Dâng hiến chính mình
Đức Yêsu không chỉ chấp nhận cái chết một cách thụ động. Vì tình yêu "đối với con người", nên Ngài đã có một sáng kiến tuyệt vời: dâng hiến chính mình cho tất cả mọi người qua bí tích Thánh Thể.
Hành vi tình yêu, đòi con người phải vượt qua chính mình, tôn trọng người mình yêu trong mọi điều kiện, muốn những điều tốt lành cho người mình yêu. Yêu như Đức Yêsu yêu, tức là sẵn sàng chết để người yêu được sống. "Tình yêu mạnh hơn sự chết". Sự dữ bất lực trước tình yêu.
Phục vụ là dấu chỉ của tình yêu. Các tông đồ tranh luận xem "ai là người lớn nhất trong họ" nếu thầy không còn nữa. Và đây là đầu mối chia rẽ và bất hòa. Đức Yêsu dạy các tông đồ: "ai muốn làm lớn thì phải là người phục vụ". Đức Yêsu đã đến như một người tôi tớ. Môn đệ của Ngài cũng được mời gọi nên giống Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đâu là thử thách lớn nhất của kiếp người, theo ý riêng bạn?
2. Theo bạn, các tông đồ nên thánh qua những việc nào và bằng cách nào?
3. Bạn có tuyệt vọng bao giờ chưa? Mong ước nào không thành sự đến nỗi bạn tuyệt vọng? Làm sao bạn vượt qua được?
4. Bạn đã yêu và được yêu bao giờ chưa? Làm sao bạn biết người ta yêu bạn?
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn