Lời Chúa: Dnl 26,4-10; Rm 10,8-13; Lc 4,1-13
MỤC LỤC
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về việc cầu nguyện trong sa mạc, trong thanh vắng, trong thinh lặng.
Nhìn vào thế giới ngày hôm nay chúng ta nhận thấy khắp nơi đề vang lên những âm thanh ồn ào, con người như chạy đua với vận tốc, vật lộn trong cuộc đấu tranh tìm chén cơm manh áo. Rất ít người biêt tìm lấy những giây phút thinh lặng để cầu nguyện, tâm sự với Chúa. Rất ít người biết quỳ gối trước nhà tạm trong những giây phút rảnh rỗi. Hành động của con người thời nay thì hời hợt bên ngoài, không thấm sâu vào tâm hồn, nó chỉ dừng lại trên bình diện tự nhiên.
Là người tín hữu, chúng ta phải biết đánh giá và làm việc theo tinh thần đức tin. Điều đó có nghĩa là chúng ta không được gác bỏ những công việc bổn phận thường ngày, nhưng hãy chu toàn một cách siêu nhiên, hãy làm những công việc ấy vì lòng yêu mến và gắn bó mật thiết với Chúa. Có như vậy thì những công việc nhỏ bé nhất cũng có được một giá trị trước mặt Thiên Chúa, bởi vì nó đã được Thiên Chúa chúc phúc, đồng thời nó sẽ đem lại những hiệu quả tốt đẹp như lời Chúa đã phán: Không có Thầy, các con không thể làm gì được. Nếu không có sự yêu mến và gắn bó với Chúa, thì những công việc chúng ta làm, kết quả bên ngoài có thể là rất tốt đẹp, nhưng kết quả bề trong, trước mặt Thiên Chúa chỉ là một con số không mà thôi.
Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng Giáo Hội được đổi mới, được cứu độ nhờ vào những công việc rùm beng bề ngoài và mang nặng tính cách quảng cáo. Thế nhưng Thiên Chúa lại hành động một cách khác. Con người chúng ta có thể quay trở về với Chúa bằng những phương tiện siêu nhiên và chỉ có thể được cứu rỗi nhờ vào một đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa. Chính vì thế mà chúng ta hiểu được việc Chúa Giêsu vào sa mạc để cầu nguyện trước khi bắt đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng của mình, cũng như hiểu được vì sao các đấng thánh, trước khi bắt đầu một công việc trọng đại, nhất là về phương diện tôn giáo, thường cấm phòng, tĩnh tâm, thường tìm lấy những giây phút thinh lặng để cầu nguyện với Chúa.
Để canh tân, để đổi mới trái đất này, Chúa Giêsu đã bắt đầu bằng việc cầu nguyện. Hơn thế nữa, Ngài còn dùng 30 năm dài để chuẩn bị cho 3 năm sứ vụ của Ngài. Trong khi đó chúng ta thường thích ra tay lèo lái hơn là tồn tâm dưỡng tịnh, chúng ta thường thích hoạt động hơn là cầu nguyện. Bởi đó, giữa sự huyên náo của cuộc đời, chúng ta hãy biết dành lấy cho mình một khoảng sa mạc, một nơi thanh vắng, một thoáng thinh lặng, để thực sự cầu nguyện và kết hiệp với Chúa.
Đức Giêsu bị cám dỗ sau một thời gian dài không ăn trong hoang địa. Có lẽ sau khi Ngài chịu phép rửa ở sông Jordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã ăn chay cầu nguyện để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì, và phải làm như thế nào trong những tháng ngày sắp tới. Sau thời gian này, Đức Giêsu đã đi rao giảng, khởi đầu một giai đoạn mới trong đời Ngài.
Đức Giêsu là người. Ngài không biết tất cả. Ngài phải tìm ý Thiên Chúa liên lỉ qua cầu nguyện, bằng việc nhận định những gì xảy tới cho Ngài trong đời sống thường ngày (Lc.22, 42; Ga.4, 34). Ngài cầu nguyện để biết phải làm gì, phải chọn ai (Lc.6, 12-13). Trong cuộc sống, có lúc Ngài biết nhưng lúc khác Ngài lại xao xuyến dao động: Ngài đã loan báo cho các tông đồ rằng Ngài sẽ bị bắt bị giết và sau ba ngày Ngài sẽ sống lại (Lc.9, 22. 44-45;18, 31-34) nhưng ở trên thập giá Ngài lại bị cám dỗ Thiên Chúa bỏ Ngài: “Lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc.15, 34).
Đức Giêsu là người. Ngài còn bị cám dỗ như tất cả mọi người. Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu bị cám dỗ biến đá thành bánh (Lc.4, 3), bị cám dỗ có quyền hành (Lc.4, 6-7), bị cám dỗ nghi ngờ tình yêu Thiên Chúa (Lc.4, 9-10). “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Ai đã có kinh nghiệm đói, mới biết những cám dỗ này mãnh liệt như thế nào. Ai có kinh nghiệm về nghèo, mới thấy tiền bạc thu hút con người đến độ nào. Khi đói, người ta mong có đủ cơm ăn; khi có đủ cơm ăn áo mặc, người ta mong muốn có nhiều để bảo đảm tương lai và còn muốn ăn ngon mặc đẹp. Đây là những cám dỗ mà ai cũng gặp. Đức Giêsu một khi đã chia sẻ thân phận con người nên Ngài cũng bị cám dỗ về ăn, tuy nhiên Ngài không thể biến đá thành bánh như Ngài muốn, nếu không, Ngài không còn là người trọn vẹn nữa. Nhập thể, là chấp nhận giới hạn của con người.
Con người thấy mình có những khuynh chiều của thân xác và cũng có lý trí để nhận biết điều tốt và phải làm. Con người có những khuynh chiều thân xác như thèm ăn, đòi thỏa mãn thân xác, muốn được đề cao và quy tất cả về mình. Những khuynh chiều này cũng thuộc về tôi nhưng không hoàn toàn thuộc về tôi. Tôi có những nhu cầu thân xác, có những khuynh chiều thân xác, nhưng cũng không phải chỉ có vậy. Tôi còn cảm nhận nơi tôi có ao ước cái gì cao hơn, tươi đẹp hơn, tuyệt hơn. Tôi là thực tại gồm cả khuynh chiều thân xác cũng như lý trí hướng thiện. Khuynh chiều xấu có nơi tôi, nhưng nó chưa là tôi hoàn toàn; chỉ khi nào tôi đồng tình, chỉ khi nào tôi ưng thuận, nó mới hoàn toàn là tôi. Có nhiều lúc tôi ưng thuận với những khuynh chiều bất chính nơi tôi, và như vậy, tôi làm tôi thành xấu qua chính hành vi ưng thuận của tôi.
Đức Giêsu, theo ngôn từ của thư gởi tín hữu Do Thái, không bao giờ ưng thuận những điều sai quấy cho dù Ngài bị cám dỗ như tất cả bao người khác: “Ngài nên giống chúng ta mọi đàng trừ tội” (Dt.4, 15; 2, 17). Ngài bị cám dỗ như bao người, như mỗi người chúng ta, nhưng không bao giờ Ngài phạm tội, không bao giờ Ngài ưng thuận với những gì bất chính, với những khuynh chiều bất chính nơi thân xác Ngài. Đức Giêsu là người hoàn toàn, Ngài chịu thử thách trăm bề, bị cám dỗ như bất cứ ai trên đời, nhưng Ngài có một điều khác con người: Ngài không phạm tội. Đồng tình hay không đối với những khuynh chiều bất chính nơi mình, là hành vi tự do của mỗi người; đồng tình với những khuynh chiều xấu, là phạm tội. Phạm tội hay không, là tùy tự do của mỗi người, là do con người xử dụng tự do Thiên Chúa ban cho như thế nào. Phạm tội hay không, là tùy tự do con người, nó không thuộc bản chất con người.
Theo niềm tin Kitô hữu, có hai người không bao giờ dùng tự do Thiên Chúa ban để chống lại Thiên Chúa, không bao giờ hai vị này thuận theo những khuynh chiều bất chính nơi họ, đó là Đức Giêsu và Đức Maria. Đức Maria vô nhiễm nguyên tội và không phạm tội “riêng”. Mẹ là người tuyệt vời, nên đã được Thiên Chúa cho hưởng hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu với Ngài. Điều này được diễn tả qua tín điều: Đức Maria lên trời cả hồn lẫn xác. Đức Giêsu đã không bao giờ thuận tình với bất cứ cám dỗ làm điều xấu nào. Ngài thuộc trọn về Thiên Chúa đến độ người ta nói Ngài là con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Tin vào Đức Giêsu là tin vào Thiên Chúa. Thiên Chúa đã sinh ra Đức Giêsu, đã làm Đức Giêsu thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu đã thuộc về Thiên Chúa với thân xác của mình, cho dù người ta đã hủy hoại thân xác Ngài, nhưng không thể hủy hoại được Ngài. Thân xác Đức Giêsu là thân xác thánh ngang qua chính cuộc sống của Ngài. Mỗi con người đều được gọi để thành thánh, để thuộc về Thiên Chúa, trở nên người thành toàn, người tuyệt vời qua những chọn lựa sống của mình. Hơn bất cứ thời điểm nào, mùa chay giúp các Kitô hữu nhìn lại con người của mình với những khuynh chiều thân xác và tinh thần, để rồi nhận ra lời mời gọi nên thánh trong tất cả mọi hành vi của đời sống mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có vô vàn cám dỗ hủy diệt cuộc đời
Con người dùng mồi bọc lưỡi câu để dụ cá và giật chúng lên khỏi nước để rồi kết liễu cuộc đời của chúng trên bàn ăn. Vô số cá tham mồi đã sa vào cám dỗ của con người và phải chết tức tưởi trước thời hạn.
Một số nhà nông hiện nay thường dùng những hóa chất có mùi hương đặc biệt có sức thu hút hàng ngàn con ruồi vàng đục trái và hủy diệt chúng ngay khi chúng vừa xáp tới hít phải mùi hương hấp dẫn nầy. Vô số ruồi đục trái phải chết tức thời cũng vì sa vào cám dỗ của người nông dân.
Những kẻ nghịch thù thường dùng gái đẹp và rượu ngon để làm mê muội lòng trí những ông vua đầy quyền lực hầu triệt hạ nhà vua và chấm dứt triều đại của ông. Thế là rất nhiều ông vua say đắm tửu sắc bị mắc vào cạm bẫy của kẻ thù và phải chết chìm trong vũng lầy êm ái.
Cám dỗ có thiên hình vạn trạng
Cám dỗ diễn ra dưới nhiều dạng thức như tiền tài, danh vọng, địa vị chức quyền, lạc thú…
Cám dỗ có thể từ bên ngoài thâm nhập vào con người qua cả ngũ quan: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác.
Cám dỗ cũng còn ẩn sâu từ cõi lòng và thôi thúc từ bên trong, đó là tham lam, ham muốn, kiêu căng, giận hờn… xui khiến người ta chìm vào tội lỗi.
Thông thường hơn, có những cám dỗ rất gần gũi với đời sống hằng ngày, đang vây bọc chung quanh chúng ta và chi phối, chế ngự cuộc đời chúng ta.
Nhà thơ Tú Xương có nêu tên vài cám dỗ rất thường tình nhưng cũng là những cám dỗ bất tận trong kiếp người, như:
“Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta…”
Ca dao Việt Nam cũng nói đến sự cám dỗ của thuốc lá khiến nhiều người không kháng cự nổi:
“Nhớ ai như nhớ thuốc lào,
đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.”
Thế là con người phải luôn luôn đương đầu với vô vàn cám dỗ có nguy cơ hủy diệt nhân cách và phẩm chất của mình.
Cám dỗ không buông tha bất cứ ai
Cám dỗ không chừa bất cứ ai. Các môn đệ Chúa Giêsu ngày xưa cũng bị cám dỗ được làm lớn, (Mc 9,34) được ngồi bên tả bên hữu chiếc ngai vàng mà họ tưởng là Thầy Giêsu sẽ chiếm lấy.(Mc 10,37)
Ngay cả Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi những cơn cám dỗ trong cuộc đời. Mặc dầu Người thực sự là Thiên Chúa nhưng vì Người cũng hoàn toàn là con người như chúng ta, nên “Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta” (Do-thái 4,15).
Bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến không phải một mà là đến ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu.
Cám dỗ thứ nhất là sử dụng quyền lực thần linh để biến đá thành cơm bánh (Lc 4,3).
Cám dỗ thứ hai là trở thành vua của thế giới, “toàn quyền cai trị các nước thiên hạ cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này” (Lc 4, 5-7). Cám dỗ nầy còn được lặp lại khi dân chúng muốn tôn Chúa Giêsu làm vua. (Gioan 6,15).
Cám dỗ thứ ba là dùng quyền phép để thu phục nhân tâm, chẳng hạn như đứng trên “nóc Đền Thờ Giê-ru-sa-lem rồi gieo mình xuống” an toàn, khiến cho mọi người khâm phục và tin theo (Lc 4, 9-11).
Dù bị cám dỗ về mọi mặt y như chúng ta, nhưng Chúa Giêsu không bao giờ thua trận. Người chiến thắng tất cả mọi thứ cám dỗ cách vẻ vang. Vũ khí Người sử dụng để chống lại các chước cám dỗ là lòng yêu mến Chúa Cha, luôn vâng phục Chúa Cha và cố công làm đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng.
Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta kiên quyết chống lại mọi cơn cám dỗ trong cuộc đời
Thân phận con người như lau sậy yếu đuối, bị lắc lư nghiêng ngả giữa muôn luồng gió cuộc đời. Đời sống con người chơi vơi như cánh bèo trên mặt nước, dễ dàng bị trôi dạt bởi sóng nước vây phủ tư bề.
Vì cám dỗ có thể đến từ mọi phía nên chúng ta phải luôn tỉnh táo để không bị chúng bất thần xông tới hủy diệt chúng ta.
Vì cám dỗ có tính cách trường kỳ, chỉ chấm dứt khi con người tắt thở nên chúng ta phải thường xuyên rèn luyện để có thể bền gan chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng.
Vì cám dỗ có thể hủy diệt những phẩm chất cao đẹp của con người và biến người ta thành nô lệ cho dục vọng đen tối, cho bản năng hư hèn, nên chúng ta không thể để cho mình thua trận.
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy chọn làm theo ý Chúa hơn là theo ý mình, cố gắng làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự, gắn bó với Chúa Giêsu, cầu nguyện với Chúa Giêsu để xin Người giúp chúng ta chiến thắng.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Mùa chay khởi đầu với thứ tư lễ tro và kéo dài 40 ngày. Chúa Nhật thứ sáu mùa chay là Lễ Lá, khởi đầu tuần thánh tưởng niệm cuộc tử nạn phục sinh của Đức Giêsu. Mùa chay dọi lại cuộc hành trình của dân Chúa trong hoang địa 40 năm trước khi vào đất hứa, cũng như biến cố Đức Giêsu ăn chay cầu nguyện 40 ngày trước khi khởi đầu sứ mạng rao giảng công khai, và cụ thể chuẩn bị tâm hồn tín hữu hôm nay chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Đức Giêsu tử nạn phục sinh.
Thiên Chúa can thiệp trong lịch sử dân tộc Việt Nam
Bài đọc thứ nhất cho thấy người Do Thái mỗi năm trình diện trước nhan Chúa với hương hoa mình thu lượm được, và tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Đấng can thiệp vào lịch sử dân tộc: Cha tôi là người Aram đã sống ở Aicập, bị hà hiếp và chúng tôi đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã giải phóng chúng tôi khỏi ách nô lệ… Thiên Chúa đã kiến tạo và dìu dắt dân Do Thái qua Abraham, Isaac và Môsê…
Người Việt Nam cho mình là con rồng cháu tiên, con cháu Lạc Long Quân và Âu Cơ, con cháu vua Hùng với bốn ngàn năm văn hiến…! Đó là cách nói của người Việt Nam về chính mình, nhưng dù nói cách nào chăng nữa thì cuối cùng, người Việt Nam vẫn là con Thiên Chúa, vẫn được Thiên Chúa tạo dựng, và Ngài đã làm một số người Việt Nam trở nên những bậc anh hùng, dám hiến dâng mạng sống để làm chứng Thiên Chúa đang hiện diện và hướng dẫn dân tộc Việt Nam.
Những gì dân tộc Việt Nam đang là đang có, đều là ân điển Thiên Chúa ban. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử Thiên Chúa yêu thương tất cả loài người qua dân tộc Do Thái, cũng tương tự vậy lịch sử dân tộc Việt Nam là chuỗi những biến cố các anh hùng dân tộc đã thực hiện trong tình yêu của Chúa, qua các triều đại vua Hùng, qua bà Trưng bà Triệu, qua một ngàn năm sống dưới sự cai trị của người Tàu mà không bị đồng hóa hoặc tiêu diệt. Thiên Chúa hiện diện nơi lịch sử dân tộc Việt Nam với nét nhịn nhục, sự kiên cường và tính anh hùng bất khuất của người Việt Nam. Thiên Chúa yêu thương người Do Thái, và Ngài cũng yêu thương người Việt Nam không kém gì người Do Thái. Dân tộc Do Thái là mẫu, là hình ảnh, để giúp các dân tộc khác nhận ra tình yêu của Thiên Chúa nơi mỗi dân tộc.
Thiên Chúa yêu thương và gần gũi mọi người thuộc mọi dân tộc
Thiên Chúa nói với con người qua lương tâm của mỗi người, và Ngài đã nói với con người qua lịch sử dân Do Thái cũng như qua các ngôn sứ, và trong thời cuối cùng Ngài đã nói với con người qua chính Con Một của Ngài là Ngôi Lời nhập thể. “Lời rất gần ngươi, ngay nơi miệng và trong lòng ngươi”. Nếu ai muốn nghe tiếng Chúa, ắt có thể nghe được vì Thiên Chúa rất gần con người.
“Nếu ngoài miệng tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và trong lòng tin rằng Thiên Chúa đã phục sinh Ngài từ cõi chết, thì được cứu”. Tin vào Đức Giêsu, thì được cứu, dù người đó là Do Thái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, vì “tất cả những ai kêu cầu danh Thiên Chúa đều được cứu”.
Xin cho mỗi người nhận ra Thiên Chúa luôn yêu thương và đồng hành với từng người, và với dân tộc mình trong dòng lịch sử.
Đời là cuộc chiến
Đức Giêsu cũng không được miễn trừ khỏi cuộc chiến. Đã là người, ai cũng phải chiến đấu. Cuộc chiến thể lý, không phải ai cũng phải đương đầu; nhưng cuộc chiến thiêng liêng hay nội tâm thì ai cũng phải trải qua. Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu trải qua cuộc chiến của Ngài:
– Ngài đói, và có cám dỗ muốn ăn, muốn có gì để ăn, muốn biến đá thành bánh để ăn. Tại sao không biến đá thành bánh để ăn, khi tất cả để phục vụ con người, đặc biệt khi mình đói? Cám dỗ trở nên cực kỳ mãnh liệt khi ý tưởng “nếu không được ăn bây giờ thì mình sẽ mất sức và như vậy không biết mình còn có thể sống được nữa không”!
– Con người nếu để tự do, không biết cái gì xảy ra. Tại sao không dùng quyền lực để thống trị con người? Tại sao không làm vua và cưỡng bức tất cả mọi người phải được rửa tội, như vậy danh Chúa có cả sáng và dễ dàng hơn không? Tại sao lại cho con người tự do? Tại sao không dùng quyền lực để bắt người ta làm điều tốt?
– Nếu tôi nổi tiếng và được người ta kính phục, thì khi tôi giảng về Thiên Chúa người ta sẽ nghe, và Chúa sẽ được vinh danh hơn. Làm sao để lấy được lòng tin và kính phục của con người? Tôi có thể nhảy từ đỉnh đền thờ xuống, và giảng cho người ta một bài về Thiên Chúa, và người ta sẽ nghe lời tôi giảng! Nhưng nhảy xuống thì tan xương nát thịt. Tại sao Thiên Chúa không can thiệp? Tại sao Thiên Chúa không sai thiên thần đến đỡ chân tôi?
Đức Giêsu đã phải chiến đấu với ma qủy, với chính khuynh chiều thân xác của con người. Và Ngài đã thắng, Ngài chấp nhận chương trình Thiên Chúa về con người, Ngài chấp nhận luật lệ tự nhiên Thiên Chúa đã xếp đặt, Ngài không biến đá thành bánh, Ngài tôn trọng tự do của con người, Ngài không thách thức Thiên Chúa và đòi Thiên Chúa làm theo ý riêng mình. Con người ngày nay cũng có những cám dỗ tương tự như Ngài ngày xưa, có lẽ là:
Tại sao tôi không được phá thai khi đó chỉ là một tế bào trong thân xác tôi? Tại sao tôi không được cloning (sinh vô tính) khi tôi không có con, khi tôi muốn có người nối giòng? Tại sao con người không được làm những thí nghiệm về con người (tái tạo con người khi cho phôi và tinh trùng gặp nhau, xem nó phát triển như thế nào, và v.v… rồi có thể hủy những “thai nhi” như vậy)?
Tại sao tôi không được thỏa mãn mình khi người khác đồng ý, khi tôi có tiền và người khác cần tiền, v.v…?
Tại sao tôi không được coi những giá trị “đa số người đời thừa nhận” làm giá trị của tôi, chẳng hạn tiền bạc, địa vị, danh vọng…
Mỗi người trong cuộc sống thường ngày, phải chiến đấu với ma qủy, với chính mình, với thế gian và những giá trị của nó. Xin Chúa giúp, để mỗi người chúng ta vượt qua chính mình, để chúng ta trở nên giống Đức Giêsu, nên thánh mỗi ngày trong từng hành vi quyết định của chúng ta.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Bài Phúc Âm hôm nay đề cập đến cuộc tranh chấp giữa Chúa Giêsu và ma quỉ. Một cuộc tranh chấp sẽ còn kéo dài trong những ngày sắp tới và còn tiếp tục trong lịch sử Giáo hội cũng như trong cuộc sống mỗi người, cho đến ngày toàn thắng cuối cùng của Chúa.
Đã là một cuộc tranh chấp thì có hai đối thủ đương đầu: Chúa Giêsu và ma quỉ.
Người Công giáo chúng ta, ai cũng tin có ma quỉ, vì Thánh Kinh đã nói rõ ràng và trong đời sống, chúng ta nhận thấy hoạt động của nó. Tuy nhiên, ma quỉ – những thiên thần ngụy vốn rất khôn ngoan-, biết dấu đầu che đuôi, để làm cho một số người không tin rằng nó có. Cha Ravignan nói: “Cái khôn ngoan của ma quỉ ngày nay là làm cho người ta tin tưởng rằng nó không có, để dễ dàng hoạt động”.
Ma quỉ thuộc thế giới vô hình, chúng ta không nhìn thấy nhưng nhận thức sự hiện diện của nó qua các hoạt động. Ma quỉ thường hoạt động bằng 3 cách: ám ảnh, phá phách, và cám dỗ.
Trước hết, ma quỉ ám ảnh người ta, dùng nạn nhân như dụng cụ để nói năng hoạt động. Chúa Giêsu đã trừ quỉ nhiều lần (Mt 8, 16; Mc 1, 32; Lc 4, 41…). Chúa ban cho các tông đồ quyền năng ấy (Mt 10, 1 & Mc 3, 15). Giáo hội cũng thừa hưởng trong sứ vụ “trừ quỉ”.
Báo Express của Pháp ngày 22-4-1974, đăng tải một bài nói về những vị trừ quỉ, cho biết cả nước Pháp có 8 vị, những linh mục thánh thiện, khôn ngoan và can đảm được chỉ định để làm nghi thức trừ quỉ theo Phụng vụ khi cần đến. Một vị, Cha Henri Gesland, 66 tuổi, nói: “Tôi không cần xem phim Người trừ quỉ-Exorcist-đang làm xôn xao dư luận, vì sự thật mà tôi phải đương đầu còn hơn trong phim”.
Ma quỉ còn phá phách, nhất là những tâm hồn thánh thiện đạo đức. Thánh Gioan Vianney, Cha sở họ Ars, bị ma quỉ phá trong 35 năm và chỉ được buông tha một năm trước khi Ngài qua đời. Ở Việt Nam, câu chuyện chị Anna Diệu thuộc Dòng Mến Thánh Giá Thanh Hóa, nạn nhân của ma quỉ, được kiểm chứng và ghi trong cuốn “Le diable au Couvent” (Quỉ trong Tu viện) của Đức Cha De Cooman.
Nhất là ma quỉ hay cám dỗ chúng ta, xúi dục ta sa ngã phạm tội.
Bài Phúc Âm đề cập đến 3 đợt cám dỗ của ma quỉ. Chúa chấp nhận bị satan cám dỗ. Luca viết: “Thánh Thần đưa Ngài vào hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ”. Ma quỉ dùng ba tư tưởng để cám dỗ Chúa thì nó cũng dùng ba thứ mồi nhử để lôi kéo chúng ta, là tiền tài, danh vọng và sắc dục.
Cuộc đương đầu với ma quỉ còn kéo dài. Luca viết: “Ma quỉ rút lui để chờ dịp khác”, thì đối với chúng ta cũng vậy, một nhà tu đức viết: “Đó là cơm bữa hàng ngày”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cầu nguyện, ăn chay hãm mình, để bắt chước Chúa chống lại chước cám dỗ của tà thần.
“Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Kinh Lạy Cha).
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Đình Túc)
Chuyện xưa kể rằng: Vua nước Thục có tính tham lam. Huệ vương, vua nước Tần lại muốn xâm chiếm nước Thục. Nhưng vì khe núi hiểm trở, không thể đem quân sang đánh, Huệ vương sai lấy đá tạc hình một con trâu để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày bỏ vàng sau đuôi trâu và phao tin đồn rằng: “Trâu đãi ra vàng”. Tiếng đồn ấy đến tai vua Thục. Ông liền sai xẻ núi lấp khe và cho năm lực sĩ vào rừng kéo con trâu đá về. Huệ vương nhờ đó sẵn lối đi, liền đem quân tiến đánh, cướp được nước Thục. Vua Thục vừa mất nước, vừa hại cả mình, vừa để lại trò cười cho thiên hạ.
Vua Thục chỉ vì tham chút lợi nhỏ giả tạo mà mất nước, và số vàng kia cũng quay trở lại vào tay quân thù. Thiên hạ cười chê nhà vua dại khờ vì đã chọn lựa sai.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Cuộc sống luôn mở ra cho chúng ta những chọn lựa, thử thách. Tuy nhiên, với người này, gian nan thử thách có thể làm cho họ nhụt chí, thoái lui, hay vấp ngã ê chề; nhưng với người khác, có thể lại là dịp để họ lớn lên, trưởng thành và vững chắc hơn trước thách đố cuộc sống.
Cám dỗ gắn liền với phận người tự do. Bởi tự do chỉ thực sự có giá trị và ý nghĩa khi nó đi liền với chọn lựa. Những chọn lựa thật dứt khoát của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên một thái độ mới trước những thách đố của cuộc sống, đồng thời cho chúng ta cái nhìn chân xác hơn về bản chất của những cơn cám dỗ trong cuộc đời.
Bởi cám dỗ không đơn giản là xúi giục làm điều xấu, nhưng còn là những mánh khóe biến giả thành thật, thực thành ảo, là thủ đoạn tô hồng những khía cạnh chân thật, đánh bóng những nhu cầu giả tạo – thoạt nhìn – thật tốt đẹp và cần thiết, nhưng thật ra, đó chỉ là hình ảnh ảo, hoặc một cái nhìn rất phiến diện.
Cám dỗ thứ nhất ma quỷ đưa ra hôm nay là nhu cầu ăn uống, là đánh vào bản năng sinh tồn, đánh vào thân xác luôn đòi hỏi nâng niu, chiều chuộng. Đây quả là một nhu cầu thật thiết thân, nhưng chưa phải là nhu cầu cao nhất, càng không phải là nhu cầu độc nhất. Bởi cứ mải đánh bóng nhu cầu vật chất, nhiều người bị mờ mắt, không còn ý thức đến nhu cầu tinh thần, và nguy hiểm hơn, đánh mất phẩm giá của mình để rơi vào một hình thức nô lệ khác: nô lệ cho vật chất và cái bụng.
Cám dỗ thứ hai là một nhu cầu khác, cao hơn và hấp dẫn hơn nhu cầu ăn uống. Đó là cơn cám dỗ chính yếu của con rắn địa đàng trong bài đọc I hôm nay: “Chẳng chết chóc gì đâu! Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt hai người sẽ mở ra và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác”.
Ngày nay, đó là cơn cám dỗ nhắm vào bản năng đối kháng. Là tìm cách chạy trốn giới hạn cùng những thực tại phũ phàng để bay lên bằng ảo giác của bia bọt và thuốc kích thích,… Là thèm khát địa vị, quyền chức thế gian, nhắm vào khuynh hướng thích ngồi chiếu trên, để thống trị, áp đặt quyền lực trên người khác…
Bởi Thiên Chúa luôn có vẻ như vắng mặt, nên con người rất dễ chạy theo những vị thần giả hiệu, chúng có tên là tiện nghi, sắc đẹp, kiến thức, tài năng,…
Khát vọng vươn lên một cuộc sống tốt đẹp hơn là một khát vọng chính đáng. Nhưng mối nguy của nó ở chỗ điều kiện luôn đi kèm: phải thỏa hiệp với sự dữ. Nhiều người vì muốn thăng quan tiến chức mà phải chạy chọt, gian lận, sống luồn cúi, bất lương và vì thế, họ vô tình “bái lạy” ma quỷ mà không hề hay biết.
Cám dỗ thứ ba là cám dỗ xảo quyệt nhất. Vì nó không xui giục người ta bỏ Chúa, nhưng khuyến khích người ta chạy đến cầu xin với Ngài để được ban phép lạ. Thực ra, cầu xin không phải là chuyện xấu xa, và một đời sống đạo đức, gắn bó với Thiên Chúa là điều đáng khuyến khích.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã khước từ lời đề nghị của quỷ ma, vì xin không phải là thử, lại càng không phải là thách thức Thiên Chúa, đòi kiểm chứng bằng dấu lạ điềm thiêng. Đó là cơn cám dỗ tìm những pha ngoạn mục, kiếm những chuyện thần kỳ, muốn gặt hái những thành công lẫy lừng bằng những chuyện kinh thiên động địa.
Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ, dùng quyền năng Thiên Chúa để trốn tránh khó khăn, nghịch cảnh. Thích phô trương màu mè, nhưng rất ngại nghe Lời Chúa, hoặc mượn danh nghĩa việc tông đồ để cầu danh trục lợi. Không ít người đã từ bỏ, không còn đặt niềm tin vào Thiên Chúa chỉ vì xin mà không được.
Như thế, Ác thần chẳng những dùng điều xấu xa, mà còn có thể lợi dụng việc đạo đức tốt lành để đẩy con người ra xa Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ ma quỷ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc vì nó tiến từng bước: từ hạ thấp phẩm giá đến tước mất tự do của con người. Sau cùng là chối bỏ, khước từ Thiên Chúa. Cơn cám dỗ càng hiểm độc khi âm mưu nham hiểm được bọc trong lớp vỏ nhung lụa, ngọt ngào, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.
Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy đi vào sa mạc, vì 40 ngày chay tịnh đầy thử thách, không chỉ như giai đoạn thanh luyện, chuẩn bị cho sứ vụ sắp tới của Ngài, mà còn là một gặp gỡ, để đón nhận sức sống từ trời cao cho hạt mầm cứu độ đâm chồi nảy lộc giữa lòng thế giới. Ngài đi vào sa mạc không chỉ để đối đầu với thử thách mà còn để sống tâm tình con thảo với Chúa Cha.
Vì thế, sa mạc không chỉ là nơi hoang vu, thiếu thốn, nhiều cạm bẫy đáng sợ, mà còn có thể là chặng dừng quan trọng, là nơi gặp gỡ của những con tim. Con tim Thiên Chúa và con tim nhân loại.
Mùa Chay vì vậy, không chỉ là mùa của kiêng khem, khổ chế trong u sầu than vãn, mà còn là giờ của ân sủng, là thời gian Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Bởi những cơn cám dỗ và lời thách thức: “Nếu ông là con Thiên Chúa” trong Tin Mừng hôm nay vẫn có đó giữa đời thường, như gắn liền với thân phận đàn con lũ cháu của Ông Bà Nguyên Tổ.
Dù có khoác lớp áo mới hào nhoáng, hấp dẫn, tinh vi, hiện đại hơn, thì cũng là một chuỗi những cám dỗ của thuở đầu tạo dựng. Nếu lo sợ đi tìm một biện pháp giải trừ, tìm một phương cách để chống chọi hay tránh né vẫn thật sự chưa đủ. Điều cần thiết là một định hướng, một thái độ, một cách nhìn. Bởi một khi đã gạt Thiên Chúa ra khỏi những suy nghĩ của mình, chúng ta cũng rất dễ hào phóng mở lòng ra với cơm bánh, của cải và danh vọng. Vì thế, khi chọn bước vào cuộc chiến suốt 40 ngày sa mạc, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ với thế gian rằng: Con người có thể thắng được những cám dỗ của thế lực tối tăm, nếu biết chọn đứng về Thiên Chúa và sống bằng sức sống của Ngài.
Chọn Thiên Chúa và thực thi thánh ý Ngài, là thông điệp mà Chúa nhật đầu Mùa chay hôm nay gửi đến chúng ta, như lời gọi mời một tư thế đứng thẳng, và để lại sau lưng những ươn lười, ngần ngại. Đứng thẳng lên để cùng với Chúa Giêsu đi tới trong cuộc hành trình Mùa chay: nói KHÔNG với cái xấu, cái thấp hèn; nói KHÔNG với lối sống buông thả, gian tà, nhu nhược.
Nhưng điều quan trọng hơn có lẽ là cách nhìn của mỗi chúng ta về những khó khăn, thách đố của đời thường. Bởi những thách đố của cuộc sống hôm nay có thể làm chúng ta lo sợ, tránh né, hoặc thỏa hiệp với tà tâm, bất chính, nhưng cũng có thể là cơ hội cần thiết giúp chúng ta lớn lên hơn, vững vàng hơn, để sống công chính và thẳng ngay trong tư thế đứng thẳng của những người con Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Đức Giêsu khởi đầu cuộc rao giảng Tin Mừng về tình yêu thương xót và cứu độ của Thiên Chúa; rồi trong tư cách một người phàm, qua kinh nghiệm ‘cám dỗ’ nơi chính bản thân mình, Người cho thấy phải tiếp nhận Tin Mừng cứu độ đó như thế nào. Kinh nghiệm chiến đấu với cám đỗ này mang tính phổ quát, cách riêng có giá đối với Kitô mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh, không chỉ dưới khía cạnh luân lý nhưng nhất là trong thái độ tiếp nhận Tin Mừng. Càng là Kitô hữu, dầu là các linh mục – tu sĩ đã được tu luyện nhiều năm tháng, ai trong chúng ta cũng cần liên tục vượt thắng các cơn cám dỗ đánh trực tiếp vào niềm tin của mình.
Nói tới ‘cám dỗ’ thông thường ta nghĩ ngay tới điều gì đó cấm kỵ, thuộc lãnh vực luật lệ hay luân lý mà mọi người phải xa tránh; vì thế cho nên nhiều người cắt nghĩa trình thuật Đức Giêsu chịu cám dỗ như sau: Người bị ma quỉ cám đỗ về mê ăn uống, về tính khoe khoang hay tự tôn tự đại; nhất là sự hiện diện của ‘con quỷ’ lại càng làm cho vấn đề thêm vẻ ‘luân lý’. Đã sống trên đời thì phàm ai cũng bị ‘cám dỗ’ như thế thôi, chẳng cứ gì Đức Giêsu hay Kitô hữu; và như thế thì bài học của Đức Giêsu về chống trả cám đỗ càng ít giá trị khi mà ta muốn giới thiệu Người như ông thầy dạy luân lý (moralist). Điều này chắc chắn không đánh trúng trọng tâm, vì trước Người, đã có rất nhiều bậc thánh hiền thuộc nhiều tôn giáo và triết thuyết khác đã từng dạy và phổ biến những nền luân lý và đạo đức còn cao đẹp và cặn kẽ hơn, cũng như đưa ra các phương thế chế ngự hữu hiệu hơn nhiều. Họ không những giải thích bản chất của cám dỗ (tham, xâm, xi) mà còn dạy các phương pháp chế ngự vượt thắng (diệt dục, tự kỷ) rất căn cơ và bài bản. Nếu thế thì Kitô hữu chúng ta rút ra được điều gì qua bài học ‘chiến thắng cám đỗ’ của Đức Giêsu, khi mà Người không chỉ bị cám dỗ ‘luân lý’ về mê ăn uống, khoe khoang hay thống trị, mà sâu sắc hơn, Người đang cho thấy một kinh nghiệm chống trả thách thức đối với đức tin trong tư cách Kitô hữu?
Tôi thiết nghĩ mọi ‘tín hữu’ – bất luận thuộc tôn giáo nào (miễn là không thuộc hạng vô đạo) vẫn cho rằng đời mình được xây dựng trên niềm tin vào một đấng vô hình; có một điều họ cần làm, nhưng lại rất ít khi thực hiện, đó là duyệt xét xem mình thực sự mong đợi điều gì nơi đấng đó. Họ coi như chuyện đương nhiên, ‘niềm tin’ là chờ đợi Chúa (hoặc Trời, hoặc Phật, hoặc Thần Thánh) chu cấp cho cuộc sống mình được đầy no, sung túc; cao hơn thế nữa, để đời mình được thăng hoa trong thành đạt và danh vọng, được danh thơm tiếng tốt… và cao thượng hơn nữa là được đắc đạo, là đạt tới nhân đức thánh thiện, trọn lành. Niềm tin ‘kỳ vọng’ này hình như rất phổ biến nơi người ‘có đạo’ thuộc mọi tôn giáo, trong đó có cả Kitô hữu chúng ta. Điều được coi như tất yếu, như lẽ thường tình này thì hôm nay lại bị Lời Chúa liệt vào loại ‘cám dỗ’, mà Đức Kitô trước nhất, rồi tới mọi Kitô hữu chúng ta, phải thắng vượt. Trong tư cách một con người đặt niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu đã nêu gương chiến đấu và chiến thắng cơn cám dỗ tinh vi này như thế nào? Thường tình ta sẽ nghĩ rằng, Thiên Chúa phải (truyền) biến những hòn đá thành lương thực để nuôi sống tôi… vì tôi đã tin vào Ngài, phải gìn giữ tôi “kẻo chân vấp phải đá”… vì tôi đã cậy trông nơi Ngài, phải ban cho tôi thành công, quyền lực, vinh quang, phúc lộc… vì tôi đã ”bái lạy, thờ phượng Ngài”.
Đối với Đức Giêsu, tin vào Thiên Chúa trước hết phải là lắng nghe, phó thác và qui về Thiên Chúa nhân ái cách trọn vẹn và vô điều kiện! Đặt bất cứ điều gì khác lên trên niềm tin phó thác tuyệt đối đó, cho dầu có là nhu cầu cuộc sống, là thăng tiến nhân bản, là trọn lành đạo đức…, thì đều bị coi là cám dỗ đối với đức tin. Trước lời cầu cứu khẩn thiết rất chính đáng của các môn đệ trong cơn bão táp: “Thầy ơi, chúng con chết đến nơi rồi!” (Mc 4:38), hay của Phê-rô trong lúc bị chìm xuống nước: “Thầy ơi, cứu con” (Mt 14:30) thì Đức Giêsu vẫn luôn quở trách các ông là đã ‘sa ngã’ vào cơn cám đỗ đức tin: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Vì thế, vào đầu mùa chay thánh, thời gian mà Hội Thánh mời gọi con cái mình duyệt xét và củng cố niềm tin vào một Thiên Chúa đã tự hiến, đã chết và phục sinh để cứu độ, bài tường thuật về các cám đỗ Đức Giêsu đã trải qua khi khởi sự cuộc rao giảng Tin Mừng về Chúa Cha nhân ái cứu độ thật có ý nghĩa và đánh rất trúng trọng tâm; trong số các điều cần chấn chỉnh trong Mùa Chay thánh này, các Kitô hữu chúng ta (ngay cả các linh mục, tu sĩ) cần phải đặt việc chấn chỉnh đức tin lên hàng đầu:
– Phải chăng tương quan giữa tôi với Thiên Chúa (của Đức Kitô) vẫn chủ yếu là cầu xin cho được no đủ, được che chở, được thăng tiến trong nhân đức, trong tông đồ…?
– Niềm tin và phó thác tuyệt đối vào một Thiên Chúa từ nhân và hay thương xót, đã cho Con Một Người xuống thế để sống và chết cho tôi, đang ở mức độ nào?
– Trong cuộc sống Tin Mừng của tôi, giữa cầu xin các ơn huệ và phó thác tin tưởng cho tình yêu nhân ái, điều nào nổi trội hơn?
Mùa chay là thời gian để tôi suy nghĩ và trả lời các vấn nạn trên, nếu tôi thật sự muốn chân thành hoán cải!
Lạy Chúa! Mùa Chay là thời gian hồng phúc, là thời gian thuận tiện để con tiến xa hơn trong niềm tin vào lòng Chúa yêu thương. Xin cho con hằng biết chiêm ngưỡng Đức Kitô Cứu Chúa tự hiến trên Thập Giá, để không bao giờ con rơi vào cám dỗ đặt tin tưởng vào tình Chúa yêu thương chỉ thông qua các ân huệ mình nhận được. Qua Mùa Chay thánh này, xin cho con có được niềm xác tín vững chắc như Phao-lô: “không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của đức Giêsu Kitô, cho dầu là…” A-men.
Khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai, Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa để ở lại nơi đó bốn mươi ngày. Thế ra, để một hoạt động mang lại hiệu quả, hoạt động đó phải được xây dựng trên nền tảng tĩnh lặng. Chính trong tĩnh lặng mà con người có thể xác định đường đi nước bước và tiến tới việc chọn lựa chính xác mục tiêu.
Trước đây, mỗi lần đọc bài Phúc âm “Chúa Giêsu vào hoang địa chịu ma quỉ cám dỗ”, tôi đều nghĩ đến nỗi cảm thông sâu xa mà Đức Giêsu đã chia sẻ với nhân loại trong thân phận con người. Đời là một cuộc chiến đấu và chọn lựa. Trong kiếp người, Đức Giêsu cũng không ra khỏi thông lệ đó. Chắc hẳn Ngài không chỉ đơn thuần hiểu thấu nỗi đau khổ nơi thân xác lẫn tinh thần của kiếp nhân sinh, nhưng Ngài còn cảm được những khó khăn, yếu đuối, và gian nan trước bao cuộc chiến của con người với ma quỉ, xác thịt, và thế gian.
Đức Giêsu cũng trải qua cuộc chiến như ai. Ngài cũng chịu thử thách giống Ađam ngày xưa trong vườn Địa đàng. Ngài cũng đón nhịu cám dỗ như Dân Do thái trong hoang địa. Nhưng Ađam thì sa ngã, chạy theo những lôi cuốn của giác quan và quyền lực. Dân Do thái thì bất trung, dám thử thách và chống lại Thiên Chúa khi tôn thờ “cái bụng” và thần ngoại.
Riêng Đức Giêsu, Ngài đã chiến thắng và mang lại cho con người một niềm hy vọng tươi sáng và hướng đi huy hoàng: Chọn lựa và tin tưởng Thiên Chúa, con người sẽ chiến thắng Satan.
Để có thể làm nên cuộc chọn lựa chính xác và tin tưởng vững vàng những gì mình lựa chọn, tôi cần có sự tĩnh lặng tâm hồn. Nếu đời là một cuộc chiến và chọn lựa liên lỉ, tôi phải không ngừng tìm vào “hoang địa”, để nơi đó luôn xác định cho lối đi, đích tới và phương tiện tiến bước của đời mình.
Lần này, khi đọc lại bài Phúc âm “Chúa Giêsu chịu cám dỗ” qua lăng kính “đi vào tĩnh lặng để xác định một sự chọn lựa”, tôi đón nhận được từ Lời Chúa một nguồn sinh lực mới, làm phong phú cho hành trang đức tin, trên con đường hy vọng.
Chúa Giêsu đi vào hoang địa, nơi đó trong thinh lặng và nguyện cầu, Ngài xác định con đường mình sẽ đi: “con đường cứu độ nhân loại”. Đích tới của việc cứu độ đó không phải là mang lại cơm bánh cho con người. Đối với Đức Giêsu, cứu độ hay giải phóng không phải là việc cung cấp cho con người phúc lợi vật chất: “Người ta sống không chỉ nhờ bánh” (Lc 4:4). Đây chính là lầm lẫn của thần học gia Leonard Boff, khi quá chú tâm đến việc giải phóng con người khỏi cái nghèo thân xác mà quên mất nỗi tiều tuỵ bần cùng của tâm linh, một sự bần cùng mà chỉ có Chân Lý Yêu Thương mới giải phóng được mà thôi. “Chân Lý sẽ giải phóng con người.”
Nhưng chân lý đó ở đâu nếu không phải là từ Lời Chúa. Thế nên yếu tố mà Đức Giêsu chọn lựa để cứu độ con người chính là Lời: “Người ta sống không chỉ nhờ bánh, nhưng là nhờ vào mọi lời xuất từ miệng Thiên Chúa” (Mt 4:4). Mà Đức Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa. Như thế, Ngài tự khẳng định: không ai khác, không một điều gì khác, ngoại trừ Ngài, chính là con đường cứu thoát duy nhất cho nhân loại.
Sau khi đã nhìn ra con đường giải thoát chân chính và duy nhất, Đức Giêsu đã làm thêm một cuộc chọn lựa khác: chọn lựa phương tiện. Đối với Ngài, phương tiện cứu độ không phải là phép lạ.
Nhảy từ trên đỉnh cao của đền thờ xuống mà không hề hấn gì thì quả là một phép lạ cả thể đấy chứ. Không chừng nhờ phép lạ như vậy mà nhiều người sẽ phục sát đất và tin nhận mình là Đấng Thiên Sai. Nhưng Chúa Giêsu không chọn phép lạ.
Ngày hôm nay, khoa học kỹ thuật tiến bộ đến nỗi đã phát minh không biết cơ man nào là “phép lạ”. Ví dụ, trước đây, khi một noãn cầu của người phụ nữ được thụ tinh, nhiều lắm là mười tháng sau, một đứa bé sẽ chào đời. Nhưng hiện nay, kỹ thuật khoa học có thể làm phép lạ giữ trứng thụ tinh đến 6, 7 năm sau mới cho mầm sống tiếp tục phát triển và chào đời. Bằng phép lạ cloning (sao người), khoa học có thể làm ra một thân xác không đầu để lấy các cơ phận, mà cung cấp cho những ai cần đến.
Trong hoang địa, Chúa Giêsu đã xác định phép lạ không phải là phương thế tuyệt hảo để cứu độ con người. Ngài thấy trước rằng khi thiếu niềm tin, khi mất chân lý, thì phép lạ hay bất cứ một sự thần thông biến hoá nào cũng không mang ơn cứu độ. Trái lại, chỉ gây ra tình trạng huỷ diệt nhân phẩm và làm tàn lụi sự sống con người.
Thế nên, phương thế cứu độ không phải là phép lạ, nhưng là niềm tin. Một niềm tin vững vàng vào Thiên Chúa chính là phương thế mang ơn cứu độ. Biết bao lần Chúa Giêsu chữa lành què quặt, đui mù, đau yếu, phung hủi… và Ngài chẳng bao giờ tuyên bố: “Phép lạ của Ta đã cứu chữa con” nhưng luôn là: “Lòng tin của con đã cứu chữa con.” Như thế niềm tin vào Chúa Giêsu chính là phương thế cứu độ bảo đảm nhất.
Đã có con đường và phương tiện di chuyển, nhưng đâu là cùng đích cho cuộc hành trình? Xin thưa: “Thiên Chúa”. Đức Giêsu chỉ rõ: “Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa, và chỉ thờ phượng một mình Người” (Lc 4:8).
Trong thinh lặng và cầu nguyện của mùa Chay Thánh, người tín hữu được mời gọi nhìn lại hành trình cuộc đời. Thử hỏi, nẻo đường tôi đi có được soi sáng bởi Chân lý Tin mừng, hay chỉ là gian dối lọc lừa? Niềm tin trong tôi đang dẫm chân tại chỗ hay vững vàng tiến bước? Đích cùng của đời tôi chính là Thiên Chúa Tình Yêu, hay miếng cơm, xác thịt, đồng tiền, uy quyền, danh dự.
Có quyết tâm đi vào sa mạc lòng mình, với những hy sinh, cầu nguyện, bố thí, giúp đỡ đồng loại,
Có chân thành nhìn lại và trả lời với chính mình về con đường, phương tiện, và đích tới trong đời,
Có chọn lựa, tin tưởng, và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa,
Tôi mới mong có được một mùa Chay ý nghĩa và tràn đầy sức sống nội tâm, hứa hẹn một ngày Phục sinh vinh quang.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ba Tin Mừng đều trình bày cơn cám dỗ như là trình bày phép rửa. Sự liên hệ là thời gian vì cả hai sự kiện gắn liền nhau “Bấy giờ Chúa Giêsu được Thần Khí dẫn vào samạc’ (Mt) “và lập tức Thần Khí đẩy Ngài vào samạc’ (Mc) “Chúa Giêsu đầy Thánh Thần, từ giã vùng sông Giođan” (Lc), Nhưng cùng một chủ đề: tuyên xưng Chúa Giêsu như là con Thiên Chúa đã nhận lấy thử thách. Cám dỗ ở chỗ bắt Chúa Giêsu chọn lựa giữa những gì có thể.
Ba nhãn quan về chính một sự kiện
Biết rằng Thánh Thần dẫn Chúa Giêsu vào samạc và ở đó 40 ngày chịu satan cám dỗ. Mc trình bày rất cô đọng, còn Mt và Lc đã sử dụng một truyền thống thuật dạy giáo lý sư phạm hơn; lặp lại, phương cách Thánh Kinh, đưa ra cảnh đối nghịch giữa tên cám dỗ và Chúa Giêsu; điều đó thể hiện một giai đoạn nhất định, sẵn sàng ghi lại trong một trình thuật và một cốt truyện về căn tính của Chúa Giêsu và nguồn gốc của Ngài trong lịch sử Israel.
Trình thuật trong ngữ cảnh của Luca
Trình thuật này tự nó hầu như đã đầy đủ: có ý nghĩa. Có một sự khởi đầu (‘Chúa Giêsu được dẫn vào trong samạc và bị ma quỷ cám dỗ”). Cuộc gặp gỡ mở ra làm cho các nhân vật xuất hiện, tương ứng, vào cuối trình thuật, chia rẽ (“ma quỷ lìa bỏ Chúa Giêsu mà chờ dịp”). Nhưng trình thuật của chúng ta là thành phần của một lịch sử lâu dài: ghi chép trong một bản văn rộng lớn hơn. Phép rửa (3,21-22), tiếp theo là gia phả (3,23-35) dẫn vào hai khuân mặt tính của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và con người. Hai mặt tính này chắc chắn dẫn đến sự cám dỗ. Tiếng từ trời tuyên phán là Con Thiên Chúa, được ghi lại trong tiến trình lịch sử nhân loại bởi gia phả, Chúa Giêsu được dẫn vào samạc.
Đọc lại trình chúng ta thấy rõ. Ma quỷ lìa bỏ Chúa Giêsu để chờ dịp. Điều này muốn nói rằng, cuộc chạm trán giữa Chúa Giêsu và tên cám dỗ được nhắc đi nhắc lại. Nhưng chắc chắn kết thúc. Chiến thắng của Chúa Giêsu được thánh hiển bởi sự nhận biết (“danh tiếng Người đồn ra khắp vùng”), sẽ được hoàn tất khi thời gian tới; có nghĩa là khổ nạn bất chợt.
Một vở kịch ba hồi
Trình thuật diễn ra theo một trình tự rõ ràng. Trước hết, các diễn viên kịch được đưa vào. Bên này là Chúa Giêsu, bên kia là ma quỷ. Hai nhân vật không cần được giới thiệu. Chúa Giêsu được độc giả biết đến khi tin vào Ngài gửi đến trong Tin Mừng. Ma quỷ là thành phần của thế giới quen thuộc của người Dothái ở thế kỷ đầu. Rất thú vị, mô tả tên nó có nghĩa là một chương trình. “Satan” tiếng Dothái (“quỷ” tiếng Hylạp) chỉ tên đối phương. Đó là một nhân vật mà bản tính là đối đầu. Nó đối đầu với ai? Với Thiên Chúa trước tiên và trước hết mọi sự Chúa Giêsu đến để được Thiên Chúa tiên phán là Con.
HỒI THỨ NHẤT (V. 1-4)
Hồi thứ nhất có khung cảnh là samạc. Sự định vị này không rõ nét. Đối với con người trong Thánh Kinh, samạc tự nhiên gợi lên thời Xuất hành và đối diện thường xuyên, đau khổ giữa Thiên Chúa và dân Ngài. 40 ngày nhắc lại 40 năm trong samạc và 40 ngày Môsê ở trên núi. Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày. Ở trong tình trạng cần thiết và mỏng giòn. Ma quỷ đặt ra cho Chúa Giêsu khi đưa ra sự thiếu điều cần thiết này: “Hãy truyền cho hòn đá này biến thành bánh”. Như là một gợi ý quy kết một cái nhìn chính xác của Con Thiên Chúa. Thực vậy, đối với ma quỷ, tương đương với là Con Thiên Chúa.
Đứng vào cương vị quyền lực: “hãy truyền cho hòn đá này…”. Tránh trật tự bình thường của bản tính muốn rằng những hòn đá chỉ là những hòn đá và bánh chỉ là bánh. Sự từ chối của Chúa Giêsu mạc khải cách là con của Ngài. Ngài đối đầu hai lần với ma quỷ.
– Ra lệnh: ngươi phải vâng lời: “có lời chép”. Nó ẩn chứa sau một lối văn từ Sách Thánh để làm sáng tỏ thái độ.
– Được mời gọi trở lại cách đặc biệt, đồng nhất với con người “người ta sống không nguyên bởi bánh”. Đó là cả một chương trình. Đối với Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, như lời Kinh Thánh, trở nên người vâng lời của Lời. Đó cũng chấp nhận làm cho cái đói dừng lại để chứng nhận một cái đói khác, để làm cho samạc chỉ còn là nơi mong muốn.
HỒI THỨ 2. (V 5-8).
Sự chuyển biến đột ngột ở đây. Từ cao xuống(trả lại) sự thống trị. Cái nhìn (ma quỉ) nó chỉ cho Đức Giêsu tất cả các nước là một cách chiếm hữu lập tức (trong chốc lát), và trong tổng thể( tôi sẽ cho ông tất cả quyền lực này). Là con theo ma quỉ đó là thử thách, một sự thống trị tuyệt đối trên các nước thế gian. Để thấy rõ mối liên quan cần phải đọc lại 2 sự cám dỗ.
Nếu ông là con Thiên Chúa (5,3)
Nếu ông thờ lạy tôi (5,7).
Ở đây, ma quỉ tự vạch trần. Con Thiên Chúa mà nó thách thức được mời gọi tôn thờ nó, có nghĩa là bắt phải theo một thần biến hoá và thờ tân lượng có bộ mặt các nước thế gian.
Đối diện với lời đề nghị này, Chúa Giêsu xắp đặt lại cái nào vào vị trí cái ấy. Đối với Satan, sự biến hoá của Thiên Chúa, nó nhắc lại rằng chỉ có một Chúa. Hơn nữa, trong khi nép mình một lần nữa vào sau Lời, Ngài đặt chính ma quỉ và vị trí của nó: “ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa “. Nó dẫn Ngài lên cao để thử thách nước Người vềụ thực tại quyền lực Chúa Giêsu đặt ra sự khoảng cách căn bản giữa quyền lực thế gian và nước Thiên Chúa.
HỒI THỨ 3 (V 9-12).
Cuối cùng ma quỉ mang Chúa Giêsu lên nóc Đền thờ Giêrusalem. Sau cuộc cám dỗ lần thứ nhất và kinh tế, tiếp theo lần thứ hai về chính trị, và đây cám dỗ về tôn giáo. Như trước, Chúa Giêsu bị đặt dưới thực tại để chế ngự tốt nhất. Ở đây, cám dỗ gieo mình từ đền thờ xuống để chiếm được ngay lập tức và với sự giúp đỡ tuyệt vời, sự nhận biết của dân Dothái.
Ở đây ma quỉ còn biện minh rõ ràng về danh tính của nó, nó là kẻ chống đối Thiên Chúa. Nếu chúng ta đọc bản văn này, chúng ta có thể thấy lời đề nghị này rất (thô thiển). Trong thực tế, cám dỗ luôn là tế nhị vì rằng cám dỗ biết thể hiện sự thật bên ngoài. Ma quỷ đặt Chúa Giêsu vào một vị trí ngược lại với Ngài: mục tiêu tối hậu của nó là chỉ cho thấy rõ Đền thờ Giêrusalem để biết rõ hơn.
Khi đó, phải đặt sự cám dỗ vào đâu và tại sao Chúa Giêsu lại đẩy lùi cơn cám dỗ? Nếu Chúa Giêsu chịu thua tên cám dỗ, thì Ngài trở về với những niềm mong đợi của dân chúng, đi tìm một Messia huy hoàng và hiệu lực. Chúa Giêsu đã từ chối ít nhất hai kiểu trên. Trước hết chính vì Ngài mà Ngài phải chờ đợi thời gian thuận tiện, tiếp theo là con đường mà Ngài chọn bao hàm sự chôn vùi trong con người, sự kiên trì và sau cùng có nguy cơ thất bại. Thái độ của Chúa Giêsu thật rõ ràng: được mời gọi xác định căn tính tiên tri của mình. Ngài khẳng định cách từ chối của mình thật tuyệt vời lạ thường.
Phần kết:
Cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu và tên cám dỗ kết thúc bằng sự chiến thắng của Chúa Giêsu: “ma quỷ lìa bỏ Ngài mà chờ dịp”. Để chúng ta hiểu rõ rằng cuộc đối đầu này báo trước dịp cám dỗ khác. Lc đưa cho chúng ta ít nhất là hai dấu hiệu. Trước hết Lc đảo ngược trật tự của những cơn cám dỗ khi đặt thử thách ở nóc Đền thơ vào cuối. Đó là một cách nhấn mạnh rằng giai đoạn cuối cùng của cuộc đối đầu sẽ diễn ra trong thành thánh. Tiếp theo khi thời khổ nạn đến, Lc viết: “Satan nhập vào Giuđa Iscariot” (Lc 22,3): đó là dấu hiệu “chờ dịp” hoàn thành.
Sử tính của cuộc cám dỗ
Hình như hiển nhiên rằng trình thuật này không phải được hiểu theo nghĩa đen. Bản văn Tin Mừng là một bố cục được soạn thảo rất công phu, trong bố cục đó từ Giáo Hội sơ khai rồi đến các sách Tin Mừng đã tổng hợp cái mà họ biết về căn tính của Chúa Giêsu, trải qua những cơn cám dỗ mà Ngài đã đẩy lui. Nhưng điều đó không muốn nói rằng đó là một cuộc sáng tạo từ hư không. Người ta có thể hình dung hai giả thuyết để phân tích tính lịch sử của cuộc cám dỗ. Cuộc cám dỗ thứ nhất cho rằng các tác giả Tin Mừng đã làm một cuộc sáng tạo văn học và thần học từ những cuộc cám dỗ rất thực tế mà Chúa Giêsu đã gặp phải trong đời sống công khai. Những người Dothái dùng ngôn ngữ của sự cám dỗ khi họ mời Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá và tự cứu mình đi” (Mt 27,40). Thánh Phêrô bị quở trách cũng chính những thuật ngữ mà tên cám dỗ: “Satan, hãy lui ra, ngươi làm cho Thầy vấp phạm” (Mt 16,23). Sau cùng, toàn bộ Tin Mừng, Chúa Giêsu tố cáo sự tìm kiếm tham lam về dấu chỉụ kỳ dị ở một số người Dothái.
Nhưng lời giải thích này có thể rất phù hợp với một giả thuyết khác ở khởi đầu đời sống công khai của Chúa Giêsu, một thời gian ẩn dật hay lựa chọn sẽ được đặt ra cho Chúa Giêsu. Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa đánh dấu một bước ngoặt trong đời mình, Chúa Giêsu phải lựa chọn. Những con đường dễ dãi mở ra trước Ngài: nó dẫn Ngài đến một niềm mong đợi Đấng Thiên Sai huy hoàng, thu hút đám đông bằng những phép lạ và dấu chỉ. Kết thúc một thử thách làm cho trong sạch. Chúa Giêsu ấn định một con đường khó khăn, hưu quạnh bởi vì ngược dòng với những khao khát của quần chúng. Chúa Giêsu đã biết, từ đầu cho tới khi kết thúc có sự vứt bỏ và sự chết.
Mở ra chiều kích Kitô học
Điểm mạnh của các trình thuật Tin Mừng là các trình thuật có sức mạnh chuyển tiếp các tường thuật về những sự thật sâu xa của Chúa Giêsu. Toàn bộ các nghĩa mở rộng xoay quanh trình thuật cám dỗ trở về thời xuất hành. Thời ấy dân Israel, con Thiên Chúa, thất bại, Chúa Giêsu thành công. Ở đây Ngài xuất hiện như:
– Con người (“người ta sống không nguyên bởi bánh”) Ngài từ chối là Con Thiên Chúa trong khi ẩn đi tính nhân loại, trong khi trốn chạy những gò bó tự nhiên, không chấp nhận sự lâu la chậm trễ, trong một hạn từ thời gian cấu tạo bên trong đó tỏ rõ tự nhiên gian truân của con người nhân loại.
– Người tin gặp gỡ Thiên Chúa của họ được mạc khải trong Sách Thánh Thiên Chúa mở ra cho họ con đường.
– Người con trời gọi đến Thiên Chúa của mình để thoả mãn những nhu cầu của con người (của cả,i kinh tế, quyèân lực chính trị).
– Người con gặp Cha mình trong khi nghe Lời ở đó con người tìm thấy lương thực nuôi mình. Là con, đối với Chúa Giêsu đó là hoàn toàn đi vào trong những chỉ thị của giao ước mạo hiểm của sự nhập thể đến tận cùng.
Trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã vào trong sa mạc, và suốt 40 đêm ngày, Ngài đã ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ.
Và như chúng ta đã biết, sa mạc là một vùng đất bao la, hoang vắng, không cây cối, không nhà cửa, không người và cũng không vật. Chỗ nào cũng chỉ là bãi cát mênh mông. Chúa Giêsu đã cầu nguyện và ăn chay trong sa mạc như thế. Hết sức thanh vắng, hết sức khó nghèo. Với thái độ từ bỏ tối đa, với niềm tin cậy và phó thác tuyệt đối. Tinh thần sa mạc như thế là điều chúng ta cần phải thực hiện trong cuộc sống của chúng ta, để nhờ đó chúng ta xứng đáng lãnh nhận ơn sủng củac.
Hình như chúng ta cũng có được đôi chút kinh nghiệm về chuyện này. Chẳng hạn có những lúc chúng ta như bị đẩy vào một sa mạc tinh thần như khi chúng ta bị cô đơn. Có những lúc chúng ta tự tạo ra một sa mạc tinh thần như khi chúng ta sống nội tâm. Thời gian trong sa mạc tinh thần là những tháng ngày thuận tiện để suy nghĩ, cầu nguyện và trút bỏ cái tôi cũ kỹ. Mặc dù nhờ cầu nguyện và chay tịnh trong tinh thần sa mạc, chúng ta có thể tập được nhiều thói quen tốt, có thể uốn nắn sửa đổi lại nhiều khuyết điểm hay là có thể nghĩ tới Chúa nhiều hơn, thế nhưng chúng ta vẫn phải tỉnh thức. Bởi vì chính lúc ấy ma quỷ sẽ quan tâm đến chúng ta nhiều hơn.
Cơn cám dỗ dành cho chúng ta, tuy vẫn giống như các cám dỗ của Chúa Giêsu, nhưng sẽ được hiện đại hoá. Kẻ cám dỗ chúng ta không phải là quỷ dữ, mà rất có thể là chính lòng nhiệt thành của chúng ta. Nội dung của cám dỗ không phải là những gì phàm tục sống sượng, nhưng lại là những đề nghị có vẻ đạo đức. Mục đích đưa ra không thấy ghi trong 7 mối tội đầu, nhưng lại nằm trong cả một chương trình đạo đức lớn.
Chẳng hạn thay vì bị cám dỗ biến đá thành bánh, thì chúng ta sẽ được khuyến khích ham muốn một thứ quyền lực kinh tế nào đó, với hy vọng để mở rộng Nước Chúa. Thay vì bị cám dỗ quỳ lạy ma quỷ để nắm trọn quyền cai trị thế giới, thì chúng ta sẽ được khuyến khích thoả hiệp với một thế lực xã hội nào đó để có được một thứ quyền lực chính trị với hy vọng sẽ dễ bảo vệt và phát triển quyền lợi Giáo Hội. Thay vì bị cám dỗ nhảy từ đỉnh cao đền thờ xuống, mà không hề hấn gì nhờ quyền phép thiêng liêng, thì chúng ta sẽ được khuyến khích hăng say phô trương quyền lực thiêng liêng, với hy vọng xây dựng uy tín cho đạo của mình. Tất cả chỉ nhằm làm sáng danh Thiên Chúa của tôi và Giáo Hội của tôi.
Trong những trường hợp như vậy, nếu chúng ta không cầu nguyện và ăn chay trong tinh thần sa mạc như Chúa Giêsu đã làm, thì chúng ta sẽ không dễ dàng nhận ra đâu là những chước cám dỗ và đâu là những phương thế phải dùng để đối phó với những cám dỗ ấy.
Cuộc đời là một chuyến đi không ngừng. Sinh ra là giã từ cái êm ấm của lòng mẹ để đi vào một thế giới xa lạ. Lớn lên là từ bỏ tuổi thơ để đi vào một cuộc đời đầy bấp bênh và thử thách. Khi về già, con người cảm thấy mình đứng vên bờ của vĩnh cửu, lại một lần ra đi dứt khoát.
Lịch sử ơn cứu độ, qua đó Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta cũng được trình bày như một cuộc ra đi. Khởi đầu là cuộc ra đi của tổ phụ Abraham. Ông đã bỏ lại đàng sau tất cả để đi về phía trước với không biết bao nhiêu gian nan vất vả. Nhưng tiêu biểu hơn cả chính là cuộc ra đi của dân Do Thái. Bốn mươi năm trong sa mạc đã trở thành biểu tượng của không biết bao nhiêu thử thách mà bất cứ chuyến đi nào cũng đều gặp phải. Trong ký ức của dân Do Thái, bốn mươi năm sa mạc ấy không ngừng được ôn lại để ý thức hơn về những thanh luyện mà con người cần phải trải qua để sống tốt đẹp hơn.
Kinh nghiệm ấy Chúa Giêsu cũng muốn trai qua trong cuộc lữ hành trần thế của Ngài với 40 đêm ngày trong sa mạc. Rời bỏ khung cảnh êm đềm của làng Nagiarét, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc hành trình dẫn tới cái chết và nhớ đó thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại.
Trong cuộc hành trình đầy chông gai và thử thách này, Ngài cũng đã gặp phải thử thách và cám dỗ. Nếu dân Do Thái ngày xưa đã gục ngã một cách thảm hại, thì hôm nay Chúa Giêsu đã chiến thắng một cách vinh quang. Tất cả ba cơn cám dỗ đều quy về một điểm chung đó là quyền lực và danh vọng.
Đối lại với con đường ma quỷ đề ra, Chúa Giêsu đã chọn lấy con đường khiêm hạ của thập giá. Đối lại với con đường của quyền bính và danh vọng, Chúa Giêsu đã chọn con đường của vâng phục, và vâng phục cho đến chết. Sự chiến thắng của Chúa Giêsu là sự chiến thắng của lòng tin tưởng và phó thác, của sự khiêm nhường và vâng phục.
Với chúng ta cũng vậy, đời sống đức tin của chúng ta được định nghĩa như là một cuộc lữ hành. Cũng chào đời, lớn lên và ra đi không ngừng.
Thiết lập mùa chay, Giáo Hội muốn chúng ta sống lại kinh nghiệm sa mạc của Chúa Giêsu, bởi vì cuộc lữ hành trần gian của chúng ta không thể không đi qua sa mạc cát nóng. Thử thách và gian nan là chuyện không thể thiếu vắng.
Cùng với Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy vượt qua sa mạc cuộc đời với những thử thách ấy một cách can đảm và dứt khoát. Dứt khoát với nếp sống cũ với những sai lỗi và khuyết điểm, với những ích kỷ và nhỏ nhoi, với những thất vọng và buông xuôi.
Đồng thời hãy tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa. Chúng ta không bước đi và chiến đấu một cách đơn độc lẻ loi, bởi vì có Chúa Giêsu cùng bước đi và cùng chiến đấu với chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài chính là sức mạnh của chúng ta. Cùng bước đi với Chúa, chúng ta không còn phải lo lắng và sợ hãi chi nữa.
Mùa chay là mùa hồng ân mang lại sự hoan lạc và bình an. Chúng ta lại có cơ hội trở về với chính mình để sám hối ăn năn. Mỗi người sẽ rất vui khi chứng kiến cha mẹ, vợ chồng, anh chị em và mọi người thân cận trong gia đình dành nhiều thời giờ cầu nguyện, tham dự thánh lễ và lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Hòa Giải và Thánh Thể. Những giọt nước mắt ăn năn sám hối và trở về là niềm vui lớn cho các thành viên trong gia đình, cộng đoàn và cả các thiên thần trên thiên đàng cũng vui mừng. Mùa chay như là trạm dừng để giúp cho chúng ta tìm lại được hướng đi, sửa lại những lỗi lầm và trau dồi thêm các nhân đức. Mầu tím mùa chay giúp chúng ta gợi nhớ thân phận tro bụi bọt bèo như mây trôi và gió thoảng. Bản chất của thân xác của chúng ta bởi tro bụi và một ngày nào đó cũng sẽ trở về bụi tro. Mùa Chay không chỉ là mùa của sự than van khóc lóc lỗi lầm, nhưng là cơ hội để chúng ta phấn đấu thắng vượt chính bản thân mình qua việc ăn chay, bố thí và cầu nguyện.
Tác giả Sách Đệ Nhị Luật đã nhắc nhở cho toàn dân về tình yêu của Thiên Chúa dành cho Dân Người. Ngài đã bao bọc chở che qua mọi giai đọan thăng trầm của lịch sử. Ngài đưa Dân vào miền đất Ai-cập sinh sống để trở thành một dân tộc vĩ đại. Khi bị người Ai-cập ngược đãi hành khổ, Thiên Chúa đã ra tay cứu vớt và dẫn đưa về miền Đất Hứa: Thiên Chúa đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập (Đnl 26, 8). Cảm nghiệm được tình thương yêu, ấp ủ và đùm bọc của Thiên Chúa, dân chúng đã có những nghi lễ dâng hoa qủa đầu mùa để cảm tạ tri ân: Và bây giờ, lạy Thiên Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con (Đnl 26, 10). Tâm tình biết ơn của cha ông đã được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Lòng tri ân là tinh hoa của cuộc sống con người.
Bước vào Mùa Chay Thánh, chúng ta có cơ hội để học hỏi, suy gẫm và thực hành sống đạo. Trong bài Phúc âm, thánh Luca đã diễn tả sự kiện Chúa Giêsu vào hoang địa bốn mươi đêm ngày và chịu ma quỉ cám dỗ. Các cơn cám dỗ xem ra rất thực tế có thể đáp ứng các nhu cầu đang cần thiếu. Qua nhiều ngày ăn chay nhịn đói, ma quỉ cám dỗ Chúa Giêsu: Bấy giờ, quỷ nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi! (Lc 4, 3). Dễ thôi! Chúa có dư đủ uy quyền để biến đổi đá thành bánh cũng như nước thành rượu. Việc biến đổi trong tầm tay nhưng Chúa đã không chiều theo ý của ma quỉ. Chúa Giêsu đã dùng lời trong Kinh Thánh để hướng tới một loại bánh khác cao trọng hơn, đó là bánh lời Chúa.
Thua keo này bày keo khác. Ma quỉ tìm cách độc hại hơn để cám dỗ: Rồi nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông.” (Lc 4, 6-7). Thật dễ dàng, chỉ việc bái lạy ma quỉ thì được sở hữu tất cả vinh hoa lợi lộc. Chúa Giêsu nhận diện sự ma quái và ranh mãnh của cơn cám dỗ. Chúa dứt khoát dùng lời Chúa đế đáp trả rằng ngươi phải thờ lạy một mình Thiên Chúa mà thôi. Ma quỉ tước đoạt quyền cai trị và tự làm sở hữu chủ. Đây là cạm bẫy khá hấp dẫn. Đã có biết bao nhiêu người đời rơi vào những danh vọng hão huyền này. Các hoàng đế, vua chúa, nhà cầm quyền và các chế độ bạo quyền tham lam dành dật vinh hoa phú quí trần gian, tất cả cũng đã qua đi như cánh hoa phù du sáng nở tối tàn.
Ma quỉ không bao giờ chịu thua. Những nhu cầu vật chất không thuyết phục được, chúng lại giở quẻ mới để thách thức: Quỷ lại đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi!(Lc 4, 9). Đặt điều kiện, nếu…thì… rất thuyết phục. Khêu gợi sự tò mò và đánh vào lòng kiêu ngạo như xưa thần Lucifer muốn nên bằng Thiên Chúa. Ngày xưa tổ tiên Adong và Evà cũng đã bị sa chước cám dỗ vì những câu hỏi tò mò và gợi lòng tham sân si. Chúng ta lưỡng lự đôi đường chỉ vì luyến tiếc các dịp thỏa mãn bản năng đòi hỏi mà thôi. Chọn lựa thái độ dứt khoát với dịp tội luôn là cửa ngõ dẫn vào sự bình an thanh thản.
Khi một ngày mới mở ra, mỗi người đều có cơ hội làm việc thiện hay việc ác, làm sự lành hay sự dữ, vui hay buồn và có thể thành công hay thất bại. Tất cả tùy theo sự chọn lựa thái độ sống của chúng ta. Việc thiện, điều lành, niềm vui là những dấu hiệu tốt và tích cực. Thành công hay thất bại thì còn tùy thuộc rất nhiều yếu tố chung quanh, nhưng chúng ta vẫn có thể có thái độ lạc quan, vì thất bại là mẹ thành công. Sự quyết định chọn lựa đúng sẽ giúp chúng ta sống an vui và thư thái. Bất cứ việc gì xảy ra cũng đều có cơ hội: Cơ hội có thể tốt hoặc xấu và cũng như có dịp tốt hay dịp tội. Thái độ chọn lựa sẽ dẫn chúng ta đi vào những lối khác nhau có khi nghịch chiều. Có những cơ hội xấu dẫn ta đến cùng đường lạc lối. Khi gặp cơ hội tốt và dịp thuận lợi, việc làm của chúng ta sẽ sinh hoa trái tốt lành.
Người ta thường nói về dịp tội hay cơn cám dỗ, nếu chúng ta không tỉnh thức, ắt sẽ bị rơi vào bẫy sập của ma quỉ. Dịp tội là những cánh cửa đón mời chúng ta tò mò bước vào thế giới ảo. Cơ hội đến với mỗi người qua rất nhiều cách thế khác nhau. Cám dỗ đi vào lầm lạc có rất nhiều lối ngõ. Có những cơ hội lúc đầu xem ra rất đơn gian, nhưng kết cục đưa đến những hậu qủa khó lường. Kinh nghiệm cuộc đời cho chúng ta thấy có nhiều người đã hủy hoại cuộc đời, nên phóng lao đành phải theo lao. Cái xấu này níu kéo cái xấu kia. Cởi nút này lại thắt nút nọ. Đôi khi có người nghĩ rằng đã lỡ, cho lỡ luôn hay đời đã dang dở lỡ bước và dù bước lùi hay bước tới cũng vẫn dở dang. Khi bước vào cạm bẫy thì khó có thể rút chân ra. Trải qua thời gian, có biết bao cơ hội mà chúng ta đã sinh lợi trong gian dối. Nhiều khi chúng ta cũng đang say mê trong lầm lạc, nhưng không muốn nhìn nhận sai lầm. Vì ham danh lợi về của cải vật chất mà chúng ta đã quay lưng lại với sự thật và đức công bằng. Mỗi người hãy tự vấn lương tâm!
Sau ba lần cám dỗ thất bại, ma quỉ chờ dịp khác: Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ (Lc 4, 13). Cuộc đời của chúng ta cũng thế, cạm bẫy của sự dữ giăng giăng khắp nơi. Danh, lợi và thú là ba đầu mối của các cơn cám dỗ trong đời sống con người. Cạm bẫy về lợi lộc vật chất, ma túy và say mê trong đời sống thường ngày như: Bài bạc, hút sách, trai gái, nghiện ngập rượu chè, cá độ, tham nhũng, lừa đảo, bất công và các thứ trò chơi bạo lực hại mình và hại người. Cơ hội ban đầu của tất cả các dịp tội cũng chỉ là thử đỏ đen, thử thời vận và thử tìm cảm giác lạ, nói rằng thử thôi mà, không sao đâu! Các cơn cám dỗ lúc nào cũng nhẹ nhàng mời mọc, hấp dẫn, dịu ngọt và có thể đáp ứng ngay những nhu cầu đòi hỏi của ước muốn bản năng. Thời cơ xấu tạo nên dịp tội xấu. Nếu không đủ bản lãnh, chúng ta không nên thách thức, dây dưa và đối đầu với các cơn cám dỗ. Cám dỗ và dịp tội giống như cái lờ bắt cá có hom. Nguyên tắc của các bẫy sập là sự hấp dẫn của mồi nhử. Sập bẫy chui vào rọ rồi thì khó lòng tìm lối thoát ra.
Trong thơ của thánh Phaolô gởi cho tín hữu thành Rôma, Ngài viết: Vậy Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin (Rm 10, 8). Lời Chúa là kim chỉ nam giúp chúng ta thắng vượt tất cả các cơn cám dỗ. Lời Chúa có sức biến đổi tâm hồn và kiên thuẫn chở che. Tin, tuyên xưng và thực hành lời Chúa sẽ đem lại ơn cứu độ: Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ (Rm 10, 10).
Lạy Chúa, chúng con không thể tránh mọi cơn cám dỗ đang bủa vây chung quanh. Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ.
Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Từ khi có con người, đã có cám dỗ. Hẳn ta không thể quên chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của ma quỷ. Dân Do Thái, khi bị nô lệ dưới ách người Ai cập thì muốn được tự do. Nhưng khi lang thang 40 năm trong sa mạc, phải chịu đói khát, lại bị cám dỗ quay trở lại Ai cập để được no ấm. Nhưng có thể nói, 3 cơn cám dỗ mà Đức Giêsu phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi thứ cám dỗ mà ta thường gặp.
+ Cơn cám dỗ thứ nhất: thoả mãn tức khắc mọi nhu cầu.
Sau khi Đức Giêsu ăn chay 40 đêm ngày. Ma quỷ đề nghị Người biến đá thành bánh mà ăn. Thật là một đề nghị hợp lý. Đói thì phải ăn. Muốn ăn thì phải có bánh. Nhưng có bánh bằng cách nào mới là vấn đề. Không phải cứ có nhu cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất là không được dùng những cách không hợp đạo lý để thoả mãn những nhu cầu của mình. Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu của con người thì có nhiều và có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Vì thế cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.
+ Cơn cám dỗ thứ hai: muốn có quyền lực thống trị.
Ma quỷ biết Đức Giêsu muốn cứu độ loài người, nên đề nghị tặng Người tất cả các nước trên trần gian. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đề nghị của ma quỷ là hợp lý. Cứ có quyền thống trị trên hết mọi dân nước rồi nói gì người ta chẳng nghe. Chúa sẽ không phải mất công chịu đau khổ chịu chết. Chỉ cần quỳ xuống thờ lạy ma quỷ, vua quan dân chúng các nước sẽ răm rắp tuân theo. Thật là tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám dỗ muôn đời của nhân loại. Từ ngàn xưa, vua chúa các nước đã không ngừng gây chiến để tranh giành quyền lực. Ngày nay, trong các cuộc chiến mới, người ta không còn giết nhau bằng gươm đao, súng đạn, nhưng bằng quyền lực kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Tuy êm đềm nhưng cuộc chiến vô cùng khốc liệt. Cơn cám dỗ về quyền lực thống trị không những không suy giảm mà còn mãnh liệt hơn.
+ Cơn cám dỗ thứ ba: tìm những điều kỳ lạ.
Muốn những chuyện thần kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên động địa. Muốn có những thành công lẫy lừng. Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ. Cơn cám dỗ xây tháp Ba ben từ ngàn xưa vẫn còn tiếp diễn.
Xuyên qua những cơn cám dỗ ấy ta thấy ma quỷ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc.
Với cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỷ muốn xô đẩy con người làm nô lệ cho dục vọng. Xúi giục con người chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự sống xác thịt. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ khi Người cho biết con người không chỉ có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Người nâng cao phẩm giá con người khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh.
Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỷ. Vì ham hố chức quyền, vì mưu cầu danh vọng mà đánh mất tự do của mình, cam tâm làm nô lệ cho ma quỷ. Vì tham vọng mà đánh mất chính mình. Đức Giêsu vạch trần âm mưu đen tối của ma quỷ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế. Người còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên Chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.
Với cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ đẩy con người vào nô lệ cho cuồng vọng. Điên cuồng đến chống lại Thiên Chúa. Dùng Thiên Chúa để phục vụ cho những ước vọng ngông cuồng của mình. Không đến với Chúa trong tâm tình của người con thảo đối với Cha hiền. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ. Người chỉ cho ta con đường của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức Cha. Người con hiếu thảo vâng lệnh Cha sai bảo chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.
Cám dỗ của ma quỷ hiểm độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xúi giục con người nô lệ cho ma quỷ. Và sau cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên Chúa, không coi Thiên Chúa là cha. Cám dỗ càng hiểm độc vì ma quỷ đã khéo léo học những âm mưu thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.
Ngày nay, những cơn cám dỗ của ma quỷ vẫn như những chiếc bẫy giăng ra để trói buộc con người trong vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh vi và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm độc hơn. Muốn chống trả được những cơn cám dỗ, ta phải bắt chước Đức Giêsu dùng những vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và luôn sống tâm tình của người con thảo đối với Chúa.
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Vua nước Thục có tính tham lam. Vua Huệ Vương, nước Tần, muốn xâm chiếm nước Thục, nhưng vì khe núi hiểm trở, không thể đem quân sang đánh. Huệ Vương sai lấy đá tạc hình con trâu để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày bỏ vàng sau đuôi con trâu và phao tin đồn rằng: “Trâu đãi ra vàng”.
Tiếng đồn ấy đến tai vua Thục. Ông liền sai xẻ núi lấp khe và cho năm người lực sĩ vào rừng kéo con trâu về.
Huệ Vương sẵn lối đi, đem quân tiến đến cướp được nước Thục. Vua Thục vừa mất nước, vừa hại cả mình, để lại trò cười cho thiên hạ. Thế chẳng phải là tham chút lợi nhỏ mà để thiệt mất cái lợi to ư?
Vua Thục vì tham vàng mà mất nước, và số vàng kia cũng lọt vào tay quân thù. Thiên hạ cười chê ông dại khờ. Nhưng thật ra thì ai cũng đã hơn một lần khờ dại như ông. Ai cũng đã không ít lần bị cám dỗ giống ông, nếu không phải là vàng thì cũng là của cải, sắc dục, danh vọng, quyền uy.
Bị cám dỗ là thân phận của con người. Đức Giêsu đã từng bị cám dỗ, vì Người muốn chia sẻ trọn vẹn kiếp người, Người muốn nên đồng số phận với con người, và Người đã thắng cơn cám dỗ để nêu gương cho con người.
Cám dỗ thứ nhất là cám dỗ về cái đói. Cơn cám dỗ về manna (Xh 16) mà dân Chúa đã bị thử thách trong hoang địa. Đó cũng là thử thách từng ngày của mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta chỉ tìm thỏa mãn những khao khát của thể xác, những nỗi thèm thuồng vật chất đang cào cấu trong ta, thì chúng ta đã thất bại ngay trong cơn cám dỗ đầu tiên. “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4,4). Vâng, con người còn có những giá trị cao quý khác cần phát huy, đừng hạ thấp mình xuống mức độ sơ đẳng nhất của: cơm, áo, gạo, tiền.
Cám dỗ thứ hai là cám dỗ về quyền hành thế gian. Cám dỗ thờ ngẫu tượng, bò vàng (Xh 32,42) của dân Israel nơi hoang địa. Không chỉ hôm nay mà rất nhiều lần trong cuộc đời, Đức Giêsu đã bị cám dỗ này tấn công. Dân chúng luôn kéo Người vào cơn cám dỗ trở nên một Đấng Cứu Thế mang tính chính trị, một vị vua trần gian đầy quyền lực vinh quang. Nhưng Người đã nhất mực khước từ. Người muốn trở nên “tôi tớ” của Thiên Chúa (Ga 13,1-20). Cơn cám dỗ về quyền hành cũng là cơn cám dỗ của tất cả mọi người. Ai trong chúng ta cũng muốn thống trị kẻ khác, muốn áp đặt ý kiến của mình trên anh em.
Đây cũng là cơn cám dỗ về sự nghi ngờ Thiên Chúa. Vì Người thường hay vắng mặt, nên chúng ta dễ chạy theo những vị thần giả hiệu, chúng có tên là của cải, sắc đẹp, kiến thức, tài năng… Đức Giêsu nhắc cho chúng ta lời Kinh Thánh: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người” (Lc 4,8).
Cám dỗ thứ ba là cám dỗ đòi kiểm chứng, đòi xem những dấu lạ điềm thiêng (Xh 17), đòi thấy những cú nhẩy đẹp mắt, những pha ngoạn mục: Đó là cơn cám dỗ trên nóc đền thờ Giêrusalem. Cũng chính nơi đây, Đức Giêsu sẽ chịu một cơn thử thách hết sức nặng nề: đó là cơn cám dỗ muốn thoát cái chết: “Nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén này” (Lc 22,42). Dường như Chúa Cha “đã bỏ rơi” Người. Cuối cùng thì Đức Giêsu đã không dùng quyền năng của mình để trốn tránh thân phận con người phải chết. Người đã từ chối nhẩy một cú đẹp mắt, cũng không xuống khỏi thập giá một cách ngoạn mục. Người tin tưởng vào tình yêu của Cha, Người tuyệt đối trung thành và trọn vẹn vâng theo ý Cha.
Đức Giêsu đã chiến đấu với các cơn cám dỗ và Người đã hoàn toàn chiến thắng, để nêu gương cho chúng ta trong những cơn thử thách. Cám dỗ nào cũng ngọt ngào hấp dẫn; thử thách nào cũng đòi phải chọn lựa. Điều quan trọng là chúng ta có nhận ra cái đắng đót chua cay trong cái vỏ ngọt ngào hấp dẫn đó không! Chúng ta có dám chọn theo Chúa hơn là theo ma quỷ? Chọn yêu anh em hơn là yêu chính mình? Chọn điều thiện hơn là cái ác?
Lạy Chúa, chúng con sẽ trưởng thành hơn sau mỗi lần chiến thắng, sẽ kinh nghiệm nhiều hơn sau mỗi cơn thử thách. Nhưng xin Chúa đừng để chúng con thất vọng sau mỗi lần vấp ngã, đừng bao giờ chúng con bỏ cuộc sau những lần thất bại.
Xin cho chúng con luôn tin tưởng chỗi dậy, tiếp tục chiến đấu cho dù phải hy sinh mạng sống, vì chính Đức Giêsu đã sẵn lòng chịu chết để trung tín với Chúa Cha.
Xin ban thêm sức mạnh để chúng con chiến thắng các cơn cám dỗ nhờ ăn chay và cầu nguyện. Amen.
Có một câu chuyện vui dân gian kể rằng: Có một người nọ bị quỷ hiện lên chận đường. Quỷ bắt anh ta phải làm một trong ba điều sau đây: một là uống rượu thật say – hai là đốt nhà của mình – ba là giết chết vợ mình.
Quá hoảng sợ, người đàn ông đành chọn uống rượu thật say vì anh ta cho đó là việc làm đỡ nguy hại nhất. Nào ngờ, khi say rượu, anh ta mất hết lý trí, nổi lửa đốt nhà mình. Bà vợ ra can ngăn, anh ta điên tiết giết luôn vợ mình. Rốt cuộc là anh ta đã làm cả ba việc mà tên quỷ đã đề ra.
Ma quỷ có rất nhiều mưu mô xảo kế, khi cám dỗ người nào, chúng vận dụng hết mọi thủ đoạn để hạ gục người đó. Vì thế, khi cám dỗ Chúa Giêsu, ma quỷ đã dùng chính Lời Thiên Chúa để dụ dỗ Người, nhưng Chúa Giêsu không rơi vào bẫy của ma quỷ. Trái lại, Ngài cũng đã dùng Lời của Thiên Chúa để cho ma quỷ phải bẽ mặt và bỏ đi.
Quả thật, satan là tên xảo trá. Hắn dùng ngay lời Chúa Cha vừa tuyên bố về Chúa Giêsu ở sông Giođan để cám dỗ Người. Hắn khích Người dùng quyền năng của Con Thiên Chúa để thỏa mãn những nhu cầu riêng tư, nhất là khi việc này xem ra không phương hại đến ai. Nhưng Chúa Giêsu không rơi vào bẫy của satan một cách dễ dàng như chúng tưởng. Tuy Người đang đói, nhưng cơn đói không là lý do thúc đẩy Người đi tìm thỏa mãn bằng mọi cách. Người trưng dẫn câu chuyện Thiên Chúa cho dân Israel ăn manna trong sa mạc, để cho tên quỷ biết rằng Thiên Chúa là Đấng nuôi sống con cái Ngài. Điều quan trọng không chỉ là cơm áo mà thôi. Chúa Giêsu trích dẫn lời sách Đệ Nhị Luật để đáp lại lời satan: “Người ta sống không phải chỉ nhờ cơm bánh”. Thất bại trong cám dỗ đầu tiên, satan lại bày ra mưu kế khác. Chúa Giêsu không chịu thua vì cái bụng thì hắn đánh vào cái đầu.
Tin Mừng theo thánh Luca kể tiếp như sau: “Quỷ đem Chúa Giêsu lên cao và chỉ Người thấy tất cả các nước thiên hạ, rồi nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh quang, lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi và tôi muốn trao cho ai tùy ý. Vậy, nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông”. Satan thật ghê gớm, hắn biết Chúa Giêsu đã quyết định giữ trọn đời mình để thiết lập nước trời mới nơi trần thế, hầu đem lại hạnh phúc đời này và đời sau cho con người. Một lý tưởng thật tuyệt vời. Nhưng để thực hiện thì gian lao vất vả lắm, lại không biết có thành công hay không. Satan dụ dỗ Chúa Giêsu quy phục quyền bính của hắn. Đổi lại, hắn sẽ cho Người chinh phục cả thế gian một cách dễ dàng. Satan đã lầm to, Chúa Giêsu thật sự quyết tâm sống chết cho nước Thiên Chúa, nhưng nước này phải được thiết lập bằng việc thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha chứ không bằng việc tuân phục một quyền lực nào khác. Để đáp lại satan, Chúa Giêsu nhắc lại rằng: “Thiên Chúa mới là Đấng nắm chủ quyền trên các dân tộc”, và Chúa Giêsu trích lời trong sách Đệ Nhị Luật để đáp lại: “Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa là Chúa ngươi và phải thờ lạy một mình Người mà thôi”. Lần cuối cùng, satan quay lại tấn công trái tim Chúa Giêsu: “Nếu Thiên Chúa đã gọi ông là con thì hãy thử xem Người có thật lòng yêu thương che chở ông không hay Người sẽ bỏ mặc ông trong cảnh gian truân”.
Thánh Luca kể tiếp:
Quỷ đem Chúa Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người lên nóc đền thờ rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì đến đây mà gieo mình xuống đi, vì đã có lời chép rằng: “Thiên Chúa sẽ truyền cho các thiên sứ lo cho bạn để luôn luôn gìn giữ bạn”. Lại còn chép rằng: “Thiên sứ sẽ ra tay nâng đỡ cho bạn khỏi vấp chân vào đá”. Đợt cám dỗ thứ ba này satan không chỉ trưng dẫn lời thánh vịnh 91 một lần, mà đến những hai lần để thuyết phục Chúa Giêsu nghe theo hắn. Song lập trường của Chúa Giêsu nào có xoay chuyển. Người tiếp tục dùng sách Đệ Nhị Luật thuật lại lời Thiên Chúa cảnh cáo sẽ tiêu diệt kẻ nào dám thách thức Ngài để đáp lại lời satan: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”.
Chúng ta vừa cùng có mặt bên Chúa Giêsu khi Người đối đầu với ba cơn cám dỗ của ma quỷ. Chúng ta đã thấy phần nào thủ đoạn tinh vi xảo quyệt của satan và cũng đã thấy lập trường kiên định của Chúa Giêsu khi Người chống lại hắn.
Tấm gương mà Chúa Giêsu vừa nêu sẽ giúp chúng ta có được thái độ vững vàng khi phải chiến đấu với mưu chước ma quỷ. Là những người sống lăn lộn giữa lòng đời, chúng ta thường xuyên phải đối phó với những cám dỗ của ma quỷ. Chúng thường tập trung vào ba lãnh vực: quyền lợi vật chất, tham vọng thống trị và nhu cầu tình cảm. Mưu mô xảo kế của satan thì thiên hình vạn trạng. Xã hội văn minh phát triển thì các cơn cám dỗ của satan phát triển theo. Chúng mặc đủ mọi hình thức, khi thì dịu dàng mời mọc, khi thì đe dọa hung hãn. Chúng thường tạo cho chúng ta cảm giác hợp lý, được phép khi đưa ra những lập luận có vẻ vô hại. Nhất là trong thời đại hôm nay, khi lợi thú cá nhân được đề cao quá mức và nhu cầu hưởng thụ của con người được kích thích đến mức tối đa. Cái bụng, cái đầu và con tim của chúng ta luôn luôn phải đối mặt với những lời rỉ tai hay những cuộc biểu dương ồ ạt của sự dữ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết rõ con chỉ là những thụ tạo mỏng dòn, lại phải sống lăn lộn giữa bao cạm bẫy của satan. Ma quỷ thì tinh ranh xảo quyệt, còn con thì thường lơ là mất cảnh giác, xin Chúa luôn ở kề bên con mỗi khi con gặp cơn cám dỗ. Xin Chúa nhắc con nhớ rằng chỉ có thánh ý Chúa Cha mới là tiêu chuẩn tuyệt đối trong đời người Kitô.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Làm người ở đời là chấp nhận thân phận cám dỗ.
Con người vừa mang trong mình khát vọng vươn tới Tuyệt Đối, vừa thấy mình luôn bị một mãnh lực kéo trì, nên đời người lúc nào cũng phải chiến đấu giằng co, chỉ một chút lơi lỏng yếu mềm là sa ngã.
Con người cao cả khi thắng được cám dỗ trong ngoài.
Lúc buông theo cái tôi dễ dãi tầm thường, tôi chẳng là tôi. Chỉ khi tôi vượt qua tôi, tôi mới thật là mình.
Tôi chỉ là tôi khi tôi vươn tới Chân, Thiện, Mỹ.
Trong mùa Chay, ta hãy để Thánh Thần dẫn vào hoang địa. Hãy cùng với Đức Giêsu sống trong cô tịch, cầu nguyện và ăn chay, để có khả năng nhận ra các cơn cám dỗ quen thuộc.
Biết mình bị cám dỗ thật là một ơn, vì ma quỷ chẳng phải là một con vật có đuôi lộ liễu.
Những cám dỗ của Đức Giêsu cũng là của tôi hôm nay.
Cám dỗ đầu tiên đánh thẳng vào điểm yếu của Ngài.
Sau một thời gian dài nhịn ăn, Ngài thấy đói. Cái đói làm tê liệt, và đụng đến bản năng sinh tồn. Điều duy nhất cần đối với người đói là tấm bánh. Đức Giêsu đã thắng được cơn cám dỗ này. Ngài không phủ nhận sự cần thiết của vật chất, nhưng con người không chỉ sống nhờ cơm bánh.
Lợi nhuận trong kinh tế là điều quan trọng, nhưng không được quên các giá trị văn hoá, luân lý, tôn giáo… Lắm khi cái đói vật chất vẫn chi phối chúng ta. Người ta dễ hiểu sai câu: “Có thực mới vực được đạo.”
Chúng ta vẫn bị cồn cào bởi những thèm thuồng: chính đáng và không chính đáng, cá nhân và tập thể, nhưng đừng để mình thoả mãn cơn đói bằng mọi giá.
Cám dỗ thứ hai là một cám dỗ thô bạo và hấp dẫn: bái lạy ma quỷ để được quyền lực và vinh quang.
Có nhiều người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão này. Bao đế quốc, bao nhà độc tài đã trôi đi trong dòng lịch sử.
Đức Giêsu chẳng muốn nhận quyền từ ai khác ngoài Cha. Chỉ Cha mới là Đấng duy nhất để Ngài thờ phụng.
Cơn cám dỗ thứ ba có vẻ đạo đức, kỳ thực lại là dấu hiệu của sự thiếu lòng tin.
Tôi đưa mình vào tình huống hiểm nghèo, để bắt Chúa hành động.
Nhảy xuống từ nóc Đền Thờ mà không chết, quả là ngoạn mục! Chúng ta vẫn thích Chúa làm chuyện ngoạn mục cho đời ta. Chúng ta không thích sống trong lòng tin êm ả, như đứa con biết rõ Cha thương mình, không đòi kiểm chứng.
Tiền bạc, của cải, sắc đẹp, khoái lạc, bằng cấp, tự do, quyền lực, uy tín, danh dự, chủng tộc, khoa học, kỹ thuật: tất cả những giá trị trên đều đáng quý. Nhưng nếu tôi tôn chúng lên hàng Tuyệt Đối viết hoa, và thờ chúng như một ngẫu tượng, thì tôi và thế giới sẽ như kim tự tháp lật ngược.
Ước gì Chúa giúp tôi tự cởi trói mình mỗi ngày, để tôi càng lúc càng tự do đến gần Đấng Tuyệt Đối.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có tin ma quỷ không? Ma quỷ là ai? Bạn có thấy sức cám dỗ của ma quỷ không?
Ma quỷ thường tấn công vào chỗ yếu của ta. Bạn có biết rõ những chỗ yếu của bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, bị cám dỗ là thân phận của con người, nhưng thắng được cám dỗ là nhờ ơn của Chúa.
Cuộc sống hôm nay cho chúng con bao cám dỗ ngọt ngào, làm khuấy động những thèm khát nơi chúng con.
Cám dỗ chiếm đoạt và sở hữu.
Cám dỗ thống trị bằng quyền uy hay tri thức.
Cám dỗ sống buông thả theo bản năng tự nhiên.
Cám dỗ nào cũng hứa cho chúng con ít nhiều hoan lạc, nhưng thật ra lại làm chúng con nghèo nàn vì tự giam mình trong cái tôi ích kỷ.
Xin cho chúng con thắng được các cơn cám dỗ nhờ tỉnh thức và cầu nguyện, nhờ chay tịnh và làm chủ bản thân.
Xin cho chúng con dám lội ngược dòng với thế gian, để đi vào con đường hẹp của Chúa, con đường nghèo khó khiêm nhu, con đường hy sinh phục vụ.
Ước gì chúng con được lớn lên trong tình yêu Chúa, sau những lần chiến đấu vất vả cam go. Và ngay cả khi yếu đuối ngã sa, xin cho chúng con can đảm đứng lên, vững tin vào lòng Chúa tín trung tha thứ. Amen.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Bị cám dỗ là điều chẳng mấy hay ho. Chúng ta ít khi muốn kể ra những cơn cám dỗ của mình. Dường như chỉ người yếu đuối mới dễ bị cám dỗ. Ấy thế mà Con Thiên Chúa lại bị cám dỗ như ta. Ngài muốn đồng hành với chúng ta trong từng cơn cám dỗ, trên đường về quê trời. Ngài đã mang lấy trọn vẹn phận người mong manh, Ngài đã chiến đấu và chiến thắng.
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để chúng ta nhận diện cơn cám dỗ riêng của bản thân.
Có khi chúng ta tưởng Satan là chuyện bịa đặt, tưởng thế giới không bao giờ là thế gian, hay tưởng thân xác mình chẳng còn bằng xương thịt.
Phải nhận ra cơn cám dỗ dưới trăm ngàn bộ mặt, tuỳ người, tuỳ tuổi tác, tuỳ hoàn cảnh riêng tư. Nhưng mọi cơn cám dỗ đều khép kín con người, khiến ta không còn mở ra trước Thiên Chúa và tha nhân.
Cần nhìn sâu vào những cơn cám dỗ của Đức Giêsu để thấy đó vẫn là những cám dỗ muôn thuở.
Biến đá thành bánh để làm dịu cơn đói, chuyện đó đâu có gì xấu. Nhưng Đức Giêsu đã không muốn dùng quyền năng Cha ban để tự lo cho bao tử của mình.
Ngài cũng không phục lạy ma quỷ để được làm chủ cả thế gian với bao quyến rũ. Ngài cũng chẳng cần nhảy từ nóc Đền Thờ xuống để kiểm chứng tình yêu của Cha. Ngài không muốn cứu nhân loại bằng cách nhảy xuống, giữa tiếng vỗ tay của bao người đứng dưới.
Ngài muốn cứu con người bằng cách bị treo lên thập tự, giữa những tiếng nhục mạ cười chê.
Đức Giêsu thật là Con Thiên Chúa vì Ngài đã trung tín với Cha đến cùng.
Cuộc sống văn minh cho chúng ta nhiều cám dỗ hơn, ngọt ngào hơn, hấp dẫn hơn, tinh vi hơn.
Cơn cám dỗ nào cũng đặt chúng ta trước sự chọn lựa, và chọn lựa nào cũng đòi từ bỏ, hy sinh. Bởi vậy cơn cám dỗ lại có thể làm tôi lớn lên và cứng cáp hơn sau mỗi lần chiến thắng.
Ước gì tôi không bị mắc bẫy Satan nhờ noi gương Đức Giêsu trong ăn chay, cầu nguyện.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đối với bạn, loại cám dỗ nào đáng sợ hơn cả? Bạn đã làm gì để thắng được loại cám dỗ đó? Qua báo chí, truyền hình… bạn thấy con người ở cuối thế kỷ 20 bị cám dỗ về những điều gì?
Cầu Nguyện
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không ngại thương tích, biết làm việc không tìm an nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Thử thách là mối nguy cho tình yêu, nhưng cũng nhờ nó mà tình yêu mạnh hơn, vì trong cơn thử thách sự tự do của con người luôn luôn hướng đến tích cực. Thử thách giống một nốt nhạc đối vị làm nổi bật giai điệu thánh thót trầm hùng và sứ truyền cảm của bản hoà tấu. Đức Giêsu đã muốn chịu thử thách của cám dỗ. Suốt cuộc đời trần thế của Người, Chúa gặp thử thách, nó là đối vị với ý định bên trong của Người. Tất cả con người Chúa hướng tới mục đích hoàn tất ý muốn của Cha. Chúa đã muốn đối đầu với thử thách trong tư thế lãnh đạo Giáo Hội. Chúa đã chịu thử thách, tất nhiên Giáo Hội của Chúa và mỗi tín hữu thành phần Giáo Hội cũng phải qua cầu thử thách và phải phản ứng như Chúa. Giống Thày, tín hữu phải dùng thử thách làm dịp thử lửa tôi luyện một tình yêu lớn mạnh hơn, nghĩa là thực hiện một sự gia nhập vững bền hơn vào thánh ý của Cha qua trung gian Đức Kitô.
Thử thách có những hình thức chính yếu nào?
1) Trước hết, là từ chối thân phận làm người với tất cả thực chất của nó. Ma quỷ cám dỗ Chúa, nài Chúa hãy dùng quyền năng thần linh của Chúa để thoả mãn một nhu cầu vật chất của Người là đói thì cần có của ăn. Biết bao phen chúng ta chẳng nghe thấy người ta nói: Thiên Chúa đáng lẽ phải làm thế này thế nọ để thiết lập sự bình đẳng, để mọi người có cơm ăn áo mặc, để khỏi lao động vất vả, v.v… Thiên Chúa trả lời rằng nhân loại được ban cho một trí tuệ, một ý chí, một thân thể để tuỳ tiện sử dụng. Thảm trạng con người là ở chỗ khác. Hoạt động làm cho người ta quên mất rằng con người không chỉ sống bằng lương thực vật chất. Đức Giêsu không muốn bỏ thân phận làm người của Chúa cho nên Chúa từ khước biến đá thành bánh ăn. Tuy nhiên Chúa nói thêm rằng con người cũng sống bởi bác ái, tình liên kết, công bằng và tình thương – và thứ bánh này do Thiên Chúa ban cho, thiếu của ăn thiêng liêng thì của ăn nuôi xác cũng sẽ thiếu, hoặc sẽ hư đi.
2) Hình thái khác của thử thách là muốn liên hiệp Thiên Chúa với những tính toán mờ ám. Ma quỷ ngỏ ý muốn giúp Chúa, với điều kiện: “Nếu Ngài sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho Ngài quyền bá chủ thế giới”. Đây là chước cám dỗ thường xảy ra.
Những luận điệu nào bàn kế cho Giáo Hội: “Nếu chịu liên minh với thế gian, Giáo Hội sẽ thu phục được thế gian?”. Giọng lưỡi nào xui chúng ta: “Nếu bạn khôn khéo điều đình thu xếp với Sự Thật, với bổn phận, v.v… bạn sẽ làm được điều này điều nọ?” –Nhưng mệnh lệnh của Đức Giêsu là: “Ngươi sẽ chỉ tuân phục Thiên Chúa mà thôi”
3) Một xu hướng nữa là muốn thay thế những phương tiện của Thiên Chúa bằng những phương tiện khác thường. Chủ trương cứu độ của Đức Kitô, tức là Tin Mừng về một thế giới tốt hơn, lan truyền bằng nhưng phương tiện người ta mệnh danh là “nghèo nàn”, trong đó có nhục nhã, đau khổ và chết. Con người nhất là con người có nhiều kiến thức, luôn luôn có khuynh hướng lựa chọn những phương tiện có nhiều uy thế. Chẳng hạn, uy thế của một triết lý nào đó mà trùm lấp Phúc Âm thì kéo theo một rủi ro lớn, có thể thay đổi ý nghĩa và tinh thần Phúc Âm, cho dẫu những người chất phác thán phục hết sức trước “thắng lợi” của nó. Một mệnh lệnh khác của Chúa Giêsu là: “Ngươi chớ cám dỗ Thiên Chúa là Chúa ngươi”, nghĩa là chớ lợi dụng quyền năng Thiên Chúa vào những việc gì ở ngoài công cuộc của Người.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Có một nhà thần bí nọ trở về thành phố sau một thời gian dài sống trong sa mạc, bạn bè và người thân vây xung quanh rối rít hỏi thăm và xin ông tả lại cho họ nghe về kinh nghiệm mà ông đã có về Thiên Chúa. Ai cũng hỏi: “Thiên Chúa ra sao?”. Nhưng làm sao ông có thể diễn tả kinh nghiệm của tâm hồn bằng lời nói được. Bị gạn hỏi mãi, sau cùng ông đưa ra cho họ một công thức thật mơ hồ và bất toàn, với hy vọng khiến cho ai đó không được thỏa mãn, với câu hỏi “quyết định tìm vào sa mạc sống kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa” như mình. Mọi người mừng rỡ ghi chép công thức ấy và biến nó trở thành một văn bản thánh. Họ buộc mọi người phải thuộc bản văn đó như Kinh Tin Kính, và không nề quản hy sinh gian khó vượt trùng dương để loan báo cho các dân, các nước công thức ấy. Và có người trong bọn đã hy sinh cả mạng sống cho công tác loan truyền này nữa. Nhưng không ai tìm được cho mình kinh nghiệm sống về việc gặp gỡ Thiên Chúa cả. Đó là điều khiến cho nhà thần bí nọ vô cùng buồn sầu và hối hận, và ông đã thầm nghĩ rằng: Thà đừng nói gì cả có phải hay hơn không?”.
Anh chị em thân mến!
Thiên Chúa không phải là một văn bản, mà là một bản vị, một nhân vật sống động có các liên hệ thân tình với loài người. Đó là sứ điệp mà các bài đọc Chúa Nhật I Mùa Chay hôm nay đề cập đến.
Sách Đệ Nhị Luật (26,4-10) là bản văn đúc kết niềm tin của dân Do Thái vào Thiên Chúa mà học giả Beinha Fuegat gọi là kinh tin kính lịch sử của Israel. Nó diễn tả kinh nghiệm của cuộc gặp gỡ giữa dân Do Thái và Thiên Chúa trong thời khai sinh ra lịch sử của họ. Trong cuộc Xuất hành khỏi Ai Cập, vào khoảng năm 1250 (trước tây lịch) dân Do Thái mới ý thức được họ là một dân tộc bao gồm 12 chi họ khác nhau, dưới sự lãnh đạo của Môisê, họ cảm nhận được các mối dây liên hệ với nhau. Cho tới lúc đó, họ chỉ có một ý thức dân tộc mờ nhạt, biết mình thuộc về chi họ này, chi họ kia, giữa dòng giống Do Thái và sống riêng rẽ nhau. Nhưng họ chưa có ý thức quốc gia, nghĩa là chưa có ý thức về mình như là một dân tộc có chủ quyền, có tổ chức, có ý thức về mình như là một dân tộc có chủ quyền, có tổ chức, có đất nước và một mệnh lệnh chung. Nhờ có biến cố Xuất Hành, người Do Thái mới ý thức được rằng: Họ là một dân tộc thực sự, và Giavê Thiên Chúa của cha ông tổ tiên họ trước hết là Đấng đã giải phóng họ khỏi kiếp sống nô lệ ở Ai Cập.
Kinh nghiệm về Thiên Chúa giải phóng ấy được cô đọng lại trong một công thức tuyên xưng lòng tin của họ vào Thiên Chúa. Hình ảnh Giavê Thiên Chúa như là Đấng Tạo Hóa chỉ có về sau này, khi Israel suy tư về nguồn gốc con người và vũ trụ vạn vật, hay nói cách khác những gì được nhắc đến trong kinh tin kính trên đây của sách “Đệ Nhị Luật” đều là kết quả các kinh nghiệm của cuộc gặp gỡ sống động của dân Do Thái với Thiên Chúa. Chúng được làm khung trong bối cảnh của lễ nghi phụng tự dâng tiến lên Thiên Chúa các hoa trái đầu mùa. Khi cử hành các lễ nghi phụng tự là dân Do Thái sống trở lại kinh nhgiệm gặp gỡ Thiên Chúa trong suốt dòng lịch sử dài của họ kể từ thời các tổ phụ. Các biến cố ấy giờ đây được trở thành nền tảng niềm tin của họ.
Phụng vụ là cách thế nhắc nhớ dân Do Thái biết các điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm để giải phóng và cứu thoát, hướng dẫn che chở họ trong dòng lịch sử. Chính vì thế, tiếng Do Thái dùng để dâng lễ vật đầu mùa gọi là lễ “tưởng nhớ”. Sự kiện toàn dân mang lễ vật đầu mùa tiến đến với Thiên Chúa là diễn tả cách đáp trả liên lỉ lời kêu mời của Thiên Chúa.
Đây là cách thế mà dân Do Thái xưng tụng Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên họ, chọn lựa họ, giải phóng họ khỏi Ai Cập và đưa họ vào miền đất hứa, nơi họ đang sinh sống. Đối với Israel thì Thiên Chúa tạo Hóa là Thiên Chúa của biến cố Xuất Hành, Đấng trao ban cho họ miền đất hứa và sẽ gửi Đấng Cứu Thế đến. Bàn tay tạo dựng của Ngài cũng là bàn tay và cánh tay của Đấng quyền uy giải phóng họ khỏi kiếp sống tôi đòi bên Ai Cập, và hướng dẫn chở che họ trong 40 năm lang thang trong sa mạc để tiến về miền đất hứa. Bàn tay ấy giờ đây cũng giang ra đón nhận những hoa trái đầu mùa mà dân Do Thái tiến dâng lên Ngài. Những hoa trái nảy sinh từ lòng đất mà Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Abraham và dòng dõi ông là chính họ.
Việc cử hành phụng vụ như thế trở thành thời điểm, trong đó các hành động riêng rẽ của Thiên Chúa đã chiếm hữu, sắp xếp, thống nhất trở lại cho có thứ tự lớp lang và giải thích như là các hành động cứu độ, chứ không phải chỉ là lịch sử các biến cố tầm thường, vô nghĩa.
Qua trình thuật Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc (Lc 4,1-13) thánh sử Luca muốn cho chúng ta thấy Chúa Giêsu khai mào một cuộc xuất hành mới là giải phóng loài người khỏi ách thống trị của Satan, của sự dữ, của tội lỗi, các chước cám dỗ của chúng, và cái chết như là hậu quả cay đắng cuối cùng của vòng xích oan nghiệp ấy. So sánh với tường thuật cám dỗ của Phúc Âm thánh Mathhêu, chúng ta thấy tường thuật của thánh Luca có ba đặc điểm sau đây:
Chúa Giêsu phải chọn con đường nào đây? Dùng quyền năng cứu thế của mình thỏa mãn các nhu cầu vật chất và hiện sinh, như biến đá sỏi thành bánh mà ăn, chứ không cần phải lao nhọc vất vả hay sống theo luật công bằng hoặc tinh thần liên đới chia sẻ làm gì; hay là dùng các phép lạ cả thể để lôi kéo tín đồ cho nó mau lẹ và kết quả, chứ tội gì mà phải khổ nhọc rao giảng gieo vãi hạt giống vào tâm hồn con người và thôi thúc họ đối chiếu cuộc sống hằng ngày với giáo huấn sự thật làm gì. Hoặc dùng bạo lực và mọi thứ sức ép vật chất và tinh thần để lôi kéo đông đảo môn đệ và tín đồ. Đủ mọi thứ cám dỗ, nhưng Chúa Giêsu đã chọn lựa con đường khổ đau. Đối với thánh Luca thì chiến thắng của Chúa Giêsu trên các chước cám dỗ trước ngày công khai loan báo Tin Mừng nước trời, báo trước cho biết chiến thắng sau cùng của Chúa Giêsu khi chịu chết treo trên Thập Giá.
Trong thư gởi tín hữu Rôma (Rm 10,8-13), thánh Phaolô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Phục Sinh mà khẳng định với chúng ta rằng: “Mọi người đều có thể đạt được ơn cứu độ”. Điều kiện duy nhất là tin nhận Chúa Giêsu Kitô, là sống Tin Mừng cứu độ của Ngài mỗi ngày trong đời. Hãy để cho lòng tin vào Chúa Giêsu đâm rễ sâu trong tâm trí chúng ta. Hãy biết nghiền gẫm Lời Chúa. Hãy để cho Lời Chúa thánh thót nhỏ giọt trong con tim, trong tâm trí chúng ta và uống lấy Lời ấy. Hãy dành cho Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể của Thiên Chúa một chỗ nhất trong tâm trí chúng ta và hãy thực thi giáo huấn của Chúa trong đời.
Một khi đã thấm nhuần Tin Mừng của Chúa, chúng ta hãy tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, và đem hết nghị lục rao truyền Chúa Kitô và Lời Ngài cho mọi người khác. Và cách tuyên xưng lòng tin hữu hiệu nhất, trước hết và bây giờ cũng là gương sống cụ thể của chúng ta.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Đời là một cuộc ra đi không ngừng. Sinh ra là giã từ cái ấm êm của lòng mẹ để đi vào thế giới xa lạ. Lớn lên là từ bỏ tuổi thơ đầy mơ mộng để đi vào cuộc đời với không biết bao nhiêu bấp bênh và thử thách. Khi tuổi về già đến, con người lại thấy mình đứng bên bờ của vĩnh cửu, lại một lần ra đi vĩnh viễn, dứt khoát. Cuộc đời không bao giờ là một dòng sông êm ả, chúng ta không ngừng phải trải qua không biết bao nhiêu đổi thay. Lần vào cuộc ra đi không ngừng ấy, cuộc sống đức tin của chúng ta cũng được định nghĩa như là một cuộc lữ hành. Khởi đầu cuộc sống đức tin cũng là một sự chào đời để lớn lên và ra đi không ngừng. Lịch sử ơn cứu độ, qua đó Thiên Chúa hướng dẫn cuộc lữ hành của chúng ta cũng được trình bày như một cuộc ra đi.
Ở khởi đầu là cuộc ra đi của tổ phụ Abraham, đó là cuộc ra đi mẫu mực. Abraham đã bỏ lại đàng sau tất cả để đi về phía trước với không biết bao nhiêu bấp bênh và thử thách. Nhưng điển hình nhất trong các cuộc ra đi của lịch sử cứu độ chính là cuộc ra đi của dân Israel… Bốn mươi năm lang thang trong sa mạc đã trở thành biểu tượng của không biết bao nhiêu thử thách mà bất cứ một cuộc lữ hành nào cũng đều phải có.
Trong ký ức tập thể của người Do Thái, 40 năm sa mạc ấy không ngừng được ôn lại để ý thức hơn về những thanh luyện mà con người cần phải trải qua, để sống tốt đẹp hơn, để sống tiến bộ hơn, để sống xứng đáng với nhân phẩm của con người hơn. Kinh nghiệm 40 ngày sa mạc ấy, Chúa Giêsu cũng muốn trải qua trong cuộc lữ hành trần gian của Ngài. Rời bỏ khung cảnh êm đềm của làng Nagiarét, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc hành trình dẫn đến cái chết và nhờ đó, thực hiện được công cuộc cứu rỗi nhân loại. Trong cuộc hành trình đầy chông gai và thử thách ấy, Chúa Giêsu cũng muốn sống lại kinh nghiệm của 40 năm sa mạc. Ngài đã chịu thử thách. Nhưng nếu dân Do Thái đã bắt đầu gục ngã một cách thảm thương, thì Chúa Giêsu lại chiến thắng. Chiến thắng một cách vinh quang. Tựu trung, ba cơn cám dỗ mà Ngài đã chịu đựng đều quy về một mối đó là quyền lực và danh vọng. Đối lại với con đường dễ dãi mà ma quỷ đề ra, Chúa Giêsu đã chọn lấy con đường của thập giá. Đối lại với con đường của quyền bính và danh vọng, Chúa Giêsu đã chọn lấy con đường của khiêm hạ và vâng phục, và vâng phục cho đến chết. Sự chiến thắng của Chúa Giêsu là chiến thắng của lòng tin tưởng phó thác trên sự tự phụ mù quáng. Sự chiến thắng của Chúa Giêsu là chiến thắng của tự do trên những quyền lực tăm tối trong tâm hồn con người.
Nếu cuộc hành trình của dân Do Thái là một hành trình tiến về vùng đất tự do, thì cuộc hành trình của Chúa Giêsu là cuộc hành trình tiến về tự do của tâm hồn. Nếu người Do Thái qua cuộc hành trình đã trở thành một dân tộc tự do, thì Chúa Giêsu qua cuộc hành trình để trở thành mẫu mực cho con người tự do, và qua cuộc thử thách trong sa mạc Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng cuộc hành trình tiến về tự do nào cũng đòi hỏi hy sinh, chiến thắng và thanh luyện.
Thiết lập Mùa Chay, Giáo Hội muốn cho chúng ta sống lại kinh nghiệm sa mạc của Chúa Giêsu. Cuộc lữ hành trần gian của chúng ta không thể không đi xuyên qua những vùng sa mạc khô cằn, nóng cháy. Thử thách, gian lao là chuyện không thể thiếu được trong cuộc lữ hành. Cùng với Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta vượt qua sa mạc của những thử thách ấy một cách can đảm và dứt khoát. Dứt khoát với nếp sống cũ khiến chúng ta lê lết trong ích kỷ nhỏ nhoi, dứt khoát với nếp sống cũ đầy dẫy những thất vọng buông xuôi. Cùng với Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta phó thác tin tưởng hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Chúng ta không chiến đấu và hành trình một cách lẻ loi, Chúa Giêsu đang đồng hành với chúng ta. Chúng ta không chiến đấu bằng sức mạnh và khí giới riêng của chúng ta, chúng ta có Chúa làm sức mạnh cho chúng ta.
Nguyện xin Thánh Thể Chúa Giêsu mà chúng ta sắp rước lấy trong thánh lễ hôm nay, trở thành sức mạnh và can đảm để giúp chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành.
Danh – Lợi – Thú, đó là ba ham muốn chi phối toàn bộ đời sống con người. Đó cũng chính là ba nguyên nhân gây nên biết bao khổ đau cho nhân thế. Kẻ được người thua cũng đều có thể phải đau khổ vì nó, đều cảm nghiệm rằng những bất hạnh mà mình đang phải gánh chịu đều vì tiền, vì lạc thú, vì quyền lực. Nhìn vào xã hội, ở nơi này nơi kia đang xảy ra những bất hoà, tranh chấp, có khi giết hại lẫn nhau và làm khổ cuộc đời nhau cũng chỉ vì tiền, vì tình và vì quyền. Ngay trong gia đình cũng có thể bị đảo lộn những nề nếp gia phong bởi quá tôn thờ nó. Con cái bỏ cha mẹ, cha mẹ từ chối con cái. Vợ kết án chồng, chồng ruồng bỏ vợ..Anh em bạn hữu bất hoà với nhau cũng chì vì tình, vì tiền và vì quyền. Vì nó mà người ta chà đạp lên nhau, người ta làm khổ nhau và làm hại lẫn nhau.
Thực vậy, có những kẻ vì tiền mà mê muội. Có những người vì tình mà hoá dại. Có những người vì quyền mà đánh mất tính người. Nhưng có lễ cái cám dỗ nguy hiểm nhất của đời người chính là đồng tiền. Vì nhiều người cho rằng: “có tiền là có tất cả”.
Vì tham lam đồng tiền mà họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: danh dự, phẩm giá và tình làng nghĩa xóm, tình cha nghĩa mẹ, tình nghĩa vợ chồng cũng không bằng ma lực đồng tiền. Vì “Còn tiền còn bạc còn đệ tử – Hết tiền hết gạo hết ông tôi”. Có biết bao kẻ đã bạc tình, bạc nghĩa chỉ vì đặt đồng tiền lên trên mọi mối quan hệ giữa người với người. Đồng tiền là đối tượng duy nhất để tôn thờ, vì thế dân gian mới có câu: “Ông tiền, ông Phật, ông Tiên – ba ông đứng lại, ông tiền cao hơn”.
Ngày xưa, có người nước Tề thích vàng đến nỗi mê vàng. Sáng sớm thay áo quần đi ra chợ. Tới hàng đổi tiền, thì liền chộp vội một khối vàng rồi chay đi. Người ta bắt anh ta lại và hỏi:
+ Tại sao giữa đám đông mà anh lại dám cướp vàng của kẻ khác như thế?
Anh ta trả lời:
+ Lúc thấy vàng, tôi đâu còn thấy ai nữa. Trước mắt tôi chỉ có vàng mà thôi.
Đồng tiền liền khúc ruột nên họ sẵn sàng mạo hiểm lao vào, bất chấp đó là hiểm nguy, là lửa cháy có thể tiêu huỷ cả tính mạng. Vì tiền họ sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn mánh mung, cho dù phải chà đạp lên người khác bằng những phương thế bóc lột và bất công, tham nhũng miễn sao vơ vét, vun quén về cho đầy túi tham của mình.
Bài phúc âm hôm nay, thánh Mattheu miêu tả đến những cám dỗ mà ma quỷ đã bày ra cho Chúa Gie6su. Nó cám dỗ Chúa Giêsu vì nó biết Chúa Giêsu sau 40 ngày nhịn ăn nên rất đói, rất cần đến nhu cầu ăn uống. Nó đã khơi dậy nơi Chúa sự quay lưng lại với Chúa Cha. Từ khước sống vâng phục thánh ý Chúa để được thoả mãn cái bụng của mình. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất, hòn đá cũng biết thành của ăn. Từ sỏi đá cũng thành cơm mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay cả và dân thiên hạ. Có kẻ hầu người hạ. Có cơ hội hưởng dùng mọi vinh hoa phú quý trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp dẫn này, nhưng hôm nay màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại bởi Người Con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giê su. Ngài không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ mà còn cho ma qủy nhận ra rằng không có gì hiện hữu ở trần gian này đáng giá hơn con người, đến nỗi phải cúi mình mà thờ lạy nó. Chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng cho con người tôn thờ. Và chỉ khi nào sống và thực hiện ý Chúa mới làm cho con người trở nên cao đẹp hơn mọi loài trên trần gian.
Những cám dỗ mà ma quỷ tuy thất bại với Chúa Giêsu nhưng nó vẫn dùng những chiêu thức đó để tấn công con người hôm nay. Trước tiên nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một so sánh, tính toán thiệt thua và cuối cùng là đưa ra một con mồi để quyến rũ là: danh vọng, tiền tài, lạc thú. Kết quả là nhiều người vì ham tiến, ham sắc, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma quỷ. Từ một chàng thanh niên nhà quê hiền lành chất phác bỗng biến thành một con người lòng mang dạ sói, sẵn sàng giết hại đồng loại. Từ một cô gái đoan trang mực thước rồi bỗng một hôm lại trở thành một tú bà chuyên nghiệp của lầu xanh.
Thực vậy, dưới sức nặng và sự lôi kéo của sự dữ, mỗi người chúng ta đều phải trải qua kinh nghiệm của thánh Phaolo: “việc thiện tôi muốn thì tôi lại không làm. Điều ác tôi không muốn nhưng tôi lại làm. Ở khởi đầu mùa chay, khi cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu chiến thắngị ma quỷ cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của sự dữ luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Ý thức thân phận yếu hèn để ta luôn biết trông cậy vào ơn Chúa giúp chúng ta vượt qua thử thách của đam mê danh lợi thú. Đồng thời, biết theo gương Chúa, chúng ta hãy tỉnh thức trong từng giờ từng phút, trong từng biến cố buồn vui của cuộc sống, luôn biết chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là những giá trị mong manh của đời này. Hãy chọn Chúa và thợ phượng Chúa hơn là chọn danh lợi thú và làm nô lệ cho những đam mê thấp hèn. Xin Chúa là Đấng đã chiến thắng cám dỗ giúp chúng ta học nơi Chúa để sống quy phục Thiên Chúa và thực thi theo thánh ý Ngài. Amen.
Đôi khi qùy trước mặt Chúa, chúng ta chẳng biết nói gì, thưa gì với Chúa. Thông thường khi gặp hoạn nạn, khi gặp khó khăn chúng ta dễ tâm sự với Chúa, hay đúng hơn là chúng ta còn có chuyện để nói với Chúa, còn bình thường thì chẳng biết nói gì với Chúa, nếu không mượn những lời kinh thuộc lòng thì có lẽ chúng ta cũng chỉ tới với Chúa, độ dăm ba phút rồi mau chóng chào Chúa ra về.
Đức HồngY FX Nguyễn Văn Thuận, Ngài đã kể câu chuyện như sau:
Có một người nông dân tên là Jim, hằng ngày vác cuốc đi làm ngang qua nhà thờ, cậu đều vào nhà thờ rồi đi ra. Sự kiện được lập đi lập lại nhiều lần, đến nỗi nhiều người thắc mắc, không hiểu Jim vào nhà thờ nói gì với Chúa mà mau lẹ thế. Họ mới hỏi Jim: Anh vào nhà thờ cầu nguyện sao lại nhanh thế? Anh đã nói gì với Chúa?
Jim đã trả lời: Tôi chỉ vào nhà thờ làm dấu rồi nói với Chúa. “Lạy Chúa, có Jim đây” rồi tôi đi ra.
Sự kiện được tiếp diễn cho đến khi cậu Jim đã thành ông lão, nằm kiệt quệ trên giường bệnh. Lúc đó hàng xóm láng giềng đến thăm hỏi ông và họ ngạc nhiên khi thấy bên giường ông luôn có một cái bàn, một cái ghế và một ly nước. Họ hỏi ông: Nhà không có khách, sao ông vẫn để một ly nước. Ông nói: “Ngày xưa khi còn trẻ hằng ngày tôi vẫn đến với Chúa và nói với Chúa: Lạy Chúa, Jim đây. Cho tới bây giờ, tôi đã già không còn có thể đến với Chúa được nữa, nên Chúa vẫn hằng ngày đến với tôi và nói: Jim ơi, có Chúa đây”.
Thực vậy, cầu nguyện không phải là mình nói thật nhiều với Chúa, hay là tìm những lời thật hay, thật văn chương để nói với Chúa, nhưng điều quan yếu là biết dành một thời gian cho Chúa. Khi chúng ta đón nhận một món quà, không phải vì nó có một giá trị vật chất to lớn mà mình vui, nhưng là vượt lên trên món qùa là cả tấm lòng người cho dành cho mình. Món quà tuy nhỏ nhưng người cho với cả tấm lòng yêu mến thì cao qúy hơn những tặng phẩm cao sang mắc tiền mà thiếu tấm lòng chân thành. Vì quà tặng chỉ là tượng trưng cho tấm lòng người cho. Đó là một sự quan tâm, một tình yêu mà người cho dành cho chúng ta. Việc chúng ta cầu nguyện với Chúa cũng thế. Điều quan yếu không phải là cầu nguyện như thế nào, hay bao nhiêu lần trong ngày mà là tấm lòng chúng ta dành cho Chúa như thế nào? Cầu nguyện vì tình yêu, vì lòng yêu mến Chúa hay đó chỉ là thói quen, làm cho qua lần chiếu lượt, hời hợt cho xong.
Hôm nay Chúa muốn chúng ta làm các việc đạo đức: ăn chay, cầu nguyện, làm việc lành phúc đức phải phát xuất từ tấm lòng chân thành chứ không phải là những hình thức bên ngoài. Chúa đả phá thái độ phô trương, giả hình của nhóm biệt phái. Họ ăn chay, họ cầu nguyện, họ làm việc lành nhằm mục đích phô trương thân thế của mình. Họ làm những việc này vì bản thân họ chứ không phải vì lòng yêu mến Chúa và tha nhân. Họ làm việc lành vì muốn khoe khoang sự giầu có của mình. Họ cầu nguyện vì muốn được người khác khen ngợi. Họ ăn chay chỉ nhằm che mắt thiên hạ về đời sống thiếu đạo đức của mình.
Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự. Ngài có thể nhìn thấu tâm can của con người. Ngài cần tấm lòng chứ không cần lễ vật. Ngài đã từng đề cao đồng tiền bà góa nghèo mà xem thường của bố thí dư thừa nơi người giầu. Ngài đã từng nhìn đến lễ vật chân thành của Abel và bỏ qua lễ vật chiếu lệ của Cain.
Phải chăng Ngài cũng đang chờ đợi nơi lòng thành của chúng ta? Ngài không cần chúng ta mang danh là người ky-tô hữu mà thiếu đời sống đạo. Ngài càng buồn hơn khi chúng ta mang danh là người ky-tô hữu nhưng vẫn gian tham, trộm cắp, vẫn gian dâm, chồng nọ vợ kia… Ngài cần chúng ta đến dâng lễ vật với tấm lòng hòa bình, vì khi ngươi dâng lễ vật mà chợt nhận ra mình có bất hòa với anh em, thì hãy để của lễ lại trên bàn thờ mà về làm hòa với anh em trước đã. Ngài không muốn chúng ta đến nhà thờ mỗi ngày mà lòng chúng ta lại xa Chúa. Ngài không cần chúng ta ăn chay với hình thức bên ngoài mà cần phải chay tịnh về tâm hồn luôn khước từ những ước muốn bất chính, những ham muốn tầm thường. Ăn chay có ích gì khi mà tâm trí chúng ta vẫn nuôi dưỡng những tư tưởng bất chính? Ăn chay càng không có ích khi chúng ta vẫn để tính xác thịt lôi kéo chúng ta vào đường tội lỗi.
Ước gì mỗi người chúng ta bước vào mùa chay với tầm lòng chân thành ước muốn sửa đổi bản thân. Ước gì những hình thức đạo đức bên ngoài như: ăn chay, cầu nguyện, việc lành luôn là hành vi được phát xuất từ lòng thành dâng cho Chúa. Xin đừng làm những việc đạo đức chiếu lệ cho qua. Điều này chẳng thêm ơn ích gì trước mặt Chúa. Đôi khi còn mang tội vì giả hình và gian dối. Xìn đừng đến với Chúa mà thiếu lòng hoán cải, thiếu ước muốn hoàn thiện. Điều này sẽ làm chúng ta ngày càng xa cách Chúa. Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn có một tấm lòng chân thành với Chúa để mỗi lời kinh, mỗi việc làm của chúng ta luôn đẹp lòng Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong chuyến viếng thăm Giáo Hội tại Lituani vào tháng 9 năm 1993, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến cầu nguyện tại một ngọn đồi nổi tiếng của nước nầy, thường được mệnh danh là “Ngọn đồi Thập Giá”.
Ngọn đồi này nằm tại một ngôi làng hẻo lánh. Qua suốt dòng lịch sử của dân tộc, cứ mỗi lần có một người dân trong làng ngã gục ngoài mặt trận thì toàn dân trong làng tập trung lại để tưởng niệm và dựng lên một cây thập giá. Dưới thời Nga Hoàng cũng như dưới thời Liên Xô đã có không biết bao nhiêu người dân làng ngã gục để bảo vệ nền độc lập của xứ sở. Binh lính và công an đã làm mọi cách để triệt hạ thập giá khỏi ngọn đồi. Trong ba thế kỷ liền, ngọn đồi thập gái đã không ngừng bị san bằng bởi những bàn tay vô đạo. Nhưng cứ đêm đến, người dân trong làng lại lẳng lặng dựng lên những cây thập giá khác. Cuộc chiến của thập giá cứ tiếp diễn như thế cho đến khi tự do được thực sự vãn hồi. Ngày nay khách hành hương tìm đến ngọn đồi thập giá nầy để nhận ra biểu trưng của một niềm tin sắt đá, của khát vọng tự do, và cuối cùng, của chiến thắng.
Có niềm tin hay không, có sống đạo hay không, dường như ai cũng có ý thức được rằng cuộc đời là một trận chiến. Giáo Hội không ngừng mời gọi các Kitô hữu chúng ta sống lại cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu trong sa mạc. Mời gọi chúng ta sống lại kinh nghiệm chiến đấu của Chúa Giêsu, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống niềm tin Kitô là một cuộc chiến đầu trường kỳ.
Các sách Tin Mừng Nhất Lãm đều kể rằng sau khi được tấn phong bên bờ sông Giođan, Chúa Giêsu vào sa mạc đương đầu với Satan. Thánh Marcô chỉ nói vắn tắt rằng, Chúa Giêsu ở trong sa mạc 40 ngày và chịu Satan cám dỗ. Còn thánh Matthêu và Luca lại kể rõ ba chước cám dỗ của Satan, nhưng theo thứ tự hơi khác nhau. Theo thánh Luca, những chước cám dỗ của Satan phải được giải thích trong mối liên hệ chặt chẽ với cuộc tử nạn thập giá của Chúa Giêsu. Các chước cám dỗ nhằm lôi kéo Chúa Giêsu đi trệch đường lên thành Giêrusalem dẫn đến đỉnh đồi thập giá. Chính vì để nhấn mạnh ý nghĩa của đỉnh đồi thập giá ở Giêrusalem mà thánh Luca đã sắp xếp lại thứ tự các chước cám dỗ, để cho chước cám dỗ sau cùng xảy ra ở Giêrusalem là đích điểm của con đường Ngài đã dứt khoát chọn lựa ngay từ đầu sứ vụ Cứu Thế.
Do đó, Thánh Luca sắp xếp cám dỗ thứ nhất là Satan thách đố Chúa Giêsu biến sỏi đá thành cơm bánh ăn: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy làm cho đá nầy trở thành bánh đi!” Ý đồ của Satan là xúi Chúa Giêsu vận dụng quyền năng Thiên Chúa trao cho Ngài để phục vụ bản thân mình trước đã. Nhưng Chúa Giêsu đã từ chối. Ngài là Con Thiên Chúa không phải để phục vụ bản thân mình, nhưng để làm công việc Thiên Chúa trao cho Ngài. Ngài đến để phục vụ và làm theo ý Đấng đã sai Ngài. Satan muốn xúi Chúa Giêsu lấy mạng sống riêng của mình làm cứu cánh, chỉ có mạng sống là đáng quý, chỉ có bản thân là đáng trọng, không còn gì quý và cao cả hơn nữa.
Dân Israel khi ở trong sa mạc cũng đã bị cám dỗ như vậy. Khi họ hết lương thực, họ quên tất cả giá trị của cuộc giải phóng khỏi Ai Cập, tất cả niềm tự hào được trở thành người tự do. Trước nguy cơ chết đói, họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: Thà làm nô lệ mà được ăn no hơn được tự do mà phải chết đói. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho họ thấy: còn có một cái gì đáng quý trọng hơn nữa, hơn cả mạng sống: “Người ta không sống nhờ cơm bánh mà thôi, mà còn nhờ Lời Chúa nữa” (Đnl 8,3). Chúa Giêsu dùng lời ấy để khẳng định rằng: mạng sống trần gian không phải là tất cả đâu. Ngài đã lãnh nhận cuộc sống làm người không phải để khư khư giữ lấy, nhưng là để cho đi, để hiến mình cho mọi người được sống.
Cám dỗ thứ hai là Satan hứa sẽ trao cho Chúa Giêsu mọi quyền lực và vinh quang của các vương quốc trên trần gian nầy, nếu Chúa Giêsu chịu thờ lạy nó. Cái “xạo” của Satan là ở chỗ nó cho rằng nó là bá chủ mọi vương quốc trần gian và có quyền ban quyền lực và vinh quang cho Chúa Giêsu. Satan muốn Chúa Giêsu nhìn nhận rằng: chỉ có quyền lực và vinh quang của mọi vương quốc trên trần gian này là đáng quý. Chúa Giêsu muốn được hưởng thì cứ thờ lạy là xong ngay. Để trả lời Satan, Chúa Giêsu phán: “Mi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của mi, và mi chỉ phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi” Đnl 6,13). Sau nầy, Philatô sẽ phải công khai nhìn nhận rằng: Chúa Giêsu chẳng hề có dụng ý tranh cướp quyền lực và vinh quang của Đế quốc Rôma.
Dân Israel khi xưa đã đúc bò vàng để thờ thay vì thờ phượng Thiên Chúa. Đó là tội bất trung của Israel đối với Thiên Chúa. Chúa Giêsu dứt khoát trả lời Satan: Mi không phải là Thiên Chúa. Quyền lực và vinh quang trên trần gian không phải là tất cả. Chỉ có Thiên Chúa mới đáng thờ lạy, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền lực và vinh quang thật để ban cho Ngài.
Cám dỗ thứ ba là Satan xúi Chúa Giêsu thử thách quyền năng Thiên Chúa; vận dụng quyền năng Thiên Chúa để mở một con đường tắt mà hoà thành sứ mạng; nếu Chúa Giêsu nhảy từ đỉnh cao của đền thờ Giêrusalem xuống mà an toàn thì tất nhiên mọi người sẽ theo Ngài. Chúa Giêsu không theo đường tắt Satan đề nghị. “Ngài hạ mình vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chết và chết trên thập giá” để thực hiện công cuộc của Chúa Cha. Ngài mời gọi ai muốn theo Ngài thì hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình mà đi theo Ngài.
Dân Israel trong sa mạc khi thiếu nước uống, họ đã thử thách Thiên Chúa. Chúa Giêsu đáp lại Satan: “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa của ngươi” (Đnl 6,16). Chúa Giêsu đã không thử thách Thiên Chúa nhưng hoàn toàn tin tưởng và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa khi Ngài đi vào con đường tuyệt vọng nhất – con đường thập giá.
Chúa Giêsu đã chiến thắng hết mọi chước cám dỗ của Satan. Trong suốt thời gian Chúa Giêsu rao giảng, ma quỷ tiếp tục thua dài hết keo này đến keo khác. Nó không còn chước nào để cám dỗ Ngài nữa. Cuối cùng Satan nhập vào Giuđa Iscariôt (một trong mười hai môn đệ) để nộp Ngài. Trong cuộc giao chiến này, Satan sẽ cướp được mạng sống của Chúa Giêsu. Nếu quả thật không có gì khác ngoài cuộc sống trần gian thì Satan đã thắng rồi. Nhưng chính lúc cướp được mạng sống của Chúa Giêsu, Satan đã đại bại, bởi vì Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu từ trong cõi chết sống lại và đặt Ngài làm Chúa, khiến cho mọi loài trên trời dưới đất khi nghe Danh Giêsu thì phải quỳ gối mà tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, để làm vinh danh Thiên Chúa Cha. Đây là cuộc chiến thắng dứt khoát và vĩnh viễn.
Đọc lại đoạn Phúc âm này vào ngày Chúa Nhật đầu Mùa Chay, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc sống Kitô hữu như một cuộc chiến đấu với Satan. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan, làm con Thiên Chúa. Nhưng chúng ta còn phải thể hiện bản chất con Thiên Chúa ấy trong cuộc sống. Chúng ta phải đích thân chiến thắng Satan trong cuộc sống của chúng ta. Chúa Giêsu đã chiến thắng để cho chúng ta có thể chiến thắng nhờ Thánh Thần Ngài ban cho, nhưng không hề miễn cho chúng ta khỏi chiến đấu. Mùa Chay là thời kỳ tập luyện tích cực để chiến đấu với Satan.
Những cám dỗ mà Satan đã đem ra dụ dỗ Đức Giêsu vẫn là những cám dỗ muôn đời của con người.
Cơm ăn, áo mặc, danh vọng, tiền của, quyền uy, thế lực. Có những người, để làm giàu cho bản thân mình đã tán tận lương tâm, chà đạp mọi quy luật của đạo đức… Có những người, vì danh vọng, vì quyền lực, đã sẵn sàng sinh sát anh em đồng bào mình… Những cám dỗ ấy liên tục xảy ra trong cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta không cảnh giác, không được trang bị bằng ánh sáng và sức mạnh Lời Chúa, chúng ta sẽ ngã gục lúc này không hay!
Càng có điều kiện để làm giàu, có điều kiện để thụ hưởng danh vọng và nắm giữ quyền lực, càng dễ bị Satan cám dỗ. Có của mà vẫn sống lương thiện, hưởng thụ danh vọng mà vẫn khiêm tốn, hiền hoà, nắm giữ uy quyền mà vẫn là người phục vụ chân thực… đó là một thử thách lớn, là một cuộc đấu tranh gay gắt. Những cơn cám dỗ đến với Chúa Giêsu, các Lời Chúa đáp lại, và sự vượt thắng cám dỗ của Chúa vẫn là cái gì gần gũi với chúng ta ngày hôm nay, trong cả cuộc sống, nếu không muốn nói là từng giây phút, khi mà các nhu cầu tối thiểu còn là vấn đề quan trọng và cấp bách, khi mà lòng tham quyền bính và bả vinh hoa vẫn làm cho nhiều người mong bước vào.
Muốn chống trả và chiến thắng Satan, cần phải có tinh thần từ bỏ và tấm lòng siêu thoát. Chúa Giêsu đã chiến thắng Thần Chết và tội lỗi. Chúng ta cũng có thể chiến thắng mọi cám dỗ và thử thách, nếu chúng ta biết dựa vào Thiên Chúa, biết dùng vũ khí vạn năng mà Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta. Lời Chúa mà thánh Luca ghi lại vẫn là lời nhắc nhở các tín hữu, đừng để sa vào các cơn cám dỗ, mà ngày nay không khác với ngày xưa, nếu không muốn nói là còn lộ liễu hơn. Hãy lấy chính Lời Chúa làm sức nâng đỡ, lời chỉ đạo, và hãy lấy tâm gương Chúa làm tiêu chuẩn cho cuộc sống để đương đầu với những cơn thử thách bất cứ từ đâu tới.
Suy Niệm 1. CHƯỚC CÁM DỖ CỦA ĐỨC GIÊSU
Một số người cho rằng thật khó mà tin rằng Đức Giêsu có thể bị cám dỗ. Mặc dù có bản chất thần thánh, nhưng Người cũng có một bản chất của con người. Ngoài ra, tự thân chước cám dỗ không phải là một tội lỗi. Có phải ma quỷ đã thực sự hiện ra với Người không? Chúng ta không biết. Điều chính yếu là những chước cám dỗ của Người đều có thật, giống như chúng ta vậy, mặc dù quỷ sứ không hiện ra với chúng ta trong hình dạng của một con người. Nhưng những chước cám dỗ của Người chứa đựng cái gì?
Chước cám dỗ đầu tiên là biến hòn đá thành bánh. Ngoài ý nghĩa rõ rệt, chữ “bánh” có thể mang ý nghĩa là những thứ vật chất nói chung. Ma quỷ đang nói với Đức Giêsu là hãy sử dụng những quyền năng đặc biệt của Người, để mang lại cho con người tất cả những thứ vật chất mà có thể họ mong muốn. Nhưng Đức Giêsu biết rằng tự thân những thứ vật chất đó sẽ không bao giờ thoả mãn được con người. Công việc chính của Người là nuôi dưỡng tâm trí và tấm lòng con người bằng lời của Thiên Chúa.
Đây là chước cám dỗ mang lại cho con người những điều họ mong muốn, hơn là những nhu cầu của họ. Chước cám dỗ chính là thoả mãn đám đông, bằng cách cho họ những gì sẽ thoả mãn các mong muốn nhất thời của họ, khi họ không biết điều gì mình thực sự cần đến.
Chúng ta có những nhu cầu và những khát vọng lớn lao hơn. Tâm hồn con người thực sự khát khao cái gì? Chắc hẳn rằng đó không phải là cơm bánh. Cơm bánh là cái mà cơ thể thèm khát. Sau phép lạ ban bánh và cá, ngày hôm sau, dân chúng trở về với mong muốn sao cho có thêm bánh nữa. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối ban thêm bánh cho họ. Người nói “Các ngươi đừng lạm việc vì của ăn không thể tồn tại được, nhưng hãy làm việc để tìm kiếm lương thực kéo dài cho đến cuộc sống đời đời”.
Đối với một vị thầy về mặt thiêng liêng, thì tinh thần chiếm vị trí ưu tiên vượt lên trên lương thực của cơ thể. Khi đặt ưu tiên cho những nhu cầu thân xác, điều đó có nghĩa là giảm giá trị con người, là đối xử với họ không hơn gì một con vật. Chúng ta cũng bị cám dỗ chỉ sống cho những thứ vật chất mà thôi. Không phải là chúng ta khước từ đời sống thiêng liêng, nhưng chúng ta bỏ qua đời sống đó.
Chước cám dỗ thứ hai là tạo dựng một vương quốc chính trị, là việc dẫn đến quyền lực hơn là tình yêu. Quyền lực tạo ra một sự thay thế dễ dàng cho công việc khó khăn mà có thể tình yêu đòi buộc. Người ta dễ dàng muốn làm chủ người khác, hơn là yêu thương họ, dễ dàng thống trị người khác, hơn là trở thành người phục vụ họ. Đức Giêsu không đến để cai trị, nhưng để phục vụ. Người không hề nại vào quyền lực thần thánh của Người, nhưng đã tự huỷ mình ra không, và trở thành người tôi tớ đầy yêu thương đối với tất cả mọi người. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ thay thế tình yêu bằng quyền lực.
Chước cám dỗ thứ ba cốt ở việc làm được một điều gì đó kỳ lạ (tự gieo mình xuống khỏi Đền Thờ) nhằm khơi gợi lòng tin –giống như một ảo thuật gia có thể khơi gợi được lòng tin, qua nghệ thuật làm một số chuyện mang tính cách quảng cáo phô trương. Ý tưởng này nghe thật hấp dẫn. Một kiểu quảng cáo như vậy sẽ làm cho mọi người đồn thổi về Người tại Giêrusalem. Nhưng lối gây giật gân lại đưa đến vinh quang cho bản thân mình, hơn là vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Giêsu khước từ việc gieo mình này. Người không muốn tìm kiếm những kẻ ái mộ mình. Người mong muốn có những kẻ đi theo Người, nghĩa là những kẻ muốn bắt chước lối sống của Người.
Trong suốt sứ vụ của Người, Đức Giêsu đã khước từ việc ban cho dân chúng những kiểu dấu lạ, ngay cả khi người ta ép buộc Người phải làm như vậy. Những loại dấu lạ này không có ích lợi gì cả, không đòi hỏi điều gì tốt đẹp nhất nơi chúng ta, mà chỉ hạ thập giá trị của lòng tin. Lòng tin không phải là ma thuật. Sự thánh thiện không hệ tại ở việc cố gắng ép buộc Thiên Chúa phải làm theo ý muốn của chúng ta, nhưng là nỗ lực bắt buộc chính bản thân mình phải làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Các chước cám dỗ là đòn tấn công trên tất cả những yếu tố cơ bản đối với sứ vụ của Đức Giêsu. Vâng, Người đến để thiết lập một vương quốc, nhưng không phải là loại vương quốc mà Satan đề nghị. Và Người đã khước từ chước cám dỗ đạt được vương quốc bằng phương tiện trần thế.
Cả ba chước cám dỗ cuối cùng đều quy hướng về cùng một điều: đặt những thứ vật chất và vinh quang bản thân lên trước hết, kế đó, mới đến các điều thiêng liêng và Thiên Chúa. Nói chung, đây là những chước cám dỗ chủ yếu trong Giáo Hội của Người, và nơi mỗi người chúng ta là các thành viên trong Giáo Hội. Chúng ta phải luôn hướng mắt về Đấng đã khước từ biến những hòn đá thành bánh, tự gieo mình xuống khỏi nóc Đền Thờ, và cai trị bằng quyền lực.
Kinh nghiệm này đã giúp cho Đức Giêsu tự thấu hiểu sứ vụ của Người là gì, và làm thế nào để hoàn tất sứ vụ đó. Và một khi đã biết được sứ vụ của mình là gì, thì Người quyết định hoàn toàn tận hiến cho sứ vụ đó.
Chước cám dỗ không phải là những thứ chỉ xảy ra một lần mà thôi, không bao giờ chúng kết thúc, mà có thể trở lại một lần khi có cơ hội. Trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, chước cám dỗ vẫn tiếp tục xảy ra, bởi vì ma quỷ vẫn cứ tìm mọi cách để xói mòn sứ vụ của Người, mặc dù là vô hiệu. Ngay cả khi Người đã bị treo trên thánh giá, chúng ta vẫn nghe thấy tiếng vang vọng của chước cám dỗ thứ hai “Nếu ông ta là Đấng Mêsia, thì ông ta hãy xuống khỏi thánh giá, rồi chúng ta sẽ tin ông ấy”.
Tất cả những ai đang đấu tranh để sống một cuộc sống tốt đẹp, đều có thể ghi lòng tạc dạ điều này: Việc chống trả lại chước cám dỗ không hề dễ dàng đối với Đức Giêsu, cũng không dễ dàng đối với chúng ta. Nhưng nơi Đức Giêsu, chúng ta có được một người anh, Đấng biết được rằng chúng ta đang phải chiến đấu với cái gì. Người tha thứ cho chúng ta, và nâng chúng ta lên, khi chúng ta vấp ngã. Người ban cho chúng ta khả năng tuân theo lời của Thiên Chúa, tin tưởng nơi Người và chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi.
Suy Niệm 2. KHÔNG CHỈ BẰNG CƠM BÁNH
Con người không chỉ sống bằng cơm bánh. Cơm bánh chỉ là một trong những thức ăn chủ yếu của cuộc sống –cuộc sống thân thể. Để nuôi dưỡng một con người, không giống như vỗ béo một con vật. Cơ thể của chúng ta cần có lương thực. Những linh hồn của chúng ta cũng vậy. Linh hồn của chúng ta đang khao khát lương thực nuôi dưỡng. Câu chuyện về Elvis Presley minh hoạ hùng hồn cho chân lý này.
Elvis trở nên rất giàu có. Ông ta sở hữu 8 xe hơn, 6 xe máy, 2 máy bay, 16 T.V., một toà lâu đài rộng lớn, và nhiều tài khoản ngân hàng. Vượt lên trên tất cả những thứ đó, anh ta còn là thần tượng của nhiều người hâm mộ. Tuy nhiên, anh không hề có hạnh phúc. Giữa tất cả sự giàu có và thành công của mình, anh ta đã phải trải qua tình trạng bất ổn về tinh thần, và thường than phiền về nỗi cô đơn, buồn chán.
Anh giãi bày tâm sự với một phóng viên “Tiền bạc gây ra nhiều chuyện nhức đầu”.
Mẹ của anh rất lo lắng cho anh. Không bao giờ bà muốn anh bị những chuyện đó. Bà chỉ đơn giản mong muốn anh trở về nhà, mua một cửa hàng bán vật dụng trong nhà, cưới vợ và có con.
Càng ngày, anh càng trở nên sợ hãi và trầm cảm. Năm lên 22 tuổi, anh nhận thấy là không còn thế giới nào để chinh phục nữa. Tình trạng bất ổn này có thể là một cơ hội. Đây là một lời nhắc nhở rõ ràng rằng “con người không chỉ sống nguyên bằng bánh”, nghĩa là chỉ sống bằng những thứ vật chất mà thôi.
Thông điệp này vang lên lớn tiếng và rõ rệt trong bài Tin Mừng hôm nay. Đây là một thông điệp quan trọng, và có lẽ thích hợp với ngày nay hơn bao giờ hết. Mặc dù chúng ta có thể nhận thấy được lẽ phải của bức thông điệp này, nhưng trên thực tế, thật không dễ dàng thực hiện. Chúng ta không chỉ sống bằng cơm bánh –ít nhất là không, nếu chúng ta mong muốn được sống dồi dào, và hoàn toàn được nuôi dưỡng với tư cách là con người và con cái của Thiên Chúa. Vậy chúng ta còn cần đến điều gì khác nữa. Chúng ta cần đến Lời Chúa.
Bạn hãy thử tưởng tượng cảnh cha mẹ nuôi dưỡng con cái của họ, mà không bao giờ nói một lời nào với con trẻ, không hề hướng dẫn, khích lệ, xác nhận, an ủi. Không bao giờ họ nói một lời để truyền đạt sự bình an và đón nhận, hoặc tình yêu thương và niềm vui. Cơ thể của con trẻ có thể được nuôi dưỡng, nhưng tâm trí và linh hồn của chúng bị trống rỗng. Chúng ta là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta cần được nghe Lời của Người.
Nếu chỉ có cơm bánh, không phải lúc nào cũng sẽ đảm bảo được sự sống còn, ngay cả về mặt thể lý. Thi sĩ Irina Ratushinkaya đã sống một thời gian trong nhà tù cộng sản ở Ngài (với tư cách là tù nhân chính trị). bà nói “Nhiều người phụ nữ có nhiều thức ăn hơn tôi, tuy nhiên, họ vẫn bị chết”. Điều gì đã giữ cho bà còn sống được. Chắc hẳn là nhờ đức tin Kitô giáo của bà.
Không phải chỉ có cơ thể con người mới đói khát. Tâm hồn và tinh thần con người cũng biết đói khát nữa. Chúng ta sẽ không được nuôi dưỡng đầy đủ, cho đến khi chúng ta thừa nhận sự đói khát của tâm hồn và tinh thần.
Đức Giêsu thách đố chúng ta hướng tới những nỗi khát khao sâu xa hơn và những nhu cầu lớn lao hơn của chúng ta. Tâm hồn thực sự khát khao điều gì? Thưa rằng tâm hồn khát khao lương thực không thể hư nát –Lời Chúa. Lời Chúa có sức mạnh nuôi dưỡng chúng ta. Lời Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng tấm bánh của cuộc sống có ý nghĩa, tấm bánh của niềm hy vọng, và vượt lên trên tất cả, đó là tấm bánh của tình yêu.
CÂU CHUYỆN KHÁC.
Đức Giêsu đã trải qua 40 ngày trong sa mạc, trong sự suy niệm và cầu nguyện. Sa mạc có thể là một nơi khắc nghiệt, nhưng đó lại là một chỗ lý tưởng để suy niệm và cầu nguyện.
Kinh nghiệm sa mạc đến vào giây phút quan trọng trong cuộc đời của Đức Giêsu, thời gian của sự thức tỉnh lớn lao. Không thể nào gọi là cường điệu, khi nói về tầm quan trọng của sa mạc đối với Đức Giêsu. Thật vậy, càng ngày, Người càng yêu thích sự cô tịch, và có thói quen tìm đến với sa mạc, vào những lúc khó khăn trong cuộc đời của Người. Khi dân chúng và các sự kiện tìm cách vây bọc lấy Người, thì Người sẽ lẻn vào nơi hoang vắng, để tự phục hồi và lại hiến thân cho Chúa Cha. Hiện tại, Người đang đào sâu cảm nhiệm sa mạc đầu tiên này.
Chúng ta cũng cần có một nơi yên tĩnh để suy niệm và cầu nguyện. Thông thường, chúng ta hay sống một cách điên rồ và thiếu mất đời sống thiêng liêng, cứ để mặc cho những ước muốn ngu xuẩn đưa dẫn, và những thói quen ích kỷ đầu độc. Chúng ta bị những tiếng ồn ào và những sinh hoạt liên tục vây hãm. Chúng ta đặt sai những thứ tự ưu tiên. Chúng ta không thể hoặc không muốn sự cô tịch, không muốn được yên tĩnh, không muốn cảnh tĩnh mịch. Và chúng ta lại thắc mắc tại sao mình không có hạnh phúc tại sao mình cảm thấy không dễ dàng gì trong việc tiếp cận với người khác, và tại sao mình không thể nào cầu nguyện được.
Chúng ta cần đến sự cố tích. Khi ở một mình, chúng ta bắt đầu đứng trên đôi chân của mình, trước mặt Thiên Chúa và thế giới, và hoàn toàn chấp nhận chịu trách nhiệm đối với cuộc sống của bản thân. Các ẩn sĩ đi vào sa mạc, không phải để tự để tự đánh mất, nhưng là để tìm được chính mình. Trong sự cổ tích, chúng ta gặp gỡ những trò quỷ quái của chúng ta, những đam mê, thú tính, cơn tức giận, nhu cầu được nhìn nhận và được tán thành của chúng ta.
Và chúng ta không đi vào nơi hoang vắng để tránh khỏi người khác, mà để tìm thấy họ trong Thiên Chúa. “Chỉ khi ở nơi cô tịch và thinh lặng, tôi mới có thể tìm thấy sự tử tế mà nhờ đó, tôi có được khả năng để yêu mến các anh chị em tôi” (Thomas Merton).
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Chúng ta đã từng thấy có một số cột mốc lớn trong cuộc đời Chúa Giêsu, và đây là cột mốc lớn hơn hết. Trong Đền Thờ, khi được mười hai tuổi, Ngài đã nhận thức rằng Thiên Chúa là Cha Người theo một ý nghĩa đặc biệt. Khi Gioan xuất hiện, Ngài cảm kích giờ của Ngài đã điểm, trong lễ rửa Thiên Chúa đã tỏ ra việc chuẩn y. Bây giờ Chúa Giêsu sắp bắt đầu chiến dịch của Ngài. Muốn bắt đầu một chiến dịch, người ta phải chọn nhưng phương sách sẽ dùng. Câu chuyện cám dỗ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã dứt khoát chọn lựa phương cách Ngài sẽ sử dụng để đem con người trở về cùng Thiên Chúa. Nó cho ta thấy Chúa Giêsu từ bỏ con đường vinh quang quyền thế, chấp nhận con đường thập giá khổ đau. Trước khi đi vào chi tiết câu chuyện, có hai điểm cần lưu ý:
Trước hết chúng ta thử hình dung khung cảnh đó, khung cảnh của sa mạc hoang vu. Phần đất có người ở của xứ Giuđê là vùng cao nguyên trung tâm cái xương sống cho miền Nam đất Paléttin. Từ đó ra Biển Chết có một vùng sa mạc ghê rợn, chiều dài 56 cây số và rộng 24 cây số, có tên là sa mạc Jehsimmon, nghĩa là “sự tàn phá”. Các núi đồi như những đống cát bụi, những đá vôi trông như phồng lên và tróc ra, những tảng đá lớn trơ trọi gồ ghề, mặt đất kêu rền dưới vó ngựa. Nắng ở đó nóng như một lò lửa mênh mông, và có một sườn núi dốc dựng đứng cao khoảng 400 mét, đổ xuống tận Biển Chết. Chính tại đó, nơi hoang tàn ghê gớm đó, Chúa Giêsu chịu cám dỗ.
Không nên nghĩ rằng ba đợt cám dỗ đó đã diễn ra theo trình tự và lớp lang như một tấn tuồng. Chúng ta phải nhớ rằng Chúa Giêsu tự ý lui vào nơi vắng vẻ đó và suốt bốn mươi ngày Ngài vật lộn với vấn đề làm thế nào để chinh phục nhân loại về với Thiên Chúa. Đó là một trận chiến lâu dài và là một cuộc chiến không ngưng nghỉ cho tới cây thập giá, và câu chuyện này chấm dứt với lời tuyên bố của ma quỷ “tạm” lìa bỏ Ngài.
Vùng này không phải là một sa mạc cát, khắp đó đây rải rác những hòn đá vôi rất giống những ổ bánh mì nhỏ. Ma quỷ nói với Chúa Giêsu rằng: “Nếu ông muốn dân chúng theo ông thì ông hãy dùng quyền năng lạ lùng để ban cho họ những nhu cầu vật chất đi”. Ma quỷ xui Chúa Giêsu nên đút lót dân chúng để họ theo Ngài, Ngài trả lời bằng một câu trích ở Đệ nhị luật 8,3, Ngài nói: “Người ta không bao giờ tìm được sự sống trong của cải vật chất”. Nhiệm vụ của Kitô giáo không phải là tạo ra những tình trạng mới, mặc dầu uy tín và tiếng nói của Hội Thánh phải hỗ trợ cho mọi cố gắng cải thiện đời sống con người. Nhiệm vụ của Hội Thánh là kiến tạo con người mới. Và khi đã có con người mới hẳn sẽ phát sinh các tình trạng mới.
Ma quỷ nói: “Hãy thờ lạy ta thì tất cả sẽ là của ngươi”. Đó là một chước cám dỗ để thoả hiệp, để hoà đồng. Ma quỷ nói: “Ta đã nắm được dân chúng trong tay ta rồi, ngươi chớ nên đặt tiêu chuẩn của ngươi quá cao. Hãy ký kết một thoả hiệp với ta, chỉ cần hoà đồng thích nghi một chút với điều ác thôi thì loài người sẽ theo ngươi” Chúa Giêsu trả lời: “Thiên Chúa là Thiên Chúa, phải là phải, trái là trái. Trong cuộc tranh chiến với tội ác không thể có thoả hiệp”. Một lần nữa Chúa Giêsu lại trích dẫn Đệ nhị luật 6,13.10,20. Một sự cám dỗ thường dễ vướng phải là việc tìm cách chinh phục lòng người bằng cách thoả hiệp với các tiêu chuẩn của đời này. Có người phát biểu rất đúng rằng khuynh hướng của thế gian là nhìn mọi sự trong màu sắc mơ hồ không rõ rệt, nhưng Kitô hữu phải nhìn mọi sự cách trắng ra trắng, đen ra đen. Carlyle nói: “Kitô hữu phải nóng cháy trong niềm tin vào sự vô cùng xinh đẹp của sự thánh khiết và vô cùng xấu xa của tội lội”.
Chỗ này cao 1.500 mét, dốc thẳng xuống thung lũng Kêdron bên dưới. Đây là chước cám dỗ muốn khích động dân chúng. Chúa Giêsu phán: “Không, ngươi không được quyền thử nghiệm quyền năng Thiên Chúa” (Đnl 6,16) Chúa Giêsu hiểu rằng nếu Ngài làm theo ma quỷ thì dân chúng sẽ phải sửng sốt thán phục Ngài, và chắc chắn ảnh hưởng đó không lâu bền được. Con đường phục vụ và chịu khó dẫn đến thập giá là con đường rất khó đi, nhưng sau thập giá sẽ có vinh quang của mão triều thiên.
“Chúa trở nên giống như ta, là anh em Ngài, về mọi phương diện, để làm Thầy Thượng Tế nhân từ, trung thực trước mặt Thiên Chúa, chuộc tội cho mọi người. Vì Chúa từng chịu khổ khi đương đầu với các cơn cám dỗ, nên Ngài có thể giải cứu những người đang bị màng lưới cám dỗ vây bọc” (Dt 3,17-18). Suy nghĩ về điểm này, thánh Gioan Viannay phấn khởi kêu lên: “Chúng ta hạnh phúc thay! May mắn thay cho chúng ta có Thiên Chúa làm gương mẫu! Chúng ta nghèo khổ ư? Chúng ta có một Thiên Chúa sinh ra trong chuồng bò, nằm trong máng cỏ. Chúng ta bị khinh chê ư? Chúng ta có một Thiên Chúa đi trước chúng ta về điểm đó, Ngài đã từng bị đội mão gai, quấn áo đỏ để coi như một tên điên khùng. Chúng ta bị đối xử tồi tệ và đánh đập tàn nhẫn ư? Chúng ta có một Thiên Chúa, đứng trước ta, mình đầy vết thương, chết giữa những khổ hình mà ta không thể tưởng tượng ra. Chúng ta chịu bách hại sao? Này, sao mà dám phàn nàn khi ta có một Chúa chịu chết vì tay các lý hình. Cuối cùng, chúng ta đau khổ vì bị cám dỗ sao? Chúng ta có một Chúa Cứu Thế đáng yêu cũng bị ma quỷ cám dỗ, hai lần bị các thần dữ mang đi này, và trong tất cả các khổ đau, quyến rũ và cám dỗ mà chúng ta gặp phải, chúng ta luôn có Chúa đi trước chúng ta, bảo đảm cho chúng ta toàn thắng miễn là chúng ta muốn thật” (Curé d’Ars).
Như thế Chúa dạy không ai tránh khỏi cám dỗ, Chúa chỉ cách thắng vượt, khuyến khích ta tin cậy vào lòng thương xót, vì chính Ngài cũng bị cám dỗ như ta.
CHÚA GIÊSU CHỊU CÁM DỖ
Trong khi đem bản gia phả vào đây, Luca có nguy cơ phá vỡ mối liên kết nền tảng mà truyền thống đã thiết lập giữa phép rửa và cơn cám dỗ. Như thế ông nhắc lại cảnh này khi nói tới việc Chúa Giêsu đến từ bờ sông Giođan và ông bày tỏ mối dây liên kết giữa bản gia phả và sự hiển linh sau khi chịu phép rửa, chính trong tư cách là Con Thiên Chúa và đầy tràn Thần Khí thánh mà Chúa Giêsu sắp chịu thử thách. Người được dẫn vào sa mạc, địa điểm mơ hồ này nơi mà, theo Kinh Thánh, con người có thể có kinh nghiệm về sức mạnh của tà thần hay đi vào mối hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống.
Luca mượn từ tài liệu “Nguồn các lời” một sắc thái Kitô giáo về Chúa Kitô được cấu trúc bằng ba lời trích dẫn mà ông chọn lựa cẩn thận từ sách Đệ nhị luật, để minh hoạ một kinh nghiệm căn bản của Chúa Giêsu. Trường hợp duy nhất trong văn chương Tin Mừng: ở đây Chúa Giêsu chỉ tuyên bố những trích dẫn từ Cựu Ước! Con Thiên Chúa phải trải qua ba thử thách mà dân Isaia đã chịu trong cuộc xuất hành và họ đã sa ngã; khi lợi dụng những bài học của Đệ nhị luật nhắc nhở ta canh chừng khỏi tái phạm những lầm lỗi tương tự. Chúa Giêsu chiến thắng địch thủ. Có vẻ như truyền thống trình bày ba giai đoạn theo trật tự như thấy trong Matthêu: bánh (chỉ tìm của cải vật chất), chóp đỉnh Đền Thờ (thử thách Chúa để đòi hỏi những dấu chỉ Mêsia gây sửng sốt), vương quốc trần gian (thoả hiệp với cái ác để bảo đảm quyền lực Mêsia). Luca sẽ đảo lộn cám dỗ thứ hai và thứ ba, để cám dỗ sau cùng –cám dỗ quan trọng nhất- là thử Thiên Chúa được diễn ra tại Giêrusalem.
Đối thủ của Thiên Chúa –được gọi là ma quỷ bốn lần trong bản văn này- đã ghi nhận được lời tuyên bố từ trời. Biết rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, nó thử ngăn trở vai trò của Người trong lịch sử cứu độ, khi bằng cách này hay cách khác mời mọc Ngài thực hiện một Công vụ Mêsia lừng lẫy. Độc giả đừng lầm lẫn về sứ mạng đích thực của Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu hoàn tất lời Thiên Chúa: Ngài từ chỗ làm phép lạ để có lợi cho cá nhân Ngài (x. Đnl 6,13 được trích ở câu 8), cũng như dùng quyền năng Con Thiên Chúa của mình để tự bảo vệ… và quyến rũ người Do Thái bằng những phép lạ có tính cách lừa bịp (x. Đnl 6,16 được trích dẫn ở câu 12). Thấy tên quỷ trích Thánh Vịnh 91,11-12, độc giả cũng có thể nghĩ đến các đối thủ Do Thái chống lại niềm tin Kitô giáo, khi họ dựa vào một số bản văn Kinh Thánh nói về Đấng Mêsia hoàng vương để từ chối Đấng bị đóng đinh đã sống lại.
Như vậy cả ba lần, sự trung thành của Chúa Giêsu đối với Thiên Chúa và đối với chương trình cứu độ đã bị thử thách. Thử thách chót chính là … thử Chúa bắt Chúa phải ra tay. Đó là lỗi của Israel trong sa mạc, khi họ đòi một phép lạ bằng những lời này; “Chúa có ở với chúng ta hay không?” (Xh 17,7). Còn Chúa Giêsu, Ngài từ chối bắt Thiên Chúa phải can thiệp; Ngài không đòi phép lạ để cứu mạng mình. Ngài cũng sẽ không xin điều đó khi Ngài ở trên thập giá (23,35).
Bởi vì Luca đã thấy rõ cuộc khổ nạn. Trái với kết cuộc có hậu của Mt 4.11, khi Satan bỏ đi, Chúa Giêsu được các sứ thần phục vụ (x. Mc 1,13), tác giả Luca lại hướng chú ý về ma quỷ. Khi chống lại một cách vô ích quan niệm của Chúa Giêsu về sứ mệnh Mêsia của Ngài, quỷ đã thua một trận đánh, nhưng không phải là toàn bộ cuộc chiến và nói rời xa Ngài cho đến giờ H –giờ khổ nạn, mà dưới mắt của Luca nó là nhân vật chính và giấu mặt (22,3.31.53). Đối với Luca, những cơn cám dỗ đó là thử thách đầu tiên của một cuộc chiến sẽ kết thúc trên thập giá… và ở ngoài ngôi mộ Phục Sinh!
Sự chống đối giữa ma quỷ và Con Thiên Chúa là một thực tại: nó sẽ đưa Ngài đến cái chết. Khi thuật lại giáo huấn này về Đức Giêsu, Luca biết rằng ông diễn tả bằng hình ảnh. Chẳng hạn, phải chăng ông đã không loại bỏ ngọn núi rất cao từ đó người ta có thấy tất cả các nước trong thiên hạ –một cách diễn tả quen thuộc của Do Thái giáo, nhưng có thể người h luật pháp lại không hiểu nổi? Ông viết “trong giây lát” (c.5): bản âm không gian được thay thế bằng một ghi chú về thời gian!
Người ta sẽ hỏi đâu là nền tảng lịch sử của cảnh khai mạc này mà Luca đã có được? Bên cạnh một biến cố đúng thời gian, ta phải kể đến việc Chúa Giêsu sống ẩn dật trong một nơi không rõ ràng gọi là sa mạc, sau khi chịu phép rửa, với một thực tại kép: các cơn cám dỗ dĩ nhiên rồi, đặc biệt là cơn cám dỗ về một sự vụ Mêsia trần tục, những cám dỗ ấy là một chiều kích thường xuyên trong sứ vụ của Đức Giêsu; nhưng cũng cả việc Chúa Giêsu từ chối thuận theo cám dỗ nữa. Có những dấu vết chính xác về các cám dỗ ấy trong một tác phẩm của Luca (Lc 10,25; 11,6tt; 22,42…), và đã trở thành hiển nhiên: Chúa Giêsu là một Mêsia bị lột trần và đau khổ. Các môn đệ là chứng nhân và sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận. Các độc giả của Luca phải hiểu rằng không dễ dàng để hiểu Ngài.
Một lần nữa, thử thách theo đuổi suốt cuộc đời Chúa Giêsu không phải là tội. Như tất cả mọi người, Con Thiên Chúa đã kinh nghiệm câu châm ngôn này của Kinh Thánh: “Con ơi! Nếu con muốn phụng sự Chúa, con hãy chuẩn bị tâm hồn để chịu thử thách” (Ch 2,1).
Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu được đầy Thánh Thần. Từ sông Giođan trở về và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa.
Đức Giêsu vừa thay đổi cuộc sống. Đối với Người đó là một khúc quanh quyết định. Cách đây chỉ có vài ngày, Người vẫn còn là anh thợ mộc thôn làng, ở Nadarét. Người vừa nhận phép rửa ở sông Giođan “nhận chức” tác vụ làm ngôn sứ. Người được tràn đầy Thánh Thần? Trước khi bắt đầu tác vụ, Người cảm thấy cần phải một mình lui vào hoang địa. Người muốn cầu nguyện, suy nghĩ chọn những phương thế sẽ sử dụng để hoàn thành công trình của mình.
Không có một công trình lớn lao nào của con người, hay cuộc sống thiêng liêng thực sự nào, mà không cần thời gian suy nghĩ, cô tịch và im lặng nội tâm. Trong Mùa Chay đang bắt đầu, tôi có dành mỗi ngày vài phút, hay mỗi tuần vài khắc đồng hồ cho việc này? Để cầu nguyện suy nghĩ, và thấy rõ hơn không?
Tôi dùng tưởng tượng, ngắm nhìn Đức Giêsu đang rời làng mạc đông dân cư, đi sâu vào những vùng đất sỏi đá không người, không cây cỏ, không nước. Người bước đi bước tới. Lạy Chúa, còn con có dám đi theo Chúa không, để có một thời gian trong “hoang địa”?
Tại đây Chúa bị cám dỗ trong 40 ngày.
Theo Luca, cơn “cám dỗ” mà Đức Giêsu đương đầu, kéo dài trong suốt thời gian 40 ngày. Người ở nơi hoang địa. Thời gian cầu nguyện, cũng là thời gian “thử thách”. Chữ này nhấn mạnh đến khía cạnh tích cực của cơn cám dỗ. Tự thử thách chính mình đó là xem mình có thể làm được những gì và “đưa ra bằng chứng về chính mình”. Trắc nghiệm một cỗ máy, đó là thử xem giá trị thực sự của nó. Sự “thử thách”, theo nghĩa này, là một điều rất tốt. Một mối tình được thử thách, đó là mối tình luôn bền vững và hiện giờ ta vẫn có thể chắc chắn về sự bền vững đó. Khi bảo chúng ta xin Thiên Chúa “đừng để chúng con xa trước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” Đức Giêsu không muốn nói là chúng ta sẽ không bị cám dỗ, nhưng ta phải chiến thắng cám dỗ, không bị nó đè bẹp, bị bại trận, thì sự dữ ngự trị. Nhờ khắc khổ, Đức Giêsu đã có kinh nghiệm về lợi ích của thử thách. Vì thử thách có thể làm tình yêu lớn lên: Những cám dỗ Người chịu, sẽ làm nổi bật giá trị lòng “trung tín” của Người đối với Chúa Cha.
Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và khi hết thời gian đó thì Người thấy đói.
Tôi ngưng một lát để chiêm ngắm cảnh này: Đức Giêsu đang đau khổ vì đói! Bao tử co thắt – chóng mặt, nhức đầu.
Đa số các tôn giáo lớn, đều có việc thực hành “chay tịnh” tự nguyện như thế! Nền văn minh hiện đại của chúng ta, có lẽ là nền văn minh duy nhất trong lịch sử, khước từ kinh nghiệm tôn giáo phổ quát này. Ta thường nói, cần phải hưởng thụ. Tại sao phải nín nhịn? Khi một người ít buông thả trong phạm vi tình dục hay ăn uống, họ có nguy cơ mất đi một điều cốt yếu: “Sự tự chủ”. Lúc đó, con người trở thành một sinh vật rất mềm yếu, không ý chí, nô lệ cho những bản năng sơ đẳng nhất. Ở đây, Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta hình ảnh một con người mạnh, có thể quên mình, “ăn chay” tự nguyện. Tôi có biết từ bỏ, hy sinh trong Mùa Chay này không?
Bấy giờ quỷ nói với Người: “Nếu ông là con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi”.
Cơn cám dỗ vì cái đói, đã là sự thử thách của Israel trong hoang địa. Nhưng cơn cám dỗ để thoả mãn cái đói của chúng ta, là sự thử thách của mọi người. Chúng ta biết rõ những khao khát thể xác của mình. Thiên Chúa đã đặt chúng trong ta, nhưng chúng ta có thể dễ “lệch lạc”, trở thành độc tài yêu sách. Xã hội tiêu thụ quanh ta lại càng tăng thêm quyền lực cho chúng: “Hãy mua món ragu, mì sợi Ý. Thế giới phương Tây, nói chung, quá dư thừa thực phẩm. Những y sĩ thường cảnh giác điều đó.
Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơn bánh”.
“Con người”. Lạy Chúa Giêsu, con thích nghe lời này từ miệng Chúa. Con người, đó là nỗi đam mê của Chúa. Chúa đã đến trong nhân loại để phát huy giá trị của con người trong mọi chiều kích. Chúa lặp lại cho chúng con hôm nay: Hỡi con người, đừng sống chỉ nhờ cơm bánh! Đừng hạ thấp mình xuống mức độ sơ đẳng nhất. Người không có nhu cầu nào khác hơn là ăn, uống hút xách… sao?
Trong Mùa Chay này, chúng ta có biết phát triển những giá trị tâm linh của mình không? Chúng ta có biết cầu nguyện đón thận những thiếu sót khắc khổ, giúp mình thêm sinh khí không?
Quỷ đem Đức Giêsu lên cao và trong giây lát chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được giao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông”.
Rõ ràng, trình thuật này không phải là một “phóng sự” của một nhà báo mô tả hay quay phim một biến cố. Đây là một trang thần học tóm kết và tổng hợp cách tượng trưng “tất cả những hình thức cám dỗ” (Lu ca sẽ nói rõ điều đó khi kết thúc trình thuật của ông) mà Đức Giêsu đã gặp “thực sự” suốt cuộc đời của Ngài. Chẳng hạn, rõ ràng là cơn cám dỗ thứ hai này, cám dỗ để được “quyền hành thế gian”, đã không ngớt tấn công Đức Giêsu. Hằng ngày, Ngài đã phải đẩy lui cơn cám dỗ “cứu thế nhất thời” mà người đương thời đã muốn lôi kéo Người bước vào: Một Đấng cứu thế có tính chính trị, một ông “vua của thế gian” này theo kiểu vua Đavít cầm đầu, cùng với Nhóm quá khích để chống lại quyền hành và vinh quang, chống lại quân Rôma xâm lược (Ga 6,15). Ngay từ ngày đầu tiên này, tại hoang địa, cho tới hơi thở cuối cùng, Đức Giêsu đã khước từ vương quyền để làm người “nghèo hèn” “người tôi tớ” (Ga 13,1-20). Đức Giêsu đã có thể trở nên giàu có và quyền thế nhưng Người đã chấp nhận “yếu đuối” (1 Cr 1,27), khi chọn thập giá là “điều ô nhục đối với người Do Thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại”. Cơn cám dỗ về “quyền hành” cũng là cơn cám dỗ của chúng ta: Muốn thống trị áp đặt, và lợi dụng.
Đức Giêsu đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. (Đnl 6,13)
Chống lại những cuộc tấn công của xatan, Đức Giêsu trả lời 3 lần bằng Kinh Thánh (Đnl 8,3-6,13-6,16), vì đó cũng chính là những cơn cám dỗ mà dân Chúa đã gặp nơi hoang địa trong “40 năm”, và giờ đây Đức Giêsu cũng đang sống lại trong bản thân Người: Đó là cơn cám dỗ về mana (Xh 16), cám dỗ thờ ngẫu thần và con bò vàng (Xh 32-42), cám dỗ làm những dấu lạ (Xh 17). Cơn cám dỗ của Israel cũng là cơn cám dỗ của Đức Giêsu, của toàn thể nhân loại, của chúng ta. Nghi ngờ Thiên Chúa, vì người không tỏ hiện, để tin những gì khác”.
Câu trả lời của Đức Giêsu là “không có gì hơn Thiên Chúa”. Lạy Chúa Giêsu, theo chân Chúa, con không muốn thờ lạy và tin tưởng ở tiền bạc, lạc thú, quyền hành, “những ý thức hệ chính trị”, những tiến bộ hay thời trang. Con chỉ phục bái “trước mặt Chúa”. Cái tạm thời không phải là xấu. Nhưng biến nó trở nên “tuyệt đối”, là một ảo tưởng bi thảm. Đức Giêsu là Đấng giải thoát chúng ta khỏi những “thần giả hiệu” đang gạt gẫm chúng ta.
Quỷ đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người lên nóc đền thờ rồi nói với Người: “Nếu ông là con Thiên Chúa thì đứng dậy, mà gieo mình xuống đi! Vì có lời phép rằng: Thiên Chúa sẽ tay đỡ, tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá”. (Tv 91,11-12)
Đó là cơn cám dỗ lớn và liên tục mà người ta đã đặt ra trước Đức Giêsu suốt đời sống công khai của Người: hãy làm phép lạ đi – Hãy cho chúng tôi một dấu chỉ trên trời. Hãy chứng minh rằng ông là Thiên Chúa. Hãy biểu lộ quyền hành của ông bằng phép lạ, chứng minh rằng ông là Đấng Cứu ‘Thế chúng tôi đang mong đợi. Hãy bước xuống khỏi thập giá đi? (Lc 11,29-11,16-21,7; Ga 91,28-6,30-12,37; Mt 27,42-43). Còn chúng ta, chúng ta cũng luôn đòi hỏi những điều đó với Chúa sao?
Luca đã đặt cơn cám dỗ này, cám dỗ nơi đền thờ Giêrusalem xuống hàng thứ ba (còn đối với Matthêu, đó là cám dỗ thứ hai 4,5). Làm như thế, Luca mới nhấn mạnh đến sự tiệm tiến. Thực vậy, chính tại Giêrusalem, Đức Giêsu đã trải qua cơn thử thách lớn nhất của Người. Đó là cơn cám dỗ bi thiết, muốn cho Người khỏi phải chết: “Nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén này” (Lc 22,42). Đức Giêsu đã không được thiên thần “bảo vệ”. Đó là cơn cám dỗ bi thảm nhất: trong đau khổ; mất niềm tin nơi Chúa Cha. Đức Giêsu đã không được bảo vệ, chân của Người đã vấp phải đá đường. Người đã không bao giờ dùng quyền năng thần linh của mình để tránh sức mạnh ghê gớm của “thân phận con người phải chết”. Người đã khước từ những phương tiện “ngoạn mục” để thi hành xứ vụ của mình, mà chỉ chọn những “phương tiện hạn hẹp”. Chính nhờ thái độ Dâng lời tuyệt đối Chúa Cha, đến nỗi có cảm tưởng bị “Chúa Cha bỏ rơi” (Mt 27,48), mà người chứng tỏ mình là Con Một của Cha. Người sẽ được ‘ “‘cứu khỏi chết” nhờ sự phục sinh của mình, nhưng chỉ sau khi đã sống trọn tình thương “cho đến tận cùng”. Do đó, chúng ta chớ ngạc nhiên khi đến lượt mình cũng cảm thấy cơn cám dỗ bi thảm này: Đó là cơn cám dỗ nặng nhất, khi nghĩ rằng “Chúa bỏ rơi ta”, cám dỗ của khuynh hướng vô thần “nếu có một Thiên Chúa tốt lành, thì tôi đâu có gặp thử thách như vậy! “
Chúa Giêsu đáp lại: Đã có lời rằng: ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.
Chúng ta cũng thường “thử thách Thiên Chúa”. Đôi khi chúng ta buộc Chúa phải theo ý muốn của ta: “Nếu Chúa hiện hữu, nếu con thật là con của Chúa, Chúa phải cho con lành bệnh, hay thoát khỏi một cơn thử thách nào đó hay thành công ở một kỳ thi nào đó. Nếu Chúa không làm như thế, thì Chúa đâu có còn quan tâm tới con nữa, và Chúa đâu còn hiện hữu gì với con”. Chúng ta biết rằng, vấn đề sự dữ trong thế gian là nguyên nhân của phần lớn những cuộc khủng hoảng tâm linh và dẫn đến nhiều trường hợp bỏ Đức tin.
Nhưng chúng ta cũng tin rằng, Đức Giêsu đang “ở cùng chúng ta”. Đức Giêsu là người đầu tiền đã thắng cơn cám dỗ này, và dù có bị “đóng đinh trên cây gỗ”, vẫn một lòng trung thành với Chúa Cha.
Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ.
Như vậy những cơn cám dỗ này, chỉ là khởi đầu. Đức Giêsu sẽ còn bị cám dỗ nữa. Và có thể nói, xatan đã hẹn tại Giêrusalem. Nơi đó sẽ diễn ra trận đụng độ thực sự khi Đức Giêsu bước vào cuộc thương khó (Lc 22,3).
Do Thần trí Thiên Chúa thúc đẩy, Chúa Giêsu đi vào sa mạc. Sự sung mãn tinh thần cùng với việc đối thoại thân mật với Chúa Cha chiếm hữu Ngài mãnh liệt đến độ Ngài không còn tưởng nghĩ đến những nhu cầu vật chất nữa, dường như Ngài xuất thần, sống trong một thế giới khác.
Rồi bốn mươi ngày trong trạng thái xuất thần ấy qua đi, nhường chỗ cho những nhu cầu của con người, khiến Ngài cảm thấy cơn đói mãnh liệt. Tiếp theo ánh sáng từ trên cao là những u ám dưới đất; sau sự tràn đầy Thiên Chúa đến cơn cám dỗ của Satan vây bọc.
Càng là bậc thần bí chiêm niệm, càng là Đấng thánh thiện, thì lại càng hay bị Satan bủa vây, công hãm; những vị sống ở mức độ thánh thiện cao thì đồng thời cũng có nguy cơ liều mình sa xuống vực thẳm. Chúa Giêsu đã được nâng cao hơn ai hết: cho nên không ai bị Satan cám dỗ bằng Ngài.
Đây Ngài sắp bị kẻ địch mở ba mũi dùi tấn công:
Cám dỗ thứ nhất muốn nói đến cách sử dụng sai lầm quyền năng Thiên Chúa để phục vụ cho một lợi ích thế trần. Chúa Giêsu cũng có thể làm giảm cơn đói đang hoành hành nơi bản thân Ngài, điều đó có thể lắm chứ! Thế nhưng Ngài đã trả lời: ‘Người ta sống, không phải chỉ bằng cơm bánh’.
Tinh thần hay cơm bánh, linh hồn hay thân thể, đâu là điều quan trọng đối với Ngài? Từng thứ một luân phiên xuất hiện trước mặt Ngài… Phần đa số nhân loại đều ao ước cả hai, nhưng lại đặt trật tự sai lạc: tiên vàn là những gì liên quan đến thân xác, no nê, tiện nghi đầy đủ, rồi sau đó, hay may mắn lắm là song song với nó, mới đến những yếu tố tinh thần và thiêng liêng.
Hơn nữa, nhiều người còn bị cái chủ hướng chỉ coi trọng vật chất. Những người này hoàn toàn chối bỏ tinh thần và linh hồn. Duy chỉ còn tiện nghi vật chất là cứu cánh cho đời họ: ‘Cơm bánh và vui chơi’. Ngày nay xu hướng đó có một tầm ảnh hưởng đặc biệt, vì coi kinh tế như là động lực mang tính cách quyết định, những cái còn lại chỉ là phụ trội mà thôi.
Ngược lại, Chúa Giêsu xác quyết chỉ tinh thần mới có giá trị tuyệt đối. Bởi vì Thiên Chúa quan trọng hơn thế gian nhiều. Do đó, tiên vàn phải lo tìm kiếm nước của Người và mọi sự khác sẽ đến sau. Trời quan trọng hơn đất, nên kẻ nào chỉ loay hoay với những sự dưới đất là những người vụng về, không biết đâu là chính yếu và đâu là tuỳ phụ. Sự vĩnh cửu đáng giá hơn thời gian, nên kẻ nào liều mạng sống mình để chiếm được những cái chóng qua đời này, thì kể là đã đặt tất cả mọi sự trên một địa bàn sai lạc.
Lời Chúa Giêsu trưng dẫn lấy từ đoạn ở sách Đệ nhị luật, trong đó nói về thứ bánh Thiên Chúa ban cho dân khi còn ở trong sa mạc, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh là Lời Sáng tạo và Thần trí Thiên Chúa trọng hơn bội phần, đáng giá hơn thứ bánh do phép lạ Thiên Chúa làm và càng hơn thứ bánh ta dùng thường ngày gấp ngàn vạn lần.
Chúa Giêsu không chỉ khinh rẻ thân xác và những nhu cầu thể xác. Chúng ta sẽ thấy Ngài chữa lành bệnh tật, làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, phục sinh kẻ chết. Xem đó thì biết Ngài không phải là anh trí thức một chiều, chỉ chu chu chăm chắm vào những điều thiêng liêng sáng láng, Ngài cũng chẳng phải là kẻ ngông cuồng không nhận biết Thiên Chúa. Nhưng Ngài muốn là tinh thần và Lời của Thiên Chúa phải được đặt vào đúng chỗ của nó, bởi vì thân thể chỉ có được ý nghĩa đúng đắn và những nhu cầu vật chất cũng chỉ thoả mãn một cách chính đáng khi tất cả đều diễn tiến theo một trật tự hợp với Thánh ý Thiên Chúa, hợp với luật của Người.
Chúa Giêsu cũng sẽ sử dụng quyền năng lạ lùng của Ngài theo lời, theo ý của Thiên Chúa chứ không theo sở thích của lòng mình, lại càng không theo ý muốn của mình, hay sự thúc đẩy của thân xác. Sứ vụ của Ngài là loan báo Nước Thiên Chúa. Xu hướng coi trọng vật chất vẫn còn xung khắc với Kitô giáo.
Cám dỗ thứ hai liên quan đến sự ham hố quyền hành. Satan chỉ cho Chúa thấy ‘hết các nước thiên hạ’ và nói thêm: ‘Tôi hiến cho Ngài uy quyền đó hết thảy và vinh quang của các nước ấy, vì nó đã được phú thác cho tôi, và tôi muốn hiến cho ai tuỳ ý tôi’. Lời gì mà lạ lùng thế! Tuy nhiên chính Chúa Giêsu đã gọi Satan là ‘Thủ lĩnh thế gian này’. Quyền lực tự nó đâu phải là cái gì xấu xa, nhưng có một chú quỉ quyền thế chỉ lo quyến rũ những kẻ ham danh và mê thống trị. Kẻ đó không còn lo tìm Đấng toàn năng, cũng chẳng tìm Thánh ý Thiên Chúa Tối Cao, Đấng mọi quyền hành đều phải phụng sự Ngài.
Trái lại, họ coi quyền hành của họ là sự thiện tuyệt đối và sử dụng tuỳ theo sở thích của họ. Kiêu ngạo, dương dương tự đắc quá lố như vậy tất sẽ đi đến chỗ lầm đường lạc lối. Sách Khải huyền gọi quyền thế là ‘con mãnh thú vực sâu…’. Nói đúng ra, đối với những người có địa vị, cám dỗ này còn nguy hiểm hơn cám dỗ coi vật chất là số một, dù cám dỗ này cũng đã thật thô bỉ. Cám dỗ về ham quyền được nguỵ trang bằng những dáng vẻ đạo đức bề ngoài, vì nó khuyến khích việc mở rộng nước Chúa nhờ những phương tiện bên ngoài của chính trị, võ khí, tổ chức này tổ chức nọ, tiền bạc… Thậm chí có những việc khởi đầu hoàn toàn với ý hướng ngay thẳng, thế rồi dần dà cũng đi đến chỗ coi trọng quyền thế; tham quyền thì cố vị, và rốt cuộc sa vào mưu mô của ma quỷ.
‘Vậy nếu ông bái xuống lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ là của ông’. Khi bái lạy quyền thế thì người ta cũng thờ lạy Satan. Khi ham quyền và những lợi lộc do đó mà ra, thì người ta đã đang tâm hiến mình làm nô lệ cho quyền thế.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã trả lời: ‘Ngươi phải bái lạy Chúa, Thiên Chúa của ngươi, và chỉ thờ phượng một mình Người’ Đấng Tối Cao là Đấng độc nhất mà mọi sự phải quy phục. Đấng toàn năng là Vị Duy Nhất sở hữu và ban phát quyền năng chính đáng. Mọi thứ quyền hành không phụng sự Thiên Chúa là một sự lạm dụng và phục vụ cho Satan, cho dầu nó có vẻ huy hoàng rực rỡ mấy chăng nữa. Ham quyền quá đáng trao nộp chúng ta vào tay ma quỷ. Nhưng Chúa Giêsu đã đến để thiết lập Nước Thiên Chúa thì đồng thời Ngài cũng phá tan vương quốc của kẻ thù.
Trong cái chết của Chúa Giêsu, quyền lực âm phủ mở tiệc ăn mừng; nhưng trên thực tế, nó đã bị bẻ gãy và tỏ ra mình yếu kém ngay tại đó. Trót cuộc sống Chúa Giêsu là một sự phục vụ Thiên Chúa, chứ không phải phụng sự Satan. ‘Ngươi phải thờ phượng một mình Thiên Chúa’. Kẻ nào thờ lạy bất cứ cái gì khác phải kể là đã phản bội Thiên Chúa.
Cám dỗ thứ ba nói đến việc lạm dụng phép lạ với mục đích thoả mãn tính hiếu kỳ.
Satan đưa Chúa Giêsu, trong Thần trí, lên chóp đỉnh đền thờ. ‘Nếu Ngài là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống’. Chú quỷ còn trưng dẫn Kinh Thánh nữa: ‘Vì Người đã truyền cho các thiên thần gìn giữ ông; và các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp chân vào đá’.
Chúa Giêsu đã khởi đầu cuộc sống công khai của mình trong đơn sơ và ẩn mặt, vì Ngài đã xen lẫn vào đám dân chúng, và những người tội lỗi bên bờ sông Giođan. Giờ đây, cám dỗ có ý muốn làm cho mọi chuyện xảy ra ngược lại: Ngài sẽ làm một phép lạ từ trời trước mặt quần chúng, tỏ ra mình đặc biệt phi thường. Dân chúng đang khát khao được nhìn, được thấy. Họ muốn thấy Ngài xuất hiện trên chín tầng mây chứ không phải như một người trong họ, như bao nhiêu người khác.
Trong lãnh vực tôn giáo, phép lạ vẫn luôn mang theo một sự lôi kéo mới mẻ. Người ta từ chối không muốn phụng sự Thiên Chúa trong những khó khăn của cuộc sống thường nhật và không muốn theo Thánh ý Người trong cuộc sống bình thường. Họ muốn có những chuyện lạ lùng bên ngoài, bên trong cũng được. Nhất là cảm nghiệm trong việc cầu nguyện thần bí.
Những chuyện Đức Mẹ hiện ra. Vị này vị nọ được in năm dấu Thánh, có sức lôi kéo họ đi hành hương bất chấp xa xôi vất vả và họ coi là có giá trị hơn là chấp nhận Lời Chúa và Thánh ý Người bằng niềm tin cùng với tấm lòng đơn sơ chân thành. Thánh ý mà Chúa tỏ bày qua những hy sinh trong chức nghiệp bổn phận trong gia đình, những thánh giá hằng ngày mà ít ai để ý, cũng chẳng ai tỏ vẻ khâm phục.
Chúa Giêsu không coi rẻ phép lạ đâu. Chính Ngài sẽ thực hiện những phép lạ, nhưng không phải để thoả mãn những thèm khát của đại chúng hoặc để cho tôn giáo có tính chất ngoại lệ đặc biệt, một chỉ để vâng phục Thánh ý Thiên Chúa, Cha của Ngài trên trời, và do đó chứng mình rằng mình nhận lãnh sứ vụ từ nơi Chúa Cha. Tất cả những gì ngoài mục đích đó đều được coi là thử thách Cha Ngài, là có ý bắt Thiên Chúa làm những phép lạ không cần thiết, cũng không theo lệnh, chẳng theo ý của Người.
Vì đó, Chúa Giêsu trả lời: ‘Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi’.
Đó là cám dỗ chống lại Thiên Chúa cao trọng, chống lại Thần trí, ý muốn và quyền năng của Người. Chúa Giêsu lướt thắng Satan nhờ Thiên Chúa và phá tan mưu chước bằng cách chạy đến Thiên Chúa. Cũng thế, con người không thể đứng vững trước những cơn thử thách nhờ vào sức riêng của mình được. Đứng giữa Thiên Chúa và ma quỷ, con người chỉ có thể vượt thắng được ma quỷ nhờ sự trợ lực của Thiên Chúa. Không thể có chuyện trung lập hay lẩn tránh. Người ta chỉ có thể xa lánh Satan khi quay hướng về Thiên Chúa, làm như vậy thì người ta cũng xa tránh được mưu chước cám dỗ của Satan.
Bây giờ đây, thời gian chuẩn bị cho cuộc đời công khai của Chúa Giêsu đã chấm dứt. Được Thiên Chúa uỷ phái, nhưng Ngài lại ở giữa loài người. Sinh bởi Thiên Chúa, tuy nhiên cũng là con loài người, Ngài được đầy tràn Thần khí Thiên Chúa và sẽ chiến đấu với Thần trí Satan. Thánh ý Thiên Chúa cũng là lề luật của Ngài, nước Thiên Chúa là bổn phận của Ngài, tất cả những gì thuộc về ma quỷ là thù địch của Ngài. Ngài sẽ xây dựng nước Thiên Chúa và sẽ huỷ diệt vương quốc của Satan.
Sau phần mở đầu uy hùng và bi tráng này, thái độ mâu thuẫn giữa sức lực trên cao và quyền năng dưới thế sắp bắt đầu công cuộc hành động của Ngài trên dân chúng.
Câu hỏi gợi ý:
Suy tư gợi ý:
Đức Giêsu là con người, nên có những nhu cầu tự nhiên về tâm linh, tâm lý và thể lý y như mọi người. Thoả mãn những nhu cầu tự nhiên, tự bản chất, là điều chính đáng, vì chính Thiên Chúa đã dựng nên con người có những nhu cầu tự nhiên đó. Chẳng hạn, về thể chất, ăn khi đói, uống khi khát là điều chính đáng. Về tâm lý, mong được mọi người yêu thương, kính phục cũng là điều chính đáng. Nhưng có những trường hợp thoả mãn những nhu cầu tự nhiên ấy lại trở thành tội lỗi, sai trái, hay ít nhất là làm ta bớt hoàn hảo, kém giá trị. Đó là khi để thoả mãn những nhu cầu tự nhiên ấy, người ta phải lỗi một bổn phận quan trọng hơn, hoặc phải làm một điều trái đạo, đi ngược với lương tâm hay những nguyên tắc đạo đức…
Ma quỷ thường dùng những nhu cầu chính đáng nhất của con người để cám dỗ họ, đưa họ vào con đường tội lỗi. Thật vậy, biết bao người đã vì miếng ăn, vì những nhu cầu rất chính đáng về vật chất hay tinh thần, mà phải bán rẻ lương tâm, chấp nhận làm những điều sai trái hay tội lỗi.
Khi Đức Giêsu đã nhịn đói nhiều ngày, giả như Ngài có làm phép lạ để biến đá thành bánh mà ăn thì tự bản thân việc ấy chẳng có gì là xấu hay sai trái, mà còn là một việc chính đáng nữa. Vì con người có bổn phận phải lo cho sức khoẻ hay bảo vệ mạng sống mình. Nhưng nếu Ngài đã quyết định ăn lại vào một thời điểm nào đó, nhưng chỉ vì đói mà Ngài lại chiều theo cơn cám dỗ để ăn sớm hơn, thì Ngài đã lỗi với chính quyết định của mình. Nếu làm thế, Ngài tỏ ra thiếu tự chủ và chưa phải là người hoàn hảo. Nhưng trong thực tế, Ngài đã không chiều theo cơn cám dỗ.
Nếu phải lựa chọn giữa một điều tốt và một điều xấu, thì sự lựa chọn tương đối dễ dàng, vì sự việc quá rõ ràng. Khi ta mới bắt đầu bước vào đời sống tu thân, ta thường phải lựa chọn kiểu này. Nhưng khi đã tiến triển trên con đường tu thân, nhiều khi ma quỷ cám dỗ ta một cách rất tế nhị. Nó khiến ta phải chọn lựa một trong hai điều tốt, và ta phải cân nhắc để làm điều tốt hơn, có giá trị lớn hơn. Chính cách lựa chọn này chứng tỏ ta yêu mến Thiên Chúa, quí trọng sự thiện tới mức nào. Nếu ta chiều theo cơn cám dỗ chọn cái ít giá trị hơn, cái ít tốt hơn, điều đó chứng tỏ ta thiếu quảng đại và còn nhiều ích kỷ.
Chẳng hạn, có những trường hợp ta phải chọn lựa giữa sự an toàn của bản thân ta với sự an toàn của cả gia đình. Giữa sự tồn tại và phát triển của Giáo Hội ta với sự tồn tại và phát triển của cả đất nước. Giữa hạnh phúc của gia đình ta với hạnh phúc của cả xã hội. Giữa chất lượng với số lượng. Giữa sự sự tốt đẹp có thực bên trong và hình thức giả dối bên ngoài. Giữa ý muốn tốt lành của ta với ý muốn của Thiên Chúa. Giữa việc của Thiên Chúa với chính Thiên Chúa… Tất cả những đối tượng phải lựa chọn đều là điều tốt, nhưng nhiều khi ta không thể chọn cả hai, mà chỉ có thể chọn một trong hai. Chỉ khi ấy, cách lựa chọn của ta mới chứng minh được ta quí trọng cái nào hơn, và ta sẵn sàng hy sinh cái nào cho cái nào. Trước sự lựa chọn này, ta thường bị cám dỗ đặt nặng cái riêng hơn cái chung, bản thân ta hơn cả gia đình, gia đình ta hơn cả xã hội, Giáo Hội ta hơn cả thế giới, cái bên ngoài hơn cái bên trong, số lượng hơn chất lượng, ý riêng ta hơn ý Thiên Chúa…
Rất nhiều khi sự lựa chọn sai lầm của ta trở thành một tội ác. Chẳng hạn có nhiều người đã trở thành phản quốc chỉ vì thương gia đình mình hơn thương cả quốc gia, nên đã hy sinh quyền lợi của cả quốc gia cho quyền lợi của gia đình mình. Có những chức sắc tôn giáo đặt nặng sự phát triển của các giáo hữu trong địa hạt mình hơn cả sự tồn tại và phát triển của cả đất nước. Có những vị lãnh đạo quốc gia coi sự phát triển của đất nước mình trọng hơn sự an nguy của cả thế giới…
Cám dỗ thứ hai của Đức Giêsu là cám dỗ về quyền lực và vinh hoa phú quý. Quyền lực tự bản thân nó là một điều tốt, thậm chí rất cần thiết để phục vụ tha nhân một cách hữu hiệu và qui mô. Tuy nhiên, quyền lực vẫn là con dao hai lưỡi, nó cũng có thể khiến ta hại tha nhân một cách hữu hiệu và trầm trọng hơn. Vinh hoa phú quý tự bản thân cũng là những điều tốt, đáng ao ước, vì nó làm cho đời sống con người hạnh phúc hơn, sống xứng với phẩm giá con người hơn. Thánh Kinh vẫn coi sự giàu sang phú quý là những ơn lành Chúa ban để ân thưởng những người tốt lành (x. Đnl 8,18; 1V 3,13; 2Sb 1,12). Nhưng vinh hoa phú quí có thể làm ta mờ mắt, khiến ta chấp nhận tội ác để đạt nó cho bằng được.
Nếu người ta đạt được quyền lực hay vinh hoa phú quý một cách chính đáng do tài năng và đức độ của mình, thì quyền lực hay vinh hoa phú quý ấy quả là điều tốt lành rất đáng mong ước. Nhưng chính vì nhiều người mong ước nó, nên ma quỷ đã dùng nó làm bẫy để giết linh hồn những ai quá ham nó.
Khi ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu lần thứ hai, nó hứa sẽ ban cho Ngài quyền lực và vinh hoa phú quý, với điều kiện là phải bái lạy, tùng phục nó. Ma quỷ vẫn dùng chiến thuật này đối với những kẻ giầu tham vọng, muốn nắm giữ quyền lực và ham sống giàu sang phú quý, ở ngoài đời cũng như trong Giáo Hội. Nhiều người sẵn sàng bán lương tâm của mình để có địa vị cao sang ngoài xã hội hay trong Giáo Hội. Trong những chế độ độc tài, nhiều chức sắc tôn giáo đã đồng ý thực hiện một yêu cầu nào đó của nhà cầm quyền, bất chấp điều đó đi ngược lại lương tâm mình, để được họ ban cho những điều kiện thăng tiến bản thân, hầu dễ dàng ngoi lên những địa vị cao trong tôn giáo mình. Có khi điều kiện ấy chỉ là chấp nhận im lặng, làm ngơ, bỏ qua, không lên tiếng, không phản ứng gì để kẻ có quyền có thể tự do thao túng, làm hại công ích hay đi ngược lại quyền lợi người dân. Như vậy, rất nhiều khi ma quỷ dùng những khát vọng chính đáng của con người để cám dỗ con người.
Lần cám dỗ thứ nhất và thứ ba, ma quỷ nói với Đức Giêsu: «Nếu ông là Con Thiên Chúa… thì…». Ma quỉ muốn lợi dụng nhu cầu thể hiện hay xác định bản thân mình (affirmation de soi), nhu cầu biểu lộ «cái tôi» của mình để cám dỗ con người. Đây là nhu cầu rất tự nhiên, tốt đẹp và cần thiết để con người vui sống và có hứng thú thăng tiến bản thân, đồng thời làm cho cuộc đời mình có ý nghĩa. Nhưng khi vượt quá giới hạn hợp lý, con người trở thành khoe khoang, kiêu căng, tự mãn, đáng ghét, do muốn đưa «cái tôi» của mình lên và hạ thấp «cái tôi» của người khác xuống. Con người đã từng gây bao tội ác, bao phức tạp, bao đau khổ cho mình và cho người chính vì sa chước cám dỗ về nhu cầu xác định «cái tôi» này. Như vậy, ma quỷ dùng chính nhu cầu tâm lý quan trọng nhất của con người để cám dỗ con người chỉ tập trung vào chính mình hầu xa rời Thiên Chúa và tha nhân.
Để câu một con cá, để nhử một con thú vào bẫy, ta phải chọn mồi đúng với nhu cầu và sở thích của con vật mà ta muốn bẫy. Cũng vậy, để làm ta sa bẫy, ma quỉ cũng dùng chính những gì ta cần, ta ham muốn, thường là những gì rất tốt đẹp, rất có giá trị. Vì thế, chúng ta cần phải cảnh giác với chính những nhu cầu, sở thích của mình, nhất là những tham vọng hay những gì mà ta mong muốn hay ưa thích nhất. Khi ta đặt nặng những nhu cầu, sở thích hay tham vọng của ta hơn thánh ý của Thiên Chúa, hơn những chuẩn mực đạo đức, là ma quỉ sẽ dùng chính những thứ đó để dẫn ta xa rời Thiên Chúa, và dần dà đưa ta vào con đường tội lỗi. Vậy, hãy tỉnh thức và đề phòng!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, khi ma quỷ cám dỗ, nó cũng dùng chính lời Kinh Thánh để làm con lầm tưởng điều nó muốn con làm là điều tốt, là hợp với thánh ý của Cha. Nó luôn luôn dùng điều tốt để nhử con, và dùng những cách nguỵ biện để giải thích lời của Cha, hầu đưa con vào bẫy của nó. Xin giúp con khôn ngoan, tỉnh thức và thêm sức mạnh cho con khi bị cám dỗ. Nhưng cũng cho con nhìn thấy khía cạnh tích cực của cám dỗ. Chính Cha cho phép ma quỉ cám dỗ con trong mức độ con có thể chiến thắng, để con có dịp chứng tỏ và củng cố tình yêu của con đối với Cha và đối với tha nhân
Qua báo chí cũng như qua những câu chuyện thường ngày, chúng ta thấy xã hội loài người đầy dẫy những tội ác và bất công, nào là tham nhũng hối lộ, nào là cướp của giết người, nào là cao bồi du đãng, nào là rượu chè cờ bạc, nào là xì ke ma tuý, nào là ly dị phá thai…
Nếu hỏi tại sao lại có tình trạng bi đát ấy, người ta sẽ không ngần ngại đưa ra những lý do về xã hội, về kinh tế, về giáo dục…Tuy nhiên, có người lại bảo đó là kết quả những việc làm của ma quỷ.
Nghe qua câu trả lời này chúng ta mỉm cười, vì ma quỉ hiện giờ là một cái gì xa lạ đối với não trạng và sự suy tư của con người thời nay. Vậy thì ma quỉ là như thế nào?
Nói tới ma quỉ hay Satan chúng ta liên tưởng tới những hình vẽ, những bức tượng thời Trung cổ, vừa có sừng lại vừa có đuôi, vừa đen đủi lại vừa xấu xa, luôn ám hại chúng ta. Nó có thể dùng một chiếc đũa thần làm cho chúng ta trở nên xinh đẹp, hay biến chúng ta trở thành một nhà triệu phú, miễn là chúng ta bán linh hồn cho nó, miễn là chúng ta thờ lạy nó.
Đối với chúng ta ngày nay, những hình ảnh đó không còn thích hợp nữa. Ma quỉ dần dần mất đi vai trò và sự quan trọng trong cuộc sống. Phải chăng đó cũng là điều nó mong muốn? Chính trong sự lãng quên này mà nó ra tay hành động, làm đảo lộn trật tự và bậc thang giá trị.
Người xưa người ta thường khuyên nhủ:
– Ai không để tâm tới Thiên Chúa, thì ít nữa đừng làm lợi cho ma quỉ.
Thế nhưng, con người thời nay đã thay đổi câu nói trên:
– Ai không để tâm tới ma quỉ thì ít nữa đừng làm lợi cho Thiên Chúa.
Trong Phúc âm thì khác, Chúa Giêsu đã đặt nặng vấn đề ma quỉ, Ngài gọi nó là chủ của trần gian. Hơn thế nữa, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, mặc dù không thể sa ngã, nhưng Ngài đã để cho ma quỉ cám dỗ, nhờ đó Ngài chia sẻ thân phận yếu đưới với con người, và vạch trần chiến thuật tinh vi của ma quỷ.
Cám dỗ thứ nhất, đó là nhu cầu vật chất. Ma quỉ lợi dụng cái đói tự nhiên để cám dỗ Chúa, bởi vì bụng đói thì đầu gối phải bò, có thực mới vực được đạo…Nó cũng hứa “cơm áo gạo tiền” cùng với những tiện nghi vật chất cho chúng ta, để rồi chúng ta quên mất lý tưởng theo đuổi và chối bỏ đức tin của mình.
Cám dỗ thứ hai, đó là lòng thèm muốn vinh quang. Nhiều người dễ dàng rơi vào chiếc bẫy của nó. Vì một chút địa vị, vì một chút quyền bính mà người ta sẽ dễ dàng bán Chúa như Giuđa và chối Chúa như Phêrô,
Cám dỗ thứ ba, đó là tham vọng thống trị. Đối với nhiều người thời nay thì tiền bạc và chức quyền vẫn là những cám dỗ thường xuyên, họ có thể đánh đổi tất cả miễn sao được thoả mãn những ước vọng kể trên.
Còn một điều nữa chúng ta cũng cần phải lưu ý: Ma quỉ thời nay không còn mặc lấy một bộ dạng xấu xa như người ta vốn thường tưởng tượng vào thời Trung cổ. Nhưng có thể là một nhân vật tầm vóc, với một bộ áo quần sang trọng nhưng lại chủ trương một lập trường, một quan điểm thật nguy hại, gây chia rẽ và đổ vỡ.
Có thể là những tác phẩm đồ sộ được in ấn một cách mỹ thuật và đẹp mắt nhưng lại chất chứa những điều khả dĩ làm lung lạc đức tin và hoen ố tâm hồn.
Bổn phận của chúng ta là phải vạch trần bộ mặt của ma quỷ. Bởi vì ma quỉ đang ở giữa chúng ta, ẩn núp dưới những chiêu bài chính trị, dưới những tờ bích chương, dưới những hình ảnh quảng cáo, dưới những chương trình truyền thanh truyền hình gây độc hại cho tâm hồn.
Vì thế, hãy tin tưởng vào Chúa và hãy tỉnh thức để xa tránh những mưu chước của ma quỷ, nhờ đó mà chúng ta mới có thể bảo vệ vẻ trong trắng của tâm hồn.
Lần kia, một vị thầy ước muốn được thoáng nhìn thấy tâm hồn của con người và trắc nghiệm những nhận định của họ về chính bản thân mình. Ông mời ba người đi qua đường vào nhà ông. Quay sang người đầu tiên, ông nói “Giả thử anh nhìn thấy một cái túi đựng đầy những đồng tiền vàng, thì anh sẽ làm gì với cái túi đó?”
Người đàn ông trả lời: “Tôi sẽ trả cái túi đó ngay cho người chủ của nó, tất nhiên là tôi phải biết được ai là chủ nhân”.
Vị thầy kêu lên: “Thật là điên rồ?”. Thế rồi ông đặt cùng một câu hỏi cho người thứ hai.
Người đó đáp “Tôi sẽ không trả lại cái túi đó cho người chủ của nó, mà bỏ ngay vào túi của tôi. Tôi không quá ngu xuẩn đến nỗi để mặc cho thứ của cải từ trời rơi xuống đó trượt khỏi tay tôi như vậy đâu “.
Vị thầy kêu lên: “Đồ vô loại!”. Thế rồi ông đặt cùng một câu hỏi cho người thứ ba.
Người đó đáp “Thưa thầy, làm sao tôi có thể biết được là tôi sẽ làm gì trong trường hợp này? Liệu tôi có khuất phục được khuynh hướng xấu xa chăng? Hoặc sự dữ sẽ nhanh chóng chế ngự tôi, và khiến tôi cứ lấy đi thứ tài sản thuộc về người khác? Tôi không biết nữa. Nhưng nếu có ơn Chúa ban sức mạnh cho tôi chống lại khuynh hướng xấu, thì tôi sẽ trả số tiền đó lại cho người chủ của nó”. Vị thầy kêu lên: “Những lời nói của anh thật là hay. Quả thật anh là một con người khôn ngoan”.
Vị thầy cho rằng người đàn ông đầu tiên là điên rồ. Tại sao? Bởi vì anh ta hoàn toàn thiếu sự nhận biết bản thân mình. Anh ta dám cho rằng mình có đủ sức mạnh, để kháng cự lại chước cám dỗ giữ lại món tiền. Không ai biết chắc chắn rằng mình không thể sa ngã được. Người ta không sa ngã bởi vì yếu đuối, nhưng lại sa ngã là do họ nghĩ rằng mình mạnh mẽ.
Vị thầy gọi người đàn ông thứ hai là hạng vô loại, bởi vì anh ta có ý định giữ lại tài sản không phải thuộc về mình, mà lương tâm không hề day dứt chút nào. Đối với một con người như vậy, chước cám dỗ là một cơ hội để làm cho mình giàu có lên, bằng tài sản của người khác.
Vị thầy khen ngợi người đàn ông thứ ba là một con người vừa tốt bụng, vừa khôn ngoan. Đó là vì anh nhận biết rằng mình yếu đuối giống như tất cả mọi người khác. Anh hy vọng rằng khi đương đầu với chước cám dỗ giữ lại số tiền, thì anh sẽ có sức mạnh để làm được điều đúng đắn. Nhưng anh biết rằng để làm được như vậy, anh cần phải có ơn Chúa giúp, và anh chuẩn bị để tìm kiếm sự giúp đỡ đó.
Tất cả chúng ta đều yếu đuối và dễ sa ngã. Đây có thể là một sự thật gây bối rối, nhưng trong khi liều lĩnh, chúng ta lại không biết đến điều này. Vấn đề lớn trong thời đại của chúng ta là chúng ta đã thất bại trong việc nhận biết chính mình, trong việc nhận ra sự dữ và đối phó với sự dữ ở ngay trong con người mình. Tuy nhiên, khi nhận biết và chấp nhận sự thật thấp hèn này, thì chúng ta có được một niềm an ủi và sự tự do.
Chúng ta phải đấu tranh chống lại sự dữ nơi những người khác và nơi xã hội. Nhưng cuộc đấu tranh gay go nhất là chống lại sự dữ phát xuất từ ngay bên trong con người của chúng ta. Bản chất của chúng ta là có những xung đột nội tâm cứ thúc giục chúng ta, làm cho chúng ta luôn luôn có thể thực hiện được điều tốt lành, nhưng điều đó không bao giờ là dễ dàng cả. Chiến thắng gay go nhất chính là chiến thắng chính bản thân mình.
Chước cám dỗ của Đức Giêsu không phải là đóng kịch, mà là sự thật. Những cám dỗ của Đức Giêsu là những chước cám dỗ của các Kitô hữu thuộc tất cả mọi thời đại: sống chỉ vì vật chất; tìm kiếm vinh quang cho bản thân mình, hơn là vinh quang cho Thiên Chúa; và từ bỏ việc thờ phượng Thiên Chúa, để tôn thờ quyền lực và sự nổi tiếng theo thế gian.
Chiến thắng của Đức Giêsu vượt lên trên Satan không phải là chiến thắng một lần cho tất cả. Người đã chiến thắng một cuộc chiến đấu, chứ không phải là một cuộc chiến tranh. Còn có những lần tấn công khác mà chúng ta cần phải cự tuyệt. Một số người cho rằng mình sẽ đạt được một cấp độ, khi họ vượt ra ngoài chước cám dỗ. Đức Giêsu không bao giờ đạt được một cấp độ, các thánh cũng vậy. Thiên Chúa ở với chúng ta trong những cuộc đấu tranh của chúng ta, giúp đỡ chúng ta chế ngự nó.
Thánh Augustinô nói: “Chính thông qua chước cám dỗ, mà chúng ta nhận biết được bản thân mình. Chúng ta không thể chiến thắng đạt được triều thiên của mình, trừ phi chúng ta vượt qua được chước cám dỗ đó, và chúng ta không thể vượt qua được, trừ phi chúng ta đi vào cuộc chiến đấu, và không có cuộc chiến đấu, trừ phi chúng ta có một kẻ thù và những chước cám dỗ mà kẻ thù đó mang lại.
Một số người cho rằng thật khó mà tin rằng Đức Giêsu có thể bị cám dỗ. Mặc dù có bản chất thần thánh, nhưng Người cũng có một bản chất của con người. Ngoài ra, tự thân chước cám dỗ không phải là một tội lỗi. Có phải ma quỷ đã thực sự hiện ra với Người không? Chúng ta không biết. Điều chính yếu là những chước cám dỗ của Người đều có thật, giống như chúng ta vậy, mặc dù quỉ sứ không hiện ra với chúng ta trong hình dạng của một con người. Nhưng những chước cám dỗ của Người chứa đựng cái gì?
Chước cám dỗ đầu tiên là biến hòn đá thành bánh. Ngoài ý nghĩa rõ rệt, chữ “bánh” có thể mang ý nghĩa là những thứ vật chất nói chung. Ma quỉ đang nói với Đức Giêsu là hãy sử dụng những quyền năng đặc biệt của Người, để mang lại cho con người tất cả những thứ vật chất mà có thể họ mong muốn. Nhưng Đức Giêsu biết rằng tự thân những thứ vật chất đó sẽ không bao giờ thoả mãn được con người. Công việc chính của Người là nuôi dưỡng tâm trí và tấm lòng con người bằng lời của Thiên Chúa. Đây là chước cám dỗ mang lại cho con người những điều họ mong muốn, hơn là những nhu cầu của họ. Chước cám dỗ chính là thoả mãn đám đông, bằng cách cho họ những gì sẽ thoả mãn các mong muốn nhất thời của họ, khi họ không biết điều gì mình thực sự cần đến.
Chúng ta có những nhu cầu và những khát vọng lớn lao hơn. Tâm hồn con người thực sự khát khao cái gì? Chắc hẳn rằng đó không phải là cơm bánh. Cơm bánh là cái mà cơ thể thèm khát. Sau phép lạ ban bánh và cá, ngày hôm sau, dân chúng trở về với mong muốn sao cho có thêm bánh nữa. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối ban thêm bánh cho họ. Người nói “Các ngươi đừng làm việc vì của ăn không thể tồn tại được, nhưng hãy làm việc để tìm kiếm lương thực kéo dài cho đến cuộc sống đời đời”.
Đối với một vị thầy về mặt thiêng liêng, thì tinh thần chiếm vị trí ưu tiên vượt lên trên lương thực của cơ thể. Khi đặt ưu tiên cho những nhu cầu thân xác, điều đó có nghĩa là giảm giá trị con người, là đối xử với họ không hơn gì một con vật. Chúng ta cũng bị cám dỗ chỉ sống cho những thứ vật chất mà thôi. Không phải là chúng ta khước từ đời sống thiêng liêng, nhưng chúng ta bỏ qua đời sống đó.
Chước cám dỗ thứ hai là tạo dựng một vương quốc chính trị, là việc dẫn đến quyền lực hơn là tình yêu. Quyền lực tạo ra một sự thay thế dễ dàng cho công việc khó khăn mà có thể tình yêu đòi buộc. Người ta dễ dàng muốn làm chủ người khác, hơn là yêu thương họ, dễ dàng thống trị người khác, hơn là trở thành người phục vụ họ. Đức Giêsu không đến để cai trị, nhưng để phục vụ. Người không hề nại vào quyền lực thần thánh của Người, nhưng đã tự huỷ mình ra không, và trở thành người tôi tớ đầy yêu thương đối với tất cả mọi người. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ thay thế tình yêu bằng quyền lực.
Chước cám dỗ thứ ba cốt ở việc làm được một điều gì đó kỳ lạ (tự gieo mình xuống khỏi đền thờ), nhằm khơi gợi lòng tin – giống như một ảo thuật gia có thể khơi gợi được lòng tin, qua nghệ thuật làm một số chuyện mang tính cách quảng cáo phô trương. Ý tưởng này nghe thật hấp dẫn. Một kiểu quảng cáo như vậy sẽ làm cho mọi người đồn thổi về Người tại Giêrusalem. Nhưng lối gây giật gân lại đưa đến vinh quang cho bản thân mình, hơn là vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Giêsu khước từ việc gieo mình này. Người không muốn tìm kiếm những kẻ ái mộ mình. Người mong muốn có những kẻ đi theo Người, nghĩa là những kẻ muốn bắt chước lối sống của Người.
Trong suốt sứ vụ của Người, Đức Giêsu đã khước từ việc ban cho dân chúng những kiểu dấu lạ, ngay cả khi người ta ép buộc Người phải làm như vậy. Những loại dấu lạ này không có ích lợi gì cả, không đòi hỏi điều gì tốt đẹp nhất nơi chúng ta, mà chỉ hạ thấp giá trị của lòng tin. Lòng tin không phải là ma thuật. Sự thánh thiện không hệ tại ở việc cố gắng ép buộc Thiên Chúa phải làm theo ý muốn của chúng ta, nhưng là nỗ lực bắt buộc chính bản thân mình phải làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Các chước cám dỗ là đòn tấn công trên tất cả những yếu tố cơ bản đối với sứ vụ của Đức Giêsu. Vâng, Người đến để thiết lập một vương quốc, nhưng không phải là loại vương quốc mà Satan đề nghị. Và Người đã khước từ chước cám dỗ đạt được vương quốc bằng phương tiện trần thế. Cả ba chước cám dỗ cuối cùng đều qui về cùng một điều: đặt những thứ vật chất và vinh quang bản thân lên trước hết, kế đó, mới đến các điều thiêng liêng và Thiên Chúa. Nói chung, đây là những chước cám dỗ chủ yếu trong Giáo Hội của Người, và nơi mỗi người chúng ta là các thành viên trong Giáo Hội. Chúng ta phải luôn hướng mắt về Đấng đã khước từ biến những hòn đá thành bánh, tự gieo mình xuống khỏi nóc Đền thờ, và cai trị bằng quyền lực.
Kinh nghiệm này đã giúp cho Đức Giêsu tự thấu hiểu sứ vụ của Người là gì, và làm thế nào để hoàn tất sứ vụ đó. Và một khi đã biết được sứ vụ của mình là gì, thì Người quyết định hoàn toàn tận hiến cho sứ vụ đó.
Chước cám dỗ không phải là những thứ chỉ xảy ra một lần mà thôi, không bao giờ chúng kết thúc, mà có thể trở lại mỗi khi có cơ hội. Trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, chước cám dỗ vẫn tiếp tục xảy ra, bởi vì ma quỉ vẫn cứ tìm mọi cách để xói mòn sứ vụ của Người, mặc dù là vô hiệu. Ngay cả khi Người đã bị treo trên thánh giá, chúng ta vẫn nghe thấy tiếng vang vọng của chước cám dỗ thứ hai “Nếu ông ta là Đấng Mêsia, thì ông ta hãy xuống khỏi thánh giá, rồi chúng ta sẽ tin ông ấy”.
Tất cả những ai đang đấu tranh để sống một cuộc sống tốt đẹp, đều có thể ghi lòng tạc dạ điều này: Việc chống trả lại chước cám dỗ không hề dễ dàng đối với Đức Giêsu, cũng không dễ dàng đối với chúng ta. Nhưng nơi Đức Giêsu, chúng ta có được một người anh, Đấng biết được rằng chúng ta đang phải chiến đấu với cái gì. Người tha thứ cho chúng ta, và nâng chúng ta lên, khi chúng ta vấp ngã. Người ban cho chúng ta khả năng tuân theo Lời của Thiên Chúa, tin tưởng nơi Người và chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi.
Con người không chỉ sống bằng cơm bánh. Cơm bánh chỉ là một trong những thức ăn chủ yếu của cuộc sống – cuộc sống của thân thể. Để nuôi dưỡng một con người, không giống như vỗ béo một con vật. Cơ thể của chúng ta cần có lương thực. Linh hồn của chúng ta cũng vậy. Linh hồn chúng ta đang khát khao lương thược nuôi dưỡng. Câu chuyện về Elvis Presley minh hoạ hùng hồn cho chân lý này.
Elvis trở nên rất giàu có. Ông ta sở hữu 8 xe hơi, 6 xe máy, 2 máy bay, 16 tivi, một toà lâu đài rộng lớn và nhiều tài khoản ngân hàng. Vượt lên trên tất cả những thứ đó, anh ta còn là thần tượng của nhiều người hâm mộ. Tuy nhiên, anh không hề hạnh phúc. Giữa tất cả sự giàu có và thành công của mình, anh ta đã phải trải qua tình trạng bất ổn về tinh thần, và thường than phiền về nỗi cô đơn, buồn chán.
Anh giãi bày tâm sự với một phóng viên “Tiền bạc gây ra nhiều chuyện nhức đầu”.
Mẹ của anh rất lo lắng cho anh. Không bao giờ bà muốn anh bị những chuyện đó. Bà chỉ đơn giản mong muốn anh trở về nhà, mua một cửa hàng bán vật dụng trong nhà, cưới vợ và có con.
Càng ngày, anh càng trở nên sợ hãi và trầm cảm. Năm lên 22 tuổi, anh nhận thấy là không còn thế giới nào để chinh phục nữa. Tình trạng bất ổn này có thể là một cơ hội. Đây là một lời nhắc nhở rõ ràng rằng “con người không chỉ sống nguyên bằng bánh”, nghĩa là chỉ sống bằng những thứ vật chất mà thôi.
Thông điệp này vang lên lớn tiếng và rõ rệt trong bài Tin Mừng hôm nay. Đây là một thông điệp quan trọng, và có lẽ thích hợp với ngày nay hơn bao giờ hết. Mặc dù chúng ta có thể nhận thấy được lẽ phải của bức thông điệp này, nhưng trên thực tế, thật không dễ dàng thực hiện. Chúng ta không chỉ sống bằng cơm bánh – ít nhất là không, nếu chúng ta mong muốn được sống dồi dào, và hoàn toàn được nuôi dưỡng với tư cách là con người và con cái của Thiên Chúa. Vậy chúng ta còn cần đến điều gì khác nữa. Chúng ta cần đến Lời Chúa.
Bạn hãy thử tưởng tượng cảnh cha mẹ nuôi dưỡng con cái của họ, mà không bao giờ nói một lời nào với con trẻ, không hề hướng dẫn, khích lệ, xác nhận, an ủi. Không bao giờ họ nói một lời để truyền đạt sự bình an và đón nhận, hoặc tình yêu thương và niềm vui. Cơ thể của con trẻ có thể được nuôi dưỡng, nhưng tâm trí và linh hồn của chúng bị trống rỗng. Chúng ta là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta cần được nghe Lời của Người.
Nếu chỉ có cơm bánh, không phải lúc nào cũng sẽ đảm bảo được sự sống còn, ngay cả về mặt thể lý. Thi sĩ Irina Ratushikaya đã sống một thời gian trong nhà tù cộng sản ở Nga (với tư cách là tù nhân chính trị). Bà nói “Nhiều người phụ nữ có nhiều thức ăn hơn tôi, tuy nhiên, họ vẫn bị chết”. Điều gì đã giữ cho bà còn sống được? Chắc hẳn là nhờ đức tin Kitô giáo của bà.
Không phải chỉ có cơ thể con người mới đói khát. Tâm hồn và tinh thần con người cũng biết đói khát nữa. Chúng ta sẽ không được nuôi dưỡng đầy đủ, cho đến khi chúng ta thừa nhận sự đói khát của tâm hồn và tinh thần.
Đức Giêsu thách đố chúng ta hướng tới những nỗi khát khao sâu xa hơn và những nhu cầu lớn lao hơn của chúng ta. Tâm hồn thực sự khát khao điều gì? Thưa rằng tâm hồn khát khao loại lương thực không thể hư nát – Lời Chúa. Lời Chúa có sức mạnh nuôi dưỡng chúng ta. Lời Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng tấm bánh của cuộc sống có ý nghĩa, tấm bánh của niềm hy vọng, và vượt lên trên tất cả, đó là tấm bánh của tình yêu.
Thánh Grêgôriô Giáo Hoàng đã viết như sau: Hết mọi ngày trong năm, lòng đạo đức của người tín hữu được diễn tả bằng nhiều hình thức khác nhau, nhưng không hình thức nào quan trọng cho bằng lễ Phục sinh. Bởi vì chính từ sự Phục sinh mà xuất phát tính cách thánh thiện của các lễ khác. Với tất cả nguồn ân sủng vũ trụ đã nhận được đều do bởi cây thập giá của Chúa. Lẽ cố nhiên đó, mừng ngày lễ Phục sinh và để tham dự vào các mầu nhiệm của Chúa, chúng ta chuẩn bị bằng 40 ngày ăn chay quả là một việc chính đáng. Không riêng gì các Giám mục, linh mục, các phó tế có nhiệm vụ thanh tẩy mình khỏi tội lỗi mà cả toàn thể Giáo Hội. Tất cả mọi người vì là đền thờ của Thiên Chúa phải được tráng lệ trong từng hòn đá huy hoàng, trong từng góc một. Hiểu như thế chúng ta mới ý thức được tính cách nghiêm cẩn và khổ hạnh trong suốt thời gian mùa chay mà chúng ta khai mạc từ thứ tư lễ tro.
Mùa chay là thời kỳ đi bộ, phải vất vả nhọc nhằn mà mục đích là hy sinh chịu khó thanh tẩy để tham dự vào chặng đường khổ nạn của Chúa Kitô. Những hy sinh khổ hạnh trong mùa chay được diễn tả trong hai bài đọc và trong bài Phúc âm của thánh lễ Chúa nhật I Mùa chay. Cuộc đi bộ, cuộc hành trình trong 40 ngày của mùa chay được ví như là cuộc hành trình gian lao đau khổ của dân Do thái trong những năm bị nô lệ bên Ai Cập, bị dân bản xứ hành hạ mạt sát tàn nhẫn.
Trong thời gian nô lệ, dân Do thái đã kêu gào Thiên Chúa nhìn lại số phận đau thương của họ. Quả thật, Chúa đã đến giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập và dẫn vào một xứ sở phồn thịnh, nơi đó sữa và mật ong trôi chảy dồi dào.
Quan điểm trên đây thánh Phaolô trình bày lại theo lối văn linh động của ngài bằng quan niệm đức tin, và thực ra đức tin cũng là một lời cầu khẩn lên Thiên Chúa. Chỉ Ngài mới có quyền năng cứu thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi.
Quan niệm đức tin còn tiếp diễn trong bài Phúc âm của Chúa nhật I Mùa chay được thánh Luca diễn tả: Được tràn đầy Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu từ sông Giocđan trở về, sau đó Chúa Thánh Thần đưa Ngài đến hoang địa, tại đây Chúa bị cám dỗ trong vòng 40 ngày, nghĩa là Chúa bị ma quỉ quấy phá sau khi đã chịu phép rửa của thánh Gioan, tức là sau khi Chúa Giêsu đã được Chúa Cha long trọng tuyên bố: “Đây là Con Ta yêu dấu”.
Satan biết rằng, Chúa Giêsu Con Thiên Chúa có quyền năng có thể thực thi những dấu chỉ lớn lao, do đó Satan đến cám dỗ Chúa hãy hành động theo uy quyền của một vị cứu thế theo nghĩa trần gian oai phong lẫm liệt. Hai lần Satan xúi giục Chúa theo danh nghĩa: “Nếu ông là Con Thiên Chúa…” Các loại cám dỗ ỷ vào uy thế Thiên Chúa này còn theo mãi cho đến ngày Chúa chịu tử nạn. Chúa đã bị treo trên thập giá rồi mà ma quỉ còn dùng miệng dân chúng để thử thách Chúa một lần sau cùng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, là người được Thiên Chúa lựa chọn thì hãy tự cứu mình đi”.
Ma quỉ cám dỗ Chúa đi ra ngoài chương trình của Thiên Chúa Cha đã tiền định. Nó xúi giục Ngài là một vị cứu thế theo quan điểm của một người trần gian được người ta hoan hô, chứ không theo ý định của Thiên Chúa. Do đó mà Chúa Giêsu đã trả lời cho ma quỉ khi Ngài nhắc đến lời Kinh Thánh có chép rằng, hãy minh chứng cho thế giới và toàn thể nhân loại biết sở dĩ Chúa xuống trần gian là để thực thi thánh ý của Thiên Chúa Cha, và sau đó Ngài đã chiến thắng ma quỉ là Ngài đã tin vào lời của Thiên Chúa Cha.
Cơn cám dỗ của Chúa Giêsu cũng là tiêu biểu cho sự cám dỗ ngàn đời của mỗi người Kitô hữu chúng ta trên trần gian này. Ma quỉ xúi giục chúng ta chọn nếp sống tiện nghi, dễ dàng thực thi những gì theo ý muốn riêng tư của mình, chứ không phải sống theo lề luật là thực thi thánh ý của Thiên Chúa.
Trong mùa chay này, chúng ta có nhiệm vụ thanh luyện chính mình để xứng đáng được tham dự vào các mầu nhiệm của Chúa Phục sinh. Xin Chúa hướng dẫn chúng ta trong cuộc hành trình biến đổi này.
Cách đây vài năm, ngay tại giữa thủ đô Paris của nước Pháp, xuất hiện một Đan viện dòng Trapis, một dòng tu có nếp sống khắc khổ nghiêm ngặt. Người ta không khỏi ngạc nhiên tự hỏi: Tại sao một dòng tu vốn có truyền thống rất lâu đời lại chọn những địa điểm xa cách thành thị để lập những Đan viện, nhờ đó các Đan sĩ hưởng được bầu khí thanh tịnh thoát tục, nối tiếp tinh thần của các ẩn sĩ ngày xưa trong sa mạc hoặc trong rừng vắng, nay lại hiện diện giữa chốn đô thị rực rỡ ánh sáng văn minh, sôi động nhịp sống chính trị, kinh tế và văn hoá này? Phải chăng dòng tu nay đã thay đổi đường hướng cho hợp thời, hợp hoàn cảnh?
Vị viện phụ của Đan viện nói trên đã trả lời như sau:
Dòng vẫn trung thành với truyền thống đan tu và thoát tục của mình trong việc lập một Đan viện ngay giữa chốn phồn hoa đô hội này, bởi vì tại những địa điểm ồn ào, náo nhiệt như vậy chúng tôi khám phá ra một bộ mặt mới của hoang mạc, của rừng rú, của thử thách để nêu một chứng từ, để cất lên một tiếng kêu thức tỉnh.
Nếu như ngày nay Đức Giêsu cần một hoang địa để chay tịnh, cầu nguyện và chịu thử thách, Người có lẽ không phải nhọc công đi đâu xa, nhưng có thể đến bất kỳ một trung tâm thành phố nào trong xã hội cực kỳ văn minh tiến bộ của thời đại chúng ta. Bởi lẽ theo truyền thống Thánh Kinh, hoang địa là địa điểm của thử thách, của sàng lọc, thanh luyện như dân Israel xưa phải vượt qua hoang địa trước khi được vào đất hứa.
Phải chăng xã hội hiện đại của chúng ta hôm nay lại không đầy dẫy tình chất thách đố cam go, sàng lọc và thanh luyện dữ dội như bất kỳ một hoang địa nào thời xưa. Đây là nơi chạm trán của tứ chiếng anh hùng, của đủ mọi bộ mặt, mọi tâm dạ, mọi thủ thuật, mọi mánh lới, mọi chiêu bài, mọi chủ nghĩa, mọi ý thức hệ, mọi thiên thần và mọi gã quỉ ma vương. Đây là nơi vàng thau lẫn lộn, chân tình và dối trá, trung nghĩa và dua nịnh, can trường và hèn nhát, ánh sáng và bóng tối, thánh thiện và tội lỗi, yêu thương và thù hận.
Cũng theo truyền thống Thánh Kinh, hoang địa là thế giới của thú dữ, của rắn rết, bọ cạp, là vùng đất chết nơi con người không thể sinh sống, tồn tại. Phải chăng thế giới văn minh hiện nay của chúng ta lại không đầy dẫy những loài thú ăn thịt người, những loài giống rắn hổ mang, những dòng bọ cạp hiểm độc nguỵ trang dưới bộ mặt con người xinh đẹp, sang trọng, học thức, đạo đức, nhân nghĩa? Phải chăng xã hội thừa mứa tiện nghi vật chất của chúng ta hiện nay lại không là một vùng đất chết khi không còn tình người, không còn trái tim trắc ẩn, không còn lòng nhân ái vị tha, không còn tình cảm chia sẻ đùm bọc mà chỉ toàn là lợi dụng, trao đổi, mua bán, vụ lợi, thực dụng, lạnh lùng và sơ cứng?
Phải chăng xã hội văn minh phồn hoa đô hội của chúng ta hiện nay lại không phải là một bãi tha ma khi mà mọi giá trị tinh thần, mọi truyền thống đạo đức đều bị chôn vùi dưới nấm mồ của chủ nghĩa sùng bái vật chất, chủ nghĩa thụ hưởng, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vô thần?
Phải chăng xã hội vốn tự hào là đỉnh cao trí tuệ, với khoa học kỹ thuật hùng hậu lại không đang biến thành cõi rừng rú nơi bạo lực được cổ xuý, hận thù được cấp dưỡng, hành vi sát nhân được trả lương, tuyên dương, dù nạn nhân là những trẻ em vô tội, những bào thai chưa kịp nhìn thấy mặt cha mẹ, nơi người nghèo bị khinh miệt, người già yếu tật nguyền bị bạc đãi lãng quên, người thiểu số bị tước bỏ quyền lợi về kinh tế, chính trị?
Nếu như ngày nay Đức Giêsu bước vào hoang địa mới của xã hội loài người hiện đại để bắt đầu cuộc tịnh chay và cầu nguyện, Người có lẽ sẽ không còn gặp những thử thách quá đơn giản và kinh điển về thói mê ăn, tính háo danh và lòng tham lam của cải, thay vào đó Người có lẽ phải đối đầu với trăm ngàn tình huống, trường phái phức tạp tinh vi hơn nhiều. Đó là vấn đề miếng cơm manh áo hằng ngày giữa một thị trường kinh tế toàn cầu hoá, không có đất sống cho tôm tép, cho con sâu chú kiến, mà chỉ có hạng kình ngư cá mập, hùm beo làm mưa làm gió. Đó là nỗi cám dỗ khó chống cưỡng, muốn làm giàu cách nào dễ dãi nhất, ít vất vả nhất, nhanh chóng nhất, dù có thể là vô luân nhất, dơ bẩn nhất như buôn lậu vũ khí, ma tuý, buôn người và rửa tiền.
Có thể trong bối cảnh hoang địa đời mới này, Đức Giêsu sẽ phải dấn thân vào một cuộc chiến đấu cam go và phức tạp gấp trăm ngàn lần hơn và cũng sẽ kéo dài trăm ngàn lần hơn. Có thể Đức Giêsu sẽ phải chật vật trăm ngàn lần hơn khi đối đầu với một Satan trong một bối cảnh xã hội văn minh, kỹ thuật cao, tinh xảo cực kỳ hôm nay. Và có thể Người sẽ phải cô đơn một mình chống lại Maphia trăm ngàn lần bi đát hơn, vì không dễ tìm ra ai đó trong cõi hoang mạc rừng rú của xã hội hôm nay để đóng vai thiên thần đến động viên tiếp sức thêm cho Người.
Rồi có thể trong cuộc chiến với Satan thời đại khoa học điện tử hôm nay, Đức Giêsu sẽ không còn một giây phút rảnh rang để thở, để cầu nguyện, để thân thưa cùng Thiên Chúa Cha, để nhớ lấy một câu Kinh Thánh mà củng cố đức tin cho mình, vì ma quỉ không còn nghỉ giữa hiệp đấu để chờ đợi cuộc tấn công khác như xưa nữa, mà tranh thủ liên tục cả ngày lẫn đêm, luôn cả dịp hưu lễ.
Có thể trong cuộc chiến đấu này, cuối cùng rồi Đức Giêsu sẽ chiến thắng Satan như Người đã từng chiến thắng và sẽ mãi mãi chiến thắng, song còn những kẻ muốn thực sự theo bước Người vào cuộc chiến đó trong bối cảnh của thế giới, của xã hội hôm nay thì chiến thắng vẫn còn là một ẩn số, một thách đố. Vì thế, chúng ta cần phải giữ vững niềm tin của mình vào Chúa Kitô mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin qua kinh tin kính.
Đoạn Tin Mừng kể việc Chúa Giêsu bị cám dỗ và chiến thắng Satan. Giáo Hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng này để mời gọi chúng ta nhìn ngắm hình ảnh Chúa Giêsu như kiểu mẫu và bảo đảm cho chúng ta trong cuộc chiến đấu với Satan và những cám dỗ của nó.
Chiến thuật hay phương thế ma quỉ sử dụng để lôi kéo, xúi giục, thúc đẩy người ta phạm tội là cám dỗ. Chúng không kiêng nể ai hay không buông tha ai, vì thế không ai thoát khỏi cám dỗ của chúng. Bản chất của cơn cám dỗ là sự quyến rũ. Bất cứ cơn cám dỗ nào cũng đều mang một bộ mặt quyến rũ giả tạo, một sự hứa hẹn hão huyền, và một vị ngọt ngào lừa phỉnh. Thế nhưng những tính cách giả tạo, hão huyền và lừa phỉnh đã được che đậy tài tình bởi bàn tay bậc thầy là ma quỉ và cơn cám dỗ vẫn thành công như lần đầu nó đã thành công.
Thực vậy, ma quỷ đã thành công khi cám dỗ ông bà nguyên tổ bằng trái cấm. Trái cấm bao gồm nhiều vẻ quyến rũ: cung cấp cho thị giác một hình ảnh mê hoặc, tuyệt diệu, cung cấp cho thính giác những lời bảo đảm, thoả mãn, cung cấp cho khứu giác mùi vị mời mọc, quyến rũ, cung cấp cho xúc giác sự êm dịu, thích thú, nhất là khi đã biết và có trái cấm trong tay, rồi khi đưa lên ăn, lại có thêm sự tham gia và đồng tình của vị giác. Đến lúc này thì cái bẫy sập xuống, bộ mặt thật của cơn cám dỗ lộ ra nguyên hình và con người đã mở mắt nhìn ra sự thật.
Điều đáng buồn là qua cái nhìn ấy, con người nhận ra chính mình lại là nạn nhân tự nguyện, mình đã ngã vì chính sự yếu đuối cũng như sự dại dột của mình. Ông Richard Wumbrand đã diễn tả điều này rất đúng bằng hình ảnh như sau: chúng ta như những cô gái vừa đến độ xuân thì. Người yêu cô thật lòng, muốn chia sẻ cuộc đời với cô và kẻ sở khanh lừa phỉnh, chỉ muốn qua đêm để hại đời cô, cùng dùng chung một ngôn ngữ, cùng chia chung một động từ, đó là “Anh yêu em”. Nếu chỉ để ý đến những cái hào nhoáng bên ngoài hay những lời nói ngon ngọt và không có sự tỉnh táo cần thiết để phân biệt thì chắc chắn thảm hoạ sẽ xảy đến.
Đàng khác, bên cạnh sự lừa đảo tinh vi của cơn cám dỗ và sự khôn ngoan quỉ quyệt của kẻ đứng sau cơn cám dỗ ấy, phải kể đến sự áo tưởng và vụng dại của con người. Chơi dao có ngày đứt tay; đùa với lửa có ngày gây nên hoả hoạn. Con người biết đó là những bài học và đã có biết bao nhiêu thí dụ “xương máu” để chứng minh. Thế nhưng vẫn còn không ít người sa lầy ngay trên bánh xe của người đi trước. Biết rõ đó là trái cấm, biết rõ đó là ma tuý, biết rõ đó là cơn cám dỗ, thế mà vẫn liều lĩnh mon men đến gần, hay chần chừ vì ảo tưởng: không sao đâu. Vì thế các nhà đạo đức cho rằng: tránh xa những dịp tội là tốt nhất, và nếu có phải giáp mặt thì không nên trao đổi hay thoả hiệp gì cả.
Ma quỉ biết rất rõ những gì chúng ta cần, chúng ta thích, chúng ta ham mê, nếu không tỉnh táo, chắc chắn chúng ta sẽ bị sa bẫy cám dỗ của chúng vì chính những nhu cầu và sở thích của mình. Tương tự như khi chúng ta muốn bẫy một con vật, chúng ta phải tìm hiểu xem con vật cần gì, muốn gì, thích gì, tìm gì. Sau đó chúng ta đặt thứ mồi đó vào bẫy, và con vật nào dại dột sẽ sa bẫy. Nếu chúng ta không biết con vật cần gì, thích gì thì chúng ta sẽ không thể bẫy được con vật ấy vì đã để vào bẫy những thứ không thích hợp. Chẳng hạn như khi câu cá, nếu chúng ta không biết rằng cá thích ăn giun hay trùng mà cứ để vào lưỡi câu thịt bò hay thức ăn khác thì rất ít khi câu được cá. Vì vậy, để đề phòng cám dỗ, chúng ta nên đề phòng chính những nhu cầu và ham muốn của chúng ta. Những người nào giảm thiểu nhu cầu của mình tới mức tối đa và tập luyện không ham muốn ước vọng nhu cầu gì cả thì ít khi bị cám dỗ, và nếu có bị cám dỗ thì cũng thắng được dễ dàng.
Chúng ta thấy ma quỷ đã lợi dụng ngay nhu cầu căn bản nhất của con người là ăn uống để cám dỗ Chúa Giêsu. Ngài nhịn ăn đã 40 ngày, nên nhu cầu ăn uống lúc đó thật là khẩn thiết và chính đáng. Nhưng Chúa đã làm chủ được nhu cầu thể xác và không sa chước cám dỗ. Tiếp đến, ma quỉ nhằm vào những gì mà tất cả mọi người đều ham muốn, thậm chí đam mê, đó là sự giàu sang, quyền bính, địa vị, danh vọng. Hễ đã là người thì ai cũng thích cái tôi của mình được đề cao, được tôn vinh, được triển nở, được thăng tiến. Rất nhiều người đã nhượng bộ ma quỉ để có một đời sống dễ dãi, giàu có, sang trọng, uy quyền. Nhưng Chúa Giêsu đã không để những ham muốn đó làm chủ, nên đã không sa bẫy của chúng. Rồi ma quỉ lại nhằm vào khuynh hướng thích khoe khoang, nhất là sự khoe khoang đó lại không đúng sự thật. Nhiều khi chỉ cần một câu nói thách thức hay chạm tự ái là người ta làm theo thách thức đó. Một số bạn trẻ rơi vào xì ke, ma tuý cũng chỉ vì một lời thách thức hay khiêu khích gì đó. Đối với Chúa Giêsu, Ngài đã làm chủ tính khoe khoang. Ngài không bị mắc bẫy.
Có thể nói ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về việc cám dỗ. Chúng ta đã bị cám dỗ nhiều lần. Có lần chúng ta đã vượt qua được, và nhiều lần chúng ta đã bị vấp ngã. Đó chính là thân phận của con người yếu hèn và bất toàn. Vì vậy điều quan trọng là chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác trước những quyến rũ, hấp dẫn của cám dỗ. Không nên quá tự tin vào khả năng của mình mà không cầu nguyện cùng Chúa. Mỗi khi bị cám dỗ chúng ta càng phải cầu nguyện nhiều để xin ơn Chúa trợ giúp. Và nếu chẳng may vấp ngã, chúng ta phải năn năn sám hối ngay.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Phụng vụ Giáo hội đã bước vào Mùa Chay Thánh. Mùa Chay trải dài 40 ngày.
Thời gian này nhắc lại 40 năm của dân Israel trong sa mạc trước khi đến Đất Hứa, 40 ngày ngôn sứ Êlia ở trên núi Horeb, 40 ngày Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện trong hoang địa. Thời gian 40 ngày là con số tượng trưng nói lên thời gian thử thách và thanh luyện. Trên con đường về Nước Trời, chúng ta trải qua những thử thách và thanh luyện. Thời gian 40 ngày chay tịnh thật quí giá để mỗi người nhìn lại bản thân, đánh giá lại chính mình để sám hối canh tân.
Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan.
Làm người ở đời là chấp nhận thân phận chịu cám dỗ. Thánh Kinh đã ghi nhận, từ buổi đầu sáng tạo đã có cám dỗ. Thụ tạo đầu tiên trong hàng các thiên thần đối diện với cám dỗ là Lucifer, một thiên thần sáng láng đã không vượt qua được cơn cám dỗ, và đã trở thành Satan tăm tối. Tiếp đến, thụ tạo đầu tiên trong con người là Adong và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ. Nguyên Tổ đã gục ngã trước cám dỗ cho nên đau khổ sự chết đã tràn vào thế gian.Trong hành trình về Đất Hứa, dân Israel đi trong sa mạc và đã gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn; cám dỗ thờ tượng con bê vàng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa. Vua Đavit sa ngã trước cám dỗ sắc dục nên đã phạm tội cướp vợ của Uria và đã giết chết người anh em này. Giuđa Iscariốt chỉ vì tham tiền nên đã phản bội Thầy và bán Thầy giá 30 đồng bạc bằng nụ hôn giả dối…Các chước cám dỗ của Satan đều chung quy về ba mục tiêu: danh, lợi, thú.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã quả quyết: “Trên đời này không ai mà không bị cám dỗ”. Người Việt Nam cũng thường nói “Con người ta, già cái lợi cái răng, nhưng ba cái lăng nhăng không già”. Như vậy cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống cự.
Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ của Satan bằng quyền năng Thánh Thần, bằng sức mạnh Lời Chúa, bằng đời sống chay tịnh cầu nguyện và luôn tín thác vào Chúa Cha.
Cả ba Phúc Âm đều đề cập đến một chi tiết rất thú vị, đó là Chúa Giêsu không đi vào hoang địa một mình mà đi cùng với Chúa Thánh Thần.
– “Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ” (Mt 4,1)
– “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).
– “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1-2).
Thánh Thần hướng dẫn Chúa Giêsu vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Đây là một hành động hết sức khó hiểu và nghịch lý. Vì Thánh Thần sao lại có thể làm như thế cho Chúa Giêsu? Thế nhưng, cũng qua việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ, mỗi khi chúng ta bị ma quỷ cám dỗ cũng có thể nói được là “Thánh Thần đã dẫn chúng ta đến chỗ để bị cám dỗ”, để qua đó, chúng ta có thể tránh khỏi sa chước cám dỗ.
Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Người đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Lời của Thiên Chúa để đối đáp với ma quỷ và đã chiến thắng.
Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của Satan, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta.
Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; LGTC #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với Các Thánh trên trời.Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chính Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).
Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi. Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma qủy đưa ra một chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:
– Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)
– Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)
– Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).
“Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ”. Satan tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại tiếp tục tấn công. Có lần, Satan dùng miệng lưỡi của Phêrô để cám dỗ Chúa đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn. Chúa quay lại quát nạt: “Satan, hãy lui ra đằng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm”. Thời cơ quỷ chờ đợi chính là lúc Chúa Giêsu trải qua cuộc Khổ Nạn. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi “mồ hôi đổ ra như máu”. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: ” Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha ” (Mt 26, 39b); ” Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha ” (Mt 26, 42b). Cao điểm là khi Chúa bị treo trên thập giá, Satan dùng miệng lưỡi kẻ qua người lại để cám dỗ Chúa xuống khỏi thập giá: “Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi để chúng ta thấy và tin”. Trong suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám dỗ. Người thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là con người nên “Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta” (Dt 4,15). Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả. Không một cám dỗ, không một thách thức nào có thể khiến Người lùi bước.
Chuá Giêsu đã từng căn dặn các Tông Đồ: “Hãy tỉnh thức”. Tỉnh thức để nhận ra mưu mô của ma quỷ, tỉnh thức trước những lôi cuốn của thế gian, tỉnh thức trước những yếu đuối của con người xác thịt.
Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các tệ nạn, có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng khẩn thiết: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Cơn cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và trường kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống hẹp hòi, thiển cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ biết thu vén lợi ích cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.
Để tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa.
Sau khi chịu phép Rửa Tội để trở nên một Kitô hữu, chúng ta dấn thân vào đời với nhiều thử thách của niềm tin, phải chịu nhiều cám dỗ của phận người lữ thứ. Nếu chúng ta tin rằng “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt 3,6) thì hãy vững tâm và tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ không bao giờ xa rời chúng ta đâu! Điều quan trọng là chúng ta có thành tâm để cầu xin và nhờ cậy Ngài, hay là không thôi!
Hãy tin tưởng và trông cậy vào Chúa Thánh Thần. Bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần luôn trao ban cho người: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nhận thức, ơn chỉ bảo, ơn dũng mạnh, ơn thánh thiện và ơn kính sợ Thiên Chúa. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Ngài, nhờ đó “Hoa trái của Thần Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23) sẽ tràn đầy trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.
Việc gặp gỡ Chúa Thánh Thần rất dễ dàng. Chỉ cần hồi tâm lại, ý thức Ngài đang hiện diện ngay trong bản thân mình, và muốn được tan hòa vào trong Ngài. Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Ngài sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Ngài sẽ ban thêm sức mạnh. Ngài sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Ngài sẽ đổ tràn vào hồn chúng ta nguồn sống mới giúp chúng ta chiến thắng mọi cám dỗ và hăng hái lên đường.
Thánh Phaolô cảm nghiệm sâu xa ơn ban của Thánh Thần và đã khuyên nhủ: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24); “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5); “Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2Tm 1,7).
Chúa Giêsu đã dùng lời Thánh Kinh để thắng Satan. Muốn vượt thắng mọi cám dỗ, chúng ta phải yêu mến Lời Chúa, đọc Lời Chúa và sống Lời Chúa. Sứ điệp Đại Hội Dân Chúa năm 2010 mời gọi: “Hội Thánh tại Việt Nam sẽ đẩy mạnh việc phổ biến và học hỏi Lời Chúa bằng những phương thế khác nhau, để Lời Chúa thực sự trở thành của ăn nuôi dưỡng tâm hồn, kim chỉ nam và ánh sáng soi dẫn mọi quyết định và chọn lựa của các tín hữu” (Số 3).
Mùa Chay là thời gian đặc biệt để ngưới tín hữu xét mình, để sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và ơn soi sáng của Chúa Thánh Linh theo gương Chúa Giêsu, nhờ đó mà sống đẹp lòng Thiên Chúa mỗi ngày.
Thánh lễ hôm nay các con thấy có gì đặc biệt nào? Phải rồi, cha mặc lễ phục màu tím, thầy cũng đeo dây tím, các bạn lễ sinh cũng mang khăn tím. Vậy là chúng ta đã vào một mùa phụng vụ mới, mùa gì nào? Đúng rồi, mùa chay. Hôm nay là Chúa nhật I mùa chay. Mùa chay là thời gian thuận tiện để chúng ta theo gương Đức Kitô tập luyện chiến đấu chống lại ma quỉ. Bài Tin Mừng hôm nay cho biết Chúa Giêsu ba lần bị ma quỉ cám dỗ và cả ba lần Ngài đã chiến thắng thật vẻ vang.
Lần thứ nhất, sau khi Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện, không ăn gì cả suốt 40 ngày, Ngài đói meo, lúc đó ma quỉ tới cám dỗ Ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho hòn đá này biến thành bánh đi”. Ma quỉ muốn Ngài dùng quyền phép để dễ dãi thoả mãn cơn đói của riêng mình, chẳng cần phải vất vả làm việc. Chúa Giêsu phản công làm sao? Người đã dùng một câu trong sách thánh: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.
Lần thứ hai, quỉ cho Chúa Giêsu thấy tất cả các nước trên thế gian, mọi thú vui và giàu sang, rồi nó dám lếu láo nói với Chúa: “Nếu ông thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị các nước đó”. Sức mấy mà Chúa Giêsu chịu thờ lạy nó, Người quả quyết: “Ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa và chỉ phụng thờ một mình Người”. Đây cũng lại là một câu trích trong sách thánh.
Lần thứ ba, quỉ đưa Chúa Giêsu lên nóc đền thờ Giêrusalem, nó dụ dỗ Chúa Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống đi… vì Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ ông”. Ma quỉ cám dỗ Chúa Giêsu thử thách Thiên Chúa, đồng thời biểu diễn phép lạ để mọi người thấy phải lác mắt thán phục. Chúa Giêsu mắng nó: “Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa của ngươi”. Lại một lần nữa Người chiến thắng ma quỉ bằng một câu trích trong sách thánh. Cả ba lần ma quỉ đều thua, thế là chúng phải rút lui.
Các con thấy đó, Chúa Giêsu mà còn bị ma quỉ cám dỗ huống hồ gì là chúng ta. Mọi người chúng ta đều bị ma quỉ cám dỗ. Các con bị cám dỗ, thầy cũng bị cám dỗ và chính cha mẹ các con cũng bị cám dỗ nữa.
Vậy theo các con cám dỗ là gì? À giỏi lắm, các con có thể hiểu nôm Ngài như thế: cám dỗ là những lời rủ rê chúng ta làm điều xấu, xúi giục chúng ta phạm tội. Thế thì ma quỉ cám dỗ chúng ta bằng cách nào? Phải chăng nó hiện ra thành một thằng quỉ đen thùi lùi, có đuôi dài, trên đầu có hai cái sừng để cám dỗ chúng ta? Không đâu! Trước hết nó có thể cám dỗ chúng ta qua những người khác. Đó có thể là những bạn xấu, khi họ rủ rê ta làm điều sai trái. Đó cũng có thể là những người xấu khi họ muốn lợi dụng chúng ta, làm hại chúng ta. Thầy nghe nói, có những bọn xấu, chúng đến tận các cổng trường, cho các em học sinh tiền bạc bánh kẹo, dụ dỗ các em học sinh hút thuốc hay dùng thuốc gây nghiện để rồi biến những em học sinh thành những kẻ nghiện ma tuý, phải mua hàng của chúng. Trong những trường hợp như thế này, các con phải làm sao? Phải chạy à? Đúng rồi, khi có người đề nghị các con điều gì các con không biết đúng hay sai, các con hãy chạy ngay lại thầy cô, cha mẹ để hỏi xem có được làm như thế hay không. Bọn xấu nghe nói các con đi hỏi cha mẹ thầy cô thì nó lỉnh đi liền.
Ngoài ra ma quỉ cũng có thể trực tiếp cám dỗ chúng con, nó bỏ nhỏ vào tai chúng con, nó xúi giục trong tâm trí chúng con, nên chúng con rất khó nhận ra chúng. Chẳng hạn bạn Rong, trên đường đi lễ, ngang qua chỗ trò chơi điện tử, ma quỉ nói nhỏ vào tai: còn sớm mà, vào đây coi một tí rồi ra ngay. Thế rồi Rong bước vào, nó lại rủ rê: chơi 15 phút thôi. Rong mê mải chơi và quên mất thời gian, thế là không đi lễ. Về nhà má hỏi đi đâu về trễ. Nghe ma quỉ xúi giục Rong lại nói dối má: con đi lễ và học giáo lý mới về.
Các con thấy đó, ma quỉ rất xảo trá, khi cám dỗ bao giờ ma quỉ cũng bày ra những hình ảnh hay đưa ra những lời dụ dỗ thật hấp dẫn, làm cho ta khoái, làm cho ta thích. Hơn thế nữa, ma quỉ rất lì lợm, cám dỗ một lần không được nó sẽ trở lại cám dỗ cách khác, cám dỗ nữa, cám dỗ hoài, cho đến khi ta chiều theo ý nó. Nó cũng lại rất ranh ma, quỉ quyệt chẳng bao giờ nó cám dỗ các con phạm tội nặng ngay, nhưng ban đầu nó xúi hãy bỏ qua việc này việc nọ, hay nó chỉ xúi phạm những tội nhẹ, một khi phạm tội nhẹ quen rồi, nó sẽ cám dỗ ta phạm tội nặng mấy hồi. Thế nên, các con đừng bao giờ dại dột nghe lời dụ dỗ của nó mà phạm tội, dù là phạm tội nhẹ, đừng giống như chú vịt trời trong câu chuyện sau đây:
Có một đàn vịt trời bay về phương nam để trú đông. Vào một buổi chiều cả đàn đáp xuống một nông trại, thấy vịt nhà đang ăn bắp, chúng ùa theo vào ăn ké. Hôm sau chúng lại tiếp tục cuộc hành trình. Thế nhưng có một chú vịt con, vì được một bữa ăn ngon nên không muốn bay theo đàn, nó tự nhủ để mai mốt bay theo cũng chưa muộn. Thế rồi, ngày qua ngày, chú vẫn ở lì với đàn vịt nhà để được ăn ngon mà chẳng phải vất vả gì. Mùa xuân về, đàn vịt trời bay qua. Các bạn cũ kêu gọi nó: “Hãy theo chúng tôi. Được bay lượn trên bầu trời rộng lớn, được chu du khắp mọi nơi, thích lắm!” Chú vịt trời ráng sức đập cánh bay lên, thế nhưng, những bữa ăn no nê làm nó mập ú, và đôi cánh lâu nay không bay trở nên yếu ớt nên nó chỉ bay là đà đến ngọn cây rồi té cái bịch xuống đất, nó không bay theo đàn được nữa. Thế là dần dần quen đi, nó cam lòng sống lẹt bẹt dưới đất với lũ vịt nhà.
Trở lại trường hợp bạn Rong trên kia, nếu Rong không chịu sửa lỗi, cứ nói dối mà trốn học, trốn lễ để chơi điện tử, rồi sẽ đến một ngày khi không có tiền, ma quỉ xúi giục ăn cắp của má một ít, của ba một ít, ngày này qua ngày khác… Thế là ăn cắp quen tay, lớn lên Rong có thể ăn cắp nhiều hơn, rồi đi ăn trộm, ăn cướp…
Các con thấy đó, kẻ thù của chúng ta đúng là lũ ranh ma quỉ quyệt, vậy làm sao chúng ta chống lại được chúng? Tuy ma quỉ gian tà giảo quyệt, nhưng chúng ta không sợ ma quỉ. Chúng con biết tại sao không? Tại vì chúng ta có Chúa. Chúa mạnh hơn ma quỉ, Chúa giỏi hơn ma quỉ. Có Chúa ở phe ta thì ma quỉ không làm gì chúng ta được. Vậy muốn thắng được ma quỉ các con phải có Chúa Giêsu và phải trang bị khí giới của Chúa Giêsu. Khí giới của Chúa Giêsu là gì? Đó là cầu nguyện, ăn chay hãm mình, đó là Lời Chúa trong sách thánh. Vậy muốn sắm cho được khí giới của Chúa Giêsu, trước hết các con hãy siêng năng sớm tối đọc kinh cầu nguyện; biết hy sinh hãm mình, nghĩa là biết chăm làm, chăm học, không làm biếng. Thứ đến là phải chăm chỉ học giáo lý, trong thánh lễ thì chăm chú nghe giảng để được biết về Chúa biết về những điều Ngài dạy. Để có Chúa thì phải làm sao? Phải năng lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích giải tội và Thánh Thể. Mỗi khi tham dự thánh lễ, lãnh nhận Mình Thánh Chúa là các con được lãnh nhận chính Chúa Giêsu, chính Ngài chiến đấu trong các con, tiếp thêm sức mạnh cho các con. Ước chi trong mùa chay này, các con biết luôn tin tưởng bám chặt vào Chúa, được vậy ma quỉ sẽ chẳng thể làm gì hại các con, bởi vì Chúa sẽ luôn trợ giúp và bảo vệ các con như lời Kinh Thánh mà thánh Phaolô lập lại trong bài đọc 2 hôm nay: “Ai đặt niềm tin vào Chúa, sẽ không phải thất vọng” và “Ai kêu cầu danh Chúa, sẽ được cứu thoát”.
TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN BÀNG HÀNH ĐỘNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Sau trình thuật về phép rửa, lúc tiếng nói từ trời tuyên bố: “Con là Con Cha. Hôm nay Cha đã sinh ra Con”, Luca đưa vào bản gia phả của Người, nhắc lại tổ tiên nhân loại của Đức Giêsu cho tới “Adam, con Thiên Chúa”. Cũng trong mối liên lạc chặt chẽ với quang cảnh phép rửa là với bản gia phả mà thánh sử định vị cho giai đoạn cám dỗ: Đức Giêsu “đầy Thánh Thần” rời bỏ “bờ sông, Giođan”; người “được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa” – Đây là nơi mơ hồ, nơi mà theo Kinh Thánh, con người bị thần dữ thử thách hoặc đi vào kết hiệp với Thiên Chúa hằng sống “trong 40 ngày”
Người sẽ bị “ma quỉ thử thách” với tư cách là Con Thiên Chúa. Ma quỉ hỏi với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa hãy truyền cho hòn đá này trở nên bánh. Nếu ông là con Thiên chúa, hãy nhảy xuống đất”.
Cũng như bản văn của Mátthêu – tuy thứ tự có khác – bản văn của Luca kết cấu chung quanh 3 cuộc cám dỗ. Ba cuộc cám dỗ, chính Tin Mừng xác định rõ ràng ở phần kết, đã “múc cạn” mọi hình thức cám dỗ”: những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu sẽ phải đương đầu suốt dọc tác vụ của Người cho đến khi chết, những cơn cám dỗ mà các môn đệ và mọi thành phần trong cộng đoàn của các ngài sẽ gặp. Ba cơn cám dỗ, cũng như ba lời trích dẫn đã ghi chú cặn kẽ, đã được khéo léo lựa chọn từ sách Thứ Luật (trích trong bài đọc 1 và thánh Phaolô trích dẫn trong bài đọc 2), chính là những cơn cám dỗ mà dân Israel đã phải đương đầu, trong suốt 40 năm sa mạc. Có điều họ đã sa ngã. Nay đến phiên Đức Giêsu phải đương đầu với những cơn cám dỗ ấy, suốt 40 ngày trong sa mạc: Ba lần, địch thù thử thách lòng trung tín của người Con đối với Thiên Chúa và với chương trình cứu độ của Người; trong cả 3 lần, Đức Giêsu đã chiến thắng.
Hugues Cousin nhận xét: “Đây là trường hợp độc nhất trong văn chương Tin Mừng. Đức Giêsu chỉ nói những lời tích từ Cựu ước, Con Thiên Chúa phải trải qua 3 cuộc thử thách mà xưa kia dân Israel trong chuyến Xuất Hành đã đương đầu và đã sa ngã đã sa ngã; rút được kinh nghiệm từ những bài học trong sạch thứ Luật, cảnh giác để khỏi tái diễn những lỗi lầm tương tự. Đức Giêsu đã chiến thắng đối thủ” (“Tin Mừng theo thánh Luca”, Centurion, trg 62).
+ Cơn cám dỗ đầu tiên, giống như Mátthêu, là cơn cám dỗ về Sở Hữu, cơn cám dỗ chỉ tìm lợi lộc vật chất, cơn cám dỗ của một chủ nghĩa Mêsia thiển cận: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy biến hòn đá này thành bánh đi”.
Lần đầu tiên trích dẫn sách Thứ Luật 8,3 – đoạn nói về manna – Đức Giêsu trả lời ngay tức khắc: “Người ta sống không nguyên bởi bánh”. Người từ chối làm phép lạ vì lợi lộc riêng tư. Là “Con” thật sự, Người nhận tất cả từ Thiên Chúa, Cha của Người và chỉ từ Chúa Cha mà thôi; nên Người phó thác tất cả cho Thiên Chúa, Cha của Người và chỉ phó thác cho Chúa Cha mà thôi. Roland chú giải: “Con là kẻ nhận được sự hiện hữu, sự sống không từ chính mình, nhưng từ một kẻ khác, từ Cha của mình. Con là kẻ hiểu biết trong niềm vui và niềm biết ơn rằng mình sống nhờ Cha. Người không phải là kẻ ra lệnh để có bánh; chính Chúa, Thiên Chúa của Người sẽ ban lương thực cùng với Lề Luật. Con không ra lệnh, Người khẩn cầu: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” (Tin Mừng theo thánh Luca. Phân tích tu từ”, Cerf, quyển 3, trg 50).
+ Cơn cám dỗ thứ hai, khác với trình thuật của Mátthêu, là cơn cám dỗ về QUYỀN LỰC; cơn cám dỗ về một chủ nghĩa Mêsia theo tham vọng loài người, dù phải trả giá bằng sự thoả hiệp. “Nếu ông thờ lạy tôi, quỉ đoán chắc, ông sẽ có tất cả” (“Mọi quyền lực và vinh quang của các vương quốc ấy”).
Lần thứ hai trích dẫn sách Thứ luật 6, 1 3 – đoạn nói về con bò vàng – Đức Giêsu trả lời ngay: “Đã chép rằng: Người chỉ được thờ lạy Chúa, Thiên Chúa của ngươi mà thôi”. Người từ chối không tôn kính thủ lãnh trần gian để hành xử vương quyền phổ quát. Là Con thật sự, Người sẽ nắm giữ vương quyền từ Thiên Chúa, Cha của Người, và chỉ từ Cha người mà thôi, theo con đường Cha đã chọn: con đường khiêm nhường, nghèo hèn, thánh giá. R. Meynet chú giải: “Đức Giêsu sẽ nhận được các vương quốc trần gian, Người sẽ là Đức Kitô, Vua, vì Người đã từ chối vương quyền xấu xa của ma quỉ, vì Người đã tự nguyện trở nên tôi tớ của Thiên Chúa và của nhân loại” (Sđd).
+ Cơn cám dỗ thứ ba Luca đã cho diễn ra ở Giêrusalem, báo trước thử thách quyết liệt sau này, đó là cơn cám dỗ MA THUẬT, cơn cám dỗ thử thách Thiên Chúa, đi tìm những dấu chỉ kinh thiên động địa của Đấng Mêsia. Ma quỉ dùng Tv 90, cố cám dỗ một lần cuối: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống; Có lời chép rằng: người đã ra lính cho các thiên thần gìn giữ ông”.
Lần cuối cùng trích dẫn sách Thứ Luật 6,16 – đoạn nói về Massa, nơi dân Do Thái đã buộc Chúa phải cho họ nước uống – Đức Giêsu đáp tức khắc: “Đã chép rằng: “Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Người từ chối sử dụng quyền làm Con Thiên Chúa để bảo vệ mình; và mê hoặc người Do Thái bằng những điều kỳ diệu. Người từ chối buộc Thiên Chúa phải can thiệp. Người không đòi phép lạ để cứu mạng sống mình; người chẳng đòi hỏi cả khi Người bị treo trên thánh giá. R. Meynet nói tiếp: “Người tin chắc rằng: Thiên Chúa sẽ cứu Người, Người không có quyền kiểm chứng xem Chúa Cha có trung tín không; Thiên Chúa chẳng cần phải chứng tỏ cho mọi người thấy Thiên Chúa có cứu Người” (sđd).
Nếu, như nói ở trên, Luca hoán đổi vị trí 2 cơn cám dỗ sau, đó là vì muốn thiết lập một thứ tự tiệm tiến cho tới cơn cám dỗ thứ ba: Tại Giêrusalem, nơi có cuộc đụng đầu quyết liệt và nơi hoàn thành quyển sách đầu tiên của ngài. Đây là khúc nhạc mở đầu loan báo cuộc thử thách lớn lao trong khổ nạn.
Hôm nay, đối thủ đành chịu khuất phục, nó rút lui “chờ giờ phút đã định”. Lúc ấy, nó sẽ xuất hiện, ra những đòn cuối cùng tấn công Đấng Chịu Đóng đinh qua miệng các sĩ quan, quân lính và cả người trộm dữ nữa.
“Nếu ông là Đức Kitô, hãy cứu mình và cứu chúng tôi với!, một kẻ cùng chịu đóng đinh với Người lên tiếng, thách thức.
Trong lúc thất bại ê chề trước mặt mọi người, Đức Giêsu: vẫn vững vàng trong thử thách; vẫn gần bó với thánh giá giữa các người bạn cùng đau khổ. Người phó thác trọn vẹn cho Chúa Cha cội nguồn sứ mạng của Người. Và người trộm lành đã sinh ra trong ánh sáng nên đã không nguyền rủa.
Quân lính chế nhạo: “Nếu ông là Vua dân Do Thái, hãy tự cứu mình đi”.
Trong lúc công cuộc của Người tưởng như vĩnh viễn lụi tàn, Đức Giêsu vẫn kiên vững trong thử thách, vẫn lặng lẽ. Đấng Mêsia – Vua chịu đóng đinh và bất lực cầu khẩn một mình với Chúa Cha “Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong tay Cha” (Tv 30.6). Thái độ của Người trước cái chết đã khiến viên sĩ quan Rôma phải thốt lên những lời đầy hứa hẹn: “Quả thật ông này là người công chính”.
Thủ lãnh trong dân châm chọc: “ông ta đã cứu được người khác: hãy tự cứu mình đi, nếu ông ta là Đấng Mêsia của Thiên Chúa, “Đấng được tuyển chọn”.
Trong khi tất cả mọi người quấy rối, Đức Giêsu vẫn kiên vững trong thử thách, tha thứ cho các đao phủ. Và sự đau khổ cũng như cái chết của Người, được đảm nhận trong tình yêu, đã sinh hoa kết quả: Có người đã tách ra khỏi các thành viên của hội đồng, đó là Giuse người Arimathia.
Có người sẽ hỏi, đâu là gốc rễ lịch sử của đoạn văn mà Mátthêu và Luca thuật lại. H. Cousin trả lời: “Bên cạnh một biến cố xác thực, cuộc tĩnh tâm của Đức Giêsu trong hoang địa sau khi chịu phép rửa, ta phải xét đến 2 thực tại: những cơn cám dỗ chắc chắn phải có, đặc biệt là cơn cám dỗ về chủ nghĩa Mêsia trần tục, vì chúng vẫn tồn tại trong suốt sứ vụ của Đức Giêsu; và Người vẫn kiên trì chống trả không bao giờ chịu lùi bước nhượng bộ. Những dấu vết hiển nhiên tồn tại trong suốt Tin Mừng Luca (10, 25; 11, 6 và kế tiếp; 22, 42…) càng cho ta thấy rõ rằng: Đức Giêsu là một Đấng Mêsia nghèo nàn và đau khổ. Các môn đệ làm chứng Người luôn trung tín với Thiên Chúa, với sứ mệnh mà Người đã lãnh nhận. Luca đã làm cho độc giả hiểu ràng Đức Giêsu đã phải chọn lựa một hình thức thi hành sứ mệnh, một cách thế hiện hữu và không phải dễ dàng để đi đến cùng chọn lựa ấy” (Sđd, trg 63-64).
BÀI ĐỌC THÊM
(H. Denis trong “100 từ ngữ diễn tả đức tin”, DDA, trg 111- 112).
Mùa Chay khai mạc – vào Chúa nhật đầu tiên – đưa ta đến trước một cảnh lạ lùng, thậm chí đáng lo ngại: cơn cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa.
Ta muốn nói như Phêrô khi nghe loan báo cuộc khổ nạn: “Không! Thầy không phải chịu như thế. Đôi khi ta cố xoay xở, nhưng đó không phải là linh đạo tối ưu khi giải thích sự vật” như sau: Thực ra, Đức Giêsu không thực sự bị cám dỗ, Người đã chấp nhận bị cám dỗ “vì ta”, để dạy ta biết phải chống lại các cơn cám dỗ như thế nào. Nhưng giá phải trả cho lối giải thích này rất nặng. Làm như Đức Giêsu “giả vờ” không bằng. Rồi sẽ suy ra người giả vở làm người, giả vờ học hành, giả vờ đói giả vờ đau khổ, giả và chết.
Nếu ta muốn chấp nhận Đức Kitô có nhân tính thực sự, ta phải tìm hiểu xem bằng cách nào Đức Giêsu đã thực sự bị cám dỗ ra khỏi con đường thẳng tắp của sứ mệnh của Người, và Người đã chống trả thế nào.
Cơn cám dỗ về bánh để nuôi dân no đủ vốn là cơn cám dỗ của mọi lãnh tụ, có tôn giáo hay không. Đức Giêsu đã chống cự. Nếu có lần Người chấp nhận hoá bánh ra nhiều, đó cũng chỉ nhằm giúp người ta có đủ sức nghe lời phát xuất từ miệng Thiên Chúa và để họ tìm được một thứ lương thực khác: “Này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con”. Cơn cám dỗ về phép lạ, về những điều kỳ diệu cũng đã bị đẩy lui. Phải chăng đó đã là dấu chỉ của một Đức Giêsu chỉ chữa bệnh vì Nước Trời? “Phúc cho ai không thấy mà tin”.
Cơn cám dỗ về quyền lực trên trần gian cũng tinh vi không kém. nhưng Đức Giêsu biết rằng Satan ẩn nấp trong mọi thứ vinh quang không qui về Chúa Cha. Vinh quang của Đức Kitô là vinh quang của sự hiến mình. Điều ấy sẽ được thực hiện trên thánh giá, trong khó nghèo tột độ, khi mọi sự hoàn tất.
(F. Deleclos, trong ‘hãy cầm lấy Lời Chúa mà ăn’ Centurion-Duculot, trg 193-194).
Thật tốt nếu ta vui vẻ để “Chúa Thánh Thần dẫn vào hoang địa”. Đó là cơ hội sống động cho ta khám phá hoặc tái khám phá ra những cạm bẫy thường xuyên giăng dưới bước chân người Do Thái, những cạm bẫy mà Đức Kitô đã gặp, cũng là những cạm bẫy trải dài suốt hành trình và suốt lịch sử đời ta. Ta hãy học cách vạch trần những cơn cám dỗ để khỏi bị lệch hướng xa đường giao ước, xa đường sứ mạng của ta.
Những cạm bẫy của Thần Dữ toả ra hào quang duyên dáng và lôi cuốn, mời mọc tinh vi và đáng sợ, cộng với trí thông minh và sự kiên nhẫn của “Địch thủ của triều đại Thiên Chúa”.
Đó là cơn cám dỗ dùng Lời Chúa phục vụ mọi ham thích của ta về sở hữu, về hiểu biết, về quyền lực, là những nguồn không bao giờ cạn “của mọi loài hình cám dỗ” luôn quấy phá các tín hữu và các Giáo Hội.
Đó là những ham hố quá đáng đi tìm điều lạ lùng, săn đuổi các cuộc hiện ra, các phép lạ, làm lệch hướng những đòi hỏi khẩn cấp của Tin Mừng.
Đó là cầu nguyện sốt sắng bên ngoài để phiền nhiễu Thiên Chúa, mong rút tỉa được đặc ân tránh khỏi thử thách, khổ đau.
Cạm bẫy còn là những an thân giả tạo, những bảo đảm hão huyền mà ta mải mê tìm kiếm trong một mớ chồng chất những lễ nghi trống rỗng vô nghĩa vô hồn.
Cơn cám dỗ tinh vi cuốn ta vào đủ mọi thứ hy sinh đến từ tinh thần thống trị, lòng ham thích sức mạnh và say mê quyền lực Thiên đường các ngẫu tượng.
Làm cách nào trả lời 3 cuộc cám dỗ tiêu biểu nếu không phải là 3 câu trả lời bằng ăn chay, cầu nguyện và chia sẻ. Gặp gỡ Chúa để Lời chân lý và sự sống đổ đầy vào trái tim ta và vọt ra từ môi miệng ta. Khước từ những phồn vinh muốn chôn vùi ta và khám phá thấy trong sự tiết độ những giá trị vững bền. Tình liên đới làm phát sinh và nuôi dưỡng lòng quảng đại huynh đệ đối với biết bao kẻ đói khát sự công chính và bình an, những người bị loại trừ khỏi tình yêu và lòng kính trọng, những người bị áp bức ở mọi nơi, đám đông mênh mông những người bị đóng đinh nơi đó Đấng giải phóng, Đấng Phục sinh hằng sống đang náu ẩn trong vô danh.
CÁM DỖ TRONG SA MẠC
Lc không nói như Mc và Mt là Chúa Giêsu được Thánh Thần dẫn “vào sa mạc”: Chúa Giêsu băng qua sa mạc dưới sự thúc đẩy mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần là Đấng hình như không cho phép Ngài dừng bước. Lời xác định “trong suốt 40 ngày” ăn khớp với động từ êgeto (được dẫn đưa): dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu đã đi suốt 40 ngày trong sa mạc. Người ta có thể thấy ở đây ảnh hưởng của câu Đệ Nhị Luật 8,2 mà Lc đã theo sát trong bản dịch 70 (câu này nằm ngay trước Đnl 8,3 mà Chúa Giêsu mượn làm câu trả lời đầu tiên): “Hãy nhớ con đường mà Thiên Chúa ngươi đã dẫn ngươi đi (êgagen se)(bản Talmud: suốt 40 năm) trong sa mạc để hạ ngươi xuống và để thử thách ngươi khi đọc Mt, người ta có cảm tưởng cơn cám dỗ xảy đến cho Chúa Giêsu sau 40 ngày, còn Lc lại theo Mc, trình bày cơn cám dỗ kéo dài suốt cả thời gian trong sa mạc. Ba chước cám dỗ do ma quỉ do Lc kể lại hình như chỉ là những hình thức tiêu biểu nhất, đặc biệt nhất của các chước cám dỗ đủ loại Chúa Giêsu phải chịu đựng suốt 40 ngày: chúng đánh dấu cao điểm tấn công của ma quỉ.
Sau lời đề nghị “hãy truyền cho những hòn đá này biến thành bánh có thể dễ dàng xác định thêm “để ông có thể ăn”. Một xác tín kiểu đó, nếu lôi kéo chú ý đến sự thoả mãn riêng tư của Chúa Giêsu, thì cũng để cho người ta liên tưởng tới cám dỗ Evà (St 3,6) và tới những cám dỗ Kitô hữu năng gặp. Nhung Lc, mặc dầu vừa nhắc đến Adam vài câu trước đó (3,38) và là người thường ưa quảng diễn dài dòng, đã không muốn gợi những liên tưởng đó. Vì thật ra, việc thoả mãn cơn đói chỉ là chuyện thứ yếu; điều tác giả muốn nhắm ở đây là chính quyền lực lạ lùng của Đấng vừa mới được tuyên bố là Con Thiên Chúa khi Ngài chịu phép rửa. Chính trong ý nghĩa này mà ta phải hiểu lời ngoắt ngoéo thâm hiểm của ma quỉ: “Nếu ông là Con Thiên Chúa”. Cũng như trong trình thuật Mt, ở đây chắc chắn ma quỉ không chút nghi ngờ gì. Sau khi đã chứng kiến tất cả những dấu chỉ lạ lùng xung quanh ngày Giáng sinh và ngày thơ ấu của Chúa Giêsu, sau khi đã thấy rõ Ngài không thể phạm tội cho đến lúc bấy giờ, và có lẽ cũng đã thấy được biến cố thần hiện ở sông Giodan (nếu biến cố này được biểu lộ ra bên ngoài) thì chắc chắn ma quỉ phải biết rõ ràng con người đang đứng trước mặt nó là Đấng Thiên sai của Israel, là Con Thiên Chúa. Vì thế chữ “nếu” của câu “nếu ông là Con Thiên Chúa” không phải là một từ ngữ nói đến điều kiện (như trong câu: “Nếu ngày mai trời tốt, tôi sẽ đi chơi) nhung là chữ “nếu” diễn tả lý do. Lời cám dỗ của ma quỉ có thể viết ra như thế này: vì ông là Đấng Thiên sai, hãy dùng quyền lực Thiên sai của ông để làm những điều lạ lùng có lợi cho ông.
Thứ tự các cám dỗ thứ hai và thứ ba nơi Mt bị Lc đảo ngược. Để biết thứ tự nguyên thuỷ, phải nghiên cứu các câu trả lời của Chúa Giêsu. những câu trả lời ấy được rút ra từ sách Đệ Nhị luật, nhưng Mt đã đảo ngược thứ tự trình bày, nghĩa là Đnl 8,3 rồi đến 6,16; 6,13. Song cũng chính Đnl đã đảo lộn thứ tự lịch sử của các biến cố thời Xuất hành: Đnl 8,3 lấy lại Xac 16 (phép lạ Manna); Đnl 6,16 thì nhắc lại Xac 17,1-7 (phép lạ nước uống); cuối cùng Đnl 6,13 tương ứng với Xac 23,32-34 (nhất là giai thoại con bò vàng). Khi đảo lộn thứ tự của Đnl, Mt lập lại thứ tự lịch sử những cám dỗ của Israel thời Xuất hành. Sự song đối giữa những cám dỗ của Chúa Giêsu và của Israel thời xuất hành. Sự song đối giữa những cám dỗ của Chúa Giêsu và của Israel phải được coi là hình thức nguyên thuỷ của trình thuật. Vậy là Lc đã thay đổi cách phối trí, lý do trước hết là để trình thuật được kết thúc ở Girusalem, như tất cả phúc âm của ông.
Điểm thêm vào quan trọng nhất phải kể là nơi lời giải thích của câu 6. Nơi Mt, đó chỉ là một vấn đề sở hữu: “Hết mọi cái đó, tôi hiến cho ông” (Mt 4,9). Còn Lc trước tiên chú ý đến quyền lực, quyền bính, esousia (là ý tưởng ông quen dùng: 12,11; 20,20; 22,53; 23,7; Cv 20,18): ma quỉ hứa ban một quyền lực chính trị trên mọi dân nước. Do thái giáo thời gần đó (Is 24,21-23; 27,1) và nhất là trong văn chương khải huyền (Đnl 7,2) đã xác tín rằng các quyền lực ma quỉ, thù nghịch với Thiên Chúa, đang điều khiển các vương quốc trần gian, để ngược đãi dân Tc chọn. Các vương quốc này thờ ngẫu tượng và áp bức Israel, vì dân tin Tc thật. Người ta thấy ma quỉ ẩn núp dưới các bụt thần. Các nước thế gian bày tỏ lòng trung thành với ma quỉ qua việc thờ ngẫu tượng. Tư tưởng này cũng được các tác giả Thiên Chúa chia sẻ (Kh 13,2). Thánh Gioan gọi ma quỉ bằng một tên đầy ý nghĩa: “Đầu mục thế gian” (Ga 12, 31; 14,30; 16,11). Phaolô còn gán cho nó tước hiệu lạ lùng: “thần đời này” (2Co 4,4). Cũng như Lc và Ga, Phaolô nhìn thấy trong hành động của những người đóng đinh Chúa Giêsu (1Co 2,8) sự xúi giục của “đầu mục của đời tạm này”.
Thế gian, nghĩa là thời đại này, âiôn houtos, là lãnh địa của ma quỉ, nên dĩ nhiên quyền lực thế gian tuỳ thuộc nó. Nhưng phải nhận rằng quyền ấy “đã được trao cho” nó: thể thụ động diễn tả hành động hay sự cho phép của Thiên Chúa, chủ thể tối cao (so sánh Ga 19,10); đến thời sau hết, Ngài sẽ tiêu diệt các quyền lực, dân nước đã nổi lên chống lại ngài. Tạm thời, ma quỉ sử dụng quyền lực chính trị đó, và cám dỗ nói ở đây là một cám dỗ về quyền lực, dân nước đã nổi lên chống lại Ngài. Tạm thời, ma quỉ sử dụng quyền lực chính trị đó, và cám dỗ nói ở đây là một cám dỗ về quyền lực chính trị. Nhưng khác với Mt 4,9, lời hứa của câu 7 không nhằm sự chiếm hữu các vương quốc, nhưng là sự thừa hưởng một uy quyền (exousia) tuyệt đối trên tất cả các vương quốc ấy.
Phần đầu của câu kết luận (“sau khi dùng hết mọi hình thức cám dỗ”) nói đến cám dỗ, peirasmos (ở số ít). Trong Lc, peirasmos luôn ám chỉ cám dỗ theo nghĩa luân lý: 8,13; 11,4; 22,40; 22,46. Cũng tiếng ấy ở số nhiều, peirasmoi lại ám chỉ những thử thách với nghĩa tổng quát hơn nghĩa thuần luân lý: 22,28; Cv 20,19. Lc sẽ còn nói đến những “thử thách” (peirasmoi nơi 22,28) của Chúa Giêsu, nhưng không nhắc đến chữ “cám dỗ” (peirasmos) khi bàn về các môn đệ nữa; đặc biệt ông không ghi lại sự can thiệp bậy bạ của Phêrô tại Késaree của Philip (Mc 8,32-33; Mt 16,22-23) nơi Pharô bị gọi là quỉ cám dỗ Chúa Giêsu. Vậy dưới cái nhìn của Lc, việc Chúa Giêsu chiến thắng ma quỉ trong sa mạc có tính cách quyết định. Thực sự ma quỉ đã “dùng hết mọi phương chước cám dỗ”, và khi nó tái xuất giang hồ, thì không còn là để “cám dỗ” Chúa Giêsu nữa, song là tìm cách giết Ngài. Những nhận xét này cho thấy ý nghĩa của câu 13; trong tư tưởng của Lc, các chước cám dỗ Chúa Giêsu chịu thực sự đã xong rồi, sẽ không còn cám dỗ nào khác. Những thử thách Ngài gặp sau đó không còn đặt lại vấn đề lòng trung tín của Ngài đối với Thiên Chúa và với sứ mạng Ngài đã được Chúa Cha trao phó.
Phần thứ hai của câu kết luận xác quyết cách giải thích này. Lc đã viết: “Ma quỉ bỏ Ngài một thời gian” (Achri cairou) (Bj: au temps marqué, Nguyễn thế Thuấn: đợi dịp). Thành ngữ này chỉ gặp lại một lần trong nơi khác của Tân Ước, Cv 13,11: Elymas, vì muốn gây trở ngại cho Phaolô, đã bị mù không thấy ánh sáng mặt trời “một thời gian”. Như thế, khi loan báo ngày trở lại bất ngờ của ma quỉ, Lc đã minh nhiên trình bày nó như một vai trong cuộc khổ nạn. Thật thế, câu chuyện khổ nạn bắt đầu bằng sự phản bội của Giuda, nhưng ngay từ đầu đoạn văn này, ở 22,3, Lc ghi chú một câu đầy ý nghĩa: “Satan đã nhập vào Giuda”. Đó là việc tái xuất hiện của tên cám dỗ, mở màn cho một thử thách cam go nhất. Và ta cũng thấy, khi đứng trước những địch thủ tới bắt mình, Chúa Giêsu đã nói: “Này là giờ các ông, là thời của quyền lực (exousia) tối tăm (22,53).
Câu trả lời thứ nhất hệ tại chỗ nhấn mạnh sự quan tâm về địa lý của Lc. Lc muốn kết thúc trình thuật những cám dỗ tại Giêrusalem, vì trước tiên đối với ông, Giêrusalem là một địa điểm có tính cách thần học (Conzelmann). Lời giải thích này đúng nhưng chưa đủ.
Đối với Lc, Giêrusalem tự bản chất là nơi mà các lời loan báo về cuộc khổ nạn và vinh quang của Đấng Cứu thế phải được hoàn tất. Thực vậy sau cuộc cám dỗ, đoạn văn đầu tiên nói đến Giêrusalem trong tương quan với Chúa Giêsu nằm trong giai thoại biến hình; suốt cuộc biến hình này Môisen và Elia đã đàm đạo với Chúa Giêsu về việc “ra đi (oxodos) Ngài sắp hoàn tất tại Giêrusalem” (9,31). “Việc ra đi” đó ám chỉ toàn thể mầu nhiệm vượt qua: tử nạn và phục sinh. Từ giai thoại biến hình này trở đi, Lc tăng thêm những lần nhắc đến Giêrusalem như là nơi mà Chúa Giêsu sẽ lên, nơi mà Ngài sắp hoàn thành sứ mệnh. Người ta thấy cũng một ý tưởng ấy trong hai giai thoại của Phúc âm thời thơ ấu Chúa Giêsu: giai thoại “dâng con trẻ trong đền thờ” với lời tiên tri đầu tiên của Simeon loan báo cuộc tử nạn (2,34-35) và giai thoại “lạc mất, tìm lại con trẻ sau ba ngày” với một lời nói bí nhiệm chỉ hiểu được về sau (2, 41-50); đây là giai thoại tiên trưng cuộc vượt qua cuối cùng của Chúa Giêsu khi Ngài “trở về nhà Cha” và chỉ được các tông đồ tìm gặp lại sau ba ngày.
Văn mạch này cho phép ta phỏng đoán lý do tại sao Lc đã muốn trình thuật các cám dỗ đạt tới cao điểm ở Giêrusalem. Thưa vì không có gì thích hợp cho bằng việc chọn thành ấy làm nơi chấm dứt cám dỗ, nơi ma quỉ từ biệt Chúa Giêsu, nơi y sẽ tái xuất không phải để “cám dỗ” Ngài nữa mà là để gây ra cuộc thử thách cuối cùng. Đó cũng là điều giải thích tại sao Lc đã lưu tâm đến ma quỉ trong tất cả trình thuật này: ông lợi dụng trình thuật để trình bày tên đối thủ, đã một lần thất trận trong sa mạc, tưởng mình sẽ chiến thắng tại Giêrusalem trong ngày thứ sáu tuần thánh.
KẾT LUẬN
Trong trình thuật những cám dỗ, Lc nhấn mạnh đến hai điểm: khuôn mặt của ma quỉ và tương quan của biến cố này với biến cố tử nạn. Trong lúc các câu trả lời của Chúa Giêsu ngắn hơn hoặc ít quan trọng hơn so với nơi Mt, thì ở Lc, những lời cám dỗ của tên ma quỉ có vẻ thực hơn (cám dỗ 1) dài dòng hơn (cám dỗ 2) và ăn khớp với lời trích dẫn Thánh kinh hơn (cám dỗ 3). Cuối cùng đoạn kết luận của trình thuật còn nói đến ma quỉ chứ không phải Chúa Giêsu (khác với Mt). Lc nối kết các cám dỗ với cuộc khổ nạn và với Giêrusalem, nơi hoàn thành những lời tiên tri loan báo về đau khổ và vinh quang của Đấng Cứu thế. Cuộc khổ nạn và thành Giêrusalem đã được nhắc đến trong Tin mừng thời thơ ấu (2,34-35. 41-45). Rồi tiếp đến, phần đặc biệt nhất của phúc âm thứ ba lại trình bày việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem (9,51-18,9). Khi lặp đi lặp lại Chúa Giêsu lên Gierusalem (9,51; 9,53; 13,22-33; 17,11; 18,31; 19,11-28), Lc nhấn mạnh Giêrusalem sẽ là nơi xảy ra “cuộc ra đi” ()9,31 và cuộc “siêu thăng” của Ngài (9,51). Vì vậy người ta có thể nói rằng: trong lúc các trình thuật của Mt chỉ nhìn về quá khứ của dân Israel để minh chứng sự thể hiện chương trình của Thiên Chúa, thì các trình thuật của Lc hình như lại qui hướng hơn về những biến cố chính yếu làm thành nền tảng thực sự của nhiệm cục mới: tử nạn, phục sinh, hiện xuống.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn